intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Triết học nâng cao

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:72

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Triết học nâng cao được biên soạn gồm các nội dung chính sau: khái luận chung về lịch sử triết học; một số cuộc đấu tranh tiêu biểu của triết học trong lịch sử; Khái lược lịch sử triết học Mác Lênin;...Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Triết học nâng cao

  1. BÀI GIẢNG TRIẾT HỌC NÂNG CAO
  2. Bài 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC 1. Khái niệm triết học - Từ thế kỷ VI tcn cho đến thế kỷ XVIII loài người đã quan niệm triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học đứng trên mọi khoa học. - Thế kỷ XIX, người đầu tiên tách triết học ra khỏi các khoa học cụ thể khá thành công nhưng trên lập trường duy tâm khách quan là G.V.F.Heghen. Người hoàn thành sự nghiệp đó là C.Mác và Ph.Ăngghen. - Theo quan điểm mác-xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những biện pháp chung nhất, những nguyên tắc chung nhất, những con đường chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Khái niệm triết học dù ở phương Đông hay phương Tây, dù có biến đổi theo lịch sử nhưng bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố: Một là yếu tố nhận thức, tức sự hiểu biết của con người về thế giới, sự giải thích thế giới hiện thực bằng hệ thống tư duy. Hai là yếu tố nhận định, tức sự đánh giá, nhận xét về mặt đạo lý và thái độ hành động đối xử của con người đối với thế giới. - Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có những đặc điểm riêng
  3. 2. Vấn đề cơ bản của triết học Triết học nghiên cứu hàng loạt các vấn đề chung của thế giới, nhưng vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (giữa tồn tại và tư duy, hay giữa tự nhiên và tinh thần). Nó là vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ, trong thế giới có vô vàn sự vật, hiện tượng, nhưng chung quy lại chúng chỉ phân thành hai loại: hiện tượng vật chất và hiện tượng ý thức. Mặt khác, từ phương Đông sang phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại tất cả các trường phái triết học trước khi nghiên cứu các vấn đề chung khác, bao giờ cũng nghiên cứu và giải quyết vấn đề mối liên hệ giữa vật chất và ý thức trước tiên. Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở nền tảng cho việc giải quyết những vấn đề khác của triết học. Nói cách khác việc giải quyết nó là giải quyết về thế giới quan và phương pháp luận của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất giải quyết về thế giới quan. Tất cả các nhà triết học đều phải trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học, mà các học thuyết triết học đã chia thành hai trào lưu chính Duy vật và Duy tâm. Các nhà triết học Duy vật khẳng định vật chất có trước và quyết định đối với ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Chủ nghĩa duy vật trong tiến trình phát triển từ cổ đại đến hiện đại đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: cổ đại, tầm thường, cơ học, máy móc... nói chung là duy vật siêu hình, và duy vật biện chứng.
  4. Ngược lại, các nhà triết học Duy tâm lại khẳng định ý thức có trước và quyết định đối với vật chất. Trong tiến trình phát triển của mình, chủ nghĩa duy tâm cũng đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: duy cảm chủ quan, duy lý, nhị nguyên, duy thức, duy ngã... nói chung là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan. Mặt thứ hai giải quyết về vấn đề nhận thức luận: tất cả các nhà triết học đều phải trả lời câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không? Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học mà các triết thuyết đã chia thành hai phái: Khả tri (luận) gồm các nhà triết học trả lời con người có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy tâm chủ quan. Bất khả tri (luận) gồm các nhà triết học trả lời con người không có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy tâm khách quan. Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, lịch sử triết học chỉ ra Triết học có hai nguồn gốc: Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy vật là mối liên hệ của nó với các thành tựu của các khoa học cụ thể. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các đấng siêu nhiên, hoặc tuyệt đối hóa một hay một số yếu tố nào đó của ý thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm thông thường là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, giai cấp thống trị đang trên đà tan rã trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử.
