BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH NGA

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG NHẬT BẢN

TRONG TIỂU THUYẾT Y. KAWABATA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI, 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH NGA

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG NHẬT BẢN

TRONG TIỂU THUYẾT Y. KAWABATA

Chuyên ngành: VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI

Mã số: 9 22 02 42

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

TS. ĐÀO THỊ THU HẰNG

PGS.TS. NGUYỄN THỊ MAI CHANH

HÀ NỘI, 2022

i

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tư liệu

trong Luận án là trung thực và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các kết quả

nghiên cứu của Luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình khoa

học nào khác.

Hà Nội, tháng 12 năm 2022

Tác giả

LỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thanh Nga

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Đào Thị Thu Hằng và PGS.TS.

Nguyễn Thị Mai Chanh - những nhà khoa học đã tận tình hướng dẫn để Luận

án hoàn thành.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Văn học nước ngoài,

khoa Ngữ Văn, Phòng Quản lí khoa học, Phòng Sau Đại học, trường Đại học Sư

phạm Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tập thể Lãnh đạo, cán bộ và giảng

viên khoa Khoa học Xã hội, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa đã ủng hộ, tạo

mọi điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án.

Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã chia sẻ, động viên,

luôn là nguồn động lực giúp tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.

Do một số hạn chế nhất định, bản Luận án chắc chắn vẫn còn những thiếu sót.

Tác giả Luận án rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để tiếp tục hoàn thiện,

nâng cao chất lượng vấn đề nghiên cứu.

Hà Nội, tháng 12 năm 2022

Trân trọng cảm ơn!

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Nga

iii

MỤC LỤC

Trang LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii

MỤC LỤC ....................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 2

3. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 3

4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3

5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 4

6. Đóng góp mới của luận án ........................................................................ 5

7. Cấu trúc của luận án .................................................................................. 5

Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................... 6

1.1. Nghiên cứu tiểu thuyết Y. Kawabata và biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu thuyết Y. Kawabata trên thế giới ........................................ 6

1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết Y. Kawabata và biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu thuyết Y. Kawabata ở Việt Nam ...................................... 19

Tiểu kết ....................................................................................................... 35

Chƣơng 2. BIỂU TƢỢNG VÀ BIỂU TƢỢNG VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRONG TIỂU THUYẾT Y. KAWABATA ............................... 36

2.1. Biểu tượng ............................................................................................ 36

2.1.1. Khái niệm biểu tượng .................................................................... 36

2.1.2. Phân biệt biểu tượng với một số khái niệm khác .......................... 41

2.2. Biểu tượng văn hóa và biểu tượng văn hóa truyền thống .................... 42

2.2.1. Biểu tượng văn hóa ....................................................................... 42

2.2.2. Biểu tượng văn hóa truyền thống .................................................. 46

2.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và biểu tượng trong sáng tác văn học ....... 48

2.3.1. Biểu tượng trong đời sống văn hóa ............................................... 48

iv

2.3.2. Biểu tượng trong tác phẩm văn học .............................................. 49

2.4. Cơ sở hình thành của biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu thuyết Y. Kawabata ..................................................................................... 52

2.4.1. Văn hóa truyền thống Nhật Bản .................................................... 52

2.4.2. Văn hóa phương Tây ..................................................................... 57

2.4.3. Sự chi phối của quan điểm thẩm mĩ đến ý nghĩa biểu tượng trong tiểu thuyết Y. Kawabata .......................................................................... 58

2.5. Khảo sát và phân loại biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu thuyết Y. Kawabata ..................................................................................... 62

2.5.1. Tiêu chí phân loại .......................................................................... 62

2.5.2. Bảng thống kê phân loại các biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu thuyết Y. Kawabata ................................................................ 65

Tiểu kết ....................................................................................................... 68

Chƣơng 3. BIỂU TƢỢNG TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG .......................... 69

3.1. Mối quan hệ giữa biểu tượng với tôn giáo, tín ngưỡng trong tiểu thuyết Y. Kawabata ................................................................................................ 69

3.2. Biểu tượng của Thần đạo ..................................................................... 71

3.2.1. Biểu tượng Hoa anh đào................................................................ 72

3.2.2. Biểu tượng tuyết ............................................................................ 77

3.2.3. Biểu tượng Gương ......................................................................... 81

3.2.4. Biểu tượng Cánh hạc ..................................................................... 92

3.2.5. Biểu tượng Suối nước nóng .......................................................... 96

3.3. Biểu tượng của Thiền ......................................................................... 100

3.3.1. Biểu tượng trà đạo ....................................................................... 102

3.3.2. Biểu tượng lữ khách .................................................................... 110

Tiểu kết ..................................................................................................... 114

Chƣơng 4. BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG ............ 115

4.1. Mối quan hệ giữa biểu tượng với nghệ thuật truyền thống trong tiểu thuyết Y. Kawabata ................................................................................... 115

v

4.2. Biểu tượng nghệ thuật dệt may .......................................................... 117

4.2.1. Biểu tượng Kimono ..................................................................... 117

4.2.2. Biểu tượng vải dệt Chijimi .......................................................... 126

4.3. Biểu tượng nghệ thuật biểu diễn ........................................................ 132

4.3.1. Biểu tượng Geisha ....................................................................... 132

4.3.2. Biểu tượng đàn Shamisen ........................................................... 138

4.3.3. Biểu tượng mặt nạ kịch Noh ....................................................... 140

Tiểu kết ..................................................................................................... 150

KẾT LUẬN .................................................................................................. 151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ .... 154

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 155

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Yasunary Kawabata (1899-1972) được xem là cây đại thụ của văn học

hiện đại Nhật Bản, là tác giả đầu tiên của xứ sở hoa anh đào vinh dự được nhận giải

thưởng Nobel văn học năm 1968. Tài năng, trí tuệ cũng như tầm tư tưởng của

Kawabata đã được kết tinh và phản chiếu qua những tác phẩm đậm màu sắc văn hóa

Nhật Bản của ông. Tác phẩm của Kawabata, với những trang văn mượt mà tinh tế,

giản dị mà thâm trầm là sự kết hợp tài tình giữa tinh hoa mĩ học Thiền đạo với tinh

thần Phật giáo truyền thống, vừa thể hiện được cá tính độc đáo, vừa thấm đẫm tinh

thần thời đại. “Tất cả những phát hiện nghệ thuật có được trong các tác phẩm của

ông như những yếu tố mang tính cá nhân độc đáo, bất ngờ đều xuất phát từ những

ngọn nguồn xa xưa của văn học Nhật, từ cội nguồn văn hóa dân tộc” [1,1048].

1.2. Tác phẩm văn học là “tấm gương” soi chiếu nền văn hóa của một đất

nước, “như là một trong những sản phẩm kết tinh cao nhất của văn hóa một tộc

người, một đất nước” [2,11]. Ngòi bút tài hoa kì lạ của Kawabata tiêu biểu cho cái

tinh túy của tư duy thẩm mĩ và tâm hồn Nhật Bản: duy mĩ, duy tình nhưng vẫn đậm

tính triết lí. Biểu tượng được coi là phương thức đặc trưng nhất để biểu đạt tư

tưởng, cảm xúc và quan điểm của nhà văn. Việc giải mã ý nghĩa biểu tượng là một

cách tiếp cận tác phẩm hữu hiệu trên hành trình khám phá thế giới nghệ thuật của

nhà văn.

1.3. Trân trọng, giữ gìn và ngợi ca vẻ đẹp văn hóa truyền thống thông qua

sáng tạo nghệ thuật độc đáo là đóng góp mà Kawabata đã dành tri ân nền văn học

nghệ thuật Phù Tang. Muốn hiểu thấu đáo tác phẩm của nhà văn, nhất thiết phải đặt

nó trong bối cảnh và chiều dài của văn hóa Nhật Bản. Tuy không mới, nhưng tiếp

cận tìm hiểu tác phẩm từ góc độ biểu tượng văn hóa là một hướng đi chiếm nhiều

ưu thế trong thời gian vừa qua. Chúng tôi nhận thấy, xuyên suốt các tác phẩm của

Kawabata là những hình ảnh, hiện tượng được khơi nguồn từ văn hóa truyền thống

Nhật Bản, có khả năng biểu đạt hoàn hảo những ý nghĩa và quan niệm của con

2

người về cuộc sống. Vì vậy, thông qua đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ góp

thêm một hướng tiếp cận và nghiên cứu các tác phẩm của Kawabata.

1.4. Ở Việt Nam, so với các nền văn học lớn khác trên thế giới thì văn học

Nhật Bản đến với bạn đọc có phần chậm muộn hơn. Nhưng bù lại văn học Nhật, đặc

biệt là Kawabata, lại nhanh chóng cuốn hút độc giả, chiếm lĩnh trái tim bạn đọc bởi

những tác phẩm sâu lắng, đồng điệu bởi tình yêu với cái đẹp, tình yêu thiên nhiên

và cuộc sống trong cội nguồn văn hóa Phương Đông. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa

thực sự thỏa đáng với những đóng góp và tài năng của Kawabata. Đã có các nghiên

cứu về tác tác phẩm Kawabata dưới nhiều góc độ, nhưng chưa có công trình nghiên

cứu hệ thống, chuyên sâu về biểu tượng văn hóa truyền thống trong các tiểu thuyết

của nhà văn. Điều đó càng thôi thúc chúng tôi đi sâu khám phá, mong muốn gợi mở

được nhiều điều thú vị cho những độc giả yêu mến văn học Nhật Bản và Kawabata.

Tất cả những lí do trên là căn cứ khoa học cho phép chúng tôi lựa chọn đề tài

nghiên cứu: Biểu tượng văn hóa truyền thống Nhật Bản trong tiểu thuyết của Y.

Kawabata.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Luận án hướng đến ba mục đích cơ bản sau:

Một là, tổng hợp và lí giải nguồn gốc của những giá trị văn hóa truyền thống

trong tiểu thuyết Kawabata, chỉ ra mối liên hệ giữa văn hóa truyền thống Nhật Bản

và văn hóa hiện đại phương Tây trong tác phẩm của nhà văn; Tiếp cận tiểu thuyết

của Kawabata dưới góc nhìn văn hóa, để lí giải những nhân tố: văn hoá, xã hội, tư

tưởng, cảm xúc, thẩm mĩ… chi phối đến quá trình sáng tạo của nhà văn.

Hai là, lựa chọn và giải mã những biểu tượng tiêu biểu nhất, có tần số hiện

cao trong tiểu thuyết Kawabata, chúng tôi mong muốn có được một cái nhìn sâu

sắc, toàn diện và hệ thống về giá trị văn hóa dân tộc, cũng như những quan niệm

thẩm mĩ về cái đẹp trong truyền thống văn hóa con người xứ sở hoa anh đào này.

Ba là, luận án khám phá và khẳng định những nét đặc sắc trong thế giới biểu

tượng của Kawabata, tìm ra cái hay, cái đẹp và cái độc đáo, mới lạ - kết quả của quá

3

trình vừa hấp thụ những tinh hoa của văn học phương Tây, vừa có sự kế thừa và

cách tân truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc Nhật.

2.2. Nhiệm vụ

Luận án tập trung vào ba nhiệm vụ chính:

Thứ nhất, khảo cứu hệ thống lí thuyết về biểu tượng, biểu tượng văn hóa, biểu

tượng văn hóa truyền thống; lí giải cơ sở hình thành của hệ thống biểu tượng văn

hóa truyền thống trong tiểu thuyết Kawabata.

Thứ hai, thống kê hệ thống biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu thuyết

của Kawabata; phân loại biểu tượng theo các lớp nghĩa; giải mã những biểu tượng có

tần số xuất hiện cao; làm rõ vai trò và ý nghĩa của biểu tượng văn hóa - văn học trong

tác phẩm Kawabata với việc bảo lưu truyền thống tốt đẹp của văn hóa Nhật Bản.

Thứ ba, trên cơ sở khảo sát các tiểu thuyết lớn của Kawabata dưới góc độ biểu

tượng văn hóa truyền thống, chúng tôi tiến hành đánh giá và khẳng định đây là một

phương diện nghệ thuật quan trọng đem đến thành công cho nhà văn, đóng góp to

lớn cho nền văn học hiện đại Nhật Bản.

3. Đối tƣợng nghiên cứu

Luận án tập trung tìm hiểu biểu tượng văn hóa truyền thống Nhật Bản trong

tiểu thuyết Y. Kawabata dựa trên hai phương diện tiêu biểu: Biểu tượng tôn giáo,

tín ngưỡng và biểu tượng nghệ thuật truyền thống

4. Phạm vi nghiên cứu

4.1. Phạm vi văn bản khảo sát

Luận án nghiên cứu, khảo sát các tiểu thuyết lớn của nhà văn được dịch và

xuất bản tại Việt Nam: Yasunary Kawabata Tuyển tập tác phẩm (2005), nhà xuất

bản Lao động (Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây). Tiểu thuyết Hồ (1954), nhà

xuất bản Văn học Thành phố Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Luận án tập trung nghiên cứu biểu tượng trong tiểu thuyết Kawabata ở các góc

độ sau:

- Tìm hiểu ý nghĩa văn hóa từ góc độ biểu tượng, đây là một trong những

4

phương diện thể hiện rõ nhất đặc trưng văn hóa truyền thống Nhật Bản.

- Lí giải và phân tích ý nghĩa các biểu tượng tiêu biểu trong tiểu thuyết của

nhà văn, luận án hướng đến khẳng định giá trị kết nối văn hóa truyền thống - hiện

đại và vai trò của biểu tượng văn hóa - văn học trong tác phẩm Kawabata với việc

bảo lưu truyền thống tốt đẹp của văn hóa Nhật Bản.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận sau:

Tiếp cận Kí hiệu học: Biểu tượng là một dạng kí hiệu. Nghĩa của biểu tượng

bao gồm nhiều tầng lớp và mang giá trị văn hóa cao. Từ cách tiếp cận này, chúng

tôi sẽ khai thác các lớp nghĩa và cắt nghĩa giá trị của chúng trong việc chuyển tải

thông điệp của nhà văn.

Tiếp cận Văn hóa học: Trên cơ sở khảo sát, chúng tôi soi chiếu biểu tượng từ

các phương diện văn hóa như: tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật, thông qua các mã

văn hóa tồn tại bên trong và bên ngoài tác phẩm, để lí giải và khám phá các giá trị

nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Qua đó, đánh giá và khẳng định

phong cách sáng tác và quan niệm thẩm mĩ của tác giả Kawabata.

Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận án:

5.1. Phương pháp liên ngành: dùng để tiếp cận mang tính hệ thống nền văn

hóa Nhật Bản từ địa lí, ngôn ngữ, lịch sử, kinh tế, chính trị… Đây chính là phương

pháp hữu hiệu để giải mã tiểu thuyết Kawabata, cũng như chỉ ra được mối liên hệ

giữa văn học với các ngành khoa học khác.

5.2. Phương pháp hệ thống: dùng để nghiên cứu và phân loại các lớp nghĩa

của biểu tượng trong văn hóa truyền thống Nhật Bản, nhằm khẳng định sự phong

phú, nhiều tầng ý nghĩa của biểu tượng trong tác phẩm Kawabata.

5.3. Phương pháp phê bình tiểu sử: dùng để phân tích và chỉ ra mối quan hệ

giữa dấu ấn cá nhân, cuộc đời riêng của Kawabata với những nhân tố chi phối đến

tư tưởng của nhà văn và nội dung tác phẩm.

5.4. Phương pháp lịch sử loại hình: dùng để tìm hiểu nguồn gốc hình thành

các biểu tượng văn hóa truyền thống, tập hợp thành các nhóm theo các phương diện

5

tồn tại của văn hóa trong tác phẩm Kawabata, lí giải ý nghĩa của chúng, một mặt chỉ

ra sự kế thừa, tiếp thu các ý nghĩa vốn có của biểu tượng, mặt khác phát hiện những

ý nghĩa mới, sáng tạo trong các tác phẩm của nhà văn.

5.5. Phương pháp so sánh - đối chiếu: dùng để tìm nét tương đồng và riêng

biệt trong tư duy sáng tác, quan điểm thẩm mĩ của Kawabata với các tên tuổi khác.

Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các thao tác: phân tích - tổng hợp, khảo sát -

thống kê - phân loại trong quá trình thực hiện đề tài.

6. Đóng góp mới của luận án

Luận án phát hiện và phân loại biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu

thuyết Kawabata; lí giải và phân tích hệ thống biểu tượng từ các góc độ: ý nghĩa

biểu tượng, giá trị văn hóa truyền thống, từ đó đánh giá vai trò của biểu tượng văn

hóa truyền thống trong tiểu thuyết Kawabata.

Luận án bước đầu chỉ ra mối liên hệ giữa văn hóa truyền thống với văn hóa hiện

đại Nhật Bản. Có thể thấy, sợi dây liên kết giữa văn hóa của quá khứ và hiện tại vẫn

tiếp tục được nối dài, đó là giá trị vĩnh cửu, kết đọng thành những biểu tượng. Điều này

chứng tỏ sự gắn bó mật thiết giữa văn học và văn hóa; khám phá mối liên hệ này, chính

là một con đường tiếp cận giá trị tác phẩm văn học đạt hiệu quả cao nhất hiện nay.

Luận án tìm hiểu có tính hệ thống biểu tượng văn hóa truyền thống Nhật Bản

trong tiểu thuyết Kawabata, nhằm khám phá hiệu quả giá trị của tác phẩm. Từ đó,

đề tài một mặt khẳng định tài năng độc đáo và những đóng góp quan trọng của tác

giả trong việc bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, mặt khác, giúp độc

giả có cái nhìn toàn diện hơn về mảnh đất và tâm hồn con người xứ sở hoa anh đào.

7. Cấu trúc của luận án

Luận án được cấu trúc thành bốn chương như sau:

Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Chương 2. Biểu tượng và biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu thuyết

Y. Kawabata

Chương 3. Biểu tượng tôn giáo, tín ngưỡng

Chương 4. Biểu tượng nghệ thuật truyền thống

6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Kawabata là một trong những nhà văn hiện đại hàng đầu Nhật Bản. Tài năng

của ông được ghi nhận qua những phát hiện tinh tế bản chất vẻ đẹp tâm hồn Nhật

Bản, thể hiện khát khao gìn gìn truyền thống với “vẻ đẹp nguyên thủy” và những

giá trị đẹp đẽ của bản sắc văn hóa dân tộc. Tác phẩm của ông “thực sự trở thành

chiếc cầu nối kì diệu đưa nước Nhật vượt đại dương đến với thế giới, và đưa thế

giới đến với xứ sở hoa anh đào tươi đẹp” [3,215].

1.1. Nghiên cứu tiểu thuyết Y. Kawabata và biểu tƣợng văn hóa truyền

thống trong tiểu thuyết Y. Kawabata trên thế giới

Trên thế giới, Kawabata và tác phẩm của ông là đối tượng của nhiều công

trình nghiên cứu, dưới nhiều góc độ và phương pháp tiếp cận khác nhau.

Từ góc độ tiểu sử học

Đầu tiên phải kể đến bài The Nobel prize for literature 1968 (Giải Nobel văn

học 1968) giới thiệu nhà văn đoạt giải Nobel văn chương của Viện Hàn lâm Thụy

Điển do tiến sĩ Anders Osterling đọc tại buổi lễ trao tặng cho Kawabata vào tháng

12 năm 1968. Bài viết đã khái quát cuộc đời, những bất hạnh mà Kawabata phải

nếm trải từ khi còn rất nhỏ và khẳng định những mất mát đó đã có tác động đến thế

giới quan của nhà văn. Đặc biệt, Osterling còn chú trọng nhấn mạnh đến bộ ba tiểu

thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô: “Người ta đặc biệt ca ngợi Kawabata như

một người thấu hiểu một cách tinh tế tâm lí phụ nữ. Ông đã chứng tỏ trình độ bậc

thầy của mình ở khía cạnh này trong hai tiểu thuyết Xứ tuyết và Ngàn cánh hạc...

Tác phẩm của Kawabata làm ta nhớ đến hội họa Nhật Bản, ông là kẻ tôn thờ cái đẹp

mong manh và ngôn ngữ hình ảnh u buồn hiện hữu trong cuộc sống của thiên nhiên

và thân phận con người” [4,985]. Nhận định trên cho thấy, quan điểm sáng tạo nghệ

thuật của nhà văn, đó là cái đẹp luôn gắn với nỗi buồn. Điều này có cội nguồn từ mĩ

học truyền thống Nhật Bản, cái đẹp thường đượm nỗi buồn của thời gian, của kí ức

và những trải nghiệm trong đời mỗi người. Tác giả bài viết còn đặc biệt ưu ái tiểu

7

thuyết Cố đô khi đưa ra nhận định: “Thực ra bản thân Kyoto mới là nhân vật chủ

đạo, kinh đô của vương quốc xưa”; “tiểu thuyết của ông là lời nhắc nhở nhẹ nhàng

về sự cần thiết phải cố mà giữ lấy cái gì đó của vẻ đẹp và tính độc đáo cổ xưa của

nước Nhật” [4,960]. Trong lời tuyên dương của Viện Hàn lâm, còn nhắc tới nghệ

thuật tự sự bậc thầy của Kawabata, khi biểu hiện tâm hồn Nhật Bản một cách tinh

túy nhất. Như vậy, vấn đề phản ánh cái Đẹp, cái Buồn và truyền thống cổ xưa thực

sự đã là “bản năng” trong sáng tác của Kawabata.

Tiếp đến năm 1982, tác giả Mary Jo Moran trong bài Recommended: Yasunari

Kawabata (Đề xuất: Kawabata Yasunary) đã quan tâm lí giải những mất mát trong

cuộc đời riêng đã ảnh hưởng đến lối viết cùng với sự nhạy cảm hiếm có của nhà văn

Kawabata. Bài viết cũng khẳng định: “Kawabata thành công trong việc kết hợp kĩ

thuật phương Tây với tinh thần phương Đông để tạo ra những tác phẩm tiểu thuyết

tâm lí tuyệt vời”. Tác giả cho rằng, Ngàn cánh hạc, Xứ tuyết là những tiểu thuyết đã

“đánh lừa” độc giả bởi những cảm nhận đầu tiên, dung lượng ngắn, ngôn ngữ giản

dị, nhưng càng đi sâu khám phá người đọc càng gợi mở được nhiều vấn đề sâu xa:

“xuyên qua ngôn ngữ, hình ảnh, Kawabata đã thể hiện trải nghiệm trực quan vượt ra

ngoài giới hạn của ngôn từ”; “Phong cách của Kawabata là nghịch lí, đơn giản

nhưng sâu sắc, mô tả nhưng gợi mở” [5,75].

Dawn to the West (Bình minh trước phương Tây) của Donald Keene (1984) là

một nghiên cứu tương đối công phu về văn học hiện đại Nhật Bản. Riêng mục về

Kawabata, được tác giả tập hợp một cách hệ thống, từ tuổi thơ dữ dội đến lúc

trưởng thành và cố gắng tìm hiểu, đưa ra đánh giá về cái chết đầy bí ẩn của nhà văn.

Đồng thời, tác giả cũng chú trọng đến tìm hiểu những giá trị nổi bật của các tiểu

thuyết tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tạo văn chương Kawabata. Tác giả Donald

Keene còn chỉ ra cội nguồn văn hóa phương Ðông và những tác động, ảnh hưởng về

phương pháp sáng tác, kĩ thuật hiện đại... của văn hóa phương Tây đến sáng tác của

nhà văn. Ông cho rằng, “Kawabata chắc chắn là một tác giả hiện đại, các tác phẩm

của ông chỉ liên quan đến những người đương thời. Nhưng giải thưởng Nobel văn

chương đã tôn vinh ông vì mối quan hệ đặc biệt của ông được thể hiện qua truyền

8

thống Nhật Bản” [6,807]. Đây là một công trình nghiên cứu có giá trị, cung cấp

nhiều thông tin quý báu cho chúng tôi khi triển khai đề tài nghiên cứu.

Từ góc độ nghiên cứu liên ngành

Nhà nghiên cứu Edward G. Seidensticker quan tâm đặc biệt đến nhiều sáng tác

của Kawabata. Năm 1968, trong “Lời giới thiệu tiểu thuyết Xứ tuyết” (Snow

Country), tác giả từ việc phân tích tác phẩm đã đưa ra nhiều nhận xét thú vị, trong

đó chúng tôi chú ý đến đề xuất, “nên xếp Kawabata vào dòng văn chương của

những bậc thầy thơ Haiku thế kỉ XVII”. Ông cho rằng: “đề tài mà Kawabata đã

chọn cho Xứ tuyết, dễ dàng tạo nên cuộc gặp gỡ, hội ngộ hoàn hảo giữa tiểu thuyết

và thơ Haiku” [7,7].

Trong bài Giới thiệu nhà văn đoạt giải Nobel văn chương, Anders Osterling

cũng nhấn mạnh đến giá trị bản sắc văn hóa trong sáng tác của Kawabata: “Tác

phẩm của Kawabata làm ta nhớ tới hội họa Nhật Bản... nếu sự phù du của mọi hành

động bên ngoài có thể so sánh với búi cỏ dật dờ trên mặt nước, ấy chính là tinh túy

nghệ thuật cực thiểu của thơ Haiku Nhật Bản phản ánh trong phong cách văn xuôi

của Kawabata” [4,958].

Năm 1969, bài giới thiệu về Kawabata của tác giả Edward Seidensticker đăng

trên Tạp chí Hudson, một lần nữa đã khẳng định niềm vinh dự của người Nhật với

giải thưởng Nobel văn học dành cho Kawabata: “có cả niềm vui lẫn sự bối rối khó

hiểu, bởi trước đó không có nhiều tác phẩm của Kawabata được dịch, ông cũng

không thực sự thu hút độc giả phương Tây, nhưng có một điều không thể phủ nhận

là người ta tìm thấy mối quan hệ giữa Kawabata và những giá trị truyền thống của

Nhật Bản” [8,6]. Tính chất truyền thống của văn hóa, văn học Nhật Bản trong sáng

tác của nhà văn, ảnh hưởng của Truyện Genji cùng những nỗi buồn ám ảnh từ chính

cuộc đời riêng: cô đơn và thất bại trong tình yêu, đã trở thành những chủ đề chính

trong tác phẩm Kawabata. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, nguồn gốc các sáng tác

của Kawabata bắt nguồn từ phương Tây, “những hình ảnh lập dị, sự phân mảnh và

sự pha trộn của các giác quan là những thứ rất được coi trọng trong tác phẩm của

Kawabata”. Chính nhà văn từng thừa nhận, bị ảnh hưởng bởi phương Tây, bắt

9

chước những nhà văn như James Joyce, nhưng cuối cùng ông vẫn là người con của

Nhật Bản, mang đậm cốt cách và tâm hồn của dân tộc. Ở bài viết này, tác giả

Edward Seidensticker cũng chú trọng đến việc phân tích, lí giải một số tác phẩm

trong sự nghiệp văn chương Kawabata, để khẳng định phong cách sáng tạo và

những đóng góp quan trọng của nhà văn cho văn chương Nhật Bản và Thế giới.

Cùng năm 1969, trong bài nghiên cứu Kawabata Yasunari: Bridge-Builder to

the West (Kawabata - người xây cầu nối phương Tây), tác giả Francis Mathy cũng

khẳng định niềm vinh dự, tự hào của văn đàn Nhật trước giải thưởng Nobel văn học

của Kawabata: “Nó không chỉ là niềm vui với người đồng hương mà quan trọng là

văn học Nhật Bản đã khẳng định được vai trò trong nền văn chương thế giới và mối

quan hệ văn hóa phương Đông và phương Tây qua cầu nối bởi những sáng tác độc

đáo của Kawabata” [9,214]. Francis Mathy thông qua tìm hiểu tác phẩm, phát hiện

và chỉ ra ý nghĩa quan trọng của hệ thống biểu tượng với việc biểu đạt sâu sắc giá trị

tư tưởng trong tác phẩm văn học. Tác giả đặc biệt chú ý đến biểu tượng gương soi:

“tấm gương trong mặt trăng, dưới mặt nước được sử dụng hiệu quả như là biểu

tượng của tình yêu sâu sắc của con người” [9,215]. Tác giả bài viết còn nhấn mạnh,

Kawabata là người con của “văn hóa Cố đô”, là người nợ ít nhất với các xu hướng

và ảnh hưởng nước ngoài, có nguồn gốc chủ yếu trong quá khứ văn hóa của Nhật

Bản. Ông xứng đáng trở thành một đại diện cho nền văn học Nhật Bản với nghệ

thuật hoàn hảo đã thể hiện ý thức đạo đức, đóng góp một phần đáng kể, làm cầu nối

văn hóa Đông - Tây. Thông qua hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết, tác giả bài viết

còn khẳng định: “Các nhân vật của Kawabata không chỉ là cơ quan ngôn luận của

người tạo ra chúng. Họ chắc chắn bày tỏ một phần của anh ta vì nghệ thuật thể hiện

một phần của nghệ sĩ, nhưng không nhiều hơn thế” [9,217].

Năm 1983, Katsuhito Takeda đã chỉ ra những dấu ấn đậm nét của tôn giáo

trong sáng tác của Kawabata qua bài viết Biblical influence upon Yasunari

Kawabata (Ảnh hưởng Kinh thánh đối với Yasunary Kawabata). Tác giả nhấn

mạnh: “các tác phẩm của ông được coi là truyền thống thực, nhưng chúng tôi nhận

ra rằng chúng có chứa các yếu tố hiện đại. Kawabata có mối quan tâm sâu sắc đến

10

văn học phương Tây, đặc biệt là văn học thế kỉ XIX và XX và thường sử dụng Kinh

thánh trong tác phẩm của mình” [10,97]. Những lời dẫn trực tiếp từ Kinh thánh

được tìm thấy ở tất cả các thể loại trong sáng tác của nhà văn. Kinh thánh là chìa

khóa không thể thiếu để mở ra cánh cửa cho các tác phẩm của Kawabata. Phát hiện

thú vị của công trình nghiên cứu này, đã cung cấp thêm những căn cứ cho chúng tôi

khi triển khai một trong những nội dung quan trọng của luận án, đó là tìm hiểu ý

nghĩa tôn giáo thông qua giải mã biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu thuyết

của Kawabata.

Một công trình nghiên cứu về Kawabata mà chúng tôi cũng rất quan tâm, là

luận án Tiến sĩ của tác giả Setsuko Tsutsumi (1997) được thực hiện tại trường Đại

học Washington: Kawabata Yasunary - Interweaving the “Old Song of the East”

and Avan-Garde Techniques (Kawabata Yasunari - sự đan lồng Bài ca cổ điển

phương Đông với kĩ thuật tiên tiến). Trong luận án này, tác giả thông qua việc phân

tích, lí giải và chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa cội nguồn văn hóa, văn học, mĩ học,

triết học… Nhật Bản trong các sáng tác của Kawabata để khẳng định tính đặc thù

trong phương pháp sáng tác của ông. Tác giả luận án cũng làm rõ kĩ thuật viết tiên

tiến (thủ pháp gương soi, dòng ý thức, kết cấu truyện lồng truyện...) để xây dựng

hình tượng cái đẹp hiện đại và truyền thống, để biểu hiện đậm nét giá trị tư tưởng

trong các sáng tác của nhà văn. Là một người con của nền văn hóa Nhật Bản, nên

cách tiếp cận và khẳng định giá trị truyền thống của tác giả luận án rất khoa học,

nhận được sự quan tâm của độc giả yêu thích Kawabata và đất nước Nhật Bản. [11].

Tác giả Peter M. Carriere (2002) trong bài viết: Writing as Tea Ceremony:

Kawabata's Geido Aesthetics (Viết như một nghi lễ trà đạo - Mỹ học Geido của

Kawabata) cho rằng, những nhà văn như Dogen (1200-1253) và Myoe (1173-1232)

có ảnh hưởng không nhỏ đến những sáng tác của Kawabata. Họ không chỉ khơi gợi

nguồn cảm hứng, nghệ thuật của họ là mẫu mực của thẩm mĩ geido mà Kawabata đã

sử dụng, khi ông cố gắng tạo ra sự hài hòa với thiên nhiên, nghệ thuật, tâm linh và

văn hóa mà ông cảm nhận được. Dogen gợi ý cho Kawabata sự sâu lắng, yên tĩnh của

tinh thần Nhật Bản, Myoe truyền cảm hứng cho vẻ đẹp khắc nghiệt và lạnh giá được

11

thể hiện trong tiểu thuyết Xứ tuyết của ông. [12,52].

Công trình The aging crises seen through the characterization and symbols in

Yasunari Kawabata’s “The Sound of the mountain” (Những cuộc khủng hoảng tuổi

già được thể hiện qua các đặc điểm và biểu tượng trong Tiếng rền của núi của

Yasunari Kawabata - 2010) của Nawang Sari có nhiều đóng góp quan trọng khi đề

cập đến kiệt tác này. Tác giả thông qua giải mã các biểu tượng: mặt nạ, âm thanh

của núi, Giấc mơ của người chết và núi Phú Sĩ để khẳng định các cuộc khủng hoảng

tuổi già bắt đầu với một số xáo trộn nhỏ trong khi nhân vật chính cố gắng đối phó

với các yếu tố lão hóa trong giai đoạn già đi của mình.Đầu tiên là nhận thức về tỷ

lệ tử vong, thứ hai là tư duy về vai trò của người cao tuổi. Và thứ ba là tư duy để

đạt đến những ám ảnh của tuổi trẻ. Tác giả bài viết cũng khảo cứu lí thuyết biểu

tượng, lí thuyết khủng hoảng lão hóa và đưa ra cách hiểu và hướng vận dụng rất

linh hoạt, độc đáo. Đáng chú ý là tác giả còn đề xuất cách chia biểu tượng thành

hai loại: biểu tượng cộng đồng và biểu tượng ngữ cảnh để giới hạn phạm vi nghiên

cứu của đề tài. Ở công trình này, tác giả lựa chọn tiếp cận Tiếng rền của núi dưới

góc độ tâm lí học, phân tích những yếu tố tâm lí xảy đến với nhân vật chính, lí giải

một cách hiệu quả biểu hiện của những cuộc khủng hoảng tuổi trung niên và chỉ ra

được những mối liên hệ rất ý nghĩa của các nhân vật trong tác phẩm. Chúng tôi

cho rằng, lựa chọn cách tiếp cận tâm lí để giải quyết mục tiêu đặt ra cho công trình

này được coi là phù hợp và hiệu quả. Bên cạnh đó, quan điểm phân loại biểu

tượng của tác giả cũng rất hữu ích, đây được xem là nguồn tham khảo quan trọng

cho chúng tôi trong quá trình xác định tiêu chí, khảo sát và phân loại biểu tượng

cho đề tài luận án. [13,10].

Chúng tôi cũng tìm thấy một hướng khai thác tác phẩm Kawabata rất hữu ích

trong bài viết Reader-Response Analysis in “Snow Country” a novel by Yasunari

Kawabata (Phân tích phản ứng của người đọc qua Xứ tuyết, một cuốn tiểu thuyết

của Yasunari Kawabata) của Yuli Christiana Yoedo (2011). Yoedo cho rằng, tác

phẩm của Kawabata có thể được quan sát từ góc nhìn của độc giả - người đóng vai

trò là nhà thẩm định của bất kì tác phẩm văn học nào. Thuyết phản ứng của người

12

đọc cho rằng việc giải thích văn bản có thể phụ thuộc vào nhận thức, tuổi tác, giới

tính và quốc tịch của người đọc. Nói cách khác, khả năng mở ra ý nghĩa đối với một

tác phẩm phụ thuộc vào cách nhìn nhận, quan điểm mang tính chủ quan của người

đọc, dựa trên kinh nghiệm sự tương tác giữa tác phẩm và bạn đọc. Người đọc được

coi là quan trọng như người viết về mặt cung cấp ý nghĩa đối với một văn bản. Kĩ

thuật của nghiên cứu này, được tổ chức thành quy trình thu thập tích hợp thông tin

về dữ liệu. Dữ liệu chính được lấy từ Xứ tuyết. Ngoài ra, bài viết còn cung cấp các

phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài, bao gồm:

đọc kỹ, ghi chú, phân loại, diễn giải và thảo luận dữ liệu. Với cách tiếp cận này,

Yoedo đã lần lượt phân tích lí giải các chủ đề của tiểu thuyết: Nữ quyền, thiên

nhiên, tình yêu, văn hóa một cách khách quan, hấp dẫn, không áp đặt mà trao đổi

theo hướng nhìn của độc giả. Theo chúng tôi, đây là cách làm việc sáng tạo, thú vị,

luôn đặt tác phẩm trong sự soi chiếu nhiều chiều, nhiều góc cạnh để khám phá giá

trị nội dung, nghệ thuật chính xác, khách quan và khoa học. [14,118].

Từ góc độ thi pháp học

Ở Nhật Bản, ngay sau khi giải thưởng Nobel văn học được Kawabata nhận

được, đã xuất hiện cuốn A Thematic Study of the Works of Kawabata Yasunari

(1968) (Nghiên cứu chủ đề về tác phẩm của Kawabata Yasunari) của Reiko

Tsukimura. Bài viết khai thác chủ đề “cái Buồn” và nhấn mạnh đến phương thức

thể hiện nó trong các tác phẩm của nhà văn. Người viết cũng đi sâu lí giải cội nguồn

của đặc trưng này, từ đó khẳng định, đây là nỗi buồn vì hiện thực đất nước, là cái

buồn có cội rễ từ trong truyền thống, nay được tiếp nối trong các sáng tác nổi bật

của nhà văn. Cho dù nguyên cớ của nỗi buồn có là gì, thì Kawabata cũng đã định

hướng cho mình một con đường rất rõ ràng: “từ thời điểm chiến tranh kết thúc, ông

sẽ chỉ viết những khúc bi thương. Và ông đã làm như vậy, sáng tạo ra những trang

văn vào loại độc đáo và gây ấn tượng bậc nhất của thế kỉ XX. Ông chính là nhà văn

lớn cuối cùng hoài niệm về một Cố đô của Nhật Bản cổ kính” [15,22].

Trong cuốn Critique: Studies in Contemporary Fiction (Phê bình: Nghiên cứu

tiểu thuyết đương đại) có bài viết Yasunary Kawabata: Snow in the Mirror

13

(Yasunary Kawabata: Tuyết trong gương), tác giả Gwenn R. Boardman (1969) đã

khảo sát tiểu thuyết Xứ tuyết và khẳng định, gương soi là trung tâm biểu tượng của

câu chuyện đặc biệt trong Xứ tuyết, chiếc gương báo trước mối liên hệ giữa Yoko

và Komako. Khi ánh sáng buổi tối chiếu vào Yoko, Shimamura cảm thấy vẻ đẹp rất

khó để giải thích được. Sau đó, khi nhìn thấy Komako trong một tấm gương thực tế,

Shimamura đối chiếu đôi mắt sáng của cô với tuyết phản chiếu màu trắng dưới đáy

gương. Bài viết đã đề cập đến gương soi, là biểu tượng xuất hiện xuyên suốt trong

sáng tác của Kawabata, càng thôi thúc quá trình nghiên cứu, tiếp tục khám phá ý

nghĩa của biểu tượng nổi bật này trong quá trình thực hiện luận án. [16,5].

Năm 1983, trong Encyclopedia of Japan (Bách khoa toàn thư Nhật Bản), trong

phần viết về Kawabata, tác giả Itasaka đã đặc biệt quan tâm đến mảng tiểu thuyết,

trong hành trình sự nghiệp của nhà văn. Thông qua khảo sát, tác giả đã nhấn mạnh,

vấn đề cốt lõi trong sáng tác của Kawabata chính là tình yêu và thái độ trân trọng vẻ

đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Con đường nghệ thuật của Kawabata là hành

trình của người “lữ khách muôn đời” đi tìm cái đẹp: “Việc đề cao những giá trị

truyền thống tốt đẹp đó cũng có nghĩa là ông coi trọng cái chết, sự suy tàn bằng

cách thương xót hơn là chấp nhận” [3,177]. Tác giả còn cho thấy, phong cách sáng

tạo của nhà văn có ảnh hưởng từ truyền thống văn chương Nhật Bản, luôn coi trọng

vẻ đẹp của sự tao nhã, nhẹ nhàng và tinh tế.

Tác giả Mishima Yokio (1980) trong lời giới thiệu cuốn House of the Sleeping

Beauties and Other Stories (Ngôi nhà của những người đẹp ngủ say và những

truyện khác) đã quan tâm đến hệ thống biểu tượng trong tác phẩm của Kawabata.

Tác giả dành nhiều ưu ái cho tiểu thuyết Người đẹp ngủ say khi cho rằng, đây thực

sự là một kiệt tác, cho thấy giá trị và tài năng đặc biệt của Kawabata trong sáng tạo

nghệ thuật. Vấn đề nhục dục được khai thác như là một phương tiện truyền tải

những ý nghĩa ngầm ẩn bên trong tác phẩm. Mặt khác, tác phẩm còn ngợi ca vẻ đẹp

trinh nữ, “bởi vì trinh nữ không còn là trinh nữ khi cô ấy bị tấn công, việc không đạt

được là tiền đề cần thiết để đưa trinh tiết vượt ra ngoài thuyết bất khả tri” [20,3].

