intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới

Chia sẻ: Cua Bao | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

4.103
lượt xem
158
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới phân tích chi tiết nội dung độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn hợp với quy luật và lòng dân, phân tích nội dung chính của quan điểm Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân trong giai đoạn hiện nay,... Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết của tài liệu!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới

  1. CÂU 1: Phân tích vì sao Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn   hợp quy luật, hợp lòng dân? Trả lời: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn xuyên suốt  quá trình cách mạng Việt Nam là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân   tộc Việt Nam đã lựa chọn. Độc lập dân tộc và CNXH là những vấn đề  lý luận có ý nghĩa lịch sử  và   thời đại sâu sắc. Độc lập Dân tộc thực chất là vấn đề  Dân tộc; Chủ  nghĩa xã   hội thực chất là vấn đề  Giai cấp. Đây là hai vấn đề  lớn, hai nguồn sức mạnh,  vừa là mục tiêu, vừa là động lực của Cách mạng VN. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức IV của Đảng, lần đầu tiên bài   học này được nêu lên: "... giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã   hội. Đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng   nước ta". Giữ  vững mục tiêu Độc lập dân tộc và Chủ  nghĩa xã hội là nhân tố  bản chất trong  đường lối chiến lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt  Nam. Thực tiễn cách mạng Việt nam gần một thế  kỷ  qua cho chúng ta nhận  thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn   kết giữa độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội cũng chính là con đường tất yếu  khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng người. Đó là sự  lựa chọn của Đảng, Bác Hồ và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân, của lịch   sử! Ngược dòng lịch sử đất nước ta: Ngay từ  khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp   đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp  tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do không có đường lối cách mạng  đúng đắn dưới sự  chỉ  đạo của một hệ  tư  tưởng tiên tiến, khoa học và cách   mạng. Đó là sự khủng hoảng đường lối cứu nước. Tháng   6   năm   1911   người   thanh   niên   Nguyễn   Tất   Thành   (Nguyễn   Ái  Quốc, Hồ  Chí Minh, Bác Hồ...) ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba khắp năm  châu, bốn biển, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm  các cuộc cách mạng tư sản; tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó   trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người   được đọc Sơ  thảo lần thứ  nhất Luận cương về  vấn đề  dân tộc và thuộc địa  của V.I Lênin vào tháng 7 năm 1920. Người đã tìm thấy con đường giải phóng  dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải   phóng dân tộc, độc lập dân tộc gắn với chủ  nghĩa xã hội; cách mạng dân tộc   từng nước gắn với phong trào cách mạng thế giới...Người khẳng định: “ Muốn   cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách   mạng vô sản”. Từ đó, Người truyền bá Chủ nghĩa xã hội vào đất nước ta, sáng  lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành hết thắng lợi này   đến thắng lợi khác. Vì vậy, có thể  nói đó là  sự  lựa chọn của lịch sử  Việt   Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
  2. Sự lựa chọn đó dựa trên hai căn cứ chủ yếu: ( ý này giải thích là vì sao?) Một là,  cách mạng xã hội chủ  nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành  công đã mở ra thời đại mới ­ thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa   xã hội trên phạm vi toàn thế  giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra   khả  năng hiện thực cho những dân tộc đang còn lạc hậu tiến thẳng lên chủ  nghĩa xã hội. Những khả năng hiện thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ  và  triệt để trong quan niệm cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân  tộc. Hai là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và  nhân dân lao động khỏi bóc lột, áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống  ấm   no, tự  do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở  thành những   người làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới   vững chắc. “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã   hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc” như  Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã chỉ rõ. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng cộng sản lãnh đạo đã  khẳng định: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn   duy nhất đúng đắn. Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập  Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để  giải phóng dân   tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách  mạng dân tộc, dân chủ  nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả  nước   đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân   thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ba là,  thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử  của sự  nghiệp đổi mới vì   mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, củng cố  vững chắc hơn độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn Cách mạng mới, độc lập dân tộc không chỉ  dừng lại là   chủ quyền quốc gia, lãnh thổ. Độc lập dân tộc phải được xác định cụ  thể hơn,   rộng lớn hơn: Đó là độc lập về  con đường phát triển, độc lập về  kinh tế­ xã  hội, văn hóa... gắn độc lập dân tộc với những vấn đề  toàn cầu, với quá trình   đaphương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là   đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,   độc lập và phát triển". Bên cạnh đó Chủ  nghĩa xã hội cần được nhận thức và  điều chỉnh để  phù hợp với xu thế  của thời đại. Chủ  nghĩa xã hội vừa là mục  tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đó là một quá trình với nhiều giai đoạn,  bước đi phù hợp với thời đại. Đồng thời phải gắn CNXH với những đặc trưng   cụ  thể, với bản sắc của dân tộc và xu thế  thời đại, với những bước đi vững  chắc, cách làm phù hợp. Kết hợp độc lập dân tộc và CNXH cũng là một quá   trình vận động của các nhân tố  dân tộc, giai cấp, trong nước và quốc tế  nhằm  tác động đến hành trình của toàn dân tộc trên con đường đi tới mục tiêu xây  dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
