Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
66
BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP Ở VIỆT NAM,
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Bành Thị Vũ Hằng1,*
1Trường Đại học Kinh tế Nghệ An, *Email: banhthivuhang@gmail.com
Tóm tắt: Bất bình đẳng thu nhập là sự chênh lệch lớn về phân phối thu nhập, với phần
lớn tổng thu nhập trong nền kinh tế tập trung trong tay một nhóm người chiếm tỉ lệ nhỏ trong
tổng dân số. Khi các quốc gia xảy ra tình trạng bất bình đẳng thu nhập thì sẽ ảnh hưởng tiêu
cực đến quá trình phát triển nói chung, gây tổn hại đến sự gắn kết xã hội như ảnh hưởng xấu
tới chất lượng cuộc sống của người dân, làm tăng tỷ lệ nghèo đói, cản trở tiến bộ y tế - giáo
dục nói chung. Bài viết “Bất bình đẳng thu nhập Việt Nam - thực trạng giải pháp”
mục tiêu làm rõ thực trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một
số giải pháp cơ bản để giúp cải thiện tình trạng bất bình đẳng thu nhập trong giai đoạn tới.
Từ khóa: Bất bình đẳng, Cải thiện thu nhập.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo hội thế giới 2020 của
Liên Hiêp Quốc thì hơn 70% người dân thế
giới sống ở các quốc gia có sự bất bình đẳng
thu nhập gia tăng kể từ năm 1990 (Liên Hiệp
Quốc, 2020, Báo cáo hội thế giới). Tình
trạng bất bình đẳng thu nhập diễn ra hầu
khắp các quốc gia, từ những quốc gia đang
phát triển như Trung Quốc, Malaysia, Thái
Lan, Chi đến các quốc gia phát triển như
Bồ Đào Nha, Đức, Lan, Pháp. Ngay cả
với Hoa Kỳ quốc gia được xem nền
kinh tế phát triển nhất thế giới thì cũng vì thế
tình trạng bất bình đẳng thu nhập luôn
nhóm quốc gia cao nhất thế giới. Tại Việt
Nam, với xuất phát điểm một nước nông
nghiệp lạc hậu, chịu ảnh hưởng nặng nề của
chiến tranh, trải qua 35 năm đổi mới, với
những chủ trương, chính sách đúng đắn của
Đảng Nhà nước, Việt Nam đã những
bước tiến dài trên mọi lĩnh vực. Tăng trưởng
kinh tế hàng năm luôn đạt tỷ lệ cao, thu nhập
của người dân không ngừng tăng lên, đã giúp
đời sống người dân được cải thiện, nâng cao.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế cao cũng đem
lại những kết quả xấu cho vấn đề bất bình
đẳng thu nhập, phân hoá giàu nghèo tăng lên,
khoảng cách thu nhập trong xã hội Việt Nam
ngày càng gia tăng. Thực trạng bất bình đẳng
thu nhập Việt Nam hiện nay như thế nào?
Và những giải pháp nào có thể giúp cải thiện
tình trạng bất bình đẳng thu nhập Việt Nam
hiện nay? Bài viết “Bất bình đẳng thu nhập ở
Việt Nam - thực trạng và giải pháp” sau đây
sẽ trả lời câu hỏi này.
2. NỘI DUNG
2.1. Thực trạng bất bình bẳng thu
nhập của Việt Nam từ 2016– 2020
2.1.1. Hệ số GINI
Hệ số GINI (hay còn gọi hệ số Lorenz)
hệ số dựa trên đường cong Lorenz chỉ ra
mức bất bình đẳng của phân phối thu nhập
giữa nhân hệ kinh tế trong một nền kinh
tế. Hệ số này được phát triển bởi nhà thống
kê học người Ý Corrado Gini được chính
Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 1/2022
67
thức công bố trong bài viết năm 1912 của
ông mang tên “Variabilità e mutabilità” (Lê
Thị Mỹ Tâm Bành Thị Hằng, 2018,
Giáo trình kinh tế phát triển).
a. Xét hệ số GINI của Việt Nam theo
khu vực
Trong thời gian gần đây “Câu chuyện
huyền thoại,” “ngôi sao đang lên”, “nền kinh
tế sáng giá nhất châu Á”... những cụm từ
được nhiều tổ chức quốc tế nhắc đi nhắc lại
nhiều lần để đánh giá về thành tựu phát triển
kinh tế Việt Nam.