Trong phần giới thiệu này, tác giả quan tâm đến nhiều vấn đề như đề tài, tư tưởng,

14

phong cách trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến hệ thống biểu tượng trong các tiểu

thuyết Kawabata.

Nhà nghiên cứu Makoto Ueda (1983) trong cuốn Modern Japanese Poets and

the Nature of Literature (Nhà thơ hiện đại Nhật Bản và Bản chất của văn học), đề

cập đến một trong những đặc trưng nổi bật, xuyên suốt sáng tác của Kawabata, là

vấn đề cái Đẹp và phương thức thể hiện cái đẹp trong tác phẩm của nhà văn. Tác giả

cho rằng, cái đẹp nhà văn hướng tới có nét độc đáo, riêng biệt với vẻ đẹp thuần

khiết, dung dị, đậm chất triết lí. Theo ông, “cái đẹp thuần khiết như Kawabata quan

niệm, cũng là cái đẹp mong manh, rất dễ tàn lụi” [18,184]. Qua việc lí giải, kết hợp

liên hệ phân tích các tác phẩm của Kawabata, tác giả bài viết còn nhấn mạnh những

nét nổi bật nhất trong phong cách văn chương Kawabata, đó là: vẻ đẹp thuần khiết,

sự chân thành và nỗi buồn.

J.Thomas Rimer (1988), tác giả cuốn A Reader’s Guide to Japanses Literature

(Cẩm nang người đọc về văn học Nhật Bản) cũng đề cập đến giá trị nghệ thuật

trong các sáng tác của Kawabata, “Mặc dù có những gợi ý về một triết lí thẩm mĩ

phức tạp phía sau văn bản, tiểu thuyết của ông vẫn có một sự lôi cuốn tức thời, cả

trong màu sắc hình ảnh, lẫn trong sự nhạy bén tâm lí thể hiện những đoạn đối thoại

khác nhau tạo nên nhịp điệu cho câu chuyện”. Có thể thấy, khả năng sáng tạo ngôn

từ được coi là điểm mạnh đặc biệt của Kawabata, được đánh giá, “có thể làm lu mờ

khả năng của bất kì camera nào” [19,115].

Cùng năm 1988, trên Tạp chí Văn học thế giới ngày nay, xuất bản tại đại học

Oklahoma có bài viết: Yasunari Kawabata (1899-1972) Tradition versus Modernity

(Yasunary Kawabata: Truyền thống đấu hiện đại) của Sidney DeVere Brown. Tác

giả bài viết đưa ra nhận định về một Nhật Bản cổ xưa, truyền thống với vô vàn biểu

tượng được lưu giữ trong các sáng tác của Kawabata: “Đó là thế giới của những khu

nghỉ dưỡng suối nước nóng, những phụ nữ Nhật Bản truyền thống, những người

chơi đàn Shamisen, những nghệ nhân thưởng trà đạo... ”; “Theo sát sáu cuốn tiểu

thuyết lớn của ông sẽ giúp chúng tôi nhận ra quan điểm của ông về thế giới hiện đại

mà bản thân ông bị đẩy vào”; “Đó là người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa, người đã

15

tìm cách bảo tồn thế giới truyền thống trong tiểu thuyết trước khi những giá trị truyền

thống đó biến mất... ” [20,375-379]. Bài viết còn nhấn mạnh, có cả một không gian

rất riêng trong tác phẩm của Kawabata, khung nền của cuộc sống hiện đại chỉ cung

cấp một bối cảnh mờ nhạt, nếu không muốn nói là vô hình. Điều tự hào nhất chính

là, cái đẹp hiện hữu trong tác phẩm của nhà văn đều bắt nguồn từ vẻ đẹp của văn

hóa, văn học truyền thống Nhật Bản.

Tác giả Shuichi Kato (1990) trong công trình A History of Japanese

Literature (Lịch sử văn học Nhật Bản), cho thấy sự thấu đáo trong cách nhìn

nhận và đánh giá về vấn đề cái đẹp và tính nữ trong sáng tác Kawabata. Từ việc

tìm hiểu tác phẩm của nhà văn, tác giả bài viết đã phát hiện rất nhiều điều thú vị,

đó là những cô gái trẻ đẹp, trong trắng luôn là trung tâm trong sáng tạo của nhà

văn. Ông cho rằng: “Tình yêu của Kawabata là các cô gái trẻ đẹp và đồ gốm...

Đối với nhân vật nam của Kawabata, thì bề mặt của chiếc bình gần như không

phân biệt được với làn da của phụ nữ; cả phụ nữ và đồ gốm không chỉ đẹp khi

nhìn mà còn để chạm đến...” [21,243].

Fedorenko (1999) trong Kawabata - con mắt nhìn thấu cái đẹp, đã ghi lại cuộc

“bút đàm” thầm lặng với Kawabata, đồng thời dẫn lại mục đích của nhà nghệ sĩ:

“không phải tìm cách làm cho mọi người kinh ngạc sửng sốt bằng cái li kì quái dị,

mà là biết dùng chỉ vài phương tiện ít ỏi mà nói lên được nhiều nhất, biết dùng ngôn

từ và màu sắc để truyền đạt cái cảm xúc và kinh nghiệm nhìn đời của mình”

[1,1034]. Vì lẽ đó, trong quá trình sáng tạo, Kawabata đặc biệt quan tâm đến việc

tìm tòi và lựa chọn phương thức hữu hiệu nhất là thông qua biểu tượng để biểu đạt,

truyền tải đến người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và tư duy của con người

Nhật Bản. Ngoài ra, tác giả Fedorenko còn cho rằng, “Ngôn ngữ của Kawabata là

mẫu mực của phong cách Nhật: ngắn gọn, súc tích sâu xa, mang tinh biểu tượng và

ẩn dụ kì diệu” [1,1052]. Theo chúng tôi, bài viết này đã cung cấp nhiều tư liệu đáng

quý, đưa đến một cái nhìn và cách đánh giá mới, thú vị về Kawabata, đồng thời cho

thấy, ảnh hưởng và sự trân trọng đối với những giá trị văn hóa xưa cũ của Nhật Bản

chính là nét đẹp riêng trong tác phẩm của Kawabata.

16

Trong công trình Writing as Tea Ceremony: Kawabata's Geido Aesthetics

(Viết như một nghi lễ trà đạo - Mĩ học Geido của Kawabata) tác giả Peter M.

Carriere (2002) đã khẳng định ảnh hưởng của tinh thần Thiền trong sáng tác văn

chương Kawabata: “đắm mình trong thẩm mĩ của tôn giáo và văn hóa như là một nỗ

lực để tạo ra một phương thức thẩm mĩ theo tinh thần cha-no-yu, hay trà đạo”

[12,29]. Mục tiêu của trà đạo là đánh thức hoặc củng cố cho người tham gia nhận

thức về giá trị bản sắc văn hóa và kết nối tâm linh thông qua tính thẩm mĩ được nghi

lễ hóa của nó. Đối tượng của các hình thức nghi lễ thẩm mĩ khác như nghệ thuật

tiểu thuyết cũng có thể làm như vậy. Điều này cho thấy, mối liên hệ giữa nghệ thuật

và tôn giáo đã phát triển mạnh mẽ trong thời kì trung cổ của Nhật Bản (950-1400),

khi các giá trị tôn giáo và thẩm mĩ hầu như trở nên đồng nghĩa trong cái được gọi là

geido - Đạo (hay Con đường) của thẩm mĩ Kawabata.

Bài viết Kawabata’s Mirrored poetics (Thi pháp gương soi của Kawabata)

đăng trên Tạp chí Nhật Bản của Masaki Mori (2004) một lần nữa nhấn mạnh đến

mối liên hệ giữa truyền thống Nhật Bản với kĩ thuật hiện đại phương Tây để tạo nên

tác phẩm Xứ tuyết lung linh tựa một bài thơ trữ tình. Tấm gương trở thành hình

tượng nổi bật, “gần nhất với lí tưởng thẩm mĩ của Kawabata”. Có lúc đó là tấm

gương “ảo ảnh”, có khi là tấm gương “thực” biểu hiện sinh động qua các hình tượng

nhân vật trung tâm trong tác phẩm của nhà văn. Có thể coi, cảnh gương như một

khoảnh khắc thẩm mĩ khi sự thôi thúc của câu chuyện tạm thời đóng băng để hiện

thực hóa nghệ thuật tối đa của thơ trữ tình. “Một khoảnh khắc mang tính thẩm mĩ

như vậy có thể so sánh với những bài thơ tanka và haiku trong văn học cổ điển Nhật

Bản”; “Kawabata đã thành công trong việc thể hiện mình là một nhà văn hiện đại

quan trọng”; “Trong nhiều cấp độ biểu tượng ẩn giấu trong đó, cảnh gương đầu tiên

ở Xứ tuyết cho thấy bản chất của nghệ thuật Kawabata” [22,63]. Những nhận định

này, sẽ là những căn cứ rất hữu ích để chúng tôi triển khai nội dung luận điểm trong

quá trình thực hiện luận án.

Trong cuốn Japan studies review 11, có bài viết Symbiotic Conflict in Snow

Country (Xung đột cộng sinh trong Xứ tuyết) tác giả Masaki Mori (2007) quan tâm

17

đến việc lí giải những ý nghĩa của một trong những cuốn tiểu thuyết nổi bật nhất

của Kawabata. Bài viết chỉ rõ những chi tiết cho thấy, phong cách văn chương đặc

biệt và khác thường của cuốn tiểu thuyết, các kỹ thuật và lối kể chuyện nhẹ nhàng,

lôi cuốn của nhà văn. Tác giả cho rằng, “bản chất của toàn bộ tác phẩm của nhà văn

đã tiết lộ một cách đầy đủ về thi pháp tác giả”; và “cách thức sáng tác của Kawabata

cũng có sự quen thuộc của ông với các thể loại truyện ngắn của truyền thống thơ ca

Nhật Bản, bao gồm tanka, haiku và renga” [23,51]. Tác phẩm của Kawabata vì quá

ngắn gọn nên bị nghi ngờ về sự phát triển cốt truyện, ông thường chú trọng đến hiệu

ứng trữ tình và gây ấn tượng. Thực ra, việc thiếu một cốt truyện phát triển liền mạch

trong nhiều tác phẩm của Kawabata sẽ được coi không phải là một khuyết điểm cố

hữu trong cách viết của ông mà chỉ đơn giản là một công cụ nghệ thuật hoặc một

quy ước nhuốm màu phong cách riêng. Nếu xét từ quan điểm cách đọc thông

thường của phương Tây về hình thức, Xứ tuyết dường như thiếu những yếu tố thiết

yếu của thể loại, đó là, một mạch truyện phát triển nhất quán dựa trên một loạt các

hành động xung đột với một khởi đầu được xác định rõ ràng, phần giữa hợp lí và

một cái kết thống nhất, trọn vẹn. Tuy nhiên, khi chúng ta xem xét “cuộc đối đầu

cộng sinh” liên quan đến hai nhân vật nữ chính, hay ngay cả những tình tiết tưởng

chừng rời rạc như câu chuyện tấm vải dệt chijimi, cảnh đám cháy ở cuối tác phẩm,

mới thực sự nhận ra, sự bất thường về kết cấu, sự mơ hồ của những kết thúc chính

là điều đặc biệt ở những sáng tác của nhà văn Kawabata.

Năm 2009, trong bài viết Thế giới thơ và tiểu thuyết Nhật Bản - từ Truyện

Genji đến Murakami Haruki, được trình bày tại Hội thảo Văn học Nhật Bản, tác giả

Mitsuyoshi Numano đã nhấn mạnh tính chất trữ tình và cảm tính là một đặc trưng

trong văn học truyền thống Nhật Bản, từ thơ Haiku, được coi là thể thơ ngắn nhất

thế giới, đến những tác phẩm dài hơi như Truyện Genji. Đặc biệt, tính chất trữ tình

cũng là một đặc trưng nổi bật trong tác phẩm của Kawabata. Bài viết tập trung lí

giải hệ thống biểu tượng phong phú, nhiều màu sắc, cùng với ngôn từ độc đáo, tạo

nên chất thơ, cùng với tính chất mơ hồ, bàng bạc trong mỗi trang viết của nhà văn.

Mitsuyoshi Numano còn cho rằng, tiểu thuyết Kawabata xứng đáng là những kiệt

18

tác, đem đến niềm say mê và tự hào cho người dân xứ sở hoa anh đào. Không gian

văn hóa Cố đô xưa được tái hiện qua mỗi trang văn, đẹp một cách trang nghiêm, mĩ

lệ cổ kính luôn hấp dẫn du khách tìm về vẻ đẹp văn hóa ngàn xưa của thiên nhiên

và tâm hồn con người luôn rộng mở. Một đất nước với “tín ngưỡng” đặc biệt dành

cho cái Đẹp, mọi khía cạnh của thế giới đối với người Nhật đều để lại những dấu ấn

của những rung cảm tinh tế và được soi sáng bằng những cảm thức thẩm mĩ truyền

thống. Tác giả bài viết cũng nhấn mạnh đến hiệu quả của nghệ thuật xây dựng biểu

tượng trong Cố đô, góp phần làm đẹp và phong phú hơn “giá trị của văn hóa truyền

thống trong quan niệm thẩm mĩ của người Nhật nói chung và trong quan niệm thẩm

mĩ của nhà văn nói riêng” [24,8].

Nhà nghiên cứu Yuli Ch.Yoedo (2011) trong bài Reader-Response Analysis in

“Snow Country” a novel by Yasunari Kawabata (Phân tích phản ứng của người đọc

qua Xứ tuyết, một cuốn tiểu thuyết của Yasunari Kawabata) đã cho rằng, Kawabata

xứng đáng là “một trong những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất Nhật Bản và Xứ tuyết là

một trong những tiểu thuyết xuất sắc của nhà văn”. Đó thực sự là những trang sách

“giới thiệu về đất nước, về truyền thống Nhật Bản, đặt văn hóa, nữ quyền và các

khía cạnh của tình yêu trong sự hài hòa” [14,116]. Tác giả cũng cho rằng, không dễ

để hiểu được Xứ tuyết, nó đòi hỏi một sự kiên trì suy ngẫm, để khám phá tường tận

những ý nghĩa sâu xa, ẩn tàng bên trong lớp vỏ ngôn từ. Điều này cho thấy,

Kawabata, cũng như các tác phẩm độc đáo của nhà văn luôn nhận được sự yêu mến

của độc giả và mong muốn khám phá đến tận cùng con người, cũng như thế giới

nghệ thuật, đầy hấp dẫn của nhà văn.

Năm 2017, Laura Ricca có bài viết The Aesthetics and Poetics of the Image

in Japanese Culture. An Example from the Literary Tradition: Yukiguni (Snow

Country) [Tính thẩm mĩ và thi pháp của hình ảnh trong văn hóa Nhật Bản. Một ví

dụ từ truyền thống văn học: Yukiguni (Xứ tuyết)]. Tác giả lựa chọn khảo sát Xứ

tuyết để khẳng định tính thẩm mĩ và chất trữ tình qua những hình ảnh trong văn

hóa Nhật Bản. Một lần nữa, tác giả cho rằng cốt truyện không phải là vấn đề trọng

tâm trong sáng tác của Kawabata, mà là các tình huống xuất hiện trực tiếp từ các

19

hình ảnh, các cảnh tượng được minh họa cho cách viết gần với điện ảnh, bằng

hình ảnh hoặc vẽ tranh bằng chữ viết, gợi lên một cách thơ mộng để truyền đạt

những ấn tượng nhất định: “Người viết đã chọn bỏ qua tất cả các điểm tham chiếu

cụ thể để duy trì một sự gợi mở thay vì khẳng định, nhấn mạnh. Một số hình ảnh

tạo ra một bầu không khí rất biểu cảm”; “Xứ tuyết bao gồm các điểm nhìn được

tạo ra một cách thơ mộng để truyền đạt những ấn tượng nhất định và nó minh họa

cho cách viết gần với điện ảnh, bằng hình ảnh hoặc vẽ tranh bằng chữ viết” [25,3].

Đây là thi pháp riêng của tác giả, nó có ý nghĩa gợi nhiều hơn là giải thích. Những

công trình nghiên cứu Xứ tuyết, các tác giả phần lớn tập trung khám phá khả năng

gợi mở độc đáo này.

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, tiểu thuyết của Kawabata là mảng tác phẩm

nhận được được nhiều sự yêu mến. Mỗi nhà nghiên cứu, khi khai thác tác phẩm của

Kawabata đều có cách tiếp cận, triển khai riêng, nhưng cơ bản vẫn khá thống nhất ở

các nhận định là, tiểu thuyết của Kawabata hướng tới giá trị văn hóa truyền thống của

dân tộc Nhật Bản; tính chất hiện đại và truyền thống…

Các bài nghiên cứu này, dù chưa nhiều nhưng cũng đã đề cập đến vấn đề biểu

tượng trong các tác phẩm của Kawabata. Vì thế, đây sẽ là những tư liệu đáng quý

cho quá trình lí giải và phân tích các vấn đề cơ bản của luận án.

1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết Y. Kawabata và biểu tƣợng văn hóa truyền

thống trong tiểu thuyết Y. Kawabata ở Việt Nam

Năm 1968, giải thưởng Nobel Văn học đã đưa tên tuổi và tác phẩm của

Kawabata đến gần hơn với độc giả thế giới. Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1969,

nhiều tác phẩm của nhà văn, được dịch và giới thiệu đến bạn đọc. Nhưng phải từ

những năm 1970 trở đi, tác phẩm của nhà văn mới thực sự đến được với bạn đọc

cùng nhiều bản dịch chất lượng, đặc biệt là bộ ba tác phẩm Ngàn cánh hạc, Xứ tuyết

và Cố đô. Cùng với đó, các công trình nghiên cứu Kawabata trên nhiều phương

diện, góc độ khác nhau, trong đó vấn đề lí giải và khẳng định tính chất truyền thống

trong sáng tác của nhà văn: văn hóa, văn học cổ xưa, quan niệm thẩm mĩ về cái

Đẹp, cái Buồn được chú trọng hơn cả.

20

Từ góc nhìn Tiểu sử học

Trước hết phải kể đến bài viết Yasunary Kawabata, cuộc đời và sự nghiệp

của tác giả Vũ Thư Thanh. Bài viết đã cung cấp khá chi tiết những thông tin về

tiểu sử, con người, cuộc đời và con đường sáng tạo của Kawabata. Bên cạnh đó,

tác giả bài viết cũng có những cảm nhận, đánh giá khá sâu sắc về phong cách và tư

tưởng thẩm mĩ của Kawabata. Vũ Thư Thanh cho rằng ngôn ngữ, hình ảnh trong

mỗi tác phẩm của Kawabata thường “hoa mĩ” như những bài thơ văn xuôi, “Đây

được coi là điểm cơ bản, tạo nên sức hấp dẫn riêng cho các sáng tác của nhà văn.

Tính chất thơ này không những thể hiện trên văn từ mà còn thể hiện cả ý tưởng, vì

thế những độc giả muốn thưởng thức một cốt truyện li kì sẽ thất vọng khi đọc tác

phẩm của ông” [26,2-3].

Năm 1997, cuốn Yasunary Kawabata - cuộc đời và tác phẩm của tác giả Lưu

Đức Trung được coi là công trình quy mô nhất, nghiên cứu tập trung, giới thiệu

tương đối đầy đủ về tiểu sử, quan điểm và con đường sáng tạo của Kawabata. Bên

cạnh đó, chuyên luận còn phát hiện và lí giải những tác động của thời đại “nhiều

biến động” đối với sáng tác của Kawabata. Việc phân tích, lí giải bộ ba tiểu thuyết

đoạt giải Nobel văn chương, là căn cứ để tác giả đưa ra nhận định: “Bộ ba tiểu

thuyết xuất sắc trên đây đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Kawabata. Cái

chất trữ tình sâu lắng, nỗi buồn êm dịu đó phải chăng Kawabata đã kế thừa từ

trong dòng văn học nữ tính thời đại Heian” [27,18]. Kawabata đã từng khẳng định

điều này khi ông vinh dự nhận được giải thưởng Nobel văn học năm 1968. Đây là

một trong những công trình đầu tiên ở Việt Nam cung cấp thông tin tương đối cụ

thể và đầy đủ giúp bạn đọc tiếp cận một cách chính xác và hệ thống về tiểu sử nhà

văn Kawabata.

Năm 2011, trong cuốn Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, tác giả Nguyễn

Nam Trân đã thể hiện sự am hiểu về văn học và mọi lĩnh vực khác của đất nước

Nhật Bản. Theo tác giả, chìa khóa để hiểu người Nhật và sức sống mãnh liệt của

nước Nhật không thể chỉ tìm kiếm trong những cải cách và thành tựu của thời cận

đại mà phải tìm kiếm sâu hơn trong cội nguồn văn hóa, văn học. Đây là công trình

21

công phu, bao quát tiến trình lịch sử văn học Nhật Bản từ khởi thủy cho đến cận

hiện đại. Trong mục về Kawabata, tác giả đã giới thiệu khá chi tiết về cuộc đời,

quan điểm nghệ thuật, đáng chú ý là, phần khảo sát những tác phẩm được lấy làm

cột mốc trong cuộc đời viết văn của ông từ những sáng tác đầu tiên đến những tác

phẩm cuối cùng [28, 413-417]. Đây là những thông tin hữu ích cho chúng tôi trong

quá trình tiếp cận, đánh giá các tiểu thuyết tiêu biểu trong sáng tác của Kawabata.

Năm 2016, Hữu Ngọc trong cuốn Lãng du trong văn hóa xứ sở hoa anh đào

đã dành một phần nhỏ viết về Kawabata: “Du khách u buồn” Kawabata và “Xứ

tuyết”. Tác giả chú trọng giới thiệu Xứ tuyết, đồng thời còn thể hiện mong muốn lí

giải cách mà nhà văn lựa chọn để kết thúc cuộc đời ở tuổi 73. Kawabata chấm dứt

cuộc đời phải chăng vì những bất hạnh riêng hay có thể vì ông cảm thấy không giữ

nổi sự thăng bằng giữa hai lối sống đối lập nhau: “lối sống cổ truyền và lối sống

hiện đại”; “hẳn đó không phải là lí do duy nhất giải thích việc tự sát của một nghệ sĩ

tự nhận mình là một du khách u buồn lang thang trên thế giới này” [29,236].

Các bài viết từ góc độ tiểu sử học, đã khẳng định sự hiểu biết tương đối toàn

diện của các nhà nghiên cứu về cuộc đời, quan điểm, phong cách sáng tác của

Kawabata, đồng thời cho thấy tình yêu, sự ngưỡng mộ cũng như mong muốn tri ân

cùng tác giả. Những bài viết ở trên, đã đem đến cái nhìn hệ thống, không những về

tác phẩm mà còn cung cấp những tư liệu quý báu, sẽ là căn cứ khoa học giúp chúng

tôi tiếp cận, lí giải những ảnh hưởng về cuộc đời, thời đại đến tư tưởng và con

đường sáng tạo của nhà văn ở những chương tiếp theo của luận án.

Từ góc nhìn Thi pháp học

Trước hết, phải kể đến bài viết được coi là nghiên cứu đầu tiên trên phương

diện thi pháp, đó là Yasunari Kawabata, người cứu rỗi cái đẹp của tác giả Nhật

Chiêu. Với cách viết nhẹ nhàng, lôi cuốn, cùng với việc tìm hiểu sâu các sáng tác

của Kawabata, tác giả cho rằng thi pháp tiểu thuyết Kawabata gần gũi với thi pháp

của thơ Haiku. Điều này đã từng được nhà văn khẳng định: “Tác phẩm của tôi

thường được miêu tả như là tác phẩm của chân không. Cái chân không đó là sự

trống vắng mà ta thường thấy trong thơ Haiku, trong tranh thủy mặc, trong sân khấu

22

Noh, trong vườn đá tảng…” [30,1061]. Cái khoảng không, trống vắng ấy, “thường

hiện ra một vẻ đẹp bất ngờ” chúng ta chỉ có thể cảm nhận, nhưng không dễ để giải

thích được. Bài viết, dù mới chỉ mang tính chất gợi dẫn, nhưng thực sự đã mở lối

cho chúng tôi trên hành trình lí giải, tìm ra những ý nghĩa tiềm tàng của hệ thống

biểu tượng văn hóa truyền thống trong sáng tác của nhà văn.

Tiếp đến là bài viết của Lưu Đức Trung, Thi pháp tiểu thuyết Yasunari

Kawabata, nhà văn lớn Nhật Bản (1999). Nhà nghiên cứu từ việc phân tích các tiểu

thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc và Cố đô, để nhấn mạnh một số điểm nổi bật trong

thế giới nghệ thuật Kawabata đó là: thi pháp chân không, kết cấu, cốt truyện. Tác

giả còn nhận định, tiểu thuyết Kawabata “thể hiện rõ nét những đặc trưng của thơ

Haiku, ở đó có sự hòa tan cái động và cái bất động vào nhau, biến thành sự trống

vắng trong suốt, trở thành như chân không. Đó cũng là biểu hiện của Thiền, thể hiện

sức mạnh nội tại và ý chí đến độ trở thành vô ngã trong sáng tác của nhà văn”

[31,45]. Bài viết này, đóng góp một phần quan trọng, nghiên cứu Kawabata trên

phương diện giá trị nghệ thuật.

Năm 2000, Nhật Chiêu tiếp tục khám phá, lí giải thi pháp Kawabata qua bài

viết: Kawabata và thẩm mĩ của chiếc gương soi. Với việc nghiên cứu đặc điểm thể

loại văn xuôi và tìm hiểu một trong những vấn đề trọng tâm trong sáng tác của nhà

văn, đó là chủ đề: cái đẹp. Tác giả đã làm nổi bật bút pháp chân không - nghệ thuật

thể hiện “thẩm mĩ quan của Kawabata từ ánh nhìn đầu tiên đến cuối cùng vẫn là soi

chiếu thế giới vào một tấm gương kì diệu và sự vật được phản chiếu sẽ đẹp hơn bản

thân sự vật” [32,89].

Cũng khai thác về phương diện nghệ thuật, năm 2004 trên tạp chí Nghiên cứu

văn học, Khương Việt Hà có bài Thủ pháp tương phản trong truyện Người đẹp say

ngủ của Kawabata Yasunary. Tác giả bài viết từ việc phân tích sự đối lập về không

gian - thời gian, hình thức - nội tâm, già - trẻ..., để khẳng định sự “tương phản được

Kawabata sử dụng như một thủ pháp cốt yếu, bàng bạc trong từng trang Người đẹp

say ngủ...” [33,105].

Năm 2005, trong bài viết “Từ Murasaki đến Kawabata”, tác giả Thụy Khuê đã

23

đưa ra nhiều nhận xét và đánh giá khá sâu sắc về các sáng tác của Kawabata. Tác

giả khảo sát tác phẩm Kawabata một cách hệ thống, đưa ra những nhận định rất xác

đáng: “Văn Kawabata thơ mộng, sánh đặc, cô đọng như Đường thi, với những

khoảng trống ngoài ngôn ngữ” [34,988]. Bên cạnh đó, còn cho rằng: “Nhật Bản

trong Kawabata phải là người phụ nữ”; “vũ trụ tưởng tượng của Kawabata khởi đi

từ hai yếu tố cơ bản: lửa và nước, để đồng quy ở người phụ nữ Nhật Bản, rồi từ

nàng, nhà văn dẫn chúng ta đến những chân trời khác nhau như trà đạo, nhạc đạo”;

“Gương là yếu tố thứ ba cho nhà văn tự soi mình và soi người phụ nữ” [34,998-

999]. Chúng tôi cho rằng, qua việc phân tích và đánh giá ở trên, Thụy Khuê đã gián

tiếp khẳng định thi pháp chân không trong thi pháp tiểu thuyết Kawabata.

Năm 2006, cùng xuất phát từ mục đích khám phá con đường sáng tạo nghệ

thuật độc đáo của Kawabata, Khương Việt Hà có bài viết Mĩ học Kawabata

Yasunari đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn học. Tác giả bài viết đã có phát hiện rất

đáng chú ý: “Kawabata cho rằng mục đích của người nghệ sĩ không phải ở chỗ tìm

cách làm cho mọi người kinh ngạc sửng sốt bằng cái li kì quái dị, mà ở chỗ biết

dùng chỉ vài phương tiện ít ỏi nhưng nói lên được nhiều nhất, biết dùng ngôn từ và

màu sắc để truyền đạt các cảm xúc và kinh nghiệm nhìn đời của mình...” [35,69].

Năm 2007, trong chuyên luận Văn hóa Nhật Bản và Kawabata Yasunari tác

giả Đào Thị Thu Hằng đã nhận định, vẻ đa cảm đầy nữ tính chính là cái chất mà

Kawabata đã thừa hưởng được từ trong văn chương truyền thống. “Aware đã ngấm

vào máu, vào xương tủy, thể hiện trong hơi văn, giọng điệu của một thi nhân bị

đóng đinh vào cây thánh giá văn xuôi” [36,17]. Đồng thời tác giả còn cho rằng: “Đi

trước Marquez, Y. Kawabata - nhà văn đoạt giải Nobel của Nhật Bản đã sử dụng

huyền ảo như một phương thức để chuyển tải thông tin lí giải ẩn ức đời thường. Tuy

nhiên, với Kawabata, huyền ảo chỉ là một trong rất nhiều cách thức nhằm chuyển tải

thông điệp. Và rõ ràng, ông là nhà văn của chủ nghĩa hiện đại” [36,225]. Đây có thể

coi là cuốn chuyên luận đầu tiên, khảo sát gần như toàn bộ tác phẩm Kawabata để

“tìm hiểu nghệ thuật kể chuyện” (người kể chuyện, nhân vật, không gian, thời

gian)… Qua đó, khẳng định vai trò của nó trong việc xem xét sự kiện, nhân vật

24

cũng như tái tạo câu chuyện, góp phần tạo nên nét độc đáo cho tác phẩm của

Kawabata: “Được đánh giá cao bởi thi pháp chân không và những nguyên lí thẩm

mĩ độc đáo do tiếp thu Thiền tông trong thơ Haiku, trong thư họa, trong văn chương

cổ điển, Kawabata cũng được nhà nghiên cứu so sánh với Hemingway… đặc biệt là

nghệ thuật kể chuyện độc đáo với thủ pháp tảng băng trôi” [36,214]. Những phát

hiện và kết luận khoa học trong chuyên luận này, đã cho chúng tôi cái nhìn hệ thống

trong quá trình lí giải các vấn đề về biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu

thuyết của nhà văn.

Cũng trong năm 2007, tác giả Vũ Thị Thanh Hoài có bài viết Đẹp và Buồn

trong quan niệm thẩm mỹ Kawabata Yasunari. Thông qua phân tích các tiểu thuyết

Xứ tuyết, Cố đô, Tiếng rền của núi, Đẹp và buồn, tác giả đã chỉ ra, đặc điểm của cái

đẹp chính là ở nỗi buồn. Vũ Thị Thanh Hoài đã đặt tác phẩm Kawabata trong mạch

nguồn văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo của đất nước Nhật Bản, đưa ra những nhận định

về ảnh hưởng thời đại, cuộc đời riêng, quan niệm thẩm mĩ chi phối sáng tác của nhà

văn chính là vấn đề cái Đẹp và cái Buồn. Trong văn học Nhật Bản, cái Đẹp luôn

luôn gắn với cái Buồn, hai phạm trù này chỉ hoàn thiện khi đặt song hành với nhau.

Có thể nói, “hầu hết toàn bộ sự nghiệp văn chương của ông dành trọn cho cái đẹp

buồn... tất cả đều tràn ngập một nỗi buồn mong manh, hư ảo, ám ảnh tâm thức

người đọc” [37,32].

Năm 2009, hội thảo Kawabata trong nhà trường đã diễn ra tại trường Đại học

Sư phạm Hà Nội, nhân kỉ niệm 110 năm ngày sinh của nhà văn. Các bài viết được

trình bày tại hội thảo, là những nghiên cứu về Kawabata từ nhiều góc độ, phương

diện khác nhau. Trong đó, chúng tôi quan tâm đến bài viết “Sự phân cực không gian

nghệ thuật trong sáng tác của Kawabata” của Nguyễn Thị Mai Liên. Bài viết khẳng

định vấn đề trọng tâm trong sáng tác của nhà văn là: “tâm hồn Nhật, truyền thống

yêu cái đẹp, giữ gìn cái đẹp, phát huy giá trị vĩnh hằng của cái đẹp trong đời sống

con người và trong nghệ thuật”, đồng thời phát hiện ra một cách thức thể hiện hiệu

quả chủ đề này là “Kawabata đã xây dựng trong sáng tác của mình không gian nghệ

thuật là tổng hòa của những đối cực, thể hiện chiều sâu suy tưởng của nhà văn về

25

một hành trình từ bỏ và kiếm tìm” [38,94]. Tác giả bài viết thông qua việc phân tích

sự đối cực của các kiểu không gian trong một số tiểu thuyết, để có phát hiện thú vị:

“đó chính là sự xung đột giữa việc tiếp thu những yếu tố hiện đại của văn minh Âu

Mỹ và việc bảo tồn giữ gìn những giá trị truyền thống... trong bối cảnh đó nhà văn

đã tiếp thu những yếu tố tích cực của đời sống hiện đại, chối bỏ những yếu tố đi

ngược lại với văn hóa truyền thống tốt đẹp” [38,100].

Nguyễn Tuấn Khanh trong cuốn Những cây bút kiệt xuất trong văn học Nhật

Bản, ở mục viết về Kawabata cũng đã bộc lộ sự đồng tình về đặc trưng văn chương

của người nghệ sĩ Kawabata là u buồn. Do đó, “Tác phẩm của Kawabata làm ta nhớ

tới hội họa Nhật Bản; ông là kẻ tôn thờ cái đẹp mong manh và hình ảnh u buồn của

hiện hữu trong cuộc sống thiên nhiên và thân phận con người” [39,268].

Năm 2011, Nguyễn Nam Trân trong cuốn Tổng quan lịch sử văn học Nhật

Bản, cũng chú trọng đến quan điểm thẩm mĩ của cái đẹp và nỗi buồn trong tác phẩm

của Kawabata, đó là “nỗi bi thương, bản chất cô độc và căn tính cô nhi, tình cảm

trống vắng và niềm đam mê cái đẹp thể hiện qua các sáng tác của nhà văn”. Thậm

chí tác giả còn nhấn mạnh, tuy có đau thương tận đáy hồn Kawabata vẫn khẳng

định, ông muốn dành những ngày tàn để chỉ nói về cái đẹp của Nhật Bản. [28,418].

Năm 2012, Nguyễn Đức Ninh đã tôn vinh tài năng độc đáo của Kawabata như

là người nghệ sĩ rất kì công nâng niu cái đẹp. Tác giả đã xem xét, phân tích quan

điểm thẩm mĩ, soi chiếu với hành trình sáng tạo của nhà văn để khẳng định: “Y.

Kawabata là vẻ đẹp tâm hồn Nhật Bản… là nhà văn kế thừa và phát huy cao độ việc

tôn thờ cái đẹp trong tính cách người Nhật Bản”. Có thể nói “suốt cuộc đời mình,

Kawabata đi tìm, kì công nâng niu cái đẹp với ước vọng cái đẹp hoàn hảo, lí tưởng

hiện tồn ở tình yêu, cuộc sống như mong ước của mỗi chúng ta và toàn nhân loại”

[40,43-47].

Năm 2017, Nguyễn Thị Huân có bài viết Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết

của Yasunary Kawabata, ít nhiều tổng hợp lại kết quả những nghiên cứu đi trước.

Bên cạnh đó, tác giả quan tâm đến vấn đề kết cấu trần thuật, trong đó đặc biệt chú

trọng đến hệ thống ngôn ngữ giàu tính biểu tượng trong bộ ba tiểu thuyết đoạt giải

26

Nobel văn chương, để khẳng định, đây chính là một bình diện khá quan trọng của

nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Kawabata. Bên cạnh “việc sử dụng linh hoạt,

khéo léo nghệ thuật kể chuyện ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài, bên trong cùng

giọng điệu tự hào, say mê, nuối tiếc, hoài niệm”, tác giả bài viết còn khai thác các

cấp độ ý nghĩa của hệ thống biểu tượng để khẳng định rằng: “Xứ tuyết, Ngàn cánh

hạc, Cố đô không chỉ mở ra thế giới cái đẹp ở xứ sở mặt trời mọc, làm nổi bật nghệ

thuật tự sự bậc thầy với lối kể chuyện lôi cuốn có nét tương đồng về khí chất với

các nhà văn phương Tây, mà còn làm nổi bật được thi pháp Kawabata, đó là thi

pháp chân không, thi pháp thơ haiku, gắn với thứ ngôn ngữ mẫu mực của phong

cách Nhật: ngắn gọn, súc tích, mang tính biểu tượng, ẩn dụ kì diệu” [41,79-81].

Năm 2017, tác giả Lê Thị Bích Thủy tiếp tục đào sâu thêm về chủ đề cái đẹp

trong bài viết Nghệ thuật biểu hiện cái đẹp trong Người đẹp say ngủ của Y.

Kawabata.. Qua khảo sát và phân tích tác phẩm, tác giả đã đưa ra nhận định: “cái

đẹp được cảm nhận như một nhân vật chính xuyên suốt đời, văn phẩm của Y.

Kawabata”, đồng thời nhấn mạnh tài năng độc đáo và thành công của Kawabata

trong việc thể hiện cái đẹp “bằng khả năng trần thuật, dòng hồi tưởng của nhân vật

cho phép bộc lộ vẻ đẹp vượt thoát khỏi rào cản không gian, thời gian. Vẻ đẹp hiện

tại đồng hiện với vẻ đẹp của quá khứ, không gian của ngôi nhà khép kín bên bờ biển

trở nên lung linh cùng vẻ đẹp của các cô gái ở những không gian khác rộng lớn

hơn” [42,90].

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra, cái đẹp là vấn đề cốt lõi

nhất trong quan niệm thẩm mĩ Kawabata. Vẻ đẹp độc đáo từ sự thuần khiết, chân

thành, mong manh, gợi u buồn sâu thẳm và đậm chất triết lí trở thành điểm nổi bật

trong phần lớn các sáng tác của nhà văn. Đồng thời, các nghiên cứu cũng cho rằng,

quan niệm thẩm mĩ Kawabata có sự chi phối của mĩ học Thiền và những ảnh hưởng

từ truyền thống văn hóa và văn học của dân tộc Nhật.

Từ góc nhìn Phân tâm học

Năm 2000, trong bài viết Kawabata - Cái đẹp truyền thống qua thấu kính hiện

đại, tác giả Đoàn Lê Giang cho rằng: “cái đẹp truyền thống” là điểm dễ nhận thấy

27

nhất trong sáng tác của Kawabata. Cái đẹp mà ông ngợi ca và thương tiếc chính là

vẻ đẹp tâm hồn Nhật Bản. Cùng với đó, tác giả còn khẳng định, “Kawabata chịu

ảnh hưởng của văn chương phương Tây, nhất là tiểu thuyết của James Joyce,

Marcel Proust, và phân tâm học của S. Freud. Đọc Kawabata, ta thấy có sự hòa trộn

kì diệu hai nền văn hóa Đông - Tây, một sự hòa trộn đã được khởi đi từ tinh thần

gọi là Hòa hồn Dương tài của kỉ nguyên Minh Trị trước đó, nhưng với ông thì

nhuần nhuyễn và đa dạng hơn nhiều” [43,34].

Năm 2004, Đào Thị Thu Hằng trong bài viết Yasunary Kawabata giữa dòng

chảy Đông - Tây, tiếp tục đào sâu thêm sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong

tác phẩm của Kawabata. Tác giả đã đưa ra những nhận định xác đáng về nét riêng

trong sáng tạo nghệ thuật và những “ảnh hưởng của phân tâm học” trong tác phẩm

của nhà văn: “Từ quan niệm này, kết hợp với phân tâm học Freud, các nhà văn đã

tái hiện đời sống nội tâm con người theo cách riêng của mình”; “Ông đã vượt qua,

hay ở một khía cạnh khác, ông chính là người xây cầu nối giữa hai bờ Đông - Tây”

[44,1107].

Hà Văn Lưỡng (2006) cũng bàn đến những ảnh hưởng của kĩ thuật phương

Tây hiện đại trong các tác phẩm của nhà văn Kawabata và đưa ra nhiều nhận định

đáng chú ý trong bài viết Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết

Người đẹp say ngủ của Y. Kawabata. Trong văn học Nhật Bản hiện đại, Kawabata

chính là tác giả tiêu biểu cho “xu hướng truyền thống”, hướng tới cội nguồn văn

hóa truyền thống. Tuy nhiên, Người đẹp say ngủ là tác phẩm điển hình, cho thấy

tinh thần hiện đại, tiếp thu và chịu ảnh hưởng kĩ thuật phương Tây, “hầu như tất cả

các nhà văn lớn của Nhật Bản ở thế kỉ XX đều là những người theo chủ nghĩa hiện

đại ở một chừng mực nào đó” [45,72]. Trong bài nghiên cứu này, tác giả Hà Văn

Lưỡng dù không trực tiếp khẳng định, nhưng đã chỉ ra những ảnh hưởng nhất định

của Phân tâm học đến quá trình sáng tạo của nhà văn Kawabata.