  3. Thực tiễn đã và đang chứng minh: Tương lại của nhân loại không phải  là sự quay trở về với chủ nghĩa Tư bản đế quốc bằng chiến tranh, khủng bố và  toàn cầu hóa kinh tế  theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé", hay bom và đại bác đi kèm  viện trợ nhân đạo. Độc lập dân tộc kết hợp với Chủ nghĩa  xã hội chính  là tiền  đề cho một nền hòa bình, độc lập và phát triển bền vững vì những giá trị nhân  văn cho con người. Đó là quy luật của cách mạng Việt Nam và của nhân loại  trên hành trình đi tới một xã hội văn minh hơn! Câu 2. Trình bày và phân tích một số nội dung chính của quan điểm:  Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh  toàn dân trong giai đoạn hiện nay? Trả lời:     Đã là người Việt Nam có lẽ  không ai không thuộc những câu thơ  dạy  về  đoàn kết của Bác Hồ. Truyền thống lịch sử  dân tộc Việt Nam đã chứng   minh điều đó. Cho nên có lần Bác dạy:  “Trong bầu trời không có gì quý bằng   nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân   dân”. Đoàn kết toàn dân tộc là sự  bảo vệ, giúp đỡ, tương trợ, tôn trọng lẫn   nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển... của mọi giai tầng trong cộng   đồng dân tộc, trong đó, các giai tầng xã hội hy sinh lợi ích riêng hay chấp nhận  lợi ích của các giai tầng khác để bảo vệ lợi ích chung, lâu dài.  Đại hội XI khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh,  động lực chủ  yếu và là nhân tố  có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền  vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.      Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 1 thế  kỷ  qua là hiện thực sinh động  chứng tỏ: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là đường lối chiến lược cơ bản, lâu  dài của cách mạng, là sự tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm   của Đảng trong điều kiện lịch sử mới. Qua   30   năm   tiến   hành   kháng   chiến   chống   ngoại   xâm   (1945   ­   1975),  truyền thống quý báu ấy đã được nâng lên tầm cao mới, trở thành động lực và   sức mạnh chủ yếu của dân tộc ta, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết   định đưa đến những thắng lợi vĩ đại của cách mạng nước ta từ  năm 1930 đến   nay. Vào những năm 80 của thế  kỷ  XX, đứng trước tình hình khủng hoảng  kinh tế ­ xã hội trầm trọng, đổi mới trở thành yêu cầu có ý nghĩa sống còn đối   với vận mệnh dân tộc. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định đường  lối đổi mới đất nước, chỉ rõ bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong đó bài học đầu  tiên là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy   dân làm gốc’’, xây dựng và phát huy quyền làm chủ  của nhân dân lao động.  Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ  tám đã ra Nghị quyết 8b (ngày 27­3­1990) về đổi mới công tác quần chúng của  Đảng, tăng cường mối quan hệ  giữa Đảng và nhân dân, trong đó nhấn mạnh   quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.  Đến Đại hội VII của Đảng (năm 1991), lần đầu tiên trong   Cương lĩnh   xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ lên chủ  nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng 
  4. định lấy khối liên minh công nhân ­ nông dân ­ trí thức làm nền tảng cho khối   đại đoàn kết toàn dân tộc. Điều đó thể  hiện: Đảng ta ngày càng nhận thức rõ   hơn về vị trí, vai trò của các giai tầng trong xã hội, nhất là của tầng lớp trí thức   đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học  và công nghệ  phát triển mạnh mẽ  và kinh tế  tri thức có vai trò ngày càng nổi  bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất.  Cương lĩnh (năm 1991) nêu  năm bài học lớn được rút ra từ  thực tiễn cách mạng, trong đó có bài học: “sự  nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân   là người làm nên thắng lợi lịch sử" và “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn   kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc  tế". Đại hội VII của Đảng chỉ  rõ: “Cách mạng là sự  nghiệp của nhân dân, do  nhân dân và vì nhân dân. Quan hệ giữa Đảng với nhân dân bao giờ cũng là vấn   đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng. Nguồn sức mạnh làm nên  thắng lợi của chúng ta chính là ở chỗ Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân”; dân  chủ  “vừa là một mục tiêu vừa là một động lực của công cuộc đổi mới xã hội   ta”. Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một trong  những nguyên nhân trọng yếu dẫn đến thành công của Đảng trong hoạch định  đường lối và thực hiện đường lối đổi mới: “Chính những ý kiến, nguyện vọng  và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của    Đảng. Cũng do nhân dân hưởng  ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu,  vượt qua biết bao khó khăn, thử  thách mà công cuộc đổi mới đạt được những   thành tựu hôm nay”. Đại hội VIII tiếp tục khẳng định tinh thần của Đại hội VII và nêu cao  phương châm: Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ  sở  lấy liên  minh công nhân ­ nông dân ­ trí thức làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong   đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở  trong nước hay đang định cư  ở  nước   ngoài; có cơ  chế  và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân  bàn, dân làm, dân kiểm tra”.  Đại hội IX có bước phát triển cụ thể hơn nữa về phát huy sức mạnh đại  đoàn kết toàn dân: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng  lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người  trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ  hưu,   mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay  ở  nước   ngoài”; “lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã  hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng”; “trên cơ sở liên minh  vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đại   hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại  đoàn kết toàn dân trên cơ  sở  liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức   do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể  và xã hội, phát   huy   mọi   tiềm   năng   và   nguồn   lực   của   các   thành  phần   kinh   tế,   của   toàn   xã  hội”(15). Như  vậy, trong thời kỳ mới, quan điểm nhất quán của Đảng ta là: đại  đoàn kết toàn dân, đồng thuận mọi giai tầng, trên cơ  sở  giải quyết hài hòa các   lợi ích, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn xã hội, là động lực chủ  yếu để phát triển đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Nhằm cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Hội nghị  Trung ương 7 khóa IX về  Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân  
