ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ HUYỀN TRANG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS CHU HỒNG THANH

HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố

trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn

trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các

nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc

gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Huyền Trang

MỤC LỤC

Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ

EM KHUYẾT TẬT ............................................................................ 9

1.1. Trẻ em khuyết tật ............................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm trẻ em .................................................................................. 9

1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật ............................................................... 11

1.1.3. Ảnh hưởng của tình trạng khuyết tật đến hoạt động của trẻ .............. 17

1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ ............................... 18

1.1.5. Phân loại trẻ em khuyết tật ................................................................. 20

1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật và Bảo đảm quyền của trẻ em

khuyết tật........................................................................................... 22

1.2.1. Khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật ............................................. 22

1.2.2. Khái niệm Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật .............................. 27

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 29

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM

KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................... 30

2.1. Tình trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay ...................... 30

2.2. Thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh

vực xây dựng pháp luật ................................................................... 31

2.2.1. Thành tựu ........................................................................................... 32

2.2.2. Hạn chế ............................................................................................... 34

2.3. Thực trạng Bảo đảm một số quyền của trẻ em khuyết tật ........... 37

2.3.1. Quyền được giáo dục ......................................................................... 38

2.3.2. Quyền được hưởng bảo trợ xã hội...................................................... 42

2.3.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe ......................................................... 46

2.3.4. Quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí ............... 50

2.3.5. Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng ..................... 53

2.4. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong cộng đồng ... 57

2.4.1. Thành tựu .......................................................................................... 57

2.4.2. Hạn chế .............................................................................................. 60

Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 63

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM

QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT ....................................... 64

3.1. Phƣơng hƣớng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ................. 64

3.1.1. Thể chế hóa quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về trẻ

em khuyết tật ...................................................................................... 64

3.1.2. Khắc phục những hạn chế trong quá trình bảo đảm quyền của trẻ

em khuyết tật ...................................................................................... 65

3.1.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền về trẻ em khuyết tật trong

cộng đồng ........................................................................................... 67

3.1.4. Tích cực, chủ động hợp tác và đối thoại quốc tế ............................... 67

3.2. Giải pháp Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ......................... 69

3.2.1. Về xây dựng pháp luật ....................................................................... 70

3.2.2. Về một số quyền cụ thể ...................................................................... 75

3.2.3. Về phía cộng đồng .............................................................................. 84

3.2.4. Về phía bản thân trẻ khuyết tật .......................................................... 86

Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 89

KẾT LUẬN .................................................................................................... 91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CRC Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the

Rights of the Childs)

CRPD Công ước về quyền của người khuyết tật 2007 (Convention on

the Rights of Persons with Disabilities)

ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966

(International Convenant on Civil and Political Rights)

ICCSCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996

(International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights).

UDHR Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal

Declaration of Human Rights)

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong luật nhân quyền quốc tế, phần nội dung về quyền của các nhóm

xã hội dễ bị tổn thương chiếm vị trí rất quan trọng. Kể từ khi Liên Hợp Quốc

thành lập (1945), nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này

thông qua, trong đó có một số lượng ngày càng lớn văn kiện đề cập đến quyền

của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Đây là các nhóm, cộng đồng có vị thế

về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn

trong việc bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, bởi vậy, họ cần

được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Nhóm

này bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống chung với HIV,

người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không quốc tịch, người thiểu

số, người lao động di trú… Trong đó, người khuyết tật nói chung và trẻ em

khuyết tật nói riêng được coi là một trong các nhóm thiểu số lớn nhất trên thế

giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất.

Quyền của người khuyết tật được pháp luật quốc tế ghi nhận, và ngày

càng được quan tâm đặc biệt. Tháng 11 năm 1989, Công ước về Quyền trẻ em

được thông qua, đây là Công ước đầu tiên về quyền con người mà trong đó có

dẫn chiếu cụ thể đến người khuyết tật, và có một điều riêng biệt về quyền và

nhu cầu của trẻ em khuyết tật (Điều 23). Sau đó, hàng loạt các hướng dẫn, các

quy tắc, các khuyến nghị về vấn đề này được ban hành nhằm thúc đẩy và bảo

vệ hơn nữa quyền của nhóm người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật

nói riêng, quan trọng nhất là Công ước về quyền của những người khuyết tật

được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 03/2007 đã đánh dấu

một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật

trên thế giới.

1

Ở Việt Nam, người khuyết tật được hưởng tất cả các quyền công dân

cơ bản, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa trên tình trạng khuyết tật

của họ. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định những đối xử ưu đãi với

người khuyết tật, nhằm bù đắp những thiệt thòi của họ, cũng như để đảm bảo

sự bình đẳng thực chất về các quyền và cơ hội với mọi công dân. Đặc biệt,

Luật người khuyết tật năm 2010 vừa mới được thông qua, đã góp phần cải

thiện đời sống người khuyết tật, làm thay đổi nhận thức xã hội về người

khuyết tật, tạo môi trường pháp lý, môi trường xã hội thuận lợi để người

khuyết tật hòa nhập cộng đồng, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và

ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật.

Nhưng trên thực tế, xuất phát từ việc bản thân người khuyết tật bị hạn

chế trong việc truyền tải nhu cầu, mong muốn của mình tới cộng đồng, xã hội,

cũng như những cơ quan hoạch định chính sách, pháp luật, nên các quy định

Nhà nước đưa ra thường dựa trên cơ sở suy đoán về mức độ suy giảm sức

khỏe của họ. Những suy đoán đó đa phần chứa đựng yếu tố chủ quan nên

nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu, không phù hợp với khả năng và chưa

thực sự tạo điều kiện cho người khuyết tật. Bên cạnh đó, họ là đối tượng phải

chịu những khó khăn rất lớn về mặt vật chất và tinh thần, đồng thời, tình trạng

khuyết tật khiến họ đã và đang phải chịu những thiệt thòi trên tất cả các

phương diện của đời sống xã hội mặc dù xét ở góc độ con người, tất cả sinh ra

đều có những nhu cầu cơ bản giống nhau về sự tự do, bình đẳng, được tôn

trọng phẩm giá, được cống hiến, được khẳng định giá trị cá nhân…

Đặc biệt, với những trẻ em khuyết tật, thì những khó khăn còn tăng lên

đáng kể. Bởi trước hết, trẻ em nói chung vốn là đối tượng cần sự quan tâm,

chăm sóc, được tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cả về thể chất

lẫn tinh thần. Tuy nhiên, với những trẻ em mang trong mình nhiều thiệt thòi

từ khi sinh ra như: dị tật bẩm sinh; vĩnh viễn không nghe được âm thanh của

2

cuộc sống; không được trò chuyện như các bạn cùng trang lứa; hay không

cảm nhận thấy ánh sáng của cuộc đời… thì việc tiếp cận những gì tốt đẹp nhất

dường như quá xa vời. Phải sống trong sự kì thị, phân biệt đối xử của mọi

người xung quanh, kết hợp với mặc cảm tự ti về bản thân mình, khiến nhiều

trẻ em khuyết tật không dám đến các nơi công cộng vì sợ những ánh mắt để ý;

không dám đến trường vì sợ bạn bè trêu chọc… Bên cạnh đó, một thực tế chỉ

ra rằng, đa số trẻ em khuyết tật đều sống trong nghèo khó; và dễ bị bạo hành

hoặc lạm dụng; bị đối xử vô trách nhiệm, ngược đãi hay bóc lột; trong khi đó,

việc tiếp cận với sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp lại gặp nhiều trở ngại vì

những lý do khách quan và chủ quan. Có thể thấy, trẻ em khuyết tật thực sự

phải trải qua nhiều khó khăn, phải đối mặt với nhiều rào cản để được hưởng

trọn vẹn những quyền vốn có của mình. Rào cản này không chỉ nằm ở bản

thân của sự khuyết tật, mà còn là tổng hợp những trở ngại về mặt xã hội, văn

hóa, quan điểm và cả về vật chất mà trẻ em khuyết tật phải đối mặt trong đời

sống hàng ngày.

Chính vì những lý do trên, mà tác giả đã chọn chủ đề “Bảo đảm quyền

của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ của

mình. Với cách tiếp cận thông qua lăng kính nhân quyền, luận văn mong

muốn góp phần tích cực vào việc đề xuất những ý kiến, giải pháp trong hoạch

định và thực thi chính sách pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt

Nam. Đồng thời qua đó, nâng cao hiểu biết, thái độ cảm thông đến nhóm đối

tượng dễ bị tổn thương này.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở Việt Nam, đề tài quyền của người khuyết tật là vấn đề được nhiều cơ

quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức liên

chính phủ, tổ chức phi chính phủ quan tâm. Đặc biệt, trong thời đại hội nhập

kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề quyền con người ngày càng được chú trọng

3

thì quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương nói chung và quyền của người

khuyết tật nói riêng cũng nhận được nhiều chú ý, các công trình nghiên cứu

về vấn đề này cũng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng.

Bên cạnh đó, trẻ em cũng là chủ đề đã được nghiên cứu từ rất lâu, với

nhiều công trình dưới các hình thức như giáo trình, sách chuyên khảo, tham

khảo, luận án, luận văn, bài báo, các buổi hội thảo… nhằm mục đích tăng

cường hơn nữa công tác bảo vệ lợi ích và quyền của trẻ em trong phạm vi

quốc gia và cộng đồng quốc tế.

Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức độ chung, khái quát

về nhóm người khuyết tật hoặc nhóm trẻ em. Tính đến thời điểm hiện tại,

chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện, đi sâu về lĩnh vực

Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam dưới góc độ quyền con

người nhìn từ chính sách đến thực tiễn thi hành.

Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công trình liên quan nghiên

cứu về Quyền của người khuyết tật, tiêu biểu như sau:

- Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Luật quốc tế về quyền

của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb Lao động – xã hội.

- Hoàng Thị Kim Quế (2010), Chủ nhiệm đề tài, “Hoàn thiện pháp luật

về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Đề tài nghiên cứu

khoa học, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.

- Lê Bạch Dương – Đặng Nguyên Anh – Khuất Thu Hồng – Lê Hoài

Trung – Robert Leroy Bach (2005), Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi

ở Việt Nam, Nxb Thế giới

- Hà Đình Bốn – Phó Vụ trưởng vụ Pháp chế - Bộ Lao động thương

binh và xã hội, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của

Chính phủ, Đặc san (2010), “Tuyên truyền pháp luật, (số 05), Chủ đề: Luật

người khuyết tật”, Hà Nội.

4

- Báo cáo đánh giá (2009), Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam –

Đưa luật pháp của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về

Quyền của Người khuyết tật, tháng 12/2009, của Eric Rosenthal và Viện

Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu của

UNICEF Việt Nam.

- Báo cáo của nghiên cứu viên về (2011), Người khuyết tật ở Việt Nam,

Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam, là xuất

bản phẩm thứ 9 trong tập hợp các ấn phẩm được Quỹ dân số Liên hợp Quốc

(UNFPA) công bố vào 2011.

- Báo cáo thường niên năm (2010), Về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật

Việt Nam, của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD.

- Báo cáo (2010), Phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam, 2010 do

UNICEF xây dựng dưới sự cộng tác với Chính phủ Việt Nam về quyền trẻ em.

Như vậy, có thể thấy, các công trình nghiên cứu về người khuyết tật

khá phong phú, song so với yêu cầu thực tiễn thì còn khiêm tốn, chỉ dừng lại

ở mức chung, khái quát nhất, chưa đi sâu vào các mảng cụ thể. Vì vậy, việc

nghiên cứu vấn đề Quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam trong thời điểm

hiện tại là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Luận văn sẽ góp phần

làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm

kiến thức về đảm bảo quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em

khuyết tật nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Nghiên cứu tổng quan về tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.

- Đánh giá được thực trạng đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật ở

nước ta hiện nay trong các khía cạnh xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật,

từ phía cộng đồng… Từ đó rút ra được các quyền mà trẻ em khuyết tật dễ bị

xâm phạm và bị bỏ qua trên thực tế.

5

- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chính sách về bảo

đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt nam hiện nay, hướng đến phù hợp với

pháp luật quốc tế.

3.2. Nhiệm vụ

- Nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về quyền của trẻ em khuyết tật.

- Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối

chiếu với pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.

- Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ

em khuyết tật ở Việt Nam: những thành tựu đạt được, hạn chế tồn tại, và rút

ra được nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đó.

- Từ đó, đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật

và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt

Nam hiện nay.

4. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề sau:

- Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.

- Đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp giữa các quy định trong

pháp luật Việt Nam với tình hình thực tế, đồng thời xem xét các yếu tố tác

động tới việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.

5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lenin; Các

nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về

quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng

trên thế giới.

- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng

hợp, xã hội học, thống kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên

6

quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn

đề quyền của trẻ em khuyết tật.

6. Kết quả và ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức

khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới góc độ quyền con

người về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật; giúp người đọc nhận thức đầy

đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước về quyền và đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật.

Luận văn cũng nêu bật được các quyền mà trẻ em khuyết tật Việt Nam

dễ và đang bị bỏ qua hay bị xâm phạm; đồng thời tìm hiểu thực trạng của việc

đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật, rút ra nguyên nhân của những thành tựu

và hạn chế trong việc bảo đảm quyền của đối tượng này. Từ đó, là cơ sở cho

việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức đảm bảo

quyền cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.

7. Điểm mới của luận văn

Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên, có tính hệ

thống thông qua lăng kính nhân quyền về vấn đề “Bảo đảm quyền của trẻ em

khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, và đã có những điểm mới nổi bật như sau:

- Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề chung có liên quan đến trẻ

em khuyết tật, luận văn đã đưa ra được khái niệm trẻ em khuyết tật, khái niệm

quyền trẻ em khuyết tật và khái niệm đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật.

- Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng bảo đảm quyền của

trẻ em khuyết tật trong một số lĩnh vực cụ thể, nêu rõ thành tựu, hạn chế và

đưa ra được nguyên nhân có các thành tựu và hạn chế đó.

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm có hiệu quả

các quyền của trẻ em khuyết tật trong các lĩnh vực: xây dựng, thực thi pháp

luật, thái độ của cộng đồng và nhận thức của bản thân trẻ bị khuyết tật.

7

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,

kết cấu luận văn chia làm ba chương như sau:

Chương 1. Lý luận chung về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.

Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.

Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em

khuyết tật ở Việt Nam.

8

Chƣơng 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN

CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT

1.1. Trẻ em khuyết tật

1.1.1. Khái niệm trẻ em

Từ lâu, trẻ em vốn được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn

thương và được nhà nước, cá nhân, các tổ chức xã hội quan tâm bảo vệ. Do

đó, việc xác định thế nào được gọi là trẻ em chính là cơ sở để thực hiện và

phát huy sự quan tâm đó.

Trong Công ước về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of

the Child – CRC) - văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện nhất về trẻ em tính đến

thời điểm này đã định nghĩa “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18

tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định

tuổi thành niên sớm hơn” (Điều 1). Và để làm rõ khái niệm trẻ em, ngay

trong lời nói đầu của Công ước đã nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về thể chất

và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích

hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Theo đó, trẻ em là những

người đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau: Một là, phải là người còn non nớt về

thể chất và trí tuệ; Hai là, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt; Ba là người

từ 0 đến dưới 18 tuổi.

Do mỗi nước có quan niệm không giống nhau về trẻ em, nên độ tuổi

được xác định là trẻ em cũng khác nhau, và Công ước về quyền trẻ em đã quy

định vấn đề này theo hướng mở. Tức là, tuổi 18 được coi là mức tiêu chuẩn

nhưng không phải cố định, bắt buộc, mà cho phép mỗi quốc gia tùy thuộc vào

điều kiện kinh tế xã hội của nước mình, có thể quy định độ tuổi trẻ em sớm hơn

(dưới 18 tuổi). Tuy nhiên, việc quy định mang tính chất mềm dẻo này, có thể

9

làm số lượng trẻ em được bảo vệ theo Công ước giảm đi ở một số nước, nhưng

lại có tác dụng tích cực trong việc tăng lên về số lượng các quốc gia chấp nhận

tham gia công ước. Điều đó kéo theo việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo quy

định của điều ước quốc tế này trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới.

Liên quan đến khái niệm Trẻ em, Liên hợp quốc còn dùng khái niệm

“người chưa thành niên”. Theo quy tắc Bắc Kinh (Những quy tắc tối thiểu,

phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa

thành niên ngày 20/11/1985) nêu rõ “người chưa thành niên là người dưới 18

tuổi”. Họ là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý,

trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ bị hạn chế, thiếu những điều

kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng kiềm chế kém, dễ bị kích động, lôi kéo vào

các hoạt động phiêu lưu mạo hiểm. Như vậy, việc sử dụng những khái niệm

này có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý. Liên hợp quốc đặt các em trong đối

tượng điều chỉnh của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia với mục đích

bảo vệ quyền trẻ em và người chưa thành niên khi phạm pháp. Kêu gọi các

nước thành viên tham gia CRC phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp; tích

cực, huy động các nguồn lực có thể để giúp đỡ trẻ em và người chưa thành

niên nhằm giảm sự can thiệp của pháp luật và xử lý người chưa thành niên

phạm pháp một cách công bằng, nhân đạo và hiệu quả.

Ở Việt Nam cũng không có một định nghĩa chung về trẻ em.

Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thì trẻ

em là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, độ tuổi được coi là trẻ em

trong pháp luật nước ta thấp hơn so với quy định trong Điều 1 Công ước quốc

tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái với CRC vì Điều 1

Công ước này cho phép các quốc gia thành viên quy định độ tuổi được coi là

trẻ em thấp hơn 18 tuổi.

Bên cạnh khái niệm trẻ em, cũng giống như pháp luật quốc tế, pháp luật

10

Việt nam còn có khái niệm “người chưa thành niên” (là những người dưới 18

tuổi theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005); “lao động chưa

thành niên” (là những người lao động từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi theo quy định

tại Điều 119 Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006,

2007), và “người chưa thành niên phạm tội” (là những người phạm tội khi còn

dưới 18 tuổi, theo các quy định có liên quan trong Bộ luật Hình sự năm 1999,

sửa đổi bổ sung năm 2009). Ngoài ra, liên quan đến trẻ em, theo Luật giáo dục

năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 lại quy định người đang được nuôi

dưỡng, đào tạo trong hệ thống giáo dục mầm non “từ ba tháng đến sáu tuổi”

được coi là trẻ em (Điều 21), còn người từ 6 tuổi đến 18 tuổi gọi là học sinh.

Mặc dù không có một điều khoản thống nhất quy định rõ ràng về độ

tuổi trẻ em, nhưng về cơ bản, các quy định xung quanh khái niệm này đều

tương thích với điều khoản ghi nhận tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em

1989. Do đó, có thể đưa ra định nghĩa chung nhất về trẻ em ở Việt Nam đó là:

Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, vẫn còn non nớt về thể chất và trí tuệ, do

đó cần sự bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền. Đây là cách định nghĩa phù hợp

với tinh thần của hệ thống pháp luật trong nước, đồng thời không mâu thuẫn

với quy định của pháp luật quốc tế. Việc xác định thống nhất khái niệm về trẻ

em có ý nghĩa khá quan trọng. Bởi nó sẽ là cơ sở để làm rõ các khái niệm có

liên quan đồng thời tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo vệ,

chăm sóc và giáo dục nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.

1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật

Trên phạm vi quốc tế lẫn khu vực hiện nay, chưa có một khái niệm cụ

thể về trẻ em khuyết tật. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Vì

vậy, để hiểu chính xác khái niệm trẻ em khuyết tật, trước hết, cần đi tìm hiểu

khái niệm người khuyết tật.

Trong một thời kỳ dài, người khuyết tật được coi là đối tượng phúc lợi

11

xã hội, việc bảo vệ hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên tình thương và lòng nhân đạo

chứ không được nhìn nhận dưới tư cách chủ thể có quyền như công dân bình

thường. Những văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người

được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960 như: Tuyên ngôn

quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal Declaration of Human Rights - UDHR),

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International

Convenant on Civil and Political Rights – ICCPR); Công ước quốc tế về các

quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996 (International Convenant on Economic,

Social and Cultural Rights – ICCSCR)… cũng không trực tiếp đề cập đến

người khuyết tật.

Đến những năm 70, 80 của thế kỷ XX, dưới sự đấu tranh mạnh mẽ của

người khuyết tật và các hiệp hội của họ trên thế giới, nhận thức về người

khuyết tật là đối tượng của phúc lợi xã hội mới dần dần được thay thế thông

qua việc coi trọng năng lực của nhóm đối tượng này và coi vấn đề khuyết tật

là vấn đề bình thường trong xã hội. Sự chuyển biến về nhận thức đã dẫn đến

thay đổi cả cách gọi tên của nhóm này. Thay cho việc dùng từ Những người

tàn tật (Disable persons) có hàm ý miệt thị và hạ thấp, hiện nay, nhóm xã hội

này được gọi một cách tôn trọng là Những người khuyết tật (Persons with

Disabilities). Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi nhận thức đó diễn ra trong

khoảng thời gian tương đối dài và không phải đã hết sự khác biệt.

Lịch sử phát triển của vấn đề này cho thấy đã có các quan điểm khác

nhau về khái niệm người khuyết tật. Hiện có hai quan điểm chính: quan điểm

khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội. [25]

- Quan điểm khuyết tật cá nhân hay Quan điểm khuyết tật dưới góc độ y

tế: Cho rằng khuyết tật là do chính bản thân con người đó, không liên quan quá

nhiều đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi trường vật thể xung quanh

người khuyết tật. Quan niệm này nhìn nhận người khuyết tật như những người

12

có vấn đề về thể chất, cần được chữa trị bằng các phương pháp khoa học như:

thuốc điều trị hoặc công nghệ trị liệu. Lý giải rõ thêm cho quan điểm này, Tổ

chức y tế thế giới (WHO) đã phân ra ba loại mức độ suy giảm đó là: Khiếm

khuyết (impairment), Khuyết tật (disability), và Tàn tật (Handicap). Trong đó:

Khiếm khuyết chỉ tình trạng bị mất hoặc tình trạng bất bình thường của một

hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý. Khuyết tật chỉ sự giảm

thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn Tàn tật để chỉ

tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của

môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ.

Như vậy, quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật y tế

nhìn nhận vấn đề khuyết tật là hạn chế ở chính bản thân họ. Mô hình này chú

trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã hội. Khi bị

khuyết tật, chính bản thân những người này cần phải thay đổi chứ không phải

xã hội hay môi trường xung quanh họ cần phải thay đổi.

- Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: cho rằng, nhiều người bị

khiếm khuyết ở các cách khác nhau nhưng xã hội đã biến họ thành khuyết tật;

con người bị khiếm khuyết nhưng xã hội bị khuyết tật. Nói cách khác, mô

hình này coi xã hội là vấn đề cần giải quyết, và giải pháp là phải thay đổi toàn

bộ xã hội. Bên cạnh đó, nhấn mạnh việc xóa bỏ các yếu tố rào cản, tạo điều

kiện cho người khuyết tật được đối xử như những người bình thường khác,

giúp họ nhận thức đầy đủ các nghĩa vụ của mình với tư cách là một công dân.

Đây là mô hình khá nổi trội trong những nghiên cứu về khuyết tật trên thế

giới vào những năm 1990, nó được coi là mô hình có cơ sở lý thuyết và có

quy tắc riêng, là nền tảng những biến chuyển của vấn đề người khuyết tật.

Điểm khác biệt chủ yếu giữa hai quan điểm này là: nếu ở mô hình y tế,

nguyên nhân gây nên khuyết tật được xác định là do chính bản thân người

khuyết tật thì ở mô hình xã hội, khởi nguồn khuyết tật là ở xã hội. Hơn nữa,

13

bản chất của mô hình y tế là sự suy giảm về mặt thể chất, cảm giác và trí tuệ

người khuyết tật; còn mô hình xã hội, bản chất của khuyết tật là các rào cản

đã ngăn cản người khuyết tật tham gia vào các hoạt động đời sống. Nhìn

chung mỗi quan điểm đều có những điểm mạnh và hạn chế nhất định: Quan

điểm khuyết tật y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực cụ thể như y tế phục

hồi chức năng và đảm bảo xã hội. Còn quan điểm khuyết tật theo mô hình xã

hội cho thấy nguyên nhân gốc rễ của việc người khuyết tật bị tách biệt khỏi

cuộc sống chung, những bất lợi và vấn đề phân biệt đối xử.

Hiện nay trên thế giới, cũng không có khái niệm về người khuyết tật

được áp dụng chung cho tất cả các nước. Tùy vào điều kiện kinh tế xã hội,

truyền thống văn hóa mà mỗi quốc gia có định nghĩa khác nhau về vấn đề

này. Như, Điều 2 Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ

người khuyết tật năm 1990 quy định:

Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường,

mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lí hay

sinh lí, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất

toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một

cách bình thường.

Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời

nói hoặc khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn

tâm thần, khuyết tật nhiều và/hoặc khuyết tật khác.

Còn Luật về người khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ định

nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh

phong; thị lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và

mắc bệnh về tâm thần.

Hay ở Đức, sách số chín của Bộ luật xã hội định nghĩa:

14

Người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí

lực hoặc tâm lí tiến triển không bình thường so với người có cùng

độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này

là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc

sống xã hội.

Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 định nghĩa: “Người

khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng

đáng kể đến một hay nhiều hoạt động trong cuộc sống”. Cũng theo đạo luật

này, những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về vận động,

thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những

khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim,

tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (Có triệu

chứng hoặc không có triệu chứng).