Hoàng Thị Mỹ Nhị (2017) trong bài viết Biểu tượng trong Ngàn cánh hạc của

Kawabata Yasunary dưới góc nhìn phân tâm học đã khẳng định một cách nhìn khác

trong nghệ thuật biểu hiện của Kawabata: “Với Ngàn cánh hạc, hệ thống hình tượng

28

này là những vật thể được hóa thành linh vật trong sự cảm nhận của người dùng, ẩn

chứa tâm linh của chiều sâu tư tưởng. Dưới góc nhìn phân tâm học, chúng tôi tập

trung vận dụng hai cơ sở lí thuyết cơ bản: vô thức tập thể theo quan điểm của Jung,

vấn đề cá nhân hóa để làm rõ các giá trị phản ánh của biểu tượng trong tác phẩm”

[46,74].

Có thể nói, đây là một hướng đi khá thú vị khi phân tích, lí giải các tiểu thuyết

tiêu biểu của Kawabata.

Từ góc nhìn Văn hóa học

Một trong những đặc trưng của văn học Nhật Bản, trở thành tín ngưỡng đáng

yêu theo từ dùng của Nhật Chiêu đó là tín ngưỡng tôn thờ cái Đẹp. “Tín ngưỡng”

này chính là trung tâm của văn hóa và nghệ thuật ở Nhật Bản. Nó cũng là mục tiêu

mà người nghệ sĩ Kawabata hướng đến. Vì thế, trong nhiều bài nghiên cứu, các tác

giả đều thống nhất ý kiến khi cho rằng quan điểm sáng tác của Kawabata tập trung

hướng tới vẻ đẹp tuyệt đích bao gồm những biểu hiện của nó và cách thức thể hiện

vẻ đẹp ấy trong tác phẩm.

Với mong muốn khám phá vẻ đẹp Nhật Bản, chúng tôi tìm thấy trong bài viết

Kawabata - Cái đẹp truyền thống qua lăng kính hiện đại của Đoàn Lê Giang những

phát hiện thú vị. Từ việc lí giải các tác phẩm tiêu biểu của Kawabata như Vũ nữ Izu,

Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, Cố đô, tác giả đã gợi mở nhiều nét văn

hóa tiêu biểu trong truyền thống dân tộc Nhật Bản cần được giải mã mà đề tài

chúng tôi hướng đến. Đó chính là vẻ đẹp Nhật Bản độc đáo với những cô geisha

xinh đẹp, tài năng trong Xứ tuyết, với nghệ thuật trà đạo trong Ngàn cánh hạc, với

Cố đô cổ kính gắn liền nghệ thuật trang trí, dệt kimono, đều là những nét văn hóa

truyền thống cổ xưa, là hồn cốt của dân tộc Nhật Bản. Nhưng tất cả vẻ đẹp đó đang

đứng trước nguy cơ phai tàn, hoen ố bởi những toan tính vị kỉ của con người và bởi

vì văn hóa phương Tây lan tràn khiến cho cái đẹp đang trôi dần vào “xưa cũ”, bởi

“cái đẹp mong manh, dễ mất”; “Kyoto đang có nguy cơ trở thành một khu công

nghiệp, một khách sạn khổng lồ với ô nhiễm của khói bụi và sự lạnh lùng của sắt

thép, bê tông”. Bởi vậy, “cuộc hành hương đi tìm cái đẹp và lời cảnh báo về nguy

29

cơ diệt vong của nó chính là đóng góp lớn nhất của Kawabata” [43,17].

Năm 2000, tác giả Nhật Chiêu qua bài viết Thế giới Kawabata Yasunari (hay

là cái đẹp: hình và bóng), nhận định rằng: “Kawabata đã tạo nên thế giới nghệ thuật

bằng cái đẹp. Cái đẹp là sự kết hợp độc đáo giữa ngọn đèn huyền thoại từ ngàn xưa

truyền lưu bằng ánh lửa mới. Nói cách khác, sự kết hợp giữa yếu tố văn hóa truyền

thống và hiện đại đã tạo nên thành công trong biểu hiện vẻ đẹp Nhật Bản qua các

tác phẩm của Kawabata” [47,86].

Năm 2004, Đào Thị Thu Hằng trong bài viết Kawabata giữa dòng chảy Đông

- Tây, khẳng định: “chủ nghĩa hiện đại và văn học nước ngoài đã có ảnh hưởng

không nhỏ đến văn phong Kawabata. Có thể nhận thấy một số biểu hiện tiêu biểu

như hệ thống nhân vật, chi tiết liên truyện; độc thoại nội tâm, dòng ý thức; xây dựng

cả những hiện thực và giấc mơ huyền ảo cũng như những hình ảnh mang tính biểu

tượng”. Hình ảnh tiêu biểu được tác giả phân tích khá sâu sắc trong bài viết chính là

tấm gương: “đạt tới đỉnh điểm của nghệ thuật khắc họa hình ảnh biểu tượng,

Kawabata đã khiến tấm gương trở nên có linh hồn, có số phận như một con người”

[44,1091].

Tác giả Nguyễn Thị Mai Liên (2005) trong bài viết: Yasunari Kawabata - Lữ

khách muôn đời đi tìm cái đẹp, một lần nữa nhấn mạnh đến vấn đề trọng tâm trong

tiểu thuyết Kawabata, là vẻ đẹp Nhật Bản được biểu hiện đậm nét qua thiên nhiên

tinh khiết, phong tục tập quán và tâm hồn con người. “Ở mỗi phương diện, người

viết đều làm nổi bật bút pháp của “người lữ khách” Kawabata trong hành trình tìm

kiếm, lưu giữ và bảo tồn cái đẹp “khiêm nhường, thanh tao, trong sáng, thanh xuân,

hài hòa, u buồn và hư ảo” [48,85].

Năm 2005, Trần Tố Loan có bài viết bàn về Biểu tượng trong tiểu thuyết Ngàn

cánh hạc của Kawabata Yasunary. Người viết khai thác biểu tượng dưới góc độ: “là

nhân vật đặc biệt, được hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau, gọi chung là các

dạng thức biểu hiện ý nghĩa của tác phẩm văn học”; “Y.Kawabata đã sử dụng hình

ảnh chiếc khăn màu hồng thêu ngàn cánh hạc và chiếc chén uống trà Shinô có vết

son môi như những biểu tượng độc đáo để chở tải câu chuyện về trà đạo và tình

30

yêu” [Dẫn theo 49]. Như vậy, Trần Tố Loan tiếp cận biểu tượng như là một phương

diện nghệ thuật, một cách thức để thể hiện vẻ đẹp của tác phẩm Kawabata. Bài viết

này, đã tạo cảm hứng cho chúng tôi tiếp tục trên hành trình khám phá biểu tượng

văn hóa trong tiểu thuyết của Kawabata.

Năm 2006, Trần Thị Tố Loan có bài viết Cái đẹp truyền thống Nhật Bản trong

sáng tác của Y. Kawabata, tiếp tục hướng tới Cái đẹp - vấn đề trọng tâm trong tác

phẩm Kawabata. Trên cơ sở khai thác quan niệm thẩm mĩ riêng của người Nhật, tác

giả đã khẳng định: “Y. Kawabata đã lặng lẽ tạo dựng niềm tin cho dân tộc bằng

những tác phẩm phản chiếu lung linh vẻ đẹp Nhật: con người, thiên nhiên, lối sống,

tâm hồn, nhân cách... Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản, Y. Kawabata nguyện suốt đời làm

người lữ khách cứu rỗi cái Đẹp đang bị phai tàn, hoen ố”; “Kawabata là một trong

những hiện tượng văn học lớn nhất của thế kỉ XX, ông đã thấm nhuần truyền thống

mĩ học Nhật Bản và thể hiện một cách sáng tạo trong sáng tác của mình” [50,71].

Bài viết này đã thể hiện khả năng bao quát của tác giả trong việc lí giải và soi

chiếu từ trong truyền thống văn hóa Nhật Bản, đến việc tiếp thu, kế thừa tạo nên

nét riêng độc đáo ở tác phẩm Kawabata. Đây là tư liệu cần thiết cho chúng tôi

trong quá trình giải mã các biểu tượng văn hóa truyền thống tiêu biểu trong các

tiểu thuyết của Kawabata.

Cũng dưới góc nhìn văn hóa, trong bài viết Từ Murasaki đến Kawabata, tác

giả Thụy Khuê (2005) đã nhấn mạnh đến hệ thống biểu tượng trong các tiểu thuyết

của Kawabata, trong đó chú trọng đến Ngàn cánh hạc. Từ việc chỉ ra những biểu

tượng trong tác phẩm, người viết đi sâu khám phá, lí giải để phát hiện những giá trị

ẩn tàng trong cội nguồn văn hóa truyền thống Nhật Bản, đó là chiếc bình sứ Shino,

cái chén Shino. Qua đó cho thấy, tình yêu đối với những giá trị truyền thống của

dân tộc Nhật Bản chính là vẻ đẹp trong tác phẩm của Kawabata. [34,1007].

Năm 2006, Khương Việt Hà trong bài viết Mĩ học Kawabata Yasunary, đã

khẳng định, một phương thức độc đáo và hiệu quả trong việc biểu hiện cái đẹp trong

tác phẩm của Kawabata chính là tạo dựng một hệ thống biểu tượng. Từ việc phát

hiện và chú trọng đến biểu tượng gương soi, một trong những biểu tượng xuất hiện

31

xuyên suốt trong sáng tác của nhà văn, tác giả bài viết đã nhận định: “chiếc gương

với tất cả những biểu tượng khác cùng hệ thống với nó: tấm kính cửa sổ toa tàu,

tuyết trắng, ánh lửa đỏ, vầng trăng và đáy nước, vừng hồng ở chân mây, mặt trời

trên dòng suối lung linh, dải ngân hà đẹp một cách ma quái”; “Trong thi pháp

Kawabata Yasunary, tấm gương đã trở thành biểu tượng hữu hiệu ánh xạ cái đẹp

của thực tại” [35, 69]. Tuy nhiên, bài viết mới dừng lại ở việc phát hiện các biểu

tượng, chưa tập trung lí giải và khám phá các tầng ý nghĩa để thấy được vai trò của

biểu tượng trong việc biểu đạt chủ đề tác phẩm, cũng như chưa được làm rõ được

tính kế thừa và sáng tạo của Kawabata trong sáng tạo nghệ thuật. Theo chúng tôi,

đây vừa là gợi ý, cũng vừa là khoảng trống cần được tiếp tục lấp đầy trong quá trình

triển khai đề tài của luận án.

Trong chuyên luận Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata, tác giả Đào Thị

Thu Hằng (2007) có nhận xét về biểu tượng trong tác phẩm Cố đô của Kawabata:

“Qua Cố đô, người đọc có dịp được tìm hiểu kĩ hơn về nước Nhật, một nước Nhật

đẹp lặng lẽ với Hoa anh đào, tuyết trắng, một nước Nhật rộn ràng với các lễ hội

truyền thống quanh năm”; “Tác phẩm này gây ấn tượng với độc giả bởi cảm giác về

những truyền thống xưa cũ và vẻ đẹp của Kyoto còn có thể coi là cẩm nang cho

những ai muốn tìm hiểu về Nhật Bản và có thể chính yếu tố này đã thuyết phục hội

đồng Nobel Viện Hàn lâm Thụy Điển” [36,49]. Tác giả chuyên luận còn khẳng

định, tất cả vẻ đẹp của văn hóa Nhật Bản đều được cất giữ và bảo lưu trong Cố đô,

một cuốn cẩm nang quý giá, mà ai ai cũng có thể tìm đọc và tận hưởng nó một cách

say mê đầy bí ẩn.

Năm 2010, Trần Tố Loan tiếp tục bàn về vấn đề biểu tượng qua bài viết: Biểu

tượng trong tiểu thuyết của Kawabata Yasunari. Đáng chú ý là, tác giả đã đưa ra

nhận định: “Hầu hết những kiệt tác của Kawabata từ các tiểu thuyết Ngàn cánh hạc,

Người đẹp say ngủ, Cố đô, Tiếng rền của núi… đến Truyện trong lòng bàn tay, đều

sử dụng biểu tượng như một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc gắn với văn hóa, thẩm mĩ

của người Nhật Bản và quan niệm của Kawabata về cuộc sống. Tuy cùng sử dụng

biểu tượng để biểu đạt các thông điệp, song điều đáng quý và đáng trân trọng là tác

32

giả của những kiệt tác trên đã không lặp lại chính mình” [51,125]. Ở bài nghiên cứu

này, tác giả đã cung cấp cho người đọc những cơ sở thực tiễn và lí luận đáng tin

cậy về vấn đề biểu tượng, góp phần quan trọng phát hiện và giải mã những ý nghĩa

ẩn tàng trong tác phẩm Kawabata. Vì vậy, bài viết đã cung cấp một phần những

thông tin, cứ liệu, dẫn chứng mà chúng tôi sẽ tiếp thu trong quá trình nghiên cứu

đề tài của luận án.

Cũng trong năm 2010, một lần nữa, Trần Tố Loan khẳng định vấn đề văn hóa

truyền thống trong sáng tác của Kawabata qua bài viết Kawabata trong tiến trình

hiện đại hóa văn học Nhật Bản: “Sáng tác của ông không chỉ giữ được bản sắc Nhật

Bản mà còn có sự hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Đó chính là tình yêu cái

Đẹp, đó là những suy tưởng mang màu sắc Thiền, những thế giới được cảm nhận

bằng trực giác” [Dẫn theo 52].

Năm 2016, tác giả Hữu Ngọc, bên cạnh việc phân tích vẻ đẹp của những giá

trị truyền thống Nhật Bản được tái hiện trong các tác phẩm của Kawabata, còn đề

cập đến ngôn ngữ biểu tượng với một chuỗi tín hiệu qua nhận định: “Xứ tuyết là

một bản nhạc giao hưởng với những chủ đề, biến tấu của nó, cấu trúc và văn phong

Á Đông, rất Nhật Bản” [29,238]. Vì vậy, tác phẩm của nhà văn, thiên về gợi cảm

hơn là tả cảnh, tả nội tâm là chính, miêu tả bên ngoài có khi rất tỉ mỉ nhưng là ngôn

ngữ biểu tượng, ý tại ngôn ngoại. Đây là một cách mà nhà văn hóa Hữu Ngọc nhấn

mạnh hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ biểu tượng trong biểu đạt ý nghĩa tư

tưởng trong tác phẩm văn học.

Ở một phương diện khác, Hoàng Thị Mỹ Nhị trong hai bài viết Cảm thức

Thiền của Kawabata Yasunary nhìn từ quan niệm về thế giới và con người trong

Ngàn cánh hạc và Cảm thức thiên nhiên trong Ngàn cánh hạc của Kawabata

Yasunary từ góc nhìn truyền thống, đã chỉ ra quan niệm, cách nhìn độc đáo, riêng

biệt về thiên nhiên và con người trong tác phẩm của Kawabata. Trên cơ sở phát hiện

những ảnh hưởng của cảm thức Thiền trong các sáng tác của nhà văn, tác giả đưa ra

nhận định: “Ngàn cánh hạc là đại diện tiêu biểu nhất và thành công nhất của nhà

văn khi người nghệ sĩ giới thiệu phong vị Nhật Bản với độc giả thế giới” [53,73].

33

Về cơ bản, trong các bài viết này, Hoàng Thị Mỹ Nhị chú trọng khẳng định tính

truyền thống, hơi thở của dân tộc Nhật Bản với vẻ đẹp tâm linh qua chất Thiền và

cảm thức vũ trụ; đồng thời cũng cho rằng, sự sáng tạo độc đáo này đã đem đến thành

công cho Ngàn cánh hạc và các tiểu thuyết khác trong sự nghiệp văn chương của

Kawabata [54].

Năm 2018, cuốn Nhà văn Nhật Bản thế kỉ XX của Đào Thị Thu Hằng được

xem là công trình công phu, nghiên cứu các tác giả có đóng góp quan trọng cho nền

văn học hiện đại Nhật Bản. Trong mục về Kawabata, tác giả điểm lại tiểu sử, đánh

giá các yếu tố chi phối đến quan điểm, phong cách Kawabata. Đáng chú ý là, tác giả

đã dành nhiều trang viết để chứng minh cho những nội dung tiêu biểu: Kawabata

giữa dòng chảy Đông - Tây; Tôn vinh tính nữ hay nữ quyền từ văn chương nữ lưu

thời Heian đến Kawabata. Đặc biệt là, tác giả đã phát hiện các yếu tố sân khấu Noh

“rõ ràng và đầy thuyết phục” trong tiểu thuyết Người đẹp say ngủ. Công trình

nghiên cứu cho thấy, kế thừa văn hóa truyền thống chính là nét nổi bật làm nên

thành công cho các sáng tác của nhà văn Kawabata. [55,106].

Bên cạnh những hướng nghiên cứu trên, khi tìm hiểu các công trình về

Kawabata, chúng tôi còn chú ý đến một số luận án, luận văn.

Về luận văn thạc sĩ, chúng tôi quan tâm đến công trình nghiên cứu của Phạm

Thị Khánh Liêm (2009) với đề tài: Biểu tượng trong bộ ba tác phẩm Xứ tuyết, Ngàn

cánh hạc, Cố đô của Yasunari Kawabata. Tác giả luận văn tập trung khai thác và

chỉ ra một số vấn đề, đặc biệt là, giá trị làm nên thế giới biểu tượng trong các tiểu

thuyết nổi tiếng của nhà văn. Ấn tượng nhất với chúng tôi chính là, những phân

tích, lí giải về tiểu thuyết Cố đô: “Đây còn là nơi của nghệ thuật dệt vải kimono

truyền thống, với những khắc khoải mà Kawabata dành riêng cho những nét văn

hóa ẩn chứa trong từng thớ vải kimono. Là nơi của những con người trót yêu từng

thớ vải đau đáu cho nghề cổ truyền dân tộc” [56,81]. Tác giả luận văn đã đã khẳng

định sự linh thiêng từ hàng nghìn năm trước của Cố đô với nghề dệt kimono truyền

thống của người Nhật. Ẩn chứa đằng sau những thớ vải tinh khôi ấy là những giá trị

tinh túy được chắt lọc qua bao đời, được lưu truyền cho thế hệ hôm nay. Công trình

34

này, là nguồn cảm hứng giúp chúng tôi có thêm động lực để đi sâu nghiên cứu,

khám phá thế giới biểu tượng trong tiểu thuyết của Kawabata.

Về luận án tiến sĩ, số lượng công trình nghiên cứu ở Việt Nam chưa nhiều, đến

thời điểm hiện tại chúng tôi mới khảo sát được hai đề tài đã bảo vệ thành công. Đó

là đề tài: Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm của Yasunary Kawabata của tác giả

Đào Thị Thu Hằng (2006), được coi là luận án tiến sĩ về văn học Nhật Bản đầu tiên

ở Việt Nam lựa chọn các tác phẩm của Kawabata làm đối tượng nghiên cứu [57].

Tiếp đến, năm 2018 có đề tài: Mĩ cảm aware trong văn học Nhật Bản qua tiểu

thuyết Truyện Genji của Murasaki Shikibu và Ngàn cánh hạc của Kawabata

Yasunary của tác giả Hoàng Thị Mỹ Nhị [58]. Đây cũng là những tài liệu đáng quý,

gợi mở cho chúng tôi cách thức tiếp cận tác phẩm của Kawabata.

Qua khảo sát các công trình nghiên cứu của các tác giả ở trong nước, chúng tôi

nhận thấy, quan niệm thẩm mĩ của Kawabata thể hiện tập trung ở vẻ đẹp cốt lõi

Nhật Bản. Những nhân tố chính như Thiền, văn hóa truyền thống và hiện đại có sự

chi phối lớn tới quan niệm thẩm mĩ của nhà văn. Mỗi nhà nghiên cứu đứng từ các

góc độ khác nhau, chúng tôi cố gắng hệ thống lại các luận điểm, mong muốn có

được một cái nhìn khái quát, tương đối toàn diện về ý nghĩa của các biểu tượng văn

hóa truyền thống trong quá trình giải mã tiểu thuyết Kawabata.

Nhìn tổng thể, mảng sáng tác được khảo sát phổ biến nhất trong các công trình

nghiên cứu vẫn là ba văn phẩm: Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô, và chú trọng đến

các đặc trưng: thi pháp, ngôn ngữ, phong cách… trong đó một số công trình nghiên

cứu quan tâm đến tính truyền thống Nhật Bản nhưng chưa khai thác hoặc khai thác

chưa sâu vấn đề biểu tượng. Dù vậy, đây vẫn là mảng tư liệu quan trọng, gợi mở

nhiều điều trong quá trình, khám phá tiểu thuyết của Kawabata.

Vấn đề biểu tượng, đã nhận được sự quan tâm của các tác giả, nhưng đa phần

là những gợi dẫn và phân tích thử nghiệm bước đầu. Trong một số bài viết, các tác

giả đã xem xét biểu tượng như là một phương diện truyền tải giá trị văn hóa truyền

thống của dân tộc Nhật Bản. Thực tế chưa có nghiên cứu nào, giới thiệu độc lập,

trực tiếp lựa chọn biểu tượng văn hóa truyền thống là đối tượng chính để nghiên

35

cứu có hệ thống trong toàn bộ tiểu thuyết của Kawabata. Đây chính là khoảng trống

mà chúng tôi mong muốn được lấp đầy trong đề tài nghiên cứu của mình.

Tiểu kết

Qua khảo sát những tư liệu hiện có, chúng tôi nhận thấy tác phẩm của

Kawabata được độc giả đặc biệt yêu thích và nhận được sự quan tâm, khảo cứu của

các nhà nghiên cứu cả trên thế giới, ở Nhật Bản và Việt Nam. Thực tế đã có nhiều

cách hiểu và kiến giải về khái niệm biểu tượng và văn hóa truyền thống Nhật Bản,

cũng như chỉ ra một số biểu hiện trong các tác phẩm Kawabata. Tuy nhiên, chưa có

một công trình khoa học nào mang tên “Biểu tượng văn hóa truyền thống Nhật Bản

trong tiểu thuyết Y. Kawabata” và lựa chọn biểu tượng văn hóa truyền thống Nhật

Bản làm đối tượng nghiên cứu chính, khảo sát một cách hệ thống, toàn diện trong

toàn bộ tiểu thuyết của Kawabata. Chúng tôi xác định, việc giải mã hệ thống biểu

tượng sẽ góp phần lí giải thấu đáo những tầng ý nghĩa sâu xa, ẩn tàng trong tác

phẩm Kawabata và nhận thức sâu sắc hơn về văn hóa dân tộc Nhật Bản. Bởi lẽ, biểu

tượng chính là “mã văn hóa” ẩn chứa nhiều ý nghĩa, đa màu sắc tạo nên những giá

trị đặc biệt, độc đáo cho một tác phẩm nghệ thuật

Từ các công trình đã khảo sát, chúng tôi nhận thấy, một số vấn đề có liên quan

đến những luận điểm được bàn đến trong luận án. Chúng tôi sẽ tiếp thu để mở rộng

và đào sâu thêm. Trên sơ sở kết hợp thành tựu nghiên cứu của những người đi trước

với việc vận dụng lí thuyết biểu tượng, biểu tượng văn hóa vào khám phá sáng tác

của nhà văn, chúng tôi nỗ lực triển khai đề tài theo hướng hiệu quả nhất.

36

Chƣơng 2

BIỂU TƢỢNG VÀ BIỂU TƢỢNG VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

TRONG TIỂU THUYẾT Y. KAWABATA

“Tất cả các khoa học về con người cũng như các ngành nghệ thuật và tất

cả các ngành kĩ thuật đều bắt nguồn từ các khoa học ấy, trên con đường phát

triển của mình đều thấy các biểu tượng… Nói là chúng ta sống trong một thế

giới biểu tượng thì vẫn còn chưa đủ, mà phải nói một thế giới biểu tượng sống

trong chúng ta” [59, xiv].

2.1. Biểu tƣợng

Biểu tượng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu lí luận nhắc đến, trở thành

hướng nghiên cứu phổ biến và đã đạt được nhiều thành tựu nhất định trong việc thể

hiện mối quan hệ giữa: ngôn ngữ - văn hóa - văn học. Biểu tượng có trong nghệ thuật,

trong tôn giáo, tín ngưỡng, và trong mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội nói chung.

2.1.1. Khái niệm biểu tượng

“Biểu tượng bắt nguồn từ danh từ giống đực trong tiếng Pháp thời Trung Cổ,

xuất hiện vào khoảng năm 1380 trong thần học, biểu thị một công thức được sử

dụng trong Giáo hội Công giáo La Mã với tư cách một loại từ đồng nghĩa với cương

lĩnh; mở rộng ra vào đầu thời kì Phục hưng, nó có nghĩa là một châm ngôn hoặc dấu

hiệu bên ngoài của một phép bí tích; những ý nghĩa này về sau đã bị mất đi trong

bối cảnh thế tục. Chính là trong thời kì Phục hưng vào giữa thế kỉ XVI, từ này mang

ý nghĩa giống như ngày nay, đó là một thực tế hoặc đối tượng tự nhiên gợi lên bằng

hình thức hoặc bản chất của nó, một sự liên kết ý tưởng với một cái gì đó trừu

tượng hoặc vắng mặt” [60,2082]. “Từ tiếng Pháp này bắt nguồn từ tiếng Latinh,

trong đó cả danh từ giống đực “biểu tượng” (symbolus) và danh từ giống trung

“biểu tượng” (symbolum) đều đề cập đến "một kí hiệu hoặc dấu hiệu như một

phương tiện nhận biết” [61,688]. “Từ tiếng Latinh bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp

σύμβολον - symbolon, từ một động từ có nghĩa nén lại với nhau, đặt cạnh nhau, so

sánh, ám chỉ đến một nghi thức thông lệ Cổ điển là bẻ đôi một mảnh gốm/sứ và đưa

37

một nửa cho người sẽ nhận được thông điệp trong tương lai, và một nửa cho người

sẽ gửi nó đi: khi cả hai khớp hoàn toàn với nhau, người nhận có thể chắc chắn rằng

sứ giả mang nó thực sự cũng mang một thông điệp chân thực từ người được định

trước” [60,2082]. “Một biểu tượng văn học hoặc nghệ thuật với tư cách một dấu

hiệu bên ngoài của một cái gì đó khác là một phần mở rộng ẩn dụ của khái niệm

này, tương tự như một thông điệp từ người gửi đến người nhận. Trong tiếng Anh, từ

này nghĩa là cái gì đó thay thế cho một cái khác được ghi lại lần đầu tiên vào năm

1590, trong Faerie Queene (Nữ hoàng thần tiên) của Edmund Spenser” [61,688].

Trong tiếng Hán, “biểu” có nghĩa là dấu hiệu, sự bày ra, tỏ rõ; “tượng” có nghĩa là

tình trạng, hình tượng. Biểu tượng là một hình tượng được bày ra, phô ra qua một

dấu hiệu tượng trưng nhằm diễn đạt hay thể hiện một ý nghĩa nào đó.

Về khái niệm biểu tượng, cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã tập

hợp tương đối đầy đủ, ở đây chúng tôi chỉ thống kê một số khái niệm tiêu biểu để

khảo cứu và vận dụng.

Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, biểu tượng chia ra và kết lại với

nhau, nó chứa hai ý tưởng phân li và tái hợp, nó gợi lên ý một cộng đồng, đã bị chia

tách và có thể tái hình thành, “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một

nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho chính bản

thân nó. Bản chất khó xác lập và sôi động của biểu tượng là sự chia ra và kết lại với

nhau, nó hàm chứa hai sáng tạo độc đáo phân li và tái hợp” [59,25].

Dưới góc nhìn tâm lí học, S. Freud cho rằng biểu tượng có khả năng “diễn

đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các

xung đột. Biểu tượng là mối liên kết thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi,

một tư tưởng, một lời nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng” [59,xxiv]. Khi ta nhận ra,

chẳng hạn trong một hành vi ít nhất có hai phần ý nghĩa mà phần này thế chỗ cho

phần kia bằng cách vừa che lấp vừa bộc lộ phần kia ra, ta có thể gọi mối quan hệ

giữa chúng có tính biểu tượng.

Dưới góc nhìn Phân tâm học, C.G. Jung cho rằng, “Biểu tượng không có gì bó

chặt hết, nó không cắt nghĩa, nó đưa ra bên ngoài chính nó đến một ý nghĩa còn

38

nằm ở tận phía ngoài kia” [59, xxiv]. Như vậy, theo Jung, biểu tượng khó có thể

nắm bắt, bởi nó được dự cảm một cách mơ hồ, và dường như khó tìm được từ nào

trong ngôn ngữ của chúng ta có thể diễn đạt thỏa đáng. Ông cũng nói rõ hơn về ý

nghĩa biểu tượng: “Chúng ta gọi là biểu tượng, một danh từ, một tên gọi hay một

hình ảnh tuy đã quen thuộc với ta hằng ngày nhưng còn gợi lên những ý nghĩa khác

thêm vào ý nghĩa ước định, hiển nhiên của chúng. Biểu tượng gợi lên cái gì mờ mịt,

xa lạ, ẩn tàng đối với ta” [62,107].

Dưới góc độ ngôn ngữ, văn học, M. H. Abrams trong A Glossary of Literary

Term (Thuật ngữ chuyên ngành văn học) quan niệm: “Theo nghĩa phổ quát nhất,

biểu tượng là bất cứ thứ gì biểu thị điều gì đó; theo nghĩa này tất cả các từ đều là

biểu tượng. Tuy nhiên, trong văn học, thuật ngữ biểu tượng chỉ được áp dụng cho

một từ hoặc cụm từ biểu thị một đối tượng hoặc sự kiện mà đến lượt nó, nó biểu

trưng một cái gì đó, hoặc có một giới hạn tham chiếu bên ngoài nó” [63,311]. Theo

tác giả Abrams, ngoài nghĩa chung nhất của biểu tượng, trong văn học, thuật ngữ

này được chú ý khai thác ở góc độ ngôn ngữ và giới hạn tham chiếu về nghĩa.

Năm 2006, Edward Quinn trong cuốn A Dictionary of Literary and Thematic

Terms (Từ điển thuật ngữ theo chủ đề và văn học) cho rằng, biểu tượng là “một thuật

ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, đề cập đến quá trình một người, một

địa điểm, một đối tượng hoặc sự kiện trở thành đại diện cho một ý tưởng hoặc điều

kiện trừu tượng nào đó. Thông thường, khi được sử dụng trong nghiên cứu văn học,

biểu tượng gợi ý một mối liên hệ giữa nghĩa thực và tầng nghĩa thuộc về đạo đức

hoặc tinh thần” [64,408]. Như vậy, biểu tượng khác với ẨN DỤ ở chỗ, mối liên hệ

giữa chủ thể và đối tượng tham chiếu của nó không bao giờ rõ ràng, nó để lại cho

người đọc khám phá. Ví dụ, biểu tượng Cá voi trắng trong tác phẩm Moby-Dick của

Herman Melville (1851), có lẽ là biểu tượng nổi tiếng nhất trong văn học Mỹ, người

đọc không bao giờ được cho biết cụ thể con cá voi tượng trưng cho điều gì. Thay vào

đó, hình vẽ dường như tỏa ra một loạt các ý nghĩa thay đổi, mong manh, một số ý

nghĩa cụ thể, một số khác vô hạn trong phần mở rộng của chúng, các khía cạnh của

sự tồn tại mà nếu không thì không thể diễn tả được. Đáng chú ý ở công trình này là,

39

ngoài việc chỉ ra tính phổ quát của biểu tượng, tác giả Edward Quinn đã phân biệt

khái niệm biểu tượng và ẩn dụ tương đối cụ thể. Đây cũng là gợi ý cho chúng tôi

trong quá trình giải mã biểu tượng trong tiểu thuyết của Kawabata.

Đến năm 2015, tác giả Andrew Sneddon trong bài viết Symbolic Value (Giá trị

của biểu tượng) khẳng định: “biểu tượng phải là đại diện cho một cái gì đó đối với

người tiếp nhận và phải có một số cơ sở cụ thể cho việc giải thích biểu tượng. Quy

ước, quy định, sự tương đồng và mối liên hệ nhân quả đều phục vụ cho chức năng

thứ hai này (tương ứng, và không nhất thiết phải hoàn toàn)” [65,2]. Như vậy, đối

với các mục đích thực tế, biểu tượng đồng nghĩa với dấu hiệu hoặc đại diện, cho

phép có cơ sở để tập trung vào các biểu hiện cụ thể của biểu tượng. Mặc dù đa

nghĩa là một tính năng ngẫu nhiên thay vì cần thiết của các biểu tượng, nhưng

chúng rất phổ biến. Đặc biệt, điều quan trọng là phải chú ý đến tính đa nghĩa khi xử

lí giá trị biểu tượng, cả chung và riêng.

Ở Việt Nam, biểu tượng cũng nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.

Từ điển tiếng Việt cho rằng biểu tượng là “hình ảnh tượng trưng”; “hình thức

của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau

khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt”; là “kí hiệu” bằng hình đồ hoạ

trên màn hình máy tính. [66,67]. Có thể thấy, biểu tượng luôn được thừa nhận ở tính

đa nghĩa, sử dụng ở những bối cảnh khác nhau sẽ biểu đạt những ý nghĩa khác nhau.

Từ điển thuật ngữ văn học lại đưa ra quan niệm: “trong nghĩa rộng, biểu tượng

là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo

nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại

hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản

chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan điểm, một tư tưởng hay

một triết lí sâu xa về con người và cuộc đời” [67,24]. Theo quan điểm này, loại biểu

tượng là hình tượng nghệ thuật có nét tương đồng với hoán dụ và ẩn dụ.

Tác giả Đinh Hồng Hải đã căn cứ vào kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa

học nổi tiếng, cũng như tập hợp những định nghĩa về biểu tượng từ nhiều tài liệu

đáng tin cậy trên thế giới, để tóm lược: “Biểu tượng có tính đa nghĩa nhưng chúng

40

ta có thể chia làm hai nghĩa chính là biểu hình và biểu ý” [68,27].

Tác giả Trần Lâm Biền và Trịnh Sinh trong cuốn Thế giới biểu tượng trong

di sản văn hóa cũng nhận định: “Biểu tượng là một trong những loại hình văn

hóa bao trùm mang tính Người cao nhất, nó được sinh ra trong thực tế cuộc sống,

và mỗi dân tộc hoặc có thể là một vùng dân cư, sẽ hình thành cho mình một số

biểu tượng riêng, đó là đỉnh vàng son của bản sắc. Biểu tượng không của riêng

ai” [69,5].

Tác giả Phạm Đức Dương trong Từ văn hóa đến văn hóa học khẳng định:

“Biểu tượng là vật thay thế, làm cầu nối giữa thế giới ý niệm và thế giới hiện tại

bằng cách đưa cái vô hình, vô hạn, khả tri vào cái hữu hình, hữa hạn, khả tri làm

cho con người có thể cảm nhận được cái thế giới ý niệm”. Đáng chú ý, tác giả còn

đưa ra nhận định: “một biểu tượng bao gồm: cái thực (thực tại), cái tưởng tượng (ý

niệm), cái tượng trưng (biểu tượng)” [70,102].

Như vậy, các khái niệm biểu tượng được tập hợp ở trên đều có một số điểm

tương đồng, giao thoa:

 Các nhà nghiên cứu đều đi từ biểu tượng chung (mang tính biểu trưng)

đến sự khu biệt khái niệm biểu tượng trong văn học (cấp độ ngôn ngữ và

hình tượng).

 Về mặt hình thức, biểu tượng không khó để nhận diện (có thể là từ ngữ, hình

ảnh, người, vật, hành động, tình huống…) nhưng không dễ xác định được

các tầng nghĩa cụ thể, bởi tính chất mơ hồ về ý nghĩa của nó.

 Bản chất của biểu tượng là khó xác định và sống động nên biểu tượng bao

giờ cũng có hệ tham chiếu cho nhiều nét nghĩa mới.

Từ những quan điểm trên, có thể hiểu, biểu tượng là một hình ảnh, một kí tự,

một vật, hoặc là một hành động… đại diện cho một tư tưởng hoặc xác lập một

quan hệ nào đấy được số đông biết đến, được cộng đồng thừa nhận và có khả

năng mở ra những tầng ý nghĩa mới. Biểu tượng có tính hàm súc, liên tưởng, ước

lệ và khái quát cao, vì vậy có sức biểu đạt, truyền tải những giá trị, tư tưởng

nhanh chóng dễ dàng.

41

2.1.2. Phân biệt biểu tượng với một số khái niệm khác

Chúng tôi lựa chọn hai cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới và Từ kí hiệu

đến biểu tượng làm căn cứ để phân biệt, nhằm mục đích làm rõ đặc trưng, bản chất

khó xác định và sống động của biểu tượng để lí giải biểu tượng ở các chương tiếp

theo được chính xác và khoa học.

Một là biểu tượng và kí hiệu. Con người thể hiện suy nghĩ, tình cảm của mình

nhờ kí hiệu, nhưng văn hóa được thể hiện không đơn giản trong các kí hiệu mà là

trong các biểu tượng. “Biểu tượng là kí hiệu, nhưng là loại kí hiệu hoàn toàn đặc

biệt. Nếu kí hiệu đơn giản và có thể ví như cánh cửa đi vào thế giới các vật thể của

ý nghĩa (hình ảnh và khái niệm), thì biểu tượng là cánh cửa dẫn vào thế giới phi vật

thể của các ý niệm” [2,457]. Như vậy, kí hiệu dẫn đến thế giới trực quan, còn biểu

tượng là một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, dẫn chúng ta đến thế giới

phi trực quan. Biểu tượng mang bản chất kí hiệu nhưng nó khác với kí hiệu thông

thường ở bản chất có tính khái quát cao.

Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, tất cả lối diễn đạt bằng hình ảnh có

điểm chung đều là những dấu hiệu và không vượt quá mức độ của sự biểu nghĩa, từ

đó cho thấy, những cái gọi là các biểu tượng đại số học, toán học, khoa học chỉ là

những kí hiệu. Sự khác nhau của biểu tượng và kí hiệu thông thường thể hiện ở chỗ,

“biểu tượng rộng lớn hơn cái ý nghĩa được gán cho nó một cách nhân tạo, nó có một

sức vang cốt yếu và tự sinh” [59,xix]. Như vậy, sự vật hình ảnh hay hiện tượng nào

đó trở thành biểu tượng khi bao hàm trong nó những ý nghĩa sâu sắc mà được cộng

đồng giai cấp dân tộc nhân loại thừa nhận, bao giờ nó cũng hướng về một nghĩa cố

định, nhưng nó lại ẩn chứa những ý nghĩa khác đòi hỏi con người luôn tìm tòi,

khám phá, bằng hiểu biết, nhận thức và năng lực tư duy của mình.

Hai là biểu tượng và hình ảnh. Biểu tượng là một khái niệm chỉ một giai đoạn,

một hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác. Hình ảnh và biểu tượng có một

điểm tương đồng, đều cho ta hình ảnh của sự vật, nhưng sự khác biệt giữa chúng

cũng rất rõ nét. Hình ảnh là cái ở hiện tại, có được sự tập trung mọi giác quan một

cách trực tiếp của con người lên sự vật hiện tượng. Trong một tác phẩm cụ thể, sự

42

lặp lại nhiều lần hình ảnh nào đó có thể biến thành biểu tượng. Sức gợi của biểu

tượng là vô cùng lớn từ sự đa dạng của các lớp nghĩa, nó không được hiểu đơn giản

như hình ảnh thông thường.

Ba là biểu tượng và hình tượng. Về bản chất hai khái niệm này không giống

nhau, nhưng có mối quan hệ trong quá trình tạo thành một tác phẩm nghệ thuật, nên

trong thực tế đôi lúc vẫn gây nhầm lẫn. “Biểu tượng cũng là hình tượng nghệ thuật,

nhưng là một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt. Ở hình tượng, dấu ấn cá nhân

sáng tạo của nghệ sĩ nổi bật, trong khi đó, ở biểu tượng dấu ấn cộng đồng lại chiếm

ưu thế” [71,26]. Như vậy, một hình tượng khi đạt đến độ khái quát, đại diện cho một

ý niệm, tâm thức của nhân loại hay một cộng đồng, được thừa nhận, cùng thấu hiểu,

cùng qui ước... thì sẽ trở thành biểu tượng.