  5. giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, coi đại đoàn kết toàn  dân tộc là nhân tố  có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ quốc. Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, tư  duy về  đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta được phát triển lên một bước   mới. Cụm từ  “Đại đoàn kết toàn dân” được bổ  sung, hoàn chỉnh thành “Đại  đoàn kết toàn dân tộc” với ý nghĩa mở  rộng đại đoàn kết, đoàn kết không chỉ  đối với nhân dân ta  ở  trong nước mà còn với cả  cộng đồng người Việt Nam   định cư   ở  nước ngoài. Từ  tư  duy đổi mới về  vai trò của nhân dân, về  vấn đề  dân tộc trong thời kỳ  mới, Đại hội X của Đảng khẳng định:  “đại đoàn kết   toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân   và đội ngũ trí thức, dưới sự  lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất   quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ  yếu và là  nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây   dựng và bảo vệ Tổ quốc”(16). Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây  dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội (năm 1991), Đại hội   XI của Đảng tiếp tục khẳng định: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố  thứ hai, sau thành tố  về  tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu  của Đảng. Đây chính là hai thành tố  quan trọng, quyết định thực hiện thành   công những nhiệm vụ  căn cốt nhất của toàn Đảng và toàn dân ta trong nhiệm   kỳ 2011 ­ 2015, đó là: đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để  đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.  Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một thành tố được nêu trong chủ đề của Đại  hội IX và Đại hội X, nay khẳng định lại không chỉ để nhấn mạnh mà còn nhằm  làm sáng tỏ hơn bản chất và nội dung của vấn đề thông qua thực tiễn đổi mới.   Sức mạnh toàn dân tộc là sức mạnh của cả  kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,   quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sức mạnh của các thành phần kinh tế, các lực  lượng chính trị, xã hội, các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước   và cộng đồng người Việt Nam định cư   ở  nước ngoài có cùng “mục tiêu xây   dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân  giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ  mặc cảm, định kiến về  quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm  khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề  cao tinh thần dân tộc,   truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để  tập hợp, đoàn kết mọi người vào  mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”. Nghị  quyết Đại hội XI của Đảng là sự  kết tinh trí tuệ  và ý chí của toàn   Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện sự nhất quán kiên định tư tưởng chính  trị  và phương pháp cách mạng Hồ  Chí Minh ­ tư  tưởng chính trị  và phương  pháp cách mạng dựa trên sự  bố  trí các lực lượng xã hội, trên cơ  sở  vận dụng   nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, quan điểm dân tộc vào thực tiễn Việt Nam.  Chủ  tịch Hồ  Chí Minh từng chỉ  rõ: “Vận động tất cả  lực lượng của mỗi một   người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”.   Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng  Tám, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử  trong công cuộc đổi mới,  trước những vận hội mới, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức đặt ra  trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước, hơn bao giờ  hết,   Đảng cần tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ  vững và  
  6. củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận của toàn xã hội trong tiến   trình xây đựng đất nước hiện nay. Để  đạt được mục tiêu đó, Đảng cần có   những quyết sách nhằm động viên và tổ  chức mọi tầng lớp nhân dân phát huy   truyền thống yêu nước và lòng tự  hào dân tộc, đưa đất nước vượt qua thách   thức.  Với những thành quả  cách mạng Việt Nam đã đạt được, dưới sự  lãnh  đạo đầy bản lĩnh, trí tuệ của một chính Đảng Cộng sản được lý luận Mác ­ Lê­ nin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi rọi, với sự quản lý điều hành năng động, sáng  tạo của Nhà nước cách mạng Việt Nam, với tài năng, trí thông minh, đức tính  cần cù, ý chí và khát vọng vươn lên mãnh liệt của nhân dân ta, tiếp tục vận   dụng bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh lịch  sử  mới, chúng ta có đầy đủ  cơ  sở  để  vững tin vào sự  hiện thực hóa mục tiêu   xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,  công bằng, văn minh. Thực tiễn của công cuộc đổi mới hiện nay đang đặt ra những vấn đề bức  thiết mà Cương lĩnh trình Đại hội XI của Đảng phải tập trung làm rõ hơn cả  về lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nên sức   mạnh to lớn hơn. Theo ý kiến của tôi, cần tổng kết thực tiễn sâu sắc hơn nữa  về chiến lược đại đoàn kết để củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối  đại đoàn kết toàn dân thực hiện có hiệu quả  Cương lĩnh 2011 (bổ  sung, phát  triển) và các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng. Tôi xin đề  xuất một số  vấn  đề, nội dung dưới đây. Một là, hoàn thiện nội dung nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa và thực hiện  đồng bộ, triệt để. Dân chủ càng mở rộng và thiết thực càng tạo sự đồng thuận   xã hội và do đó sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Trong sự  nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới, nội dung dân chủ xã  hội chủ nghĩa phát triển và đòi hỏi phải nhận thức và thực hiện đúng đắn cả từ  phía Nhà nước và cả  từ  phía người dân, để  khắc phục những biểu hiện lệch   lạc trong thực hiện dân chủ, hoặc dân chủ  hình thức, hoặc dân chủ  cực đoan,  lợi dụng dân chủ  để  gây mất  ổn định chính trị, xã hội. Thực hiện dân chủ  không chỉ  là kêu gọi, động viên mà nội dung dân chủ, quyền làm chủ  của dân,  phải được thể  hiện trong chính sách, pháp luật và được bảo đảm bằng chính   sách, pháp luật, quy chế. Nội dung dân chủ  trong chính trị, kinh tế, văn hóa, xã   hội cần được cụ thể hóa, lượng hóa để người dân hiểu và thực hiện. Cần nhận  thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung dân chủ với kỷ  luật, kỷ cương, pháp luật, dân chủ với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, dân chủ  phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ, trên cơ  sở  phát huy   dân chủ. Thực tế đã cho thấy, ở địa phương nào, lĩnh vực hoạt động nào, đơn vị  nào thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa thì tạo được sự đồng thuận, ổn định  và phát triển, củng cố được sự đoàn kết, thống nhất. Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc gắn liền với xây dựng và không ngừng   hoàn thiện hệ  thống chính trị  của đất nước. Năng lực lãnh đạo, năng lực cầm  quyền của Đảng, hiệu lực, hiệu quả  quản lý của Nhà nước được nâng cao   chẳng những quyết định sự   ổn định, phát triển của xã hội, đất nước mà còn 
  7. củng cố  vững chắc niềm tin của các giai cấp, dân tộc, các tầng lớp nhân dân   làm cho sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng phát triển. Nhà nước   pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp  luật, chính sách để  mang lại lợi ích cho nhân dân, bảo đảm quyền lợi chính  đáng, hợp pháp của mọi giai cấp, dân tộc, lực lượng xã hội, của các thành phần   kinh tế, của mọi người dân, đồng thời bảo đảm, bảo vệ, phát triển lợi ích   chung của dân tộc, đất nước. Đó là cái gốc của sự đoàn kết cộng đồng dân tộc   và đồng thuận xã hội. Chính phủ  đã quan tâm đặc biệt đến người nghèo, nông   dân nghèo, nhất là  ở  vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nhằm giúp họ  xóa   đói,  giảm   nghèo.  Theo  đó,   Chương   trình  135   (1998),  Chương   trình   134  (2004) đã thực hiện. Vì vậy, qua 10 năm thực hiện 8 mục tiêu thiên niên kỷ  do   Liên hợp quốc đề ra, Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả việc xóa bỏ tình trạng   đói nghèo cùng cực, phổ cập tiểu học, thực hiện tốt bình đẳng giới và nâng cao   vị  thế  của phụ  nữ. Nhưng hiện nay, Nhà nước cũng cần quan tâm nhiều hơn   đến công nhân, khi đời sống, thu nhập của một bộ  phận công nhân còn thấp,  làm sao để  trong các doanh nghiệp tư  nhân, doanh nghiệp nước ngoài, công   nhân không bị giới chủ bóc lột quá đáng. Đối với nông dân, cần thực hiện đồng  bộ  chính sách tam nông của Đảng gắn liền với công nghiệp hóa, hiện đại hóa   nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Đối với trí thức, sự quan tâm đến điều kiện   và đời sống vật chất là cần thiết, nhưng nhiều khi, sự động viên kịp thời, đánh   giá và phát huy được năng lực thật sự  của họ  lại có tác dụng gấp nhiều lần.   Các tổ  chức Mặt trận,  đoàn thể  nhân dân cần đổi mới nhiều về  nội dung,  phương thức hoạt động. Sự  gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong hệ  thống  chính trị có ảnh hưởng to lớn đến củng cố đại đoàn kết toàn dân tộc. Ba là, chú trọng giáo dục, đào tạo, hoàn thiện con người Việt Nam trong  thời đại mới, bởi con người là thành tố, là cái gốc vững bền của dân tộc và đất  nước. Mỗi người, mỗi công dân cần phải nêu cao niềm tự hào, tự tôn dân tộc,  bồi đắp tinh thần yêu nước, sống và làm việc có trách nhiệm đối với đất nước,   vì sự  hùng cường, vững bền của Tổ  quốc. Không ngừng nâng cao học vấn,  kiến thức, kỹ  năng nghề  nghiệp, thể  chất và đạo đức. Thực hiện có hiệu quả  Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, hiện thân   của khối đoàn kết toàn dân, Người luôn chăm lo chiến lược con người, nâng  cao đạo đức, con người sống với nhau phải có tình nghĩa, mỗi người vì mọi  người, mọi người vì mỗi người, không tham lam, lười biếng, ỷ lại. Câu 3: Phân tích quan điểm phát triển nhanh và bền vững nêu trong chiến   lược phát triển kinh tế xã hội 2011­2020? Trả lời:
  8. Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện từ những năm đầu thập kỷ 80  thế kỷ 20, được phổ biến rộng rãi vào năm 1987, với hàm ý tổng quát là sự phát   triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho   việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau . Đây là quá trình phải bảo đảm có  sự  kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự  phát triển: phát triển  kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Trong hai thập kỷ  qua, trên bình diện quốc tế, vấn đề  phát triển bền   vững ngày càng được đặc biệt quan tâm, trở thành yêu cầu phát triển của toàn   cầu. Đã có không ít hội nghị  thượng đỉnh thảo luận về  chủ  đề  này và đưa ra   nhiều văn kiện, quyết sách quan trọng.  Ở  nước ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức   rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng. Ngay từ Đại  hội III năm 1960 và Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đã đặt mục tiêu  “tiến nhanh,   tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội VII thông qua Chiến  lược Phát triển kinh tế ­ xã hội 1991 – 2000, nhấn mạnh  “Tăng trưởng kinh tế   phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi   trường”. Đại hội VIII nêu bài học “Tăng trưởng kinh tế  gắn liền với tiến bộ   và công bằng xã hội, giữ  gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ  môi trường   sinh thái”. Chiến lược Phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 thông qua tại Đại  hội IX khẳng định “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh   tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ  môi trường”. Đại  hội X nêu bài học về  phát triển nhanh và bền vững, trong đó ngoài các nội  dung phát triển kinh tế, xã hội, môi trường còn bổ sung yêu cầu phát triển toàn   diện con người, thực hiện dân chủ và xác định mục tiêu tổng quát của Kế  hoạch 5 năm 2006 ­ 2010 là “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ  nhanh,   chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”. Như vậy, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Đảng và   Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở  thành một chủ  trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của   đất nước trong nhiều thập kỷ  qua. Nhà nước ta cũng đã có những cam kết  mạnh mẽ về phát triển bền vững. Từ thực tiễn nêu trên, Chiến lược Phát triển kinh tế ­ xã hội 2011 ­ 2020  nêu bài học “Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự   phát triển… giải quyết hài hòa mối quan hệ  giữa tốc độ  và chất lượng tăng   trưởng” và xác định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát   triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”, với các nội dung chủ  yếu là “Phải phát triển bền vững về  kinh tế, giữ  vững  ổn định kinh tế  vĩ   mô,   bảo   đảm   an   ninh   kinh   tế.  Đẩy   mạnh  chuyển  dịch   cơ   cấu   kinh   tế,   chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức   cạnh tranh là  ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát   triển kinh tế  tri thức. Tăng trưởng kinh tế  phải kết hợp hài hoà với thực  