Tháng 03/2007, Công ước về quyền của người khuyết tật (Convention

on the Rights of Persons with Disabilities - CRPD) đã được Đại hội đồng

Liên hợp quốc thông qua. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền con

người của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một bước ngoặt trong

cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới. Theo đó,

tại Điều 1 Công ước, người khuyết tật bao gồm “Những người có khiếm

khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác

với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và

trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Mặc

dù vẫn còn những quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu thành khái

niệm “người khuyết tật”, tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định nghĩa về

“người khuyết tật” được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người,

nó là cơ sở trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm đối tượng này.

Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về người

15

khuyết tật hoặc người tàn tật. Đại đa số đều dùng từ khuyết tật và tàn tật để chỉ

cùng một khái niệm, và được dùng song song trên cả phương tiện truyền thông

đại chúng và văn bản pháp quy. Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998

định nghĩa người tàn tật là: “Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ

thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm

khả năng hoạt động khiến cho lao động, học tập gặp nhiều khó khăn”

Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như quá

trình hội nhập quốc tế, cụm từ “Người tàn tật” ngày càng được sử dụng ít đi,

thay vào đó là cụm từ “Người khuyết tật” với mục đích tạo sắc thái tình cảm

tích cực, coi trọng hơn, đề cao khả năng phục hồi hơn. Trong cuộc hội thảo do

Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD)

và Tổ chức Cứu trợ và Phát triển (CRS) thực hiện thì có đến 17 trên tổng số

19 ý kiến cho rằng nên thay cụm từ tàn tật bằng khuyết tật. [31]

Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

đã thông qua Luật Người khuyết tật, có hiệu lực từ 01/01/2011 thay thế Pháp

lệnh về người tàn tật 1998, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết tật”

thay cho khái niệm “Người tàn tật” hiện hành, phù hợp với xu hướng nhìn

nhận chung của thế giới. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Người

khuyết tật 2010 thì người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm khuyết một

hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới

dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.” Khái niệm này

được đưa ra dựa vào mô hình xã hội và về cơ bản phù hợp với khái niệm

người khuyết tật trong Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2007.

Như vậy, dựa trên định nghĩa về người khuyết tật và định nghĩa về trẻ

em, theo tác giả, Trẻ em khuyết tật được hiểu là những trẻ từ 0 đến 18 tuổi có

khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng của cơ thể làm

hạn chế khả năng hoạt động, gây khó khăn trong sinh hoạt, học tập, xã hội.

16

Việc đưa ra khái niệm chung, thống nhất về trẻ em khuyết tật rất quan

trọng nhưng không phải dễ dàng, bởi ngay trong hệ thống pháp luật quốc gia

và pháp luật quốc tế cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này, trong khi

các tiêu chí xác định khuyết tật hay độ tuổi được coi là trẻ em vẫn chưa thực

sự thống nhất. Vì vậy, cần phải có cái nhìn tổng thể về trẻ em và người

khuyết tật để hình thành khái niệm hợp lý nhất về trẻ em khuyết tật. Từ đó,

là cơ sở để phân loại, nghiên cứu, chăm sóc và bảo vệ nhóm đối tượng dễ bị

tổn thương này.

1.1.3. Ảnh hưởng của tình trạng khuyết tật đến hoạt động của trẻ

Trẻ em khuyết tật trước hết là con người nên họ mang những đặc điểm

chung về mặt kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm sinh lí như mọi người. Tuy nhiên,

do khiếm khuyết về mặt thể chất nên họ có nét đặc thù tương đối so với trẻ

không khuyết tật, và cũng bởi những khiếm khuyết đó, mà họ gặp không ít

khó khăn trong quá trình sinh hoạt và tham gia vào các hoạt động xã hội.

Trước hết, trẻ khuyết tật sẽ gặp khó khăn trong việc tự chăm sóc bản

thân mình. Bởi do khiếm khuyết của cơ thể nên hầu hết công việc sinh hoạt

hàng ngày của trẻ phải dựa vào người thân trong gia đình. Đây là ảnh hưởng

trực tiếp nhất mà tình trạng khuyết tật gây ra cho chính bản thân họ.

Thứ hai, tình trạng khuyết tật gây khó khăn cho trẻ trong việc tiếp cận

cơ sở vật chất kĩ thuật và tham gia đầy đủ hoạt động giáo dục, việc làm, bệnh

viện, công trình phúc lợi xã hội… Bởi các thiết kế công cộng thường chỉ dành

cho những người có chức năng được thực hiện bình thường, việc xây dựng

làn đường, hoặc lối đi dành riêng cho người khuyết tật chưa phổ biến. Do vậy,

trẻ em khuyết tật khó tiếp cận với các dịch vụ giao thông, công cộng, giáo

dục, việc làm… dẫn đến họ bị cô lập hoặc loại trừ khỏi sinh hoạt của cộng

đồng. Từ chỗ khó tiếp cận các dịch vụ công cộng, tiếp cận giáo dục… trẻ

khuyết tật bị đẩy vào tình trạng có trình độ học vấn thấp hơn và cơ hội việc

17

làm thấp hơn. Khó khăn về vật chất dẫn đến thiệt thòi về tinh thần, tình trạng

khuyết tật này làm tăng nguy cơ nghèo đói, và sự nghèo đói lại làm tình trạng

khuyết tật trầm trọng hơn rất nhiều.

Thứ ba, khó khăn xuất phát từ tâm lý tự ti, mặc cảm, và thái độ kỳ thị

của xã hội nói chung. Bởi quan niệm của xã hội về người khuyết tật còn tiêu

cực, dẫn đến sự kì thị và phân biệt đối xử. Điều này diễn ra dưới nhiều hình

thức, ở nhiều bối cảnh khác nhau như gia đình, cộng đồng, trường học… Đối

với cộng đồng, trẻ khuyết tật được nhìn nhận là đối tượng “đáng thương”,

không có cuộc sống “bình thường”, là “gánh nặng” của toàn xã hội. Trong khi

những quy định ghi nhận ở nhiều đạo luật, nghị định lại chưa phổ biến, người

dân không biết đến sự tồn tại của các quy định đó nên không hiểu được trách

nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với trẻ em khuyết tật là như thế nào… Từ đó,

dẫn đến sự kì thị, phân biệt đối xử. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến trạng

thái tâm lý của trẻ khuyết tật, khiến các em tự xây cho mình một rào cản với

thế giới bên ngoài. Đây chính là khó khăn lớn nhất, ảnh hưởng mạnh mẽ nhất

đến mọi hoạt động của trẻ em khuyết tật.

Có thể thấy, tình trạng khuyết tật gây ra ảnh hưởng lớn đến không chỉ

bản thân trẻ khuyết tật mà còn với cả gia đình có trẻ khuyết tật. Từ đó, hình

thành nên những rào cản hữu hình và vô hình, cản trở trẻ khuyết tật tham gia

vào các hoạt động xã hội, khó có điều kiện phát huy năng lực bản thân, hòa

nhập vào cộng đồng. Do vậy, cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế

phần nào tác động tiêu cực mà tình trạng khuyết tật đã gây ra.

1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ

Có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến khuyết tật ở trẻ em. Mặc dù chưa có

bằng chứng chính xác, nhưng có thể tổng hợp căn cứ vào tình hình khuyết tật

ở trẻ em và chia ra làm các nguyên nhân sau:

Một là, do di truyền gây dị tật bẩm sinh. Nguyên nhân của tình trạng

18

này là bởi kết hôn giữa những người cùng dòng máu. Vì thế, để ngăn ngừa,

cần tăng cường kiến thức về hôn nhân, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ

về vấn đề này.

Hai là, trong thời kỳ mang thai, người mẹ bị ốm; sử dụng các chất kích

thích; bị nhiễm các chất độc hại trong môi trường như: chì, thủy ngân,

amiăng... Do đó, cần tăng cường giữ gìn sức khỏe cho mẹ và bé, đẩy mạnh

chương trình miễn dịch đối với những căn bệnh có thể phòng ngừa như tiêm

vacxin cúm, sốt, quai bị…

Ba là, do thiếu dinh dưỡng, bệnh tật để lại di chứng như trẻ có thể bị

mù do thiếu vitamin A, viêm não, sốt xuất huyết, sốt bại liệt... Vì vậy, cần

tăng cường chăm sóc trước khi sinh cho trẻ, đảm bảo cung cấp đầy đủ và có

chất lượng các dịch vụ y tế trước, trong và sau khi sinh. Đồng thời, nâng cao

nhận thức của cha mẹ đối với vấn đề chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế cơ

bản cho con em mình.

Bốn là, do tai nạn xảy ra trong quá trình tham gia giao thông, trong sinh

hoạt và tham gia lao động. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng

khuyết tật đối với trẻ em ở nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, cần thiết lập

và thực thi có hiệu quả các chính sách về an toàn giao thông, về an toàn và

bảo hộ lao động…

Năm là, do ảnh hưởng của chiến tranh, tàn tích của các loại vũ khí cũng

là nguyên nhân gây ra tình trạng khuyết tật ở nhiều nước trên thế giới. Như ở

Việt Nam, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, nhất là khi Mỹ rải thuốc

diệt cỏ chứa chất độc đioxin đã ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, và gây ra

tình trạng khuyết tật ở những đứa trẻ được sinh ra từ bố mẹ từng bị phơi

nhiễm chất độc này. Vì vậy, cần phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo

vệ trẻ em khỏi những tác động có hại của chiến tranh và xung đột vũ trang đó.

Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân gây ra khuyết tật ở trẻ em với tính

19

chất và mức độ rất khác nhau. Do vậy, cần nhận biết và ngăn chặn sớm để

giảm bớt phần nào số trẻ em bị khuyết tật đang ngày càng gia tăng trên phạm

vi toàn cầu. Đồng thời việc xác định rõ nguyên nhân gây ra khuyết tật của trẻ

sẽ là cơ sở giúp phân loại trẻ em khuyết tật, từ đó có cách chăm sóc và giáo

dục cho phù hợp với từng loại trẻ.

1.1.5. Phân loại trẻ em khuyết tật

Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể, riêng biệt về trẻ em khuyết

tật, vì vậy khi phân loại, sẽ dựa vào dạng tật và mức độ khuyết tật được ghi

nhận trong Luật Người khuyết tật năm 2010. Cụ thể:

- Căn cứ trên dạng tật thì trẻ em khuyết tật bao gồm:

Một là, khuyết tật vận động: Là những trẻ có cơ quan vận động bị tổn

thương, biểu hiện dễ nhận thấy là khó khăn trong việc nằm, ngồi, di chuyển,

cầm, nắm… Do đó, trẻ khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh

hoạt cá nhân, vui chơi, học tập và lao động. Vì vậy trẻ khuyết tật vận động

cần được hỗ trợ về phương tiện đi lại như xe lăn, gậy chống; và đặc biệt là

không gian cần thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển.

Hai là, khuyết tật nghe nói: Là những trẻ gặp khó khăn trong việc giao

tiếp xã hội, dẫn đến hạn chế trong sinh hoạt, làm việc, học tập và hòa nhập

cộng đồng. Để tiếp nhận thông tin, trẻ cần có sự trợ giúp của ngôn ngữ kí

hiệu, trợ giúp của công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, ngôn ngữ kí hiệu cũng có

nhiều hạn chế vì không thể phản ánh được đầy đủ tính chất, mức độ và hoạt

động của cuộc sống như tiếng nói hay chữ viết.

Ba là, Khuyết tật thị giác: là những tật về mắt khiến trẻ giảm hoặc mất

khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều

kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Đối với trẻ khiếm thị công cụ hỗ

trợ di chuyển là chiếc gậy, các dụng cụ hỗ trợ thông minh, lối đi thuận tiện và

dễ nhận biết….

20

Bốn là, khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí

nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói,

hành động bất thường.

Năm là, khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận

thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về

sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. Xét về mức độ, đây là đối tượng khuyết

tật không có những đặc điểm cơ bản, chung như các dạng khuyết tật khác. Bởi

khuyết tật trí tuệ được xác định khi: Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình

(chỉ số thông minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc

nghiệm cá nhân); Hoặc bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số

những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kĩ năng

xã hội/cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự định hướng, kĩ năng

học đường, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn…

Sáu là, khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng

cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà

không thuộc các trường hợp khuyết tật được xác định ở trên.

- Căn cứ vào mức độ khuyết tật thì trẻ em khuyết tật bao gồm:

Thứ nhất, trẻ khuyết tật đặc biệt nặng: là những trẻ do khuyết tật dẫn

đến không thể tự thực hiện phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày.

Thứ hai, trẻ khuyết tật nặng là những trẻ do khuyết tật dẫn đến không

thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày.

Thứ ba, trẻ khuyết tật nhẹ là những trẻ không thuộc trường hợp khuyết

tật đặc biệt nặng và khuyết tật nặng.

Như vậy, khuyết tật ở trẻ khá đa dạng. Tuy nhiên có thể nhận thấy điểm

chung ở những trẻ khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật nhìn

là đều có bộ não phát triển bình thường. Nếu được quan tâm, tạo môi trường

thuận lợi, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì họ vẫn có thể tiếp thu được

21

chương trình học tập, làm việc, tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội của

cộng đồng. Do đó, việc phân loại rõ ràng, chính xác trẻ khuyết tật là cơ sở để

thực hiện các hoạt động phù hợp với từng dạng tật của trẻ, giúp trẻ phát triển

năng lực bản thân, tự tin trong cuộc sống.

Mang trong mình khiếm khuyết về cơ thể giống như người khuyết tật

nói chung, lại vừa là những công dân còn non nớt về mặt thể chất và tinh thần

giống như biết bao trẻ em bình thường khác, trẻ khuyết tật với tư cách là

nhóm bị tổn thương kép đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết

tật đem lại. Những thiệt thòi đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân

trẻ và gia đình có trẻ khuyết tật, ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động

xã hội của trẻ. Do vậy, xác định được nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết

tật, tính chất, mức độ khuyết tật và phân loại được trẻ em khuyết tật sẽ có tác

dụng trong việc ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ khuyết tật đang ngày càng

gia tăng, từ đó hạn chế tình trạng trẻ em bị thiệt thòi, đồng thời phân loại trẻ

khuyết tật còn là cơ sở để áp dụng các chính sách, biện pháp phù hợp nhằm

bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ trẻ khuyết tật vượt qua khó khăn trong cuộc sống,

vươn lên hòa nhập cộng đồng.

1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật và Bảo đảm quyền của trẻ em

khuyết tật

1.2.1. Khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật

Trên phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, hầu hết vẫn chưa đưa ra

được một khái niệm thống nhất về Quyền của trẻ em khuyết tật, có chăng

chỉ gợi mở theo hướng liệt kê các quyền của trẻ khuyết tật. Vì vậy, muốn

làm sáng tỏ vấn đề này, cần đi tìm hiểu và phân tích về các nội dung có

liên quan, cụ thể như sau:

Trước hết, cần hiểu, thế nào là Quyền? Theo Đại Từ điển Tiếng Việt,

quyền là “cái mà luật pháp, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép được

22

hưởng thụ, được vận dụng, được thực hành…., và nếu thiếu thì được phép yêu

cầu để có đầy đủ, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại”.[29]. Như vậy,

khái niệm Quyền chủ yếu liên quan đến việc hành động, cụ thể là tự do hành

động. Theo đó, một người được phép làm những việc trong khuôn khổ nhất

định mà không bị cưỡng ép, áp đặt, và không ai được vi phạm vào các quyền

đó. Việc làm rõ khái niệm quyền là cơ sở để xác định các vấn đề có liên quan

dựa trên Quyền.

Thứ hai là khái niệm Quyền con người. Có nhiều cách định nghĩa khác

nhau về quyền con người dựa trên các hướng tiếp cận từ những góc độ nhất

định. Trên phạm vi quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp

quốc về quyền con người thì, Quyền con người là những bảo đảm pháp lý

toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành

động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và

tự do cơ bản của con người. [12]. Ở Việt Nam, xét chung, quyền con người

thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan

của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa

thuận pháp lý quốc tế. Dù nhìn ở góc độ và cấp độ nào thì Quyền con người

cũng được xác định là những đặc quyền tự nhiên được pháp luật ghi nhận

điều chỉnh và đảm bảo thực hiện.

Thứ ba là vấn đề Quyền trẻ em. Trẻ em là con người, là một thành viên

của xã hội, là công dân đặc biệt của một quốc gia, vì vậy quyền trẻ em có

quan hệ chặt chẽ với quyền con người, là một bộ phận của quyền con người.

Hay nói cách khác, trẻ em cũng là một chủ thể của quyền, quyền trẻ em là

quyền con người của trẻ em, nhờ đó trẻ được hưởng, được làm, được tôn

trọng và thực hiện nhằm bảo đảm sự sống, sự tham gia và phát triển toàn diện

của mình. Tuy nhiên, trước đây, thuật ngữ Quyền trẻ em chưa thực sự được

chú trọng. Phải đến đầu thế kỷ thứ XX, thuật ngữ này mới được đề cập sau

23

một loạt biến cố quốc tế lớn, nhất là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ I

(1914 – 1918). Sự kiện này khiến rất nhiều trẻ em ở Châu Âu bị rơi vào hoàn

cảnh đặc biệt khó khăn như mồ côi không nơi nương tựa, đói khát, bệnh tật…

Tình cảnh đó đã thúc đẩy việc thành lập hai tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên

trên thế giới ở Anh và Thụy Điển vào năm 1919. Đến năm 1924, Hội Quốc

liên thông qua bản Tuyên ngôn Geneva về Quyền trẻ em. Đây là lần đầu tiên,

vấn đề Quyền trẻ em chính thức được khẳng định và thừa nhận trong pháp

luật quốc tế, đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức và hoạt động bảo vệ trẻ em

trên thế giới. Năm 1948, Liên Hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về

quyền con người, trong đó khẳng định trẻ em cũng là chủ thể bình đẳng của

các quyền con người. Năm 1959, Liên Hợp quốc thông qua bản Tuyên ngôn

(thứ hai) về quyền trẻ em, phát triển nội dung của Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm

1924. Từ năm 1959 đến những năm 80 của thế kỷ XX, một loạt văn kiện quốc

tế khác cũng được thông qua, trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến các quyền

của trẻ em. Song, các văn kiện này hoặc không có tính ràng buộc về nghĩa vụ

pháp lý hoặc chưa tiếp cận từ vị thế đặc biệt và chú trọng đến những nhu cầu

đặc thù của trẻ em nên tác động trên thực tế rất hạn chế. Đến năm 1989, Liên

Hợp quốc thông qua Công ước quốc tế về quyền trẻ em, tính đến thời điểm

này, đây là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về vấn đề Quyền trẻ em.

Mặc dù vậy, đây không phải là văn kiện quốc tế duy nhất về lĩnh vực này, mà

còn nhiều văn kiện khác, trong đó tiêu biểu là hai Nghị định thư không bắt

buộc bổ sung CRC về sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và về

buôn bán trẻ em, bóc lột và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em…

Thứ tư là vấn đề Quyền của người khuyết tật. Cũng giống như trẻ em,

trong một thời kỳ dài, những người khuyết tật bị coi là đối tượng của lòng

thương hại, việc bảo vệ hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên tình thương, lòng nhân đạo

chứ không bắt nguồn từ nhận thức coi họ cũng là những chủ thể của quyền và

24

trách nhiệm của cá nhân, nhà nước, tổ chức xã hội là phải tôn trọng họ. Chỉ

sau những cuộc vận động kiên trì và mạnh mẽ của nhiều cá nhân, tổ chức xã

hội, nhận thức rằng người khuyết tật cũng là chủ thể bình đẳng của các quyền

con người mới dần dần chiếm ưu thế, và thuật ngữ Quyền của người khuyết

tật mới được chú trọng theo hướng quyền con người của người khuyết tật.

Theo đó, người khuyết tật được hưởng các quyền của con người mà không có

bất cứ sự phân biệt đối xử nào dựa trên tình trạng khuyết tật của họ nhằm đảm

bảo cho đối tượng này được phát huy năng lực của bản thân, hòa nhập cộng

đồng. Trên phương diện pháp lý, cho đến trước năm 2007, không có điều ước

quốc tế nào quy định riêng về vấn đề quyền của người khuyết tật. Ngay trong

các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người được các nước

phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960 như Tuyên ngôn nhân quyền

1948, Công ước của Liên hợp quốc về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm

1966 hay Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự, chính trị năm

1966… cũng không có điều khoản riêng biệt nào ghi nhận cụ thể quyền của

nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, đoạn 1 Điều 2 Tuyên ngôn quốc tế nhân

quyền 1948 đã khẳng định:

Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu

trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử

nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm

chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài

sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.

Mặc dù không đề cập một cách cụ thể, nhưng cụm từ “địa vị khác” đã

gián tiếp ghi nhận người khuyết tật cũng là chủ thể của các quyền con người.

Từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Liên hợp quốc đã thông qua khá nhiều văn

kiện không ràng buộc pháp lý nhằm thúc đẩy vấn đề quyền của nhóm này,

trong đó, tiêu biểu là: Chương trình hành động thế giới về người tàn tật

25

(1982); Các nguyên tắc về bảo vệ người bị bệnh tâm thần và về tăng cường

chăm sóc sức khỏe tâm thần (1991); Các quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hóa

cơ hội cho người khuyết tật (1993)… Đặc biệt, năm 1993, trong Tuyên bố

Viên và chương trình Hành động (Đoạn 13), Hội nghị thế giới về quyền con

người lần thứ II đã nêu rõ: “Tất cả các quyền con người và tự do cơ bản là

mang tính phổ biến, bởi vậy tất cả mọi người, kể cả những người khuyết tật,

đều là chủ thể bình đẳng của các quyền này”. Đây thực sự là khẳng định chắc

chắn, là bước tiến rõ ràng về mặt nhận thức, coi trọng khả năng, năng lực chủ

thể quyền con người của người khuyết tật.

Như vậy, thông qua các khái niệm Quyền, Quyền con người, Quyền trẻ

em và Quyền của người khuyết tật, có thể rút ra được Quyền của trẻ em

khuyết tật là: Quyền con người của trẻ em khuyết tật, là một bộ phận của

quyền con người, có quan hệ chặt chẽ với quyền con người. Theo đó, trẻ em

khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền tự nhiên vốn có, trẻ được thực hiện

hoặc không thực hiện các hoạt động một cách tự nguyện mà không ai được

phép cản trở, xâm phạm hay phân biệt đối xử chỉ vì lý do khuyết tật của trẻ.

Việc làm rõ các khái niệm nêu trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là

cơ sở để xác định khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật. Bởi trẻ em khuyết

tật là những công dân đặc biệt của xã hội. Họ vừa mang đặc điểm non nớt về

mặt tâm sinh lý như biết bao trẻ em không khuyết tật khác, lại vừa mang trong

mình khiếm khuyết về mặt thể chất và tinh thần như những người khuyết tật

nói chung nên quyền của trẻ em khuyết tật vừa là một bộ phận của quyền con

người, lại vừa là sự kết hợp giữa quyền của trẻ em và quyền của người khuyết

tật. Vì vậy, việc nhận thức chính xác về Quyền của trẻ em khuyết tật chính là

cơ sở để chăm sóc, giáo dục và bảo đảm có hiệu quả các quyền của nhóm đối

tượng bị tổn thương kép này.

26

1.2.2. Khái niệm Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật

So với người khuyết tật nói chung, trẻ em khuyết tật là đối tượng chịu

nhiều thiệt thòi hơn cả bởi sự phân biệt đối xử và nguy cơ tổn thương gây ra

từ nhiều yếu tố. Và, cũng giống như các trẻ em không khuyết tật khác, trẻ em

khuyết tật cũng là chủ thể của các quyền và quá trình phát triển. Đó không chỉ

là công dân non nớt về thể chất và trí tuệ như trẻ em bình thường, mà còn là

công dân đặc biệt, mang trong mình những mặc cảm tự ti do khiếm khuyết về

cơ thể, dễ bị tổn thương do sự non yếu về thể chất, tinh thần, kinh nghiệm

sống… Chúng luôn phải đối mặt với nguy cơ bị bỏ mặc, lạm dụng, bị đối xử

bất công, bạo hành, đặc biệt là trẻ em gái khuyết tật. Chính vì vậy yêu cầu cần

bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật đang ngày càng nhận được sự quan tâm

ủng hộ từ phía nhà nước, tổ chức xã hội và người dân nhằm xóa đi rào cản vô

hình, đưa các quyền lại gần hơn với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.

Tuy nhiên, vấn đề thế nào là Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật

dường như vẫn còn khá mơ hồ và chưa có hướng dẫn cụ thể. Theo Từ điển

Vdict “bảo đảm” được hiểu là “làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn

được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết…”. [30]. Đại Từ điển Tiếng Việt

cũng đưa ra định nghĩa tương tự trong đó, “bảo đảm” là “1…, 2. Làm cho có

được điều gì; 3. Có đủ, trọn vẹn các điều quy định; 4. Chắc chắn, đạt tiêu

chuẩn cần thiết”. [29]. Công ước về quyền trẻ em 1989 và Công ước về quyền

của người khuyết tật 2007 cũng ghi nhận khá nhiều điều khoản nhấn mạnh

đến trách nhiệm của các quốc gia thành viên phải bảo đảm các quyền của trẻ

em khuyết tật trong tất cả các lĩnh vực mà Công ước đã đề cập, song không có

một điều khoản cụ thể nào định nghĩa về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết

tật. Trong pháp luật Việt Nam cũng vậy. Do đó, dựa trên định nghĩa ở Đại Từ

điển tiếng Việt, dưới góc độ ngôn ngữ, có thể đưa ra cách hiểu chung nhất về

Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật đó là: việc tạo mọi điều kiện thuận lợi

27

để trẻ em khuyết tật được hưởng các quyền vốn có của mình một cách phù

hợp, đầy đủ và trọn vẹn nhất.