2.2. Biểu tƣợng văn hóa và biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Sự hình thành, tồn tại và phát triển của thế giới biểu tượng trong đời sống văn

hóa và trong các sáng tác văn học nghệ thuật có nguồn gốc sâu xa từ nhận thức, từ

những điều kiện sống của xã hội, từ tâm linh con người. Biểu tượng văn hóa có khả

năng “co giãn”, mở rộng hoặc thu hẹp nghĩa tùy theo hoàn cảnh và quy ước của

cộng đồng, và luôn gắn với tình cảm, cảm xúc. Toàn bộ giá trị của một nền văn hóa

luôn được kết tinh lại trong các biểu tượng, “Mọi nền văn hóa đều có thể xem như

một tập hợp các hệ thống biểu tượng trong đó xếp ở hàng đầu là ngôn ngữ, các quy

tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo”… [59,xxiii]. Như

vậy, giải mã các biểu tượng văn hóa của một nền văn học sẽ tạo nên cơ sở vững

chắc để có thể khái quát được tính dân tộc của nền văn học ấy.

Từ những hình ảnh, sự vật thông thường, các biểu tượng văn hóa mang những

nét chung, phổ quát theo thời gian được con người bồi đắp dần tạo nên các lớp

nghĩa mới. Điều đó tạo nên bản chất “khó xác định và sống động của biểu tượng”

và cũng lí giải vì sao biểu tượng luôn là thế giới đầy sức hấp dẫn, trở thành đối

tượng của nhiều công trình nghiên cứu.

2.2.1. Biểu tượng văn hóa

Biểu tượng được các nhà nghiên cứu văn hóa và văn học rất coi trọng vì nó là

43

“đơn vị cơ bản của văn hóa, là hạt nhân di truyền xã hội và quan trọng là nó sinh ra

nhờ năng lực biểu tượng hóa của con người”; “Con người tư duy bằng biểu tượng,

giao tiếp bằng biểu tượng, thể hiện tâm tư, tình cảm sâu kín nhất cũng như những

thăng hoa những khát vọng đều bằng biểu tượng” [72,4].

Trước hết, cần tìm hiểu định nghĩa về văn hóa, làm cơ sở để hiểu biểu tượng

văn hóa. Từ “văn hóa” đi vào đời sống con người một cách rất tự nhiên, nhưng việc

xác định và định nghĩa được nó không phải là việc đơn giản.

Tác giả Đức Dương cho rằng, trong khoa học về xã hội và nhân văn, chưa có

một khái niệm nào mơ hồ như khái niệm văn hóa, vì nó phản ánh và thể hiện một

cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống, từ những thứ đã diễn ra trong

quá khứ, đến cái đang diễn ra trong hiện tại, đặc biệt nó đã cấu thành nên một hệ

thống các giá trị, truyền thống, thẩm mĩ và lối sống… Dựa trên hệ thống đó, bản sắc

của từng dân tộc sẽ được khẳng định.

Trần Lê Bảo cũng nhấn mạnh: “Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh

thần do con người sáng tạo ra, trong quá trình tương tác với tự nhiên, xã hội và bản

thân qua lịch sử lâu dài. Văn hóa thể hiện diện mạo của một cộng đồng” [72,26].

Tác giả Hồ Hoàng Hoa trong cuốn Văn học Nhật, những chặng đường phát

triển cho rằng, văn hóa cũng cần được nhận thức trong tính tổng thể của nó: “là toàn

thể các hoạt động và các giá trị sáng tạo trên mọi lĩnh vực vật chất và tinh thần. Văn

hóa đích thực là văn hóa luôn lấy con người làm đối tượng, động lực và mục tiêu

của sự phát triển” [75,10].

Chúng tôi quan tâm đến định nghĩa văn hóa của UNESCO: “Trong ý nghĩa

rộng nhất, văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể, những nét riêng biệt, tinh thần và

vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm

người trong xã hội” [76,23]. Như vậy, văn hóa sẽ bao gồm: “nghệ thuật và văn

chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các

giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng”. Định nghĩa này cho thấy, văn hóa

không phải là một lĩnh vực riêng biệt mà là tổng thể nói chung những giá trị vật chất

và tinh thần do con người sáng tạo ra. Nó chính là chìa khóa của sự phát triển.

44

Từ việc khảo sát, chúng tôi nhận thấy, khái niệm văn hóa dù có nhiều cách

hiểu, cách định nghĩa khác nhau nhưng về cơ bản vẫn có những nét tương đồng.

Văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt, xét trên bình diện giá trị thì văn hóa

của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng được hiểu là toàn bộ các giá trị tinh thần và giá trị

vật chất mà cộng đồng hay dân tộc ấy tạo ra trong suốt trường kì lịch sử của mình.

Như vậy, để khám phá và lí giải chạm đến tận cùng cội nguồn một nền văn hóa

không phải là điều dễ dàng.

Xuất phát từ khái niệm biểu tượng và định nghĩa văn hóa, tuy không nhiều

song đây đó, trong công trình của các nhà nghiên cứu cũng có quan tâm đến biểu

tượng văn hóa.

Biểu tƣợng văn hóa là một biểu tượng chứa đựng ý nghĩa và sự hiểu biết cho

một nhóm người. Nhiều nhóm sử dụng các biểu tượng để thể hiện một khái niệm về

nền văn hóa của họ. Các biểu tượng được sử dụng bởi một nền văn hóa để thể hiện

một giá trị của nền văn hóa. “Các biểu tượng văn hóa cho phép một nhóm có chung

niềm tin xác định dựa trên kinh nghiệm của biểu tượng đó. Niềm tin hoặc kinh

nghiệm tiếp tục có thể được truyền qua biểu tượng văn hóa” [Dẫn theo 77]. Ví dụ,

khi lá cờ của một quốc gia được kéo lên, những người có liên kết với quốc gia đó sẽ

đứng lên để tôn vinh lá cờ đó vì nó đại diện cho chủ nghĩa dân tộc.

Tác giả Dongxiang Li, trong bài A study of Relationship between Symbols

and Cultures from the Perspective of Linguistics (Nghiên cứu mối quan hệ giữa

các biểu tượng và văn hóa từ quan điểm ngôn ngữ học), trích Kỉ yếu Hội thảo

Quốc tế về Khoa học Giáo dục và quản lí kinh tế lần thứ 2 năm 2018 (ICESEM

2018) cho rằng: “văn hóa” và “biểu tượng” đều độc lập và có thể kết hợp với nhau

một cách tự do. Theo nghĩa đen “biểu tượng văn hóa là tất cả những gì có thể

mang ý nghĩa văn hóa”; “biểu tượng văn hóa là những dấu hiệu có nội hàm hoặc ý

nghĩa đặc biệt nhất định, là vật mang nội hàm văn hóa quan trọng. Nội hàm văn

hóa càng phong phú thì biểu tượng văn hóa càng đa dạng” Đáng chú ý là, tác giả

còn phân biệt biểu tượng văn hóa và văn hóa biểu tượng khi cho rằng: Nếu “biểu

tượng văn hóa đề cập đến kí hiệu đại diện cho các hình thức văn hóa” thì “văn hóa

45

biểu tượng đề cập đến cái được kí hiệu đại diện cho ý nghĩa văn hóa”; “các biểu

tượng văn hóa có thể lan truyền tạo ra và định hình các nền văn hóa biểu tượng,

trong khi cái sau là sự khách quan hóa cái trước”. Như vậy, văn hóa biểu tượng và

biểu tượng văn hóa là sự kết hợp giữa cái hình thức và ý nghĩa, do đó có thể cùng

nhau xây dựng hệ thống văn hóa [78,811-813].

Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về biểu tượng và giải mã biểu

tượng từ góc nhìn văn hóa, với phạm vi tư liệu có được, chúng tôi chưa thấy khái

niệm biểu tượng văn hóa xuất hiện trong bất kì cuốn từ điển nào. Về cơ bản, các

nhà nghiên cứu đều xuất phát từ khái niệm biểu tượng và định nghĩa văn hóa để đề

xuất cách hiểu về biểu tượng văn hóa. Có thể, đây là sự thừa nhận hiển nhiên mang

tính chân lí về việc sử dụng thuật ngữ, khái niệm này, hoặc cũng có thể là khoảng

trống khoa học cần được tiếp tục lấp đầy.

Theo chúng tôi, biểu tượng văn hóa trước hết là biểu tượng (đối tượng, ý

nghĩa, quan niệm…) tập hợp trong một hệ thống giá trị vật chất, tinh thần, đặc trưng

cho một nền văn hóa nhất định, hay nói cách khác nó là kí hiệu có ý nghĩa đặc biệt để

nhận diện giá trị văn hóa riêng biệt, độc đáo của một cộng đồng, dân tộc.

So với biểu tượng thông thường, biểu tượng văn hóa phải có những nét riêng

biệt: là sản phẩm có giá trị vật chất, tinh thần được chắt lọc và lưu truyền qua thời

gian, mang bản sắc văn hóa của cộng đồng, dân tộc.

Có một điểm lưu ý là, nếu trong tiếng Việt chỉ có từ biểu tượng/ biểu tượng

văn hóa thì trong tiếng Anh có hai mức độ là icon và symbol. Cả hai từ này trong

tiếng Anh đều cùng có nghĩa là biểu tượng. Tuy nhiên, icon còn được hiểu là tượng,

hình tượng, thần tượng và mang nét nghĩa chung, cố định cho mọi đối tượng tiếp

nhận, mọi quốc gia: “Biểu tượng/ thần tượng văn hóa (A cultural icon) là một người

hoặc một vật được các thành viên của một nền văn hóa xác định là đại diện cho nền

văn hóa đó” [79,296]. Quá trình nhận dạng các biểu tượng mang tính chủ quan và

các biểu tượng được đánh giá theo mức độ mà chúng có thể được xem như một biểu

tượng đích thực của nền văn hóa đó. Khi các cá nhân cảm nhận một biểu tượng văn

hóa, họ liên hệ nó với nhận thức chung của họ về bản sắc văn hóa được đại diện. Vì

46

vậy, “Các biểu tượng văn hóa cũng có thể được xác định như là một đại diện xác

thực cho các thực hành của một nền văn hóa này hay của một nền văn hóa khác”

[80,244]. Các biểu tượng quốc gia thuộc về nhóm này.

Trong khi đó, symbol mang tính đa nghĩa, bất định, phụ thuộc vào đối tượng

tiếp nhận và phông nền văn hóa. Theo đó, Biểu tượng văn hóa (A cultural symbol)

là một kí hiệu, dấu hiệu hoặc từ có thể chỉ ra, biểu thị hoặc được hiểu là đại diện

cho một ý tưởng, đối tượng hoặc mối quan hệ. Các biểu tượng cho phép mọi người

vượt ra ngoài những gì đã biết hoặc nhìn thấy bằng cách tạo ra mối liên kết giữa các

khái niệm và trải nghiệm rất khác nhau. Tất cả giao tiếp (và xử lí dữ liệu) đạt được

thông qua việc sử dụng các kí hiệu. Biểu tượng có dạng từ ngữ, âm thanh, cử chỉ, ý

tưởng hoặc hình ảnh trực quan và được sử dụng để truyền đạt những ý tưởng và

niềm tin khác. Ví dụ, chữ số là biểu tượng cho các con số; các chữ cái trong bảng

chữ cái có thể là kí hiệu cho một số âm vị nhất định; và tên riêng là biểu tượng đại

diện cho cá nhân... Trong luận án, các biểu tượng văn hóa truyền thống mà chúng

tôi tìm hiểu đa số thuộc về nhóm này và đôi khi thuộc về nhóm trên.

2.2.2. Biểu tượng văn hóa truyền thống

Theo nghĩa tổng quát nhất, truyền thống - “là những yếu tố của di tồn văn hóa,

xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục, tập quán, thói quen,

lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và

đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài”

[Dẫn theo 81]. Truyền thống không chỉ là di tích của quá khứ mà còn là nhịp cầu

nối kết giá trị mới. Vì vậy, truyền thống không bao giờ mất đi, mà nó luôn được giữ

gìn và phát triển dưới dạng hoàn thiện hơn. Đó là những giá trị tốt đẹp mang ý

nghĩa tích cực. Chính những giá trị này tạo nên bản sắc của từng dân tộc, nó được

truyền lại cho thế hệ sau và sẽ được bảo vệ, duy trì, bổ sung và phát triển.

Từ quá trình khảo cứu trên, theo chúng tôi Biểu tượng văn hóa truyền thống

là những kí hiệu, dấu hiệu, những đại diện thuộc về những giá trị vật chất, tinh thần

mang tính tích cực, tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc, được bảo tồn và có khả

năng truyền lại, biến đổi qua không gian, thời gian, từ thế hệ này sang thế hệ khác.

47

Vì bản chất khó xác định và sống động của biểu tượng, nên việc giải mã biểu

tượng không phải là một hành trình bằng phẳng và con đường thẳng tắp. Biểu tượng

gắn liền với một trải nghiệm tổng thể, không thể nắm bắt được giá trị của nó, nếu

trong tâm trí của mình không tự đắm mình vào trong cái môi trường toàn thể nơi

biểu tượng đó thực sự sống. Cho nên, lí giải và tìm ra được những ý nghĩa, giá trị

của biểu tượng đòi hỏi dựa trên nhiều yếu tố: nền văn hóa sản sinh ra nó, điều kiện

biểu tượng ra đời, cùng với mục đích sử dụng biểu tượng ở từng thời điểm, thêm

nữa là kiến thức, kinh nghiệm của mỗi cá nhân khác nhau ở từng giai đoạn sẽ có

cách lí giải khác nhau về biểu tượng, bởi “biểu tượng không bao giờ thuộc vào một

mặt cắt đồng đại của văn hóa, nó bao giờ cũng xuyên qua mặt cắt đó bằng chiều

dọc, đi từ quá khứ đến suốt tương lai” [82,183]. Như vậy, nghiên cứu biểu tượng

văn hóa truyền thống cần đến với nhiều hướng tiếp cận khác nhau, trong đó, ngôn

ngữ học, kí hiệu học được xem là nền tảng để nghiên cứu biểu tượng.

Dưới góc nhìn kí hiệu học, Claude Levi-Strauss cho rằng, “mọi nền văn hóa có

thể được xem như là một tổng thể các hệ thống biểu tượng mà ở hàng đầu là ngôn

ngữ, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật khoa học, tôn giáo”; “Tất

cả các hệ thống đó nhắm đến sự thể hiện một số mặt của thực tại thể xác và thực tại

xã hội, và hơn thế nữa, thể hiện các quan hệ mà hai loại hình thực tại đó và bản thân

các hệ thống biểu tượng có với nhau” [83,143].

Biểu tượng tồn tại ở dạng ngôn ngữ đặc biệt, có khả năng xóa nhòa khoảng

cách về không gian và thời gian để con người có thể tri nhận những thông điệp cổ

xưa qua các di vật văn hóa. Mang trong mình nhiều tầng lớp nghĩa nhưng lại được

biểu đạt dưới hình thức súc tích của ngôn ngữ, biểu tượng có quan hệ chặt chẽ với

kí hiệu. “Theo cách nhìn của các nhà kí hiệu học thì văn hóa của loài người được

tạo nên bởi các hệ thống kí hiệu. Con người sống không chỉ trong thế giới có các sự

vật, vật chất mà còn trong thế giới của các kí hiệu và hệ thống kí hiệu” [71,12].

Như vậy, nghiên cứu và giải mã biểu tượng không chỉ nhằm khám phá về con

người mà còn cắt nghĩa thế giới ở những tầng nghĩa sâu xa nhất. Giải mã biểu tượng

chính là quá trình bóc tách, tìm ra các lớp nghĩa, từ đó có thể hiểu được cội rễ văn

48

hóa của một dân tộc.

2.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và biểu tƣợng trong sáng tác văn học

2.3.1. Biểu tượng trong đời sống văn hóa

Biểu tượng và văn hóa có một mối quan hệ rất chặt chẽ. Những biểu tượng

không đơn thuần chỉ là mã thông tin mà nó mang nội hàm văn hóa nhất định, là đại

diện cho hình ảnh của một quốc gia. Sự kết hợp giữa biểu tượng và văn hóa được

gọi là biểu tượng văn hóa. Giải mã các biểu tượng văn hóa của một nền văn học sẽ

là cơ sở vững chắc để nhà nghiên cứu có thể khái quát được tính dân tộc của nền

văn học ấy. Có thể thấy, hệ giá trị văn hóa của một dân tộc được biểu hiện thông

qua hệ thống biểu tượng, vì thế nó thực sự là hệ thống các chuẩn mực văn hóa, được

cộng đồng thừa nhận sẽ trở thành thước đo mọi hành vi ứng xử, chi phối lối sống

của con người. Sự lựa chọn khác nhau, quy định chuẩn mực các giá trị khác nhau,

đó chính là yếu tố tạo nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng - dân tộc.

Một điều dễ nhận thấy, biểu tượng và văn hóa đều có liên quan mật thiết đến

con người, và các hoạt động của con người. Khi mối quan hệ tương tác giữa biểu

tượng, con người và nền văn hóa được thiết lập thì biểu tượng sẽ đóng vai trò là cầu

nối trung tâm. Con người có thể biến thế giới tự nhiên thành thế giới văn hóa với sự

trợ giúp của các biểu tượng. Vì vậy, văn hóa là sản phẩm của các hoạt động biểu

tượng của con người và cũng có thể được coi là hiện thực hóa các hoạt động này.

Như vậy, biểu tượng và văn hóa đều là sản phẩm sáng tạo tinh thần của con người,

do con người tạo ra, cái này có trong cái kia, nó thể hiện, phản ánh và lưu giữ bản

sắc, giá trị, hồn cốt của cộng đồng, qua thực tiễn, từ thực tiễn.

Từ điển bách khoa các khoa học về văn hóa thì cho rằng: “Biểu tượng - một

loại kí hiệu đặc biệt, thể hiện nội dung thực tế của một điều nào đó. Biểu tượng văn

hóa khác kí hiệu thông thường ở chỗ chứa đựng mối liên hệ tâm lí với tồn tại mà nó

biểu trưng” [84,50].

Các biểu tượng thông thường trở thành biểu tượng văn hóa phải được thử

thách qua khả năng sáng tạo của con người. Biểu tượng văn hóa là sản phẩm văn

hóa gắn với những đặc trưng lịch sử cụ thể của một giai đoạn, một thời kì và những

49

sản phẩm ấy phải tác động trở lại nền văn hóa, có như thế biểu tượng văn hóa mới

có sức sống, mới có khả năng trường tồn.

2.3.2. Biểu tượng trong tác phẩm văn học

Văn học luôn có mối quan hệ mật thiết với văn hóa. Văn học là kết tinh cao

nhất của một nền văn hóa. Chủ đề của một tác phẩm văn học thường được truyền

tải thông qua hình tượng. Mỗi tác phẩm văn chương đều là sản phẩm của một nền

văn hóa nhất định. Những hình ảnh trong đó là những kí hiệu mang nghĩa: “là

phương tiện lưu giữ, bảo quản và truyền tải thông tin từ người này đến người khác,

từ thế hệ này sang thế hệ khác” [85,67]. Qua đó, diện mạo văn hóa của một dân tộc,

một cộng đồng người hiện ra chân thực hơn bao giờ hết.

Tác phẩm văn học “là hệ thống các kí hiệu ngôn từ được đan kết bằng các mã,

được tổ chức nhờ sự phối kết của các mã trong đó có mã văn hóa”; “Sự mã hóa

trong tác phẩm văn học ở các cấp độ khác nhau, tùy thuộc tài năng của tác giả và

quy ước của nền văn hóa mà tác giả là thành viên của nền văn hóa ấy” [86,168].

Bản thân ý nghĩa của biểu tượng rất khó để tìm, nhưng thực tế chúng đều có một

ý nghĩa quan trọng nhất định, và đôi khi trong tác phẩm văn học, biểu tượng có

thể có nhiều hơn một ý nghĩa.

Trong tác phẩm văn học, có hai loại biểu tượng thường được tồn tại: (1) biểu

tượng được nhà văn sáng tạo nên và hoàn toàn mới xuất hiện trong tác phẩm; (2)

biểu tượng văn hóa có sẵn được nhà văn đưa vào trong tác phẩm để trở thành biểu

tượng nghệ thuật. Những biểu tượng văn hóa trong tác phẩm văn học trở thành hình

tượng nghệ thuật và được sử dụng lặp lại nhiều lần thì sẽ biến thành biểu tượng

nghệ thuật.

Trong tác phẩm văn học, các biểu tượng được sử dụng khi tác giả muốn người

đọc “nhận thấy các nhân vật, sự kiện, hình ảnh, hay địa điểm nào đó có ý nghĩa biểu

đạt phong phú, đại diện cho một vấn đề gì đó hơn những gì đang thể hiện trên bề

mặt”. Và chắc chắn với mỗi biểu tượng được sử dụng, tác giả “sẽ đưa ra một số dấu

hiệu” nhất định nào đó để người đọc có thể căn cứ khám phá ý nghĩa. Thông thường,

đó sẽ là “sự lặp lại nhiều lần một từ ngữ, hình ảnh, hay một nhân vật, sự vật” nào đó.

50

Đây chính là một trong những dấu hiệu rất dễ nhận thấy trong các tiểu thuyết của

Kawabata, đó là việc sử dụng các từ ngữ hình ảnh lặp lại nhiều lần với tần số cao, hoa

anh đào, là tuyết trắng, suối nước nóng, gương soi, là kimono, đàn shamisen… đều

có cội nguồn từ văn hóa truyền thống dân tộc. Điều này làm nên hệ thống biểu tượng

văn hóa truyền thống rất riêng, độc đáo trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Các biểu tượng trong tác phẩm của Kawabata, đa phần đều được lấy chất liệu

từ kho tàng biểu tượng văn hóa của nhân loại, của dân tộc và cộng đồng mình để

nhào nặn, sáng tạo, bồi đắp thêm nhiều ý nghĩa mới. Có những biểu tượng kế thừa

những ý nghĩa chung gần với mẫu gốc; có những biểu tượng là sáng tạo mang tính

cá nhân trong những tác phẩm văn học cụ thể, xuất phát từ quan điểm nghệ thuật

riêng, kết hợp với phần “vô thức tập thể” ẩn sâu trong tiềm thức mà sáng tạo ra

những biểu tượng trong các tác phẩm văn học. Điều đó lí giải vì sao mỗi tác giả

thường gắn liền với một hệ thống biểu tượng riêng. Đây được xem là những biểu

tượng có ý nghĩa phái sinh, những biến thể từ những biểu tượng gốc, phù hợp với

việc biểu đạt hiệu quả nội dung tư tưởng và các chủ đề trong tác phẩm. Xuất phát từ

quan sát và nhận thức thực tiễn, trong sáng tác của mình, Kawabata đã lựa chọn

những biểu tượng có giá trị biểu đạt cao. Đó là một Cố đô rất quen thuộc trong

nhiều tác phẩm của nhà văn, trở thành một biểu tượng của không gian văn hóa dân

tộc, nơi lưu giữ và bảo tồn các giá trị văn hóa ngàn xưa. Đây được xem là một sáng

tạo độc đáo trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Như vậy, bên cạnh những biểu tượng thể hiện ý thức chung của xã hội, trong

văn chương nghệ thuật có rất nhiều biểu tượng in đậm dấu ấn cá nhân, cá tính sáng

tạo của người nghệ sĩ. Muốn khám phá ý nghĩa của biểu tượng, phải thực sự thâm

nhập vào phong cách sáng tác và toàn bộ thế giới nghệ thuật của các nhà văn.

Người đọc dễ dàng nhận thấy trong sáng tác của Kawbata là ý thức văn hóa là

điều luôn thường trực trong mỗi trang văn của ông, những giá trị văn hóa truyền

thống, cái gọi là “hồn cốt Nhật Bản” cũng rất đậm đà trong những sáng tác của nhà

văn. Kawabata luôn huy động vốn văn hóa truyền thống của dân tộc và gắn nó với

các biểu hiện hiện đại của mĩ học phương Tây để tạo nên dấu ấn độc đáo trong sáng

51

tác của mình. Sự kết hợp văn hóa Đông - Tây là một đặc điểm nổi bật trong tiểu

thuyết của nhà văn, nhưng yếu tố quyết định một Kawabata khác biệt với những tên

tuổi khác chính là lối tư duy Nhật Bản, mang đậm tính truyền thống đặc trưng của

xứ sở hoa anh đào.

Trong luận án chúng tôi lựa chọn tiếp cận biểu tượng văn hóa truyền thống

trong tiểu thuyết Kawabata từ góc nhìn văn hóa, thực chất là chỉ ra dấu ấn văn hóa

của một cộng đồng văn hóa trong tác phẩm văn học cụ thể thông qua hệ thống các

mã văn hóa được nhà văn, nhà thơ sử dụng. Văn hóa được biểu hiện bằng các mã

“code”, đây là mặt hình thức, vẻ bên ngoài. Mã còn được hiểu là các nhãn hiệu,

phù hiệu… đại diện cho một đối tượng nào đó. Mã văn hóa là những biểu hiện

hình thức vừa mang đặc trưng chung của mã, vừa mang được những đặc trưng cơ

bản của văn hóa. Mã văn hóa không chỉ mang tính nhân loại, mà còn mang tính

nghệ thuật, bởi nó được sáng tạo hướng theo quan niệm về cái đẹp. Theo nhà

nghiên cứu Trần Lê Bảo, “mã văn hóa là kết tinh của các giá trị văn hóa, là phần

nổi trội, bản nhất, có tính ổn định tương đối của cộng đồng”. Mã văn hóa biểu

hiện ra ngoài bằng các tín hiệu văn hóa, biểu tượng văn hóa và bên trong là vô vàn

lớp nghĩa, vì vậy việc giải mã là cần thiết để hiểu con người và cộng đồng đó.

Biểu tượng văn hóa là một trong ba yếu tố quan trọng của mã văn hóa. Trong giải

mã văn hóa thì giải mã biểu tượng có ý nghĩa hơn cả. Khi phân tích, lí giải được

những tầng ý nghĩa ẩn tàng trong các biểu tượng, có nghĩa là chúng ta đã hiểu

được giá trị văn hóa của một dân tộc, có thể hiểu đến tận cùng con người và cộng

đồng dân tộc ấy. Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Linh Chi trong cuốn “Mã

văn hóa trong tác phẩm của James Joy”: “mã văn hóa là một hệ thống kí hiệu về

thế giới chuyên chở những ý nghĩa về văn hóa” [87,26].

Như vậy, các nhà nghiên cứu đều có sự gặp gỡ về cách hiểu mã văn hóa trong

tác phẩm văn học, và nó chính là hệ thống giá trị văn hóa của một dân tộc được kết

tinh qua những kí hiệu, chúng ta phải giải mã ý nghĩa của chúng để hiểu được giá trị

của tác phẩm.

Dưới lớp vỏ ngôn ngữ, những trầm tích văn hóa: tôn giáo, tín ngưỡng, phong

52

tục, tập quán, nghệ thuật… thể hiện qua những hình tượng, những dấu hiệu và sự

việc. Tất cả những kí hiệu đó được chuyển hóa vào trong văn bản nghệ thuật dưới

các mã biểu tượng. Trong văn chương, mỗi tác giả chọn một cách để mã hóa tác

phẩm của mình tùy thuộc vào phong cách cá nhân và nền văn hóa cộng đồng, dân

tộc. Vì tác phẩm văn học tạo ra từ nghệ thuật và kĩ thuật, mà kĩ thuật và nghệ thuật

và được chuẩn hóa thành các mã, tập hợp các quy tắc tạo sinh tác phẩm, theo tiến

trình thời gian, do đó, đọc hay nghiên cứu tác phẩm văn học không thể tách rời các

mã. Việc giải mã, chính là tìm ra các chìa khóa để tháo rời tác phẩm nhằm hướng

tới tính văn học của nó.

Tiểu thuyết của Kawabata, xét từ góc độ kí hiệu học, là văn bản có tổ chức của

một hệ thống kí hiệu ngôn từ, được đan kết bằng các mã văn hóa. Các mã này sẽ tạo

nên sự vận hành cho tác phẩm, tạo ra sức sống cho tác phẩm. Tiếp cận tác phẩm

Kawabata dưới góc nhìn văn hóa, là cách chúng ta tìm ra mối quan hệ giữa các mã

được cài đặt trong hệ thống các kí hiệu tạo thành tác phẩm, chỉ ra mối quan hệ giữa

các mã văn hóa với các mã khác trong tác phẩm, từ đó chỉ ra ý nghĩa của tác phẩm.

Biểu tượng trở thành đối tượng nghiên cứu chính nhằm làm sáng tỏ dấu ấn văn hóa

truyền thống và xã hội Nhật Bản qua sáng tạo nghệ thuật đặc thù của Kawabata.

Vậy nên, việc tiếp cận văn hóa học thông qua biểu tượng sẽ góp phần tạo ra cách

thức khám phá mới về giá trị của tác phẩm văn học, mở ra cách nhìn mới để giải

thích thấu đáo các giá trị của tác phẩm.

Đối với mỗi biểu tượng văn hóa truyền thống, chúng tôi tiến hành khảo sát

nghĩa của nó trong văn hóa truyền thống Nhật Bản, trong các nền văn hóa Đông -

Tây để từ đó vận dụng vào các trường hợp cụ thể trong tiểu thuyết Kawabata. Qua

đó, luận án làm rõ sự tiếp nối truyền thống và tinh thần phát huy sáng tạo, mở rộng

ý nghĩa của các biểu tượng làm phong phú cho các tác phẩm của nhà văn.

2.4. Cơ sở hình thành của biểu tƣợng văn hóa truyền thống trong tiểu

thuyết Y. Kawabata

2.4.1. Văn hóa truyền thống Nhật Bản

Những biểu tƣợng có nguồn gốc từ tín ngƣỡng tôn giáo, phong tục tập

53

quán và nghệ thuật truyền thống của dân tộc Nhật Bản. Tôn giáo bản địa của

người Nhật là Thần đạo Shinto, một tôn giáo đa thần có nguồn gốc từ những tín

ngưỡng thời cổ xưa ở Nhật Bản. Không giống các tôn giáo khác, bởi nó không

hướng đến một vị thần tối cao hay tạo ra các hệ thống các tín điều, giáo điển... và

trong thực tế nó cũng ít khi khuyến khích các tín đồ xây dựng các hình tượng sùng

mộ tôn giáo. Người theo Thần đạo thờ rất nhiều Kami là những vị thần tự nhiên hay

nhân thần, hiện hữu qua các tảng đá, gốc cây, sông hồ, núi non... “Những theo đuổi

mĩ học như trà đạo hay cắm hoa cũng thể hiện quan niệm tôn giáo trong sự kính

trọng sức mạnh của tự nhiên” [88,292]. Tín ngưỡng Thần đạo như một cuộc kiếm

tìm sự thanh khiết và hòa hợp với thiên nhiên. Vì vậy, mĩ học bền vững của Thần

đạo được cảm nhận qua tình yêu sâu sắc với thiên nhiên trong những sản phẩm thủ

công truyền thống với những nét thô phác song lại hàm chứa bao nhiêu sự cầu kì, tỉ

mỉ và đấy chính là chìa khóa giải mã nghệ thuật Nhật Bản qua mọi thời đại. Biểu

tượng có nguồn gốc từ Thần đạo trong tiểu thuyết Kawabata bao gồm: hoa anh đào;

cánh hạc; gương soi, tuyết, suối nước nóng... “thể hiện quan niệm sống, những trải

nghiệm cuộc đời và triết lí nhân sinh sâu sắc” [89,75]. Bên cạnh đó, thế giới nghệ

thuật của Kawabata chịu ảnh hưởng rõ rệt của mĩ học Thiền luận, dựa vào suy niệm

bên trong kết hợp với những thành tựu văn hóa truyền thống khác làm nên sự khác

biệt cho các tác phẩm của nhà văn.

Từ triết lí vô thường của Phật giáo ảnh hưởng trong văn hóa, văn học Nhật cho

đến cảm quan vô thường của Kawabata được kết tinh trong sự hòa quyện giữa nhận

thức và cảm xúc tinh tế về thế giới thực tại. Bên cạnh đó, tinh thần Thiền tông cũng

có ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống văn hóa người Nhật, từ thơ ca, hội họa, sân

khấu, cho đến trà đạo, hoa đạo, võ đạo… “Thiền đã trở thành sinh mệnh và cốt tủy

của văn hóa Nhật” [90,27]. Biểu tượng có nguồn gốc Thiền tông trong tiểu thuyết

Kawabata bao gồm: trà đạo; lữ nhân.

Kawabata từng khẳng định tinh thần của phương Đông nằm ở khoảng trống và

nghệ thuật Nhật Bản đã đạt đến giới hạn của sự tối giản. Khoảng trống chính là

vùng không gian để ngỏ, không chứa đựng gì của bức tranh, trong những nét chấm

54

phá khó nhận thấy. Tất cả đều thấm đẫm ý vị Thiền tông, linh hồn Đông phương

vắng vẻ nhưng đầy ắp thứ ánh sáng linh diệu của sự hội tụ vô hình. Đây chính là

điểm khác biệt với con đường đi của tư tưởng phương Tây, được quyết định bởi sự

khác biệt của nền tảng triết học. Chúng ta sẽ tìm thấy nét riêng biệt, cái gọi là “hồn

cốt Nhật Bản” rất đậm đà trong từng trang viết của Kawabata.

Như vậy, sự hòa trộn giữa Thần đạo và Phật giáo mang lại một tinh thần

riêng cho người Nhật trong suốt chiều dài lịch sử. Nền mĩ học của họ do đó

cũng đặt ở tự nhiên, ở những khoảng trống, trong sự hiển linh - phát hiện sự vô

hạn trong cái hữu hạn. Trong luận án, chúng tôi gọi tên những biểu tượng

mang ý nghĩa tôn giáo Thần đạo và tôn giáo Thiền tông là Biểu tượng của

Thần đạo và Biểu tượng của Thiền.

Văn học truyền thống cũng là mảng đặc sắc trong văn hóa Nhật Bản, có ảnh

hưởng lớn đến sáng tác của Kawabata, người chủ trương không thoát li khỏi di sản

văn học Nhật cùng những truyền thống mĩ học của văn hóa dân tộc. Ông đã thành

công bởi chính sự đề cao giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, hấp thu những tinh

hoa văn học thế giới hiện đại và không ngừng sáng tạo theo một lối đi riêng.

“Kawabata chịu ảnh hưởng rõ nét của chủ nghĩa hiện đại của phương Tây, song,

ông cũng được đánh giá là một người chung thủy đặc biệt và luôn đứng vững trên

nền văn chương cổ điển Nhật Bản” [93,67]. Do vậy, ông đã tạo nên sự tiêu biểu cho

một khuynh hướng rõ rệt nhằm nâng niu gìn giữ một phong cách dân tộc truyền

thống thuần khiết. Ông là người tôn thờ cái đẹp mong manh, hư ảo và ngôn ngữ

hình ảnh u uẩn của tất cả những cái hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong

định mệnh con người. Vậy nên, tác phẩm của Kawabata đậm chất trữ tình sâu lắng,

phảng phất nỗi u buồn được kế thừa từ dòng văn truyền thống đặc biệt là văn học

thời kì Heian. Kawabata say mê Truyện Genji và khẳng định trong bài phát biểu

nhận giải Nobel văn học năm 1968 rằng, đó là là đỉnh cao văn xuôi Nhật Bản tất cả

mọi thời đại. Cho đến nay vẫn chưa có gì sánh ngang nó. Bản thân ông rất thích,

cũng như chịu ảnh hưởng lớn từ tiểu thuyết này. Nói về lí do chọn lựa Truyện Genji

và thời đại Muromachi (1335-1572), nhà văn từng nhấn mạnh rằng, tác phẩm đó

55

giúp ông quên đi chiến tranh và đối mặt với những thảm bại nặng nề của dân tộc.

Kawabata cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm thẩm mĩ truyền thống, đặc biệt nhất

là mĩ cảm aware, bộ ba tiểu thuyết Xứ Tuyết, Ngàn cánh hạc và Cố đô đều thể hiện

dấu ấn của mĩ học truyền thống độc đáo này. Với cách làm đó, nhà văn là người lưu

giữ tinh hoa văn hóa dân tộc qua hàng trăm trang sách.

Trong những văn bản cổ xưa nhất ở Nhật Bản như Kojiki (Cổ sự kí, 712),

Nihongi (Nhật Bản kỉ 720) và Manyoshu (Vạn diệp tập, hoàn thành vào thế kỉ thứ

VIII), hay những huyền thoại lập quốc, có thể thấy dấu vết lịch sử hòa lẫn trong các

sự kiện tưởng tượng và các áng văn chương phần nào đã hé mở cho chúng ta thấy

một truyền thống văn hóa và tinh thần thẩm mĩ riêng của đất nước Phù Tang.

Trong Diễn từ Nobel, Kawabata đã ám chỉ đến những tên tuổi quan trọng và

khẳng định sự gắn bó chặt chẽ với văn học truyền thống Nhật Bản trong quá trình

phát triển nghệ thuật của ông. Nguồn cảm hứng nghệ thuật của các nhà văn như

Dogen (1200-1253), Myoe (1173-1232) cùng với thời đại mà họ sáng tác được coi

là mẫu mực của con đường thẩm mĩ mà Kawabata đã theo đuổi và sáng tạo. Đó là

nỗ lực của nhà văn, khi ông cố gắng đạt được mức độ hài hòa với thiên nhiên, nghệ

thuật, tâm linh và văn hóa mà ông cảm nhận được trong tác phẩm của các nhà văn

lỗi lạc. Dogen đã gợi ý cho Kawabata những cảm xúc sâu lắng “sự yên tĩnh” của

tinh thần Nhật Bản, còn Myoe truyền cảm hứng cho vẻ đẹp “khắc nghiệt” và sự

“lạnh giá khắc khổ” mà chúng ta có thể cảm nhận được trong Xứ tuyết của nhà văn.

Cũng như các nhà văn khác, lớn lên từ suối nguồn văn hóa dân tộc, Kawabata

luôn trân trọng những giá trị văn hóa ấy và có ý thức tiếp thu để sáng tạo nên những

sản phẩm có ý nghĩa đích thực. Do vậy, trong các sáng tác của ông, chúng ta luôn

bắt gặp những phong tục, những tín ngưỡng dân gian đậm đà hương vị rất riêng của

xứ sở hoa anh đào. Thế giới nghệ thuật của Kawabata là bức tranh đầy màu sắc, thể

hiện đa dạng các khía cạnh khác nhau của vẻ đẹp Nhật Bản, đó là vẻ đẹp của thiên

nhiên và tâm hồn của người Nhật Bản, đặc biệt là vẻ đẹp của người phụ nữ.

Văn hóa truyền thống Nhật Bản cũng mang những đặc điểm thể hiện quan niệm

thẩm mĩ về tính nữ. Yếu tố nữ tính bắt nguồn từ tinh thần của tầng lớp quý tộc thời

56

Heian. Văn chương Heian, “với hai yếu tố dân tộc và nữ lưu đã phát tiết một vẻ đẹp huy

hoàng chưa từng có” [94,64]. Nhiều nghiên cứu cho rằng, đây là thời kì phụ nữ Nhật

được đề cao, bởi họ đã sáng tạo một nền văn hóa độc đáo mà nhiều yếu tố của nó trở

thành nền tảng của văn hóa dân tộc. Văn chương thời kì này gắn với những rung động

tâm hồn sâu kín và đầy tinh tế của những thiên tài nữ giới, nên văn hóa thời kì Heian

được đánh giá là văn hóa của cái đẹp, văn hóa của nữ giới. Tình yêu đối với cái đẹp và

văn học thời kì này là cơ sở cho những sáng tác của Kawabata. Vẻ đẹp hình thức bên

ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người là những phương diện làm nên chất nữ

tính, song vẻ đẹp bên trong tâm hồn là điều được chú trọng đặc biệt. Có thể nói,

Kawabata đã hồi sinh và sáng tạo khiến cho màu sắc nữ tính được nâng cao hơn trở

thành phương diện mĩ học trong quan niệm thẩm mĩ của nhà văn. Trong thế giới nghệ

thuật của Kawabata, những hình ảnh mang đặc tính tính nữ xuất hiện xuyên suốt trong

các tác phẩm, đã trở thành những biểu tượng độc đáo truyền tải nhiều thông điệp ý nghĩa

đến với người đọc. Sự hòa trộn Thần đạo và Phật giáo mang lại một tinh thần riêng, đã

ảnh hưởng tới những quan niệm về tính nữ một cách tích cực, làm hài hòa thêm vẻ đẹp

nữ tính trong quan niệm thẩm mĩ Nhật Bản. Đọc Kawabata, ấn tượng đọng lại là những

người phụ nữ xinh đẹp, cái đẹp bản ngã nữ tính, cái đẹp mong manh, ẩn tàng, sẵn sàng

dâng hiến đến tận cùng nhưng số phận luôn bất hạnh.

Nổi bật trong tác phẩm Kawabata là số phận của cái đẹp trầm luân, là sự mong

manh, ngắn ngủi của cái đẹp phù du trôi nổi giữa cõi vô thường. Đó cũng là tinh

thần thẩm mĩ hướng về cái đẹp thuần khiết, trinh bạch, cái đẹp của hư không, mộng

ảo, chúng ta tìm thấy hành trình của những “lữ nhân” rất quen thuộc trong các tác

phẩm của Kawabata, luôn gắn chặt với giá trị, tâm hồn văn hóa dân tộc.