  9. hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc   sống của nhân dân. Phát triển kinh tế ­ xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ   và cải thiện môi trường. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu   phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết; phát triển bền vững là   cơ  sở  để  phát triển nhanh, phát triển nhanh để  tạo nguồn lực cho phát   triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau   trong   quy   hoạch,   kế   hoạch   và   chính   sách   phát   triển   kinh   tế   ­   xã   hội. Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị ­ xã hội, tăng cường   quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và   toàn   vẹn   lãnh   thổ   để   bảo   đảm   cho   đất   nước   phát   triển   nhanh   và   bền   vững.” Để  hiện thực hoá quan điểm phát triển nhanh và bền vững, phải thực   hiện đồng bộ các định hướng phát triển đã nêu trong dự thảo Chiến lược, trong   đó cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau: Một là, bằng các giải pháp và sức mạnh tổng hợp, kiên quyết giữ  vững   độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và   trật tự an toàn xã hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường   hoà bình và điều kiện thuận lợi cho sự  phát triển đất nước.  Đây là điều kiện  tiên quyết nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững và cũng là một lợi thế của   đất nước ta.  Hai là, bảo đảm  ổn định kinh tế  vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh   tế; giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sự hoạt động an toàn,   hiệu quả của các định chế tài chính. Thế  hệ  chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc khủng hoảng lương   thực, khủng hoảng năng lượng, mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính và suy  thoái kinh tế  toàn cầu xẩy ra trong các năm 2007 ­ 2009 và cuộc khủng hoảng   nợ công ở một số nước hiện nay. Những cuộc khủng hoảng này là hậu quả của  sự  phát triển không bền vững, gây mất  ổn định toàn cầu và tác động đến tăng  trưởng của hầu hết các quốc gia, kinh tế  thế  giới suy giảm, thất nghiệp gia   tăng, xung đột xã hội lan rộng... Ở  nước ta, cùng với những bất cập, yếu kém trong quản lý vĩ mô, cuộc   khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến sự  phát triển của đất nước, lạm phát tăng cao, tốc độ  tăng trưởng suy giảm, đời  sống  nhân  dân gặp  khó  khăn.  Kinh nghiệm  quốc  tế   cũng như   của nước  ta   những năm qua cho thấy giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an  ninh tài chính, kiểm soát được lạm phát,  ổn định kinh tế  vĩ mô, bảo đảm các   cân đối lớn vừa là tiền đề  để  tăng trưởng nhanh vừa là nội dung của tăng  trưởng bền vững, trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất trong quản lý kinh tế của   bất cứ quốc gia nào.
  10. Ba là, huy động và sử  dụng có hiệu quả  các nguồn lực để  bảo đảm đạt   tốc độ tăng trưởng cao đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng. Bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao,  ổn định và không ngừng nâng cao chất  lượng tăng trưởng là yếu tố quyết định nhất để phát triển nhanh và bền vững.   Có đạt được tốc độ  tăng trưởng cao, đất nước mới phát triển nhanh, rút ngắn   khoảng cách với các nước, mới tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực  xã hội, phát triển con người, đầu tư phát triển những khu vực khó khăn, thu hẹp  khoảng cách phát triển giữa các vùng trong nước, mở  rộng hệ  thống   phúc lợi  và an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Với ưu thế về nguồn  lực con người, chính trị xã hội ổn định, vị trí địa ­ kinh tế thuận lợi, lại là nước   đi sau, chúng ta có điều kiện để  phát triển nhanh. Mặt khác, có nâng cao chất  lượng tăng trưởng mới tăng được hiệu suất sử dụng vốn và sức cạnh tranh của   nền kinh tế, mới mở rộng được thị  trường tiêu thụ  trong điều kiện cạnh tranh   ngày càng gay gắt. Trên cơ sở đó, tạo ra giá trị  gia tăng lớn cho đất nước, tăng  khả  năng tích luỹ  từ  nội bộ  nền kinh tế, bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng   cao và ổn định trong dài hạn. Yêu cầu cấp bách trong thời kỳ  chiến lược tới là thực hiện tái cấu trúc  nền kinh tế trên cả ba nội dung chính:  tái cấu trúc các ngành sản xuất, dịch vụ  gắn với các vùng kinh tế, phát triển công nghiệp hỗ  trợ. Phải chuyển đổi mô   hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào sự gia tăng vốn đầu tư và   nguồn nhân lực chất lượng thấp hiện nay sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng   theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ  sở  áp dụng các tiến bộ  về  khoa học, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ  năng quản lý hiện  đại. Trong mười năm tới, nhất là trong những năm đầu của thời kỳ chiến lược,   chúng ta chưa thể từ bỏ hoàn toàn mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Vì, để  tăng trưởng theo chiều sâu phải sử dụng công nghệ  hiện đại và phải có nguồn  nhân lực chất lượng cao. Đây là quá trình tích luỹ vốn và phát triển nguồn nhân  lực trong từng doanh nghiệp và cả  nền kinh tế. Hơn nữa, phát triển bền vững   phải gắn với yêu cầu giải quyết việc làm và toàn dụng lao động trong khi  nguồn lao động thiếu việc làm còn nhiều, nhất là  ở  khu vực nông thôn. Tuy   nhiên, phải hành động khẩn trương, kiên quyết tạo lập đồng bộ các tiền đề để  chuyển mạnh sang tăng trưởng theo chiều sâu ngay trong những năm đầu của   thời kỳ  chiến lược, trước hết là  ở  những lĩnh vực khoa học, công nghệ  phát   triển nhanh và nước ta có điều kiện. Đây là con đường cơ  bản nhằm nâng cao   chất lượng tăng trưởng;   tái cấu trúc các doanh nghiệp, xây dựng lực lượng  doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, hiệu quả  và có sức   cạnh tranh cao; điều chỉnh chiến lược thị trường, coi trọng hơn thị trường trong   nước   đi   đôi   với   việc   tiếp   tục   đa   dạng   hoá,   mở   rộng   thị   trường   nước   ngoài. Thực hiện tốt các nội dung trên đây, chẳng những nâng cao được chất   lượng tăng trưởng, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, hạn chế được các   tác động tiêu cực trước những biến động từ  bên ngoài, bảo đảm cho đất nước  phát triển bền vững mà còn tham gia có hiệu quả  vào mạng sản xuất và chuỗi  