Như vậy, việc xác định rõ ràng khái niệm về Bảo đảm quyền của trẻ em

khuyết tật là cơ sở để thúc đẩy công tác bảo đảm quyền của nhóm đối tượng

này trên thực tế. Quá trình bảo đảm đó phải dựa trên các nguyên tắc nhất định

như: bình đẳng, không phân biệt đối xử; lợi ích tốt nhất dành cho trẻ, tôn

trọng ý kiến, quan điểm của trẻ… Những nguyên tắc này đóng vai trò là

nguyên tắc nền tảng, chi phối toàn bộ quá trình bảo đảm quyền của trẻ em

khuyết tật, giúp cho các quyền đó được thực thi có hiệu quả nhất.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, trên thực tế, nhiều quyền của

người khuyết tật nói chung và quyền của trẻ em khuyết tật nói riêng vẫn

không được đảm bảo một cách trọn vẹn như: Trẻ em khuyết tật không được

tham gia vào quá trình ra quyết định, bị đối xử nặng nề; nhận thức của xã hội

về vấn đề người khuyết tật còn hạn chế; Điều kiện giao thông chưa tiếp cận;

Giáo dục, y tế chưa được đảm bảo; bản thân trẻ khuyết tật chưa hòa nhập với

xã hội do mặc cảm, tự ti về khiếm khuyết cơ thể… Chính vì vậy, việc đảm

bảo quyền cho trẻ em khuyết tật đang được đặt ra và ngày càng trở nên cấp

thiết, nó góp phần phát huy truyền thống nhân đạo, tinh thần dân tộc sâu sắc,

sự sẻ chia giữa người với người. Không chỉ thế, còn tác động tích cực đến tâm

lý của nhóm đối tượng thiệt thòi này, giúp cho các em vượt qua mặc cảm,

vươn lên phát triển năng lực bản thân, hòa nhập vào cộng đồng. Xét trong xu

thế hội nhập hiện nay, điều này có ý nghĩa lớn trong việc ổn định kinh tế, góp

phần đưa pháp luật Việt Nam lại gần hơn với chuẩn mực chung của quốc tế.

Đồng thời, với vị trí là một bộ phận của quyền con người, có quan hệ chặt chẽ

với quyền con người, việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật chính là cơ sở

thiết thực để đảm bảo các quyền con người.

28

Tiểu kết chƣơng 1

Chương 1 đã trình bày khái quát hệ thống lý luận về bảo đảm quyền

của trẻ em khuyết tật. Đây là tiền đề để phân tích thực trạng trong quá trình

đảm bảo quyền ở chương tiếp theo. Thông qua việc tìm hiểu các khái niệm có

liên quan trong phạm vi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, tác giả đã

đưa ra được nhận thức chung nhất về khái niệm trẻ em khuyết tật và bảo đảm

quyền cho trẻ em khuyết tật. Việc xác định rõ các khái niệm này là cơ sở quan

trọng để nghiên cứu hệ thống pháp luật, chính sách và đánh giá thực trạng về

bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Đồng thời, những kiến thức chung về

phân loại trẻ em khuyết tật theo mức độ và dạng tật, nêu bật những nguyên

nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật của trẻ và những ảnh hưởng do tình trạng

khuyết tật đem lại có tác dụng tích cực trong việc xây dựng, áp dụng các

chính sách phù hợp nhằm ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ em khuyết tật

đang có xu hướng ngày càng gia tăng hiện nay.

29

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Có nhiều cách tiếp cận để phân tích thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ

em khuyết tật như: Tiếp cận dưới góc độ chia việc bảo đảm quyền của trẻ

em khuyết tật ở từng lĩnh vực như: Xây dựng pháp luật, Thực thi pháp

luật…; Hoặc tiếp cận dưới góc độ chia việc bảo đảm quyền của trẻ em

khuyết tật thành các tiểu mục tương ứng với từng loại quyền quan trọng của

người khuyết tật; cụ thể như quyền không bị phân biệt đối xử, quyền được

chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền được tái hòa nhập với cộng đồng… Mỗi cách

tiếp cận đều có ưu điểm và hạn chế riêng để làm nổi bật nội dung cần hướng

đến. Trong luận văn này, tác giả lựa chọn cách tiếp cận thứ nhất, tức là đánh

giá thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật thông qua một số lĩnh

vực cụ thể. Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng

bảo đảm quyền, luận văn sẽ trình bày khái quát tình trạng trẻ em khuyết tật ở

Việt Nam hiện nay để cung cấp bức tranh cơ bản về cuộc sống của trẻ

khuyết tật từ đó là cơ sở xây dựng chính sách, biện pháp phù hợp đối với

nhóm xã hội dễ bị tổn thương này.

2.1. Tình trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay

Kể từ khi gia nhập Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, vị

trí của người khuyết tật và trẻ em khuyết tật tại Việt Nam đã có nhiều biến

chuyển đáng kể, nhận được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước.

Năm 2009, Tổng cục Thống kê đã tiến hành cuộc Tổng điều tra Dân số

và Nhà ở, đây là cuộc Tổng điều tra dân số đầu tiên thu thập các thông tin về

tình trạng khuyết tật của người dân và trẻ em khuyết tật. Kết quả đã cho thấy,

tỷ lệ người khuyết tật ở độ tuổi từ 5 tuổi trở lên chiếm 7,8% dân số tương

đương với 6,7 triệu người khuyết tật với khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật,

30

chiếm khoảng 19,7% số người khuyết tật trên phạm vi cả nước. Trong đó, số

trẻ khuyết tật nặng chiếm tỷ lệ cao nhất với 31%; ngoài ra có 27% trẻ khuyết

tật trí tuệ; 20% trẻ khuyết tật vận động; 19% trẻ khuyết tật ngôn ngữ; 12,43%

trẻ khiếm thính; 12% trẻ khiếm thị; 12,6% đa tật; và 7% khuyết tật khác [26].

Nguyên nhân gây ra khuyết tật ở trẻ em tại Việt Nam phần lớn là do

hậu quả của chiến tranh để lại. Theo số liệu thống kê vào cuối năm 2011 của

Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam thì cả nước ta hiện nay có khoảng 4,8

triệu người bị phơi nhiễm chất độc màu da cam, trong đó có khoảng 150.000

trẻ em bị dị tật bẩm sinh. [27]. Dự báo trong những năm tới, số lượng trẻ

khuyết tật vẫn có xu hướng gia tăng. Và nếu nguyên nhân dẫn đến khuyết tật

do bẩm sinh, bệnh tật chiến tranh có chiều hướng giảm đi thì các nguyên nhân

do tai nạn, do ô nhiễm môi trường lại có xu hướng tăng lên bởi quá trình phát

triển của công nghiệp hoá và đô thị hoá đang diễn ra tương đối mạnh mẽ ở

Việt Nam, đặc biệt, sẽ xuất hiện phổ biến tình trạng trẻ em tự kỷ - một dạng

khuyết tật mới trong thời đại hiện nay.

Hơn nữa, qua kết quả của một số cuộc điều tra mẫu trước đây cho thấy,

phần lớn trẻ em khuyết tật ở Việt Nam chủ yếu sống phụ thuộc vào gia đình,

hoặc được cưu mang trong các cơ sở bảo trợ xã hội. Trẻ hầu như chưa có khả

năng tạo ra thu nhập, nếu có thì chiếm tỷ lệ rất ít, và nguồn thu nhập thấp,

không ổn định. Bên cạnh đó, kết hợp với trình độ văn hóa chưa được đảm

bảo, thêm vào là rào cản từ phía xã hội khiến trẻ khuyết tật gặp nhiều khó

khăn khi có nhu cầu tham gia bình đẳng vào mọi hoạt động của đời sống cộng

đồng. Điều này phản ánh một thực trạng đáng lo ngại về tình trạng trẻ khuyết

tật và cuộc sống của trẻ em khuyết tật ở nước ta hiện nay, do đó rất cần sự hỗ

trợ, quan tâm, chia sẻ từ phía các cá nhân, cơ quan, tổ chức và toàn xã hội.

2.2. Thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh

vực xây dựng pháp luật

Pháp luật là khung pháp lý ghi nhận các quyền của con người nói

31

chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng, đồng thời cũng là cơ sở để bảo đảm

cho các quyền này được thực thi hiệu quả trên thực tế. Do đó, việc xây dựng

khung pháp luật hoàn chỉnh về trẻ em khuyết tật càng có vai trò vô cùng quan

trọng và nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.

2.2.1. Thành tựu

Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn là truyền thống tốt đẹp của

dân tộc ta. Kế thừa những quy định tiến bộ trong Bộ Luật Hồng Đức thời Hậu

Lê, ngay khi mới thành lập và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng

ta đã đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc “nam nữ bình quyền” nhằm chống

mọi hình thức phân biệt đối xử. Kết hợp với tinh thần nhân văn cao cả “trẻ em

hôm nay, thế giới ngày mai” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp

đó đã được khẳng định và thể chế hóa thành luật và chính sách của Nhà nước.

Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm

1946 đã quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi

phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6); và nhấn mạnh sự bảo đảm

quyền trẻ em, đó là: “Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều 14).

Quan điểm nhất quán về chăm lo và bảo đảm quyền con người, quyền

trẻ em đó cũng được kế thừa, thể hiện xuyên suốt trong các bản Hiến pháp

1959, 1980, 1992, và mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013 – Bản Hiến pháp

đầu tiên dành riêng Chương II để quy định về Quyền con người, Quyền và

nghĩa vụ công dân. Điều 3 Hiến pháp 2013 khẳng định, Nhà nước “công

, quyền công dân”, và nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người

nhấn mạnh “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con

người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được

công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều

14). Đặc biệt, “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc

và giáo dục; được tham gia và o cá c vấn đề về trẻ em ” (Điều 37). Hơn nữa,

32

nhằm bù đắp những thiệt thòi cũng như bảo đảm sự bình đẳng thực chất về

quyền và cơ hội với mọi công dân, khoản 2 Điều 59 đã nêu rõ:

Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng

phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ

giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn

cảnh khó khăn khác”; và Nhà nước “tạo điều kiện để người khuyết

tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề” (Điều 61).

Đây là những tư tưởng chỉ đạo, là nền tảng cho các quy định khác trong

hệ thống pháp luật Việt Nam về không chỉ trẻ em khuyết tật mà tất cả trẻ em

trên phạm vi toàn lãnh thổ.

Dựa trên tinh thần đó, trong những năm qua, nhiều chính sách riêng

cho trẻ em khuyết tật đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý để chăm sóc và

bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng yếu thế này. Đặc biệt, từ khi trở thành

quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công

ước quốc tế về quyền trẻ em 1948, đồng thời còn là thành viên thứ 118 tham

gia ký Công ước quốc tế về quyền của Người khuyết tật năm 2007, Việt Nam

đã và đang nỗ lực trong tiến trình nội luật hóa, đưa pháp luật Việt Nam lại gần

hơn với chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế về quyền của trẻ em khuyết

tật. Do đó, tại kỳ họp thứ 7, ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội nước Cộng

hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật người khuyết tật,

góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách dành cho người khuyết tật

nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Tính đến thời điểm hiện tại, đây là

văn bản pháp luật ghi nhận những quyền cơ bản của trẻ em khuyết tật một

cách hoàn chỉnh, thống nhất và có hiệu lực pháp lý trên phạm vi toàn quốc.

Đó thực sự là thành tựu lớn nhất trong công tác lập pháp về lĩnh vực này.

Nhằm tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp trẻ khuyết

tật theo quy định của Luật người khuyết tật, đồng thời thực hiện cam kết của

33

Chính phủ Việt Nam về 7 lĩnh vực ưu tiên trong Thập kỷ thứ II Thiên niên kỷ

Biwako về người khuyết tật khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt các Đề án, trong đó liên quan

trực tiếp và tập trung đến trẻ em khuyết tật là: Quyết định số 647/QĐ-TTg

ngày 26/04/2013 về việc Phê duyệt Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi

nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của

chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai,

thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 – 2020.

Có thể thấy, hệ thống pháp luật về trẻ khuyết tật được xây dựng khá

hoàn thiện và có nhiều nét tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế. Đi

liền với việc tạo hành lang pháp lí cần thiết thì việc quy định và áp dụng các

biện pháp chế tài thích hợp đối với chủ thể đã xâm phạm đến quyền, lợi ích

hợp pháp, chính đáng của trẻ cũng được chú trọng quan tâm và xây dựng. Tùy

từng đối tượng, từng trường hợp vi phạm mà có thể áp dụng một hoặc đồng

thời một số loại trách nhiệm pháp lí như: trách nhiệm kỉ luật, trách nhiệm

hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Như vậy, quyền của trẻ em khuyết tật chỉ được đảm bảo đảm thực hiện

khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Có được thành tựu kể trên là do sự

quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, đội ngũ cán bộ trực tiếp

xây dựng pháp luật đã được chuyên nghiệp hóa về mặt chuyên môn, nghiệp

vụ; công tác hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm thành tựu lập pháp ở các

quốc gia trên thế giới được đẩy mạnh và nâng cao. Do đó, quá trình xây dựng

pháp luật cho trẻ em khuyết tật trong những năm vừa qua đã gặt hái được

nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giúp trẻ vượt qua mặc cảm và nhanh

chóng hòa nhập cộng đồng.

2.2.2. Hạn chế

Mặc dù đã xây dựng được hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh về

quyền trẻ em khuyết tật, tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế như sau:

34

Một là, Việt Nam đã ban hành Luật người khuyết tật vào năm 2010,

nhưng những quy định trong luật chủ yếu hướng về người khuyết tật nói

chung. Quy định về trẻ em khuyết tật đa phần mang màu sắc ý chí chủ quan

của cơ quan lập pháp, chủ yếu dựa trên cơ sở suy đoán mà chưa thực sự đi sâu

tìm hiểu nguyện vọng của trẻ khuyết tật. Hơn nữa, các quy định đó chỉ mang

tính nguyên tắc và được lồng ghép, nhắc đến trong một vài điều khoản mà

chưa có hướng dẫn thực hiện cụ thể như: Nhà nước có chính sách ưu tiên thực

hiện bảo trợ và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em (khoản 3 Điều 5); ưu tiên

khám chữa bệnh cho trẻ em khuyết tật (khoản 2 Điều 23)…. Việc thiếu các

quy định mang tính chất cụ thể hóa là nguyên nhân dẫn đến khó khăn khi thực

hiện và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thụ hưởng quyền của trẻ.

Hai là, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều đề án, chương trình như:

Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối

nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020; Đề án Trợ giúp người

khuyết tật giai đoạn 2012 – 2022; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai

đoạn 2011 – 2015; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012

-2020… Tuy nhiên, những chương trình, đề án đó là dành cho người khuyết

tật hoặc trẻ em nói chung chứ không phải dành riêng cho trẻ em khuyết tật.

Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một chương trình nào đặc biệt dành riêng

cho trẻ khuyết tật. Đặt ra vấn đề này bởi xuất phát từ đặc điểm riêng về tâm

sinh lý và khiếm khuyết cơ thể, trẻ khuyết tật vừa có nhu cầu như những trẻ

em bình thường, lại vừa có nhu cầu giống như người khuyết tật khác. Vì vậy,

việc áp dụng chung các chương trình, đề án đó sẽ phần nào hạn chế việc đáp

ứng mong muốn của nhóm đối tượng bị tổn thương kép này.

Ba là, về quy định độ tuổi của trẻ em khuyết tật. Việc xác định độ tuổi

nào được coi là trẻ em sẽ mang lại nhiều quyền lợi cho trẻ khuyết tật. Tuy

nhiên hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta tồn tại nhiều quy định không thống

35

nhất về tuổi trẻ em dẫn đến những khó khăn trong quá trình thực hiện. Điều 1

Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định, trẻ em là

những người dưới 16 tuổi. Điều 6 Bộ luật Lao động quy định: “người lao

động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp

đồng lao động”. Hay trong Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “người từ đủ 18

tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành

niên”. Trong khi đó, hầu hết các điều ước và thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam

đã ký kết, tham gia lại quy định độ tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi. Như vậy, việc

quy định trẻ em là những người dưới 16 tuổi hay dưới 18 tuổi ở nước ta vẫn

chưa thực sự thống nhất và các chính sách liên quan đến trẻ em chủ yếu dành

cho đối tượng dưới 16 tuổi hưởng lợi, còn lứa tuổi từ 16 – 18 chưa có những

quy định cụ thể, rõ ràng. Sự thiếu thống nhất trong việc quy định độ tuổi vị

thành niên không chỉ gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc đảm

bảo quyền lợi của trẻ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền

của trẻ em, đặc biệt là trẻ em khuyết tật.

Bốn là, về các biện pháp xử phạt đối với hành vi vi phạm quyền của trẻ

em khuyết tật. Mặc dù Điều 7 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và

Điều 14 Luật người khuyết tật đã liệt kê khá đầy đủ các hành vi bị nghiêm

cấm, quy định rõ ràng trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan, tổ chức xã hội

đối với trẻ khuyết tật và khẳng định sẽ nghiêm trị mọi hành vi vi phạm làm

tổn hại đến quyền trẻ em, nhưng không có bất cứ điều khoản nào quy định về

các biện pháp chế tài cụ thể được áp dụng nếu có hành vi vi phạm những

quyền đó. Điều này gây khó khăn trong việc xử lý vi phạm, ảnh hưởng không

nhỏ đến quá trình bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em khuyết tật.

Năm là, vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ cán bộ nhà nước đại diện

cho các cơ quan trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng pháp luật còn

hạn chế về trình độ, ý thức tôn trọng trẻ khuyết tật thấp nên vẫn xảy ra tình

36

trạng phân biệt đối xử. Hơn nữa, dù đã đẩy mạnh việc hợp tác trao đổi kinh

nghiệm với các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực này song thực sự vẫn

chưa đạt được hiệu quả cao, hoạt động chỉ mang tính hình thức, và số lượng

các buổi giao lưu trao đổi kinh nghiệm còn khá ít. Điều này đã ảnh hưởng đến

việc xây dựng pháp luật về bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật.

Sáu là, Việt Nam chưa xây dựng được một cơ quan quốc gia về bảo vệ

và thúc đẩy nhân quyền. Đây thực sự là hạn chế rất lớn đối với công cuộc bảo

đảm quyền của không chỉ trẻ em khuyết tật mà còn cả công cuộc bảo đảm

quyền con người ở nước ta. Bởi khi một cơ quan nhân quyền quốc gia được

thành lập, sẽ hình thành một cơ chế riêng về việc giám sát, thực thi và bảo vệ

pháp luật về quyền con người nói chung và quyền của trẻ em khuyết tật nói

riêng. Việc chưa xây dựng được cơ quan này thậm chí chưa có bất cứ một quy

định về việc thành lập cơ quan này trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản, cao

nhất ở Việt Nam là một hạn chế rất lớn, khiến việc bảo đảm quyền trẻ em

khuyết tật chưa thực sự đạt được hiệu quả cao trên thực tế.

Đó là những hạn chế về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh

vực xây dựng pháp luật. Nguyên nhân của hạn chế này xuất phát từ việc mỗi

văn bản pháp luật được ban hành ở các thời điểm khác nhau, trong những lĩnh

vực và hoàn cảnh khác nhau. Đặc biệt, các văn bản luật chỉ mang tính định

hướng, chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể, đồng thời, ngân sách đầu

tư cho công tác xây dựng pháp luật về lĩnh vực này còn hạn hẹp. Điều này đặt

ra yêu cầu cần nhanh chóng có những giải pháp nhằm khắc phục phần nào

những hạn chế trong quá trình xây dựng pháp luật để đảm bảo quyền cho

nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.

2.3. Thực trạng Bảo đảm một số quyền của trẻ em khuyết tật

Trẻ em khuyết tật trước hết là trẻ em, còn non nớt về mặt tâm sinh lý,

lại mang trong mình những khiếm khuyết về mặt cơ thể như những người

37

khuyết tật khác, do đó, việc nghiên cứu và xác định các quyền của trẻ em

khuyết tật sẽ dựa trên quyền của trẻ em quy định tại Luật bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục trẻ em năm 2004 và quyền của người khuyết tật ghi nhận tại Luật

người khuyết tật năm 2010. Trên cơ sở thừa nhận sự bình đẳng, không phân

biệt đối xử, ở Việt Nam, trẻ em khuyết tật sẽ được hưởng tất cả các quyền mà

pháp luật quy định. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần chung của pháp

luật quốc tế. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ

chọn, phân tích một số quyền mà theo quan điểm của bản thân tác giả, đây là

những quyền cơ bản, và ngay bản thân trẻ em khuyết tật cũng có thể nhận

thấy rằng mình dễ bị xâm phạm nhất, bao gồm: Quyền được giáo dục; Quyền

được hưởng bảo trợ xã hội; Quyền được chăm sóc sức khoẻ; Quyền được

tham gia hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí; Quyền được tiếp cận cơ sở hạ

tầng, dịch vụ công cộng; cụ thể từng quyền như sau:

2.3.1. Quyền được giáo dục

2.3.1.1. Quy định của pháp luật

Với phương châm: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, khoản 3

Điều 61, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước “tạo điều kiện để người

khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”. Theo đó, trẻ

khuyết tật có quyền được giáo dục như các trẻ em không khuyết tật khác và

được hưởng đầy đủ quyền này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào

trên cơ sở bình đẳng về cơ hội.

Trẻ khuyết tật cũng có nhu cầu học tập, nhưng do khiếm khuyết cơ thể

nên việc học tập của họ gặp nhiều khó khăn hơn, do đó, Nhà nước, pháp luật

và xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ thông qua những quy định riêng

biệt mang tính chất ưu tiên dựa trên cơ sở khắc phục khiếm khuyết của trẻ

chứ không mang tính chất bất bình đẳng giữa trẻ khuyết tật với trẻ không

khuyết tật như: được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối

38

với giáo dục phổ thông; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo; được xét

cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập…

Tuy nhiên, do sự đa dạng trong dạng tật và mức độ tật ở mỗi trẻ rất

khác nhau nên Luật Người khuyết tật 2010 đã đưa ra ba phương thức giáo dục

giành riêng cho trẻ em khuyết tật đó là: Giáo dục hoà nhập, Giáo dục bán hoà

nhập và Giáo dục chuyên biệt. Trẻ khuyết tật, cha, mẹ hoặc người giám hộ trẻ

khuyết tật được lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp với sự phát triển của

cá nhân trẻ khuyết tật, và Nhà nước khuyến khích trẻ học tập theo phương

thức giáo dục hòa nhập cho phù hợp với xu thế chung của quốc tế.

Như vậy, có thể thấy, các quy định về quyền giáo dục cho trẻ em

khuyết tật trong pháp luật Việt Nam về cơ bản phù hợp với quy định của pháp

luật quốc tế, cụ thể là Điều 24 Công ước về quyền của người khuyết tật 2007

và Điều 28, Điều 29 Công ước về quyền trẻ em 1989. Điều đó khẳng định

Việt Nam rất quan tâm đến quyền của nhóm đối tượng tổn thương kép này và

luôn nỗ lực hoàn thiện nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho trẻ em khuyết tật.

2.3.1.2. Thành tựu

Nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về việc đảm bảo đầy đủ

các quyền cho trẻ khuyết tật, mô hình giáo dục cho trẻ em khuyết tật đã, đang

được triển khai rộng rãi trên phạm vi cả nước và đạt nhiều thành tựu đáng kể:

Giáo dục hòa nhập: Theo báo cáo của các Sở Giáo dục và Đào tạo,

được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tính đến năm học 2007 - 2008, có

15.349 trẻ khuyết tật mầm non được học hòa nhập, đạt tỷ lệ 62,8% tổng số trẻ

khuyết tật mầm non; khoảng hơn 290.000 học sinh khuyết tật tiểu học, Trung

học cơ sở học hòa nhập tại các cơ sở giáo dục phổ thông, chiếm 28% tổng số

trẻ em khuyết tật. Không chỉ vậy, hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo

dục hoà nhập được xây dựng đồng bộ; mạng lưới bồi dưỡng đào tạo cán bộ,

giáo viên cho giáo dục hoà nhập cũng được hình thành và phát triển ở hầu

39

khắp các trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu. Theo thống kê của Bộ

Giáo dục và đào tạo, đến nay cả nước có khoảng 2500 trường phổ thông tiến

hành giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật, 4 trường Đại học sư phạm đã mở

mã ngành sư phạm giáo dục đặc biệt; 3 trường cao đẳng sư phạm thành lập

khoa giáo dục đặc biệt nhằm đào tạo giáo viên trình độ cử nhân và cao đẳng

sư phạm về tật học. Đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên tham gia giáo dục

người khuyết tật ngày càng tăng với hơn 700 giáo viên được đào tạo trình độ

cao đẳng về giáo dục hòa nhập và hơn 10.000 giáo viên mầm non và tiểu học

đã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng dạy học hòa nhập cho các loại trẻ

khuyết tật khác nhau. Ngoài ra, Công tác xã hội hoá giáo dục hoà nhập cũng

được thúc đẩy và nhận được sự ủng hộ tích cực từ phía chính quyền địa

phương, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức nhằm

thúc đẩy giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam. [15]

Giáo dục chuyên biệt: Hệ thống các trường giáo dục chuyên biệt được

xây dựng và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nếu năm 2001 có 90

trường giáo dục chuyên biệt thì tính đến năm 2010, cả nước đã có 106 trường

giáo dục chuyên biệt với 7583 học sinh khuyết tật theo học. Hệ thống cơ sở vật

chất, trang thiết bị được cải tiến để chăm sóc, giáo dục và phục hồi chức năng

cho trẻ khuyết tật, đồng thời cũng xây dựng được chương trình giáo dục

chuyên biệt cho một số dạng khuyết tật như chậm phát triển trí tuệ, khiếm

thính, khiếm thị. Số lượng trẻ khuyết tật tham gia giáo dục chuyên biệt ngày

càng tăng, nếu Năm học 2001-2002 có 7000 em thì đến năm học 2006-2007 có

khoảng 9000 trẻ em khuyết tật học trong các cơ sở giáo dục chuyên biệt. [15]

Giáo dục bán hòa nhập: như: trường, lớp bán trú dân nuôi tại xã;

trường học dạy lớp ghép; trường có lớp cắm bản (trường chính và các điểm

trường phân hiệu); trường dân tộc nội trú; lớp học tình thương… được hình

thành ở nhiều nơi với nhiều hình thức phong phú nhằm phục vụ có hiệu quả

40

cho công tác chăm sóc, giáo dục và phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật.