Trong Diễn từ Nobel, Kawabata khẳng định tình yêu thiên nhiên cũng là một đặc

trưng nổi bật của tâm hồn Nhật. Những tuyết, trăng, hoa tiêu biểu cho vẻ đẹp bốn

mùa thiên nhiên thay nhau nối tiếp - theo truyền thống Nhật Bản là tượng trưng cho vẻ

đẹp nói chung của núi, sông, cây cỏ và vẻ đẹp của cảm xúc con người. Quả thật, trong

rất nhiều điều phải nói về đời sống văn hóa Nhật Bản, không thể không nói đến tình

yêu thiên nhiên, gắn với tín ngưỡng bản địa Shinto, cốt lõi tinh thần làm nên những

57

cảm xúc mãnh liệt của người Nhật đối với thế giới xung quanh. Người Nhật chú trọng

vẻ đẹp không lời, sự tịch mịch trầm lắng, tận hưởng những khoảng lặng để cảm

nghiệm, “đốn ngộ” chân lí của cuộc đời.

Nghệ thuật Nhật Bản được thể hiện bởi năng lực cảm thụ tinh tế về cái đẹp

của tự nhiên, xã hội và con người. Đặc biệt là cách cảm thụ mang tính hình tượng

được chi phối bởi những quan niệm thẩm mĩ Nhật Bản, đạt tới trình độ của “đạo”,

làm nên những loại hình nghệ thuật thể hiện phong cách độc đáo khó có thể hòa

trộn vào một nền nghệ thuật nào khác. Các lĩnh vực nghệ thuật nổi bật của Nhật

Bản là nghệ thuật dệt, may truyền thống: kimono, vải dệt chijimi; Nghệ thuật biểu

diễn sân khấu: mặt nạ kịch noh, đàn shamisen, geisha.... đều trở thành những biểu

tượng nổi bật khi nói đến nghệ thuật truyền thống Nhật Bản. Trong các tác phẩm

Kawabata, các biểu tượng cho dù xuất hiện đậm nhạt khác nhau, nhưng đều biểu

hiện được những giá trị rất riêng của nền văn hóa xứ Phù Tang.

“Trăn trở đi tìm cái đẹp, nâng niu trân trọng cái đẹp và những giá trị vĩnh cửu

của cái đẹp Nhật Bản truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại đã trở thành đề tài

chính trong tác phẩm của Kawabata và đó cũng là lẽ sống của cuộc đời ông. Tác

phẩm của nhà văn là thế giới nghệ thuật đầy biểu cảm, giàu chất thơ và lung linh vẻ

đẹp Nhật Bản” [95,66]. Trong tiểu thuyết của nhà văn duy mĩ này, người đọc luôn

tìm thấy thông điệp mang ý nghĩa về sự phục sinh những giá trị truyền thống tốt đẹp

trong sự dung hòa với cuộc sống hiện tại, đó là lời nhắc nhở về sự cần thiết cứu lấy

vẻ đẹp và cá tính Nhật Bản xưa cho một nước Nhật Bản mới. Chính điều này đã

giúp Kawabata khẳng định được vị trí của mình trong nền văn hóa, văn học dân tộc

và tác phẩm của nhà văn thực sự là chiếc cầu kì diệu đưa nước Nhật vượt đại dương

đến với thế giới, và đưa thế giới đến với xứ sở hoa anh đào tươi đẹp.

2.4.2. Văn hóa phương Tây

Bên cạnh việc kế thừa văn hóa truyền thống, Kawabata còn tiếp thu sáng tạo

kĩ thuật sáng tác hiện đại phương Tây. Ông rất có hứng thú với các tác phẩm văn

học phương Tây. Năm 21 tuổi, Kawabata theo học khoa văn tại Đại học Hoàng gia

Tokyo, chuyên ngành văn học Anh nhưng sau đó chuyển sang nghiên cứu văn học

58

Nhật. Đây là khoảng thời gian ông tiếp nhận các tác phẩm văn học phương Tây với

những tác giả nổi tiếng bậc nhất thế kỉ XX như Marcel Proust, James Joyce… Sự

ảnh hưởng từ những bậc thầy văn chương này là không thể phủ nhận. Tiểu thuyết

của Kawabata đa phần có cốt truyện giản dị, ở đó chủ yếu là sự đan xen dòng suy

nghĩ của nhân vật và miêu tả cảnh sắc thiên nhiên cũng như các sinh hoạt văn hóa

truyền thống Nhật Bản. Dấu ấn văn hóa Nhật Bản vẫn dễ dàng được nhận thấy trên

tất cả các phương diện từ văn học, nghệ thuật đến tôn giáo, tín ngưỡng... Nhà văn

bám chặt vào mảnh đất văn hóa dân tộc để trở về với những giá trị cội nguồn, ông

vượt lên trên tư duy nghệ thuật dân gian và luôn bắt kịp tư tưởng thời đại qua việc

tiếp biến các giá trị văn hóa nghệ thuật hiện đại trong tác phẩm.

Điều làm nên sự khác biệt của Kawabata với các tên tuổi hàng đầu mà ông

từng hết lời tán tụng như Murasaki, Saigyo, Ikkyu, Basho…, trước hết là tinh thần

hướng về những giá trị của dân tộc, trong ý thức kế thừa, bồi đắp và phát triển. Văn

chương phương Tây, cụ thể là tiểu thuyết của James Joyce, Marcel Proust và phân

tâm học của S. Freud, thực tế đã có tác động đến sáng tác của Kawabata, nhưng

điều đáng lưu ý là, dù có ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Tây phương, song Kawabata

không dùng nó làm “mẫu mực” để xây dựng nghệ thuật tư tưởng của mình. Nhà văn

chủ trương không thoát li khỏi di sản văn học Nhật, cùng những truyền thống mĩ

học của văn hóa dân tộc, vậy nên tác phẩm của nhà văn vẫn đậm chất Nhật Bản.

Trong bối cảnh xã hội Nhật Bản sau thế chiến với nhiều sự đổi thay tích cực

lẫn tiêu cực, tầng lớp trí thức cấp tiến như Kawabata ý thức rất rõ về trách nhiệm

của mỗi cá nhân đối với xã hội đương đại. Qua các tác phẩm nghệ thuật, Kawabata

đã phản ánh hiện thực cuộc sống theo một cách riêng. Lựa chọn tiếp cận tiểu thuyết

của Kawabata từ góc nhìn văn hóa, theo chúng tôi, là cách làm khoa học để khám

phá hiệu quả giá trị văn hóa dân tộc Nhật Bản qua hệ thống biểu tượng phong phú

trong các tiểu thuyết của nhà văn.

2.4.3. Sự chi phối của quan điểm thẩm mĩ đến ý nghĩa biểu tượng trong tiểu

thuyết Y. Kawabata

Quan niệm thẩm mĩ về cái Đẹp và cái Buồn - yếu tố quan trọng chi phối ý

59

nghĩa biểu tƣợng trong tiểu thuyết Y. Kawabata. Qua khảo sát các công trình

nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, có nhiều quan điểm khác nhau khi đánh giá những

nhân tố chi phối đến con đường sáng tạo nghệ thuật của Kawabata. Dù vậy, vẫn tìm

thấy những điểm thống nhất khi cho rằng, sáng tác của Kawabata tập trung hướng

tới vẻ đẹp tuyệt đích bao gồm những biểu hiện của nó và phương thức thể hiện vẻ

đẹp ấy trong tác phẩm của nhà văn. Kawabata được mệnh danh là người lữ khách u

sầu đi tìm cái đẹp, ông thực sự sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản. Nhận định này, đã phản

ánh đúng bản chất của cuộc đời và văn nghiệp của Kawabata. Suốt đời mải miết

lãng du đi tìm cái đẹp, cái đẹp của thiên nhiên, con người, và của văn hóa truyền

thống Nhật Bản đang đứng trước nhiều mối đe dọa trong cơn biến động của xã hội.

Qua mỗi sáng tác của mình, nhà văn luôn thể hiện tình yêu và niềm tự hào và trân

trọng với cái đẹp mang đậm nét màu sắc dân tộc, nằm trong nguồn mạch văn hóa

truyền thống Nhật Bản. Vì vậy, con đường sáng tạo nghệ thuật của nhà văn là hành

trình quay về, tìm lại cái đẹp mang bản sắc quê hương xứ sở, với mong muốn gìn

giữ, bảo lưu giá trị trước nguy cơ suy vi, mai một trong bối cảnh bị xâm thực của

làn sóng văn hóa và lối sống phương Tây. Đó cũng là hành trình quay về với cái bản

thể bên trong tâm hồn, tâm linh tinh khiết của mỗi người. Những nhân tố chính như

Thiền, văn hóa truyền thống và hiện đại đều có sự chi phối nhất định đối với quan

niệm thẩm mĩ của nhà văn.

Kawabata là một trong những tác giả xuất sắc của văn học hiện đại thế kỉ XX,

ông cùng với nhiều nhà văn khác đã đem phong cách chủ nghĩa hiện đại vào văn

học Nhật Bản. Điểm đáng chú ý là, Kawabata vẫn tìm được cho mình một lối đi

riêng, trong thế giới nghệ thuật của ông, nổi bật hơn hết chính là hệ thống biểu

tượng có cội nguồn từ văn hóa dân tộc, tạo nên mối liên kết chặt chẽ của hành động

và cảm xúc trong các tác phẩm của nhà văn. Ông đã dành trọn cuộc đời để bảo vệ

nâng niu, trân trọng những giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc, làm nên hồn

thiêng sông núi cho văn chương Nhật Bản. Đây chính là con đường đem đến thành

công cho Kawabata. Quan điểm sáng tác của nhà văn có sự gặp gỡ kì diệu với đặc

tính thẩm mĩ, đặc trưng văn học và đời sống văn hóa hiện đại của người Nhật.

60

Trong quan niệm nghệ thuật, người Nhật chú trọng xúc cảm thẩm mĩ, hướng đến vẻ

đẹp của thế giới bên trong, biểu hiện rõ nhất là mĩ học thời kì Heian với mĩ cảm đặc

trưng aware. Qua đó thể hiện tâm hồn nhạy bén, tinh tế và rất kì công của người

nghệ sĩ. Việc chú trọng vào đời sống tâm lí và tình cảm trong tiểu thuyết cũng là

điểm gặp gỡ của các nhà văn Nhật Bản.

Bên cạnh cái đẹp, cái buồn cũng là quan niệm thẩm mĩ chi phối đến ý nghĩa

các biểu tượng trong sáng tác của Kawabata. Cuộc đời ngắn ngủi, mong manh, số

phận của cái đẹp cũng phù du, trôi nổi vì vậy người Nhật coi trọng khoảnh khắc,

quá trình hoàn thiện của cái đẹp chứ không phải là sự hoàn hảo của cái đẹp. Đó

chính là khoảnh khắc đốn ngộ nhận ra chân lí theo tinh thần của Phật giáo Thiền

tông. Quan điểm này đã thực sự chi phối đến việc tạo dựng biểu tượng và lí giải ý

nghĩa của nó trong sáng tác của Kawabata. Trong đó, hoa anh đào là biểu tượng văn

hóa nổi bật được tạo dựng bởi sự chi phối của quan điểm thẩm mĩ số phận mong

manh, ngắn ngủi, sớm nở chóng tàn. Vì vậy, với người Nhật nói chung, ngắm hoa

để được chứng kiến khoảnh khắc bừng nở mới là chân lí của cái đẹp.

Hiện thực xã hội - ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng và quan điểm sáng tác của Y.

Kawabata. Trong xã hội hiện đại, khi văn hóa phương Tây ảnh hưởng mạnh mẽ và

phần nào có tác động tiêu cực đến đời sống xã hội thì ý thức giữ gìn bản sắc văn

hóa sẽ là hướng đi tích cực của người nghệ sĩ. Chính vì thế, dù chịu ảnh hưởng

không ít từ lối viết phương Tây nhưng Kawabata luôn khẳng định ông không bao

giờ quên gốc rễ, không đánh mất cốt cách của người Nhật Bản. Với nhà văn, tinh

thần, hồn cốt dân tộc Nhật Bản mãi trường tồn: “giống như thanh kiếm là luôn biểu

tượng cho phẩm chất đạo đức của samurai vậy” [96,45].

Trong giai đoạn xã hội Nhật Bản có nhiều biến động trước sự xâm thực ngày

càng mạnh của văn hóa và lối sống phương Tây, văn hóa truyền thống của dân tộc

đứng trước nguy cơ mai một và suy tàn. Điều này khiến nhiều người Nhật hoài nghi

trước những giá trị truyền thống, vốn đã từng là niềm tự hào của họ. Con người

đánh mất đi điểm tựa tinh thần, đánh mất niềm tin và sống trong khủng hoảng, thậm

chí họ đã có lúc muốn quay lưng với những giá trị của quá khứ, những điều làm nên

61

cốt cách dân tộc. Kawabata bằng tài năng, tâm huyết dành cho vẻ đẹp Nhật Bản,

ông thực hiện sứ mệnh của một nghệ sĩ chân chính, bằng sáng tác của mình, đã lặng

lẽ tạo dựng cho người Nhật niềm tin yêu vào giá trị, sức mạnh của bản sắc văn hóa

dân tộc. Qua đó, khẳng định ông chính là con người của văn hóa truyền thống, ông

thuộc về vẻ đẹp Nhật Bản.

Dấu ấn cuộc đời cũng là yếu tố quan trọng chi phối con đƣờng sáng tạo

của Kawabata. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, dấu ấn cuộc đời, bản chất cô độc

và căn tính cô nhi hằn sâu trong các trang sách của nhà văn. Do đó, nhiều tác phẩm

giống như cuốn nhật kí ghi lại câu chuyện cuộc đời của chính tác giả. Từ cách tiếp

cận tâm lí học, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm là

ẩn ức, khát vọng, những ám ảnh luôn tồn tại trong tâm hồn của một đứa trẻ bị tổn

thương nặng nề do sinh ra trong gia đình mất mát, tình yêu ngang trái và xã hội suy

đồi. Những mất mát của Kawabata từ lúc còn nhỏ đã kết thành vô thức của chủ đề u

sầu xuyên suốt sáng tác của nhà văn, cũng là lí do lí giải cho xu hướng sầu buồn,

nỗi ám ảnh tuổi già, cái chết và tình yêu không có hồi kết xuất hiện trong các tiểu

thuyết của Kawabata, đặc biệt là trong Người đẹp say ngủ và Tiếng rền của núi.

Đẹp và Buồn là vấn đề cốt lõi nhất trong quan niệm thẩm mĩ Kawabata. Vẻ

đẹp độc đáo từ sự thuần khiết, mong manh, gợi u buồn sâu thẳm và đậm chất triết lí

được phản ánh trong hầu hết các tác phẩm văn chương của ông. Tìm hiểu nguồn

gốc biểu tượng trong tác phẩm Kawabata, chúng tôi nhận thấy, tôn giáo, tín ngưỡng

và nghệ thuật truyền thống Nhật Bản là hai nguồn mạch chính tạo nên thế giới biểu

tượng đa dạng, nhiều màu sắc trong các sáng tác của Kawabata. Đặt chân vào thế

giới Kawabata, ấn tượng đọng lại không phải ở nội dung câu chuyện, mà ở cái cảm

giác được tận hưởng sự tinh khiết, thanh sạch của thiên nhiên, cảnh vật trong hành

trình khám phá những giá trị văn hóa truyền thống Nhật Bản. Cảm giác ấy có được,

chính là nhờ khả năng biểu trưng hóa, ẩn tàng về ý nghĩa của hệ thống biểu tượng.

Giải mã được các tầng ý nghĩa của những biểu tượng này, người đọc sẽ tiến gần hơn

tới cái đẹp độc đáo của văn hóa dân tộc được tác giả gửi gắm trong từng tác phẩm.

62

2.5. Khảo sát và phân loại biểu tƣợng văn hóa truyền thống trong tiểu

thuyết Y. Kawabata

2.5.1. Tiêu chí phân loại

Trong nghiên cứu biểu tượng, vấn đề phân loại là một công việc quan trọng, vì

vậy nó luôn giành được sự quan tâm, chú ý của các nhà khoa học. A. H. Krappe

trong cuốn Sự ra đời các huyền thoại đã thể hiện sự kì công tìm tòi về cách phân

loại biểu tượng qua việc phân biệt các biểu tượng thuộc về hai hệ thống: các biểu

tượng thuộc về đất (núi lửa, nước, hang đá) và các biểu tượng thuộc về trời (bầu

trời, mặt trăng, mặt trời). Mircea Eliade trong tác phẩm kinh điển Bàn về lịch sử các

tôn giáo, lại phân chia hệ thống biểu tượng thuộc về hai dạng: những biểu tượng về

trời (thần giông bão, thờ bái mặt trời, các hiện thân dưới nước) và những biểu tượng

địa phủ (đá, đất). [97,21]. Nawang Sari (2010), trong công trình The aging crises seen

through the characterization and symbols in Yasunari Kawabata’s The Sound of the

mountain, đã tập hợp nhiều ý kiến khác nhau trong việc phân loại biểu tượng. Trong số

đó cũng có nhiều ý kiến tương đồng, thống nhất phân chia biểu tượng thành hai loại:

biểu tượng công cộng (biểu tượng quốc gia) và biểu tượng ngữ cảnh. Biểu tượng công

cộng, là đồ vật, sự kiện mang những ý nghĩa phong phú, cố định đã được công nhận

qua quá trình lịch sử lâu dài, ví dụ, cờ quốc gia, hoặc các đối tượng tôn giáo. Các biểu

tượng ngữ cảnh là đối tượng hoặc các sự kiện mang tính biểu tượng nhờ cách xử lí của

tác giả trong một bối cảnh cụ thể. Theo cách phân loại này, biểu tượng ngữ cảnh sẽ gây

ra nhiều khó khăn hơn cho quá trình phân tích, khám phá, vì hiểu và nhận thức được

chúng phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố tồn tại bên trong và bên ngoài một tác phẩm.

[13,15]. Trần Lê Bảo trong cuốn Giải mã văn học từ mã văn hóa cũng đề xuất nhiều

cách phân loại dựa theo các tiêu chí khác nhau như: nội dung biểu hiện của biểu tượng,

hình thức, không gian, hoặc dựa vào kĩ thuật biểu hiện và sắc thái ngôn ngữ.

Có nhiều ý kiến phân loại biểu tượng thành: biểu tượng quốc gia và biểu

tượng cá nhân, theo chúng tôi cách phân loại này tương đồng với cách phân loại ở

trên. Một số tác giả khác lại phân biệt thành: biểu tượng vũ trụ, siêu hình, đạo đức,

tôn giáo, anh hùng, kĩ thuật, tâm lí… cho thấy, việc phân loại biểu tượng là công

63

việc khó khăn và phức tạp, dựa vào các tiêu chí khác nhau các nhà nghiên cứu sẽ có

cách phân loại khác nhau. Tuy vậy, cho đến nay, mọi cách phân loại theo hệ thống

các biểu tượng đều tỏ ra không thỏa đáng. Do biểu tượng mang tính đa trị, vừa để

chỉ cái này vừa để chỉ cái kia, nên việc tìm ra một cách phân loại có sự thống nhất

tuyệt đối là điều không dễ dàng.

Hệ thống biểu tượng trong tác phẩm Kawabata vô cùng đa dạng, nhiều màu

sắc, mỗi biểu tượng lại mang nội hàm, nhiều ý nghĩa, có những biểu tượng giữ được

những nét nghĩa vốn có, nhưng về cơ bản qua các tác phẩm, Kawabata đều sáng tạo

nên những nét nghĩa mới, làm phong phú thêm cho tầng nghĩa của các biểu tượng.

Chúng tôi nhận thấy, xuyên suốt các tác phẩm của Kawabata là những từ ngữ,

hình ảnh, hiện tượng được khơi nguồn từ văn hóa truyền thống Nhật Bản xuất hiện

với tần số cao, có khả năng biểu đạt hoàn hảo những ý nghĩa và quan niệm của con

người về cuộc sống. Căn cứ vào các phƣơng diện biểu hiện của văn hóa trong

tác phẩm văn học, biểu tượng trong tiểu thuyết của Kawabata được chúng tôi tìm

hiểu ở hai nhóm chính: nhóm một, biểu tượng tôn giáo, tín ngưỡng và nhóm hai,

biểu tượng nghệ thuật truyền thống.

Biểu tượng tôn giáo, tín ngưỡng được coi là bộ phận quan trọng trong văn

hóa truyền thống Nhật Bản. Tôn giáo, tín ngưỡng ăn sâu bám rễ vào đời sống văn

hóa dân tộc Nhật Bản: hoa anh đào, tuyết trắng, suối nước nóng, gương soi, cánh

hạc, trà đạo, lữ nhân… đã làm nên vẻ đẹp văn hóa riêng biệt. Sự hòa quyện giữa

Thần đạo và Thiền tông là nét đặc sắc của văn hóa Nhật, được tiếp thu và sáng tạo

trong tác phẩm của Kawabata. Trong quá trình khảo sát phân loại, chúng tôi chia

tách biểu tượng có nguồn gốc Thần đạo và Thiền tông để lí giải kĩ lưỡng ý nghĩa

các biểu tượng, song sự phân chia chỉ mang tính tương đối, bởi sự giao thoa của các

biểu tượng là điều rất dễ nhận thấy trong văn hóa Nhật.

Hoa anh đào xét về nguồn cội thuộc về Thần đạo, nó xuất phát từ quan niệm

của con người trong mối quan hệ với tự nhiên, vũ trụ, từ tình yêu với cây cỏ hoa lá,

tôn sùng tự nhiên của người Nhật. Nhưng khoảnh khắc bung nở - rơi rụng của

những cánh đào lại biểu hiện đậm đà nhất của tinh thần Thiền. Đó là khoảnh khắc

64

con người nhận ra bản thể Phật tính tinh khiết của chính mình và nhận thức về sự

ngắn ngủi, vô thường của cuộc sống, để mỗi người biết trân trọng hơn mỗi thời

khắc mà chúng ta có mặt, được tồn tại trong cuộc đời này.

Ngoài hoa anh đào, gƣơng cũng là một biểu tượng có sự giao thoa tôn giáo.

Từ trong gốc rễ, gương soi xuất phát từ câu chuyện huyền thoại về nữ thần Mặt

trời, mang ý nghĩa là ánh sáng, nguồn sống, cũng là biểu tượng cho khả năng soi

chiếu, đối lập mình với những giá trị của cuộc sống để mà hướng mình đến

những điều tốt đẹp của cuộc đời này. Về bản chất, gương thuộc về biểu tượng

của Thần đạo. Nhưng trong tác phẩm của Kawabata, bên cạnh việc tiếp thu, kế

thừa những ý nghĩa của văn hóa truyền thống, nhà văn đã sáng tạo ra rất nhiều

những biến thể mới phù hợp với việc biểu đạt ý nghĩa mới, có sự kết hợp độc đáo

với tinh thần của tôn giáo Thiền tông. Đó là tấm kính, là giọt sương, là đôi mắt,

và dải Ngân Hà… trong Xứ tuyết, là mặt hồ, là suối nước nóng trong tiểu thuyết

Hồ, Đẹp và buồn, Xứ tuyết, Cố đô…

Chúng tôi nhận thấy có nhiều nét tương đồng, gặp gỡ về ý nghĩa của các

biểu tượng, chứng tỏ có sự giao thoa giữa các tôn giáo trong đời sống văn hóa

người Nhật. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, các nhà văn chịu sự chi phối,

ảnh hưởng của nhiều tôn giáo chứ không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa nhất định

của một tôn giáo.

Biểu tượng nghệ thuật truyền thống Nhật Bản là một trong những kho tàng

lớn của thế giới. Thiên nhiên và con người chính là nguồn cảm hứng chính trong

sáng tạo nghệ thuật và lối sống của người Nhật. Xét từ trong truyền thống, nghệ

thuật Nhật Bản rất đa dạng phong phú: nghề dệt kimono, vải chijimi truyền thống,

mặt nạ kịch Noh, đàn Shamisen,… đi vào thế giới nghệ thuật của Kawabata, chúng

được khoác lên màu sắc mới, mang đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.

Trong luận án, chúng tôi lựa chọn khảo sát và giải mã các biểu tượng xuất

hiện lặp lại nhiều lần, có tần số xuất hiện cao trong các tiểu thuyết của nhà văn như:

hoa anh đào, kimono, tuyết, suối nước nóng, cánh hạc, gương soi, trà thất, trà cụ,

vải dệt chijimi, mặt nạ kịch Noh, geisha, đàn Shamisen.

65

Việc lí giải và phân tích hai nhóm biểu tượng trên, sẽ cho thấy sự kế thừa, tiếp

thu một cách chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống và nhân loại trong sáng tác

của nhà văn Kawabata.

2.5.2. Bảng thống kê phân loại các biểu tượng văn hóa truyền thống trong

tiểu thuyết Y. Kawabata

Bước vào thế giới tiểu thuyết Kawabata, cảm nhận đầu tiên đối với người đọc

là cả một sự mới lạ đầy hấp dẫn của hệ thống các biểu tượng văn hóa truyền thống

Nhật Bản. Trong luận án, chúng tôi lựa chọn, đi sâu phân tích, lí giải những biểu

tượng được Kawabata đưa vào tác phẩm nhiều lần, với tần số cao và có ý nghĩa biểu

trưng độc đáo. Từ đó, chúng tôi mong muốn làm rõ ý nghĩa dân tộc và nhân loại của

các biểu tượng, khẳng định tiểu thuyết Kawabata là thành quả của sự kết hợp nhuần

nhuyễn hai nguồn mạch văn hóa truyền thống và hiện đại, ông xứng đáng với vai

trò là người xây cầu nối giữa hai bờ Đông - Tây.

Bảng thống kê phân loại và số lần xuất hiện các biểu tượng văn hóa truyền thống

trong tiểu thuyết Y. Kawabata

Bảng thống kê phân loại các biểu tượng được khảo sát số lần xuất hiện của các

biểu tượng, đa phần dưới dạng từ ngữ, hình ảnh. Riêng biểu tượng Lữ khách vì mật

độ xuất hiện dày đặc trong sáng tác của Kawabata, chúng tôi không khảo sát tần số

xuất hiện, mà khảo sát tên của nhân vật trong các tiểu thuyết của nhà văn.

Tác phẩm Nhóm biểu tƣợng Tên biểu tƣợng

Xứ tuyết Số lần xuất hiện 132

Cố đô 15

Biểu tượng Tuyết Biểu tƣợng 9 Người đẹp say ngủ

của Thần tôn giáo, Đẹp và buồn 6

đạo tín ngƣỡng Hồ 9

67 Hoa anh đào Cố đô

23 Tiếng rền của núi

Hồ 20

66

Tác phẩm Nhóm biểu tƣợng Tên biểu tƣợng

Suối nước nóng Xứ tuyết Số lần xuất hiện 18

Tiếng rền của núi 5

Cánh hạc 13

Gương Ngàn cánh hạc Xứ tuyết 81

Ngàn cánh hạc 28

Đẹp và buồn 21

Hồ 73

Biểu tượng Cố đô 7

của Thiền Trà đạo Ngàn cánh hạc 329

Đẹp và buồn 13

Xứ tuyết Shimamura

Lữ khách Cố đô Takichiro

Ngàn cánh hạc Kikuji

Tiếng rền của núi Shingo

Người đẹp say ngủ Eguchi

Đẹp và buồn Oki Toshio

Xứ tuyết 41

Biểu tƣợng Cố đô 232

Biểu tượng nghệ thuật Ngàn cánh hạc 17

nghệ thuật Kimono truyền Tiếng rền của núi 20

dệt may thống Người đẹp say ngủ 7

truyền thống Đẹp và buồn 30

28 Vải dệt chijimi Xứ tuyết

68 Biểu tượng Xứ tuyết

nghệ thuật Geisha Người đẹp say ngủ 3

biểu diễn, 37 Đàn Shamisen Xứ tuyết

sân khấu 45 Mặt nạ kịch Noh Tiếng rền của núi

67

Qua khảo sát, chúng tôi phát hiện những nét văn hóa truyền thống nổi bật trong

tiểu thuyết Kawabata rất đa dạng phong phú. Đó là vẻ đẹp Nhật Bản độc đáo: tuyết

trắng tinh khiết, âm thanh của đàn Shamisen và những cô geisha xinh đẹp trong Xứ

tuyết; nghệ thuật trà đạo trong Ngàn cánh hạc, Cố đô; hoa anh đào và nghệ thuật

dệt may kimono, thắt lưng Obi, mặt nạ kịch Noh; những Lữ khách đi tìm cái đẹp

xuyên suốt trong các sáng tác của nhà văn… Tất cả đều là linh hồn của Nhật Bản xa

xưa, được tái hiện sinh động qua ngòi bút tài năng Kawabata.

Một điều rất đặc biệt trong thế giới biểu tượng của Kawabata đó là, sự xuất

hiện của nhiều biểu tượng xuyên qua hầu hết các tiểu thuyết của ông như: Tuyết,

hoa anh đào, gương soi, trà đạo, kimono, lữ khách. Trong đó, gương là một biểu

tượng có số lần xuất hiện khá cao, dưới nhiều dạng biến thể: về không gian tồn tại

(hồ) và các trạng thái biểu hiện (sương, kính toa tầu, đôi mắt, vì sao, dải Ngân Hà,

trăng, mặt trời). Lữ khách cũng là một biểu tượng xuyên suốt, được xem là hóa thân

của Kawabata trên hành trình đi tìm cái đẹp và tìm về với bản chất “chân như” của

con người. Giải mã biểu tượng văn hóa truyền thống trong tác phẩm Kawabata sẽ

giúp ta hiểu rõ hơn về tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, khẳng định sự sáng tạo của

nhà văn trong việc kế thừa, tiếp nối những giá trị văn hóa truyền thống của nhân

loại trong tác phẩm của mình.

Bản thân mỗi biểu tượng là một thế giới riêng nhưng không vì thế nó là một

hiện tượng khép kín, từ các biểu tượng văn hóa chung, phổ quát ấy, trải qua quá

trình lịch sử được bồi đắp thêm nhiều tầng nghĩa mới nhờ vào từng cá nhân và tập

thể tạo nên. Vận dụng lí thuyết về biểu tượng, biểu tượng văn hóa, biểu tượng văn

hóa truyền thống cùng với việc tiếp cận kí hiệu học và văn hóa học, chúng tôi sẽ

tiến hành lí giải phân tích hệ thống biểu tượng văn hóa truyền thống ở những

chương tiếp theo của luận án.

68

Tiểu kết

Chương II của luận án đã khảo cứu các khái niệm biểu tượng, biểu tượng văn

hóa, và đưa ra cách hiểu về biểu tượng văn hóa truyền thống, soi chiếu, vận dụng để

thống kê và phân loại các biểu tượng văn hóa trong tiểu thuyết Kawabata theo các

tiêu chí cụ thể. Việc nhìn nhận biểu tượng trong các chiều văn hóa khác nhau, sẽ

cho chúng tôi những căn cứ để bước đầu lí giải cơ sở hình thành, sử dụng và sáng

tạo hệ thống biểu tượng phong phú trong tác phẩm của nhà văn.

Tìm hiểu thế giới biểu tượng văn hóa truyền thống trong tiểu thuyết Kawabata

sẽ giúp người đọc khám phá thế giới nghệ thuật đa sắc thái của ông. Việc xây dựng

hệ thống biểu tượng văn hóa hàm ẩn nhiều nghĩa không phải là sự đột phá khác lạ

của nhà văn, mà điều độc đáo ở Kawabata chính là đã xây dựng thế giới biểu tượng

mang đậm dấu ấn riêng. Vậy, đâu là điểm kế thừa truyền thống và đâu là nét mới để

tạo nên “phong cách Kawabata”, những vấn đề ấy sẽ được chúng tôi giải đáp trong

quá trình tìm hiểu và lí giải giải ý nghĩa của hệ thống biểu tượng trong các tác phẩm

tiêu biểu của nhà văn ở các chương tiếp theo của luận án.

69

Chƣơng 3

BIỂU TƢỢNG TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG

Tác phẩm của Kawabata là kết tinh của tinh thần văn hóa dân tộc, tôn giáo, tín

ngưỡng cũng trở thành một kí hiệu để giải mã thông qua lớp vỏ ngôn ngữ, tôn giáo

không thể tách khỏi văn hóa, “không có nền nghệ thuật nào xưa kia không gắn với

tín ngưỡng hay tôn giáo” [98,26]. Đây chính là trầm tích văn hóa, thông qua việc

giải mã, chúng tôi mong muốn khám phá thế giới nghệ thuật phong phú và độc đáo

của nhà văn Kawabata.

Căn cứ vào kết quả khảo sát và phân loại biểu tượng ở chương 2, chúng tôi

tiến hành lí giải và phân tích biểu tượng tôn giáo tín ngưỡng trong tiểu thuyết của

Y. Kawabata.

3.1. Mối quan hệ giữa biểu tƣợng với tôn giáo, tín ngƣỡng trong tiểu

thuyết Y. Kawabata

Tôn giáo, tín ngưỡng là một trong những phương diện biểu hiện của văn hóa

trong tác phẩm văn học. Tôn giáo là một phần tất yếu và quan trọng trong đời sống

tinh thần của nhân loại từ thời nguyên thủy đến nay. Ở phương Tây, khi Thiên chúa

giáo chưa ra đời, những hạt nhân của tôn giáo đã nằm trong kho tàng thần thoại Hy

Lạp. Thế giới đa thần giáo với các vị nam thần, nữ thần biểu hiện cho hình dung của

con người nguyên thủy về một trật tự trong vũ trụ và sự gắn kết của họ với thế giới

tự nhiên. Ngay từ khi đó, tôn giáo nguyên thủy đã tồn tại dựa trên tính biểu tượng.

“Mặt trời không chỉ là biểu tượng cho nguồn sáng thiêng liêng mà còn là thần

thánh. Mùa xuân không chỉ là biểu tượng của sự sinh sôi nảy nở mà còn mang ý

nghĩa về sự phục sinh. Có thể thấy, trong ý nghĩa của các biểu tượng đã bao hàm

mối quan hệ với tôn giáo” [99,39]. Quả thật, không có một di tích tôn giáo nào

không có hiện vật gắn với biểu tượng. Biểu tượng xác định tư cách cho những kiến

trúc cùng với hệ thống đồ thờ liên quan để trở thành di tích mang tính chất tôn giáo

tín ngưỡng hay không tín ngưỡng. Như vậy, thông qua hệ thống biểu tượng, con

người có thể tìm về bản thể chân như thuộc vẻ đẹp của truyền thống ngàn xưa, để

70

bồi đắp thêm tình yêu quê hương xứ sở và nâng cao ý thức trách nhiệm đối với cuộc

đời. Điều này cũng đã lí giải cách thức lựa chọn biểu tượng của Kawabata để thể

hiện và khẳng định giá trị của truyền thống văn hóa dân tộc qua các trang văn của

mình. Đặc trưng nổi bật của nó, chính là sự hòa quyện tinh tế giữa nghệ thuật với

tôn giáo. Tinh thần thẩm mĩ và tôn giáo không chỉ đậm nét trong văn chương nghệ

thuật mà còn trong các sản phẩm văn hóa độc đáo của người Nhật. Có thể nói, tinh

thần tín ngưỡng tôn giáo của người Nhật gắn với cảm hứng từ thiên nhiên, vũ trụ. Ở

Nhật, bốn mùa trong năm đều có các lễ hội được tổ chức, ngắm hoa anh đào, ngắm

tuyết, thưởng rượu Sake trong không gian vườn chùa là một nét đẹp văn hóa, mang

trong đó niềm tin, tín ngưỡng rất độc đáo của người Nhật.

Người Nhật quan niệm, sinh ra theo Thần đạo, chết đi theo đạo Phật. Vì vậy, ở

Nhật một người không chỉ theo một tôn giáo mà họ có thể theo nhiều tôn giáo khác

nhau. Khi Thiền tông được truyền bá từ Trung Quốc, trở thành tín ngưỡng của Nhật

thì các nhà sư của tôn giáo này cũng bắt đầu sáng tác những tác phẩm phản ánh sự

liên quan chặt chẽ giữa nghệ thuật và tôn giáo.

Nhật Bản từ thời xa xưa đã là một dân tộc duy mĩ. Văn hóa của họ thiên về

tình cảm và cái đẹp, mong muốn hướng tới và khẳng định cái đẹp, điều này được

phản ánh cụ thể trong Cổ sự kí, qua huyền thoại về nữ thần Mặt trời Amaterasu. Đối

với họ, cái đẹp chính là linh hồn của văn hóa, đến nay, nó vẫn tồn tại như là nguyên

lí của đời sống Nhật Bản. Thần đạo được ươm mầm trong lịch sử nghệ thuật, phong

tục văn hóa Nhật Bản. Phật giáo khi du nhập vào Nhật Bản đã trải qua nhiều biến

đổi để thích nghi với nền mĩ học thuần khiết, thanh nhã hòa điệu với thiên nhiên,

tôn trọng bản chất tự nhiên, đơn sơ thô mộc của thế giới. Ở Nhật, Thần đạo có mối

liên hệ chặt chẽ với Phật giáo, vì vậy đặc trưng duy mĩ, duy tình của văn học Nhật

cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Thần đạo và Thiền tông. Nghệ thuật Nhật Bản

đích thực là một loại Thiền, là cỗ xe chuyên chở sự hiển linh, giác ngộ, điều này cho

thấy, tôn giáo ở bất kì một quốc gia dân tộc nào cũng có tác động, ảnh hưởng lớn

đến văn chương.

Tác phẩm của Kawabata chính là một con đường Thiền thẩm thấu tự nhiên,

71

một kí hiệu văn hóa trong đời sống Nhật Bản. Trong diễn từ Nobel, ông đã lặp lại

nhiều lần khi nhấn mạnh đến ý nghĩa của Phật giáo nói chung và Thiền nói riêng đối

với sáng tác văn chương. Ông cho rằng, Kinh Phật là kinh điển vĩ đại nhất của thế

giới được thắp sáng và chắc chắn Phật giáo nằm ở trung tâm của nhiệm vụ tìm kiếm

hư vô, về sự diệt vong, ẩn chứa trong các sáng tác của nhà văn, trong đó phải kể đến

tiểu thuyết Người đẹp say ngủ.

Khi khám phá các biểu tượng tôn giáo, tín ngưỡng trong tiểu thuyết Kawabata,

chúng tôi không đề ra nhiệm vụ tìm hiểu như ngành thần học, nghiên cứu thánh

tượng hay nhân học tôn giáo. Nghĩa là, không nghiên cứu biểu tượng trong tôn giáo

như một đối tượng mà những ý nghĩ, lời nguyện cầu tập trung vào. Chúng tôi tập

trung lí giải các biểu tượng có nguồn gốc từ tôn giáo xuất hiện trong tiểu thuyết

Kawabata để hiểu thêm về khả năng biểu đạt những ý nghĩa thẩm mĩ. Có thể nói,

“ông là nhà văn đại diện cho tâm hồn yêu chuộng cái đẹp và mĩ cảm tinh tế của dân

tộc Nhật Bản. Các nguyên tắc thẩm mĩ trở thành các giá trị văn hóa, định hướng

triết lí sống và thị hiếu thẩm mĩ trong đời sống của người Nhật. Thêm nữa ông còn

là nhà văn chịu ảnh hưởng sâu sắc của giáo lí Thiền tông, nên người đọc dễ nhận

thấy, trong tác phẩm của ông là những ẩn dụ lớn về triết lí nhân sinh thông qua một

hệ thống các biểu tượng, cùng những ám thị, đốn ngộ thể hiện qua lối cách điệu,

biểu trưng mạnh mẽ” [92,265]. Các biểu tượng có nguồn gốc tôn giáo, là một phần

quan trọng trong thế giới nghệ thuật của Kawabata, chứa đựng sự đổi mới, sáng tạo

trong lối viết của nhà văn.

3.2. Biểu tƣợng của Thần đạo

Nhật Bản là đất nước có nền văn hóa độc đáo. Khoảng thế kỷ thứ IV và V, ở

Nhật Bản xuất hiện tín ngưỡng Shinto - tức Thần đạo. Thần đạo đề cao quan niệm

vạn vật hữu linh, được xem là tôn giáo bản địa của người Nhật. Điểm đặc biệt là,

tôn giáo này, không có giáo lí, kinh bổn như các tôn giáo khác. Thần đạo thể hiện

sự tôn thờ các lực lượng trừu tượng của tự nhiên, tổ tiên, đa thần giáo và vật

linh.Trọng tâm của Thần đạo vẫn là sự thuần khiết trong nghi lễ, xoay quanh việc

tôn vinh sự tồn tại của Kami (linh hồn). Người theo Thần đạo thờ rất nhiều Kami là

72

những vị thần tự nhiên hay nhân thần, hiện hữu qua các tảng đá, gốc cây, sông hồ,

núi non... Tín ngưỡng Thần đạo như một cuộc kiếm tìm sự thanh khiết, trong trẻo

và hòa hợp với thiên nhiên. Vì vậy, mĩ học bền vững của Thần đạo được cảm nhận

qua tình yêu sâu sắc với thiên nhiên; với hoa, tuyết; với những sản phẩm thủ công

truyền thống đơn sơ song lại hàm chứa bao nhiêu sự tinh tế. Chúng tôi cũng tìm

thấy các ý nghĩa tôn giáo ấy thông qua khảo sát các biểu tượng có cội nguồn từ văn

hóa truyền thống Nhật Bản. Hoa, trăng, tuyết, gương soi, cánh hạc, suối nước nóng

chính là hồn cốt của truyền thống văn học Nhật Bản.