  11. giá trị  toàn cầu, một xu thế  phát triển trong nền kinh tế  toàn cầu hoá và hội  nhập quốc tế. Cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính,  cần phát huy có hiệu quả chức năng kiến tạo phát triển của nhà nước, nhất là  trong thời kỳ  đầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, thể  hiện trong việc đề  ra chính  sách cơ cấu và định hướng phát triển vùng đúng đắn. Bốn là, phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh   tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực   hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, yếu tố làm nên giá trị ổn định,  lâu bền của một quốc gia, hình thành bản sắc riêng có của một dân tộc. Văn hoá  làm nên nguồn lực xã hội to lớn, thấm sâu vào quá trình phát triển. Sự phát triển  của một thời đại ở  bất kỳ quốc gia nào đều có dấu ấn khai sáng của văn hoá.   Trên nền tảng văn hoá, con người không chỉ  giải quyết mối quan hệ với đồng  loại,  ứng xử  với môi trường thiên nhiên trong đời sống hiện tại mà còn giải  quyết mối quan hệ  với các thế  hệ  tương lai trong quá trình phát triển. Với ý  nghĩa này, văn hoá không chỉ là kết quả của phát triển nhanh, bền vững mà còn  là yếu tố  tạo nên sự  phát triển nhanh, bền vững. Phải đặt yêu cầu phát triển   văn hóa ngang tầm và hài hòa với phát triển kinh tế. Tập trung xây dựng đời   sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh. Phát triển toàn diện, đồng bộ  các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị  tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp  thu những tinh hoa văn hoá nhân loại để văn hoá thực sự  là nền tảng tinh thần  của xã hội, là một động lực phát triển. Thực hiện tiến bộ  và công bằng xã hội là nội dung rất quan trọng của  phát triển bền vững. Đây còn là tiêu chí thể  hiện bản chất của chế  độ  ta. Sự  bất bình đẳng và phân hoá giàu nghèo  ở  mức cao tạo nên xung đột xã hội  ở  không ít các quốc gia trên thế giới, làm suy giảm tăng trưởng. Vì vậy, Đảng ta  chủ  trương phải thực hiện tiến bộ  và công bằng xã hội ngay trong từng bước   và từng chính sách phát triển. Chúng ta sẽ tập trung hơn cho công cuộc xóa đói  giảm nghèo, đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để  thực hiện giảm  nghèo bền vững. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, đồng thời hạn chế  phân hoá giàu nghèo, chủ yếu thông qua chính sách điều tiết thu nhập, phát triển   hệ thống phúc lợi xã hội và an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu   quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ  chế  phân phối trong các doanh nghiệp, chính sách   tiền lương, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh   tế ­ xã hội. Tập trung sức phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo đại học và  dạy nghề để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cơ cấu hợp lý nhằm đẩy nhanh  quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Phát triển 
  12. mạnh sự  nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ  nhân  dân. Tập trung chỉ đạo kiên quyết, đồng bộ và huy động sức mạnh của cả hệ  thống chính trị  để  bảo đảm đạt được những chuyển biến rõ rệt, vững chắc  trong công tác phòng chống tham nhũng, tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông. Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ  rộng   rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở. Thực hiện dân chủ  là một thành tố của phát triển bền vững, được Đảng  ta nêu rõ tại Đại hội Đảng lần thứ X, nhằm hoàn thiện, làm phong phú thêm nội   dung phát triển bền vững. Điều này xuất phát từ luận điểm rất quan trọng:  con  người vừa là mục tiêu vừa là chủ  thể  của phát triển. Nguồn lực con người là  lợi thế cạnh tranh dài hạn, là yếu tố quyết định sự phát triển của một quốc gia.   Thực hành dân chủ  rộng rãi sẽ  phát huy khả  năng sáng tạo của mỗi cá nhân,  đóng góp vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Dân chủ càng cao   thì đồng thuận xã hội càng sâu, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc  càng được củng cố vững chắc. Để  phát huy dân chủ, làm cho dân chủ  trở  thành nguồn lực phát triển,  phải bảo đảm hai điều kiện: tạo cơ hội cho mọi người được học tập, xây dựng   xã hội học tập nhằm nâng cao dân trí; thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân   thông qua các thiết chế  bảo đảm dân chủ  trong mọi mặt của đời sống xã hội,   mở rộng dân chủ trực tiếp. Dân chủ phải gắn với kỷ luật, kỷ cương. Có thể nói nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường đi liền với bảo đảm  phúc lợi ­ an sinh xã hội và dân chủ  xã hội chủ  nghĩa là 3 trụ  cột chính trong  tiến trình phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, dân  chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực. Cả 3 trụ cột này phải mạnh và có sự phát  triển tương thích, đồng bộ. Một trụ cột yếu sẽ cản trở sự vận động của các trụ  cột khác và ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Sáu là, tăng trưởng kinh tế  phải gắn chặt với bảo vệ  và cải thiện môi   trường. Bảo vệ  và cải thiện môi trường là một nội dung quan trọng của  phát   triển bền vững. Môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên bị cạn kiệt, rừng bị tàn phá,   đất bị xói mòn và tình trạng sa mạc hoá, biến đổi khí hậu, nguy cơ  nước biển   dâng… làm thu hẹp không gian sinh tồn của con người chẳng những tác động  tiêu cực đến cuộc sống hiện tại mà còn đe doạ  sự  phát triển của các thế  hệ  tương lai. Đối với nước ta, tình trạng ô nhiễm môi trường và những nguy cơ  do   biến đổi khí hậu và nước biển dâng là những thách thức to lớn. Vì vậy, phát 