Theo Báo cáo của Chính phủ về tình
hình kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016
- 2020, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016 -
2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm (Tổng
cục thống kê, 2021). Và trong Năm 2020, mặc
chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh,
nhưng tăng trưởng vẫn đạt 2,91%; một
trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất
trong khu vực và trên thế giới (Đảng cộng sản
Việt Nam, 2021, Nghị quyết đại hội Đảng lần
thứ XIII). Những thành tựu về các chỉ số kinh
tế đã có tác động lan tỏa giúp cải thiện các vấn
đề xã hội khác như an sinh xã hội cơ bản được
bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được
cải thiện. Thu nhập bình quân từ mức 2.215
USD/ người/ năm năm 2016 đã tăng lên thành
2.750 USD/ người/ năm vào năm 2020 (Quốc
Huy, 2021, Thành tựu kinh tế giai đoạn 2016
– 2020). Như vậy có thể thấy thu nhập của các
nhóm dân đã tăng lên, nhưng tốc độ tăng
thu nhập của nhóm nghèo luôn thấp hơn so với
nhóm giàu, do vậy, khoảng cách giàu nghèo
giữa các nhóm trong hội đang ngày càng
tăng lên. Tuy nhiên, xét theo hệ số GINI chung
của cả nước thì thể thấy bất bình đẳng thu
nhập tại Việt Nam đang có xu hướng giảm khi
chỉ số này từ 0,431 năm 2016 đã giảm xuống
còn 0,373 vào năm 2020 (Tổng cục thống kê,
2021). Tại các khu vực do có sự khác nhau về
điều kiện tự nhiên, trình độ văn hóa, trình độ
sản xuất, kết cấu hạ tầng và trình độ dân trí, lợi
thế so sánh nên GINI giữa các khu vực cũng
sự khác biệt. thể thấy GINI khu vực
nông thôn đang cao hơn so với khu vực thành
thị nhưng cả 2 khu vực này đang có xu hướng
giảm khi khu vực thành thị 0,391 (năm
2016) giảm còn 0,325 (năm 2020), khu
vực nông thôn từ 0,408 xuống còn 0,373
(Tổng cục thống kê, 2021). Điều này đã giúp
cho người dân khu vực thành thị dễ dàng
hơn so với người dân khu vực nông thôn
trong tiếp cận các cơ hội phát triển về trình độ
học vấn, kỹ năng làm việc.
0,431 0,425
0,373
0,391 0,373 0,325
0,408 0,408 0,373
0
0,1
0,2
0,3
0,4
0,5
Năm 2016 Năm 2018 Năm 2020
Chung Thành thị Nông thôn
Hình 1. Hệ số GINI của các khu vực tại Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2020)
Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
68
b. Xét hệ số GINI của Việt Nam so với
các nước
Mở rộng việc so sánh hệ số GINI khi
so sánh chỉ tiêu này của Việt Nam với các
quốc gia trong khu vực cũng có thể thấy: chỉ
số GINI ở mức 35,7 là tương đối thấp so với
một số quốc gia trong khu vực. Đây một
thành tựu quan trọng trong cải thiện bất bình
đẳng không phải quốc gia mức thu
nhập trung bình thấp nào cũng đạt được.
Hình 2. Chỉ số GINI của một số quốc gia theo cách tính của WB (năm 2019)
Nguồn: World Bank (2021)
2.1.2. Thu nhập bình quân đầu người
Thu nhập đầu người hay thu nhập bình
quân đầu người (income per capita) đại
lượng được tính bằng cách lấy thu nhập quốc
dân của một nước (tổng thu nhập quốc dân
- GNI hay thu nhập quốc dân - NI) chia cho
dân số. Trong xã hội mức thu nhập của từng
nhân khác nhau. thế những người
cùng mức thu sẽ được xếp loại vào các
nhóm đối tượng cùng thu nhập. Những
người có mức thu cao hơn hoặc thấp hơn sẽ
được chia thành từng nhóm khác nhau. Hiện
nay, nước ta dựa vào số tiền lương được
nhận trong một tháng, số lượng tài sản
họ nắm giữ thì sẽ hình thành ra 5 nhóm thu
nhập bao gồm: nhóm 1 những người nghèo,
nhóm 2 người cận nghèo, nhóm 3 trung
bình, nhóm 4 khá nhóm 5 giàu (Tổ chức
lao động quốc tế, 2021).
a. Xét về thu nhập bình quân đầu người
theo các nhóm thu nhập trong giai đoạn
2016 - 2020
Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 1/2022
69
Bảng 1. Thu nhập bình quân đầu người/tháng theo 5 nhóm thu nhập của Việt Nam
giai đoạn 2016 - 2020
Đơn vị: Nghìn đồng
Năm Bình quân Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5
2016 3098 771 1516 2301 3356 7547
2018 3760 931 1808 2774 4110 9175
2020 4230 1139 2508 3509 4887 9108
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2020)
Qua bảng 1 thể thấy: thu nhập bình
quân/tháng trong giai đoạn 2016 - 2020 của
cả 5 nhóm thu nhập đều xu hướng tăng qua
các năm. Cụ thể, năm 2016, thu nhập bình
quân của nhóm 1 chỉ bằng 1/10 của nhóm 5,
nhưng đến năm 2020 con số này đã được rút
xuống còn 1/8. Điều này cho thấy, khoảng
cách thu nhập bình quân giữa nhóm nghèo
nhất nhóm giàu nhất đã sự cải thiện,
tuy nhiên vẫn chưa được cải thiện đáng kể,
đây vẫn là một thách thức lớn trong việc thực
hiện mục tiêu phát triển theo hướng đảm bảo
công bằng xã hội của Việt Nam.
b. Xét về thu nhập bình quân đầu người
của các khu vực theo các nhóm thu nhập
trong giai đoạn 2016 - 2020
Mặt khác, theo bảng 2 thì cho thu
nhập của nhóm hộ giàu nhất (nhóm gồm 20%
dân số giàu nhất - nhóm 5) năm 2020 sự
sụt giảm so với năm 2018, nhưng vẫn đang
một khoảng cách rất lớn giữa nhóm thu
nhập này với nhóm 1 (nhóm gồm 20% dân số
nghèo), cụ thể với mức thu nhập 9,108 triệu
đồng/ người/ tháng năm 2020 thì thu nhập
của nhóm 5 vẫn cao gấp hơn 8 lần so với mức
1,139 triệu đồng/tháng/ người của nhóm 1.
