NHỮNG BÍ THUẬT
"HUN TINH BỔ NÃO"
TRONG TRUYỀN THỐNG DƯỠNG SINH
PHƯƠNG ĐÔNG
Theo y học cổ truyền, tinh khí là phần tinh hoa của ngủ tạng lục phủ, là gốc của thân
người. Mọi phương pháp dưỡng sinh đều chú trọng đến việc giữ tinh, tránh làm cho
tinh hao khí tán. Đặc biệt trong một số trường hợp, những thanh thiếu niên, những
người sống độc thân, ly thân, tu sĩ… thì yêu cầu dưỡng sinh về mặt tình dục còn bao
hàm ý nghĩa giải toả được những ức chế sinh lý thăng hoa năng lực tính dục để
tăng cường sức khoẻ và phát triển trí tuệ.
Quan niệm về tình dục trong y học cổ truyền.
Tình dục là một nhu cầu tự nhiên của con người. Nam nữ đến độ tuổi từ 12 đến 14 tuổi
khi sự phát dục đầy đủ tất sẽ phát sinh ham muốn, sẽ xảy ra mộng tinh. Sinh hoạt tình dục
hợp lý có thể khai thông tình chí, làm cho Can khí được sơ tiết, tâm huyết được thông
suốt và tinh thần phấn chấn. Ngược lại, việc tiết dục lâu ngày có thdẫn đến Can khí uất
kết, khí huyết ứ trệ không đạt được mục đích dưỡng sinh. Trong cuộc sống hôn nhân,
sinh hoạt hoạt tình dục không những duy trì nòi giống mà còn góp phần quan trọng trong
việc làm cho âm dương hoà hợp, kết nối 2 tâm hồn và bảo đảm hạnh phúc lứa đôi. Do đó,
việc bế tinh hay giữ tinh mang ý nghĩa dưỡng sinh không phải là tuyệt dục hoặc kềm hảm
tình dục mà là không phí phạm tinh lực. Ông Tưởng Giới Tân, một đại y gia thời nhà
Minh, Trung Quốc, đã viết "Dục không được cấm, cấm làm tinh kiệt. Tinh bất khả kiệt,
kiệt sẽ tản hết. Tinh có thể sinh khí. Tinh nhiều thì khí vượng. Khí vượng thì tinh thần
vượng. Tinh thần vượng thì người khỏe. Người khoẻ sẽ ít bệnh".
Nhu cầu thăng hoa năng lực tính dục.
Theo y học cổ truyền, tinh khí là phần tinh hoa của ngủ tạng lục phủ, là gốc của thân
người. Tinh khí được tạo thành ttinh tiên thiên tạng thận và tinh hậu thiên chuyển hoá
từ thức ăn. Người xưa ví tinh như chì vì nó trm trọng dễ lọt mất, lại ví như cọp vì tính nó
hung hăng khó hàng phục.người biết tu dưỡng, sinh hoạt tình dục điều độ, một phần
tinh lực có thể được chuyển thành khí để giúp cơ thể khoẻ mạnh và tinh thần thêm minh
mẩn. Điều nầy được gọi là "huờn tinh bổ nảo". Trái lại ở những người đam mê tửu sắc,
thường nghỉ đến sự hoan lạc thì thần sẽ làm cho khí chuyn hoá thành tinh, kích động dục
tình khiến tinh thêm hao, thxác suy yếu và tinh thần mờ tối. Do đó có câu nói "chơn
nhơn luyện tinh hoá khí, phàm nhơn hoá khí làm tinh". Mọi pháp dưỡng sinh đều chú
trọng đến việc giữ tinh, tránh làm cho tinh hao khí tán. Đặc biệt trong một số trường hợp,
những thanh thiếu niên, những người sống độc thân, ly thân, những tu sĩ… thì yêu cầu
dưỡng sinh về mặt tình dục còn bao hàm ý nghĩa giải toả được những ức chế sinh lý, giữ
được cân bằng tâm lý, không bị ám ảnh về mặt tình dục và có khả năng thăng hoa năng
lực tính dục để tăng cường sự khoẻ mạnh về thể xác cũng như sự minh mẫn về tinh thần.