  13. triển kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường; chủ động đối   phó với hiểm họa nước biển dâng; sử  dụng công nghệ  tiết kiệm nguyên liệu,   năng lượng, phát triển kinh tế xanh là nội dung có tác động mạnh nhất đến phát  triển bền vững, phải được thể hiện trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế ­   xã hội của cả nước cũng như trong từng lĩnh vực, ở từng địa phương, đơn vị. Thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế ­ xã hội nhanh và bền vững   đòi  hỏi phải tạo được sự chuyển biến có tính cách mạng, thấu suốt về nhận thức,   đổi mới mạnh mẽ  về  tư  duy, quán triệt trong mọi chính sách, quy hoạch, kế  hoạch, dự án và chương trình hành động; tổ chức thực hiện quyết liệt  ở tất cả  các ngành, các cấp với sự  đồng thuận tham gia của cả  hệ  thống chính trị, của   cộng đồng doanh nghiệp và mọi người dân trong cả nước. Chúng ta tin tưởng  vững chắc rằng, dưới  sự  lãnh  đạo  đúng  đắn của  Đảng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với sự điều hành  có hiệu quả  của Nhà nước, sự  phấn đấu nỗ  lực của toàn dân, toàn quân, nhất  định đất nước ta sẽ bước vào một thời kỳ mới phát triển nhanh và bền vững./. Câu 4: Phân tích vị trí, vai trò của người đảng viên ĐCSVN..... 1. Người đảng viên có vị trí, vai trò sau đây: a) Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai   cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. →  Đảng CSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân nên từng đảng  viên phải là chiến sỹ  tiên phong vì lợi ích giai cấp. Sức mạnh, năng lực lãnh  đạo của Đảng được tạo thành từ từng đảng viên. → Đảng CSVN đồng thời là đội quân tiên phong của nhân dân lao động và   của dân tộc, vì vậy đảng viên là người tiên tiến trong nhân dân và của dân tộc.   Mỗi ĐV luôn phấn đấu vì lợi ích giai cấp và dân tộc. → Đảng CSVN là đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao  động và dân tộc nên mỗi đảng viên đều đặt lợi ích giai cấp dân tộc lên trên, lên   trước.  Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng ta được toàn dân thừa nhận là đội quân tiên   phong lãnh đạo, nên mỗi ĐV phải là người tiên phong gương mẫu trước quần   chúng. b) ĐV có trách nhiệm góp phần xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối,   chủ trương, chính sách của Đảng. → Đảng lãnh đạo bằng đường lối, công tác cán bộ và sự gương mẫu của đảng  viên
  14. → Đường lối đúng là nhân tố quyết định thắng lợi. Mỗi đảng viên phải có trách nhiệm trong việc xây dựng đường lối, NQ của   Đảng. →  Đảng viên phải nêu cao vai trò tiên phong trong việc chấp hành chủ  trương,   chính sách, pháp luật cho quần chúng noi theo. c) Đảng viên dù  ở  cương vị  nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là   người phục vụ quần chúng. →  Đảng viên là người lãnh đạo: vì đảng viên là người có giác ngộ  lý   tưởng, đem tư tưởng, đường lối của Đảng để tuyên truyền cho quần chúng, lôi  cuốn   họ   thực   hiện. →  Đảng viên là người đầy tớ  của nhân dân: vì vậy đảng viên suốt đời phải  phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải   phóng con người, vì hạnh phúc của nhân dân. → Đảng viên vừa là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân: thì   đảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ  nhận thức, phẩm chất chính trị,  đạo đức; không chạy theo quần chúng, phải đứng vững trên lập trường, quan   điểm của Đảng để lãnh đạo, giáo dục, tổ chức cho quần chúng hành động. d) Đảng viên là người kiên định bảo vệ  Đảng, bảo vệ  đường lối, chủ  trương   của Đảng. →  Trước hết là phải cương quyết đấu tranh chống các thế  lực thù địch   “Diễn biến hoà bình”. →  Để  chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế  lực thù địch cần   phải: + Giữ  vững và tăng cường vị  trí lãnh đạo của Đảng đây là yếu tố  quyết định   thắng   lợi. + Đòi hỏi khách quan thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH­HĐH đất nước  theo định hướng XHCN. + Đảng viên phải có trách nhiệm bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương   của Đảng. + Đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo thủ. + Làm cho Đảng ta luôn vững vàng kiên định có sức chiến đấu cao ngang tầm  với yêu cầu của thời đại mới.
  15. 2. Nhiệm vụ của người Đảng viên. Tại Điều 2, Điều lệ  ĐCSVN được thông qua ngày 19/01/2011 tại Đại hội XI  xác định nhiệm vụ của người đảng viên gồm 4 nhiệm vụ: (1) Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp  hành nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị, Điều lệ  Đảng, Nghị  quyết, chỉ  thị  của  Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng  tuyệt đối sự phân công và điều động của đảng. (2) Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực của  công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu  tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí,   và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung  ương về những điều đảng viên không được làm.  (3) Liên hệ  chặt chẽ  với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ  của  nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng  của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác XH nơi làm việc  và nơi  ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối,  chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. (4) Tham gia xây dựng, bảo vệ  đường lối, chính sách và tổ  chức của Đảng;   phục tùng kỷ  luật, giữ  gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự  phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm tốt công tác phát triển đảng   viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định. 3. Nội dung phấn đấu và rèn luyện của bản thân (Tự liên hệ phần thực tế   của cá nhân) Gồm có 2 nội dung: 1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng. 2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người   đảng viên cộng sản. * 1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ  Đảng. Tiêu chuẩn đảng viên:   ­ Là những chuẩn mực quy định chất lượng của người đảng viên. ­ Là tiêu chí để phân biệt đảng viên với quần chúng. ­ Là cơ sở để đánh giá chất lượng đảng viên ­ Là căn cứ để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên.
