Bài 6: Nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
86 TXNHQT05_Bai6_v1.001510505
BÀI 6
NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ NƯỚC NGOÀI
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. Giáo trình Tài chính quốc tế (2011),
2. Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở (2005). Tác giả: GS.TS. Nguyễn
Văn Tiến.
Sinh viên làm việc theo nhóm trao đổi với giảng viên trực tiếp ti lp hc hoc
qua email.
Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.
Nội dung
Bài 6 trong học phần Tài chính quốc tế nghiên cứu những vấn đề:
Đặc trưng của các nước kém phát triển.
Các hình thức thu hút vốn nước ngoài.
Nợ nước ngoài.
Khủng hoảng nợ nước ngoài.
Nợ nước ngoài của Việt Nam.
Mục tiêu
Trang bị cho sinh viên những kiến thức sau đây:
Phân biệt nợ nước ngoài với nợ công.
Chỉ tiêu đo mức độ nợ nước ngoài.
Hiểu rõ nguồn gốc của khủng hoảng nợ nước ngoài.
Bài học rút ra từ khủng hoảng nợ.
Tìm hiểu thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam.
Bài 6: Nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
TXNHQT05_Bai6_v1.0015105205 87
Tình huống dẫn nhập
Ngày 12/8/1982, chính phủ Mexico tuyên bố quốc gia mất khả năng trả khoản nợ $80 tỷ cho các
ngân hàng quốc tế. Đây được coi là mở đầu cho một cuộc khủng hoảng nợ quốc tế. Ngay sau khi
Chính phủ Mexico tuyên bố vỡ nợ, một số nước kém phát triển (Less Developed Countries
LDCs) cũng tuyên bố họ đang gặp phải những khó khăn rất lớn trong việc hoàn trả nợ vay nước
ngoài. Thập kỷ 80 và 90 được gọi là thời kỳ mà khủng hoảng nợ đã trở thành vấn đề chính trị
bản trên trường quốc tế.
Khủng hoảng nợ quy rộng khắp, từ những nước đang phát triển thu nhập thấp tới những
nước có thu nhập trung bình. Đối tượng nghiên cứu của bài là những quốc gia được World Bank
xếp vào Danh sách nợ thế giới, được gọi là quốc gia có thu nhập trung bình mắc nợ nghiêm trọng
(Severely Indebted Middle Income Countries – SIMICs). Các tiêu chí xếp loại vào nhóm này bao
gồm: (i) thu nhập bình quân đầu người t$750 đến $8.955/năm, (ii) giá trị hiện tại của tổng nợ
nước ngoài so với GDP tối thiểu là 89%, và (iii) giá trị hiện tại của tổng nợ nước ngoài so với giá
trị xuất khẩu hàng hóa dịch vụ tối thiểu 220%. Những quốc gia không thuộc nhóm SIMICs
bao gồm: (i) quốc gia thu nhập trung bình mắc nợ vừa phải (Moderately Indebted Middle
Income Countries MIMICs), (ii) quốc gia thu nhập thấp mắc nợ nghiêm trọng (Severely
Indebted Low Income Countries SILICs), (iii) quốc gia thu nhập thấp mắc nợ vừa phải
(Moderately Indebted Low Income Countries – MILICs).
Mặc dù được xếp vào nhóm mắc nợ nghiêm trọng, sự khác biệt giữa nhóm SIMICs và SILICs
khá lớn. Những quốc gia thuộc nhóm SIMICs chủ yếu nằm khu vực Châu Mỹ Latinh. Năm
1994, nợ nước ngoài của nhóm SIMICs lên tới $587,4 tỷ, chủ yếu nợ nhân vay các Ngân
hàng phát triển. Ngược lại, những nước thuộc nhóm SILICs chủ yếu nằm khu vực cận sa mạc
Sahara Châu Phi. Năm 1994, nợ nước ngoài của nhóm SILICs vào khoảng $223,6 tỷ, chủ yếu
nợ của Chính phủ và các tổ chức chính quyền, phần nhỏ còn lại mới là của tư nhân.