Như vậy, việc tái hòa nhập mạnh mẽ của trẻ khuyết tật vào hệ thống

giáo dục phổ thông nêu trên chính là sự phản ánh bước tiến quan trọng trong

chính sách đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em khuyết tật hiện nay.

2.3.1.3. Hạn chế

Mặc dù dành được nhiều thành tựu đáng kể, song hiện nay, giáo dục

cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế cả về số lượng và

chất lượng, vẫn còn bộ phận lớn trẻ em khuyết tật chưa được đến trường, nhất

là ở khu vực nông thôn, miền núi và nhóm trẻ em khuyết tật trí tuệ.

Theo báo cáo năm 2007 của Viện khoa học Giáo dục về công tác giáo

dục trẻ khuyết tật cho thấy: có đến 55,49% trẻ em gái và 39,01% trẻ em trai bị

khuyết tật chưa từng được đi học. Tỷ lệ huy động trẻ khuyết tật đến trường

hàng năm rất thấp và dấu hiệu gia tăng chậm, năm học 2005 - 2006 có

24,22%, năm học 2006 - 2007 có khoảng gần 27,38% và năm học 2007 -

2008 chỉ có 28% trẻ khuyết tật được đến trường và chủ yếu ở bậc mầm non và

tiểu học; trong khi đó lại có đến 32,99% trẻ khuyết tật đi học bỏ học. [15]

Mạng lưới các cơ sở giáo dục cho người khuyết tật còn thiếu, phân bố

không đều; Chương trình, tài liệu đào tạo bồi dưỡng cho đối tượng trẻ khuyết

tật còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên thấp cả

về số lượng và chất lượng, không thể đáp ứng được yêu cầu triển khai giáo

dục trẻ khuyết tật với quy mô lớn và đồng đều trên phạm vi toàn quốc. Ngoài

ra, ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục trẻ khuyết tật còn quá ít trong khi

kinh phí để đầu tư cho việc xây dựng, đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng,

cũng như kinh phí đào tạo đội ngũ giáo viên lại không nhỏ. Điều này khiến

hoạt động giáo dục trẻ khuyết tật không thực sự được đảm bảo trên thực tế.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng quyền được giáo dục của trẻ

em khuyết tật bị hạn chế đó là do nhận thức của trẻ khuyết tật và gia đình có

41

trẻ khuyết tật về giáo dục cho đối tượng này chưa đầy đủ, không nhìn nhận

đúng lợi ích của giáo dục đối với trẻ khuyết tật. Hơn nữa, hệ thống quản lý

giáo dục trẻ em khuyết tật dù đã hình thành ở hầu khắp các tỉnh, thành phố,

nhưng mới chỉ bước đầu đi vào hoạt động. Mục tiêu dẫu đề ra cụ thể nhưng lộ

trình và giải pháp thực hiện còn quá mơ hồ, chưa có sự chỉ đạo đồng bộ ở các

cấp, các ngành, nên thực tế khi triển khai ở các địa phương đều lúng túng và

tự phát. Bên cạnh đó, cộng đồng dân cư và đại đa số các thầy cô giáo vẫn cho

rằng trẻ khuyết tật chỉ nên học ở các trường lớp chuyên biệt, không thể hòa

nhập trong hệ thống giáo dục phổ thông, nên có rất ít trẻ có cơ hội được học

hòa nhập. Những điều này đã gây khó khăn không nhỏ cho công tác đảm bảo

thực thi quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục.

2.3.2. Quyền được hưởng bảo trợ xã hội

2.3.2.1. Quy định của pháp luật

Bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội và cộng đồng dành

cho các đối tượng gặp phải rủi ro, bất hạnh, vì nhiều nguyên nhân khác nhau

dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và

gia đình. Một trong số các nhóm đối tượng đó là trẻ em khuyết tật.

Tiếp thu tinh thần nhân văn tại Điều 28 của Công ước về quyền của

người khuyết tật, và kế thừa thành tựu lập pháp về bảo trợ xã hội trong Pháp

lệnh về người khuyết tật 1998, Luật người khuyết tật năm 2010 đã dành riêng

Chương VIII để quy định về nội dung bảo trợ xã hội cho người khuyết tật nói

chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Theo đó, chế độ bảo trợ xã hội cho trẻ

khuyết tật chủ yếu bao gồm: chế độ trợ cấp, hỗ trợ cho trẻ khuyết tật và chế

độ nuôi dưỡng trẻ khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ xã hội. Cụ thể:

Đối với chế độ trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng

được ghi nhận tại Điều 44 Luật người khuyết tật 2010: Chế độ này gồm hai

nội dung: Trợ cấp xã hội hàng tháng: chỉ dành riêng cho trẻ em khuyết tật đặc

42

biệt nặng và trẻ khuyết tật nặng không sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội với

mức trợ cấp được tính theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, trẻ khuyết tật

sẽ được hưởng mức trợ cấp cao hơn so với các đối tượng khác ở cùng mức độ

khuyết tật (khoản 3 Điều 44 Luật người khuyết tật). Và hỗ trợ kinh phí chăm

sóc hàng tháng được áp dụng cho nhân thân, gia đình và người nhận nuôi trẻ

khuyết tật đặc biệt nặng (khoản 2 Điều 44 Luật người khuyết tật), với mức hỗ

trợ hỗ trợ được thực hiện theo quy định tại Điều 17 Nghị định 28/2012.

Đối với chế độ nuôi dưỡng trẻ khuyết tật tại cơ sở bảo trợ xã hội: theo

quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật người khuyết tật, chỉ những trẻ khuyết tật

đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo được cuộc sống mới được

tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội này và được bảo đảm bảo

bằng kinh phí của Nhà nước theo khoản 1 Điều 18 Nghị định 28/2012.

Như vậy, dù có sự khác biệt giữa mức độ chăm sóc nuôi dưỡng trẻ

khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ hay trẻ khuyết tật tại gia đình, thì mục đích

cuối cùng vẫn là hướng đến lợi ích tốt nhất của trẻ. Đó không chỉ là trách

nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn thể cộng đồng, thể hiện

giá trị nhân văn cơ bản, có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề

xã hội của quốc gia, phù hợp với xu thế chung của quốc tế.

2.3.2.2. Thành tựu

Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đến năm 2008,

các địa phương đã thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng cho 395.962 người

khuyết tật nghèo và 8.599 hộ có từ hai người khuyết tật trở lên, nuôi dưỡng tập

trung 9.798 người khuyết tật trong 300 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có trẻ em

khuyết tật. Các chế độ trợ giúp cũng đã được điều chỉnh tăng từ 45.000

đồng/tháng vào năm 2000 lên 65.000 đồng/tháng vào năm 2004 và

120.000đồng/tháng vào năm 2007. Ngoài ra, những trẻ khuyết tật bị hậu quả

chất độc hóa học là con đẻ của 622.783 người khuyết tật là thương binh, người

43

hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, quân nhân bị tai nạn lao động,

quân nhân bị bệnh nghề nghiệp, 133.356 người tham gia kháng chiến cũng

đang được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo quy định của Pháp lệnh

Người có công với cách mạng. [15]. Chính sách trợ giúp xã hội đã góp phần

quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần của trẻ khuyết tật.

Bên cạnh đó, số lượng các cơ sở bảo trợ xã hội tăng nhanh. Tính đến

tháng 12/2008, cả nước có khoảng 571 cơ sở bảo trợ xã hội (hơn 1/3 trong số

đó là các cơ sở ngoài Nhà nước) [15] và các cơ sở bảo trợ xã hội này hoạt

động khá hiệu quả, như:

Cơ sở Nuôi dưỡng và Bảo trợ trẻ em khuyết tật Thiên Phước (Thành

phố Hồ Chí Minh): sau hơn 12 năm đi vào hoạt động, kêu gọi sự ưu ái và hỗ

trợ của các nhà hảo tâm trong và ngoài nước, cơ sở này đã đón nhận chăm sóc

nuôi dưỡng biết bao trẻ em khuyết tật và tổ chức các Chương trình sinh hoạt,

tham quan với nhiều tình nguyện viên để trẻ em khuyết tật được giao lưu với

xã hội, cộng đồng. Với ba cơ sở hoạt động được trang bị đầy đủ các phương

tiện, khoa học kĩ thuật, Thiên Phước đang ngày càng nỗ lực để giúp cho trẻ

em khuyết tật nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng.[32]

Hay Trung tâm phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An, tại Ba Vì, Hà

Nội chuyên tiếp nhận, chăm sóc, nuôi dưỡng, chỉnh hình, phục hồi chức năng,

giáo dục, hướng nghiệp cho trẻ em khuyết tật là con liệt sĩ, thương binh, bệnh

binh, các cháu bị tàn tật do di chứng của chất độc da cam, và con em các gia

đình nghèo của các tỉnh thành phía Bắc Việt Nam. Thành lập từ năm 1976,

trải qua gần 40 năm hoạt động, Trung tâm đã đón nhận và phục hồi chức năng

cho hàng nghìn trẻ em khuyết tật, tổ chức nhiều sân vui chơi, giải trí nhằm

khuyến khích trẻ em khuyết tật tham gia. Gần đây nhất, với sự quan tâm và

hướng dẫn của các thầy cô đến từ Trung tâm, nhóm nhảy Nghị lực Energy

khiếm thính của Trung tâm phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An đã tham

44

gia và lọt vào vòng bán kết Chương trình Vietnam’s Got Tailent, gây tiếng

vang lớn, giúp mọi người có bài học quý giá về tinh thần lạc quan và nghị lực

mạnh mẽ vươn lên trong cuộc sống. [33]

Đó là những thành tựu trong việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật

trong lĩnh vực bảo trợ xã hội. Nhờ có chính sách này, đời sống của trẻ em

khuyết tật được ổn định đáng kể, hơn nữa, việc thành lập các cơ sở bảo trợ xã

hội với các hoạt động đầy ý nghĩa, đã góp phần tích cực trong công tác hỗ trợ,

bảo vệ và chăm sóc trẻ em khuyết tật trên phạm vi cả nước.

2.3.2.3. Hạn chế

Mặc dù pháp luật đã có nhiều chính sách hỗ trợ nhằm giúp cho trẻ em

khuyết tật bảo đảm cuộc sống của mình. Nhưng trên thực tế, vẫn còn nhiều

hạn chế khi trẻ khuyết tật tiếp cận với quyền hưởng bảo trợ xã hội, cụ thể:

Về việc xác định đối tượng thuộc diện hưởng chính sách trợ cấp còn

nhiều bất cập. Theo đó, không phải mọi trẻ em khuyết tật đều được hưởng trợ

cấp xã hội hàng tháng, mà chỉ có trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng và trẻ khuyết

tật nặng mới là đối tượng thụ hưởng quyền này. Do đó dẫn đến tình trạng

nhiều trẻ em khuyết tật nhẹ dù gặp khó khăn cũng không được hưởng trợ cấp,

trong khi bản thân trẻ vẫn chưa có thu nhập ổn định để nuôi sống chính mình,

chưa kể đến gia đình, hoặc cơ sở nuôi hoặc nhận nuôi trẻ khuyết tật cũng gặp

khó khăn nếu phải nuôi một, hoặc hai trẻ khuyết tật nhẹ cùng một lúc. Điều

này vô tình khiến nhiều trẻ em khuyết tật nhận thấy mình chưa được hưởng

chính sách hỗ trợ quan tâm từ phía Nhà nước, cho dù trẻ chỉ bị khuyết tật nhẹ.

Về mức trợ cấp hàng tháng: dù đã được điều chỉnh tăng mức trợ cấp và

ưu tiên cho trẻ khuyết tật được hưởng mức cao hơn so với các đối tượng khác

ở cùng mức độ khuyết tật nhưng nhìn chung, mức trợ cấp xã hội còn thấp so

với mặt bằng mức sống dân cư, nên chưa thể đảm bảo được đời sống của trẻ.

Về cơ sở bảo trợ xã hội: do số lượng trẻ khuyết tật ở nước ta tương đối

45

lớn, Theo kết quả từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, Việt Nam vẫn

còn khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật, nên cần khá nhiều cơ sở bảo trợ xã

hội. Nhưng trên thực tế, số cơ sở chăm sóc trẻ khuyết tật vẫn còn ít, không

phải đều được thành lập ở các địa phương, sự tham gia của khu vực tư nhân

vào việc thành lập cơ sở chăm sóc trẻ khuyết tật còn rất hạn chế, vì vậy chưa

thể đáp ứng được nhu cầu cần được chăm sóc của nhóm đối tượng này.

Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế này là do ngân sách của nhà nước

chưa được đảm bảo, nguồn lực đầu tư vào các chính sách, chương trình dành

cho trẻ khuyết tật còn quá nhỏ so với đòi hỏi thực tế, từ đó dẫn đến tình trạng

chưa thể bảo đảm đầy đủ quyền được hưởng bảo trợ của trẻ em khuyết tật.

2.3.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe

2.3.3.1. Quy định của pháp luật

Theo quy định tại Điều 15 Luật chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em và

tinh thần của Luật người khuyết tật, thì nội dung chế độ chăm sóc sức khỏe

cho trẻ em khuyết tật bao gồm ba hoạt động sau: Chăm sóc sức khỏe ban đầu;

Khám, chữa bệnh; và Phục hồi chức năng. Cụ thể:

Đối với hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu: theo quy định tại Điều

21 Luật người khuyết tật, trẻ khuyết tật được giáo dục, tuyên truyền, phổ biến

kiến thức về chăm sóc sức khỏe; được tham gia chương trình giáo dục đặc

biệt; được thực hiện các biện pháp phòng ngừa và can thiệp sớm nhằm nhận

ra dấu hiệu sớm nhất của khuyết tật để kịp thời chuẩn đoán và điều trị có hiệu

quả. Quy định này phù hợp với khoản 2 Điều 25 CRDP, thể hiện quan điểm y

học hiện đại coi phòng bệnh hơn chữa bệnh.

Đối với hoạt động khám, chữa bệnh: trẻ khuyết tật được tạo điều kiện

để thực hiện quyền khám chữa bệnh một cách bình đẳng, được ưu tiên khám

chữa bệnh theo quy định tại khoản 2 Điều 23 luật này dưới các hình thức:

miễn phí, giảm phí, ưu tiên về thứ tự khám chữa bệnh… Các quy định này

46

phù hợp với khoản 1 Điều 25 CRDP trong đó nhấn mạnh đến việc cung cấp

cho trẻ khuyết tật “sự chăm sóc và chương trình y tế cùng loại, cùng chất

lượng, cùng tiêu chuẩn” như đối với những người bình thường khác mà

không hề có bất kì sự phân biệt đối xử nào.

Đối với hoạt động phục hồi chức năng: đây là nội dung đặc biệt quan

trọng, là quyền đặc thù, riêng có của trẻ em khuyết tật. Trẻ khuyết tật có thể

phục hồi thông qua các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng như: Viện chỉnh

hình, phục hồi chức năng, Trung tâm chỉnh hình, phục hồi chức năng…; hoặc

Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng – hình thức phục hồi mà trẻ có thể

thực hiện ngay tại nơi với những người mà trẻ khuyết tật cùng sinh sống

nhằm tạo sự bình đẳng về cơ hội và hòa nhập cộng đồng cho trẻ.

Như vậy, quyền được chăm sóc sức khỏe được pháp luật Việt Nam quy

định tương đối đầy đủ và cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế, góp phần đẩy

mạnh hoạt động bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh vực này.

2.3.3.2. Thành tựu

Trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vài năm trở lại

đây nhấn mạnh: Chăm sóc người khuyết tật cần tập trung vào trẻ em, vì phát

hiện sớm, phòng ngừa tốt sẽ có biện pháp xử lí kịp thời và điều trị phù hợp,

hạn chế các hậu quả do khuyết tật gây ra. Nhờ vậy, hoạt động này đã đạt được

nhiều thành tựu đáng kể.

Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, đến nay, các

địa phương đã thực hiện khá tốt công tác phẫu thuật chỉnh hình, hỗ trợ phục

hồi chức năng cho hàng trăm ngàn trẻ em khuyết tật; cung cấp tương đối đầy

đủ các phương tiện trợ giúp như: xe lăn, xe đẩy, chân tay giả; hoạt động ưu

tiên, ưu đãi trong khám chữa bệnh cho trẻ em khuyết tật nhằm chuẩn đoán

đúng và điều trị chăm sóc kịp thời cũng đạt được hiệu quả khá cao. Bên cạnh

đó, mạng lưới trạm y tế xã đã phát triển ở hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả

47

nước. Theo số liệu thống kê có khoảng 98,6% xã, phường có trạm y tế xã;

trong đó 67,7% xã, phường có bác sỹ; và gần 85% thôn bản có cán bộ y tế

cộng đồng, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh tối thiểu cho

người dân và trẻ khuyết tật. Đồng thời, năng lực chuyên môn chuyên ngành

phục hồi chức năng cho đội ngũ cán bộ y tế cũng được tăng cường, góp phần

thực hiện có hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ em khuyết tật. Hoạt

động phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cũng đạt được kết quả cao: Việt

Nam đã điều tra, phát hiện, tạo điều kiện quản lý sức khỏe cho hơn 170.000

người khuyết tật, tiến hành biện pháp phục hồi chức năng cho 23,2% người có

nhu cầu và 44,7% người khuyết tật, trong số đó có trẻ em khuyết tật. [15]

Tại một số địa phương, các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ em

khuyết tật diễn ra khá sôi nổi và tích cực. Như trong năm 2013, Quỹ Bảo trợ

trẻ em Nghệ An đã vận động hơn 18 tỷ đồng triển khai khám và phân loại

bệnh cho hơn 10.000 trẻ em khuyết tật các loại; phẫu thuật cho hơn 500 trẻ bị

khuyết tật về tim, mắt, cơ quan vận động, sứt môi hở vòm, phẫu thuật thành

công cho 133 em bị khuyết tật bẩm sinh. [34]. Hay vào tháng 4/2013, Quỹ

Bảo trợ trẻ em Thanh hóa phối hợp với Hội Thiện Nguyện SAP-VN Hoa Kỳ

tại Việt Nam, Trung tâm Cung cấp dịch vụ xã hội Thanh Hóa, Bệnh viện Mắt

Thanh Hóa, Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội các huyện, thị xã, thành

phố tổ chức khám sàng lọc cho gần 400 trẻ em bị khuyết tật… [35].

Đó là những thành tựu trong công tác thực thi nhằm đảm bảo quyền

được chăm sóc sức khỏe của trẻ em khuyết tật trên thực tế. Những hoạt động

này ngày càng được nhân rộng và nhận được sự quan tâm không chỉ của

Đảng, Nhà nước mà còn của toàn xã hội, từ đó góp phần giúp trẻ tham gia

tích cực và hiệu quả vào các hoạt động giải trí, văn hóa, xã hội.

2.3.3.3. Hạn chế

Dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể song vấn đề chăm sóc sức khỏe

cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam đang gặp phải nhiều khó khăn.

48

Trước hết, Trẻ khuyết tật gặp khó khăn trong tiếp cận với các dịch vụ y

tế, đặc biệt là trẻ khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện đi lại không

thuận tiện. Hơn nữa, phần lớn hộ gia đình có trẻ khuyết tật có hoàn cảnh kinh

tế khó khăn, nên việc cho trẻ tiếp cận với dịch vụ y tế, nhất là dịch vụ y tế

chất lượng cao vượt quá khả năng tài chính của họ. Trong khi đó, việc sử

dụng thẻ bảo hiểm y tế còn nhiều bất cập, một số danh mục kỹ thuật phục hồi

chức năng đang được thực hiện tại các cơ sở y tế chưa được quỹ bảo hiểm y tế

chi trả, phần lớn các dụng cụ trợ giúp cho trẻ khuyết tật chưa được bảo hiểm y

tế thanh toán.

Không chỉ vậy, nhận thức của nhiều gia đình về nhu cầu chăm sóc sức

khỏe và dinh dưỡng đối với trẻ khuyết tật hiện vẫn còn rất hạn chế. Nhiều gia

đình không nhận thấy cần phải chăm sóc sức khỏe nhiều hơn cho trẻ, hoặc

không biết chăm sóc sức khỏe cho trẻ như vậy ở đâu, hoặc không có khả năng

tiếp cận tới các dịch vụ đó ngay cả khi dịch vụ đó có tồn tại.

Các mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng mặc dù được triển

khai ở Việt Nam từ năm 1987, nhưng cho đến nay chủ yếu thực hiện các hoạt

động trong phạm vi của lĩnh vực y tế, sự tham gia của các ngành thuộc các

lĩnh vực khác còn hạn chế. Nguồn kinh phí chi cho chương trình này còn rất

hạn chế, chủ yếu dựa vào các tổ chức Quốc tế, Tổ chức phi Chính phủ nên kết

quả thực hiện chưa cao.

Hoạt động phát hiện sớm khuyết tật và can thiệp sớm chưa thực sự phát

triển. Vì vậy trẻ thường được đưa đến các cơ sở y tế để chữa bệnh hơn là để

phòng bệnh, và việc chữa bệnh cũng gặp nhiều khó khăn do không được phát

hiện sớm. Trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu, việc quan tâm đến dự

phòng khuyết tật chưa thực sự được chú trọng, đặc biệt trong trường hợp các

gia đình có nhiều trẻ khuyết tật.

Bên cạnh đó, năng lực của các nhân viên y tế và những cán bộ khác

49

trong cộng đồng còn hạn chế và không đồng đều giữa các khu vực. Họ có thể

không đủ khả năng tư vấn và hỗ trợ cho cha mẹ trẻ khuyết tật, cũng như

hướng dẫn các trường hợp khuyết tật phức tạp hơn chuyển tuyến tới các dịch

vụ đặc biệt.

Chính vì những hạn chế này nên quá trình thực thi quyền được chăm

sóc sức khỏe cho trẻ em khuyết tật đã vấp phải khá nhiều khó khăn, và gây

ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trên thực tế.

2.3.4. Quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí

2.3.4.1. Quy định của pháp luật

Là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới tham gia Công

ước về quyền trẻ em, đồng thời, cũng là quốc gia đã kí tham gia và đang trong

quá trình chuẩn bị phê chuẩn Công ước về quyền của người khuyết tật 2007,

Việt Nam cũng có nhiều quy định về đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật

trong lĩnh vực này phù hợp với pháp luật quốc tế.

Điều 17 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thừa nhận: trẻ em

khuyết tật cũng có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn

hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi. Điều 4 Luật

người khuyết tật cũng khẳng định, trẻ khuyết tật có quyền tham gia bình đẳng

vào các hoạt động xã hội, được tiếp cận các dịch vụ văn hóa, thể thao, du

lịch… phù hợp với dạng tật và mức độ tiếp cận. Trẻ khuyết tật có thể tham gia

vào các hoạt động này trên hai phương diện: thưởng thức các hoạt động do

người khác thực hiện hoặc chính bản thân họ chủ động thực hiện các hoạt

động tập luyện, biểu diễn, sáng tác, thi đấu. Nếu thưởng thức các hoạt động

văn hóa, thể thao, giải trí giúp trẻ khuyết tật có cơ hội mở mang trí tuệ và

nhận thức, tăng cường sự hiểu biết, tích lũy kinh nghiệm sống, góp phần cải

thiện đời sống tinh thần của trẻ; thì việc trực tiếp tham gia các hoạt động xã

hội, trẻ khuyết tật có thể cải thiện sức khỏe, giải tỏa căng thẳng, áp lực, rèn

50

luyện các kỹ năng như: thông minh, khéo léo, cao thượng… Điều này không

chỉ đem lại lợi ích cho bản thân trẻ khuyết tật mà còn làm phong phú, đa dạng

đời sống của cộng đồng. Nhìn chung, các quy định này tương đối phù hợp với

quy định tại Điều 31 CRC và Điều 30 CRDP.

Như vậy, quyền được tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao,

giải trí của trẻ khuyết tật là một trong những quyền đặc biệt quan trọng. Nhờ

đó, trẻ khuyết tật có cơ hội được tiếp xúc, giao lưu, bộc lộ khả năng để khẳng

định mình, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.

2.3.4.2. Thành tựu

Trong những năm qua, việc triển khai đảm bảo thực hiện quyền được

tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí của trẻ khuyết tật đã đạt

được nhiều thành tựu đáng kể. Trước hết phải kể đến việc Nhà nước đã hỗ trợ

kinh phí cho Trung ương Hội Người mù sản xuất chữ nổi, sách nổi, tổ chức

các buổi liên hoan văn nghệ quần chúng các cấp, tạo diễn đàn cho trẻ khuyết

tật được thể hiện năng khiếu, vui chơi, giải trí.

Bên cạnh đó, để hưởng ứng năm quốc tế người tàn tật và thực hiện Nghị

quyết hội nghị Ban chấp hành trung ương Hội khuyến học lần thứ V khóa IV

và Quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội của người khuyết tật,

Đảng và Nhà nước đã tổ chức Hội diễn văn hóa văn nghệ trẻ khuyết tật toàn

quốc lần thứ nhất với chủ đề: Nghị lực và Tình thương vào giữa tháng 8/2013.

