
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC LỄ HỘI VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG
CỦA DÂN TỘC KHMER THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TRÀ VINH
Nguyễn Ngọc Diệp(*)
SPECIFIC CULTURAL FESTIVAL CONSERVATION AND PROMOTION OF KHMER
ETHNIC GROUP THROUGH TOURISM ACTIVITIES IN TRA VINH CITY
Abstract
Tra Vinh is one of the provinces in the Mekong Delta where Khmer ethnic group live
.Like other ethnic groups, the Khmer culture was formed long ago. It is the crystallization
and legacy of many different cultures, especially the traditional festivals. Indeed, the festivals
of Khmer ethnic group contain many special and attractive cultural elements that can
develop tourism. However, the development of the festivals associated with tourism activities
in Tra Vinh has not been paying much attention. Moreover, economic efficiency from tourism
activities is not high and tourism quality is low and still limited. This article discusses the
preservation and promotion of specific cultural festivals of Khmer ethnic group through
tourism activities in Tra Vinh city.
*
Việc bảo tồn và phát huy các lễ hội đặc trưng của dân tộc Khmer thông qua hoạt động
du lịch trên địa bàn thành phố Trà Vinh là việc làm rất cần thiết và cũng là điều kiện thuận lợi
để giúp chúng tôi phân tích, đánh giá hiện trạng và đưa ra định hướng cũng như những giải
pháp giúp phát triển lễ hội thông qua hoạt động du lịch đúng với tiềm năng hiện có.
1. Khái quát các lễ hội đặc trưng của dân tộc Khmer
Có thể nói, lễ hội của người dân tộc Khmer vô cùng phong phú, đa dạng, đa màu sắc.
Trong năm, có rất nhiều lễ hội diễn ra với tính chất, qui mô khác nhau không chỉ dành cho
người dân tộc Khmer mà còn thu hút sự quan tâm của những đồng bào dân tộc khác. Sau đây
là giới thiệu khái quát một số lễ hội đặc trưng của người dân tộc Khmer:
1.1. Chôl Chnăm Thmây
Chôl Chnăm Thmây là lễ mừng năm mới, mang ý nghĩa giống như tết cổ truyền của
các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Theo thông lệ hàng năm, đồng bào Khmer sẽ chuẩn bị
chu đáo từ việc ăn, mặc, ở để đón tết, làm bánh, chuẩn bị thức ăn cho việc đãi khách, dâng
cơm cho các vị sư trong chùa, trang hoàng nhà cửa, sắp xếp bàn thờ, những người ở xa đều
trở về sum họp gia đình và đến chùa tiến hành các nghi thức tôn giáo cổ truyền.
Đêm giao thừa (Năm cũ – Chnămchas): giờ vào năm mới của người Khmer không
nhất định phải là giữa đêm, mà được căn cứ vào quyển Đại lịch (Mahasoongkran) luôn thay
đổi hàng năm. Mọi người tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo đẹp mang theo nhang đèn, lễ vật đến
chùa làm lễ tiễn đưa vị Thevađà năm cũ và đón vị Thevađà năm mới. Bởi vì họ tin rằng
Thevađà là vị Tiên được Trời cử xuống để chăm lo cho dân chúng trong một năm.
Chôl Chnăm Thmây diễn ra trong ba ngày với nhiều hoạt động khác nhau:
- Ngày thứ nhất: con cháu tổ chức đi thăm và dâng quà, bánh trái cho ông bà, cha mẹ
hoặc những người có ân đức với mình và đến chùa tổ chức đón năm mới. Công việc đầu tiên
(*) Trường Đại học Trà Vinh.

là bà con tổ chức rước Mahasoongkran (Đại lịch Khmer) tại chùa, cuốn Đại lịch được đặt trên
chiếc khay đội trên đầu, mọi người sắp xếp lại thành đoàn và đi ba vòng quanh chính điện. Lễ
rước Soongkran bắt nguồn từ một huyền thoại Phật giáo về vị Thần Bốn Mặt Ka Bul Mô Ha
Prum – vị thần uy thế nhất trên thượng giới.
