1
BÀI TIỂU LUẬN
Trình bày các năng lực sư phạm và vai trò của
chúng đối với người giáo viên kỹ thuật.
2
Phn I : TÂM SƯ PHM
Trình y các năng lực phạm và vai trò của chúng đối với người giáo
viên kỹ thuật.
i làm
Hoạt động của giáo viên biu hiện ở tất cả c hình thc khác nhau của công
tác sư phm nhưng nhìn chung hai dng đặc trưng: ng tác dạy học và công c
giáo dc. Tuy nhiên, sphân chia này cũng chỉ là tương đối vì khi tiến hành ng
tác dạy học thì cũng đã đạt mục đích giáo dục. Ngược lại, muốn giáo dục thì cũng
phải dựa trên cơ sdạy học. Vlại dạy học hay giáo dục thực chất cũng là tạo ra
nhng sở trọng yếu, cơ bản để “xây cất” nhân cách cho thế hệ trẻ.
Hiện nay việc xem xét cấu trúc của năng lực sư phạm cũng có nhiều cách
khác nhau. Chẳng hạn, tác giả sắp xếp các ng lực phạm dựa vào các năng
lực sư phạm giữ vai trò chđạo, nhóm các năng lc sư phạm giữ vai trò h trợ,
nhóm các năng lực phạm givai trò điểm tựa.
Cách phân chia trên mt mt hợp và mặt ca hợp lý. Cách phân chia
này giúp ta thấy mức độ ý nghĩa và hiu quả khác nhau của ng lc trong hoạt
động phạm. Nng cách m đó cũng bộc lộ một nhược điểm lớn là việc sắp
xếp ng lực này hay năng lực kia vào nhóm năng lc giữ vai trò chđạo hau hỗ
trợ hoặc điểm tựa thiếu cơ sthuyết phục lớn.
n mt cách khác, tuy “chiết trung”, nhưng trong đó có hạt nhân hợp
của . Đó ch nêu ra mt số các ng lực đin hình của hoạt động phạm.
nôbôlin cho rằng, việc đưa ra những ng lực trong các ng lực phạm
không phi xếp theo thứ tự quan trọng khác nhau. Trong số những năng lc đó,
nhng ng lc “đặc hiệu” cho hoạt động này ( chng hạn ng lực cảm h hc
sinh cần cho ng tác giáo dục, hoặc ng lực truyền đạt tài liệu thì lại đặc trưng
cho ng c dạy học), nhưng cũng ng lc “đặc hiệu” cho cả hai hoạt đng
dạy học và giáo dục. Hơn nữa, trong số những ng lực đó, năng lc được sử
dụng hiệu qunhững giáo viên khác nhau trong ng một loại hoạt động do
nhng đc điểm nhân khác nhau. Chẳng hạn, cả hai giáo viên đều thành công
3
trong ng c dy học và giáo dục nhưng người thì chyếu do truyền đạt tri thức,
nhưng có người thì li nhờ tài khéo léo đối x phạm, cũng người tất cả
các năng lực nhưng chlà mt giáo viện trung bình, nếu họ không những
phẩm chất nhân cách chung. Những phẩm chất này, thkhông gọi là năng lực
sư phạm được, (chẳng hạn niềm tin sâu sắc vào sức mạch của giáo dục, tính mục
đích, tính nguyên tắc...) nhưng thiếu thì cũng không thể trở thành mt giáo viên
i.
Cũng có tác giả dựa vào chứcng đc trưng của người giáo viên là dạy hc
giáo dục để xác định cấu trúc của ng lực phạm. Đthực hiện hiệu quả
các chức ng đặc trưng đó phải mt hệ thống các ng lực tương ng, do đó
tạo thành các nhóm năng lực tổ chức các hoạt động phạm.
Tuy nhiên, cách chia này cũng một nhược điểm khác là không hẳn một
năng lc cụ thể nào đó bộ phận cấu hình ca nhóm năng lực này chkhông phải
của nhóm ng lực kia. Chẳng hạn, năng lực hiểu học sinh chẳng những cần
trong nhóm năng lực dy học mà c trong nhóm ng lực giáo dục cũng không thể
thiếu sự có mặt của nó
Yêu cầu đối với người giáo viên dy nghề:
- Phẩm chất:
+ giác ngxã hội chủ nghĩa, có lý tưởng nghề nghiệp, lập trường của
giai cấpng nhân.
+ Nắm vững quan đim, đường lối giáo dục của đảng.
+ động , thái độ đúng đn đối với nghề, đạo đức, lương tâm ngh
nghip trong sáng.
+ Có bản lĩnh vững vàng và có nghthuật lao động phạm.
- Vng lực:
+ Có trình độ n hoá cao, khoa học kỹ thuật và tay nhgii.
+ Có năng lực hiểu học sinh, truyền dạt và tổ chức quá trình giáo dục.
+ Có hệ thống kỹ năng, k xảo nghề nghiệp.
sao, t v mặt thực tiễn, cách phân chia này giúp chúng ta thấy những
năng lực cần thiết, bản ng với từng loại hoạt động đặc trưng của người giáo
4
viện. Từ đó, trong đào tạo các trường sư phạm cũng như trong trèn luyện của
giáo sinh, những hiểu biết trên sẽ là nhãng định hướng bổ ích.