[36]. Đây là hoạt động vô cùng có ý nghĩa, nhằm tạo sân chơi bổ ích cho trẻ em

khuyết tật, giúp cho trẻ được thể hiện khả năng của mình.

Phong trào thể dục thể thao cho trẻ khuyết tật đã phát triển mạnh mẽ ở

các địa phương trong cả nước cả về quy mô và số lượng các môn luyện tập,

thi đấu, thu hút được đông đảo trẻ em khuyết tật tham gia. Tháng 03/2013, Sở

Văn hóa – thể thao và du lịch Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Công ty

P&G VN và Công ty Metro VN tổ chức “Giải thể thao người khuyết tật

51

TP.HCM 2013” với sự tham gia của gần 250 trẻ đang theo học tại hơn 15 cơ

sở dành cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố [37]; Hay Hội thi thể

thao học sinh khuyết tật toàn quốc lần thứ V vào cuối tháng 12/2013 do tỉnh

Thái Nguyên đăng cai tổ chức đã thu hút hơn 600 vận động viên là các học

sinh khuyết tật tham gia Hội thi… [38].

Với nhiều hoạt động sôi nổi, lý thú trên phạm vi cả nước, trẻ em khuyết

tật đã được tạo điều kiện vui chơi, giao lưu văn hóa văn nghệ, tham gia những

trò chơi kỹ năng bổ ích và quyền về tiếp cận văn hóa, thể thao, giải trí của trẻ

em khuyết tật nhờ đó được đảm bảo. Những hoạt động ấy không chỉ góp phần

rèn luyện sức khỏe, rèn luyện nhân cách, tinh thần vượt khó mà còn có ý

nghĩa thúc đẩy sự hòa nhập cộng đồng cho nhóm trẻ kém may mắn này.

2.3.4.3. Hạn chế

Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, tỷ lệ trẻ

em khuyết tật tham gia văn hoá, thể thao rất hạn chế.

Theo kết quả điều tra năm 2007 của Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội

cho thấy, có ít nhất 2/3 số người khuyết tật không tham gia bất kỳ một hoạt

động văn hoá xã hội nào trong 12 tháng trước cuộc điều tra, trong đó có trẻ

em khuyết tật. [15]. Lý do chính dẫn đến tình trạng này là khó khăn trong việc

đi lại, khó khăn trong giao tiếp, kết hợp với tâm lý mặc cảm, tự ti, đồng thời

trẻ khuyết tật thường không được mời tham dự, hoặc không biết nơi nào tổ

chức để tham dự. Không khó để nhận thấy một số chương trình dành cho trẻ

em trên truyền hình như: Đồ rê mí, Con đã lớn khôn, Trẻ em luôn đúng… cơ

bản không có trẻ em khuyết tật tham gia. Một phần cũng bởi do khiếm khuyết

của cơ thể mà rất ít trẻ khuyết tật có năng khiếu về văn hóa, văn nghệ, hơn

nữa sự ủng hộ, khích lệ trẻ khuyết tật tham gia các chương trình từ phía gia

đình trẻ khuyết tật, từ phía ban tổ chức, nhà tài trợ… dường như không có.

Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng dành riêng cho trẻ khuyết tật chưa được

52

đảm bảo; hệ thống sân bãi, trang thiết bị phục vụ trẻ tham gia luyện tập không

đủ; các trò chơi vận động trong công viên, hầu hết là dành cho trẻ em không

khuyết tật, trẻ khuyết tật rất khó để tham gia những hoạt động này.

Có thể thấy, sự tham gia của trẻ khuyết tật vào các sự kiện và các hoạt

động để làm phong phú hơn đời sống của trẻ còn rất ít và hạn chế. Vẫn biết do

những khiếm khuyết về mặt cơ thể, trẻ khuyết tật khó có thể cạnh tranh bình

thường với những trẻ không khuyết tật khác, nên việc ưu tiên và tổ chức các

chương trình riêng phù hợp dành cho trẻ khuyết tật là cần thiết. Tuy nhiên,

chính những ưu tiên, riêng biệt đó vô tình đã làm tăng thêm cảm giác khác

biệt, bị cô lập của trẻ. Điều này dẫn đến tâm lý e ngại, cản trở việc tham gia

các hoạt động văn hóa nghệ thuật thể thao của trẻ em khuyết tật, khiến quyền

này chưa thực sự được thực thi một cách có hiệu quả trên thực tế.

2.3.5. Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng

2.3.5.1. Quy định của pháp luật

Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng được quy định

khá đầy đủ trong hệ thống văn bản pháp luật như: Luật người khuyết tật, Luật

giao thông đường bộ, Luật xây dựng…, và tập trung chủ yếu vào ba lĩnh vực

chính sau: Tiếp cận phương tiện giao thông, Tiếp cận cơ sở hạ tầng, công

trình xây dựng; và Tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông. Cụ thể:

Đối với tiếp cận phương tiện giao thông: pháp luật Việt Nam quy định

các công trình giao thông đường bộ xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp phải đảm

bảo tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật cho người khuyết tật và trẻ em khuyết tật,

như, trên tuyến đường dành cho người đi bộ cần hạn chế các chướng ngại vật;

các phương tiện công cộng buộc phải có chỗ ưu tiên cho người khuyết tật...

Những quy định này cơ bản phù hợp với tinh thần của Điều 9 CRDP.

Đối với tiếp cận cơ sở hạ tầng, công trình xây dựng: Trong Bộ quy

chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng công trình, Bộ Xây dựng đã ban hành những

quy định tiêu chuẩn liên quan đến xây dựng để bảo đảm cho người khuyết tật

53

và trẻ khuyết tật tiếp cận sử dụng, phù hợp với Điều 2 CRDP về “tạo điều

kiện hợp lý”, cụ thể: công trình xây dựng mới phải thiết kế lối đi riêng cho trẻ

em khuyết tật; các công trình xây dựng đã được đưa vào sử dụng nhưng

không đảm bảo các tiêu chuẩn tiếp cận thì phải tiến hành cải tạo để đảm bảo

cho trẻ khuyết tật được sử dụng.

Đối với tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông: do tính đa dạng

về khuyết tật và mức độ nhận thức cũng như nhu cầu tìm hiểu của mỗi trẻ

khuyết tật hoàn toàn các nhau nên trẻ em khuyết tật “có quyền được tiếp cận

thông tin phù hợp với sự phát triển của trẻ” (Khoản 1 Điều 20 Luật bảo vệ,

chăm sóc và giáo dục trẻ em). Trong lĩnh vực truyền thông, theo quy định tại

khoản 2 Điều 43 Luật người khuyết tật, Đài truyền hình Việt Nam có trách

nhiệm thực hiện các chương trình phát sóng có phụ đề và ngôn ngữ kí hiệu

dành riêng cho người khuyết tật và trẻ em khuyết tật, giúp trẻ theo dõi nắm

bắt được thông tin từ đó bồi dưỡng thêm đời sống văn hóa tinh thần của mình.

Như vậy, quyền tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng được pháp

luật Việt Nam quy định khá cụ thể, phù hợp với pháp luật quốc tế, nhằm đảm

bảo cho trẻ khuyết tật được hưởng quyền của mình một cách bình đẳng nhất.

2.3.5.2. Thành tựu

Trong những năm qua, nhờ quán triệt tốt tinh thần và chủ trương của

Đảng, chính sách của Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật mà công tác đảm

bảo quyền cho nhóm đối tượng này đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, cụ thể:

Về giao thông tiếp cận: Hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận

thức về trẻ em khuyết tật được tiến hành thường xuyên thông qua các buổi hội

thảo, tập huấn. Bộ Giao thông vận tải đã hợp tác với các cơ quan, tổ chức các

tuyến xe buýt tiếp cận thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hà

Nội. Ngoài ra, Việt Nam đã chế tạo thành công xe buýt tiếp cận theo tiêu

chuẩn ban hành như: trên khoang hành khách có bố trí diện tích cũng như cơ

54

cấu an toàn cho 01 xe lăn; lắp cơ cấu thang nâng, dẫn động thủy lực… Bên

cạnh đó, hoạt động miễn, giảm giá vé cũng được triển khai thực hiện tại hai

thành phố lớn của cả nước là Thành phố Hồ Chí Minh và Thủ đô Hà Nội.

Về cơ sở hạ tầng, công trình xây dựng: Các công trình ở đô thị được

xây dựng trong một vài năm gần đây đã được thiết kế để trẻ khuyết tật có thể

tiếp cận thuận lợi như: Sân bay Nội Bài, Trung tâm Thương mại Tràng Tiền,

hè đường phố cổ Hội An… Một số công trình cũ đã được cải tạo và có chủ

trương cải tạo để trẻ khuyết tật dễ dàng tiếp cận như: Công trình cải tạo Nhà

hát Bến Thành, Ga Hà Nội, Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội… Điều này,

bước đầu đã tạo ra cơ hội cho trẻ khuyết tật tham gia vào các hoạt động xã hội

và phát huy khả năng của mình để hoà nhập cộng đồng.

Về công nghệ thông tin, truyền thông: Đài truyền hình Việt Nam đã có

chương trình hiện chữ và chạy chữ trên chương trình Chào Buổi Sáng phát

sóng trên VTV1 và Chương trình tổng hợp thời sự vào lúc 22h phát sóng trên

VTV2 dành cho khuyết tật khiếm thính. Đồng thời, kết hợp với internet, trẻ

khuyết tật có thể tự mình tiếp cận tìm hiểu thông tin về mọi lĩnh vực. Hơn

nữa, các sản phẩm công nghệ dành cho trẻ khuyết tật cũng được đầu tư chú

trọng như: phần mềm đọc màn hình cho người khiếm thị, hệ thống hỗ trợ giao

tiếp cho người khiếm thính…

Có thể thấy việc đảm bảo cho trẻ em khuyết tật được tiếp cận các cơ sở

hạ tầng, dịch vụ công cộng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đạt được

thành tựu này, bên cạnh chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước, còn phải

kể đến sự quan tâm của các tổ chức xã hội. Điều đó đã khích lệ trẻ khuyết tật

tăng cường tham gia các hoạt động xã hội, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.

2.3.5.3. Hạn chế

Mặc dù đã đạt nhiều thành tựu đáng kể song trên thực tế, trẻ em khuyết

tật vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi thực hiện quyền tiếp cận cơ sở hạ tầng,

dịch vụ công cộng, cụ thể:

55

Về giao thông tiếp cận: Cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam còn

nhiều bất cập, có rất ít các công trình hạ tầng giao thông được xây mới, cải

tạo hoặc nâng cấp nhằm đảm bảo cho trẻ khuyết tật tiếp cận, như: không có

làn đường riêng, an toàn dành cho trẻ khuyết tật; cầu vượt cho người đi bộ

qua đường không có lối lên dành cho trẻ khuyết tật… Các công trình đạt yêu

cầu kỹ thuật, đảm bảo cho trẻ khuyết tật tiếp cận thì chủ yếu mang tính chất

cải tạo thí điểm. Đồng thời, phương tiện giao thông tiếp cận quá hạn chế với

số lượng rất ít và chỉ được xây dựng ở thành phố lớn, còn các khu vực khác,

trẻ khuyết tật rất khó để có thể tiếp cận nếu muốn di chuyển bằng phương tiện

công cộng. Hơn nữa, dù có khả năng tham gia giao thông bằng xe buýt, nhưng

với trẻ em khiếm thị, việc xác định số xe, điểm đến là cực kỳ khó khăn nếu

không có sự hỗ trợ giúp đỡ của người xung quanh.

Về cơ sở hạ tầng, công trình xây dựng: Hiện nay, số lượng các công

trình đáp ứng sự tiếp cận và sử dụng của trẻ khuyết tật còn rất hạn chế. Một số

công trình có tính đến nhu cầu tiếp cận nhưng do không tuân thủ đúng các quy

định đã được nêu trong các văn bản hiện hành nên không đảm bảo tiếp cận,

như: độ dốc quá cao, không bố trí tay vịn, không có nhà vệ sinh cho trẻ khuyết

tật, biển báo chỉ dẫn không có, hoặc khó tìm, khó nhận biết. Ngay tại các thành

phố lớn như Hà Nội, nhiều dự án cải tạo công viên, vườn hoa, vườn bách thú,

quảng trường chưa đạt tiêu chuẩn hoặc chưa tính đến nhu cầu tiếp cận của trẻ

khuyết tật. Ví dụ như đá lát tại khu vực Hồ Gươm, Vườn hoa Lê Nin đều là

loại đá xẻ tự nhiên có độ bóng cao nên rất dễ gây trơn trượt; Nhà hát lớn Hà

Nội – nơi thường xuyên tổ chức những chương trình, sự kiện mang tầm quốc

gia và quốc tế thì ngoài mặt tiền rất rộng, nhưng không hề có lối đi riêng cho

trẻ khuyết tật. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, 50 tình nguyện viên của Trung tâm

Khuyết tật và phát triển đã dành ra một năm để khảo sát 1800 công trình công

cộng trên địa bàn thành phố dựa theo các tiêu chí của "Quy chuẩn và tiêu chuẩn

56

xây dựng công trình để đảm bảo người tàn tật tiếp cận sử dụng" do Bộ Xây

dựng ban hành năm 2009. Kết quả: chỉ có 78 công trình xây dựng đúng chuẩn,

đảm bảo tiếp cận, đạt tỷ lệ chưa đến 5%. Đây chính là những rào cản rất lớn mà

xã hội dựng lên, cản trở trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng. [39]

Về công nghệ thông tin truyền thông: Ở Việt Nam hiện nay, đa số trẻ

khuyết tật và gia đình có trẻ khuyết tật ở hoàn cảnh kinh tế tương đối khó

khăn, vì vậy, việc có công nghệ và có điều kiện tiếp cận với lĩnh vực công

nghệ thông tin và truyền thông gặp rất nhiều trở ngại. Hình thức thông tin

được đăng tải trên các phương tiện đại chúng còn chưa phong phú, đa dạng,

nhiều loại sách báo giải trí dành cho trẻ em như: truyện cổ tích, báo nhi

đồng… đều không đảm bảo cho trẻ khuyết tật tiếp cận theo dõi, nhất là nhóm

trẻ em khiếm thị, khiếm thính. Tiếp cận thông tin bằng internet dù phổ biến và

hiệu quả tuy nhiên số lượng trẻ em khuyết tật được tiếp cận và sử dụng nó còn

hạn chế, đặc biệt là trẻ khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, miền

núi. Những điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp cận công nghệ

thông tin truyền thông của trẻ em khuyết tật trên thực tế.

Nguyên nhân có những hạn chế trên chủ yếu do ngân sách nhà nước

còn hạn hẹp, không đảm bảo đầu tư cho công trình hạ tầng, truyền thông công

nghệ. Hơn nữa, ý thức của các chủ đầu tư, các đơn vị tư vấn thiết kế, xây

dựng công trình chưa cao. Các công trình dù tuân thủ quy chuẩn nhưng không

đúng chỉ tiêu về kỹ thuật như: có dốc cho người đi xe lăn nhưng tỷ lệ không

đúng khiến trẻ không tự điều khiển xe lăn lên xuống được... Do đó đã ảnh

hưởng không nhỏ đến quá trình bảo đảm thực thi quyền này trên thực tế.

2.4. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong cộng đồng

2.4.1. Thành tựu

Trẻ em vốn là đối tượng nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Cùng

với sự phát triển ngày càng đi lên, trẻ em đã và đang được đặt vào vị trí trung

57

tâm trong các chính sách ở nhiều quốc gia, Việt Nam cũng không nằm ngoài

xu hướng đó. Thấm nhuần tinh thần nhân văn cao cả “Trẻ em hôm nay, thế

giới ngày mai” và truyền thống “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích

trăm năm trồng người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại mà trẻ em luôn là

mục tiêu, là động lực cho sự phát triển của nước nhà. Vì vậy, việc chăm sóc,

giáo dục và bảo vệ quyền của trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng

vừa là tình cảm, đạo lý dân tộc lại vừa là trách nhiệm của toàn xã hội.

Nhiều năm trở lại đây, việc quan tâm, giúp đỡ, đưa trẻ khuyết tật lại

gần hơn với các quyền vốn có của trẻ đang được các cá nhân, tổ chức đặc biệt

chú trọng. Thái độ của cộng đồng với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này

cũng có nhiều thay đổi theo hướng tích cực trên tinh thần tôn trọng, sẻ chia

thông qua nhiều hoạt động ý nghĩa nhằm giúp trẻ khuyết tật giảm bớt khó

khăn để vươn lên trong cuộc sống.

2.4.1.1. Về phía các cá nhân: Tiến sĩ – Bác sĩ Lê Đức Tố, hiện là Ủy

viên Ban chấp hành Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội

Cứu trợ trẻ em tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh và là Giám đốc Bệnh viện

STO Phương Đông, dù đã bước vào tuổi 70 nhưng những năm qua, ông đã

thực hiện hơn 25.000 ca mổ, trong đó có 2/3 là mổ từ thiện miễn phí nhờ sự

hỗ trợ của SAP chương trình nhân đạo thuộc Hội Chữ thập Xanh của Việt

kiều Mỹ và các tấm lòng nhân ái của các nhà hảo tâm trong nước và ở nước

ngoài mang lại nụ cười và cuộc sống mới cho biết bao trẻ tật nguyền. [40]

Hay sinh viên Đặng Thị Thu Hiền, thủ khoa tốt nghiệp khoa Mỹ thuật

công nghệ - Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh đã sáng chế chiếc xe

dành cho người khuyết tật không tay với tên gọi “Cánh cụt biết bay”. Đồ án

này đã được chuyển giao cho Sở Lao động, Thương binh và xã hội, TP Hồ Chí

Minh và nhận được sự quan tâm của nhiều cá nhân, tổ chức trong xã hội. [41]

Cũng với ý tưởng giúp đỡ người khuyết tật và trẻ em khuyết tật, em

58

Đậu Bá Kiên, học sinh lớp 9D trường Trung học cơ sở Nguyễn Trường Tộ,

huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước đã thành công trong việc sáng tạo “Phần

mềm KF Mouse – giải pháp công nghệ dành cho người khuyết tật” và nhận

được huy chương bạc tại cuộc thi Triển lãm quốc tế sáng tạo khoa học công

nghệ trẻ (IEYI) lần thứ 9 năm 2013 vừa diễn ra giữa tháng 5/2013 tại thủ đô

Kula Lumpur của Malaysia. Phần mềm này ra đời có thể giúp trẻ khuyết tật

điều khiển con chuột máy tính chỉ dùng đôi mắt, tạo điều kiện thuận lợi cho

trẻ khuyết tật được tiếp cận với công nghệ thông tin. [42]

Ngoài ra, không thể không nhắc đến những người thầy, người cô đã

tình nguyện truyền thụ kiến thức cho trẻ em khuyết tật như: thầy Lê Vũ Đạo,

86 tuổi, tình nguyện dạy học ở Trung tâm cứu trợ trẻ em tàn tật Nam Định; bà

giáo Hồ Hương Nam, 80 tuổi tại phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội đã

14 năm dạy chữ miễn phí cho trẻ em tật nguyền…

2.4.1.2. Về phía các tổ chức: Hiện nay, không khó để tìm kiếm những

trung tâm, những tổ chức, hiệp hội vì trẻ em khuyết tật. Những tổ chức này

được hình thành ở nhiều nơi trên phạm vi cả nước với nhiều loại hình khác

nhau như: Hội cứu trợ trẻ em khuyết tật Việt Nam; Trung tâm khuyết tật và

phát triển Việt Nam (DRD); Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt

Nam; Hội người khuyết tật cấp tỉnh/huyện; Diễn đàn người khuyết tật… Báo

cáo thường niên năm 2010 về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam

của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD đã

tổng hợp báo cáo thực hiện Đề án 239 về tổ chức hội tự lực của người

khuyết tật cho thấy, 19 tỉnh báo cáo đã tổ chức được 121 hiệp hội với trên 60

nghìn hội viên. [15]. Tại thời điểm tháng 8/2010, có 10/63 tỉnh, thành có Hội

người khuyết tật cấp tỉnh được thành lập. Đây là những tổ chức xã hội từ

thiện hoạt động vì mục đích nhân đạo nhằm góp phần bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của trẻ khuyết tật, nâng cao nhận thức của mọi người về nhóm đối

59

tượng này, từ đó, tạo điều kiện để trẻ sống hòa nhập, bình đẳng với cộng

đồng. Điển hình như:

Hội cứu trợ trẻ em khuyết tật Việt Nam thành lập năm 1993, sau gần 20

năm hoạt động, mạng lưới tổ chức của Hội đã phát triển rộng khắp, nhiều

Trung tâm cứu trợ trẻ em tàn tật cấp quận, huyện, thị xã… được thành lập.

Hội đã nuôi ăn, cấp thuốc, chữa bệnh, phục hồi chức năng miễn phí cho gần

40.000 lượt trẻ khuyết tật chữa bệnh, trong đó, hơn 12.300 trẻ khỏi tật, phục

hồi được chức năng cơ thể.Hội còn tổ chức được 127 lớp dạy chữ, 86 lớp dạy

nghề đan mây tre, thêu ren, vi tính, kim hoàn, mỹ nghệ… và tổ chức 12

xưởng sản xuất nhỏ tại các trung tâm tạo công ăn việc làm cho các cháu với thu nhập từ 800.000 đồng - 1,4 triệu đồng/tháng. [43].

Trung tâm khuyết tật và phát triển Việt Nam đã tổ chức nhiều hoạt

động vì trẻ em khuyết tật. Điển hình nhất là xây dựng dự án “Bản đồ tiếp cận”

nhằm tăng sự hòa nhập của trẻ khuyết tật với cộng đồng và nâng cao nhận

thức của cộng đồng về nhu cầu hòa nhập chính đáng của trẻ trong việc tiếp

cận các công trình công cộng và công trình dân dụng. [39].

Còn rất nhiều những hoạt động hướng về trẻ em khuyết tật được tiến

hành bởi các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội thiện

nguyện khác. Các hoạt động đó không chỉ thể hiện sự quan tâm của cộng

đồng đến nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này, mà còn có ý nghĩa to lớn

trong việc bảo đảm có hiệu quả các quyền của trẻ khuyết tật, tạo điều kiện cho

trẻ sớm hòa nhập và mang lại niềm tin đối với các em về tương lai của mình.

2.4.2. Hạn chế

Trong nhiều năm trở lại đây, nhờ có chính sách đúng đắn của Đảng và

Nhà nước mà xã hội đã có cái nhìn khá tích cực đối với trẻ khuyết tật, trẻ

được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện bình đẳng các quyền và phát huy

khả năng của mình để hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trẻ

60

khuyết tật vẫn chưa thực sự hòa nhập tốt với xã hội, mặc cảm, tự ti là trở ngại

lớn nhất của trẻ. Mà nguyên nhân chính dẫn đến điều này là thái độ kì thị và

phân biệt đối xử của cộng đồng.

Trên thực tế, nhận thức của đại đa số người dân về vấn đề khuyết tật và

trẻ khuyết tật còn rất hạn chế. Nhận thức của họ dù đã có thay đổi nhưng quá

trình thay đổi đó diễn ra khá chậm chạp. Quan điểm coi trẻ khuyết tật là đối

tượng của lòng thương hại vẫn còn diễn ra, thậm chí, cảm giác sợ hãi đối với

những khuyết tật của trẻ không phải không tồn tại, và sự hiểu biết về các

quyền của trẻ khuyết tật chưa thực sự đầy đủ. Không khó để nhận thấy trẻ

khuyết tật rất hạn chế đến những nơi công cộng, khu vui chơi giải trí. Bởi tại

đây, nhiều ánh mắt tò mò, những cái nhìn thương hại và lời bình luận chỉ trỏ

hướng về phía trẻ em khuyết tật… đã tác động không nhỏ đến tâm lý của

nhóm dễ bị tổn thương này. Hơn nữa, bản thân gia đình có trẻ khuyết tật phần

vì mặc cảm, phần lo lắng đến việc con mình bị kỳ thị nên cũng hạn chế cho

trẻ ra ngoài. Do phải chịu thiệt thòi về thể chất và tinh thần như vậy, nên gia

đình chính là chỗ dựa và là nguồn giúp đỡ chính của trẻ. Nhưng khó khăn sẽ

càng trở nên trầm trọng hơn khi nhiều trẻ khuyết tật bị phân biệt đối xử ngay

từ chính gia đình mình. Trẻ bị bố mẹ, anh chị em trong nhà coi là gánh nặng

nên thường xuyên bị lăng mạ, đối xử tệ bạc, thậm chí bỏ rơi, không được

chăm sóc. Đây thực sự là một vấn nạn, nếu không có giải pháp giúp đỡ thì trẻ

khuyết tật không thể có cơ hội được tiếp cận với các quyền và tham gia một

cách bình đẳng vào đời sống cộng đồng.