Bảng 2. Thu nhập bình quân đầu người của các khu vực theo các nhóm thu nhập
trong giai đoạn 2016 - 2020 (Đơn vị: nghìn đồng, lần):
TNBQ/ người/tháng So sánh nhóm 5/ nhóm 1 (lần)
Nhóm 1 Nhóm 5
Chung
2016 771 7547 9.8
2018 931 9175 10.2
2020 1139 9108 8.0
Thành thị
2016 1489 11276 7.6
2018 1843 13195 7.2
2020 2108 11192 5.3
Nông thôn
2016 676 5669 8.4
2018 827 7898 9.6
2020 932 7440 8.0
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2020)
Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
70
Đồng thời khi xem xét về thu nhập của
các nhóm tại các khu vực cũng sự phân
hóa rất rõ rệt. Tại khu vực thành thị sự phân
hóa giàu nghèo giữa nhóm thu nhập thấp
nhất (nhóm 1) thu nhập cao nhất (nhóm
5) giảm từ 7,6 lần năm 2016 xuống 7,2 lần
năm 2018 chỉ còn 5,3 lần năm 2020.
Trong khi khu vực nông thôn khoảng
cách giữa 2 nhóm đối tượng này từ tăng
từ 8,4 lần năm 2016 lên 9,6 lần năm 2018.
Điều này cho thấy đang sự phân hóa giàu
nghèo rệt của khu vực nông thôn so với
khu vực thành thị.
Từ đây thể khẳng định trong những
năm qua, thu nhập của các đối tượng dân cư
đã không ngừng tăng lên, tuy nhiên khoảng
cách thu nhập giữa các nhóm ngày càng xa,
chênh lệch giàu nghèo cao đang là một thách
thức lớn trong việc thực hiện mục tiêu phát
triển theo hướng đảm bảo công bằng thu
nhập mà Việt Nam đã đặt ra.
Trong giai đoạn 2016 - 2020 cả nước đã
1.353.805 hộ/2.338.569 hộ nghèo đã thoát
nghèo, chiếm 58%, tỷ lệ hộ nghèo bình quân
cả nước giảm khoảng 1,43%/năm (Tổng cục
thống kê, 2021). Tỷ lệ hộ nghèo chung của
cả nước từ 9,2% năm 2016 giảm nhanh, liên
tục qua các năm chỉ còn 4,8% vào năm
2020 (Tổng cục thống kê, 2021). Trong đó,
tỷ lệ hộ nghèo thành thị luôn thấp hơn
nông thôn và có xu hướng giảm nhanh hơn ở
khu vực nông thôn.
2.2. Đánh giá thực trạng bất bình bẳng
thu nhập của Việt Nam từ 2016 - 2020
Hiện nay, đại dịch Covid-19 đang ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh
tế Việt Nam nói riêng và kinh tế thế giới nói
chung. Theo số liệu Tổng cục Thống kê, tính
đến hết năm 2020, cả nước có đến 31,8 triệu
lao động (trong tổng số 54,6 triệu người) từ
15 tuổi trở lên bị mất việc làm, phải giãn việc,
giảm giờ làm, nghỉ luân phiên, giảm thu nhập
(Lê Quốc Việt, 2020). Cụ thể, khoảng 68,9%
người bị giảm thu nhập; gần 40% giảm giờ
làm, nghỉ giãn việc, nghỉ luân phiên; 14%
buộc phải tạm nghỉ việc do doanh nghiệp
tạm dừng hoạt động sản xuất kinh doanh (Lê
Quốc Việt, 2020). Điều này đang đặt ra một
thách thức đáng kể trong việc thực hiện mục
tiêu phát triển theo hướng đảm bảo công bằng
xã hội Việt Nam đã đặt ra. Đồng thời qua
phân tích trên thể thấy trong thời gian
qua Việt Nam đã đạt được những thành tích
đáng ghi nhận trong công cuộc tạo bình đẳng
thu nhập như: Hệ số GINI của Việt Nam qua
các năm có xu hướng giảm; so với các nước
2.1.3. Tỷ lệ hộ nghèo
Bảng 3. Tỷ lệ hộ nghèo phân theo khu vực của Việt Nam giai đoạn 2018 - 2020
Đơn vị: %
Năm 2016 2017 2018 2019 2020
Chung 9,2 7,9 6,8 5,7 4,8
Thành thị 3,5 2,7 1,5 1,2 1,1
Nông thôn 11,8 10,8 9,6 8,0 7,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2021)