  5. Bài 2: MỘT SỐ CUỘC ĐẤU TRANH TIÊU BIỂU CỦA TRIẾT HỌC TRONG LỊCH SỬ I/ Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xung quanh vấn đề cơ bản của triết học trong xã hội Hy-La cổ đại Nội dung cơ bản của sự phát triển triết học ở Hy-La cổ đại là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phản ánh cuộc đấu tranh giữa tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ trong những điều kiện lịch sử đó và tầng lớp chủ nô quý tộc. Những nhà triết học duy vật tiêu biểu ở thời này là Anaxago, Ampêđôcơlơ, Đêmôcrit, Êpiquya... quan điểm triết học và tư tưởng chính trị của họ là cơ sở lý luận cho sự hoạt động tiến bộ của tầng lớp tiên tiến trong giai cấp chủ nô. Những đại biểu tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời này là Xôcrát, Platôn... quan điểm triết học của họ thù địch với tiến bộ xã hội và khoa học. Triết học và quan điểm chính trị của họ làm cơ sở lý luận cho hoạt động tầng lớp chủ nô quý tộc.
  6. Những nhà triết học duy vật đồng thời là những người vô thần bảo vệ những quan điểm khoa học tự nhiên tiên tiến, đề ra hàng loạt các ý niệm khoa học, trong đó có học thuyết cấu tạo nguyên tử của vật chất, phê phán những tư tưởng thần học. Trái lại, các nhà triêt học duy tâm, bằng cách này hay cách khác chống những quan điểm khoa học tự nhiên tiên tiến, căm thù chủ nghĩa vô thần, bảo vệ mê tín. Mặc dù xuất hiện trong điều kiện các tri thức khoa học sơ khai triết học Hy La cổ đại đã đề cập tới những vấn đề cơ bản của thế giới quan dù chỉ ở trạng thái mầm mống. Trong những hình thái muôn vẻ của tư tưởng triết học Hy La cổ đại đã có mầm mống của tất cả các kiểu thế giới quan sau này. Nói chung duy vật thời này mang tính tự phát, và biện chứng sơ khai. Dù sao họ cũng đã khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan không do thần thánh hoặc một lực lượng siêu nhiên nào tạo nên. Thế giới vật chất xuất hiện từ vật chất, từ những nguyên thể vật chất đầu tiên như nước, lửa, không khí, nguyên tử. Quan niệm duy vật thô sơ này đã có tác động lớn trong việc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thần học cổ đại. Thời này chủ nghĩa duy tâm cũng có nhiều trào lưu khác nhau: Duy tâm khách quan; duy tâm chủ quan; chủ nghĩa hoài nghi; chủ nghĩa bất khả tri. Họ luôn gắn với tín ngưỡng tôn giáo, và thường được giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ tinh thần của mình.
  7. Đêmôcrít (460-370) Ông hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực: triết học, đạo đức học, tâm lý học, toán học, sinh vật học, vật lý, mỹ học,ngôn ngữ, kỹ thuật, âm nhạc. Mác, Ăngghen coi ông là bộ óc bách khoa toàn thư đầu tiên trong số những người Hy Lạp. Về triết học, ông coi nguyên tử là bản nguyên thế giới. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế. Mỗi nguyên tử có một hình thức nhất định, vô hạn về số lượng, vô hạn về hình thức. Sự vật khác nhau là do nguyên tử cấu tạo được sắp xếp theo những hình thức khác nhau. Mọi biến đổi của sự vật, thực chất là sự thay đổi trình tự sắp xếp của nguyên tử cấu tạo. Nguyên tử là bất biến, và biến đổi không ngừng. Ông phỏng đoán, vận động không tách rời vật chất. Hoạt động của nguyên tử là vĩnh cửu. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, ông đã nêu ra khái niệm không gian. Đặc điểm chủ nghĩa duy vật của ông là quyết định luận chống lại mục đích luận. Ông thừa nhận tính nhân quả và tính tất yếu, tính quy luật trong giới tự nhiên. Về nhận thức, ông đặt ra và giải quyết một cách duy vật về đối tượng của nhận thức. Vai trò của cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong nhận thức tự nhiên. Triết học của ông là gắn với chủ nghĩa vô thần. Ông bền bỉ đấu tranh cho quan niệm duy vật. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của triết học duy vật.