Sau đây, ta sxét một số ng lực điển hình trong các năng lực phạm:
Năng lc hiểu học sinh; ng lực tự học, tự bồi dưỡng; ng lực thiết kế bài giảng;
năng lực dạy học; ng lc ngôn ngữ; ng lực lời nói; ng lực giao tiếp; ng
lực kéo léo ứng xử phạm; năng lực tổ chức.
Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dy học và giáo dục
Dạy học là mt qtrình thun nghịch, thống nhất của hai loại hoạt động
dạy và hc do hai thực th(thầy trò) đảm nhiệm. Trong q trình đó, chức ng
của giáo viên t chức và điều khiển hoạt động hc sinh, chức ng của học sinh
chiếm lĩnh nền n hoá hội. Dạy học chỉ hiệu quả cao khi quá trình đó thực
slà qtrình điu khiển được. Kết quả của sđiều khiển một phần tuỳ thuộc vào
“tần số” trao đổi thông tin giữa người dạy và người học, nói ch khác, thầy càng
hiểu trò, hiểu kịp thời bao nhiêu thì càng có căn cđể tổ chức và điều khiển q
trình dy học và giáo dục của mình by nhiêu. Vì vy, năng lc hiểu học sinh trong
quá trình dạy học và giáo dục được xem là chỉ số bản củang lực sư phạm.
Đó năng lực “thâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết
tường tận về nhân ch của chúng, cũng như năng lực quan sát tinh tế những biểu
hiện tâm của học sinh trong qtrình dạy học và giáo dục.
Mt giáo viên năng lực hiểu học sinh khi chuẩn bbài giảng đã biết tính
đến trình độ văn hoá, trình đ phát triển của chúng, hình dung được từng em cái gì
cũng biết, biết đến đâu, cái thquên hoặc khó hiểu. Về vấn đnày, những
giáo viên ít kinh nghiệm, vì không biết đánh gđúng trình độ học sinh, nên đối
với họ tài liệu nào cũng dường như đơn giản, dhiểu và không đòi hi một thủ
thuật trình y đc biệt nào. ràng là đi với họ tất cả học sinh đều như nhau. S
phân biệt của họ chăng chhai loại: cố gắng hoặc lười biếng, học khá hoc
hm. Do đó, trong khi chế biến và trình bày tài liệu, họ đã hướng về mình ch
không phải ớng về học sinh. Trái lại, người giáo viên có kinh nghiệm, khi chế
biến và trình bày tài liu lại biết đặt mình vào địa vngười học. Do đó, h đặc biệt
5
suy nghĩ vđặc điểm của nội dung, xác định khối lượng, mc độ khó khăn hình
thc trình bày sao cho thuận lợi nhất đối với học sinh.
Vì vy biểu hiện trước hết của năng lc học sinh là chỗ, giáo viên biết xác
định khi ợng kiến thức đã có mc độ, phạm vi lĩnh hội của học sinnh và t
đó xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày trong công tác dạy
học hay giáo dục.
Người giáo viên năng lực hiểu học sinh, trong qtrình giảng dạy của
mình, căn cức vào mt loại du hiệu do quan sát tinh tế thể y dựng những
biểu tượng chính xác vnhững lời giảng dạy của mình đã được những học sinh
khác nhau lĩnh hội n thế nào? Nhiều quan sát tâm lý cho thấy rằng khả năng hiểu
học sinh trong qtrình dạy học của người thầy giáo được thhiện trên hai mc
độ: mức độ thấp, giáo viên thnhận biết được học sinh hiểu bài mới ra sao
bằng cách đra câu hỏi, ra bài tập và hc sinh làm trlời, mức đ cao n,
giao viên năng lực, ngay trong qtrình dạy học, tự họ như đã nắm được phần
nào din biến của sự lĩnh hi chúng và hầu như đã đọc” được cái gì đã diễn ra
và din ra như thế nào trong óc h. Quan sát những giáo viên giảng giỏi ta thấy, họ
theo dõi học sinh hiểu bài như thế nào không phi chỉ qua câu trả lời mà chính qua
thắc mắc của học sinh hoặc n cvào những dấu hiệu dường như không đáng k
(mt sự ngập ngừng trong câu tr lời, một từ, một câu bđập xoá trong bài làm,
một ánh mắt, một nụ cười hay một tiếng xì xào của lớp...) mà thhiểu được
nhng biến đổi nhỏ nhất trong tâm hn học sinh, dự đoán được mức độ hiểu bài
khi còn phát hiện được cả mức độ hiểu sai lch của chúng.
Người giáo viên năng lc hiểu học sinh còn thhiện chỗ d đoán
được thuận lợi và khó khăn, c định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi
thc hiện các nhiệm vụ nhận thức.
Năng lc hiểu học sinh là kết quả của mt q trình lao động đầy trách
nhiệm, thương yêu và sâu sát học sinh, nắm vững n mình dạy, am hiểu đy đủ
vtâm học trẻ em, tâm học phm cùng với một số phẩm chất tâm cần
thiết như s“tinh ý” phạm (quan sát), óc tưởng tượng, khả ng phân tích
tng hợp...