- Ngày thứ hai (Vonabot): bà con làm lễ dâng cơm sớm và trưa cho các vị sư sãi, gọi là
Wên chong hăn.Theo tục lệ, vào ngày Sóc, Vong hay ngày lễ, tín đồ đi chùa lạy Phật để tỏ
lòng kính Phật, trọng tăng bằng cách dâng cơm và thức ăn cho các vị sư sãi, trước khi độ cơm,
các vị sư tụng kinh làm lễ tạ ơn những người đã làm ra vật thực và cũng để đưa vật thực đến
linh hồn của ông bà quá cố. Cũng trong ngày này, bà con tổ chức lễ đắp núi cát (Pun phnom
khsach) xung quanh ngôi chánh điện theo tám hướng tượng trưng cho vũ trụ và núi thứ chín ở
giữa tức ngọn Sômêru là trung tâm của trái đất thể hiện mơ ước của đồng bào dân tộc Khmer
cầu cho năm mới trở nên giàu có, của cải vật chất luôn cao như núi. Vào buổi chiều, bà con
làm lễ quy y cho các mô hình núi và sáng hôm sau tổ chức lễ xuất thế. Tất cả các nghi lễ này
đều được lưu truyền và giữ gìn, theo Phật giáo gọi là Anisoong pun phnom khsach (Phúc
duyên đắp núi cát).
- Ngày thứ ba (Lơngsak): sau khi dâng cơm sớm và trưa cho các vị sư, người ta đem
nước ướp hương thơm cùng với nhang đèn đến nơi thờ Phật để làm lễ tắm Phật. Ở từng gia
đình cũng tổ chức tắm rửa cho ông bà, cha mẹ và thay bộ quần áo mới do con cháu dâng tặng.
Mục đích là để tẩy rửa mọi ô uế bụi trần của năm cũ và chúc phúc, chúc thọ cho các vị cao
niên, kế đến các vị sư sãi sẽ được thỉnh đến những tháp là nơi lưu giữ hài cốt của những
người quá cố để tụng kinh cho linh hồn họ được siêu thoát.
Trong những ngày tết, không khí ở các phum sóc, chùa chiền náo nhiệt suốt cả ngày
đêm. Với niềm tin tưởng năm mới sẽ mang đến sự may mắn, hạnh phúc hơn năm cũ, lễ Chôl
Chnăm Thmây được diễn ra vào giai đoạn kết thúc mùa nắng, bước vào thời kỳ có nước mưa
dồi dào chuẩn bị cho vụ mùa mới, nên nông dân được lúc rảnh rỗi công việc đồng áng nên có
thể thoải mái vui chơi giải trí sau những ngày làm lụng vất vả.
Ý nghĩa của ngày lễ không chỉ thể hiện về chu kỳ chuyển động của một năm, lấy mùa
mưa làm mốc để đánh dấu thời gian, mà còn giáo dục con người về tấm lòng hiếu thảo, về
ước mơ hạnh phúc, về ý thức hướng thiện, lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và những người
có công đã qua đời.
1.2. Lễ Sen Dolta
Lễ Sen Đolta (còn gọi là lễ cúng ông bà), gần giống như lễ Vu Lan báo hiếu của người
Việt, được xem là lễ hội lớn thứ hai trong năm của người Khmer, diễn ra trong ba ngày, từ
ngày 29 tháng 8 đến ngày 01 tháng 9 Âm lịch, nhằm mục đích tụng kinh cầu siêu, cầu phước
cho linh hồn thân nhân quá vãng. Đây là bổn phận thiêng liêng của người còn sống, không
phải chỉ tạo phúc cho riêng mình, mà phải biết suy nghĩ và chia sẻ với những người thân đã
quá cố.
Theo phong tục tập quán của dân tộc, người Khmer không có ngày giỗ kỵ hàng năm
cho người chết, họ quan niệm là không có sự liên hệ giữa người sống và người chết, nên lễ
Sen Dolta nhằm mục đích cầu phước cho vong linh người đã khuất trở thành ngày giỗ chung
cho toàn dân tộc Khmer.