  8. Pla tôn (427-347 TCN) Ông tên thật là Aristôcle, vì có vóc người to lớn, vạm vỡ nên được gọi là Platôn. Ông từng hoạt động chống phái dân chủ chủ nô bảo vệ phái chủ nô quý tộc. Ông đã bị bắt và bị đem ra chợ nô lệ bán. Khi được giải thoát ông về Aten lập viện hàn lâm - trường đại học đầu tiên ở châu Âu. Ông là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh chủ nghĩa duy tâm khách quan đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành cuộc đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật, đặc biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật lúc ấy như Hêraclít và Đêmôcrít. Theo ông, giới tự nhiên bắt nguồn từ những thực thể tinh thần, vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được tâm lý, người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình cảm tính; phải có “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử đã quan sát được trong thế giới ý niệm. Thuyết “hồi tưởng” thần bí được xây dựng trên cơ sở thừa nhận tính bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác. Phép biện chứng của Platôn là biện chứng duy tâm, đường lối của ông chống lại đường lối của Đêmôcrít. Những hiện tượng của tự nhiên bị ông quy thành những quan hệ toán học. Đạo đức học được ông xây dựng trên cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử. Kẻ thù của chế độ dân chủ Aten, ông coi “chế độ quý tộc” - Nhà nước của tầng lớp chủ nô thượng lưu - là nhà nước lý tưởng. Tuy đứng trên lập trường duy tâm khách quan trong quan niệm về thế giới, coi sự vật chỉ là cái bóng của ý niệm. nhưng lịch sử ghi nhận triết học của ông đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu bản chất của khái niệm cũng như trong việc phát triển tư duy lý luận, thực hiệh một bước tiến trong việc chuyển triết học từ tư duy ẩn dụ tới tư duy khai niệm, tức là giải thích thế giới, giải thích một hiện tượng phải tìm hiểu nó ở mức độ khái niệm, mức độ tư duy lý luận.
  9. II. Chủ nghĩa kinh viện trung cổ Tây Âu 1) Những đặc điểm chung: Quá trình phát triển của chủ nghĩa kinh viện có thể chia làm ba thời kỳ: thời kỳ đầu (từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII), thời kỳ hưng thịnh (thế kỷ XIII), thời kỳ suy tàn (thế kỷ XIV-XV). Vấn đề mối quan hệ giữa lý trí và niềm tin tôn giáo là vấn đề trung tâm chú ý của các nhà kinh viện. Họ có niềm tin tôn giáo giữ vị trí hàng đầu trong quan hệ với lý trí. Xuất phát từ quan điểm đó, họ giải quyết các vấn đề triết học có liên quan, trong đó, quan trọng nhất là vấn đề mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Xung quanh vấn đề trên đã diễn ra cuộc đấu tranh kéo dài nhiều thế kỷ và quyết liệt giữa “phái duy danh” với “phái duy thực” trong lịch sử của triết học trung cổ. Phái duy thực khẳng định cái chung (khi ấy người ta gọi là phái phổ biến) hay khái niệm chung là tồn tại thực, nó là một thực thể tinh thần nào đó có trước sự vật đơn nhất. Phái duy thực lấy triết học Platôn làm nguồn gốc lý luận. Phái duy danh nhấn mạnh rằng, chỉ có sự đơn nhất, cá biệt là có thực, còn những cái chung (cái phổ biến) chỉ là những tên gọi giản đơn mà người ta gán cho các hiện tượng riêng lẻ. Không có con người hay cái nhà “nói chung”. Đó chỉ là những cái tên để chỉ một tổng số tương đương, để chỉ những con người và những cái nhà đơn nhất. Cuộc tranh cãi giữa phái duy danh và phái duy thực về căn bản là một vấn đề nghiêm túc. Mặt triết học đằng sau cái vỏ thần học là sự vật tồn tại khách quan có thể tri giác được bằng cảm giác có trước tư tưởng (duy danh), hay ngược lại, tư tưởng có trước sự vật (duy thực), sự nhận thức của con người vận động từ cảm giác đến khái niệm đến sự vật. Thiên chúa giáo chính thống có xu hướng nghiêng về phái duy thực. Còn phái duy danh có xu hướng duy vật.