Khủng hoảng nợ nước ngoài đã đặt ra những vấn đề:
Diễn biến khủng hoảng nợ như thế nào?
Vì sao các Ngân hàng thương mại sẵn sàng cho các nước vay nhiều đến vậy?
Vì sao các nước mắc nợ không tuyên bố vỡ nợ hoàn toàn?
Xử lý khủng hoảng nợ như thế nào?
Bài học rút ra từ khủng hoảng nợ đối với Việt Nam?
Trong bài này, những câu hỏi trên sẽ được tập trung trả lời, xoay quanh 4 quốc gia con nợ lớn
nhất Châu Mỹ Latinh: Mexico, Argentina, Brazil, Venezuela. Năm 1996, Mexico,
Argentina và Brazil được xếp vào nhóm SIMICs, riêng Venezuela được chuyển từ nhóm SIMICs
sang nhóm MIMICs. Việc các Ngân hàng thương mại tập trung cho vay 4 quốc gia này quá
nhiều đã gây nên mối lo ngại: nếu 1 trong số 4 nước rơi vào tình trạng vỡ nợ, các Ngân hàng
thương mại sẽ suy yếu thể phá sản, đặc biệt các Ngân hàng thương mại của Mỹ vốn
đang ẩn chứa nhiều rủi ro, châm ngòi cho khủng hoảng tài chính quốc tế. Khủng hoảng tài chính
có thể là sự khởi đầu cho một cuộc suy thoái kinh tế quy mô toàn cầu.
1. Tại sao Mexico phải vay nợ nước ngoài?
2. Khủng hoảng nợ ở Mexico có giống khủng hoảng nợ ở Brazil không?
Bài 6: Nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
88 TXNHQT05_Bai6_v1.001510505
6.1. Đặc trưng của các nước kém phát triển
Đặc trưng của các nước kém phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp hơn các
quốc gia phát triển. Tuy nhiên, ngoài mức thu nhập, sự khác biệt giữa nước phát triển
nước kém phát triển còn thể hiện những mặt khác. Các quốc gia kém phát triển
được chia thành hai nhóm:
Những nước kém phát triển thu nhập nhấp:
Thu nhập bình quân đầu người thấp hơn $750
(theo mức giá năm 1994), chủ yếu những
nước ở khu vực Châu Phi vùng sa mạc Sahara.
Nước kém phát triển thu nhập trung bình:
Thu nhập bình quân đầu người từ $750 đến
$8.955 (theo mức giá 1994). Một số nước thuộc
nhóm này được xếp vào những nước thu nhập
trung nh kém, chủ yếu các nước Châu Mỹ Latinh như Argentina ($8.065),
Brazil ($3.370), Mexico ($4.014), và Venezuela ($2.761).
Dưới đây những nét khác biệt giữa các quốc gia kém phát triển so vi các nưc
phát triển.
6.1.1. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính của các nước kém phát triển (LDCs) thường chật hẹp, không tạo
đủ hội đầu cho người tiết kiệm, đối tượng điều chỉnh và kiểm soát chặt chẽ
của Chính phủ. các nước phát triển, thị trường chứng khoán đều phát triển trình
độ cao. Trong khi đó, thị trường chứng khoán của các nước LDCs đang ở giai đoạn sơ
khai, vậy các doanh nghiệp phải dựa vào hệ thống ngân hàng đvay vốn. Ngân
hàng phát triển các nước LDCs đa số thuộc sở hữu nhà nước hoặc đối tượng chịu
sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ, với mục đích duy trì mức lãi suất thực thấp nhằm
khuyến khích đầu tư.