3.2.1. Biểu tượng Hoa anh đào

3.2.1.1. Hoa anh đào trong văn hóa truyền thống

Trong rất nhiều điều phải nói về đời sống văn hóa Nhật Bản, không thể không

nói đến tình yêu thiên nhiên và tư tưởng sinh mệnh của con người nằm trong tự

nhiên. [100,37]. Triết lí này gắn với tín ngưỡng Shinto, là cốt lõi tinh thần làm nên

cảm xúc mãnh liệt của người Nhật đối với thế giới xung quanh. Hoa chính là đấng

kami, vì vậy họ dâng hoa trong các nghi lễ tôn giáo. Hoa chính là cái đẹp, kết tinh lí

tưởng thẩm mĩ trong đời sống con người. Khi hoa nở, hay lúc hoa tàn, người Nhật

đều say đắm với một mĩ cảm vô cùng đặc biệt. Bốn mùa quanh năm người Nhật đều

có lễ hội hoa đặc trưng theo từng mùa, cho thấy tình yêu cái Đẹp, tinh thần duy mĩ,

duy mĩ đến mức tuyệt đối của con người nơi đây, đơn giản vì đối với họ, không một

hiện tượng nào của thiên nhiên bị bỏ qua, mùa xuân cũng như mùa hạ, mùa thu và

mùa đông. Hoa không chỉ là hình ảnh thiên nhiên, mà hoa còn là không gian sống,

trở thành một biểu tượng rất quen thuộc khi nhắc đến văn hóa đất nước Phù Tang.

Người Nhật có rất nhiều lễ hội, ngắm hoa anh đào mùa xuân là một lễ hội lớn,

mang nét văn hóa đặc trưng, như cách mà Kawabata đã nói trong Diễn từ Nobel, để

khẳng định căn tính của tâm hồn Nhật Bản. Từ quan niệm vạn vật, cỏ cây hoa lá

đều có linh hồn, hoa được coi là kí hiệu văn hóa tiêu biểu của tâm hồn Nhật Bản.

Vẻ đẹp thiên nhiên vì thế, cũng trở thành tiêu chuẩn thẩm mĩ, với người Nhật những

gì mang tính tự nhiên, bình dị như vốn có chính là tiêu chuẩn của cái đẹp. Với họ,

hoa phải là hoa ngoài đồng, núi phải là núi phủ trắng tuyết mùa đông... mới tạo nên

73

cảm xúc mạnh mẽ cho tâm hồn con người.

Trong văn thơ truyền thống, người Nhật thể hiện tình yêu, sự quan sát và

nhạy cảm tinh tế trước thiên nhiên cảnh vật. Haiku là thể thơ phụ thuộc nhiều

nhất vào mùa (kigo, quý ngữ), chủ đề của thơ là những sự vật bình dị của cuộc

sống và của thiên nhiên cảnh vật. Vạn diệp tập là tuyển tập thơ lớn nhất và cổ

xưa nhất của văn học Nhật, trong khoảng bốn ngàn năm trăm bài thơ thì chiếm

phần lớn là những bài lấy chủ đề là thiên nhiên, miêu tả các loại cây và hoa để

bộc lộ nội tâm, thơ ca Nhật Bản chính là hạt tâm hồn gieo mọc trên mười nghìn

chiếc lá ngôn từ. Trong cuốn Thơ ca Nhật Bản, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cũng

nhận ra vẻ đẹp đó trong áng thơ cổ xưa: “Khi nhìn hoa đào hay núi sông, thì cái

đẹp cũng như sức mạnh của thiên nhiên đã nhập vào ta” [101,17]. Sẽ là thiếu sót

nếu không điểm tên Truyện Genji, một tác phẩm được đánh giá là tạo nên những

bức tranh thiên nhiên tuyệt vời. Trong rất nhiều loài thực vật được miêu tả trong

tác phẩm, hoa anh đào vẫn được nhắc đến nhiều nhất, đến mức nói đến hoa, thì

mặc định là hoa anh đào. Mùa xuân chính là dịp để người Nhật thể hiện tình yêu

đối với loài hoa tuyệt đẹp này, theo một cách rất đặc biệt của họ, tình hình hoa

nở được cập nhật từng ngày trên báo chí và truyền hình, dân chúng lũ lượt đi

ngắm hoa, mở yến tiệc, hát ca dưới hoa.

Đối với người Nhật, thiên nhiên luôn là niềm cảm hứng bất tận, khơi nguồn

cho mọi sáng tạo, làm nên nét riêng biệt cho nghệ thuật Nhật Bản. Người Nhật tôn

sùng cánh anh đào, bởi nó ngắn ngủi và mong manh nhất. Nhưng hoa phải rụng như

phẩm chất thường hằng của cuộc đời đầy ý nghĩa này. Hoa rụng để được tái sinh

mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Sự rụng rơi của cánh hoa trở thành một nhận thức thẩm

mĩ sâu sắc, vừa đậm tính chất tôn giáo, vừa vô cùng tự nhiên trong tâm hồn con

người Nhật Bản. Họ có niềm rung cảm mãnh liệt với khoảnh khắc khi hoa tàn, lúc

cánh hoa rơi, trân trọng thời khắc tồn tại ngắn ngủi của cái đẹp, chắt chiu từng giây

phút có mặt trong cuộc đời, sống trọn vẹn và bộc lộ chân thực hết mình. Hoa anh

đào không vĩnh cửu ở đỉnh cao viên mãn, mà chính sự tàn rơi của những cánh hoa

nhỏ bé mới chạm đến trái tim mong manh của nhân thế. Cánh hoa anh đào lìa cành

74

trong độ rực rỡ nhất để lại biết bao nuối tiếc. Người Nhật yêu cái đẹp, sống và chết

đều quyết liệt. Điều đó hình thành nên một chân lí đơn giản, biết chết đẹp, thanh

thản và nhẹ nhàng như những cánh anh đào rơi thì sẽ biết sống đẹp để không có gì

phải hối tiếc.

Người Nhật luôn tự hào rằng, thế gian chẳng còn gì đẹp hơn anh đào nở hoa.

Hoa có vẻ đẹp nguyên sơ, trinh bạch và đẹp dịu dàng đến khó tả. Hoa anh đào nở rộ

trong hai tuần và tàn nhanh trong khi đang đẹp nhất. Đây cũng là sự cảm nhận về

cái vô thường của Phật giáo. Nó là quy luật khách quan, vạn vật biến đổi theo quy

luật: Sinh - trụ - dị - diệt. Khi ngắm nhìn những cánh hoa đào tuyệt đẹp nhưng

mong manh mau tàn rụng, con người ý thức được khoảnh khắc hiện tại mới đáng

quý, nâng niu, trân trọng. Hoa anh đào biểu tượng cho sự mong manh của kiếp

người, sự ngắn ngủi, nhanh chóng phai tàn của cái đẹp. Nhìn cánh đào bé nhỏ mong

manh, người ta dễ liên tưởng đến những cuộc đời hư ảo và số kiếp lênh đênh trôi

nổi phù du của cõi người.

3.2.1.2. Hoa anh đào trong tiểu thuyết Y. Kawabata - biểu tượng của cái đẹp

mong manh, ngắn ngủi

Hoa anh đào được nhắc đến 67 lần trong Cố đô, 23 lần trong Tiếng rền của núi

và 20 lần trong tiểu thuyết Hồ, cho thấy vai trò quan trọng của nó trong thế giới

nghệ thuật của Kawabata. Hoa anh đào trong tác phẩm của nhà văn không chỉ thể

hiện tình yêu, mối quan hệ gắn bó của con người với thiên nhiên vũ trụ, mà quan

trọng hơn, nó là biểu tượng cho vẻ đẹp thanh khiết và số phận mong manh của cái

đẹp trong xã hội đương thời.

Hoa anh đào - biểu tượng của vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết, thấm đượm

u sầu. Cũng là sự thể hiện tình yêu, niềm tự hào về vẻ đẹp Nhật Bản qua biểu tượng

hoa anh đào, nhưng trong tác phẩm của mình, nhà văn Kawabata đã có những sáng

tạo theo một cách rất riêng.

Hoa anh đào trong Cố đô được miêu tả cùng với thế giới phong phú của các

loại cây cỏ bốn mùa. Cùng với đó là niềm say mê, tự hào trong những câu chuyện

mà nhà văn kể về lễ hội hoa anh đào mùa xuân và truyền thống ngắm hoa anh đào ở

75

các ngôi chùa cổ của người Nhật, hầu như không ngày nào là không có hội chùa lớn

nhỏ. Những giá trị của quá khứ đang được tái hiện qua không khí của các lễ hội

diễn ra quanh năm ở Kyoto. Dù thời cuộc đổi khác, nhưng ngắm hoa vẫn là một thói

quen tao nhã, đã trở thành nếp sống văn hóa của người dân Cố đô.

Hoa anh đào trở thành biểu tượng cho nét đẹp trong sáng, thanh khiết của các

nhân vật trong tác phẩm của nhà văn. Đó là, Chieko, Naeko trong Cố đô; Komoko,

Yoko trong Xứ tuyết, hay Otoko trong Đẹp và buồn… Họ mang vẻ đẹp của sự nhạy

cảm, tinh tế, luôn đắm say với thiên nhiên cảnh vật. Chieko của Cố đô đặc biệt yêu

hoa, thích những chiếc lá non, cả màu xanh tươi mát của cây cối. Shingo trong

Tiếng rền của núi cũng có những giây phút “lặng thinh ngắm nhìn cây anh đào nở

đầy hoa”. Việc ngắm hoa nở bên những ngôi chùa cổ kính là sự kiện quan trọng

trong năm vào độ tháng ba của người dân cố đô. Lễ hội thể hiện mối quan hệ tương

giao hòa hợp giữa con người và trời đất, là thú vui tao nhã và linh thiêng. Shinichi

say sưa ngắm nhìn, mê đắm bởi vẻ đẹp thướt tha dịu dàng của hoa, và trong cái nhìn

của anh thì hoa anh đào đích thị mang hình hài và tính cách của một người phụ nữ,

đầy nữ tính.

Hoa anh đào cũng là biểu tượng cho cái đẹp thấm đẫm u sầu. Chieko trong Cố

đô mang vẻ đẹp thuần khiết, nhưng tâm trạng luôn chất chứa nỗi buồn. Ngay cả lúc

ngắm nhìn vẻ đẹp của cây phong mỗi độ xuân về, tâm hồn nàng vẫn chất đầy những

ưu tư. Bởi đối với nàng, cây phong chính là tượng trưng cho nỗi buồn chia ly trong

tình yêu. Sự tinh tế nhạy cảm của Chieko thể hiện trái tim đầy yêu thương, sự dịu

dàng đối với cỏ cây hoa lá, nhưng nó cũng thể hiện sâu sắc những cảm nhận của

nàng về cuộc đời, về tình yêu. Cũng giống như Chieko, hai nàng geisha Komako và

Yoko của Xứ tuyết, tiêu biểu cho vẻ đẹp trong sáng, tinh khiết, nhưng số phận cũng

đầy bi thương. Họ mang vẻ đẹp mong manh hư ảo, mau chóng tan biến như những

bông tuyết đầu mùa, cuộc đời phù du, trôi nổi đầy bất hạnh.

Hoa anh đào mang vẻ đẹp mong manh khó tả khiến cho con người dễ có

những xúc cảm sâu xa về thế giới nhân sinh. Trong tác phẩm Cố đô, con người nhìn

những cánh hoa rơi cũng thấy thế gian đang thay đổi, Chieko đã phải thốt lên khi

76

nhận ra khoảnh khắc kì diệu của tạo hóa “Cảnh hoa rụng cũng rất tuyệt”. Hoa không

phải vĩnh cửu ở đỉnh cao viên mãn, mà sự tàn rơi của cái đẹp mới chạm đến trái tim

mong manh của nhân thế. Hình ảnh hoa rơi, đọng lại niềm bi cảm aware của nhân

gian. Nỗi niềm rơi rụng phù du nhân thế ấy trở thành một mĩ cảm đặc biệt trong tâm

hồn người Nhật, chạm được đến tận cùng của những trái tim đa sầu đa cảm.

Hoa anh đào - biểu tượng cho số phận mong manh, ngắn ngủi của cái đẹp

Sự xuất hiện lặp lại với tần số cao của biểu tượng hoa anh đào gợi nhớ đến sự

bấp bênh, trôi nổi của số kiếp con người, sự vô thường của cuộc sống và đặc biệt là

sự tàn phai nhanh chóng của cái đẹp. Mỗi trang văn như gieo vào tâm hồn con người

nỗi buồn u hoài, lặng lẽ, khắc khoải chìm sâu trong kí ức, trong những hoài niệm.

Kawabata đã làm mới hình tượng của hoa anh đào, khi hoa đại diện cho vẻ duyên

dáng và bất diệt của cái đẹp đối lập với xã hội đô thị ồn ào và phàm tục. Bên cạnh vẻ

đẹp cuốn hút khó cưỡng của hoa, con người dường như đã cảm thấy nỗi buồn se sắt

trước cảnh vật. Hoa anh đào được yêu thích không phải vì đẹp hơn các loài hoa khác,

mà ở cảm xúc, sự truyền cảm mãnh liệt hoa đem đến cho con người, đó là khoảng

khắc chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Hoa trở thành định mệnh héo úa, tàn tạ, vẻ đẹp

của nó mãnh liệt như phù du, mong manh và đang bay xa. Ngày xưa và ngày nay, hoa

muôn đời vẫn thế nhưng cách con người đối xử với hoa hay với thiên nhiên đã khác

khiến những xúc cảm khi ngắm hoa cũng không còn nguyên vẹn. Sự trân trọng, nâng

niu những cảm xúc trong sáng trước cái đẹp đã không còn nữa. Xã hội trở nên đảo

lộn và những giá trị đẹp đẽ dần mất đi theo thời gian. Hoa anh đào trở thành đại diện

cho số phận của cái đẹp truyền thống Nhật đang kêu cứu trước sự xâm nhập ồ ạt của

văn hóa phương Tây, đó là những ngành nghề truyền thống, vải dệt chijimi, may

kimono, hay may thắt lưng Obi. Trước ảnh hưởng của trào lưu hiện đại, dệt kimono

truyền thống được thay thế bằng máy móc, sản phẩm được tạo ra dư thừa, nhưng hạn

chế về chất lượng. Đây chính là nỗi buồn, niềm tiếc nuối của những người thợ dệt

chân chính, những nghệ sĩ thực thụ dệt áo bằng tình yêu và tâm huyết đối với truyền

thống văn hóa dân tộc. Dù cuộc sống đổi thay, vẫn còn những con người nồng hậu,

tốt bụng, trân trọng tình người, luôn khát khao bảo vệ cái đẹp như quốc hồn quốc túy.

77

Đó là ông Takichiro, là chàng trai trẻ tài năng Hideo, hay lữ khách Shimamura -

những nhân vật thuộc về nền văn hóa truyền thống Cố đô. Vẫn còn đó những cánh

hoa anh đào nhưng phủ lên cái bóng thời gian đang phôi phai. Thế giới đang đổi thay

nhanh chóng, nhưng vẫn còn nhiều điều tốt đẹp mang hồn cốt, bản sắc dân tộc cần

được bảo lưu và gìn giữ.

Do vậy, người đọc càng thêm yêu mến, trân trọng tấm lòng nhà văn, tấm lòng

một người con của nền văn hóa Cố đô. Hoa anh đào thực sự là biểu tượng của giá

trị nhân văn cao đẹp, đáng trân trọng và tự hào của nền văn hóa Nhật Bản.

3.2.2. Biểu tượng tuyết

3.2.2.1. Tuyết trong văn hóa truyền thống

Tuyết nổi bật bởi sự bao phủ của sắc trắng, là màu mang lại nhiều ý nghĩa

trong văn hóa Đông - Tây. “Màu trắng của phương Tây là màu trắng mờ của cái

chết, làm tiêu tan con người và đưa về thế giới thuộc mặt trăng, lạnh lẽo, âm tính,

đưa tới sự trống vắng của ban đêm, khi mà mọi sắc màu ban ngày đều tan biến”. Ở

phương Đông, “là màu sự quay về, đó là màu trắng lúc rạng đông, khi bầu trời lại

hiện ra còn chưa có màu sắc gì nhưng đầy những tiềm năng biểu hiện, vũ trụ vĩ mô

và vũ trụ vi mô đã tự nạp lấy tiềm năng đó… Màu trắng mà người ta thường coi là

vô sắc… giống như một biểu tượng về một thế giới, trong đó mọi màu sắc, là thuộc

tính của những thực thể vật chất đều tan biến cả” [59,924].

Trong niềm tin với Thần đạo, người Nhật tìm thấy sự linh thiêng trong mọi

hiện tượng tự nhiên. Trong đó, tuyết cũng ẩn chứa những ý nghĩa sâu thẳm huyền

bí, chứa đựng sức mạnh bên trong của tự nhiên, vũ trụ. Uống rượu sake và ngắm

tuyết rơi chính là thú vui thanh tao, mang đậm bản sắc Nhật Bản nhất. Những ngôi

đền của Nhật Bản đẹp nhất là vào mùa đông, và đây cũng là nơi thuận tiện nhất để

ngắm tuyết rơi. Người ta cho rằng sự khắc nghiệt, “dữ dội” của thiên nhiên cũng

đem lại sắc thái “dữ dội” cho tâm tính Nhật. Miền Bắc Nhật Bản là nơi băng giá,

tuyết phủ trắng xóa, tạo nên những cảm xúc thiêng liêng và thần bí.

3.2.2.2. Tuyết trong tiểu thuyết của Y. Kawabata - biểu tượng của cái đẹp tinh

khiết, thanh sạch

78

Kawabata đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên bốn mùa tinh khiết nguyên sơ

với những biểu tượng nổi tiếng của cảnh sắc xứ Phù tang. Tuyết được xem là kí

hiệu thẩm mĩ, trở thành một biểu tượng quan trọng, nổi bật, giúp người đọc bước

vào khu vườn ngát hương của văn hóa truyền thống Nhật Bản. Tuyết được miêu tả

lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh bởi sắc trắng tinh khôi và không khí trong trẻo trong

sáng tác của Kawabata. Theo khảo sát của chúng tôi, trong Xứ tuyết có tới 132 lần,

Cố đô 15 lần, Hồ và Người đẹp say ngủ có 9 lần xuất hiện những chi tiết liên quan

tới tuyết, trong đó màu trắng của tuyết là trung tâm mang ý nghĩa biểu trưng cao,

tạo ấn tượng đặc biệt với người đọc.

Tuyết trắng - biểu tượng không gian tinh khiết, thanh sạch và thế giới

huyền ảo của cái đẹp. Điểm độc đáo, dễ nhận thấy trong thế giới nghệ thuật của

Kawabata, là tinh thần thẩm mĩ hướng về cái đẹp tinh khiết, trinh bạch, hư không.

Nhà văn đã giải thích cái trống rỗng, cái im lặng cô tịch như là cái đẹp đích thực, và

nỗi buồn u uẩn tựa như là đốm lửa lạc loài trong đêm đông tuyết lạnh giữa một

vùng băng giá. Tuyết là một trong những biểu tượng nổi bật trong sáng tác của

Kawabata, được thổi hồn mang vẻ đẹp thuần khiết, trinh bạch của thiên nhiên.

Tuyết được nhấn mạnh ở tính chất trường tồn, không thay màu, biến sắc, nó luôn là

màu trắng mang vẻ đẹp của sự thanh sạch tràn ngập không gian lạnh giá. Bởi thế,

tuyết chính là biểu tượng cho cõi mênh mông tinh khiết.

Kawabata đã từng khẳng định, “màu trắng là màu thanh sạch nhất mà cũng

hàm súc nhất”. Có lẽ vì thế mà cả vùng thiên nhiên phương Bắc Nhật Bản được đặt

làm nhan đề và đã trở thành bối cảnh cho cuốn tiểu thuyết được coi là “quốc bảo”

của ông. Giữa không gian băng giá lạnh lẽo, con người vẫn luôn cảm nhận được cái

ấm áp của ánh mặt trời, ánh sáng ở ngay trong tâm hồn của lữ khách Shimamura.

Tuyết trong tác phẩm của Kawabata mang vẻ đẹp thật sự khác biệt của thiên nhiên,

trong đó gây ấn tượng nhất là màu trắng của không gian xứ tuyết, là biểu tượng của

sự tinh khiết và hư ảo. Vì vậy, sự che phủ của tuyết khiến ta có cảm giác cảnh vật

dường như mềm mại nhẹ nhàng hơn qua con mắt quan sát tinh tế của Shimamura.

Song, đôi lúc tuyết cũng làm ta liên tưởng đến sự nặng nề, “chật hẹp” và “đơn độc”

79

nhưng màu trắng tinh khiết, giản dị của tuyết vẫn luôn có sức gợi cảm mãnh liệt.

Nhưng ám ảnh hơn cả, vẫn là cảm giác cô đơn, lạnh lẽo của mùa đông xứ tuyết, và

những câu chuyện tình yêu không có hồi kết, con người vẫn khao khát dâng hiến và

tìm kiếm tình yêu trong hư ảo.

Kawabata xứng đáng “tiêu biểu cho tâm hồn Nhật Bản”, ông không bỏ qua bất

kì hình ảnh nào khi nói về thiên nhiên, nó luôn hiện lên sinh động trong mỗi trang

văn của ông.

Tuyết trắng mang ý nghĩa soi sáng, thanh lọc tâm hồn. “Xứ tuyết mang trong

nó một tâm hồn Nhật Bản thuần khiết, một vẻ đẹp vô song của thiên nhiên, nối tiếp

một truyền thống lấy thiên nhiên làm nguồn mạch cho nền văn hóa của mình”

[102,22]. Tác phẩm được đan cài, lồng ghép tinh tế rất nhiều chủ đề: tình yêu, ý

nghĩa cuộc sống và cái chết, thể xác và tâm hồn, con người và thiên nhiên, cái đẹp

và cái thiện… trên nền của khung cảnh núi tuyết trắng xóa có khả năng thanh lọc,

để con người tìm lại sự trong trắng và trinh bạch trong tâm hồn. Vì vậy, sắc trắng

của tuyết trong tiểu thuyết Kawabata có sức mạnh diệu kì, hướng tâm hồn con

người tới thế giới mênh mông vô cùng vô tận. Từ sự phong phú về ý nghĩa của

màu trắng trong các nền văn hóa khác nhau, Kawabata hướng đến một ý nghĩa cao

đẹp cho sự thanh khiết trinh bạch trong tâm hồn, tâm linh sâu thẳm. Ở vùng đất

hoang sơ ấy, dường như mọi thứ đều tinh khiết, trong sạch và nguyên sơ như trong

huyền thoại. Ở đây tương truyền câu chuyện về sự ra đời của thứ vải chijimi - vải

của tuyết. Huyền thoại này hiển hiện trong cảm nghĩ của Shimamura, khi anh đọc

những trang sách về thứ vải được dệt nên trong tuyết, đẹp không gì tả nổi bởi

tuyệt tác ấy được tạo nên từ những người thợ lành nghề ở địa phương, “Chỉ riêng

nghĩ sợi gai trắng, trải dài trên tuyết, hòa với tuyết để hồng lên dưới ánh mặt trời

mọc, Shimamura đã có cảm giác được thanh lọc mạnh mẽ đến nhường nào”

[103,323]. Thứ vải được tạo nên trong tuyết, ở đó là sự tổng hợp tâm huyết, tình

cảm của những người thợ miền sơn cước, nó có ý nghĩa kết nối quá khứ và hiện

tại, và mang đến khả năng thanh lọc bất diệt cho tâm hồn con người.

Tuyết còn là biểu tượng cho hành trình trở về miền thẳm sâu thanh sạch,

80

nguyên sơ của tâm hồn. Kawabata tiếp bước Hành trình lên miền Bắc của nhà thơ

cổ điển bậc thầy Basho, giữa nơi hoang vu lạnh lẽo, ông đắm chìm vào thiên nhiên

để thoát khỏi cái bản ngã trong cuộc thế phù du. Kawabata qua nhân vật Shimamura

với hành trình tìm đến xứ tuyết, khao khát được tìm lại chính mình qua cái lạnh

thuần khiết và muốn tự tôi luyện trong một vùng trắng mênh mông, yên tĩnh.

Vượt qua đường hầm dài là sự bừng sáng một không gian ngập tràn sắc trắng

tinh khiết của tuyết. Đường hầm trong Xứ tuyết, dẫn qua bóng tối để đến vùng ánh

sáng, “là biểu tượng của mọi cuộc vượt qua bóng tối, lo âu, đau khổ để có thể đến

được với một cuộc đời khác” [59,324]. Ấn tượng gợi ra trong không gian của mùa

đông xứ tuyết vẫn là vẻ đẹp thanh khiết, trinh bạch, không gian không có gì ngoài

màu trắng của tuyết... khiến cho tâm hồn lữ khách Shimamura đượm buồn và khiến

cho những suy tư về cõi sống dâng tràn: cảm xúc về cái đẹp mỏng manh và nỗi

buồn xao xuyến trước con người và cảnh vật, chiêm nghiệm về lẽ đời nổi trôi, hoài

niệm đẫm u sầu. Có lẽ Shimamura cũng đã đốn ngộ bản ngã đích thực của con

người về thế gian khi anh như thấy dải Ngân Hà tuột trôi vào trong anh với tiếng

gầm dữ dội. Shimamura rời xa xứ tuyết khi “trên các ngọn núi, đợt tuyết đầu tiên đã

phơi màu trắng toát”. Ngọn lửa bừng cháy đã thiêu hủy cái đẹp tinh khiết xa vời

Yoko, để lại nỗi đau vĩnh viễn cho Komako và cả chàng lãng tử Tokyo. Cũng giống

như số phận của những thớ vải tuyết, chỉ còn là hương khói hoài niệm khi

Shimamura tìm đến xứ vải chijimi, bâng khuâng vì không tìm đâu thấy dấu vết... tất

cả dường như cũng đã tan biến cùng tuyết trắng mênh mông. Vẻ đẹp chỉ còn tồn tại

trong giấc mộng, người đọc chỉ còn cảm nhận thấy niềm nuối tiếc, hụt hẫng về sự

mong manh vô thường của cái đẹp.

Tuyết thanh khiết, lạnh giá dường như đã làm thức tỉnh lương tri Shimamura,

trong khoảnh khắc anh như được thắp sáng để bừng ngộ. Đó là sự vận động của

nhận thức, là hành trình kiếm tìm giá trị vĩnh cửu của cái đẹp. Tuyết ngưng đọng,

khiến người ta cảm nhận được sự bình yên, nhưng cũng tạo cảm giác mong manh,

dễ vỡ như những cánh đào phai, thoắt nở thoắt rụng ngay khi đang rực rỡ nhất.

Chính sự phù du ngắn ngủi ấy là khoảnh khắc cái đẹp được tôn vinh, vì vậy nó

81

xứng đáng được con người nâng niu trân trọng. Cuộc sống nhân sinh vốn không

dài lâu, số phận của cái đẹp mong manh chóng tàn, vì thế con người luôn khao

khát hướng tới sự tuyệt đối, vĩnh cửu của cái đẹp. Xứ tuyết thực sự đã biểu lộ được

cái đẹp tuyệt đối mà Kawabata luôn kiếm tìm, vẻ đẹp ấy đầy ấn tượng và khắc sâu

như dải ngân hà tuôn chảy. Xứ tuyết được đánh giá là tác phẩm thể hiện tốt tinh

thần bản địa bằng cách quay trở về với thiên nhiên, với miền thẳm sâu thanh sạch,

nguyên sơ của tâm hồn.

Người Nhật yêu chuộng cái đẹp nguyên sơ, tàn khuyết, cũng vì lẽ đó mà

những câu chuyện trong tác phẩm của Kawabata thường không có kết thúc, tất cả

đều hướng về cái vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh.

Sự kết hợp tôn giáo Thần đạo với tinh thần Phật giáo Thiền tông là sáng tạo

của Kawabata thông qua cách tạo dựng biểu tượng tuyết. Không gian thiên nhiên

mênh mông trong trẻo, nồng nàn của xứ tuyết được tái hiện sinh động qua những

đường nét độc đáo, tài tình của người nghệ sĩ Kawabata. Màu trắng của tuyết, khiến

con người nghĩ đến tình yêu cùng nỗi hư vô bất tuyệt, đến những giá trị tột cùng, sự

bất tận mà Kawabata tin tưởng, giống như niềm ngưỡng mộ mà ông dành cho kinh

Phật. Ông đặc biệt chú trọng đến các phạm trù: màu sắc, mùi vị, cõi niết bàn… đó là

những màu của hư ảo, trong đó màu trắng được nhấn mạnh hơn cả. Những cảnh

tuyết trong tác phẩm của Kawabata thường vừa huy hoàng vừa tĩnh lặng. Vẻ trầm tư

của những màu sắc ấy rất đỗi Phật tính, nhuốm vẻ hư ảo “sắc sắc không không”.

Điều này lí giải cho những cảm nhận của Shimamura về xứ tuyết, sự huyền bí kì

diệu của không gian, màu sắc đã đánh thức những cảm xúc mãnh liệt vốn đã chôn

sâu, giấu kín trong tâm hồn anh. Quả thật, màu trắng của tuyết là màu của bước

chuyển, của những biến đổi tích cực trong sâu thẳm tâm can con người.

3.2.3. Biểu tượng Gương

3.2.3.1. Gương trong văn hóa truyền thống

Trong các nền văn hóa nhân loại, gương với tư cách là bề mặt phản chiếu, đã

trở thành giá đỡ cho cả một hệ biểu tượng hết sức phong phú trong lĩnh vực nhận

thức, “Gương phản chiếu cái gì? Sự thật, tính chân thực, nội dung của trái tim và ý

82

thức: như mặt trời, mặt trăng, như nước, như vàng… hãy sáng trong và lung linh,

phản chiếu hết thảy những gì ở trong trái tim mình” [59,370].

Gương có ý nghĩa biểu tượng chung trong văn học phương Đông và phương

Tây, được coi là một vật thể vũ trụ kết nối cuộc sống của con người và thế giới.

Mặc dù nó mang một nội hàm sâu kín khác, “gương trong truyền thống Nhật Bản

liên quan với sự phát lộ sự thật và cũng không kém phần với đức trong sạch, trong

sáng” [59,371]. Nhật Bản là đất nước đã tạo dựng được một căn tính văn hóa riêng.

Trong thần thoại, nữ thần Mặt trời được coi là tổ mẫu của dân tộc Nhật và chiếc

gương được coi là bản thể thần linh của bà. Như vậy, gương mặt trời đem đến ánh

sáng và sự sống, “phản ánh tâm lí chung của một nửa nhân loại, nếu không muốn

nói là toàn thể, vì hiện tượng tự chiêm ngưỡng chính mình cũng chẳng phải là nét

riêng của phụ nữ” [94,27].

Trong văn hóa Nhật Bản, “ba báu vật của Hoàng gia cũng trở thành ba biểu

tượng nổi bật, “gương chính là biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn, cùng với thanh

gươm biểu trưng cho sức mạnh uy quyền và ngọc tượng trưng cho vẻ đẹp” [Dẫn

theo 104]. Như vậy, “Gương không chỉ có chức năng phản chiếu một hình ảnh, tâm

hồn, khi nó trở thành một cái gương hoàn hảo, sẽ tham dự vào hình ảnh và nhờ sự

tham chiếu ấy sẽ tự cải hóa mình” [59,373], sẽ làm nên chính cái đẹp mà tâm hồn

con người luôn hướng tới.

Trong văn học truyền thống Nhật Bản, gương gắn với một câu chuyện cổ,

cô gái Phù Tang mỗi lần nhìn gương soi, không chỉ nhìn thấy bóng mình, mà còn

một bóng dáng khác, giống hệt cô, đó chính là bóng của người mẹ. Phải chăng, đó

là tính nữ vĩnh cửu và cái đẹp truyền thống trong huyền thoại về nữ thần mặt trời.

Câu chuyện huyền thoại này, thể hiện lối tư duy kì ảo của người Nhật, nhưng cái

quan trọng hơn là phản ánh tâm lí chung của người phụ nữ, luôn muốn tự chiêm

ngưỡng mình. Trong tâm thức của người Nhật, đặc tính nữ luôn được đề cao, tôn

vinh và tính nghệ thuật có được cũng từ sự giản dị và cái đẹp tao nhã nữ tính đó.

Gương trở thành biểu tượng quen thuộc trong sáng tác của nhiều nhà văn hiện

đại thế kỉ XX. Trong đó, Murakami coi gương là một loại đồ vật nổi bật trong thế

83

giới biểu tượng của nhà văn, chuyển tải nhiều thông điệp ý nghĩa. Murakami trên

tinh thần tiếp thu, kế thừa và có nhiều sáng tạo độc đáo, gương vừa mang ý nghĩa

soi chiếu hiện thực, nhìn ra sự thật bằng hành động lặp đi lặp lại của nhiều nhân vật:

đó là soi ngắm kĩ lưỡng trước gương. Điểm khởi đầu cho một hành trình biến đổi,

soi ngắm để nhận thức. Chiếc gương soi mang ý nghĩa biểu tượng cho hành trình tự

soi xét bản thân của nhân vật, giúp nhân vật tái định hướng cái nhìn vào nội tâm,

cũng là một cách tìm về bản lai diện mục. Đây được coi là sự gặp gỡ giữa

Murakami và Kawabata trong ý nghĩa cuộc hành trình “nhận đường” của nhân vật

sau rất nhiều va vấp cùng những biến cố trong cuộc đời. Hai nhà văn đều có sự tiếp

nối văn hóa Đông - Tây, để tìm tòi, sáng tạo, mở ra rất nhiều ý nghĩa mới cho biểu

tượng gương trong hệ biểu tượng của nhân loại. Có thể nói, “họ là những người con

ưu tú của nước Nhật, đã tìm lại được những linh vật của thời đại đỉnh cao văn

chương - thời Heian” [105,210].

3.2.3.2. Gương và những biến thể trong tiểu thuyết của Y. Kawabata

Kawabata am hiểu và trân trọng các giá trị truyền thống của dân tộc, nên biểu

tượng gương trong các tác phẩm của ông có lẽ nguồn gốc cũng từ biểu tượng Thần

đạo. Gương trong sáng tác của Kawabata, không chỉ mang ý nghĩa của sự tiếp nối,

kế thừa giá trị truyền thống, mà nó còn mang dấu ấn cá nhân rất rõ nét. Bước ra từ

huyền thoại, gương là biểu tượng cho tâm hồn trong sáng, tinh khiết Nhật Bản. Đây

là một trong những biểu tượng xuyên suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà

văn, xuất hiện trong hầu hết trong các tác phẩm với nhiều biến thể đa dạng, là một

biểu tượng đặc biệt, có vai trò trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

Gương - biểu tượng của sự thật, tính chân thực. Đôi mắt là chiếc gương sự

thật giúp con người quan sát, soi ngắm chính mình để hoàn thiện bản thân. Với

Kawabata, gương không đơn thuần để soi, mà là một biểu tượng của sự thật, trở

thành linh hồn trong rất nhiều tác phẩm của nhà văn.

Nhân vật của Kawabata dù là nam hay nữ cũng đều thích soi gương, ngắm

nhìn chính mình. Đây là hành động được lặp đi lặp lại nhiều trong các tiểu thuyết

của nhà văn: ngắm gương mặt mình qua tấm gương; đứng dậy bước tới gương;

84

đứng trước gương… Gương xuất hiện khi nhân vật đứng trước những giằng xé nội

tâm, khi cần đưa ra chọn lựa, hay khi phải dấn thân vào một hành trình để thay đổi.

Cũng có khi là sự thỏa mãn nào đó về mặt tình cảm, như Otoko trong Đẹp và buồn.

Mỗi lần nhớ đến người mẹ đáng thương của mình, Otoko lại đứng trước gương,

hình ảnh mà nàng nhìn thấy chính là khuôn mặt của bà. Với nhân vật Otoko, bà mẹ

là phản chiếu lại cố nhân của nàng.

Gương là biểu tượng của sự thật, nó đã từng xuất hiện trong truyện ngắn nổi

tiếng Trăng soi đáy nước của Kawabata. Ở tác phẩm này, chiếc gương được nhắc

đến nhiều lần, không chỉ với vai trò là một nhân vật, mà còn trở thành nhân chứng,

là biểu tượng cho tình yêu của vợ chồng Kyoko. Đây là tấm gương mà Kyoko đã

nghĩ ra, giúp người chồng đau ốm được ngắm nhìn thế giới. Chồng nàng say mê với

chiếc gương mỗi ngày, quên đi bệnh tật, anh chăm sóc chiếc gương để được nhìn

thấy vợ mọi lúc và được ngắm thế giới ngoài kia như sự thật vốn có. Gương trở

thành một thực thể sống có thể nhìn, có thể cảm nhận như đôi mắt của một người

đang sống. Như vậy, chiếc gương không chỉ là minh chứng cho tình yêu, nó còn

thực hơn cả thế giới thực, đó là tình yêu, là niềm hi vọng vào tương lai. Thế giới mà

tấm gương mang lại chính là kết tinh của tình yêu thương, gieo vào tâm hồn người

chồng đau ốm niềm hạnh phúc, niềm hi vọng kéo dài cuộc sống, cũng giống cái

cách mà Kyoko gieo hạt mầm vào lòng đất mỗi ngày.

Gương cũng xuất hiện cùng với Shimamura trong Xứ tuyết, tất cả mọi sự

quan sát và cảm nhận của chàng luôn có sự hiện hữu của gương. Nó như một thứ

dụng cụ hữu hiệu giúp chàng soi chiếu, đánh giá vấn đề ở mọi khía cạnh, góc độ

trong mọi không gian và thời gian. Vẻ đẹp của Yoko cùng những ấn tượng ngoại

hình chỉ hiện lên qua cách nhìn và cảm nhận của Shimamura. Đôi mắt rực sáng

và khuôn mặt xinh đẹp của Yoko như có thể hất tất cả cái buồn tẻ âm u xung

quanh, xua tan đêm tối.

Tất cả những hình ảnh trong tác phẩm của Kawabata, bằng cách này hay cách

khác đều được chiếu theo thủ pháp gương soi, kể cả những chỗ nhà văn không trực

tiếp dùng đến gương nữa, nhưng vẫn có ánh sáng phản hồi.

85

Gương - biểu tượng của thế giới nội tâm sâu thẳm và cái đẹp nữ tính vĩnh

cửu. Soi gương chính là hành động hướng vào nội tâm, hướng vào phật tính của

chính mình, đạt đến trạng thái an yên tự tại. Chiếc gương không chỉ mang sứ mệnh

soi chiếu hình bóng của chính mình, soi vào những góc khuất mà chúng ta không tự

mình nhìn thấy được hoặc có lúc là cố tình che giấu đi, mà còn mở rộng nhận thức

về thế giới và con người. Ở tác phẩm Kawabata, gương phản chiếu tất cả mọi thứ,

phản chiếu hết thẩy những gì trong trái tim mỗi người.

Shimamura của Xứ tuyết chính là tấm gương soi chiếu nội tâm của Komako và

Yoko, khiến cho chân dung của họ hiện ra đầy chân thực. Một Komako thanh khiết,

với tất cả sự quyến rũ của một sắc đẹp, một Yoko trong trắng tinh khiết, huyền bí

đến xiêu lòng. Đối với Shimamura, sự hiện diện của Yoko đã đánh thức những khao

khát tận trong đáy sâu của tâm hồn. Còn vẻ đẹp sạch sẽ và tươi mát của Komako đã

khiến Shimamura sững sờ, thậm chí có lúc anh tự hỏi sự tinh khiết ấy phải chăng là

ảo ảnh và cô geisha này chính là phần lí do quan trọng cho sự trở lại xứ tuyết nhiều

lần của chàng lữ khách Shimamura? Những nhân vật nữ trong tác phẩm của

Kawabata đều huyễn hoặc, mơ hồ như ảo ảnh. Bởi thế, cho đến kết thúc tác phẩm,

những băn khoăn của Shimamura về họ vẫn khiến anh luôn day dứt, sống trong mê

hoặc, hồ nghi. Đây có lẽ cũng là chất riêng trong sáng tạo của Kawabata, làm nên

sức hấp dẫn cho mỗi tác phẩm của nhà văn. Những băn khoăn day dứt và mơ hồ ấy

là chất kết dính tiểu thuyết Kawabata với độc giả, như bài ca trên xứ tuyết luôn

ngân lên trong tâm hồn mỗi người khi nghĩ về thân phận những người con nơi đây.