  10. 2) Một số đại biểu tiêu biểu của hai trào lưu duy danh và duy thực trong triết học kinh viện Tô-mát Đa-canh (1225-1274). Ông sinh ở Italia, là nhà thần học, nhà triết học kinh viện nổi tiếng. Ngoài ra ông còn nghiên cứu những vấn đề pháp quyền, đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Học thuyết của Tô-mát Đa-canh được thừa nhận là triết học duy nhất chân chính của giáo hội Thiên chúa. Tô-mát Đa-canh cho rằng, đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”, còn đối tượng của thần học là “chân lý của lòng tin tôn giáo”. Thượng đế là khách thể cuối cùng của triết học và thần học. Theo Tô-mát Đa-canh, giới tự nhiên là do trời “ sáng tạo ra từ hư vô” và trật tự của nó, sự phong phú và hoàn thiện của nó đều được quyết định bởi sự thông minh của trời. Do đó, chúa Trời, Thượng đế là mục đích tối cao, là “quy luật” vĩnh cửu đứng trên mọi cái, thống trị mọi cái, là hình thức thuần túy tước bỏ vật chất, là nguyên nhân tác động cuối cùng của thế giới. Chính quyền nhà vua là do “ý của Trời”, thân xác con người phải phục tùng chính quyền nhà vua, còn quyền lực tối cao bao trùm hết thảy, thì thuộc về Giáo hội. Trong việc giải quyết vấn đề bản chất của cái chung. Tô-mát Đa-canh đứng trên lập trường duy thực ôn hòa. Về lý luận nhận thức, Tô-mát Đa-canh áp dụng học thuyết về “ hình dạng” của Arixtốt. Theo ông, mọi nhận thức diễn ra trong chủ thể nhờ tiếp thu ở khách thể những gì giống với chủ thể, chứ không phải mọi tồn tại của khách thể đều được tiếp thu, đó là hình ảnh của vật chất, chứ không phải bản thân sự vật. Ông chia “hình dạng” thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính , trong đó, hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính.
  11. Đun X-cốt (1265-1308). Ông sinh ở Anh, nhà duy danh lớn nhất thế kỷ XIII. Vấn đề mối quan hệ giữa thần học và triết học là vấn đề chủ yếu mà ông quan tâm. Theo ông, đối tượng của thần học nghiên cứu Thượng đế, còn đối tượng của triết học nghiên cứu hiện thực khách quan - vật chất. Ở đây Đun X-cốt có ý tưởng cắt đứt mối liên hệ giữa triết học và thần học, trong chừng mực nào đó muốn giải phóng triết học khỏi ách áp bức của Giáo hội. Tuy nhiên, ông vẫn đề cao vai trò của lòng tin, nhưng không hạ thấp quá đáng vai trò lý trí. Theo ông, Thượng đế là một tồn tại bất tận, có thể chứng minh được, nhưng dựa vào lý trí để nhận thức Thượng đế thì bị hạn chế, mà chủ yếu phải bằng lòng tin; lý trí chỉ nhận thức được ở tồn tại những gì mà nó không thể tách khỏi các tài liệu cảm tính. Cho nên, con người không có được một khái niệm nào về bản chất phi vật chất như chúa Trời, Thượng đế. Là nhà duy danh luận, Đun X-cốt cho rằng cái chung không chỉ là sản phẩm của lý trí, nó có cơ sở trong bản thân các sự vật; nó vừa tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất của chúng, vừa tồn tại sau sự vật với tính cách là những khái niệm được lý trí con người trừu tượng hóa khỏi bản chất của sự vật. Về nhận thức luận, Đun X-cốt cho rằng, tinh thần, ý chí là hình thức của thân thể con người, gắn liền với thân thể con người đang sống và do Thượng đế ban cho từ khi con người mới sinh ra. Trí thức được hình thành từ tinh thần và từ đối tượng nhận thức. Tinh thần tuy có sức mạnh to lớn trong nhận thức, nhưng vẫn phải phụ thuộc vào đối tượng nhận thức; cũng có cái ý chí “không ai biết được” tựa hồ như quyết định tính chất hoạt động tinh thần của con người. Nhưng theo Đun X- cốt, chỉ có những sự vật đơn nhất và cá biệt mới là thực tại cao nhất. Ông được coi là nhà duy danh nổi tiếng nhất của chủ nghĩa kinh viện giai đoạn hưng thịnh.