  16. →  Đảng viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để  rèn luyện, phấn đấu. Tiêu chuẩn đảng viên được ghi trong Chương 1, Điều 1 điều lệ ĐCSVN: Đại hội   XI thông qua ngày 19/01/2011. Tiêu chuẩn: “Đảng viên ĐCSVN là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong   của gccn, nhân dân lao động và dân tộc VN, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý  tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của gccn và nhân dân lao động lên trên   lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ  Đảng, các   nghị  quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt   nhiệm vụ  được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với   nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong  Đảng”. Những tiêu chuẩn đảng viên trên được thể hiện qua các điểm sau: 1. về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị 2. Về nhận thức, kiến thức, năng lực thực hiện nhiệm vụ. 3. Về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách  4. Có ý thức tổ chức kỹ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên  cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường   xuyên tự phê bình và phê bình. 5. Có quan hệ mật thiết với quần chúng 6. Kết hợp chủ  nghĩa yêu nước và chủ  nghĩa quốc tế  của giai cấp công  nhân. Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng, kiên định lập trường   cách mạng, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng; vững vàng, không dao động  trước khó khăn, thử thách. Mục tiêu phấn đấu, nhiệm vụ  của người đảng viên hiện nay là phấn đấu  thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH­HĐH đất nước, sớm đưa  nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc   XHCN. => Đây là thước đo phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong gương mẫu của người  đảng viên.  Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh lòng nhiệt tình và dũng cảm đảng viên cần phải không ngừng học   tập, nâng cao trình độ, năng lực. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay, đòi   hỏi đảng viên phải có kiến thức văn hóa, chuyên môn, có trình độ lý luận, năng lực   làm việc để nắm bắt thời cơ và vượt qua thách thức.  Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách  Phải có lòng yêu nước, tôn trọng và phục vụ nhân dân, tích cực đi đầu trong   tham gia thực hiện công cuộc đổi mới, thống nhất giữa lời nói và việc làm. Bên  cạnh đó phải dũng cảm đấu tranh, phê phán những biểu hiện cá nhân chủ  nghĩa,  cơ hội, tham nhũng, lãng phí.
  17. Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng   trên cơ  sở  thực hiện đúng các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ,  thường xuyên tự phê bình và phê bình. ­ Đoàn kết thống nhất là truyền thống quý báo của Đảng và đảng viên phải   giữ gìn vun đắp sự đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Đồng thời đấu  tranh với các biểu hiện tiêu cực trong Đảng, không xuê xoa, né tránh.   ­ Đảng có mạnh là do tất cả  đảng viên có tính thống nhất: thống nhất về  quan điểm, về ý trí và về hành động, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. ­ Đảng viên tích cực tham gia thảo luận đường lối chủ  trương của Đảng,  chất vấn tranh luận và lắng nghe ý kiến người khác, chấp hành nghiêm chỉnh  quyết định của tập thể, của Đảng.  Năm là, có quan hệ mật thiết với quần chúng ­ Đảng ta xác định “Lấy nhân dân làm góc” và Đảng giữ  mối liên hệ  chặt   chẽ với nhân dân và phát huy dân chủ, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực   của công cuộc đổi mới. Vì vậy, đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải tôn trọng và phát huy quyền   làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư  nguyện vọng của nhân dân, giúp đở  dân   khi gặp khó khăn. Kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng,  độc   đoán, đặc quyền, đặc lợi, trù dập ức hiếp dân và mọi hành vi vi phạm quyền làm  chủ   của   nhân   dân. Muốn gắn bó được với quần chúng nhân dân thì ngoài tiêu chuẩn của nhân cách   đảng viên thì phải thể hiện được năng lực hoạt động chính trị, thực tiễn, phương   pháp và phong cách làm việc của đảng viên. => Đây là một vấn đề  hết sức quan trọng, quyết định sự  tín nhiệm của nhân dân   đối với đảng viên. Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công  nhân.  Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa   yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.   Ngày nay bước vào giai đoạn mới, vấn đề  đoàn kết quốc tế  của nước ta   mang nội dung mới. Đó là, kết hợp chặt chẽ  giữa chủ  nghĩa yêu nước với chủ  nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn   lực bên trong và bên ngoài. Trên đây là 06 nội dung phấn đấu của bản thân. Còn về  phần liên hệ  bản thân   đồng chí tự liên hệ.  câu 2:  một số nội dung quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nội dung,   giải pháp! 1. Một số nội dung, quan điểm:
  18. Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân   với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hai là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà  hạt nhân lãnh đạo là các tổ  chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp,  hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà   nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.. Ba là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúng vị trí của   yếu tố  lợi ích, theo quan điểm được xác định từ  Nghị  quyết Trung  ương   8B khoá VI là: "Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp  ứng lợi  ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất   quyền lợi và nghĩa vụ công dân". Bốn là, thực hiện dân chủ  và phát huy chủ  nghĩa yêu nước là những yếu  tố  quan trọng để  củng cố  và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.  Chủ  nghĩa yêu nước luôn luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong  quá trình lịch sử. Dân chủ vùa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. 2.   NỘI   DUNG   VÀ   GIẢI   PHÁP   PHÁT   HUY   SỨC   MẠNH   TOÀN   DÂN  TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY theo tinh thần ĐH XI của Đảng, các chính sách của Nhà nước hiện  hành đã xác định nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc hiện   nay là: ­ Lấy mục tiêu giữ  vững độc lập, thống nhất của Tổ  quốc, vì dân  giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương  đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân  ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. ­ Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân  tộc. ­ Đề  cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần  cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội. ­  Đại  đoàn kết  là sự  nghiệp của cả  hệ  thống chính trị  bao gồm   Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, trong đó  vai trò hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng. ­ Nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn  dân tộc bằng việc thể  chế  hoá đường lối, chủ  trương của Đảng thành  chính sách, pháp luật; tổ  chức thực hiện các chính sách, pháp luật một  cách có hiệu quả, thông qua bộ máy công quyền trong sạch, công tâm, hết  lòng phục vụ nhân dân.
  19. ­ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò   đại diện cho lợi ích chung và lợi ích từng giai cấp, từng giới quần chúng,  đồng thời là cầu nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. ­ Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng  dân cư ở cơ sở như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị... ­ Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn trước mắt  cần: + Thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm   phát huy dân chủ. + Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu  nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế với văn hóa­xã hội. + Chăm lo và bảo vệ  lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm  công bằng xã hội. + Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những   người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2