Gương xuất hiện nhiều lần, cùng những biến thể của nó: đôi mắt, tấm kính cửa

sổ, trên nền tuyết trắng mênh mông cùng dải ngân hà tuôn chảy đẹp một cách ma

quái, đã trở thành những biểu tượng độc đáo, có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn

mạnh làm nổi bật vẻ đẹp tính nữ trong tác phẩm của Kawabata.

Số phận Yoko và Komako trong Xứ tuyết như tấm gương soi cả vũ trụ trống

rỗng để rồi tan vào hư không li biệt, cái chết và hành trình không bao giờ tới đích,

nhưng giúp cho Shimamura nhận ra được giá trị, chân lí đích thực của cuộc đời

mình. Shimamura là sự hóa thân rất gần của nhà văn, vì vậy anh cũng chính là một

86

chiếc “gương soi”. Yumiko và Fumiko của Ngàn cánh hạc là những nhân vật của

cái đẹp trong sáng, thuần khiết mà Kawabata đã nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm.

Fumiko, con gái của bà Ota, là cô gái sâu sắc, biết thấu hiểu và cảm thông. Chính cô

là thứ ánh sáng linh diệu, tha thứ và dẫn dắt Kikuji ra khỏi nỗi đau, sự thất vọng. Cô

trở thành sự quyết định, thức tỉnh giấc mộng và cũng là sinh mệnh trong cuộc đời

Kikuji. Còn Yukiko, cho dù chỉ xuất hiện thoáng qua trong đời Kikuji, có thể không

cứu rỗi được tâm hồn chàng nhưng sự duyên dáng trong bộ kimono và chiếc khăn

thêu ngàn cánh hạc mềm mại nữ tính, đã mang đến khát vọng và niềm tin níu kéo

tâm hồn chàng về miền ánh sáng. Yukiko và Fumiko đều lặng lẽ biến mất khỏi cuộc

đời của Kikuji, nhưng trong tâm trí của chàng họ vẫn luôn hiện hữu. Rõ ràng, cái

đẹp luôn mang sức mạnh nâng đỡ, giúp Kikuji có niềm tin để bước tiếp trên con

đường đầy gian nan, khổ hạnh

Cái đẹp trong văn chương Kawabata là vũ trụ vĩnh hằng và nữ tính vĩnh cửu

nhưng mong manh, hư ảo, bởi nó được phản chiếu từ gương soi, gắn với cái buồn

có gốc rễ từ văn hóa cổ điển Nhật Bản. Bằng tài năng sáng tạo độc đáo, Kawabata

đã đưa người đọc đi qua những miền văn hóa thấm đẫm chất thiền và thơ, đó chính

là cái đẹp vĩnh cửu giàu sức sống và thuần khiết.

Những biến thể của gương trong tiểu thuyết của Kawabata

Trong sáng tác của Kawabata, gương soi có tần suất xuất hiện cao, gần như

xuyên suốt với những biến thể khá đa dạng, phong phú. Trong tiểu thuyết Xứ tuyết,

gương soi xuất hiện tới 81 lần, cùng các biến thể: tấm kính toa tầu 24 lần; dải Ngân

Hà 19 lần. Tiểu thuyết Hồ, tấm kính toa tầu xuất hiện 12 lần, hồ 32 lần, đôi mắt xuất

hiện 29 lần.

Tấm kính - biểu tượng cho sự đối lập của hai thế giới: hiện thực - ảo mộng.

Thế giới hiện thực và mộng ảo hiện ra trong cảm nhận của Shimamura trên

con tàu vượt qua một đường hầm dài giữa hai vùng đất, anh có cảm giác đang đến

thế giới của mộng ảo, là thế giới siêu thực, được tạo ra từ sự soi chiếu của tấm

gương tuyết, tấm gương của thiên nhiên và của tấm kính toa tầu. Chính sự soi chiếu

này khiến cho anh lúc thì ngây ngất trong cảnh sắc thiên nhiên và vẻ đẹp ngây ngất

87

của con người, lúc lại ám ảnh nhắc nhớ về thực tại. Shimamura như quên đi cả bản

thân anh, hoàn toàn bị cuốn hút vào vào những điều thần diệu và không biết mình

mơ hay tỉnh nữa. Komako và Yoko là hai cô gái của xứ tuyết, xuất hiện trong cuộc

đời Shimamura và mang đến cho chàng những cảm xúc khác nhau. Họ xuất hiện

qua sự quan sát của chàng trên chiếc gương bao giờ cũng ở trạng thái tương phản

của một con người lí tưởng nào đó của thế giới huyền thoại.

Shimamura đến xứ tuyết, cuộc gặp gỡ với Yoko, cùng với vẻ đẹp huyền

diệu, kỳ lạ, con mắt rực sáng quyến rũ đến mê hoặc đã tác động lớn đến anh ta.

Ngắm nhìn Yoko trong gương, chăm chú quan sát sự ân cần chu đáo của cô với

người đàn ông đau yếu bên cạnh, “Shimamura không hề cảm thấy trắc ẩn hoặc

buồn rầu trước cảnh đau khổ ấy, anh nhìn tất cả cái đó mà không cảm động, như

thể đó là trò diễn trong giấc mơ. Chắc hẳn anh có cảm giác ấy vì anh nhìn sự

việc phản chiếu trong một tấm kính” [103,224]. Shimamura dành cho Yoko sự

ngưỡng mộ thầm kín trong tâm hồn, đôi mắt và khuôn mặt nàng luôn hiện hữu

ám ảnh day dứt không thôi. Với Komako, Shimamura cảm thấy như tiến vào một

thế giới chỉ có niềm hạnh phúc êm dịu, sự hiện diện của cô đã như một làn hơi

tươi mát thấm vào tận tâm can anh. Qua tấm gương của hiện thực, vẻ đẹp toát lộ

trong trạng thái tương phản, trên nền tuyết trắng càng tô đậm đôi má hồng và nét

quyến rũ của Komako, “vẻ đẹp của sự tương phản ấy cực kỳ trong sạch, nó vô

cùng dữ dội vì nó sắc nhọn và sống động” [103,252].

Thiên nhiên xứ tuyết chính là tấm gương lớn, soi chiếu hình ảnh của hai cô

gái, hai vẻ đẹp hoàn toàn đối lập, giữa hai thế giới thực và ảo. Họ được soi chiếu

qua tấm gương Shimamura nhưng cũng là sự soi chiếu lẫn nhau để nổi bật. Yoko

được phản chiếu trên nền cảnh đêm mờ ảo, Komako lại là thế giới của hiện thực,

gắn bó sâu sắc, gần gũi với những cảm nhận rất chân thật của Shimamura. Hình ảnh

Komako trong gương, đó là màu đỏ của đôi má trên nền tuyết trắng, đã làm

Shimamura nghĩ tới hình ảnh Yoko trên tàu, hình phản chiếu của nàng trong tấm

kính cửa sổ toa tầu.

Yoko và Komako có mối liên hệ nào đó thật khó lí giải cho tường tận,

88

Shimamura luôn tò mò, băn khoăn nhưng đến tận lúc rời xứ tuyết anh vẫn chưa có

được câu trả lời. Anh say mê Komako, cùng với sự ngưỡng mộ bởi tài năng và nghị

lực sống của nàng, nhưng sâu thẳm trong anh vẫn luôn khao khát có được tình yêu

đầy đam mê bởi ánh mắt diệu kỳ, và giọng nói trong trẻo của Yoko. Qua tấm gương

Shimamura, Komako là ảnh thật, Yoko là ảnh ảo. Komako đến từ cõi này, Yoko

đến từ cõi hư ảo nào đó. Chàng ấn tượng bởi sự dịu dàng ấm áp của Yoko qua cách

nàng chăm sóc chàng trai ốm yếu trên tàu và cách quan tâm đến những sinh hoạt

bình thường của cậu em trai làm việc tại ga. Đó chính là sự ấm áp mà bất kì chàng

trai nào cũng mơ ước, khao khát có được. Tuy nhiên, chính sự thánh thiện ấy lại tạo

ra thứ khoảng cách vô hình, không thể lấp đầy, thậm chí Shimamura cảm thấy sự xa

cách, không với tới được nàng. Yêu nhưng không thể đến gần, khao khát nhưng

không thể với tới, điều đó khiến cho tình yêu thầm kín giữa họ vì vậy mà càng trở

nên trong sáng, thánh thiện, nhưng nó cũng hư ảo như một giấc mơ. Chính sự ân

cần, dịu dàng, nữ tính của Yoko đã đánh thức niềm đam mê những giá trị tốt đẹp

trong anh. Anh cảm thấy tất cả con người mình khi được soi chiếu, rọi sáng đến tận

đáy qua tấm gương tâm hồn thanh khiết và đôi mắt ngây thơ của cô gái. Sự soi

ngắm và chiêm nghiệm này dường như đã đẩy Shimamura ngày càng xa cách

Komako và cuối cùng quyết định rời bỏ nàng và rời xa xứ tuyết. Cái chết của Yoko

đã thức tỉnh Shimamura, giúp chàng nhận ra cái khắc nghiệt của hiện thực, nhận ra

bản chất của cái đẹp. Đó là sự thức tỉnh không dễ dàng với Shimamura, trải qua đau

đớn, giằng xé, ám ảnh và cả những mê lầm, để rồi chàng bước ra khỏi xứ tuyết

không còn vương vấn, không còn nhìn lại lần nào nữa trong đời.

Rõ ràng, mục đích quay lại xứ tuyết chính là được gặp Komako, nhưng trên

hành trình từ đông sang tây trên chuyến tàu đầy ảo giác, Shimamura bắt gặp, bị

cuốn hút bởi Yoko và bởi một thế giới phản chiếu trên mặt kính, đó là một thế giới

đẹp không sao tả xiết xâm nhập tim chàng, nhưng nó mơ hồ đầy ảo giác. Trong

tâm trí và suy nghĩ của Shimamura luôn có sự hiện hữu của Yoko, đôi mắt, gương

mặt luôn làm anh có cảm giác vừa huyền ảo, đầy nỗi ám ảnh quyến rũ tuyệt đẹp

trong ký ức.

89

Dải Ngân Hà - con đường chia tách hai thế giới, là sự vỡ vụn của giấc mơ

hạnh phúc và cái đẹp hư ảo. Ngân Hà trong các nền văn hóa mang nhiều ý nghĩa,

nhưng được dùng phổ biến nhất đó là hình ảnh con đường các vong hồn đi trở về

thế giới bên kia, nó cũng mang ý nghĩa kết nối thế giới tâm linh, là đường ranh giới

giữa thế giới chuyển động và cõi vĩnh hằng bất động. Người Nhật coi dải Ngân Hà

là một dòng sông, Kawabata đã kế thừa ý nghĩa đó trong hình ảnh ám ảnh nhất ở

cuối tác phẩm Xứ tuyết, chính là con đường mà Shimamura thấy mình bị cuốn vào

đó. Những trang cuối của cuốn tiểu thuyết, dải Ngân Hà xuất hiện mười chín lần,

khiến nỗi đau đớn của những nhân vật càng trở nên day dứt, ám ảnh. Chứng kiến

cái chết của Yoko, Komako đau đớn, gào thét, còn Shimamura đứng chôn chân giữa

dải Ngân Hà đang chảy trong tiếng gầm khủng khiếp. Âm thanh ấy vang lên trong

tâm khảm Shimamura, nó là tiếng lòng rạn vỡ, khi con người bừng ngộ, tìm thấy

chân lí. Những tia lửa trong đám cháy từ nhà kho, lan tỏa vào dải Ngân Hà và

Shimamura được kéo lên cùng với chúng, đầu của anh ngã về phía sau và dải Ngân

Hà chảy xuống bên trong anh với một tiếng thét gầm dằn dữ. Những cảnh cuối cùng

của Xứ tuyết vừa là sự từ chối hiện tại suy đồi, vừa là sự xoa dịu ham muốn dục

vọng, nó cũng là mong muốn của Kawabata, đạt được sự nhất quán đối truyền thống

Nhật Bản giữa tinh thần, văn hóa và bản thân thông qua nghệ thuật.

Mối tình của Shimamura và Komako là khoảnh khắc vô thường, ngắn ngủi,

chỉ là sự thoáng qua trong cuộc đời. Komako như là một ngã rẽ sai trên dòng đời,

khi Shimamura thức tỉnh, nhận ra sai đường để quay trở lại cũng là lúc câu chuyện

kết thúc. Đây chính là khoảnh khắc đốn ngộ, quay trở về với bản tính vốn có bên

trong con người, là giây phút nhận đường sau rất nhiều mê muội, lầm lạc trên con

đường đi tìm chân lí.

Hồ - biểu tượng kí ức đau buồn và ám ảnh cô độc. Hồ được coi là biến thể

lớn nhất, thể hiện sự sáng tạo độc đáo của Kawabata. Tiêu đề tác phẩm khiến người

đọc có cảm giác được hòa mình vào không gian êm đềm, tĩnh lặng, mang đậm chất

Thiền, nhưng thực ra, đây lại là một mặt hồ lạnh giá, chôn giấu những kí ức đau

buồn của nhân vật, một tấm gương tự nhiên soi chiếu đến từng ngóc ngách nội tâm

90

phức tạp với những phức cảm bệnh hoạn của nhân vật Gimpei.

Bối cảnh của tiểu thuyết Hồ là xã hội Nhật Bản những năm sau chiến tranh thế

giới thứ hai. Thất bại của Nhật Bản mang đến nhiều hệ lụy cho đời sống xã hội, con

người, Kawabata cũng không nằm ngoài những tác động đó. Dường như, nó ảnh

hưởng lớn hơn, sâu hơn đến nhà văn bởi cuộc đời ông vốn đã chất đầy những mất mát,

đau buồn, bất hạnh và bi kịch. Ám ảnh về sự khuyết thiếu, nỗi buồn và sự cô độc giữa

cuộc đời đầy biến động. Đọc tiểu thuyết Hồ, với nhiều sự soi chiếu, đó là thực tại xã

hội, là tâm can con người cô độc, bất hạnh cùng kí ức day dứt đeo bám Gimpei suốt cả

cuộc đời, khiến người đọc cũng cảm giác đầy nỗi buồn, ám ảnh tâm can.

Hồ còn là thế giới kỳ ảo, ranh giới giữa thực và mộng đã bị xóa nhòa.

Trong tác phẩm, bắt gặp cả hai hành trình, một ngoài hiện thực của Gimpei, một

ở trong hồi ức của hắn. Gimpei bị ném ra ngoài đường, trở thành một kẻ xê dịch,

bị mất chỗ trong tâm trí cũng như trong cuộc đời. Hành trình xuyên suốt, đầy ám

ảnh, mở ra không gian mới nơi những phiêu lưu, bất định, mới mẻ chờ sẵn các

nhân vật. Nó cũng giống như hành trình của con tàu ra khỏi đường hầm dài đưa

Shimamura vào Xứ tuyết.

Hình ảnh đặc biệt ám ảnh luôn hiện hữu trong tâm trí Gimpei đó là “hồ nước

làng mẹ hắn”. Đây là nơi chứng kiến mối tình đầu đơn phương của hắn, là nơi đầu

tiên hắn phát hiện sự độc ác, ti tiện của bản thân mình khi âm mưu dìm chết người

chị họ Yaoi xuống làn nước băng giá. Cũng vì điều này, Gimpei trở thành một kẻ

“đánh mất quê hương”, đi tìm hình bóng của Yaoi trong những thân phận đàn bà

khác. Song đâu chỉ có thế, cuộc kiếm tìm của Gimpei thực chất là một cuộc chạy

trốn cái xấu, cái tồi tệ của bản thân nhưng rồi hắn nhanh chóng thất vọng khi những

người đàn ông vây quanh mình cũng suy đồi, tồi tệ và hèn yếu. Và ngay cả những

kẻ ra trận, “những anh hùng” thực sự của Nhật Bản dưới con mắt Gimpei chỉ là

những kẻ xấu xí, bệnh hoạn. Mặt hồ không tên cũng là nơi mà cha hắn đã chết

không biết nguyên nhân. Vì vậy, hồ gắn với tuổi thơ Gimpei không phải là sự yên

bình phẳng lặng, mà là giá băng, lạnh lẽo.

“Hồ nƣớc làng mẹ hắn” vang lên như một điệp khúc, kéo dài mãi trong kí

91

ức, giống như những ám ảnh của nỗi buồn và sự cô đơn không lối thoát, như sợi dây

kết nối xuyên suốt tác phẩm. Cuộc đời Gimpei cứ quẩn quanh mãi trong khoảng

không gian hạn hẹp, tù túng ấy, không làm cách nào để thoát ra được. Hắn chỉ luôn

nhìn thấy bản thân và ám ảnh không thôi về những kí ức buồn trong quá khứ.

Gimpei bị mẹ bỏ rơi, cho nên cuộc đời của hắn luôn mong mỏi, chạy theo những cô

gái đẹp, dịu dàng để kiếm tìm cảm giác có mẹ. Miyako chính là hiện thân của cái

đẹp mà Gimpei khao khát có được. Cũng như hầu hết lữ khách trong hành trình đi

tìm cái đẹp của Kawabata, nhân vật của tiểu thuyết Hồ cũng kết thúc cuộc hành

trình trong sự vô vọng, nuối tiếc.

Hồ Biwa - hố thẳm ám ảnh nỗi đau khôn cùng. Hồ Biwa xuất hiện trong

Đẹp và Buồn, là cuốn tiểu thuyết trình bày công phu về những hậu quả bi thảm của

cuộc sống trong một nền văn hóa bị ô nhiễm, một biểu hiện về sự suy đồi của cuộc

sống thời hậu chiến ở một quốc gia bị tàn phá nặng nề. Tác phẩm là vọng âm của

tiếng chuông chùa cuối năm nhuộm đẫm nỗi sầu gắn với cái chết và bi kịch của

những người làm cha, mẹ.

Hồ Biwa vốn nổi tiếng với vẻ đẹp thơ mộng, trong mát là điểm hẹn hò gặp gỡ

của những cặp tình nhân, đi vào tác phẩm của Kawabata nó trở thành nỗi ám ảnh

đau đớn, là hố thẳm khôn cùng chôn vùi thanh xuân tuổi trẻ. Quả thật, điều này

càng tô đậm cho sự hư ảo, mong manh của cái đẹp, chỉ tỏa sáng trong khoảnh khắc

và rồi ra đi như vạn vật phù du. Hồ Biwa xanh ngắt trở thành hố thẳm cướp đi sinh

mạng chàng trai trẻ Taichiro, đồng thời cũng chôn lấp hạnh phúc và hi vọng của gia

đình Oki Toshio, để lại Keiko với một thân xác trống rỗng và nỗi đau vô tận cho hai

người phụ nữ Fumiko và Otoko. Cái đẹp trong tác phẩm gắn liền với sự tàn lụi, với

nỗi đau đớn khôn cùng của các nhân vật. Vì vậy, hồ Biwa cũng trở thành một cõi

đẹp đẽ thâm sâu và đầy huyền ảo của thế giới văn chương Kawabata.

Như vậy, gương soi là một trong những hình tượng nghệ thuật xuyên suốt, có ý

nghĩa quan trọng. Ở đó có sự đan xen của cái đẹp và cái xấu; một Gimpei thảm hại về

cả tinh thần lẫn thể xác, nhưng hắn vẫn luôn đeo đuổi cái đẹp, khao khát tìm được

niềm an ủi, hạnh phúc trong cuộc đời đầy bất hạnh của mình. Cũng giống như tất cả

92

sự hư ảo trong các tiểu thuyết của Kawabata, Hồ cũng kết thúc trong không gian lơ

lửng, như vì sao, như ánh trăng hay dải Ngân Hà trôi nổi trong Xứ tuyết. Cảm giác

ranh giới giữa cái đẹp, cái xấu, cái hiện thực và ảo mộng bị xóa nhòa. Khoảng không

còn lại dành cho sự suy ngẫm, trải nghiệm của mỗi độc giả về cách sống, cách ứng xử

và đánh giá những giá trị cốt lõi trong cuộc sống, cũng là để làm đầy thêm những ý

nghĩa của biểu tượng gương soi trong các tác phẩm của Kawabata.

3.2.4. Biểu tượng Cánh hạc

3.2.4.1. Cánh hạc trong văn hóa truyền thống

Trong quan niệm của người phương Đông, hạc (Tsuru) là loài chim thiêng,

sống lâu không thể tính được tuổi. Người Nhật Bản có niềm tin rằng hạc sống được

đến hàng nghìn năm. Chim hạc nổi bật với màu lông trắng muốt, biểu tượng cho sự

thanh cao, trong sáng và tinh khôi. Người Nhật còn tin rằng, chim hạc là loài vật

chung thủy, khi con trống và con mái kết đôi, chúng sống bên nhau suốt đời không

thay đổi. Chính vì vậy, họ xem chim hạc là biểu tượng của sự hòa hợp trong cuộc

sống vợ chồng. Họa tiết hình chim hạc là hoa văn phổ biến và được ưa chuộng trên

trang phục cưới kimono và nhiều đồ vật khác. Hạc giấy là hình ảnh rất quen thuộc

trong bộ môn nghệ thuật xếp hình ori-gami. Ngoài ra, “người ta còn có niềm tin

rằng, nếu ai đó xếp đủ 1000 con hạc giấy thì họ sẽ có một điều ước cho sự an lành,

hạnh phúc và thuận lợi” [dẫn theo 106]. Chính niềm tin này đã góp phần cổ vũ tinh

thần, giúp nhiều người vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc đời.

Chúng tôi tìm thấy nhiều ý nghĩa cao đẹp của hình ảnh cánh hạc trong văn

học cổ Nhật Bản, đặc biệt là việc gắn với đời sống tâm linh của người dân xứ sở

hoa anh đào. Trong dân gian tồn tại nhiều câu chuyện cổ tích về những điều may

mắn mà loài chim này mang đến cho con người. Người Nhật cũng cho rằng, hạc

chính là loài chim biểu tượng cho sự may mắn, tốt lành. Do hạc sống được hàng

nghìn năm, nên người Nhật thường tặng các cụ già những bức họa hay đồ khắc

hình những con hạc, con rùa, cây thông, cả ba đều tượng trưng cho sự trường

thọ... Màu trắng của hạc là biểu tượng của sự thanh khiết, còn cái đầu màu đỏ -

thần sa biểu thị sức sống bền bỉ.

93

Trong niềm tin của người Trung Quốc, hạc là loài chim huyền thoại, mang ý

nghĩa bất tử, trường sinh, gắn với các vị thần bay lên cõi tiên. Chim hạc là hình ảnh

quen thuộc trong thơ du tiên đời Đường. Nó là vật cưỡi thông thường của các vị

Thần tiên như Lí Bạch, Thôi Hiệu để tìm đến thiên thai, chốn bồng lai tiên cảnh, lên

tiên lánh đời, du ngoạn để kiếm tìm tự do tự tại, khát vọng trường sinh cũng là mục

đích hưởng đời: “Hạc vàng ai cưỡi đi đâu. Mà đây Hoàng Hạc, riêng lầu còn trơ.

Hạc vàng bay mất từ xưa. Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay” (Hoàng hạc lâu -

Thôi Hiệu). [107,104]. Hạc vàng đã bay đi mất, chỉ mây trắng còn đó, cùng với nỗi

niềm tiếc nuối, ngậm ngùi. Mượn cánh hạc làm phương tiện để đăng cao, không chỉ

có trong thơ Đường mà trong thơ Trung đại Việt Nam, Tản Đà cũng khao khát bay

theo cánh hạc để trốn đời, muốn hưởng thụ vẻ đẹp của thiên nhiên, vũ trụ: “Trông

khắp trần gian hết thú chơi. Thèm trông con hạc nó lên trời”;“Hạc kia bay bổng

tuyệt vời. Hỏi thăm cung Nguyệt có người trọ không” (Trông hạc bay). [108,131],

nhờ cánh hạc để chuyên chở giấc mơ phong tình, tri kỉ đến tận chị Hằng Nga. Tìm

đến cõi tiên để trút bỏ ưu phiền, thoát tục, cánh hạc không chỉ là phương tiện nối

liền tiên - tục mà còn biểu tượng cho sự cao khiết và bất tử.

Dù có sự khác biệt về văn hóa, về thời đại nhưng các nhà thơ vẫn tìm thấy sự

tương đồng trong ý nghĩa của hình ảnh cánh hạc trong văn hóa nhân loại, tuy vậy

vẫn có những sự sáng tạo “nguồn riêng giữa dòng chung” mà chúng ta sẽ tìm thấy

trong tác phẩm Ngàn cánh hạc của Kawabata.

3.2.4.2. Cánh hạc trong tiểu thuyết Y. Kawabata - biểu tượng của vẻ đẹp thuần

khiết, là điểm tựa tinh thần cho con người giữa lằn ranh xấu - tốt

Tiếp nối ý nghĩa bay xa, đi mất chỉ còn tồn tại trong quá khứ, trong niềm

tiếc nuối của con người, Kawabata đã sáng tạo hình ảnh chiếc khăn thêu hình

cánh hạc, lặp lại nhiều lần trong tác phẩm, có vai trò quan trọng với cuộc đời của

các nhân vật và trở thành một biểu tượng mang nhiều ý nghĩa độc đáo trong tác

phẩm của nhà văn.

Cánh hạc là điểm tựa tinh thần, sức mạnh của niềm tin vào sự trường tồn,

bất tử của cái đẹp. Cái đẹp trong tác phẩm của Kawabata là một phạm trù quan

94

trọng, luôn hiện hữu, có giá trị trường tồn, bất tử, đặc biệt là, mang đến khả năng

cứu rỗi linh hồn.

Câu chuyện về Kikuji trong luôn gắn với hình ảnh cô gái Yukiko và những ấn

tượng về chiếc khăn in hình ngàn cánh hạc không bao giờ bị lãng quên. Trong cuộc

đời Kikuji, dường như hình ảnh bầy hạc trắng và chiếc khăn hồng là thứ chàng luôn

thấy hiển hiện sáng rõ nhất, như một thứ kinh cầu đem đến niềm tin và là chỗ dựa

tinh thần trong cuộc sống ảm đạm, bất hạnh của chàng. Cuốn tiểu thuyết Ngàn cánh

hạc bắt đầu với cuộc hành trình của Kikuji đến một buổi trà đạo. Buổi lễ được nắm

giữ bởi Chikako Kurimoto, tình nhân của người cha đã chết của anh. Hành trình này

khơi dậy kí ức đầy ám ảnh của Kikuji về thời thơ ấu. Bức ảnh Chikako với vết bớt

xấu xí trên ngực xuất hiện trong tâm trí, trở thành ấn tượng xấu trong quá khứ dẫn

đến sự oán giận của chàng đối với Chikako của hiện tại. Kí ức về những mối tình

ngoài hôn nhân của cha Kikuji khiến anh ấy thờ ơ với những buổi lễ trà. Nhưng

cuộc gặp “tình cờ” với cô gái xinh đẹp tại buổi trà đạo đã khiến anh bắt đầu có

những thay đổi trong nhận thức. Chiếc khăn của cô gái với họa tiết ngàn con hạc đã

thu hút sự chú ý của anh, tình cảm đối với chiếc khăn là điều anh không giải thích

được. Cuộc gặp gỡ này mang ý nghĩa tượng trưng cho sự khởi đầu, cho những biến

chuyển trong của cuộc đấu tranh nội tâm của Kikuji. Cánh hạc như một sự nhắc nhở

về truyền thống, nó là hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong vải may kimono

và đồ thủ công bằng giấy, nó là biểu tượng cho niềm tin của con người vào những

điều may mắn, hạnh phúc mà cánh hạc mang đến. Nó giống như cách mà người

Nhật luôn giữ được sự lạc quan khi tin rằng “một người ốm gấp một nghìn con hạc

giấy sẽ khỏe lại”. Rõ ràng, hoa văn ngàn cánh hạc đã làm giảm đi sự oán hận của

Kikuji đối với nghi lễ trà đạo và người phụ nữ với cái bớt xấu xí trên ngực đã luôn

ám ảnh kí ức tuổi thơ Kikuji.

Trong tình yêu đối với bà Ota, Kikuji như được tìm về với hình bóng người

mẹ, còn bà Ota thì tìm lại được hình bóng người tình (cha của Kikuji). Khi có tình

cảm với Fumiko, Kikuji dường như lại tìm lại những kỷ niệm yêu thương với bà

Ota. Rõ ràng, đó là thứ tình yêu tội lỗi, nhưng nó luôn có sức mạnh mãnh liệt vượt

95

qua những ngăn cách về đạo đức, luân lí. Bên cạnh những nhục cảm với mối quan

hệ phức tạp này, nhà văn đã để nhân vật hướng đến tình yêu trong sáng, thuần khiết

với sự xuất hiện cô gái nhà Inamura và chiếc khăn thêu ngàn cánh hạc. Có điều đặc

biệt là, mỗi khi tâm hồn bị vương tội, đối diện trước cái xấu cái ác thì hình ảnh cánh

hạc lại hiện ra như một điều diệu kì để thức tỉnh Kikuji. Chàng nghĩ đến cô gái nhà

Inamura, cùng chiếc khăn hình cánh hạc như thể nghĩ về một đấng cứu thế cứu rỗi

tâm hồn tội lỗi, giúp chàng tránh xa phàm tục, đến gần hơn với tâm thiện. Khi

những khát vọng tầm thường, xen lẫn bon chen của xã hội ngoài kia xâm lấn vào

tâm hồn Kikuji, hình ảnh nàng Yukiko chính là làn nước tắm mát, tâm hồn Kikuji

được tươi mới trở lại để chàng bước tiếp tục trên nẻo đường của cuộc đời mình.

Điều đó cho thấy, chiếc khăn hình cánh hạc mang ý nghĩa đánh thức thiên lương và

cứu rỗi linh hồn Kikuji. Kawabata đã gửi gắm những khát vọng về tình yêu đích

thực, đồng thời khẳng định sức mạnh của cái đẹp có khả năng thanh lọc, cứu rỗi

những tâm hồn tội lỗi, hướng tới những giá trị tốt đẹp trong đời.

Hình ảnh chiếc khăn là tâm điểm của tác phẩm, thể hiện ý đồ sáng tạo của

Kawabata. Chiếc khăn đối với cô gái Yukiko chỉ là vật dụng bình thường, nhưng

đối với Kikuji nó lại có ý nghĩa đặc biệt. Trong thực tế, chàng chỉ gặp Yukiko hai

lần, nhưng ấn tượng về nàng thì có mặt trong hầu khắp các sự kiện liên quan đến

cuộc đời chàng. Những cánh hạc trắng quấn quít quanh hình ảnh cô gái Inamura

đưa Kikuji vào một thế giới phi thực, xa xôi. Tất cả những đường nét về nàng nhòe

đi chỉ còn những ấn tượng, những kí thác tâm sự mà Kikuji gửi gắm nơi cô. Cô thực

sự trở thành chỗ dựa, đem đến niềm tin cho chàng sau rất nhiều đau khổ, cô đơn và

dày vò trong cuộc sống.

Sự hiện hữu của biểu tượng chiếc khăn hình cánh hạc như là minh chứng cho

những khoảnh khắc, những phút giây bừng tỉnh và hướng thiện của con người.

Cánh hạc - đối lập giữa cái phàm tục và thanh cao, xấu và đẹp. Hình ảnh

cánh hạc xuất hiện 13 lần trong tiểu thuyết Ngàn cánh hạc ở những không gian và

thời gian khác nhau, nhưng luôn trong thế đối sánh giữa phàm tục và thanh cao,

giữa cái ti tiện, nhỏ nhen, ích kỉ với sự trong sáng, thánh thiện. Câu chuyện về ngàn

96

cánh hạc được đặt trong câu chuyện về văn hóa trà đạo, nghệ thuật truyền thống

đang nguy cơ mai một bởi những toan tính vị kỉ của con người trong xã hội hiện

đại, ảnh hưởng bởi sự xô bồ của văn hóa phương Tây.

Câu chuyện cuộc đời của nhân vật chính trong tác phẩm cũng là cuộc đấu

tranh quyết liệt để lựa chọn giữa cái tốt và cái xấu, cái phàm tục và cái thanh cao

nhằm vượt thoát khỏi những cám dỗ đời thường. Bà Ota qua đời, Kikuji thấy hiện

lên qua đôi mắt nhắm nghiền là hình ảnh ngàn cánh hạc bay trong trời chiều. Sắc

màu đỏ cuối ngày nổi lên trên nền trời là biểu tượng cho sự ra đi vĩnh viễn của cái

đẹp. Đó là sự xóa nhòa ranh giới của cái còn và cái mất, của thế giới hiện thực và ảo

mộng. Cũng như cái chết của Yoko (Xứ tuyết) ở cuối tác phẩm là sự thức tỉnh giấc

mơ về tình yêu, hạnh phúc trong hư ảo, vô vọng của Shimamura, khiến anh quyết

định rời xa xứ tuyết và không trở lại lần nào nữa trong đời.

Hình ảnh những cánh hạc trắng chập chờn bay đi ở cuối tác phẩm, cùng sự mờ

dần, nhòe dần hình ảnh của cô gái Inamura rất có giá trị trong tác phẩm. Cái đẹp đã

vỗ cánh bay đi trong một xã hội mà mọi giá trị đạo đức đang bị đảo lộn, đó là trà

đạo đang mai một suy tàn bởi những toan tính ích kỉ của con người, đó cũng là tấm

áo kimono, là vải tuyết chijimi… cùng với giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp đang

kêu cứu trước sự nhập nhằng của xã hội hiện đại. Người đọc chứng kiến sự lung lay

của nhiều giá trị truyền thống, sự mong manh, chóng phai tàn của cái đẹp và cùng

với đó là lời nhắn nhủ của Kawabata về hành động bảo tồn giá trị cái đẹp văn hóa

của xứ sở hoa anh đào.

3.2.5. Biểu tượng Suối nước nóng

3.2.5.1. Suối nước nóng trong văn hóa truyền thống

Trong tiềm thức con người, nước là nguồn sống tự nhiên mang nhiều ý nghĩa

rất quan trọng, “ý nghĩa tượng trưng của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm ưu

thế: nguồn sống - phương tiện thanh tẩy - trung tâm tái sinh. Ba chủ đề này thường

gặp trong những truyền thuyết cổ xưa nhất và hình thành những tổ hợp đa dạng nhất

và đồng thời cũng chặt chẽ nhất” [59,709]. Mỗi nền văn hóa khác nhau, có sự sáng

tạo các biến thể về ba chủ đề chính yếu này. Tại Châu Á, “nước là dạng thực thể của

97

thế giới, là nguồn sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của

khả năng sinh sôi nảy nở. Nước còn biểu tượng của tính hiền minh không hề chứa

đựng sự tranh chấp, bởi nước tự do và không bị ràng buộc, tự để mình chảy trôi

theo chiều dốc của mặt đất” [59,711].

Suối nước nóng mang tính chất thanh tẩy tâm hồn thể hiện nét văn hóa tín

ngưỡng Thần đạo (Shinto) trong đời sống tâm linh của người Nhật. Từ xa xưa, đối

với người Nhật, việc giữ cho thân hình sạch sẽ đã chứa đựng trong nó yếu tố của

tôn giáo. “Theo quan niệm cổ xưa, mối quan hệ giữa con người và thần linh là dễ

hiểu không có gì phức tạp cả. Một trong những vấn đề cơ bản mà con người cần

tránh nếu họ muốn sống với thần linh đó là giữa thân hình luôn sạch sẽ” [109,109].

Tắm hiển nhiên là biện pháp hiệu quả nhất để gột sạch tất cả bụi bặm, giữ cho thân

thể xứng đáng với thần linh.

Có rất nhiều yếu tố của Thần đạo chứa đựng trong việc người Nhật tôn sùng

suối nước nóng. Nếu coi đó là trung tâm của sự sùng tín tôn giáo của người Nhật thì

có lẽ hơi quá lời, nhưng sự thật suối nước nóng chứa đựng mọi yếu tố của tôn giáo

và luận thuyết về sự hưng phấn của người Nhật được xây dựng trên nền tảng mong

manh ấy. Ngụp lặn trong dòng suối nóng, chính là khoảnh khắc con người được trở

về với tự nhiên, hòa nhập với đất trời, cỏ cây hoa lá. Theo nhận thức của đạo Kitô,

tắm cũng chính là tẩy rửa, làm cho thể xác và tâm hồn quyện thành một biểu tượng,

cuộc sống trở nên thuần nhất, không còn tì vết của tội lỗi, tức là nguyên nhân tạo

nên cái chết của linh hồn. Như vậy, sự gặp gỡ của các tôn giáo về ý nghĩa tắm nước

nói chung là sự tẩy rửa và phục hồi.

Trong văn học hiện đại thế kỉ XX của Nhật Bản, nước là một biểu tượng rất

quen thuộc. Các tác giả Tanizaki, Murakami, hay Kawabata đều kế thừa những ý

nghĩa vốn có và chiếm ưu thế của nước, nhưng họ luôn có ý thức đắp bồi thêm

những ý nghĩa mới, tạo nên dấu ấn riêng trong những sáng tác của mình.

3.2.5.2. Suối nước nóng trong tiểu thuyết Kawabata - biểu tượng cho nguồn

sống, sức mạnh thanh lọc và ranh giới của hiện thực - ảo mộng

Suối nước nóng, xuất hiện trong nhiều tác phẩm của nhà văn Kawabata như

98

Hồ, Tiếng rền của núi, nhưng lặp lại nhiều nhất là ở tiểu thuyết Xứ tuyết (18 lần).

Suối nước nóng biểu tượng cho nguồn sống, nuôi dưỡng, thanh lọc tâm

hồn. Dưới ngòi bút tài năng của Kawabata, các trang văn của ông như được ướp

hương hoa trong không khí bốn mùa đượm chất thơ và sắc màu cổ tích. Vẻ đẹp

thiên nhiên xứ Phù Tang hiện ra sinh động với những suối nước nóng trong lành

thuần khiết, con người như được thỏa sức trải lòng và hòa hợp với thiên nhiên. Con

người được đầm mình trong dòng nước để được trở về với cội nguồn.

Suối nước nóng được nhắc đến trong hầu hết các sáng tác của Kawabata, nó là

điểm đến rất quen thuộc của người dân Nhật Bản, cũng là điểm lựa chọn của nhân

vật Shimamura trong tác phẩm Xứ tuyết. Shimamura nhiều lần tìm đến xứ tuyết, bị

hấp dẫn bởi vẻ đẹp thiên nhiên và tâm hồn con người, cùng nguồn sống mà anh cảm

nhận được ở không gian mênh mông, tinh khiết nơi đây. Dòng suối nóng là cội

nguồn, đem lại sự sống và mang đến cho anh ta những khoảnh khắc thú vị, diệu kì.

Nhưng, quan trọng nhất với anh là, ở trong không gian này anh được thỏa khát khao

mong muốn trở về với trời đất, trở về nguồn cội, tìm lại được chính mình ở nơi mà

cuộc sống được hồi sinh, tâm hồn được thanh lọc trong suối nguồn ấm áp, dịu dàng

của thiên nhiên, vũ trụ.

Kawabata nhấn mạnh ý nghĩa là nguồn sống, nguồn nuôi dưỡng tâm hồn trong

Xứ tuyết khi nhấn mạnh việc Komako “tắm thường xuyên ở suối, ham chuộng

những hiệu quả thâm nhập bền bỉ của nước nóng” mang lại. Đó là giây phút con

người tìm được sự tự do, tự tại và an lành trong dòng suối của thiên nhiên, đem lại

cho Komako sự vui vẻ, đáng yêu, linh hoạt. Phải chăng, nguồn suối nóng chính là

thứ nước tinh thần đã nuôi dưỡng tâm hồn, tạo cho Komako nghị lực phi thường

vượt lên những trắc trở, éo le của số phận và cuộc đời đầy bất hạnh. Qua cảm nhận

của Shimamura, Komako là cả một thế giới hạnh phúc dịu êm. Vẻ đẹp và tài năng

đặc biệt của nàng có sức lay động mãnh liệt tâm can chàng, nó cũng là một thứ ánh

sáng diệu kì có khả năng giúp Shimamura hồi sinh “bừng ngộ” nhận ra chân lí của

cuộc đời sau rất nhiều những va vấp, khổ đau.

Suối nước nóng biểu tượng cho ranh giới của hai thế giới tinh thần: thực

99

và ảo. Shimamura đến xứ tuyết, cũng chính là vượt qua ranh giới của hai thế giới,

một là thế giới hiện thực của Tokyo phồn hoa và hai là thế giới siêu thực mộng ảo

của xứ tuyết. Shimamura mơ hồ cảm thấy như mình đang ở một thế giới khác, đang

mê đi trước bức tranh thiên nhiên, một thứ thế giới siêu nhiên và tượng trưng không

phải của thời gian này. Trong cảm nhận của Shimamura, đây là thế giới của mộng

ảo, siêu thực, có sức hấp dẫn, khiến anh ngây ngất trước cảnh sắc thiên nhiên và vẻ

đẹp thuần khiết của con người. Sống trong cảm giác kì lạ này khiến “anh quên đi cả

bản thân anh”, anh hoàn toàn bị cuốn hút vào vào những điều thần diệu của không

gian suối nước nóng và đôi lúc không biết mình mơ hay tỉnh nữa.