  12. III / Triết học Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII 1. Tình hình kinh tế-xã hội. Một là: Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thỏa mãn với những kiến thức khoa học tự nhiên còn ở tình trạng chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, chưa cụ thể đã có từ trước. Thực tế đó đòi hỏi khoa học tự nhiên như cơ học, toán học, thiên văn học và về sau cả vật lý học, hóa học, sinh vật học phải có bước phát triển mới. Thời kỳ này nảy sinh nhu cầu là các ngành khoa học cụ thể tách ra khỏi triết học và trở thành những ngành khoa học độc lập. Từ đó làm xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình trong triết học. Hai là: Sự xuất hiện và ngày càng phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho giai cấp tư sản thấy rằng cần phải nắm lấy chính quyền, phá bỏ cát cứ phong kiến tạo ra và mở rộng thị trường thống nhất để tăng lợi. Mặc dù nhu cầu nắm lấy chính quyền đã thôi thúc giai cấp tư sản, nhưng vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII giai cấp tư sản vẫn phải thỏa hiệp với giai cấp phong kiến quý tộc và với nhà thờ Thiên chúa giáo. Ba là: Bước sang thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản đã lớn mạnh, và do điều kiện riêng của mình, nước Pháp trở thành trung tâm của cách mạng tư sản. So với cuộc cách mạng tư sản Anh (thế kỷ XVII), thì cách mạng tư sản Pháp (1789-1794) có tính triệt để hơn. Bốn là: Thế kỷ XVII và XVIII, là thế kỷ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của phương pháp tư duy siêu hình đối với phương pháp tư duy trừu tượng duy lý thời trung cổ; và sau đó là thắng lợi của chủ nghĩa vô thần đối với hữu thần luận. Tuy nhiên, triết học duy tâm chủ quan của Béccli là một bước phát triển của chủ nghĩa duy tâm trong điều kiện lịch sử mới.
  13. 2. Một số triết gia tiêu biểu a. Gioóc Béc-cli (1685-1753) Trước sự thắng lợi rực rỡ của chủ nghĩa duy vật ở thế kỷ XVII, trước tinh thần nhân bản của các nhà khai sáng lúc đó, giám mục Béc-cli có tham vọng "khôi phục trên toàn thế giới cái tinh thần đức hạnh đã bị xuyên tạc". Béc-cli là đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Ông có nhiều tác phẩm như "Kinh nghiệm của thuyết thị giác mới" (1709), "Bàn về những nguyên tắc của nhận thức con người" (1710) v.v... Có thể khái quát, những nội dung chính của triết học Béc-cli như sau: Một là, phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Điểm xuất phát của triết học Béc-cli là kinh nghiệm cảm tính hiểu theo nghĩa là tổng hợp những biểu tượng hay những cảm giác. Theo ông, những cảm giác này không phản ánh thực tại khách quan, mà chính chúng là thực tại khách quan chân chính. Hai là, không có chân lý khách quan. Nhiệm vụ chính của chủ nghĩa duy tâm Béc-cli là đấu tranh chống lại nhận thức luận duy vật, lấy sự thừa nhận thế giới bên ngoài phản ánh vào ý thức của con người làm cơ sở cho những lập luận của mình. Ông cho rằng, tìm chân lý không phải trong sự phù hợp của tri thức với sự vật bên ngoài mà ở tính rõ ràng của các tri giác cảm tính, ở tiêu chuẩn "ý kiến chung" là so sánh sự thật của ý thức con người không phải với hiện thực khách quan, mà với ý thức của người khác.; ở sự đơn giản và dễ hiểu của các quan niệm; và ở sự phù hợp của tri thức với ý thức và tuân theo ý chúa. Triết học duy tâm chủ quan của Béc-cli về sau được Đavít Hium, Ma-khơ và những môn đồ của Ma-khơ phát triển và ngày nay được tồn tại dưới nhiều hình thức biến tướng mới.