Sen Dolta diễn ra trong ba ngày với nhiều hoạt động khác nhau:
- Ngày thứ nhất (29/8): gọi là ngày cúng tiếp đón. Mọi gia đình đều dọn dẹp bàn thờ
Phật và tổ tiên, trải chiếu, mùng, mền, gối mới lên giường và sắp đặt một bộ quần áo mới
cùng trà rượu, bánh trái. Họ dọn một mâm cơm ngon, xới bốn chén cơm, đốt đèn cầy, nhang
rồi mời họ hàng, bà con lối xóm cùng đến cúng bái. Họ khấn vái ba lần, mời linh hồn quyến
thuộc quá vãng về nhà ăn uống, nghỉ ngơi. Kế đó, họ gắp thức ăn mỗi thứ một ít vào chén,
cùng trà với rượu, rồi đem ra sân đặt vào cạnh hàng rào, cắm một cây nhang, mời các ma quỷ

đã đưa ông bà về nhà ở lại vui chơi trong ba ngày lễ. Đến chiều, họ lại cúng linh hồn ông bà
rồi mời vào chùa để nghe sư sãi tụng kinh lấy phước, sau đó xem múa hát vui chơi.
- Ngày thứ hai (30/8): linh hồn ông bà tiếp tục được cầu phước. Đến chiều, linh hồn
ông bà được thỉnh về nhà. Người dân lại làm cơm mời ông bà dùng, xin họ ở lại chơi với con
cháu thêm một đêm nữa.
- Ngày thứ ba (1/9): là ngày cúng đưa, tức là cúng cơm đưa tiễn ông bà về nơi cũ bằng
cách làm cơm như ngày đầu, cũng xới cơm bốn chén rồi khấn vái ba lần, sau đó lấy thức ăn
mỗi thứ một ít và muối, gạo đặt xuống một cái bè nhỏ được làm bằng bẹ chuối để ông bà
mang theo ăn dọc đường khi quay lại nơi cũ. Trên bè có treo cờ phướn hình tam giác và khắc
hình cá sấu, tắc kè ở đầu và đuôi từ bẹ chuối để tránh tai nạn dọc đường. Bè này được thả trên
sông hoặc mương rạch gần nhà. Trong ngày cúng đưa này, nhiều gia đình còn mời các sư sãi
đến tụng kinh cho thêm phần long trọng.
Vui chơi giải trí, ca hát nhảy múa luôn là tiết mục không thể thiếu trong dịp diễn ra các
lễ hội Khmer Nam Bộ. Lễ Sen Đolta cũng không ngoại lệ, đây là dịp để mọi người gặp nhau,
chia sẻ những vui buồn, bù đắp lại bao nhiêu cực nhọc vất vả hàng ngày bằng điệu múa, lời
ca để được xích lại gần nhau hơn trong tình đoàn kết dân tộc.
1.3. Ok Om Bok
Lễ hội Ok Om Bok hay còn gọi là lễ cúng trăng, được tổ chức định kỳ đúng vào ngày
rằm tháng 10 Âm lịch hằng năm - là một trong ba lễ hội truyền thống và đặc trưng có từ rất
lâu đời của đồng bào dân tộc Khmer.
Theo quan niệm tín ngưỡng của người Khmer, Mặt Trăng được xem là vị thần cai quản
thời tiết, bảo vệ mùa màng tốt tươi và mang đến sự ấm no, hạnh phúc, nên đều được mỗi gia
đình, phum sóc và cộng đồng người Khmer suy tôn, thờ cúng.
Theo truyền thống, ngoài tham gia cúng trong cộng đồng tại phum sóc, tại chùa, hầu hết
các gia đình Khmer ở Trà Vinh đều tổ chức cúng Trăng tại nhà với những nghi thức khá đơn
giản được tiến hành như sau: tại sân nhà gia chủ xây dựng một cái cổng, hai trụ làm bằng tre
hoặc trúc có trang trí hoa lá, trên cổng giăng một dây trầu gồm 12 lá trầu cuốn tròn tượng
trưng cho 12 tháng trong năm và một dây cau gồm 7 quả, được chẻ vỏ như hai cánh ong,
tượng trưng cho 7 ngày trong tuần. Dưới cổng đặt một cái bàn gồm những sản vật khác nhau
như: chuối, dừa, khoai lang, khoai mì, cam, quít, nhang đèn, Sala tho, nước thơm,… Sản vật
cúng trăng tùy theo khả năng của mỗi gia đình nhưng không thể thiếu cốm dẹp.