Nói cách khác thăng hoa được năng lực tính dục là một yếu tố quan trọng dẫn đến “s
thoải mái hoàn toàn vcác mặt tinh thần, thể chất và xã hội"* chưa kể đến việc có thể tái
hấp thu tinh lực để tăng cường sức khoẻ và tui thọ. Đây là ý nghĩa quan trọng của nhu
cầu thăng hoa năng lực tính dục trong bối cảnh xã hội hiện nay khi mà con người phải đối
mặt với quá nhiều cám dỗ, từ thời trang, phim ảnh đến sách báo, đĩa, mạng.... Ngoài ra,
những kỷ thuật nầy - căn bản là những kỷ thuật thiền - còn có công năng cường tinh, bổ
thận để điều trị những chứng rối loạn sinh dục kể cả những rối loạn do trầm cảm, do căng
thẳng tâm lý gây ra.
Sự khác biệt giữa những kỹ thuật giao hợp gián đoạn và huờn tinh bổ não.
Ngày xưa những kỷ thuật luyện tinh hoá khí chỉ liên quan đến những truyền thống của
Đạo Lão, của nhưng đạo sĩ hoặc chơn nhơn xuất thế. Họ cho rằng những hiểu biết nầy chỉ
dành cho những bậc thức giả, những người cần sự phát triển về tâm linh và sự hợp nhất
với vũ trụ. Nếu để những kỷ thuật nầy rơi vào tay những người không có căn hoặc
không có trình độ đạo đức thích hợp sẽ chỉ gây hại cho xã hội. Do đó những kỷ thuật
luyện tinh hoá khí thường chỉ được khẩu truyền trực tiếp từ người thầy đến từng đệ tử.
Hoạ hoằn có được ghi chép thì cũng dưới dạng ẩn ngữ để người ngoài không thể biết
được. Vì vy hun tinh bổ não đã được hiểu theo nhiều cách khác nhau, thâm chí lệch lạc
không đúng với tinh thần của đạo dưỡng sinh. Phần đông đã nhm lẫn giữa giao hợp gián
đoạn và huờn tinh bổ não. Van Gulik một nhà nghiên cứu nổi tiếng của phương Tây về
tình dục học phương Đông cũng cho rằng phương pháp huờn tinh bổ não chỉ là một hình
thức giao hợp gián đoạn (Coitus Interruptus). Quan điểm nầy có lẽ bắt nguồn từ những
tác phẩm Tố Nữ Kinh hoặc Ngọc Phòng Bí Quyết, những quyển sách cổ của Trung Quốc
viết về nghệ thuật phòng trung. Trong Tố Nữ Kinh khi được tham vấn về nghệ thuật làm
tình sao cho thân thvẫn giữ được cường tráng, Bành Tổ* đã nêu lên nguyên tắc "đa
ngự tiểu tiết” hoặc "giao nhi bất tiết" tức giao hợp nhiều lần hoặc giao hợp với nhiều
người nhưng giữ không cho xuất tinh hoặc xuất tinh chỉ một lần. Điểm chủ yếu trong
giao hợp gián đoạn là người Nam chủ động ngưng động tác giao hợp khi gần đến giai
đoạn xuất tinh. Điều nầy nhằm mục đích tiếp tục kéo dài thi gian giao hợp sau đó. Một
hình thức giao hợp gián đoạn khác cũng thường được nhắc đến là khi đến thời điểm khẩn
trương người Nam nhanh chóng rút dương vật ra ngoài và dùng hai ngón tay trvà giữa
nhập chung ấn vào vùng huyệt Hội âm đồng thời hít vào thật mạnh để ngăn chặn xuất
tinh. Những biện pháp nầy dẫn theo các hệ quả: (1) Người Nam luôn trải qua sự tập trung
và căng thẳng tâm lý để chế ngự bản thân trong lúc giao hợp nhằm tránh việc xuất tinh.