  14. b. Triết học của Đê-ni Điđơrô Đêni Điđơrô (1713-1784) sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, ông là một nhà duy vật tiêu biểu của triết học khai sáng, người chủ biên của bộ Bách khoa toàn thư (1751-1789) của Pháp. Về bản thể luận, Điđơrô đã phê phán chủ nghĩ duy tâm chủ quan của Béc-cli và phê phán tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật Anh. "Trong vũ trụ chỉ có một thực thể vật chất. Vật chất bao gồm toàn bộ các vật thể có quảng tính, có hình thức, và luôn luôn vận động. Nguyên nhân của vận động, theo Điđơrô, là tự thân vật chất. Ông cho rằng, chính quá trình vận động và phát triển của giới tự nhiên mà những gì không thích nghi và chọn lọc đã giúp cho nó ngày càng hoàn thiện. Những quan điểm về bản thể luận trên đây của Đi-đơ-rô rất gần với quan điểm duy vật hiện đại. Về lý luận nhận thức, Điđơrô đã xây dựng lý luận nhận thức trên lập trường duy vật. Ông cho rằng, cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức và các quá trình tâm lý. Điđơrô là nhà duy lý kiểu mới, đề cao khả năng nhận thức cảm tính trong quá trình nhận thức. Về quan điểm chính trị-xã hội, Điđơrô cho rằng, bộ mặt trí tuệ và đạo đức của con người là do môi trường và hoàn cảnh xã hôi tạo nên, chứ không phải do Thượng đế. Chỉ có khoa học mới vũ trang cho chúng ta quan niệm đúng về thế giới, làm cho con người lớn mạnh thêm, còn tôn giáo thì chỉ đem lại những điều ảo tưởng, làm cho con người mềm yếu đi. Điđơrô mới chỉ nhìn tôn giáo ở nguồn gốc tâm lý sợ chết của con người, chứ không nhìn thấy cơ sở kinh tế-xã hội của sự tồn tại tôn giáo. Đứng trên quan điểm về xã hội khế ước, Điđơrô đòi thực hiện cai trị theo dân chủ tư sản, mở mang hệ thống giáo dục trong nhân dân, và cần phải xây dựng các đạo luật tiến bộ.
  15. IV/ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC 1. Điều kiện kinh tế-xã hội Đức thế kỷ XVIII-XIX Nước Đức đầu thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vẫn lầ một nước rất lạc hậu về kinh tế chính trị so với nhiều nước ở châu Âu như Anh, Pháp. Đó là một giang sơn phong kiến điển hình một tập hợp 360 quốc gia tự lập. Liên bang Đức chỉ là hình thức. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Bối cảnh chính trị-xã hội và sự phát triển của khoa học Tây Âu ở nước Đức lúc đó chứng tỏ sự hạn chế và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cũng như cần có quan niệm mới về khả năng và vai trò của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu đó. 2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng, nhưng hình thức của nó thì cực kỳ “rối rắm” và có tính chất bảo thủ. Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học là một đặc điểm của của triết học cổ điển Đức. Tuy nhiên, họ đã thần thánh hóa trí tuệ và sức mạnh của con người tới mức coi con người là chúa tể của tự nhiên. Tiếp theo tư tưởng biện chứng trong triết học thời cổ đại, triết học cổ điển Đức xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học đối lập với phương pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả thuyết tinh vân về sự hình thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học đã thực sự mang ý nghĩa cách mạng trong triết học.
  16. 3. Những đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức: Cant, Heghen, Phơbách a. Imanuen Cantơ (1724-1804) Thời kỳ trước phê phán (1746-1770). Ông tự nhận mình là người tiếp tục công việc của các nhà duy vật cổ đại như Đêmôcrít, Êpiquya. Quan điểm duy vật trong triết học tự nhiên của Cantơ thể hiện ở những luận điểm chủ yếu dưới đây: Cantơ cho rằng, thế giới của chúng ta là thế giới vật chất luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng, mọi sự vật đều liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua lực hút và lực đẩy. Ông viết: “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế giới vật chất từ nó, nghĩa là, hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ ra cho các bạn thấy, thế giới phải ra đời từ vật chất như thế nào”. Cantơ cho rằng, không thể chỉ dùng sức hút mà giải thích được nguồn gốc thế giới. Vì chỉ có một mình sức hút có tác dụng thì thế giới vật chất bao giờ cũng ở trạng thái đứng im mãi mãi. Bên cạnh sức hút còn có sức đẩy ra. Chính sự tương tác giữa sức hút và sức đẩy làm cho vật chất vận động và vật chất không hình mới biến thành những thiên thể hình cầu. Nhờ vậy, giới tự nhiên mới có thể tồn tại và vận động được. Ở đây Cantơ đã tiến tới vấn đề sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Năm 1766, Cantơ đã viết cuốn sách “Những mơ ước của anh chàng ảo tưởng được soi sáng bằng những ước mơ của khoa siêu hình”. Trong cuốn sách này, ông đã chế giễu những kẻ mê tín, tin vào thần linh, Ở đây đã thể hiện quan điểm vô thần của ông.