Khi trăng lên cao tỏa sáng, các thành viên trong gia đình tập trung làm lễ, gia chủ bắt
đầu thắp nhang, nến, rót trà khấn vái bày tỏ lòng biết ơn của họ đối với thần Mặt Trăng, cầu
cho mưa thuận gió hòa, phum sóc bình yên, mọi người khỏe mạnh…Sau đó, gia chủ dùng
một tay lấy cốm dẹp và một quả chuối đút cho con cháu, tay còn lại đấm nhẹ vào lưng và hỏi
những ước nguyện của chúng.
Ngoài ra thả đèn nước (Lôi Prôtip) cũng là một trong những hoạt động không kém phần
quan trọng trong lễ hội Ok Om Bok. Bởi vì, theo truyền thuyết, đèn nước tượng trưng cho
dấu chân còn lưu lại của Đức Phật trên sông “Na Mi Thi” hay tưởng nhớ đến một chiếc răng
của Ngài được vua các loài rắn Neaka Reach cất giữ. Mặt khác, thông qua lễ thả đèn nước
người ta muốn tưởng nhớ đến công ơn của đấng thiên nhiên đã phù hộ con người làm ăn sinh
sống bình yên và mong muốn điều tốt lành hơn trong năm sau.
Hàng năm, khu di tích văn hóa Ao Bà Om tọa lạc tại phường 8, thành phố Trà Vinh đón
tiếp hàng vạn người dân trong và ngoài tỉnh tụ họp về đây tham gia Lễ hội. Không khí tưng
bừng, tràn ngập cờ hoa, tiếng nhạc ngũ âm hòa cùng tiếng hò reo, cổ vũ cho các trò chơi dân
gian đã tạo nên không khí náo nhiệt, đậm chất truyền thống của đồng bào Khmer. Lễ hội
được tổ chức long trọng, với đầy đủ các nghi lễ. Đêm lễ hội kéo dài như bất tận, đến khi Mặt
Trăng chuyển hẳn về hướng Tây mang theo niềm tin của hơn 300.000 đồng bào Khmer ở Trà

Vinh cũng là lúc mọi người lưu luyến chia tay nhau trở về với cuộc sống thường nhật và hẹn
gặp lại ở mùa Lễ hội năm sau.
Bên cạnh đó, trong lễ hội Ok Om Bok, một hoạt động vô cùng hấp dẫn không thể bỏ
qua, đó chính là Hội thi Đua ghe Ngo – một nghi thức truyền thống để tiễn đưa thần nước,
sau mùa gieo trồng về với biển cả và đây cũng chính là nghi thức tôn giáo của đồng bào dân
tộc Khmer tưởng nhớ đến thần rắn Nagar xưa đã biến thành khúc gỗ để đưa Phật qua sông.
Hội thi diễn ra trên sông Long Bình tại Thành phố Trà Vinh đã thu hút hàng ngàn du
khách từ khắp nơi đến xem, cổ vũ cho các đội ghe Ngo đại diện cho 7 huyện và 01 thành phố
trong tỉnh, tranh tài ở hai cự ly 800 mét và 1.200 mét. Đua ghe Ngo là môn thể thao truyền
thống của đồng bào Khmer, mang tính đồng đội cao, đang dần dần được khôi phục và phát
triển mạnh trong những năm trở lại đây.
Ngoài ra, trong dịp Lễ hội, Trà Vinh thường tổ chức Hội chợ thương mại nhằm thu hút
các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia trưng bày, giới thiệu các mặt hàng nông sản,
máy nông cụ, chương trình du lịch, sản phẩm của các làng nghề, hàng hóa tiêu dùng thiết yếu,
những chính sách ưu đãi và tiềm năng hiện có của Trà Vinh nhằm quảng bá, giới thiệu hình
ảnh về vùng đất, con người Trà Vinh với bạn bè gần xa; Đồng thời, kêu gọi và tạo điều kiện
tốt nhất để các cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh có thể nghiên cứu, tìm hiểu từ đó sẽ
có những dự án đầu tư hợp lý trên địa bàn thành phố Trà Vinh.