Trong một cuộc khảo sát năm 2007 tại bốn tỉnh, thành về tình hình

người khuyết tật ở Việt Nam do Viện nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS)

tiến hành dưới sự tài trợ của Quỹ Ford, đã đưa ra những số liệu thống kê về

quan điểm của cộng đồng về người khuyết tật như sau:

61

Thái độ của cộng đồng với ngƣời khuyết tật Tỷ lệ quan điểm đồng ý

Người khuyết tật là người đáng thương 98 đến 99%

Người khuyết tật là người ỷ lại 18 đến 32%

Người khuyết tật không thể có cuộc sống bình thường 40% đến 59,4%

Người khuyết tật bị như vậy là do số phận 56 đến 65%

Người khuyết tật đáng phải gánh chịu số kiếp khuyết tật 14 đến 21% như vậy vì họ phải trả giá cho việc làm xấu xa ở kiếp trước

Gặp phải người khuyết tật là gặp vận đen 17%

(Nguồn: Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội (ISDS), năm2007).[15]

Dựa vào bảng trên có thể nhận thấy phần nào thực trạng về nhận thức

của cộng đồng về vấn đề khuyết tật và người khuyết tật còn rất hạn chế: hoạt

động đều mang tính từ thiện, phân biệt đối xử, chú ý đến những khiếm

khuyết, hạn chế của người khuyết tật. Đối với trẻ em khuyết tật, vấn đề này

càng trở nên nặng nề hơn, bởi trẻ khuyết tật vẫn còn quá non nớt, dễ bị tổn

thương hơn nhiều so với người khuyết tật trưởng thành. Do đó, cách ứng xử

tiêu cực, thái độ không thân thiện của xã hội sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý

phát triển của trẻ em khuyết tật.

Nguyên nhân có hạn chế này xuất phát chủ yếu từ quan niệm tồn tại từ

lâu đời của cộng đồng là: trẻ khuyết tật khó thực hiện, thậm chí không làm

được gì bởi những khiếm khuyết cơ thể. Những điều này đã trở thành rào cản

kìm hãm việc thụ hưởng và bảo đảm quyền cơ bản của trẻ em khuyết tật. Do

đó cần có chính sách phù hợp nhằm khắc phục có hiệu quả những khó khăn

vướng mắc này, giúp trẻ khuyết tật thật sự được hưởng các quyền một cách

trọn vẹn và đầy đủ nhất.

62

Tiểu kết Chƣơng 2

Chương 2 đã cung cấp những thông tin cơ bản nhất về tình hình trẻ

khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. Với khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật trong

đó nguyên nhân chủ yếu là hậu quả do chiến tranh để lại có thể thấy tình trạng

trẻ em khuyết tật ở nước ta hiện là vấn nạn khá lớn và vẫn đang có chiều

hướng gia tăng do kết quả quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra

tương đối mạnh mẽ. Trong khi đó, thực trạng bảo đảm quyền trẻ em khuyết

tật ở Việt Nam trong các lĩnh vực xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật,

trong cộng đồng dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhờ sự đổi mới trong

nhận thức; nhờ các chính sách hợp lý của Nhà nước; và sự quan tâm của toàn

thể cộng đồng; song vẫn gặp phải không ít khó khăn và chưa thực sự tương

thích với luật pháp quốc tế. Đặc biệt, thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ

em khuyết tật dù đã giảm nhưng không phải không diễn ra. Do đó, ảnh hưởng

rất lớn đến quá trình đảm bảo quyền của nhóm dễ bị tổn thương này. Vì vậy,

cần phải có những giải pháp hợp lý được định hướng rõ ràng, cụ thể, để phát

huy các thành tựu đạt được, khắc phục những khó khăn còn tồn đọng nhằm

bảo đảm có hiệu quả các quyền của trẻ em khuyết tật phù hợp với tinh thần

chung của pháp luật quốc tế.

63

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN

CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT

3.1. Phƣơng hƣớng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật

Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật là yêu cầu khách quan, cấp bách

hiện nay của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy hơn nữa các thành tựu hiện

có, khắc phục những thiếu sót còn tồn đọng để trẻ khuyết tật được thụ hưởng

một cách đầy đủ và trọn vẹn các quyền cơ bản vốn có của mình. Vì vậy việc

bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật phải được thực hiện trên cơ sở các

phương hướng như sau:

3.1.1. Thể chế hóa quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về

trẻ em khuyết tật

Trẻ em khuyết tật cũng là những công dân nhỏ tuổi đặc biệt, là chủ

nhân tương lai của nước nhà như tất cả trẻ em không khuyết tật khác, vì vậy,

sự nghiệp chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự

phát triển toàn diện của trẻ không chỉ là trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ,

của Nhà nước mà còn của toàn xã hội.

Từ lâu, Chính phủ Việt Nam đã đặt trẻ em nói chung và trẻ em khuyết

tật nói riêng vào vị trí trung tâm trong chiến lược đào tạo, phát huy nguồn

nhân lực cho nước nhà. Trong những năm qua, dù tình hình kinh tế còn nhiều

khó khăn song nhiều chủ trương, chính sách của nước ta luôn hướng đến việc

tăng cường bảo đảm các quyền cho trẻ. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991) đã chỉ rõ: “không ngừng nâng cao đời

sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội; chăm lo đời sống những người

già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi”. Hiến pháp 2013 quy

định: Nhà nước “có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật,

người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác” và “tạo điều kiện để

64

người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”. Đồng thời

khẳng định mọi thành viên, bao gồm cả trẻ em khuyết tật đều được nhà nước

bảo đảm quyền công dân như nhau và đều được hưởng các thành quả chung

của sự phát triển xã hội. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp

tục nhấn mạnh: “Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang

cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật”. Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã nêu quan

điểm xây dựng Luật Người khuyết tật là phải thể hiện rõ truyền thống thương

người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách; thể chế tư tưởng Hồ Chí

Minh và chủ trương của Đảng về trẻ em khuyết tật; quy định cụ thể các quyền

mà trẻ được hưởng, tạo điều kiện cho trẻ phát huy năng lực bản thân và thông

qua hoạt động xã hội hóa việc chăm sóc trợ giúp trẻ khuyết tật để giúp trẻ có

cơ hội vươn lên, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.

Những quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về trẻ em khuyết

tật là sự kết hợp giữa quan điểm về trẻ em và quan điểm về người khuyết

tật. Trong đó trẻ khuyết tật luôn được quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhằm

tạo điều kiện thuận lợi nhất để trẻ được thụ hưởng đầy đủ các quyền vốn có

của mình, nhờ đó, công tác bảo đảm quyền của trẻ khuyết tật mới thực sự

đạt hiệu quả.

3.1.2. Khắc phục những hạn chế trong quá trình bảo đảm quyền của

trẻ em khuyết tật

Thời gian qua, công tác bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt

Nam đã giành được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn tồn

tại nhiều hạn chế, khó khăn và thách thức trong tất cả mọi khía cạnh. Từ đó

dẫn đến tình trạng nhiều quyền cơ bản của trẻ khuyết tật bị xâm phạm, bị bỏ

quên và ảnh hưởng lớn đến quá trình thụ hưởng quyền của trẻ. Nguyên nhân

có những hạn chế này bao gồm:

65

Thứ nhất, bản thân trẻ khuyết tật gặp khó khăn trong việc truyền tải nhu

cầu, mong muốn của mình tới cộng đồng cũng như cơ quan hoạch định chính

sách, nên các quy định của Nhà nước đưa ra thường dựa trên sự duy đoán về

mức độ suy giảm sức khỏe mà chưa thực sự đi sâu để tìm hiểu trẻ muốn gì, trẻ

cần gì. Những suy đoán đó đa phần chứa đựng yếu tố chủ quan, nhiều khi

không đáp ứng được nhu cầu, không phù hợp với khả năng và chưa tạo điều

kiện tốt cho trẻ em khuyết tật.

Thứ hai, công tác vận động tuyên truyền cho cá nhân, tổ chức, xã hội

và cho chính trẻ khuyết tật và gia đình trẻ khuyết tật về vấn đề khuyết tật chưa

cao: Truyền thông còn mang nặng tính phong trào, chưa đi vào chiều sâu,

hình thức tuyên truyền nghèo nàn… Hơn nữa, hoạt động này chủ yếu chỉ diễn

ra ở vùng đô thị, khu tập trung dân cư; và chỉ được tiến hành chủ yếu vào các

ngày lễ, ngày truyền thống như Ngày người khuyết tật Việt Nam, Ngày người

khuyết tật Quốc tế, Ngày quốc tế thiếu nhi… Vì vậy, nhiều trẻ khuyết tật, gia

đình có trẻ khuyết tật, cá nhân, cộng đồng ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông

thôn chưa biết đến nội dung của những chính sách đối với trẻ khuyết tật.

Thứ ba, ngân sách của Nhà nước đầu tư cho trẻ em khuyết tật còn hạn

hẹp, gặp nhiều khó khăn trong việc phân bổ ngân sách trung ương, huy động

ngân sách địa phương. Do đó, việc thực hiện những chủ chương, chính sách,

đề án trợ giúp trẻ khuyết tật chưa đạt được hiệu quả cao.

Thứ tư, hệ thống pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật chưa thực

sự hoàn thiện, chưa có hệ thống giám sát đầy đủ việc thực thi các quyền

của trẻ trên thực tế. Hơn nữa, chính quyền các cấp các ngành chưa dành sự

quan tâm đúng mức đến nhóm đối tượng này. Vì lẽ đó, tình trạng trẻ

khuyết tật bị phân biệt đối xử, bị miệt thị, lạm dụng, bạo lực, lãng quên vẫn

xảy ra, gây nhiều khó khăn trong quá trình thụ hưởng các quyền một cách

bình đẳng và hiệu quả.

66

Chính vì vậy, việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật phải nhằm

hướng đến mục tiêu khắc phục những hạn chế còn tồn đọng, phát huy cao

nhất những thành tựu đã đạt được. Đó là cơ sở để trẻ hưởng trọn vẹn các

quyền vốn có của mình một cách đầy đủ nhất, tạo điều kiện cho trẻ bộc lộ

năng lực bản thân, tham gia tích cực vào các hoạt động đời sống xã hội.

3.1.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền về trẻ em khuyết tật trong

cộng đồng

Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, giáo dục, phổ biến kiến thức về

quyền của con người được coi là giải pháp đầu tiên; có tính chất bền vững lâu

dài nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Tương tự như vậy, hoạt động

tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về quyền của trẻ em khuyết tật là bước

đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình bảo đảm các quyền cơ bản

của đối tượng này.

Việc tuyên truyền này phải được thực hiện với quy mô rộng lớn trên

phạm vi cả nước, chú trọng vào các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa,

vùng đặc biệt khó khăn. Đối tượng hướng đến là tất cả cá nhân, cơ quan, tổ

chức trong xã hội, từ đó, thúc đẩy sự quan tâm, sẻ chia, có hành động thiết

thực để chăm sóc, bảo vệ, giáo dục nhóm đối tượng này. Hơn nữa, công tác

tuyên truyền vừa giúp trẻ khuyết tật và gia đình có trẻ khuyết tật xóa đi mặc

cảm tự ti lại vừa có ý nghĩa giáo dục ý thức tôn trọng trẻ em khuyết tật, coi trẻ

khuyết tật là chủ thể bình đẳng của xã hội.

Đây là nội dung đặc biệt quan trọng mà nhờ nó, trẻ khuyết tật sẽ nhận

được cái nhìn cảm thông chia sẻ hơn từ phía xã hội, giúp các em có thể vượt

qua mặc cảm, tự ti, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.

3.1.4. Tích cực, chủ động hợp tác và đối thoại quốc tế

Hội nhập là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trong quá trình phát triển.

Là một thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn ý thức tuân

67

thủ các nguyên tắc, chuẩn mực chung về quyền con người trong đó có các

quyền của trẻ em khuyết tật.

Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam khẳng định:

Việc hợp tác và đối thoại giữa các quốc gia để thúc đẩy và

bảo vệ quyền con người là một yêu cầu cần thiết và khách quan.

Việt Nam ủng hộ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực

quyền con người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn

trọng và hiểu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ

của nhau, vì mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ ngày càng tốt

hơn các quyền con người. Việt Nam cũng cho rằng không nước nào

có quyền sử dụng vấn đề quyền con người làm công cụ can thiệp

vào công việc nội bộ của quốc gia, gây đối đầu, sức ép chính trị,

thậm chí sử dụng vũ lực làm điều kiện trong quan hệ hợp tác kinh

tế, thương mại… với nước khác. [44].

Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người ở

Việt Nam đã nêu rõ:

Việt Nam hết sức coi trọng đối thoại và hợp tác quốc tế trong

lĩnh vực quyền con người. Đối thoại và hợp tác quốc tế vừa là đòi

hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, vừa giúp tăng cường hiểu biết

lẫn nhau; qua đối thoại và hợp tác quốc tế, Việt Nam đã giúp bạn

bè và cộng đồng quốc tế hiểu hơn về tình hình và hoàn cảnh thực tế

của Việt Nam, vừa là cơ hội để Việt Nam có thể học hỏi kinh

nghiệm của các nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, bảo

đảm tốt hơn các quyền con người ở Việt Nam đồng thời góp phần

vào sự nghiệp bảo vệ quyền con người trong khu vực và trên thế

giới. Cũng trong Báo cáo này, Việt Nam cam kết … tiếp tục hợp

tác với các quốc gia khác, với Liên Hợp Quốc và các cơ quan của

68

tổ chức này để đảm bảo ngày càng tốt hơn việc thụ hưởng các

quyền và tự do cơ bản của con người trên lãnh thổ Việt Nam và

trên toàn thế giới. [45].

Những quan điểm này cho thấy chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt

Nam là sẽ duy trì đối thoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người

nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau cũng như học hỏi kinh nghiệm của các

nước khác trong việc bảo đảm các quyền con người. Với tư cách là một bộ

phận của quyền con người, quyền của trẻ em khuyết tật cũng được bảo đảm

trên cơ sở hợp tác quốc tế và khu vực nhằm trao đổi kinh nghiệm, giới thiệu

tình hình bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật ở Việt Nam; tiếp thu thành tựu bảo

đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở các quốc gia trên thế giới, đồng thời, có

tính đến sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, truyền thống và phong tục tập

quán của nước ta.

Như vậy, là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ hai trên thế

giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1948; là thành viên thứ 118

tham gia ký Công ước quốc tế về quyền của Người khuyết tật năm 2007; đồng

thời thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam về 7 lĩnh vực ưu tiên trong

Thập kỷ thứ II Thiên niên kỷ Biwako về người khuyết tật khu vực Châu Á

Thái Bình Dương, Việt Nam đang ngày càng chú trọng hơn đến việc đảm bảo

quyền của người khuyết tật nói chung và quyền của trẻ em khuyết tật nói

riêng. Việc đảm bảo các quyền này được thực hiện một cách có định hướng

và hệ thống, từ đó là cơ sở để đưa ra các giải pháp phù hợp trên nguyên tắc

bình đẳng không phân biệt đối xử và lợi ích tốt nhất dành cho trẻ. Đây là nền

tảng đặc biệt quan trọng giúp trẻ khuyết tật vượt qua mặc cảm để thụ hưởng

đầy đủ, trọn vẹn các quyền cơ bản và nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.

3.2. Giải pháp Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật

Trên cơ sở thành tựu đạt được về bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật,

69

đồng thời nhằm khắc phục hạn chế thiếu sót, dựa vào phương hướng đã đề ra,

luận văn xin đưa ra một vài giải pháp trong các lĩnh vực cụ thể nhằm giúp trẻ

khuyết tật được đảm bảo một cách hiệu quả nhất các quyền của mình. Những

giải pháp này mang tính chất giải quyết các hạn chế cơ bản đồng thời nâng

cao hơn nữa việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật, cụ thể như sau:

3.2.1. Về xây dựng pháp luật

Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền trẻ em

khuyết tật trong điều kiện hiện nay là một yêu cầu khách quan của lịch sử. Các

giải pháp đưa ra nhằm hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích tốt nhất

dành cho trẻ, kết hợp với truyền thống nhân đạo của dân tộc, đồng thời phù hợp

với tinh thần chung của pháp luật quốc tế. Từ đó, tạo hành lang vững chắc cho

quá trình bảo đảm có hiệu quả các quyền của trẻ em khuyết tật, cụ thể:

Thứ nhất, cần ban hành riêng những văn bản hướng dẫn thi hành Luật

người khuyết tật về vấn đề trẻ em khuyết tật, nhằm cụ thể hóa các quy định

trong chính sách ưu tiên của Nhà nước dành cho nhóm đối tượng này. Những

hướng dẫn cụ thể đó sẽ tập trung tất cả các chính sách, chế độ về trẻ em

khuyết tật trong các lĩnh vực như: giáo dục, sức khỏe, bảo trợ xã hội… dựa

trên cơ sở Luật Người khuyết tật và các luật có liên quan khác. Các quy định

trong văn bản hướng dẫn chỉ được hình thành sau khi thực hiện quá trình lấy

ý kiến của trẻ khuyết tật, gia đình có trẻ khuyết tật và toàn thể xã hội nhằm

đáp ứng đầy đủ, chính xác nhu cầu của trẻ trên cơ sở góc nhìn thân thiện của

cộng đồng, có tính đến sự phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đất nước. Việc

quy định rõ ràng và đưa ra một văn bản mang tính chất riêng biệt, thống nhất

như vậy sẽ góp phần đẩy mạnh công tác đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật.

Đồng thời, xác định và tăng cường trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức

trực tiếp liên quan đến việc thực thi quyền của trẻ em khuyết tật trên thực tế

và cải thiện nhận thức của cộng đồng về đối tượng dễ bị tổn thương này.

70

Thứ hai, bên cạnh những chương trình, đề án dành cho người khuyết tật

và trẻ em nói chung, Đảng và Nhà nước cần ban hành một số đề án dành riêng

cho đối tượng là trẻ em khuyết tật với những hoạt động phù hợp với đặc điểm

tâm sinh lý của nhóm chịu tổn thương kép này. Bởi xuất phát từ việc trẻ khuyết

tật vừa là trẻ em với tâm sinh lý chưa phát triển hoàn toàn, lại vừa mang trong

mình những khiếm khuyết giống như người khuyết tật trưởng thành nên nhu

cầu của trẻ khuyết tật có những điểm giống và khác so với hai nhóm đối tượng

trên. Do vậy, việc ban hành đề án, chương trình dành riêng cho đối tượng này

là hoàn toàn hợp lý. Các đề án liên quan đến trẻ khuyết tật có thể hướng đến

các vấn đề cụ thể như: Đề án trợ giúp trẻ em khuyết tật hòa nhập cộng đồng với

nội dung đặt trẻ khuyết tật vào trung tâm của mọi hoạt động thúc đẩy hòa nhập;

lập diễn đàn để trẻ bày tỏ suy nghĩ, vướng mắc của mình khi tiến hành hòa

nhập xã hôi; quy định trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân tổ chức có liên

quan trong việc hỗ trợ trẻ hòa nhập cộng đồng… Tuy nhiên, các chương trình,

đề án này chỉ được phép đưa ra sau khi đã tiến hành những cuộc khảo sát thực

tế để nắm bắt chính xác nhu cầu và mong muốn của trẻ nhằm hỗ trợ hiệu quả,

có ý nghĩa và đem lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em khuyết tật.

Thứ ba, quy định lại độ tuổi được coi là trẻ em khuyết tật. Có nhiều

quan điểm về vấn đề nên hay không nên nâng độ tuổi của trẻ em nói chung và

trẻ em khuyết tật nói riêng. Theo ông Lê Trung Thắng – chuyên gia nghiên

cứu về tâm sinh lý trẻ em cho rằng, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật

như hiện nay, trẻ được tiếp xúc sớm với thành tựu của công nghệ sẽ hiểu biết

và trưởng thành hơn. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm chưa thành niên thời

gian qua diễn biến khá phức tạp, do vậy, nên giữ quy định 16 tuổi là người

thành niên để các em có nhiều quyền và tự chịu trách nhiệm trong các quan hệ

xã hội. Một ý kiến khác cũng cho rằng nếu tăng độ tuổi của trẻ em thì sẽ có

thêm một số lượng lớn trẻ em thuộc đối tượng được hưởng chính sách trong

71

cả nước, và với điều kiện kinh tế xã hội như hiện nay, thì nước ta chưa chắc

đã đáp ứng được nguồn lực ngân sách cho chế độ an sinh xã hội đó. Tuy

nhiên, trái ngược lại với các quan điểm trên, bà Ngô Thị Minh, Phó chủ

nhiệm Ủy ban Văn hóa giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng cho rằng, nên

tăng độ tuổi của trẻ em để trẻ được bảo vệ nhiều hơn. Đồng quan điểm với bà

Ngô Thị Minh, bà Phạm Thị Lan – cán bộ tổ chức UNICEF tại Việt Nam

cũng bày tỏ nên tăng độ tuổi của trẻ em để có nhiều điều kiện thuận lợi cho

trẻ, tạo cơ hội để trẻ được bảo vệ và phát triển một cách toàn diện. Do có

nhiều quan điểm khác nhau, nên sáng 9/5/2013, Cục bảo vệ Chăm sóc trẻ em

(Bộ lao động Thương binh và Xã hội) đã tổ chức Hội thảo Báo cáo thăm dò ý

kiến về vấn đề nâng độ tuổi trẻ em được tiến hành từ ngày 15/7 – 15/9/2012 ở

10 tỉnh, thành phố với sự tham gia của trên 34.500 trẻ độ tuổi từ 11 – 18 tuổi.

Theo đó, đa số trẻ em đề nghị tăng độ tuổi là trẻ em thay vì dưới 16 tuổi như

pháp luật hiện hành. Và có 61% số người được hỏi bằng phiếu thăm dò trực

tiếp và 58% người được hỏi qua mạng internet và tổng đài 18001567 ủng hộ

tăng tuổi trẻ em. [46]. Còn theo quan điểm của tác giả, nên tăng độ tuổi trẻ em

lên dưới 18 tuổi. Bởi trước hết, việc quy định này là phù hợp với quy định của

pháp luật quốc tế. Mặc dù các Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký

kết không bắt buộc các quốc gia thành viên phải quy định trẻ em là những

người dưới 18 tuổi, mà để cho các quốc gia tự quy định độ tuổi cao hơn hoặc

thấp hơn phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội đất nước. Tuy nhiên, sẽ tránh

xung đột pháp luật khi giải quyết rắc rối liên quan đến trẻ em nước ngoài, góp

phần đưa pháp luật Việt Nam lại gần hơn với pháp luật quốc tế. Hơn nữa, trẻ

từ 16 – 18 sẽ chưa phát triển đầy đủ hoàn toàn về tâm sinh lý, việc nâng độ

tuổi trẻ em lên 18 tuổi thì sẽ có khá nhiều trẻ em, đặc biệt là trẻ em khuyết tật

tiếp tục được hưởng những quyền lợi, chế độ chăm sóc đặc biệt trong các lĩnh

vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội. Nhờ đó, trẻ khuyết tật sẽ được đảm bảo có

hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp theo luật định.

72

Thứ tư, cần quy định các biện pháp chế tài cụ thể đối với những hành vi

vi phạm quyền của trẻ em khuyết tật dưới hình thức một văn bản riêng biệt

hoặc một chương trong văn bản hướng dẫn chi tiết về trẻ em khuyết tật. Tùy

theo mức độ và đối tượng vi phạm mà các biện pháp chế tài đó phải đảm bảo

tính phù hợp, đa dạng, linh hoạt nhằm xử lý nghiêm minh, có hiệu quả những

hành vi vi phạm quyền của trẻ em khuyết tật. Cụ thể:

- Đối với chủ thể vi phạm quyền của trẻ em khuyết tật là cá nhân, công

dân, tổ chức bình thường: mức độ xử lý vi phạm có thể là xử lý về mặt hành

chính nếu ở mức độ nhẹ như phạt tiền, phạt xin lỗi công khai; hoặc nặng hơn

là xử lý về mặt hình sự nếu gây tổn thương về mặt thể chất về tinh thần đối

với trẻ. Cần quy định cụ thể rằng, mức độ đánh giá hành vi vi phạm quyền trẻ

em khuyết tật đó thuộc lĩnh vực hình sự hay hành chính sẽ có sự khác biệt

nhất định so với hành vi vi phạm với đối tượng không khuyết tật khác. Giả

dụ, nếu cùng một hành vi vi phạm thực hiện với người không khuyết tật, biện

pháp chế tài áp dụng chỉ là biện pháp hành chính thì cũng hành vi đó mà gây

ra với trẻ em khuyết tật sẽ bị áp dụng biện pháp hình sự. Bởi xuất phát từ việc

là công dân còn non nớt về thể chất và tinh thần, đồng thời lại mang trong

mình những khiếm khuyết, trẻ khuyết tật là một trong những đối tượng dễ bị

tổn thương nhất, nên hành vi xâm phạm quyền lợi của trẻ khuyết tật phải thực

sự bị lên án và phê phán.

- Đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm quyền của trẻ em khuyết

tật là cán bộ, cơ quan nhà nước thì việc xử lý càng phải nghiêm trị. Bởi đây là

những người đại diện cho cơ quan công quyền, trực tiếp thực thi các công

việc liên quan đến trẻ em khuyết tật, là người đưa các quyền lại gần hơn với

trẻ, tuy nhiên thay vì tận tụy, tôn trọng và thực hiện quyền của trẻ em khuyết

tật nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất dành cho trẻ thì họ lại vi phạm các quyền

đó, làm ảnh hưởng đến việc thụ hưởng các quyền của trẻ và khiến trẻ khuyết

73

tật, gia đình trẻ khuyết tật mất niềm tin vào bộ máy nhà nước, vào sự quan

tâm của Đảng, Chính phủ. Do vậy, khi đối tượng này có hành vi vi phạm

quyền của trẻ em khuyết tật cần phát hiện, xử lý nghiêm minh và yêu cầu

khắc phục nhanh chóng thiệt hại xảy ra đối với trẻ khuyết tật về mặt thể chất

và tinh thần, giúp trẻ ổn định và đảm bảo trật tự xã hội.

Tuy nhiên, mức độ áp dụng các biện pháp xử lý này phải được cân

nhắc trên cơ sở vừa nghiêm trị hành vi vi phạm, vừa có ý nghĩa giáo dục ý

thức tôn trọng quyền của trẻ em khuyết tật, lại không làm cho trẻ khuyết tật

cảm thấy mình là đối tượng yếu thế nên cần sự quan tâm quá khác biệt trong

các chính sách của Đảng và Nhà nước.