  17. Thời kỳ phê phán (sau 1770). Thời kỳ này triết học của Can-tơ chịu ảnh hưởng nhiều của triết học Hium, Lépnít và Vônphơ. Về nhiệm vụ của triết học, Cantơ cho rằng, nhiệm vụ hàng đầu của triết học là phải xác định bản chất của con người. Theo Cantơ, khoa học là triết học với mục đích là xác định bản chất của con người. Khoa học đó không được dừng lại ở những vấn đề nhận thức luận đơn thuần, mà phải hướng nhiệm vụ vào việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống, và hoạt động thực tiễn của con người mà bất cứ ai cũng băn khoăn trong cuộc đời mình; nghĩa là phải lý giải các vấn đề: “Tôi có thể biết được cái gì ? Tôi cần phải làm gì? Tôi có thể hy vọng cái gì ?” Cantơ đã đề ra cho mình những nhiệm vụ to lớn vĩ đại và đầy tinh thần nhân đạo. Nhưng ông không thể vượt qua được những hạn chế lịch sử của thời đại và hoàn cảnh xã hội Phổ mà ông đang sống. Về “tri thức tiên nghiệm”, “vật tự nó”: Cantơ gọi thế giới vật chất là những “vật tự nó” tồn tại khách quan. Về nguyên tắc, “vật tự nó” là không thể nhận thức được, là siêu nghiệm. Mọi tri thức của con người không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan (vật tự nó), mà chỉ nhận thức được hiện tượng sinh ra từ tác động của “vật tự nó” lên các giác quan của con người. Ông khẳng định, mọi tri thức của con người đều chỉ giới hạn trong các hiện tượng mà thôi. Đó là thực chất là bất khả tri luận của ông. Tuy vậy trong quan niệm “vật tự nó” vẫn chứa đựng một ý nghĩa tích cực, nó khẳng định sự tồn tại của các sự vật khách quan bên ngoài chúng ta. Ở góc độ này ông thể hiện như một nhà duy vật. Ông chia tri thức loài người thành hai loại: tri thức kinh nghiệm cảm giác và tri thức tiên nghiệm.
  18. Về nhận thức luận: Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng ông đang đi gần tới phép biện chứng. Ông vạch ra rằng, bất cứ lúc nào khi lý trí bắt đầu nghiên cứu thế giới khách quan tất yếu đụng phải mâu thuẫn, do đó các mâu thuẫn là bản chất khách quan của lý tính con người. Ông đặt ra những vấn đề còn bỏ ngõ trong các cuộc tranh luận về bản chất tư duy, và những vấn đề mang tính nghịch lý trong quá trình nhận thức. Đây là một thành tựu rất quan trọng của nhận thức triết học, bởi vì bằng điều đó vận động của tư duy được đề cao. Về đạo đức học: Ông theo lập trường duy lý. Ông viết “các nguyên lý cảm tính nói chung không thích hợp để có thể xây dựng các quy luật đạo đức vào chúng”. Theo ông, chỉ có lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực đạo đức. Tự do là phạm trù trung tâm trong đạo đức của ông. Theo ông, ý chí tự do và ý chí tuân theo các quy luật của đạo đức là như nhau. Về quan điểm chính trị-xã hội: Theo ông, xã hội là phương thức tồn tại của con người như một chủ thể, trong đó bằng hoạt động của mình, con người ngày càng phát triển những khả năng và bản chất của mình, và thực hiện các lý tưởng đạo đức của mình. Ông khẳng định, mâu thuẫn xã hội là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Sự xung đột giữa các tầng lớp, các đẳng cấp xã hội là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Cantơ mong muốn xây dựng một thế giới hòa bình, hữu nghị, vĩnh viễn không có chiến tranh. Theo ông chiến tranh phá hoại những chuẩn mực đạo đức của con người. Ông kêu gọi các quốc gia đoàn kết xây dựng một liên bang, trong đó mỗi dân tộc vẫn được bảo đảm tự do và độc lập về chính trị. Theo ông, chỉ có hình thức nhà nước cộng hòa là phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội. Sứ mệnh của nhà nước, luật pháp, chuẩn mực đạo đức đều phải nhằm mục đích phục vụ con người.