2. Những mặt thuận lợi khi gắn kết các lễ hội đặc trưng của dân tộc Khmer vào
trong hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố Trà Vinh
a. Về vị trí địa lý
Trà Vinh là tỉnh ven biển thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là
2.292 km2, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, phía Bắc giáp tỉnh Bến Tre, phía Nam giáp tỉnh
Sóc Trăng, phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Đông giáp Biển Đông và là một trong những
tỉnh có tiềm năng phong phú về du lịch văn hóa, danh lam thắng cảnh, du lịch biển, du lịch
sinh thái, du lịch tâm linh, sông nước miệt vườn….
b. Về lịch sử hình thành và những nét kiến trúc đặc trưng
Điểm nhấn của ngành du lịch Trà Vinh là du lịch văn hóa với 142 ngôi chùa Khmer
cổ kính tại khắp các huyện, thành phố Trà Vinh. Hầu hết, các chùa đều được xây dựng từ lâu
đời, có kiến trúc đẹp và độc đáo như chùa Âng (Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích
lịch sử văn hoá cấp quốc gia vào ngày 25/08/1994), chùa Nodol (chùa Giồng Lớn), chùa
Hang, chùa Samrôngek,… cùng với các lễ hội truyền thống với những nét đặc trưng riêng
biệt đã được đưa vào khai thác phục vụ nhu cầu tham quan, tìm hiểu của khách du lịch. Đây
chính là điều kiện thuận lợi để những công ty lữ hành có thể phối hợp xây dựng các chương
trình du lịch kết hợp lễ hội với các điểm tham quan nhằm tạo ra những sản phẩm du lịch ngày
càng mới mẻ và đa dạng.
c. Nét văn hóa đặc trưng, đa dạng của các lễ hội
Cũng giống như các dân tộc khác, lễ hội của người Khmer bao gồm hai phần: phần lễ
và phần hội. Đặc biệt, các hoạt động trong phần hội thường được tổ chức rất đông vui và náo
nhiệt với nhiều trò chơi dân gian thú vị, các hoạt động múa hát tập thể với các điệu múa đặc
trưng như: Rom Vong, Lăm Liêu, Rom Kbach,…Chính những hoạt động này đã góp phần
tạo nên sự gắn kết trong cộng đồng giữa những người Khmer với nhau và với các cộng đồng
dân tộc anh em khác. Vì vậy, ngày nay các lễ hội này không chỉ là lễ hội thường niên của
cộng đồng người Khmer mà đây còn là hoạt động vui chơi của tất cả mọi người và đặc biệt
thu hút đối với khách tham quan du lịch.

Đi du lịch chính là để khám phá, tìm hiểu những điều mới lạ tại điểm đến. Cho nên,
thời gian diễn ra các lễ hội chính là thời điểm tốt nhất để du khách tham quan, tìm hiểu về các
phong tục, nghi lễ, nét sinh hoạt truyền thống, đời sống tâm linh của người Khmer.
d. Về ẩm thực
Đi du lịch còn là dịp để du khách thưởng thức những món ăn ngon, đặc sản địa
phương. Và khi nhắc đến Trà Vinh, không một du khách nào có thể bỏ lỡ món bún nước lèo
đậm đà hương vị đặc trưng của đồng bào Khmer nơi đây. Ngoài ra, vào dịp lễ hội Ok Om
Bok du khách còn được thưởng thức món cốm dẹp với làng nghề nổi tiếng – làng cốm dẹp
Ba So. Ngoài ra, Trà Vinh còn nổi tiếng với nhiều món ăn ngon, đặc sản hấp dẫn khác, đó là:
bánh canh Bến Có, bánh tét cốm dẹp, bánh tét Trà Cuôn, rượu Xuân Thạnh, dừa sáp cầu Kè,
nước mắm rươi, chả hoa Năm Thụy,….