Chính sách lãi suất thực thấp làm phát sinh vấn đề tiêu cực không khuyến khích tiết
kiệm. Tiết kiệm thấp cộng với lãi suất thực thấp khiến cho cung về vốn không đáp ứng
được cầu về vốn, dẫn đến tình trạng khan hiếm tín dụng, buộc Chính phủ phải can
thiệp để phân phối tín dụng cho một số ngành nghề quan trọng. Chính sách lãi sut
thấp cũng đã khiến nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu tăng, tác động tiêu cực tới cán
cân thanh toán.
6.1.2. Chế độ tỷ giá và kiểm soát ngoại hối
Đồng tiền của nước kém phát triển được gắn cố định với USD, FRF, SDR được
điều chỉnh theo chế “bò trườn” Crawling Peg. Tại các nước kém phát triển luôn
tồn tại tình trạng lạm phát cao, vậy việc gắn đồng tiền của các nước này với đồng
tiền của các nước mức lạm phát thấp bất hợp do làm xói mòn khả năng cạnh
tranh thương mại quốc tế của LDCs. Chính do này, các nước kém phát triển
thường xuyên phá giá nội tệ để tăng sức cạnh tranh. Một vấn đề bất lợi đối với chế độ
tỷ giá cố định trườn nếu đồng tiền nước ngoài được chọn đneo tỷ giá lên giá
(USD lên giá trong suốt thập kỷ 1980 1990), xuất khẩu của c nước LDCs bị cản trở.
Bài 6: Nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
TXNHQT05_Bai6_v1.0015105205 89
Do đó, một số nước LDCs ưu tiên gắn đồng nội tệ với một rổ tiền tệ, nhằm làm dịu đi
áp lực lên giá của nội tệ.
Ngoài ra, để duy trì chế độ tỷ giá cố định, các nước
kém phát triển đã tăng cường áp dụng biện pháp
kiểm soát ngoại hối chặt chẽ. Ví dụ, hạn chế chuyển
đổi nội tệ sang ngoại tệ nhằm hạn chế người dân
đầu ra nước ngoài, trên sở đó Chính phủ
thể vay vốn với lãi suất thấp hơn so với trường hợp
cho phép tự do mua bán ngoại tệ.
Kiểm soát tỷ giá được diễn ra dưới hình thức người
dân muốn mua ngoại tệ phải giấy phép của chính phủ, phải bán nguồn thu ngoại tệ
từ xuất khẩu cho chính phủ. Bên cạnh các biện pháp kiểm soát ngoại hối, chính phủ
còn áp dụng chế độ đa tỷ giá: những giao dịch khác nhau được áp mức tỷ giá khác
nhau. Ví dụ: nếu mua ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu máy móc thiết bị hay hàng hóa
thiết yếu thì được áp dụng mức tỷ giá ưu đãi (tỷ giá mềm); ngược lại, nếu nhu cầu
nhập khẩu những hàng hóa tiêu dùng, xa xỉ, hàng trong nước sản xuất được thì tỷ giá
sẽ bất lợi hơn (tỷ giá cứng).
6.1.3. Mức độ đa dạng hóa thấp
Sản phẩm do các nước LDCs sản xuất thường mức độ đa dạng hóa thấp hơn nhiều
so với các nước phát triển. Nước LDCs tỷ trọng hàng nông sản trong GDP cao,
cấu mặt hàng xuất khẩu nghèo nàn (chỉ khoáng sản nông sản). Điều này
nghĩa hoạt động sản xuất kinh doanh của các nước này sẽ dễ biến động bất lợi nếu
mùa màng thất bát hay khi giá hàng hóa xuất khẩu chủ lực biến động giảm. Giá cả
hàng hóa chủ lực được sản xuất xuất khẩu bởi các nước LDCs thường biến động
mạnh hơn nhiều so với giá cả hàng hóa được sản xuất ở các nước phát triển, dẫn tới sự
biến động của thu nhập quốc dân hoạt động thương mại nội địa quốc tế. Khi
kinh tế của các nước công nghiệp rơi vào tình trạng đình đốn, các nước LDCs chịu
ảnh hưởng nặng nề do giá hàng xuất khẩu và quy mô xuất khẩu giảm.