  19. b. Gioógiơ Vinhem Phriđrich Heghen (1770-1831). Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, triết học của ông là tập đại thành của triết học cổ điển Đức - Một tiền đề lý luận của triết học mác-xít. Triết học của Heghen là một hệ thống triết học duy tâm khách quan. “Ý niệm tuyệt đối” là điểm xuất phát, là nền tảng của triết học Hêghen. Theo ông” ý niệm tuyệt đối” là thực thể sinh ra mọi cái trên thế giới, là đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và con người. Theo Heghen con người là sản phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của “ý niệm tuyết đối”. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người chính là công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình, trở về chính bản thân mình. Đứng trên lập trường duy tâm khách quan (gồm ba phần: Lôgíc học; Triết học về tự nhiên; Triết học về tinh thần), ông đã phê phán chủ nghĩa chủ quan và nhị nguyên luận của Cantơ. Ông cho rằng, Cantơ đã xé lẻ tồn tại, bắt nó tách ra ngoài tư duy. Ông kết hợp tồn tại với tư duy làm một và cho ngọn nguồn xuất phát đầu tiên, thực thể đầu tiên của thế giới chính là tư duy, ý thức, là” ý niệm tuyệt đối” hay tinh thần vũ trụ. Dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên đương thời, Heghen thừa nhận giới tự nhiên nằm trong quá trình vận động và phát triển từ vô cơ - hữu cơ - con người. Con người có khả năng phản ánh giới tự nhiên, và khi con người phản ánh được đầy đủ giới tự nhiên cũng là ý thức của con người đã quay về điểm khởi đầu của nó là ý niệm tuyệt đối. Ý thức của mỗi cá nhân được ông coi là sự tái diễn tư duy của toàn nhân loại, trãi qua các thời kỳ khác nhau giống như sự phát triển của bào thai từ tiền thủy, sinh vật đến con người. Như vậy, khởi điểm là tinh thần và kết thúc của sự phát triển cũng là tinh thần. Theo ông giai đoạn cao nhất là lúc ý niệm tuyệt đối kết thúc quá trình tự nhận thức của nó dưới hình thức tôn giáo, nghệ thuật và triết học.
  20. Phép biện chứng duy tâm của Heghen. Những luận điểm về phép biện chứng của triết học Heghen có cả trong ba phần, nhưng trong lôgíc thể hiện rõ nhất, quan trọng nhất. Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của ông là: “Tất cả cái gì là hiện thực, đều là hợp lý và tất cả cái gì là hợp lý, đều là hiện thực” . Luận điểm của ông không chỉ muốn bảo vệ và duy trì mọi cái hiện đang tồn tại, thừa nhận về mặt triết học nền chuyên chế, nhà nước quý tộc Phổ, mà điều cơ bản nhất không phải những gì hiện đang tồn tại cũng đều là hiện thực. Tính hiện thực chỉ thuộc về những gì đồng thời là tất yếu: “Tính hiện thực, trong sự phát triển của nó, tự biểu lộ ra là tính tất yếu”. Như vậy theo ông, hiện thực không phải là tồn tại nói chung, mà là tồn tại trong tính tất yếu của nó, đó là “hiện thực trong sự phát triển. Xa rời tư tưởng này thì mọi ý niệm, lý tưởng chỉ là những điều ảo tưởng, và triết học là một hệ thống những điều bịa đặt rỗng tuếch”. Ông đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, tức là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đó là ý nghĩa thực sự và tính chất cách mạng của triết học Hêghen. Trong lôgíc học, Heghen không chỉ trình bày các phạm trù như lượng - chất, phủ định, mâu thuẫn... mà còn nói đến các quy luật: lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại; phủ định của phủ định, và phần nào về quy luật mâu thuẫn. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động phát triển của tư duy, của khái niệm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2