e. Về cảnh quan tự nhiên
Trong tương lai, khi cầu Cổ Chiên hoàn thành, tuyến quốc lộ 60 được thông thương
tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy du lịch phát triển. Khai thác các tuyến du lịch có sự kết hợp
các điểm tham quan giữa các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang và Trà Vinh. Các địa bàn ven biển,
trên các cồn cửa sông sẽ có nhiều lợi thế để khai thác hiệu quả các điều kiện tự nhiên và nhân
văn, tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo như: chương trình du lịch sông nước miệt vườn,
chương trình du lịch homestay với đồng bào Khmer tại Cù lao Tân Qui thuộc xã An Phú Tân,
huyện Cầu Kè, cách thành phố Trà Vinh khoảng hơn 45km về phía Tây Bắc. Với diện tích
929 ha nằm giữa dòng sông Hậu hiền hòa, nổi tiếng là cù lao xanh, cây trái trĩu cành mang
nét đẹp đặc trưng của miệt vườn sông nước Cửu Long. Tân Qui đã từ lâu nổi tiếng với măng
cụt, thương hiệu măng cụt Tân Qui, sầu riêng, chôm chôm, cam sành, bưởi năm roi, dâu liên
tiếp đoạt giải cao tại các cuộc thi trái ngon khu vực đồng bằng sông Cửu Long và thành phố
Hồ Chí Minh bởi hương vị thơm ngon và chất lượng ổn định. Đến đây du khách sẽ thích thú
với cảm giác đi xe đạp, tắm sông, chèo thuyền ngắm sông nước, vườn cây trái nối tiếp nhau
xanh ngút ngàn hay xuống thuyền phiêu lưu một chuyến "săn cá Bông lau" cùng với người
dân xứ vườn nhiệt tình, hiếu khách, du khách sẽ quên đi mọi vất vả lo toan của cuộc sống xô
bồ thường nhật. Đồng thời, tại đây hàng năm còn diễn ra lễ Vu Lan Thắng Hội (cúng Ông
Bổn) từ ngày 25-28 tháng 7 âm lịch tại Chùa Vạn niên Phong Cung và các chùa khác ở huyện
Cầu Kè thu hút hàng nghìn lượt khách tham dự.
f. Về kinh tế - xã hội
Có thể nói, đời sống của một bộ phận đồng bào Khmer trong các khu vực diễn ra các
lễ hội được cải thiện đáng kể từ hoạt động du lịch. Họ có thể buôn bán thức ăn, đồ uống cho
khách du lịch hoặc bán những vật phẩm làm bằng thủ công cho người dân tộc Khmer dùng để
thực hiện các nghi thức cúng tế. Chính vì vậy, Du lịch đã góp phần cải thiện đời sống kinh tế
của người dân Khmer và mang lại nguồn thu nhập ổn định cho họ.
Khi đến với Trà Vinh vào dịp Ok Om Bok, khách du lịch sẽ được hòa nhập vào không
khí nhộn nhịp, tưng bừng của lễ hội với cờ hoa, băng rôn, áp phích quảng cáo được treo khắp
các đường phố. Nhiều hoạt động trong lễ hội được tổ chức quy mô, với vô số các hoạt động
sôi nổi như: Hội chợ Triển lãm thương mại du lịch với sự tham gia của hàng trăm gian hàng
các loại, chủ yếu là các sản phẩm phục vụ nhu cầu mua sắm. Bên cạnh đó còn có các hoạt
động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao điển hình là hội thi đua ghe Ngo của đồng bào dân
tộc Khmer.
Lễ hội Ok Om Bok của đồng bào Khmer tại địa bàn thành phố Trà Vinh đã được Bộ
văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đây
không chỉ là niềm tự hào của đồng bào dân tộc Khmer mà còn thể hiện sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước trong việc bảo tồn và phát huy những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc
Khmer. Đồng thời, đây sẽ là một sản phẩm du lịch vô cùng hấp dẫn thu hút du khách từ khắp
mọi miền đất nước đến với thành phố Trà Vinh.