6.1.4. Mức độ lạm phát cao
Các nước LDCs thường phải đối mặt với thách thức phải kiểm soát lm phát. Thâm
hụt ngân sách thường được các chính phủ tài trợ bằng cách phát hành tiền, do thị
trường tài chính ở các nước này chưa phát triển, huy động vốn trên thị trường tài chính
khó khăn, do chính phủ nhận thấy rằng biện pháp tăng thuế skhông nhận được
sự ủng hộ của dân chúng. Hậu quả của lạm phát là làm giảm giá trị thực của đồng tiền
người dân đang nắm giữ, nghĩa tạo ra một khoản thuế lạm phát, làm giảm giá trị
thực nợ của chính phủ.
Để bảo vệ tiền lương cho người lao động trong một môi trường đầy áp lực lạm phát,
chính phủ áp dụng giải pháp giá vào lương, nghĩa tăng lương theo tốc độ lạm
phát. Trên thực tế, chế giá vào lương này đã gây những khó khăn đáng kể cho
chính phủ trong việc kiểm soát lạm phát, do tại thời điểm các biện pháp kiềm chế lạm
phát đang được áp dụng thì thu nhập của người lao động lại được điều chỉnh tăng theo
chỉ số lạm phát của kỳ trước. Kết quả là, lạm phát cộng với chế giá vào lương
Bài 6: Nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
90 TXNHQT05_Bai6_v1.001510505
đã ảnh hưởng tiêu cực tới điều kiện thương mại của quốc gia, kích thích nhập khẩu
hạn chế xuất khẩu, dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng. Để giải quyết tình trạng
thất nghiệp, chính phủ các nước buộc phải tăng chi tiêu để mở rộng sản xuất trong khu
vực kinh tế quốc doanh.
Đồ thị trên phản ánh tốc độ tăng trưởng GDP thực tế và tỷ lệ lạm phát của Mexico giai
đoạn khủng hoảng nợ 1982 – 1988. Trong giai đoạn khủng hoảng suốt thập kỷ 80, lạm
phát của quốc gia này cao kỷ lục (trung bình khoảng 70%), gấp hơn 3 ln so vi thp
kỷ trước đó, trong khi tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm 7 lần.
6.2. Các hình thức thu hút vốn nước ngoài
6.2.1. Phát hành trái phiếu
Chính phủ các nước LDCs thể phát hành trái phiếu cho nhà đầu nước ngoài với
mức lãi suất thay đổi theo kỳ hạn, theo mệnh giá đồng tiền phát hành bằng nội tệ hay
ngoại tệ. Trái phiếu mệnh giá nội tệ chịu rủi ro lạm phát, do khả năng xảy ra lạm
phát cao hơn mức dự kiến rất lớn đối với các quốc gia LDCs, điu này khiến g tr
thực tế của trái phiếu giảm. Nếu trái phiếu được phát hành có mệnh giá ngoại tệ, rủi ro
vỡ nợ rất cao, đồng nghĩa với nguy các nước LDCs không khả năng mua lại
trái phiếu khi đến hạn (không có đủ ngoại tệ thanh toán cho người nắm giữ trái phiếu).
6.2.2. Tín dụng ngân hàng
Các nước kém phát triển thể vay vốn từ Ngân hàng phát triển của các nước phát
triển. Các khoản tín dụng ngân hàng mức lãi suất cố định hoặc thả nổi, với kỳ hạn
ngắn, trung hay dài. Trong những năm của thập kỷ 70 80, tín dụng ngân hàng
nguồn vốn tài trợ chủ yếu của các nước Châu Mỹ Latinh. Các khoản tín dụng được
các ngân hàng quốc tế cấp thường dưới hình thức đồng tài trợ (cho vay hợp vốn),
bằng đồng USD với lãi suất thả nổi được điều chỉnh định kỳ 3 hay 6 tháng một lần