(2) Việc ngưng giao hợp khi chưa đến điểm xuất tinh sẽ giữ lại một sự sung huyết nhất
định ở vùng htiêu kèm theo sự căng cơ và căng thẳng thần kinh tương ứng. (3) Hoạt
động thần kinh, sự sung huyết và tính cường cơ kéo dài trong giao hợp gián đoạn luôn
kéo theo sự tiêu hao năng lượng . Đây là diều tương phản với quá trình thư giản để bảo
toàn năng lượng của hườn tinh bổ não. (4) Mục đích của giao hợp gián đoạn là hoan lạc
và hoan lạc kéo dài. Đó là tư tưởng, là thần. Thần tất sẽ kéo theo khí. Khí sẽ hoá thành
tinh tiêu thoát lúc nầy hoặc lúc khác theo đường hạ căn mà không ththăng hoa lên não
được. Đây là ý nghĩa "phàm nhơn hoá khí làm tinh". Như vậy, giao hợp gián đoạn không
có tác dụng hoá khí. Hơn nữa, những kỷ thuật nầy về lâu về dài có thể gây ra tình trng
khí trệ huyết ứ tác động xấu đến sức khoẻ nếu người thực hành không có các biện pháp
thư giãn triệt để. Người xưa đã ví huờn tinh bổ não như một quá trình luyện đan. Đan
điền là lò nấu luyện. Sau mỗi lần chưng, cất là một lần được bồi bổ. Ở những người trẻ,
khoẻ hiệu quả của một thang “đại dược” là sự tĩnh mĩnh và phấn khích có thể cảm nhận
được ngay giống như vừa dùng xong một liều Sâm dược. Ngược lại, sau mỗi giao hợp
gián đoạn hoặc ít hoặc nhiều vẫn có sự hao tán khí lực và sm thoải mái về tâm lý.
Phương pháp huờn tinh bổ não của đạo gia.
Hoàn toàn ngược lại với những kỷ thuật giao hợp gián đoạn, trong phương pháp huờn
tinh bnão từ tư tưởng đến thực hành đều không liên quan gì đến ý niệm sắc dục
hoặc động tác giao hợp. Huờn tinh bổ não là những phương pháp thiền định nhằm
chuyển hoá cảm xúc và tái hấp thu năng lượng. Đó là quá trình dùng tư tưởng (thần) để
chuyển hoá tinh thành khí để khí lại nuôi thần (bổ não). Nguyên tắc chung là dùng ý niệm
tập trung tinh lực tại Đan điền và dùng ý chuyển khí đi vòng quanh cơ thể theo hai mạch
Nhâm Đốc gọi là vòng Tiểu châu thiên để qua đó nuôi dưỡng thấm nhuần khắp các phủ
tạng kinh lạc. Sách Dưỡng chơn tập mô tả chu trình nầy như sau "Kẻ biết tu dưỡng thì
đem thần hoả và tinh thuỷ ngưng lại một chỗ như con rắn với con qui, quấn quít lấy
nhau, hợp thành một khối, chẳng dễ lìa nhau, lâu dần hết sức tịnh mới sinh động,
chơn hoả đốt chưng, kim tinh phát hiện, xoi quan thấu đỉnh, thấm dưới rưới trên. Đây
là đạo thâm căn cố đế, cửu thị trường sinh”. Theo ý ny, ngồi lặng yên định tĩnh, quan
sát Đan điền. Lâu dần cực tịnh sẽ sinh động, tinh lực phát khởi, dù không có dâm nim
nhưng cơ quan sinh dục tự máy động hoặc căng cứng. Đó là lúc phát sinh "đan dược”.
Lúc nầy hành giả hít một hơi thnhẹ nương theo mạch Nhâm xuống Đan điền, dùng ý
chuyển khí từ Đan điền qua Trường cuờng theo mạch Đốc đi lên thẳng đến Bách hội. Từ
Bách hội thở ra từ từ đưa khí trở lại Đan điền để hoàn tt một vòng hoá khí. Tiếp tục làm
lại nhiều vòng cho đến khi bộ phận sinh dục trở lại bình thường.
Trên thực tế, để tạo được hiệu ứng hoá khí, hành giả thường phải trải qua giai đoạn ngồi
thiền và tập luyện chuyển khí theo vòng Tiểu châu thiên. Khi việc luyện tập trở thành
phản xạ có điều kiện thì mỗi lần có cảm xúc về tình dục hoặc khi bộ phận sinh dục căng
cứng, chỉ cần ngồi vào tư thế toạ thiền, mắt khép hờ, đầu lưỡi chạm nhẹ nuớu răng
trên, tâp trung vào vùng Đan điền thì việc hoá khí sẽ tự động diễn ra cho đến khi
hoàn tất. Trong thi gian đầu, nhất là đối với những người trẻ, tinh lực dồi dào nhưng
công lực hoá khí còn kém, có thdùng một biện pháp tích cực hơn. Tập trung tư tưởng