Thứ năm, tăng cường nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của

đội ngũ cán bộ trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng pháp luật về

quyền của trẻ em khuyết tật. Tăng cường tổ chức định kỳ các cuộc giao lưu

gặp gỡ giữa cán bộ lập pháp với trẻ em khuyết tật bằng cách: Cho trẻ khuyết

tật ở mỗi khu vực, mỗi độ tuổi, mỗi địa bàn được cử đại diện của mình đến

gặp các các bộ lập pháp để bày tỏ nhu cầu, nguyện vọng về chính sách, chế độ

áp dụng cho nhóm đối tượng này. Điều đó giúp cán bộ trực tiếp liên quan đến

việc xây dựng pháp luật cho trẻ khuyết tật hiểu một cách chính xác mong

muốn của trẻ để có cơ sở xây dựng pháp luật cho phù hợp và đạt hiệu quả

thực thi cao trên thực tế. Ngoài ra, đẩy mạnh việc giao lưu, hợp tác với các

quốc gia trên thế giới để tiếp thu thành tựu và kinh nghiệm lập pháp của họ

trong quá trình xây dựng pháp luật cho trẻ em khuyết tật, có tính đến điều

kiện kinh tế xã hội và phong tục tập quán của Việt Nam. Nhờ đó, không chỉ

đảm bảo được quyền của trẻ khuyết tật, mà pháp luật về đối tượng này sẽ

được xây dựng ngày càng tương thích hơn với pháp luật quốc tế.

Thứ sáu, Việt Nam nên nhanh chóng xây dựng cơ quan quốc gia về bảo

vệ và thúc đẩy nhân quyền. Đây là xu thế chung của các quốc gia tiến bộ trên

74

thế giới. Đặc biệt, khi đã là thành viên của nhiều điều ước quốc tế, nhất là

Công ước về quyền trẻ em năm 1948, Công ước về người khuyết tật năm

2007, yêu cầu thành lập Cơ quan quốc gia về nhân quyền càng trở nên cấp

thiết, nhằm đảm bảo có hiệu quả quyền của trẻ em khuyết tật nói riêng và

quyền con người tại Việt nam nói chung.

Đó là những giải pháp trong quá trình xây dựng pháp luật về đảm bảo

quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. Các giải pháp này được đưa ra dựa

trên quá trình nghiên cứu về thành tựu và hạn chế trong công tác xây dựng

pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật đồng thời tính đến sự phù

hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc thực hiện tốt các

giải pháp mang tính chất giải quyết vấn đề cơ bản và nâng cao này sẽ góp

phần xây dựng hệ thống pháp luật toàn diện, đồng bộ và thống nhất, vì lợi ích

của trẻ khuyết tật, trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phù hợp với

pháp luật quốc tế. Từ đó, đảm bảo có hiệu quả các quyền cơ bản của nhóm xã

hội dễ bị tổn thương này.

3.2.2. Về một số quyền cụ thể

Trên cơ sở thành tựu mà Luật người khuyết tật vừa ban hành đã đem

lại, tiếp tục thực hiện các Đề án trợ giúp người khuyết tật của Chính phủ,

đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong quá trình thực thi pháp

luật trong thời gian qua, luận văn sẽ đưa ra một vài giải pháp nhằm thúc đẩy

việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật trên thực tế ở một

vài lĩnh vực cụ thể như sau:

3.2.2.1. Đối với quyền được giáo dục

Trước hết cần thống kê đầy đủ số lượng trẻ em khuyết tật, quy mô, độ

tuổi, giới tính, dạng tật của trẻ để làm cơ sở thiết kế các chương trình giáo dục

và đưa trẻ vào các lớp học phù hợp.

Thứ hai, mạng lưới cơ sở giáo dục chuyên biệt, giáo dục hòa nhập, cho

75

trẻ khuyết tật phải được mở rộng, phân bổ đồng đều ở các địa phương, nhất là

khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn để tạo điều kiện cho mọi trẻ em

khuyết tật đều được đến trường, trong đó chú trọng đặc biệt đến mô hình giáo

dục hòa nhập. Bởi đây là mô hình giáo dục hiệu quả và hoàn thiện nhất đối

với trẻ em khuyết tật. Việc được học tập tại môi trường bình thường, gần gia

đình sẽ giúp trẻ gần gũi với người thân, bạn bè, không còn cảm giác mình bị

tách biệt ra khỏi xã hội. Hơn nữa, được học cùng một chương trình với các

bạn bình thường khác vừa có ý nghĩa giúp trẻ khuyết tật và trẻ không khuyết

tật tự do giao lưu, giúp đỡ lẫn nhau lại vừa khuyến khích việc sáng tạo, đổi

mới chương trình đào tạo nhằm giúp trẻ phát triển hết khả năng của mình. Do

đó, cần đảm bảo mỗi tỉnh, thành phố đều có một trung tâm hỗ trợ phát triển

giáo dục hòa nhập.

Thứ ba, chương trình, tài liệu dành cho giảng dạy cũng cần cải thiện

theo hướng đa dạng, phong phú, hướng đến mục tiêu phát triển trẻ một cách

toàn diện. Do đó, cần liên tục đổi mới, chú trọng đến kỹ năng sống và cách xử

lý khó khăn, giải quyết vấn đề của trẻ. Đối với chương trình giáo dục hòa

nhập cần điều chỉnh và dạy học một cách sáng tạo, tích cực và hợp tác sao

cho nội dung kiến thức phù hợp với trẻ em khuyết tật và trẻ em khuyết tật,

đáp ứng được nhu cầu về thông tin của trẻ, có chú ý đến năng lực cá nhân của

mỗi trẻ. Còn đối với chương trình giáo dục chuyên biệt, sau 3 năm triển khai

thí điểm áp dụng chương trình giáo dục chuyên biệt dành cho học sinh khuyết

tật trí tuệ tại một số trường chuyên biệt ở Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí

Minh đã mang lại những kết quả rất tích cực, đạt nhiều chuyển biến lớn, góp

phần nâng cao chất lượng giáo dục và chăm sóc học sinh khuyết tật trí tuệ. Vì

vậy, giải pháp đưa ra nhằm phát huy hơn nữa thành tựu này đó là cần nhanh

chóng hoàn thiện và triển khai chương trình giáo dục chuyên biệt đến tất cả

các trường, các cơ sở giáo dục chuyên biệt trên phạm vi cả nước, nhằm giúp

76

trẻ khuyết tật tiếp thu được những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cuộc sống

cũng như giao tiếp với cộng đồng và tự phục vụ được bản thân mình.

Thứ tư, tăng cường công tác bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho

giáo dục khuyết tật. Đội ngũ giáo viên cần được nâng cao cả về số lượng và

chất lượng thông qua việc đào tạo chuyên sâu và mở thêm mã ngành dành cho

giáo viên dạy trẻ em khuyết tật tại các trường sư phạm nhằm đáp ứng số

lượng trẻ em khuyết tật ngày càng tăng và nhu cầu học tập ngày càng lớn của

trẻ. Việc đào tạo giáo viên dạy trẻ khuyết tật cần được tiến hành một cách linh

hoạt nhưng vẫn đảm bảo tính nghiêm túc. Linh hoạt ở chỗ, có thể đào tạo

dưới nhiều hình thức phù hợp với nhu cầu vừa đi học vừa đi làm như: đào tạo

chính quy tập trung, tại chức, từ xa, chuyên tu… Việc lựa chọn thời gian và

địa điểm đào tạo cần sắp xếp hợp lý để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đối

tượng có nhu cầu học tập về giảng dạy cho trẻ em khuyết tật. Tuy nhiên, bên

cạnh sự linh hoạt đó, cần đảm bảo tính nghiêm túc thông qua việc tuân thủ

đúng thời gian, tiến độ học tập và ý thức tôn trọng chương trình mà mình

đang theo học. Bên cạnh đó, công tác bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên dạy trẻ

em khuyết tật cũng phải được chú trọng và quan tâm như: mở các lớp bồi

dưỡng nghiệp vụ định kỳ, thường xuyên; tổ chức các buổi giao lưu giữa giáo

viên dạy trẻ em khuyết tật ở địa phương với khu vực lân cận để trao đổi kinh

nghiệm, học hỏi và tiếp thu phương pháp, cách thức mới nhằm nâng cao hiệu

quả công tác giảng dạy cho trẻ em khuyết tật. Đồng thời, Nhà nước phải có

chế độ ưu tiên, giúp đỡ, hỗ trợ về mặt vật chất và tinh thần đối với giáo viên

làm nhiệm vụ giảng dạy cho trẻ em khuyết tật, nhất là giáo viên ở khu vực

vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Có thể thấy, xây dựng đội ngũ

giáo viên đảm bảo về số lượng và chất lượng chính là vấn đề cốt lõi, quyết

định sự thành công trong giáo dục cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.

77

Thứ năm, công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của bản

thân trẻ và gia đình có trẻ khuyết tật về lợi ích của giáo dục đối với trẻ

khuyết tật cần đặc biệt chú trọng. Nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục với tư

cách là hành trang cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Đồng thời đẩy mạnh

sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong việc quản lý giáo dục

trẻ khuyết tật góp phần giảm tình trạng trẻ không được đến trường hoặc trẻ

khuyết tật bỏ học.

Cuối cùng, quyền được giáo dục của trẻ khuyết tật chỉ được đảm bảo

khi có một hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, tạo điều kiện cho trẻ khuyết tật

tiếp cận dịch vụ này một cách dễ dàng và thuận. Để làm được điều này, cần

nguồn đầu tư lớn từ ngân sách nhà nước và từ phía các tổ chức xã hội. Có như

vậy việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực giáo dục theo xu

hướng tiếp cận và thân thiện với trẻ em khuyết tật mới thực sự đạt hiệu quả.

Đó là những giải pháp nhằm đảm bảo thực thi quyền được giáo dục của

trẻ em khuyết tật ở nước ta hiện nay. Để thực hiện được các giải pháp đó, cần

sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, nhằm

giúp cho quyền được giáo dục của trẻ em khuyết tật được đảm bảo thực thi

trên thực tế.

3.2.2.2. Đối với quyền được hưởng bảo trợ xã hội

Nhằm phát huy hơn nữa thành tựu đã đạt được và khắc phục phần nào

những hạn chế thiếu sót trong thời gian qua, giải pháp đưa ra với vấn đề bảo

đảm thực thi quyền hưởng bảo trợ xã hội của trẻ em khuyết tật là:

Trước hết, cần tiến hành phân loại dạng khuyết tật, mức độ khuyết tật,

thống kê số trẻ khuyết tật trên phạm vi toàn quốc và khu vực để làm cơ sở

triển khai hoạt động bảo trợ xã hội.

Hai là, quy định lại đối tượng được hưởng chính sách trợ cấp hàng

tháng. Theo đó, không chỉ riêng trẻ khuyết tật đặc biệt nặng và trẻ khuyết tật

78

nặng hiện không sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội mới được thụ hưởng

quyền này, mà cả trẻ khuyết tật nhẹ hiện không sống trong các cơ sở bảo trợ

xã hội cũng được hưởng trợ cấp xã hội, tuy nhiên, có sự khác nhau về mức trợ

cấp giữa các đối tượng. Ví dụ, nếu như trẻ khuyết tật đặc biệt nặng được

hưởng mức trợ cấp theo hệ số hai phẩy năm (2,5), trẻ khuyết tật nặng được

hưởng mức trợ cấp theo hệ số hai (2,0) thì trẻ khuyết tật nhẹ chỉ được hưởng

mức trợ cấp theo hệ số một phẩy năm (1,5) hoặc một phẩy (1,0) tùy thuộc vào

tình trạng khuyết tật của trẻ. Hơn nữa, nên cho phép các địa phương được quy

định mức trợ cấp dành cho trẻ em khuyết tật nhẹ căn cứ vào điều kiện phát

triển kinh tế xã hội của địa phương đó. Quy định như vậy thể hiện sự quan

tâm đúng mực của Đảng và Nhà nước đến trẻ em nói chung và trẻ em khuyết

tật nói riêng.

Ba là, trong điều kiện kinh tế xã hội khó khăn như hiện nay, cần nâng

mức trợ cấp xã hội cho trẻ khuyết tật, đảm bảo trợ cấp đó đáp ứng được mức

sống tối thiểu của trẻ. Tuy nhiên việc nâng mức trợ cấp này cần cân nhắc dựa

trên cơ sở bình đẳng với các đối tượng cũng được hưởng trợ cấp xã hội và

tính đến tình hình phát triển kinh tế của quốc gia. Để làm được điều này, ngân

sách nhà nước cần cân đối, phân bổ, đầu tư hợp lý, kết hợp với việc huy động

nguồn ngân sách từ phía cộng đồng. Hơn nữa, muốn ổn định mặt ngân sách,

Việt Nam cần tăng cường phát triển kinh tế, chú trọng đầu tư theo chiều sâu,

tập trung vào ngành kinh tế mũi nhọn, trọng điểm nhằm đưa nước ta thoát

khỏi tình trạng nghèo. Từ đó, đời sống của người dân mới được đảm bảo,

ngân sách cho các hoạt động xã hội tăng, trong đó có hoạt động bảo trợ dành

cho trẻ em khuyết tật, đưa trẻ lại gần hơn với các quyền vốn có của mình.

Bốn là, phải đẩy mạnh việc thành lập mới và cải tạo các cơ sở chăm

sóc, nuôi dưỡng trẻ khuyết tật ở các địa phương, trong đó được trang bị tương

đối đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho nhu cầu của trẻ em khuyết tật. Hơn

79

nữa, các cơ sở này cần đảm bảo tính thân thiện, hoạt động có hiệu quả và

được coi như mái nhà thứ hai của trẻ. Ngoài ra, chú ý tăng cường sự tham gia

của khu vực tư nhân vào việc thành lập các cơ sở này nhằm đáp ứng nhu cầu

cần được chăm sóc của trẻ em khuyết tật. Từ đó, góp phần đảm bảo có hiệu

quả việc thực thi quyền được bảo trợ xã hội của trẻ em khuyết tật trên thực tế.

Đó là những giải pháp đảm bảo thực thi quyền được hưởng bảo trợ xã

hội của trẻ em khuyết tật trên thực tế. Các giải pháp này được đề ra dựa trên

quá trình nghiên cứu tình hình bảo trợ cho trẻ em khuyết tật trong những năm

vừa qua, đồng thời mong muốn khắc phục các hạn chế, thiếu sót còn tồn đọng

nhằm hỗ trợ phần nào cho trẻ khuyết tật trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay.

3.2.2.3. Đối với quyền được chăm sóc sức khỏe

Để hạn chế những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình thụ hưởng

quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em khuyết tật, luận văn xin đưa ra các

giải pháp sau:

Thứ nhất, cần tiến hành phân loại trẻ khuyết tật theo mức độ, theo dạng

tật để làm cơ sở định hướng xây dựng chương trình khám chữa bệnh cho phù

hợp với từng đối tượng trẻ em khuyết tật.

Thứ hai, cần thúc đẩy việc xây dựng các chương trình sàng lọc phát

hiện sớm, can thiệp sớm nhằm ngăn ngừa, xử lý kịp thời, hạn chế các hậu quả

xấu do tình trạng khuyết tật gây ra. Ví dụ, cần thực hiện chương trình sàng

lọc, khám chữa bệnh định kỳ cho trẻ em hàng năm, ở nhiều khu vực nhằm

nhanh chóng phát hiện ra dấu hiệu bệnh của trẻ để có biện pháp xử lý.

Thứ ba, tăng cường phát triển mô hình phục hồi chức năng dựa vào

cộng đồng, huy động sự tham gia phối hợp của các cơ quan chức năng, các

cấp, các ngành. Đồng thời củng cố và hoàn thiện mạng lưới phục hồi chức

năng trên phạm vi toàn quốc, bảo đảm mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương đều có bệnh viện Điều dưỡng – Phục hồi chức năng hoạt động hiệu quả,

80

đóng vai trò chỉ đạo hoạt động phục phục hồi chức năng cho toàn tuyến. Hơn

nữa, cần đẩy mạnh sự hợp tác chặt chẽ với các Bộ, ngành có liên quan để chỉ

đạo các hoạt động phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật trên phạm vi cả

nước một cách thống nhất, đồng bộ và hiệu quả.

Thứ tư, xây dựng hệ thống trạm xá, trung tâm y tế phân bổ đồng đều

trên khắp cả nước, chú ý xây dựng tại khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng nông

thôn với hệ thống trang thiết bị đảm bảo về cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh

thông thường cho trẻ em khuyết tật. Đồng thời, các trạm xá, trung tâm y tế

này phải đặt ở vị trí trung tâm, hoặc dễ dàng tìm thấy nhằm giúp cho trẻ

khuyết tật và gia đình có trẻ khuyết tật có thể tiếp cận một cách dễ dàng.

Thứ năm, hệ thống cơ sở, trang thiết bị đầu tư cho ngành y tế trong lĩnh

vực chăm sóc sức khỏe cho trẻ em khuyết tật cũng phải được đầu tư, nhằm

thực hiện có hiệu quả công tác khám, chữa bệnh và rèn luyện phục hồi thể lực

cho trẻ. Ngoài ra, Nhà nước phải có hướng dẫn cụ thể về các chính sách ưu

tiên miễn, giảm viện phí đối với trẻ em khuyết tật, nguồn ngân sách đầu tư

vào lĩnh vực này cũng cần được tăng cường, không chỉ từ ngân sách nhà

nước, mà còn huy động hỗ trợ từ phía cộng đồng

Thứ sáu, chú trọng hợp tác, đào tạo, bồi dưỡng năng lực chuyên môn

cho y, bác sĩ, nhân viên y tế; phân công y, bác sĩ giỏi đến làm việc tại khu vực

vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách ưu đãi đối với

cán bộ làm việc tại khu vực này.

Cuối cùng, cần chú trọng đến công tác tuyên truyền nhằm nâng cao

nhận thức trong việc khám, phòng bệnh chữa bệnh cho trẻ khuyết tật và gia

đình có trẻ khuyết tật.

Có như vậy, chất lượng cuộc sống của trẻ khuyết tật mới được đảm

bảo, ổn định sức khỏe là tiền đề, là cơ sở cho trẻ tham gia và thụ hưởng các

quyền cơ bản khác.

81

3.2.2.4. Đối với quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí

Để tăng cường sự tham gia của trẻ khuyết tật vào các hoạt động văn

hóa, thể thao, giải trí cần thúc đẩy việc thành lập các câu lạc bộ thể dục thể

thao, câu lạc bộ văn hóa nghệ thuật cho trẻ em khuyết tật ở các địa phương

với mô hình phù hợp, nhằm thu hút sự quan tâm, chú ý tham gia của trẻ.

Đồng thời, tổ chức nhiều trại hè, các cuộc thi văn hóa nghệ thuật vừa

dành riêng cho đối tượng là trẻ em khuyết tật, lại vừa dành cho cả trẻ khuyết

tật và trẻ không khuyết tật với mục đích hình thành nhiều sân chơi lành mạnh,

có ích, giúp trẻ giao lưu, học tập lẫn nhau. Phải tổ chức các cuộc thi, trại hè

dành cho hai nhóm đối tượng này bởi: đối với trẻ không khuyết tật, việc tham

gia này sẽ giúp cho trẻ có cái nhìn hòa đồng, thân thiện hơn với các bạn

khuyết tật, còn trẻ khuyết tật sẽ nhận thấy mình được cạnh tranh bình đẳng,

được đánh giá công bằng như những bạn không khuyết tật cùng trang lứa.

Tuy nhiên, do khiếm khuyết về cá nhân, vẫn cần có sự ưu tiên hợp lý

dựa trên cơ sở cân nhắc kĩ lưỡng và khéo léo khi tuyển chọn trẻ khuyết tật

tham gia vào các cuộc thi hòa nhập này. Ngoài ra, cần đầu tư ngân sách hợp

lý, thu hút vốn đầu tư của cá nhân, tổ chức xã hội để tiếp tục cải tạo, nâng cấp,

xây mới cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ sở hạ tầng mới trong lĩnh vực thể dục thể

thao, văn hóa nghệ thuật, bảo đảm cho trẻ khuyết tật tiếp cận dễ dàng, và hăng

hái tham gia luyện tập.

3.2.2.5. Đối với quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng

Cần tăng cường quản lý, thẩm định và cấp phép các công trình xây

dựng mới, việc cải tạo hoặc nâng cấp các công trình xây dựng cũ phải đảm

bảo đầy đủ các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về tiếp cận của trẻ em khuyết

tật như: mỗi tòa nhà, siêu thị, trung tâm vui chơi, giải trí đều phải có lối đi cho

trẻ khuyết tật; có biển chỉ dẫn được đặt ở vị trí thông thoáng, dễ nhìn…

Nhà nước cũng cần đầu tư thỏa đáng cho cơ sở hạ tầng giao thông như:

82

sân bay, nhà ga, bến xe, bến tàu…; phát triển hệ thống phương tiện giao thông

tiếp cận như: xe buýt, tàu hỏa…. đáp ứng tiêu chuẩn: sàn xe thấp, cửa rộng…;

phát triển các tuyến xe buýt tiếp cận, xe buýt thân thiện tại các tỉnh, thành phố

trong cả nước, nhằm đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu và số lượng

trẻ khuyết tật ngày càng gia tăng. Đặc biệt, nên lắp hệ thống loa hỗ trợ tại các

trạm chờ xe buýt để giúp trẻ khuyết tật, nhất là trẻ khiếm thị có thể xác định

được số tuyến và điểm đến của xe buýt mà mình cần đi.

Ngoài ra, để thúc đẩy việc chủ động tìm kiếm, học hỏi, khai thác thông

tin, cần xây dựng cơ chế hỗ trợ dịch vụ công nghệ thông tin truyền thông cho

trẻ khuyết tật; thiết kế sách, truyện cho trẻ khiếm thị bằng chữ Braille. Đồng

thời, cần thành lập trung tâm công nghệ thông tin ở mỗi địa phương dành

riêng cho trẻ khuyết tật, nhất là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tại đây,

trẻ sẽ được trực tiếp sử dụng tìm hiểu công nghệ, được truy cập internet, được

giao lưu, học hỏi nhằm nâng cao kiến thức. Mô hình Trung tâm công nghệ

thông tin đặc biệt này đã được thành lập ở nhiều nước trên thế giới, một trong

số đó là Thái Lan. Việc hình thành nó sẽ giải quyết được nhu cầu khai thác,

sử dụng công nghệ thông tin trong trường hợp gia đình trẻ khuyết tật không

có đủ điều kiện về tài chính để sở hữu phương tiện này.

Đó là những giải pháp nhằm đảm bảo quyền được tiếp cận với công

trình, dịch vụ công cộng của trẻ em khuyết tật, phù hợp với thực trạng của

Việt Nam hiện nay.

Trên đây là toàn bộ giải pháp nhằm bảo đảm thực thi các quyền của trẻ

em khuyết tật trên thực tế. Ngoài các lĩnh vực cụ thể đã nêu, việc đảm bảo

quyền của trẻ em khuyết tật sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu tăng cường thiết lập

nhiều diễn đàn để trẻ được bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình, đồng thời

phản ánh những bất cập trong việc thực hiện chính sách liên quan đến trẻ

khuyết tật. Tuy nhiên, cũng cần xác định rằng, việc thực hiện các giải pháp đề

83

ra là điều không dễ dàng, do hoàn cảnh kinh tế xã hội đất nước, do bản thân

trẻ khuyết tật, do cộng đồng. Vì vậy, cần sự hợp tác phối hợp đồng bộ từ phía

các sở, ban, ngành, các cá nhân, tổ chức, nhằm giúp cho trẻ em khuyết tật thật

sự được thụ hưởng các quyền cơ bản này.

3.2.3. Về phía cộng đồng

Thái độ kì thị, phân biệt đối xử của xã hội là rào cản lớn nhất đối với

trẻ em khuyết tật. Đây là bức tường vô hình khiến nhiều trẻ không thể vượt

qua, ảnh hưởng lớn đến việc thụ hưởng quyền cơ bản của đối tượng dễ bị tổn

thương này. Vì vậy, đấu tranh chống lai sự kỳ thị, phân biệt đối xử nhằm thay

đổi quan niệm, thái độ của cộng đồng về trẻ em khuyết tật chính là giải pháp

hữu hiệu nhất, giúp trẻ có cơ hội vươn lên phát huy năng lực bản thân, khẳng

định mình và tham gia bình đẳng vào các hoạt động của đời sống xã hội.

Tuy nhiên, việc thay đổi quan điểm, thành kiến vốn hình thành từ lâu

đời của bộ phận không nhỏ người dân trong xã hội về giá trị, vai trò và năng

lực của trẻ em khuyết tật không phải đơn giản. Nó là một quá trình dài, đầy

khó khăn, thách thức và nhiều trở ngại. Bởi nền tảng nhận thức của xã hội về

vấn đề này không đồng đều và chưa đầy đủ giữa các khu vực, giữa các nhóm

dân cư. Để giải quyết nó, cần kiên trì thực hiện các bước nhằm nâng cao nhận

thức của cộng đồng, cụ thể như sau:

Thứ nhất, xây dựng kế hoạch trợ giúp, chương trình vui chơi giải trí

cho trẻ khuyết tật trong phạm vi địa phương và động viên sự tham gia ủng hộ

của người dân trong khu vực.

Thứ hai, triển khai hoạt động tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp

luật liên quan đến trẻ em khuyết tật, nhất là Luật người khuyết tật cho toàn xã

hội, bao gồm cả gia đình có trẻ khuyết tật để mọi người hiểu rõ hơn về những

quyền của trẻ em khuyết tật được hưởng, và nâng cao trách nhiệm của bản

thân mỗi công dân trong việc giúp đỡ, tạo điều kiện cho trẻ khuyết tật thụ

84

hưởng các quyền đó. Đồng thời, chống lại các quan niệm cố hữu, những định

kiến liên quan đến vấn đề người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói

riêng. Việc tuyên truyền này cần được thực hiện trên phạm vi cả nước, tập

trung vào các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nhằm đảm

bảo sự đồng đều trong nhận thức giữa các khu vực.

Thứ ba, định hướng hành vi ứng xử của cộng đồng đối với trẻ em

khuyết tật đúng mực trên cơ sở tôn trọng, lắng nghe, và chia sẻ chứ không

phải thương hại, ban ơn. Cần nhìn nhận trẻ khuyết tật với tư cách là một công

dân bình thường, có đầy đủ khả năng, nghị lực vươn lên, khát khao khẳng

định mình chứ không phải là người thừa, là gánh nặng của xã hội.

Thứ tư, xã hội hóa các hoạt động trợ giúp trẻ em khuyết tật. Bởi với

nhu cầu trợ giúp trẻ khuyết tật cả về thể chất và tinh thần như hiện nay, chắc

chắn công tác này cần nhân lực và tài lực rất lớn. Nếu xác định hoạt động này

là trách nhiệm của riêng Nhà nước với kinh phí được lấy từ nguồn ngân sách

thì trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay, vấn đề trợ giúp cho trẻ sẽ trở

thành gánh nặng. Dẫn đến, việc bảo đảm đầy đủ các quyền của trẻ khuyết tật

sẽ gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, sự chia sẻ của cộng đồng không cao, vô hình

chung tạo ra rào cản đối với trẻ khuyết tật trong việc hòa nhập với cộng đồng.

Do vậy xã hội hóa hoạt động trợ giúp trẻ khuyết tật là chủ trương đúng đắn,

huy động sự sẻ chia, giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức xã hội nhằm bảo đảm

và nâng cao đời sống của trẻ em khuyết tật.

Để thực hiện tốt được các giải pháp này, cần quán triệt phương châm

nhà nước và nhân dân cùng làm. Quyền lợi của trẻ em khuyết tật chỉ được

đảm bảo và thực thi khi xã hội có cái nhìn tích cực hơn, quan tâm hơn đối với

trẻ, chú ý vào năng lực của trẻ, thay vì tập trung để ý những khiếm khuyết của

các em. Có như vậy, trẻ em khuyết tật mới được tự tin thể hiện khả năng và

nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.

85

3.2.4. Về phía bản thân trẻ khuyết tật

Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức và toàn thể xã hội,

hiện nay, trẻ em khuyết tật ngày càng tự tin hòa nhập cộng đồng, tham gia

nhiều chương trình vui chơi giải trí, nỗ lực vươn lên để tự khẳng định mình.

Số liệu về trẻ khuyết tật tham gia vào các lớp học hòa nhập, lớp học

chuyên biệt, lớp học bán hòa nhập; hay tham gia vào các bộ môn thể dục thể

thao thi đấu… là minh chứng cho việc bản thân trẻ khuyết tật luôn cố gắng để

được sống cuộc sống bình thường như bao bạn bè cùng trang lứa không bị

khuyết tật khác. Cũng thông qua quá trình học tập đó, kết hợp với sự phát

triển mạnh mẽ của hệ thống internet, việc chủ động tiếp cận với khoa học

công nghệ đã giúp nhiều trẻ khuyết tật hiểu rõ hơn về khiếm khuyết của mình

và nhận thức được chính xác quyền lợi mà mình được hưởng. Những tấm

gương vượt lên trên số phận của trẻ em khuyết tật đồng cảnh ngộ là sự cổ vũ,

động viên rất lớn đối với chính bản thân mỗi đối tượng này. Nhờ đó, cảm giác

tự ti, mặc cảm, ngại tiếp xúc với những người xung quanh đã dần dần được

gạt bỏ, nhiều trẻ đạt thành tích tốt trong quá trình rèn luyện, học tập và sinh

hoạt. Tiêu biểu nhất là cô bé Nguyễn Phương Anh, học sinh lớp 10 trường

THPT Việt Đức, Hà Nội. Mặc dù bị căn bệnh xương thủy tinh, khiến cho mọi

việc đi lại, di chuyển đều phải dựa vào xe lăn, nhưng Phương Anh lại là một

cô bé rất tự tin và yêu đời. Tham gia và lọt vào vòng bán kết chương trình

VietNam’s Got Talent, Phương Anh được yêu thích bởi giọng hát trong trẻo

đầy đam mê và nghị lực phi thường. Gần đây, Phương Anh đã đạt giải nhì

trong cuộc thi hát tiếng Anh Let’s get loud với ca khúc “See you again” và là

cộng tác viên cho một số chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam. Sự năng

động, nhiệt huyết của cô bé xương thủy tinh là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh

trẻ em khuyết tật tự vươn lên khẳng định năng lực trong cuộc sống, và

Phương Anh đã được Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) vinh danh là

gương mặt trẻ khuyết tật tiêu biểu toàn cầu vào năm 2013. [47].

86

Trẻ em khuyết tật Việt Nam luôn mang trong mình niềm khát khao

được hòa nhập cuộc sống, mong ước được khẳng định bản thân và nhận được

sự tôn trọng từ phía xã hội. Tuy nhiên trên thực tế, do nhiều yếu tố chủ quan

và khách quan, dẫn đến tình trạng vẫn còn nhiều trẻ tự ti về bản thân, hạn chế

hoặc không tham gia các hoạt động xã hội khiến công tác đảm bảo quyền của

trẻ em khuyết tật gặp không ít trở ngại.

Thực tế cho thấy, trong rất nhiều các chương trình, cuộc thi, số lượng

trẻ khuyết tật đăng ký tham gia không nhiều, hoặc dù muốn tham gia nhưng

không dám dự thi. Nguyên nhân của tình trạng này là do phần lớn trẻ khuyết

tật vẫn còn tâm lý mặc cảm về khiếm khuyết cơ thể, cảm thấy thua kém với

bạn bè đồng trang lứa, nên nảy sinh trạng thái e dè, ngại giao lưu, sợ ánh mắt

thương cảm từ phía mọi người.

Hơn nữa, một phần lý do khiến quá trình bảo đảm quyền của trẻ em

khuyết tật không được đảm bảo đó là, trẻ khuyết tật chưa hoàn toàn hợp tác với

chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, của cộng đồng. Trẻ nhìn nhận sự

quan tâm, giúp đỡ như những hoạt động xuất phát từ lòng thương hại, và bản

thân trẻ không muốn mình là đối tượng phải nhận sự thương hại ấy. Từ đó, trẻ

tự xa lánh mọi thứ, thu mình vào vỏ ốc riêng biệt khiến quá trình hòa nhập trở

nên khó khăn, và vô hình chung, trẻ đã tự thu hẹp các quyền của mình.

Ngoài ra, đa số trẻ khuyết tật sống ở khu vực nông thôn cùng gia đình,

một số ít sống trong các trung tâm bảo trợ xã hội, do nhiều nguyên nhân và

điều kiện khác nhau, trẻ chủ yếu ở trong nhà, ít có điều kiện học tập, giao lưu,

tiếp cận thông tin, tiếp cận cộng đồng… Hoặc chính bản thân trẻ cảm thấy

mình là gánh nặng, không có ích cho xã hội, nghi ngờ vào khả năng của mình,

chưa có nhận thức đầy đủ về các quyền mà mình được hưởng, do đó, ảnh

hưởng không nhỏ đến việc thụ hưởng các quyền này.

Như vậy, cho dù trẻ em khuyết tật được đặt vào vị trí trung tâm trong

87

chính sách của Đảng và Nhà nước; cho dù cộng đồng xã hội luôn dành sự

quan tâm rất lớn đối với trẻ khuyết tật, nhưng nếu bản thân mỗi trẻ không tự

vượt qua được những mặc cảm, tự ti do chính trẻ xây dựng ra thì việc bảo

đảm quyền lợi cho nhóm dễ bị tổn thương này thực sự gặp khá nhiều khó

khăn. Đây chính là một trong những hạn chế tương đối lớn trong quá trình

bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. Tư tưởng coi mình

là gánh nặng của gia đình, của xã hội vẫn còn tồn tại trong phần lớn suy nghĩ

của trẻ em khuyết tật, vì vậy, việc xóa bỏ mặc cảm, tự ti này sẽ góp phần quan

trọng trong việc đưa trẻ khuyết tật lại gần hơn với các quyền vốn có của mình.

Chính vì thế, luận văn sẽ đưa ra một vài giải pháp nhằm thay đổi nhận thức

của trẻ khuyết tật.

Trước hết, muốn xóa bỏ tâm lý coi mình là gánh nặng trong mỗi trẻ em

khuyết tật, cần đối xử với trẻ đúng mực trên cơ sở bình đẳng với trẻ em không

khuyết tật khác, nhằm giúp trẻ nhận thấy mình cũng là một công dân đang

sống trong xã hội.

Thứ hai, lắng nghe ý kiến của trẻ em khuyết tật một cách tôn trọng, tạo

những diễn đàn để cho trẻ được bày tỏ tiếng nói của mình, cho phép trẻ

khuyết tật được cử đại diện vào trong các tổ chức, các hiệp hội để thay mặt trẻ

phát biểu quan điểm, tư tưởng và nhu cầu của họ. Cảm giác mình cũng được

lắng nghe, cũng được tôn trọng sẽ giúp trẻ khuyết tật không tự ti vào bản thân

mình, không cảm thấy mình bị gạt ra ngoài lề của xã hội.

Thứ ba, không nên thành lập quá nhiều khu vực riêng biệt dành cho trẻ

khuyết tật, bởi mặc dù có lợi cho trẻ, nhưng đứng góc nhìn khác, trẻ sẽ cảm

thấy mình bị cô lập, không công bằng. Do vậy, hãy để trẻ khuyết tật được

sống, được học tập, được làm việc hòa nhập cùng những trẻ không khuyết tật

khác, để trẻ khuyết tật phát huy hết khả năng của mình cạnh tranh một cách

bình đẳng với các bạn cùng trang lứa.

88

Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục cho trẻ khuyết tật

về những quyền mà trẻ vốn được hưởng, nêu những tấm gương đồng cảnh

ngộ với trẻ nhưng đã biết vượt lên số phận và đạt được thành công nhất định

để trẻ học hỏi. Đồng thời luôn khích lệ, động viên trẻ giúp trẻ có niềm tin vào

bản thân, có niềm tin vào chính sách của Đảng và nhà nước và có niềm tin

vào sự quan tâm của cộng đồng.

Có thể thấy, những giải pháp đưa ra đều nhằm mục đích giúp trẻ khuyết

tật tự gỡ bỏ, tự vượt qua mặc cảm, rào cản do chính mình xây dựng nên. Tuy

nhiên nguyên nhân của những mặc cảm, rào cản đó lại xuất phát chủ yếu từ

hoàn cảnh khách quan. Do vậy, cần có sự kết hợp nhịp nhàng giữa cơ quan, tổ

chức và trẻ khuyết tật để tạo điều kiện cho trẻ vượt lên chính mình, hòa nhập

tích cực vào cuộc sống.

Tiểu kết chƣơng 3

Là những công dân còn non nớt về mặt thể chất và tinh thần, lại mang

trong mình những khiếm khuyết về cơ thể, trẻ khuyết tật với tư cách là nhóm

bị tổn thương kép đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết tật

đem lại. Những thiệt thòi đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân

trẻ và gia đình có trẻ khuyết tật, ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động

xã hội của trẻ. Do vậy, để bảo đảm cho trẻ em khuyết tật được hưởng các

quyền một cách trọn vẹn nhất, Chương III đã đưa ra một loạt các giải pháp

dựa trên các phương hướng cụ thể nhằm phát huy thành tựu đã đạt được đồng

thời khắc phục những hạn chế thiếu sót trong tất cả các lĩnh vực: xây dựng

pháp luật, thực thi pháp luật, thái độ của cộng đồng, bản thân trẻ khuyết tật.

Quyền của trẻ em khuyết tật chỉ được đảm bảo khi xây dựng được một hệ

thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và có khả năng thi hành trên

thực tế. Hệ thống pháp luật đó phải nhằm thể chế hóa đường lối, chính sách

89

của Đảng và Nhà nước để trợ giúp trẻ khuyết tật khắc phục khó khăn, tạo môi

trường cho trẻ được phát triển toàn diện. Đồng thời, còn có ý nghĩa giáo dục

cộng đồng ý thức tôn trọng trẻ em khuyết tật, nhìn nhận trẻ khuyết tật với tư

cách là một công dân bình đẳng. Từ đó, là cơ sở để trẻ gạt qua mặc cảm, tự ti,

nỗ lực vươn lên khẳng định mình, trở thành công dân có ích cho xã hội.

90

KẾT LUẬN

Kể từ khi trở thành quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ hai trên

thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989, đồng thời còn là

thành viên thứ 118 tham gia ký Công ước quốc tế về quyền của Người khuyết

tật năm 2007, vị trí vai trò của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam đã có nhiều biến

chuyển đáng kể. Đảng và Nhà nước đã và đang nỗ lực trong tiến trình nội luật

hóa, nhằm đưa pháp luật Việt Nam lại gần hơn với chuẩn mực chung của

pháp luật quốc tế về quyền của trẻ em khuyết tật. Hàng loạt chính sách, đề án,

chương trình đã được ban hành với mục đích xây dựng hành lang pháp lý

chuẩn mực, là cơ sở cho việc bảo đảm và thúc đẩy thực thi có hiệu quả các

quyền của trẻ khuyết tật trên thực tế. Đặc biệt, với sự ra đời của Luật Người

khuyết tật năm 2010 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng về địa vị của trẻ

khuyết tật trong xã hội, và thể hiện nỗ lực và quyết tâm lớn của Đảng và Nhà

nước trong việc hỗ trợ, giúp đỡ trẻ khuyết tật hòa nhập với cộng đồng. Tính

đến thời điểm này, đây là văn bản luật đầu tiên quy định rõ ràng trách nhiệm

của các cơ quan trong việc bảo đảm quyền của trẻ khuyết tật. Đồng thời ghi

nhận những quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ khuyết tật một cách hoàn chỉnh,

thống nhất và có hiệu lực pháp lý trên phạm vi cả nước.

Không chỉ được sự quan tâm trong các chính sách của Đảng và Nhà

nước, mà trẻ em khuyết tật hiện nay còn nhận được sự quan tâm đặc biệt từ

phía cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Những năm qua, rất nhiều hoạt

động có ý nghĩa nhằm giúp đỡ, tôn vinh trẻ em khuyết tật đã được thực hiện

và thu hút được sự chú ý, thiện cảm của đại đa số người dân trong xã hội. Hơn

nữa, thay vì nhìn vào khiếm khuyết của trẻ như trước đây, cái nhìn của người

dân cũng có sự thay đổi theo hướng tôn trọng hơn, đề cao năng lực của trẻ,

tăng cường sẻ chia nhằm giúp trẻ vươn lên trong cuộc sống. Đó thực sự là

những hành động rất thiết thực, tác động trực tiếp đến mỗi trẻ em khuyết tật,

91

là động lực để trẻ vượt qua mặc cảm, tự vi, có thêm niềm tin vào chính bản

thân mình và nhanh chóng hòa nhập vào cuộc sống.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, luận văn nhận thấy

việc đảm bảo thực hiện quyền trẻ em khuyết tật tại Việt Nam vẫn tồn tại

những hạn chế nhất định. Mặc dù đã thực hiện tương đối tốt các chính sách,

đường lối, các biện pháp phòng ngừa, phát hiện sớm, can thiệp sớm song tình

hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam vẫn có chiều hướng gia tăng. Với hơn 1,2

triệu trẻ em khuyết tật, chiếm khoảng 19,7% số người khuyết tật trên phạm vi

cả nước, trong đó nguyên nhân chủ yếu do hậu quả và di chứng của chiến

tranh để lại, nhất là nhiễm chất độc hóa học, bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại

sau chiến tranh, thì vấn đề bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam

thực sự là thách thức rất lớn. Đảng và Nhà nước đã có nhiều đổi mới tích cực

trong đường lối chính sách nhằm chăm sóc và bảo vệ trẻ em khuyết tật, nhưng

những chính sách, chương trình, đề án đó vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu

cầu của trẻ em khuyết tật. Việt Nam lại chưa có một cơ quan nhân quyền quốc

gia nhằm đảm bảo và thúc đẩy việc thực hiện trên thực tế các quyền con

người nói chung và quyền của trẻ khuyết tật nói riêng. Trong khi trẻ khuyết

tật Việt Nam chủ yếu sống ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, nền

kinh tế còn nhiều khó khăn, lại hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ

như y tế, giáo dục, thông tin… nên trình độ học vấn cũng như nhận thức vẫn

còn khá thấp. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn là quốc gia đang phát triển, xuất

phát điểm thấp nên nguồn ngân sách đầu tư cho các hoạt động liên quan đến

bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật như: đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị,

công tác tuyên truyền, đào tạo nhân lực…còn nhiều thiếu thốn. Đặc biệt, luận

văn đã nêu bật được rào cản lớn nhất ngăn chặn việc trẻ em khuyết tật thụ

hưởng trọn vẹn các quyền vốn có của mình đó là tình trạng kỳ thị, phân biệt

đối xử của cộng đồng. Dù nhận thức của người dân đã thay đổi đáng kể, tuy

92

nhiên, quan niệm coi trẻ em khuyết tật là gánh nặng, là đối tượng của lòng

thương hại vẫn còn tồn tại. Đó như bức tường vô hình ngăn cản trẻ hòa nhập

với cộng đồng, đẩy trẻ vào bên lề của xã hội.

Để khắc phục tình trạng đó, luận văn nhấn mạnh việc cần có một chiến

dịch làm thay đổi cách nhìn của cộng đồng, đấu tranh nhằm đảm bảo đầy đủ

sự tiếp cận của trẻ khuyết tật là đấu tranh chống lại sự kỳ thị và phân biệt đối

xử. Dựa trên thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực bảo đảm quyền của trẻ em

khuyết tật, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, việc đề ra những giải

pháp cụ thể nhằm giải quyết có hiệu quả những hạn chế còn tồn đọng trong

thời gian qua thực sự cần thiết. Ổn định nền kinh tế vi mô và vĩ mô; hình

thành cơ quan nhân quyền quốc gia; xây dựng hệ thống pháp luật toàn diện,

đồng bộ; quan tâm nhiều hơn đến trẻ em khuyết tật; tăng cường phối hợp giữa

gia đình, nhà trường và xã hội; dọn sạch bom mìn còn sót lại sau chiến tranh;

đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của trẻ; tăng cường

hợp tác quốc tế nhằm học hỏi kinh nghiệm… là những biện pháp hữu hiệu mà

luận văn đưa ra nhằm góp phần hoàn chỉnh hơn hệ thống pháp luật, đưa pháp

luật Việt Nam lại gần hơn với pháp luật quốc tế. Đồng thời, trên cơ sở nhận

thức đúng đắn vị trí của trẻ em khuyết tật trong xã hội để tạo môi trường

thuận lợi cho trẻ em khuyết tật phát triển bình đẳng, phát huy năng lực của

mình và cống hiến cho cộng đồng. Tuy nhiên, luận văn cũng nhận thức được

giữa việc đề ra giải pháp với thực hiện giải pháp là một khoảng cách không

nhỏ do tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, bên cạnh

sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền, luận văn đánh giá cao sự nỗ lực, hợp

tác của các sở, ban, ngành, các cá nhân, tổ chức và toàn thể xã hội nhằm đem

lại hiệu quả cao nhất cho công tác đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt

Nam hiện nay./.

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Báo (2011), Pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt

Nam hiện nay, Nxb Tư pháp.

2. Bình luận chung số 5 - Người khuyết tật, Khoa Luật, Đại học quốc gia

Hà Nội (2010), Quyền con người: Tập hợp những bình luận/khuyến nghị

chung của ủy ban công ước Liên hợp quốc, Nxb Công an nhân dân.

3. Bình luận chung số 9 - Quyền của trẻ em khuyết tật, Khoa Luật, Đại học

quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người: Tập hợp những bình

luận/khuyến nghị chung của ủy ban công ước Liên hợp quốc, Nxb Công

an nhân dân.

4. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2009), Xây dựng môi trường bảo vệ

trẻ em Việt Nam, đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc

biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, Hà Nội.

5. Hà Đình Bốn (2010), “Tuyên truyền pháp luật, (số 05), Chủ đề: Luật

người khuyết tật”, Hà Nội.

6. Chính phủ (2012), Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

Người khuyết tật 2010, Hà Nội.

7. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 (ICCPR), Khoa

Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về

quyền con người, Nxb Lao động - xã hội.

8. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, 1966

(ICCSCR), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các

văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Lao động – xã hội.

9. Công ước về quyền của người khuyết tật 2007 (ICRPD), Khoa Luật, Đại

học quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền

con người, Nxb Lao động - xã hội.

94

10. Công ước về quyền trẻ em 1989 (ICRPD), Khoa Luật, Đại học quốc gia

Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb

Lao động - xã hội.

11. Eric Rosenthal và Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần

(2009), Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam – Đưa luật pháp của

Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền của Người

khuyết tật, tháng 12/2009, Hà Nội.

12. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp

luật về quyền con người, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

13. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Luật nhân quyền tế những

vấn đề cơ bản, Nxb Lao động xã hội.

14. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Luật quốc tế về quyền của

các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb Lao động – xã hội.

15. NCCD (2010), Báo cáo thường niên về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật

Việt Nam, Hà Nội.

16. Hoàng Thị Kim Quế (2010), Chủ nhiệm đề tài, “Hoàn thiện pháp luật về

bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Đề tài nghiên

cứu khoa học, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.

17. Quốc hội (1991), Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Hà Nội.

18. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, Hà Nội.

19. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

20. Quốc hội (2005), Luật giáo dục, Hà Nội.

21. Quốc hội (2006), Luật thể dục, thể thao, Hà Nội.

22. Quốc hội (2008), Luật giao thông đường bộ, Hà Nội.

23. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động (sửa đổi), Hà Nội.

24. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật người khuyết tật

Việt Nam, Nxb Công an nhân dân.

95

26. UNFPA (2011), Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và nhà

ở Việt Nam 2009, Hà Nội.

27. UNICEF (2010), Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam 2010, Hà Nội.

28. UNICEFF Hà Nội và Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người thuộc

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Tài liệu tập huấn về

quyền trẻ em, Hà Nội.

29. Viện Ngôn ngữ học (1999), “Đại Từ điển Tiếng Việt”, Nxb Văn hoá, Thông tin.

Các văn bản và dự thảo văn bản lấy từ internet

30. http://vdict.com/b%E1%BA%A3o%20%C4%91%E1%BA%A3m,3,0,0.

html [truy cập ngày 07/2/2013]

31. http://www.baomoi.com/Ca-nuoc-con-gan-5-trieu-nguoi-nhiem-chat-

doc-mau-da-cam/122/6768226.epi [truy cập ngày 17/4/2013].

32. http://www.thienphuoc.com/shop_news.php?l=vn&ac=13&mode=cn&cn

=54&item=0&sort=0, [truy cập ngày 24/8/2013].

33. http://thuyancentre.com/index.php?usv=theaboutus, [truy cập ngày 24/8/2013].

34. http://laodong.com.vn/xa-hoi/hon-21-ty-dong-ho-tro-tre-em-ngheo-tinh-

nghe-an-166783.bld [truy cập ngày 24/8/2013].

35. http://baothanhhoa.vn/vn/xa-hoi/n106684/Kham-sang-loc-va-chi-dinh-

phau-thuat-mien-phi-cho-tre-khuyet-tat, [truy cập ngày 27/8/2013].

36. http://giaoductruyenthong.vn/news/hoi-dien-nghe-thuat-nghi-luc-va-tinh-thuong-

to-chuc-tu-19h30--21h30-ngay-10-8-2013.aspx, [truy cập ngày 07/12/2013].

37. http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Phong-su-Ky-su/186273,Bach-tuoc-vuon-voi-

khap-Sai-Gon.ttm, [truy cập ngày 07/12/2013].

38. http://thainguyen.edu.vn/Home/lth/2013/1155/Khai-mac-Hoi-thi-the-

thao-hoc-sinh-khuyet-tat-toan-quoc.aspx, [truy cập ngày 06/3/2014].

39. http://bandotiepcan.wordpress.com/2012/08/12/viet-tiep-uoc-mo-tiep-

can/, [truy cập ngày 06/3/2014].

96

40. http://www.sto.vn/news/events/75-tien-si-bac-si-le-duc-to-ong-but-cua-

nhung-tre-tat-nguyen.html, [truy cập ngày 06/3/2014].

41. http://hssv.tienphong.vn/hoc-sinh-sinh-vien/thu-khoa-xinh-dep-sang-che-

xe-danh-cho-nguoi-khuyet-tat-608795.tpo, [truy cập ngày 06/3/2014].

42. http://citinews.net/xa-hoi/cau-hoc-tro-lop-9-gianh-giai-sang-tao-tre-

quoc-te-HOAZF2Q/, [truy cập ngày 06/3/2014].

43. http://www.congan.com.vn/?mod=detnews&catid=1100&id=508491,

[truy cập ngày 06/3/2014].

44. http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns050819

141225, truy cập ngày [21/3/2014].

45. http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/nr040807104143/nr040807105001

/ns090723074537, [truy cập ngày 21/3/2014].

46. http://www.laodongxahoionline.vn/ArticlesDetail/tabid/193/cateid/24/id/

7865/language/vi-VN/Default.aspx, [truy cập ngày 21/3/2014].

47. http://tuoitre.vn/Pages/Printview.aspx?ArticleID=551136, [truy cập ngày

22/3/2014].

97