Biểu tượng suối nước nóng xuất hiện với ý nghĩa là ranh giới của hai thế giới

tinh thần còn được thể hiện qua sự đối lập của hai nhân vật Komako và Yoko. Xét

về ngoại hình, khó có thể đánh giá ai hơn ai. Xét về tài năng, cả hai đều mười phân

vẹn mười. Trong cảm nhận của Shimamura, cả hai đều có sức hút lạ lùng. Yoko

được phản chiếu trên nền cảnh đêm mờ ảo, “cảm giác phi thực trong suốt kì lạ, rất

gần với chất thơ của hình ảnh phản chiếu ở tấm kính cửa sổ toa tầu, một khuôn mặt

gợi cảm đầy nữ tính và tuổi trẻ bồng bềnh trước phông cảnh lướt qua của hoàng hôn

và ban đêm” [103,235]. Komako lại là là thế giới của hiện thực, gắn bó sâu sắc, gần

gũi với những cảm nhận rất chân thật của Shimamura, đó là gương mặt “sống động

và tươi tắn”, căng tràn sức sống của người đàn bà trẻ. Shimamura say mê trong mối

tình với Komako, trong đó có cả sự ngưỡng mộ tài năng và nghị lực sống của nàng,

nhưng sâu thẳm bên trong anh luôn khao khát có được tình yêu đầy đam mê bởi ánh

mắt kì diệu và giọng nói trong trẻo của Yoko. Anh luôn bị giằng xé bởi xúc cảm

thân xác với Komako và một tình yêu lí tưởng, sự ngưỡng vọng đối với Yoko. Phải

chăng có một sợi dây vô hình nào đó kết nối Yoko và Komako, là thứ sinh lực tạo

ra từ nguồn nước suối tươi mát trong lành.

Người đọc như cảm nhận rõ hình ảnh lữ khách Shimamura với những băn

khoăn giữa ranh giới của hai thế giới tinh thần. Sức hấp dẫn của suối nước nóng,

của thiên nhiên xứ tuyết đã tạo ra sức mạnh giúp anh bước qua thế giới hạn hẹp của

chính mình, đến với thế giới mênh mông, đầy ảo mộng nên thơ, gắn với khát khao

100

kiếm tìm cái đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc trước nguy cơ phai tàn giá trị

trong xã hội hiện thực.

3.3. Biểu tƣợng của Thiền

Thiền là một tông phái của Phật giáo. Tư tưởng cốt lõi của Thiền vượt lên mọi

giới hạn của lớp vỏ sự vật, hướng tâm hồn con người đạt đến sự an tịnh. Khi giác

ngộ con người sẽ tìm thấy sự thanh tịnh, trong sạch và nhẹ nhõm trong tâm hồn:

“Thiền mở ra con mắt nơi nội tâm con người, trong khoảnh khắc cảm nhận được

thời gian vĩnh hằng và không gian vô tận” [110,32]. Luôn nhạy cảm với cái đẹp,

người Nhật tìm thấy ở Thiền một nhân sinh quan an nhiên, tự tại, sự trong sáng và

sức mạnh cho việc thưởng thức các giá trị thẩm mĩ. Thiền thẩm thấu tự nhiên trong

các sáng tác nghệ thuật, đặc biệt nó trở thành một kí hiệu văn hóa trong đời sống

Nhật Bản. Có một khuynh hướng văn hóa đặc thù trong tâm thức Nhật Bản là việc

không loại trừ hoặc cái này hoặc cái kia mà là tính bao gồm cả cái này lẫn cái kia

trong việc tiếp biến văn hóa, văn học nước ngoài. Thiền ảnh hưởng đến đời sống

văn hóa và quan niệm thẩm mĩ của người Nhật rất đậm nét. Thiền ở Nhật không chỉ

được khai sáng bằng con đường tọa Thiền, mà còn bằng con đường nghệ thuật như

trà đạo, hoa đạo, vườn cảnh, hội họa, và văn chương nghệ thuật. Thiền tông còn hòa

nhập, giác ngộ kinh nghiệm thần bí của mỗi cá nhân đạt tới, thấm đượm tư duy của

dân tộc được thể hiện trong nghệ thuật cũng như trong cuộc sống, đem đến cho con

người những nhận thức mới về vũ trụ và thế giới nhân sinh. Tại Nhật, người ta đã

chọn Thư đạo là một trong những môn để tu Thiền, đem lại cho họ trạng thái giác

ngộ cao. Bên cạnh hướng đi riêng, Thư đạo theo tinh thần Thiền đã tạo cho người

Nhật những giây phút thể nghiệm hoặc chiêm ngưỡng đầy trang trọng và ý vị.

Trong tiểu thuyết, tư tưởng Thiền cũng thấm đẫm, người nghệ sĩ miêu tả cuộc sống

theo quan niệm mĩ học của cái vô thường, và chủ yếu lấy bi làm mĩ.

Quan niệm thẩm mĩ của Thiền dựa trên việc suy tưởng nội tâm để đánh thức

cái đẹp Phật tính tiềm tàng trong mỗi con người. Từ thời Nara, Nhật Bản đã biết đến

các học thuyết Thiền. Tư tưởng này cho rằng: giác ngộ là quá trình bừng mở, đột

phá nhận thức đến đốn ngộ chứ không phải là một quá trình nhận thức tiệm cận dần.

101

Nó nhấn mạnh đến sự tuân thủ tự giác nghiêm ngặt để xem xét, suy ngẫm nội tâm.

Thiền tông xuất phát từ Ấn Độ và Trung Hoa, vào Nhật khá muộn nhưng lại

phát triển rất mạnh mẽ . Giác ngộ (hay đốn ngộ) được xem là trọng tâm của Thiền.

Nhờ giác ngộ, con người mới tường tận mọi chuyện, sáng suốt trong nhân quả, nhận

ra mọi sự việc. Có giác ngộ thật sự thì mới hiển lộ được chân tâm ở mỗi con người.

Thiền hòa quyện trong đời sống nhân dân một cách phổ biến, gắn bó với mĩ học, tạo

nên một nguồn năng lượng, một tinh thần cốt tủy trong tâm hồn văn hóa Phù Tang.

“Thiền thấm vào tính cách Nhật và có thể tồn tại bền bỉ sâu đậm như vậy trong lòng

người Nhật có lẽ vì nó ảnh hưởng tới khía cạnh đạo đức tâm lí nhiều hơn tư cách

một triết lí Phật giáo” [111,53].

Mĩ học Thiền là một nét nghệ thuật ưu trội của văn hóa Nhật Bản, được biểu

hiện khá rõ trong sáng tác của Kawabata. Thiền được coi như là một phương thức

nghệ thuật mới lạ, từ cách xây dựng nhân vật, cách kể chuyện và xây dựng biểu

tượng nghệ thuật. Các sáng tác của nhà văn không tách rời mĩ học truyền thống:

nỗi cô đơn không tách khỏi khái niệm vẻ đẹp, bởi vẻ đẹp không đầy đủ nếu thiếu

nỗi buồn. Nhân vật của Kawabata mang bóng dáng Thiền, họ không bị tác động

bởi các yếu tố ngoại cảnh, mà “đốn ngộ” trong những khoảnh khắc hư ảo vô

thường, đó là tinh thần cốt lõi mà Kawabata kế thừa từ Haiku Nhật Bản, dùng

Thiền để chế ngự cảm xúc. Cái nhìn ấy không hề bi quan mà luôn lạc quan trước

cuộc sống. Chính điều này ăn sâu vào tính cách, tâm hồn các nhân vật của

Kawabata. Tinh thần yêu chuộng cái đẹp, tính thẩm mĩ, nghệ thuật nằm ở sự,

“thức ngộ những điều giản dị sâu thẳm” của mĩ học Thiền. Kawabata kế thừa tinh

thần đó, nhưng lại sáng tạo trong việc “sử dụng kĩ thuật tân tiến để thể hiện tư

tưởng phương Đông, Kawabata là một trong số ít nhà văn đủ bản lĩnh để có thể

dung hòa giữa cổ điển và hiện đại” [44,1107]. Trong tiểu thuyết của nhà văn, nét

độc đáo thú vị không chỉ là sự hòa điệu với thiên nhiên cảnh vật, mà là sự ngưỡng

mộ tất cả sự vật tự nhiên, đặc biệt là sự thán phục, lòng thành kính khi miêu tả con

người. Đó là Yoko trong trắng, thanh cao, là Komako tươi mát, thanh khiết trong

Xứ tuyết, Chieko thanh lịch, dịu dàng, Naeko đằm thắm, chất phác trong Cố đô,

102

Fumiko tinh tế, sâu sắc trong Ngàn cánh hạc…

Có thể nói, ở tác phẩm của Kawabata, ít thấy sự phân chia rạch ròi những

tuyến nhân vật chính diện và phản diện, tốt và xấu, những nấc thang giá trị luân lí,

đạo đức, nó chính là tinh thần “nhất nguyên” mà Thiền đem lại.

3.3.1. Biểu tượng trà đạo

3.3.1.1. Biểu tượng Trà đạo trong văn hóa truyền thống Nhật Bản

Trà đạo hay nghi thức dùng trà là một nét đẹp độc đáo của người Nhật. Mục

đích đạt được của mọi phép Thiền là hành vi được thực hiện không phải bởi cái tôi

mà bởi cái tự nhiên thuần túy hay là cái trống rỗng, chân không. Trà được xem là

biểu tượng của Thực thể thế giới mà cái Bản nhiên của ta tham gia. Song, sự tham

gia này không phải là trạng thái trống rỗng trong giấc ngủ, mà là sự tỉnh táo cao độ

và tích cực trong quan sát tĩnh lặng.

Tục ngữ Nhật Bản có câu: “Nếu một con người mà trong bản thân anh ta

không có trà, anh ta không có khả năng hiểu được chân lí và cái đẹp” [112,79]. Việc

uống trà, có thể nói là thứ tác động lớn đến văn hóa Nhật Bản. Từ thế kỉ thứ VI, khi

Nhật Bản và Trung Quốc có sự trao đổi giao lưu văn hóa chặt chẽ, người Nhật đã

đến Trung Quốc để nghiên cứu về trà. Đến tận thế kỉ XII, trà mới được coi trọng ở

Nhật Bản. Thế kỉ thứ XIV, mặc dù đầy biến động về chính trị xã hội, nhưng đây lại

là thời kì với những biểu hiện văn hóa phong phú và là giai đoạn đất nước tiếp tục

phát triển bản sắc dân tộc, việc pha chế, phục vụ trà cũng thăng hoa. Sự liên kết

giữa Thiền và trà được thể hiện rõ nét và ngày càng được củng cố. Từ cộng đồng

tôn giáo, trà ngày càng được lan truyền rộng rãi, và tìm được con đường đến với trái

tim, trí tuệ của mọi tầng lớp trên khắp Nhật Bản. Trà đạo trở thành phương tiện để

Thiền và thậm chí là con đường dẫn đến giác ngộ, phỏng theo giáo lí Thiền rằng

mọi hành động hằng ngày, bất kể trần tục thế nào, đều có thể dẫn đến giác ngộ nếu

được thực hiện theo tinh thần đúng đắn. Việc tham gia vào buổi trà đạo có thể mang

lại sự giác ngộ lớn hơn nhiều giờ thiền định, nhưng căn phòng nơi thực hiện trà đạo

phải hướng đến lợi ích trải nghiệm. Các thiền sư tin rằng việc tạo ra một không gian

đặc biệt cho trà là điều quan trọng, cần thiết. Trà thất được hình thành dành riêng

103

cho nghi thức tâm linh phục vụ trà. Ngưỡng cửa lều chính là một ranh giới mang

tính biểu tượng, khi vượt qua được, cho phép mọi người đi vào cõi khác và tham gia

vào một điều gì đó thiêng liêng và mang tính nghi lễ, bên cạnh cuộc sống hàng ngày

bình thường của họ. Trà thất đảm bảo sự giản dị, tránh phô trương hình thức. Việc

uống trà đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa người pha trà, đồ uống trà, để đạt tới sự

thanh khiết cao độ của tâm hồn và thể xác.

Trà đạo chính là con đường trở về với bản lai diện mục nguyên sơ, đưa con

người đến cõi an yên, xóa bỏ được những âu lo, phiền muộn để chú tâm vào cái vô

ngã của tự nhiên. “Trà đạo là một nghệ thuật hết sức độc đáo và có thể nói là có một

không hai của người Nhật, đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần và

nghệ thuật của họ. Trà đạo đối với người Nhật là một thứ tôn giáo, một nghệ thuật

sống thiêng liêng” [1,1050].

3.3.1.2. Biểu tượng Trà đạo trong tiểu thuyết của Y. Kawabata

Uống trà với người Nhật, là một hình thức để có được sự tĩnh tại, tìm kiếm sự

thanh cao trong tâm hồn. Muốn có được điều đó thì cần vượt qua những yếu tố

hình thức rườm rà. Tiểu thuyết của Kawabata “dựa trên nền trà mà gốc rễ đã lung

lay” để thể hiện niềm tiếc nuối khôn nguôi về sự suy tàn của cái đẹp. Trà đạo

được nhắc đến nhiều trong các sáng tác của Kawabata, 7 lần trong Cố đô, 13 lần

trong Tiếng rền của núi, và 329 lần trong Ngàn cánh hạc. Trong đó, trà đạo

truyền thống được coi là bối cảnh chính trong tiểu thuyết Ngàn cánh hạc, cùng

với đó là những trăn trở về sự suy vi mai một cái đẹp, tiếc nuối cho số phận của

bình trà, chén trà và nghi lễ uống trà. Mọi thứ đang thay màu, biến chất trong bối

cảnh xã hội hiện đại.

Biểu tƣợng trà thất

Không gian trà thất vốn đơn sơ với một bức tranh thư pháp, một lọ hoa, một

bộ đồ trà, ấm đun, nước pha trà, lò nhỏ,... diễn ra với một vài người bạn tâm

giao, trò chuyện và cùng thưởng trà khiến cho khổ đau, tham sân si cũng giảm

lắng xuống. Đây chính là phương pháp hành Thiền đạt ngộ Phật tính, là con

đường theo đuổi sự mộc mạc, thuần khiết, tự nhiên, hướng tới trút bỏ bản ngã.

104

Một buổi trà bao giờ cũng được thực hiện trong khung cảnh yên tĩnh, bỏ qua mọi

sự cầu kì, để hướng tới nội tâm sâu thẳm bên trong con người. Người Nhật dành

sự yêu mến và kính trọng đối với sự đơn giản, thuần phác của khung cảnh xung

quanh, đây chính là lối sống, là cốt cách của con người, dân tộc Nhật.

Trà thất - Không gian kí ức, ám ảnh nỗi cô đơn

Câu chuyện trong Ngàn cánh hạc được kể theo dòng kí ức của Kikuji. Đó là kí

ức buồn về cuộc đời ngắn ngủi của người cha quá cố, là hình ảnh của người mẹ chịu

nhiều thiệt thòi, đau khổ. Vì vậy, cuộc đời Kikuji dường như cũng bị bủa vây bởi

những muộn phiền, ám ảnh về nỗi cô đơn. Từ trong vô thức Kikiji luôn khao khát

kiếm tìm chút ánh sáng để sưởi ấm cho cuộc đời lạnh lẽo của mình. Cuộc sống của

Kikuji gắn liền với những mảnh vỡ, của nỗi buồn và những cái chết. Kawabata đã

lồng câu chuyện tình yêu trong câu chuyện về trà đạo cùng những nghi lễ uống trà

đang bị vấy bẩn, nhuốm màu dục vọng, nền trà đạo đang bị lung lay dữ dội. Không

còn cái giản dị của mái tranh trà thất, hay những vật dụng “khiêm nhường”, ít ỏi

trong lễ trà, cũng không là nơi để con người có thể bình tâm thưởng trà và chiêm

nghiệm suy ngẫm về lẽ nhân sinh, không gian trà thất giờ đây lẫn uế tạp bởi tâm can

con người bị lẫn tạp niệm. Qua câu chuyện về Kikuji cùng với những tính toán vị kỉ

của Chikako, người đọc có thể nhận ra nỗi trăn trở về giá trị truyền thống, mong

muốn gìn giữ cái đẹp của Kawabata. Như cánh hạc bay về vùng trời lảng bảng trong

sắc muộn của ánh hoàng hôn dần buông, hồn trà còn phảng phất đâu đó nhưng

mang lại cảm giác thật bi ai khó tả. Khi niềm tin vào cuộc sống hiện tại đang bị lung

lay, con người thường nghĩ về những ảo ảnh tươi sáng như cố níu kéo lấy những gì

còn lại của chút linh hồn tội nghiệp, đáng thương. Vì vậy, trà thất trở thành không

gian biểu tượng cho kí ức đau buồn, ám ảnh cô đơn của nhân vật Kikuji.

Trà thất - không gian ẩm mốc, ô uế - biểu hiện sự suy tàn của cái đẹp

Trong Ngàn cánh hạc, trà thất chỉ còn là cái xác không hồn. Vẫn là những mái

tranh “nghèo nàn”, là những bức tranh thủy mặc, những bình hoa cắm đơn sơ...

nhưng hồn trà đã bay đi mất. Cái thanh đạm, đơn sơ của không gian trà thất bị thay

bằng sự xô bồ, ồn ã của cuộc sống hiện đại. Trà thất mất đi sự hòa, kính, thanh, tịnh

105

giữa những người bạn tâm giao, ở đó chỉ còn lại sự nhỏ nhen, đố kị, ganh ghét của

những người đàn bà lớn tuổi.

Không gian trà thất ẩm mốc, cửa đóng then cài chính là dấu hiệu, biểu hiện sự

hoen ố, suy tàn của cái đẹp. Kawabata đã khéo léo tập trung miêu tả chốn nương

náu của trà đạo, từ trà thất đến các dụng cụ uống trà, nghi lễ, người thực hành nghi

lễ trong mối quan hệ phức tạp. Trong không gian cũ kỹ, ẩm mốc, u tối, các vật dụng

như bình shino, chén uống trà đều bị vô dụng hóa thậm chí bị bỏ rơi, lưu truyền đến

tay của những người trẻ tuổi đang quay lưng lại với sự đối ẩm tao nhã này. Với

Kikuji, trà thất chính là nơi nhắc nhớ về những kỷ niệm với người cha quá cố. Tuy

thế, chàng không giữ gìn thói quen thưởng trà đó mà đóng cửa túp lều. Khi tiếp xúc

với các vật dụng uống trà của Ota, Kikuji chỉ nghĩ đến người cha cùng người đàn bà

của mình. Từ sự vật vô tri, tác giả thổi vào nó những linh hồn biết nói, khiến chốn

thanh tịnh của trà lại ẩn chứa những thấp hèn, nhơ bẩn. Vấn đề cần chú trọng ở đây

chính là, tư duy của con người đã biến dạng, thay đổi chứ không phải ở vật thể bị cũ

kỹ làm trà thất phôi pha.

Giữa trà thất thanh cao, tĩnh lặng bỗng trở nên huyên náo, nổi bật bởi vị trà sư

Chikako. Kawabata đã đặt cái động nằm trong cái tĩnh để làm hiện rõ hình ảnh

người phụ nữ đầy những toan tính tầm thường thông qua biểu tượng cái bớt trên

ngực trái. Hình ảnh cái bớt của người chủ lễ đã khiến tiệc trà trở nên biến dị khác

thường như là sự dung tục, dơ bẩn. Vậy trà đạo sẽ đi về đâu khi người vô đạo ấy

nắm lấy quyền chủ trà? Sự bế tắc, mất niềm tin vào sự thanh cao của trà đạo đã thể

hiện rõ ở đây. Trước thực tại đau buồn đó, nhà văn đã gửi gắm những hoài niệm về

các giá trị tốt đẹp một thời vang bóng.

Biểu tƣợng Trà cụ: Chén trà, bình trà Shino

Nghi lễ uống trà tuyệt vời của người Nhật Bản không chỉ có ý nghĩa thẩm mĩ,

mặc dù nó là sự hoàn mĩ hơn cả, mà chính sự thanh tao của cách bài trí, của các

dụng cụ và cử chỉ của người mời trà, thưởng trà, có thể biến nó thành một thứ lễ

thức vô song thờ bái cái đẹp.

Chén trà - lưu giữ và kết nối giá trị cái đẹp từ quá khứ đến hiện tại

106

Trong lịch sử Nhật Bản, nguồn gốc của chén trà Shino có từ một lò gốm có

tiếng và gắn với tên tuổi của một nghệ nhân tài hoa, “Có thể lúc đầu nó chỉ là một

cái chén ăn cơm thường, nhưng thời gian qua đi, nó đã trở thành một cái chén uống

trà. Người ta đã giữ gìn nó và truyền lại cho các thế hệ sau” [103,429]. Chén trà

Shino là một biểu tượng rất Nhật Bản, tiêu biểu cho một nghệ thuật truyền thống

nổi tiếng của đất nước xứ Phù Tang.

Trong Ngàn cánh hạc, chén uống trà Shino xuất hiện nhiều lần, trong các tiệc

trà, trong những cuộc gặp mặt, chuyện trò của các nhân vật, trở thành phương tiện

kết nối quá khứ với hiện tại được nhà văn miêu tả rất sống động. Cảnh mở đầu của

cuốn tiểu thuyết khắc họa cuộc khủng hoảng của nghệ thuật trà đạo. Đó là cảnh mà

nhân vật chính, Kikuji, nhớ lại kí ức thời thơ ấu của mình. Dòng hồi tưởng giải

thích cho sự do dự của anh về việc có nên đi dự buổi trà đạo hay không. Anh ta nhìn

thấy vết bớt xấu xí trên ngực của Chikako, in hằn trong tâm trí anh, đó không chỉ là

một dấu ấn ám ảnh mà còn mang đến một kí ức đầy đe dọa cho anh ta. Bên cạnh đó,

sự thờ ơ của anh ta đối với trà cũng được giải thích bằng kí ức mang dấu vết của cái

xấu. Rõ ràng sự ác cảm của anh với Chikako là một ẩn dụ cho sự từ chối truyền

thống đã băng hoại. Nói cách khác, hành vi của cha chàng trong quá khứ đã cản trở

việc lưu truyền di sản từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cái chết là một yếu tố khác

cắt đứt dòng truyền thống và làm tăng tốc độ suy thoái của trà đạo. Cái chết của

những người lớn tuổi do đó tượng trưng cho cái chết của nghề truyền thống. Thêm

nữa, các nghi lễ văn hóa bị nuốt chửng bởi sự xâm lấn của văn hóa phương Tây. Cái

chết của cha Kikuji không thể phủ nhận có ý nghĩa là sự liên lạc giữa tình cha con

đã đến hồi kết. Kết quả là, kiến thức của người cha về trà lễ không có cách nào để

truyền cho con trai. Tuy nhiên, cái chết của một người khác khiến Kikuji nhận ra sự

cần thiết phải bảo tồn truyền thống. Nó là cái chết của bà Ota, một góa phụ và cũng

là một tình nhân khác của cha Kikuji. Sau cái chết đó, Kikuji nhận được một số đồ

dùng trong nghi lễ trà đạo từ Fumiko, những bình trà này thực sự được truyền từ

ông Ota sang vợ ông, và sau đó là Fumiko. Kikuji phát hiện ra rằng các bình trà

được sử dụng không đúng cách khi chủ nhân của chúng cũng đã thay đổi. Bà Ota sử

107

dụng một chiếc bình Shino tốt làm bình hoa. Kikuji cảm thấy buồn khi nhìn thấy

một sự chuyển đổi như vậy trong việc sử dụng một loại dụng cụ đáng quí. Chính cái

chết của bà Ota đã làm cho anh ta hiểu sự cần thiết phải giữ lại truyền thống bất

chấp sự thù hận. Khi Kikuji sử dụng dụng cụ pha trà, hình ảnh về người cha trở về

trong suy nghĩ, xuất hiện trước mắt anh. Tất cả những kỷ niệm trong quá khứ hiện

về trong tâm trí anh cũng theo cách này. Các bình trà sau đó đã trở thành một

phương tiện truyền thông để người sống hồi tưởng những kí ức của người chết.

Những lo lắng của Kawabata về sự diệt vong của truyền thống văn hóa Nhật

Bản bộc lộ qua mô tả của ông về số phận của các bình trà, chén trà Shino. Là thế hệ

mới tiếp quản các bình trà, nhưng chúng bị sử dụng sai và thậm chí còn bị hủy hoại.

Kikuji là đại diện cho thế hệ mới ở Nhật Bản, vốn không quan tâm đến các di sản

truyền thống. Trong trào lưu theo đuổi sự hiện đại của phương Tây, anh ta từ chối

các truyền thống của Nhật Bản, nhưng sâu trong anh vẫn luôn day dứt, tiếc nuối vì

các nghi lễ trong quá khứ bị phai tàn. Sự mâu thuẫn xảy ra trong tâm lí Kikuji đã

dẫn đến sự nhầm lẫn giữa quá khứ và hiện tại, diễn ra trong câu chuyện tình yêu rối

rắm, phức tạp.

Bình trà, chén trà Shino là hiện vật chứng kiến những thăng trầm của cuộc đời

bà Ota cũng như sự biến động của trà đạo trong suốt thời gian dài. Hẳn là có sự

quan sát tỉ mỉ, cách miêu tả có sức gợi tinh tế mới có thể tạo nên chiếc chén thú vị

này bởi sự chuyển tải những ý niệm về chủ nhân của nó. Như vậy, vết son môi trên

chiếc chén là hình ảnh dùng để chỉ sự cũ kĩ, phong hóa của sự vật, cũng là dấu ấn

của tình yêu. Thế giới của những bi kịch cuộc đời đã hiển hiện qua chiếc chén cổ.

Kikuji đã yêu cô gái Fumiko, nhưng chàng vẫn không thể quên thiếu phụ Ota ngọt

ngào. Bởi thế, khi Fumiko biết được điều đó, nàng muốn xóa bỏ quá khứ bằng cách

đập nát chiếc chén Shino. Nhặt những mảnh vỡ tội nghiệp của chén trong góc vườn,

Kikuji xúc động trong nước mắt, ngước nhìn bầu trời xa xăm, nghĩ mông lung về

nấm mồ chôn những mảnh vỡ. Từ mảnh chén, bình shino, nỗi buồn xuyên thế kỷ

được hiện lên qua việc cắt nghĩa về giá trị truyền thống lâu đời và chủ nhân của nó.

Những mảnh vỡ như đang khiến tâm hồn Kikuji trở nên tan nát, cô đơn.

108

Say mê cái đẹp có thể nói là bản tính của con người, nhưng cách thể hiện tình

yêu với cái đẹp của người Nhật cho ta thấy nhiều điều thật đặc biệt. Tình yêu với vẻ

đẹp giản dị của những chiếc chén shino cho thấy tâm hồn con người Nhật Bản, họ

luôn hướng đến tất cả những gì sơ giản nhất trong cuộc sống. Chén Shino có giá trị

và ý nghĩa to lớn, không chỉ vì sự tồn tại lâu dài về thời gian lịch sử, mà quan trọng

hơn nó là bằng chứng cho sự tinh tế, tài năng tâm huyết của những nghệ nhân thực

thụ - những người đã tạo nên chúng. Nhưng vẻ đẹp giản dị với những nét đẹp tinh tế

ấy đang đứng trước nguy cơ bị người đời đánh mất, lãng quên. Trà đạo đứng trước

nguy cơ tàn phai giá trị, thậm chí đang dần phai tàn cả về mục đích và lễ nghi của

một tiệc trà. Kawabata đã thông qua hình ảnh chén Shino nhắc nhớ về kí ức, về tình

yêu đối với trà đạo, một truyền thống văn hóa tồn tại qua nhiều thế hệ của người

Nhật và khao khát muốn gìn giữ những giá trị lâu bền ấy của văn hóa dân tộc.

Kawabata đã rất kì công đối với việc miêu tả và ngợi ca vẻ đẹp và ý nghĩa của

chén trà Shino qua câu chuyện tình yêu đầy phức tạp của bà Ota. Trên thực tế bà

Ota chỉ có mặt trong cuộc sống của Kikuji vài ngày, câu chuyện tình yêu của hai

người cũng chỉ là trong khoảnh khắc, nhưng dấu ấn của nó lại rất đậm sâu. Vết son

in trên vành chén là chứng nhân ghi dấu sự hiện hữu sống động của bà trong cuộc

sống đầy nỗi niềm của Kikuji. Cuộc đời bà Ota cũng là đời trà được miêu tả, khắc

họa trong buổi hoàng hôn, nhưng dường như hương trà và dấu vết của con người

không thể phai tàn. Vì vậy, dù chén trà và tất cả những thứ gắn với một buổi trà đạo

có bị bỏ quên, trà thất có thể ẩm ướt trong bóng tối, vắng lặng không người, nhưng

hương trà và linh hồn trà đạo chính là những thứ còn tồn tại vĩnh cửu. Đó chính là

giá trị của cái đẹp, là niềm tin của con người, dù năm tháng có trôi qua, cái đẹp vẫn

còn tồn tại mãi mãi trong tâm trí con người. Chỉ cần con người luôn giữ được niềm

tin thì cái đẹp sẽ luôn tồn tại, giống như chiếc bình Shino, như chén trà kia dù mong

manh, dễ vỡ, dù trải qua biết bao sóng gió dập vùi của thời gian cái đẹp vẫn trường

tồn, đối lập với sự phù ảo của kiếp người.

Bà Ota đau khổ, dằn vặt vì mối tình với Kujiki, và cuối cùng lựa chọn con

đường tự sát. Rõ ràng, bà Ota lựa chọn cái chết để có được sự thanh thản, đó là giây

109

phút bừng ngộ, nhận ra sai lầm và ăn năn hối lỗi, nhưng đối với những người ở lại

như Fumiko và Kikuji lại đầy đau xót, bi thương và ám ảnh khôn nguôi. Kikuji luôn

cảm thấy sự hiện hữu của hình ảnh cùng hương thơm nồng nàn ngây ngất của người

đàn bà ấy bủa vây trong tâm trí, nhắc nhớ sự tồn tại của bà Ota. Có thể nói, tất cả

những thứ còn lại đều gắn liền với kí ức cũ, gợi nhớ đến hình ảnh của người đã mất,

và nó thực sự trở thành biểu tượng cho sự bất tử của cái đẹp và sự vĩnh cửu của tình

yêu. Cho dù chén shino đã đã vỡ, nhưng mảnh vỡ của một truyền thống thanh cao

vẫn còn lại cùng những suy tư, trăn trở của nhân vật Kikuji. Điều này cho thấy, sự

trân trọng nâng niu giá trị quá khứ, chính là khát vọng và niềm tin của nhà văn vào

cái đẹp, vào những giá trị truyền thống sẽ hằng tồn.

Chén trà - biểu tượng cho sự tàn phai, hoen ố của cốt cách văn hóa truyền

thống hay vận mệnh của cái đẹp

Ngàn cánh hạc cũng như những tiểu thuyết khác của Kawabata ra đời trong

bối nước Nhật đang đứng trước nguy cơ mất dần những giá trị văn hóa truyền

thống, trong đó có trà đạo. Chiếc bình Shinto là một vật dụng đã từng được dùng

trong những cuộc trà đạo, khi được tặng, Kikuji cũng trăn trở nuối tiếc vì chiếc

bình quý đã phải rời xa các cuộc trà đạo. Điều này chứng tỏ đời trà đang đến hồi

mai một, cốt cách văn hóa tốt đẹp của dân tộc đang đứng trước nguy cơ tàn phai

cùng với những vật dụng của buổi trà đạo. “Với nghệ thuật miêu tả đồ vật rất

sống động bằng cách tâm linh hóa chúng, Kawabata đã đưa người đọc vào không

gian của cái đẹp đang chịu đọa đày” [30,1070]. Chiếc bình Shino chính là biểu

tượng cho lịch sử trà đạo lâu đời, giờ đây nó hiện hữu trong không gian trà thất

nhưng không còn lưu giữ được những giá trị tốt đẹp từng được gìn giữ và nâng

niu. Kawabata đã chuyển tải một bức thông điệp ý nghĩa về việc bảo lưu giá trị

của một loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo qua biểu tượng chén Shino

trong Ngàn cánh hạc. Vì vậy, nó trở thành một thực thể sống động, lưu giữ dấu

vết người xưa, là chứng nhân cho một cuộc tình, dù nhiều bi kịch nhưng cũng

đầy hoài niệm về sự trong sáng, cao đẹp. Tác phẩm của Kawabata đã “vượt lên

tất cả những tầm thường trần tục để chỉ còn lại một cái đẹp vĩnh cửu của một

110

hiện thực tích cực, giàu sức sống và thuần khiết”.

Thông qua câu chuyện tình yêu trà đạo, Kawabata đã “tìm tòi và tôn vinh cái

đẹp trong một hiện hữu hỗn tạp giữa cái thiện và cái bất thiện, giữa cái tinh khiết và

cái dung tục, giữa sự chân thành và sự giả dối, giữa những phù hoa giả tạo bề ngoài

và chiều sâu thăm thẳm của nội cảm” [33,69]. Tác giả không chỉ chia sẻ những suy

tư về trà đạo, mà quan trọng hơn là gửi gắm một thông điệp đầy ý nghĩa: hãy trân

trọng và gìn giữ những giá trị truyền thống thanh cao của người Nhật.

3.3.2. Biểu tượng lữ khách

3.3.2.1. Tính chất lữ khách trong văn hóa truyền thống

Theo nghĩa Hán Việt: “lữ” có nghĩa là đi đường xa, “khách” là người bên

ngoài đến, như vậy có thể hiểu “lữ khách” chính là người đi đường xa đến một nơi

nào đó [Dẫn theo 113].

Tính chất lữ khách (lữ nhân) từ lâu đã trở nên quen thuộc với nền văn hóa và

văn học Nhật Bản. Khởi nguồn từ thế kỉ XIII, những võ sĩ samurai, đặc biệt là

những samurai tự do đã đem lại cho từ này một ý nghĩa đầy đủ nhất. Trong văn

học Nhật Bản, không khó để tìm thấy bóng dáng những lữ nhân quen thuộc đó,

trong hành trình vạn dặm trên những con đường sâu thẳm, không phải con đường

vương giả, cũng không phải là con đường của những giấc mơ diễm ảo, mà là con

đường “đưa thực tại vào tâm linh, nơi nỗi đau được thanh lọc bằng vô ngã tịch

liêu” của Thiền sư Basho lên miền Oku (Lối lên miền Oku). [114,375]. Đó còn là

chuyến hành trình của vĩnh viễn lữ nhân muôn đời đi tìm cái đẹp - Kawabata

trong Xứ tuyết, Cố đô, Đẹp và buồn, Vũ nữ Izu hay Ngàn cánh hạc… Và kết thúc

không phải là mục đích của những chuyến đi ấy, mà điều quan trọng là ý nghĩa

sau những cuộc hành trình, đó là ngộ ra chân lí và thu nhận được những giá trị

của cảm xúc, tinh thần.

3.3.2.2. Lữ khách trong tiểu thuyết của Kawabata - biểu tượng của hành trình

kiếm tìm cái đẹp và trở về miền tâm linh tinh khiết

Biểu tượng của hành trình kiếm tìm cái đẹp trong vô vọng

Đây được coi là hành trình xuyên suốt trong cuộc đời và sáng tác của

111

Kawabata. Đó là hành trình dài đầy ám ảnh từ Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô đến

những tác phẩm cuối cùng Đẹp và buồn, hay Người đẹp say ngủ, nhưng cái đẹp vẫn

không thuộc về họ, nó vẫn chỉ là niềm khao khát, mong mỏi và kiếm tìm.

Điểm chung của những lữ khách là tự do, tự tại trong tâm hồn, luôn hướng về

những vẻ đẹp vĩnh cửu, ngưỡng vọng và khát khao. Không giới hạn về tuổi tác, trên

hành trình kiếm tìm giá trị chân - thiện - mĩ, có thể là Shimamura trẻ trung trong Xứ

tuyết, luôn trong trạng thái phải chọn lựa; Cũng có thể là ông già Singo trong Tiếng

rền của núi, một người đàn ông sâu sắc, trách nhiệm, yêu cái đẹp nhưng cuộc đời

đầy éo le. Trong sâu kín tâm hồn, ông luôn mơ về mối tình tha thiết thời trẻ, và nó

càng hiện hữu rõ nét, khi ông nhìn thấy vẻ đẹp của người cũ trong hình ảnh cô con

dâu Kikuco. Nàng là một cô gái đẹp “vẻ đẹp có phần mong manh yếu đuối, vương

một chút trong sáng thơ ngây con trẻ trong tính cách và trong điệu bộ hờn dỗi của

đôi vai” [115,59]; Hay Eguchi trong Người đẹp say ngủ, khao khát kiếm tìm tuổi

trẻ, thanh xuân nơi các người đẹp ngủ say ngoài lữ điếm, cho đến Gimpei trong Hồ

vẫn luôn ám ảnh về cái đẹp, về tình yêu và những người phụ nữ trong vô vọng. Trăn

trở đi tìm cái đẹp, khao khát phục sinh những truyền thống cũ, những giá trị cội

nguồn của văn hóa Nhật Bản trong đời sống xã hội hiện đại và tìm kiếm hình thức

tồn tại mới cho cái đẹp đã trở thành vấn đề mà Kawabata đặc biệt chú trọng.

Kawabata đã kế thừa và sáng tạo tính chất lữ nhân để khắc họa hình ảnh

những con người, những nhân vật của thời đại mới, nhưng tâm hồn vẫn luôn vọng

tiếng ngàn xưa, vẫn luôn trăn trở với những giá trị truyền thống của dân tộc. Vì vậy,

nhà văn đã đem đến nhiều điểm thú vị cho hình tượng lữ nhân.

Biểu tượng của hành trình trở về miền tâm linh tinh khiết nơi sâu thẳm tâm hồn

Hành trình đi tìm cái đẹp truyền thống của nhà văn Kawabata, tìm về với bản

thân, tự giác ngộ và mong muốn giác ngộ cho nhiều người thông qua các tác phẩm

tiêu biểu độc đáo.

Khảo sát tiểu thuyết Kawabata, thật khó để tìm thấy những miêu tả cụ thể về

hình dáng, diện mạo của nhân vật lữ khách, nhưng về cơ bản họ đều là những người

đàn ông. Đó là nhân vật Shimamura (Xứ tuyết), ông già Eguchi (Người đẹp say

112

ngủ), Kikuji (Ngàn cánh hạc) hay Takichiro (Cố đô), Singo trong Tiếng rền của núi

và Eguchi trong Người đẹp say ngủ... Con đường của họ là hành trình trăn trở tìm

kiếm cả một đời người để tìm ra giá trị cuộc sống và tìm ra chính mình. Chủ đề

chính trong các tiểu thuyết này là hành trình của các lữ nhân tìm về với cái đẹp của

thiên nhiên hoang sơ, thuần khiết, cái đẹp của tình yêu và tâm hồn con người trong

sáng, trinh bạch. Rõ ràng, Kawabata đã tiếp tục cuộc hành trình trên những nẻo

đường mà các bậc tiền nhân đã đi, để được sống trong cảm giác chân - thiện - mỹ

qua những sáng tác thấm đẫm triết lí nhân sinh về cuộc đời. “Dường như khi muốn

suy ngẫm về bản chất của cuộc đời và kiếp người, người Nhật luôn tìm đến những

hình ảnh có chiều sâu. Khác với tư thế đăng cao của người Trung Quốc, người Nhật

muốn nhìn sâu thăm thẳm vào bản thể của mình. Đó cũng là tinh thần sâu thẳm của

Thiền tông” [116,636]. Người lữ khách trong văn học Nhật nói chung, thực hiện các

cuộc hành trình đến với thiên nhiên không phải kiếm tìm công danh, của cải, lạc

thú, mà để được sống trọn vẹn với những giá trị của cảm xúc, tinh thần. Vì thế hành

trình của họ có ý nghĩa là cuộc hành hương đến với đền thờ của cái đẹp, nơi đó họ

được thanh tẩy, gột rửa những bụi bặm trần ai trong tâm hồn.

Shimamura có lẽ là nhân vật gần gũi nhất với hình ảnh lữ khách trong truyền

thống, khao khát được hòa mình giữa thiên nhiên hoang sơ, trinh bạch đã thôi thúc

bước chân lữ khách tìm đến xứ tuyết. Chỉ có nơi yên lặng và thanh bình này mới

khiến Shimamura tìm được sự lắng đọng những rung động trong sâu thẳm tâm hồn.

Chàng như được trở về với cái Đẹp đích thực, để tâm hồn được tan chảy trong

những khúc ca bất tuyệt của xứ tuyết nguyên sơ.

Hành trình của các lữ nhân trong sáng tác Kawabata chính là hành trình đi tìm

sự tự do. Nhà văn không chú trọng đến hành động bên ngoài, chủ yếu khắc họa, đặc

tả họ qua dòng tâm tư cảm xúc từ đó làm biểu lộ một cách chân thực nhất nội tâm

các nhân vật. Tất cả họ luôn trăn trở trước cuộc đời, chìm đắm trong hoài niệm,

nuối tiếc một thời vàng son. Takichiro là một thương nhân trong Cố đô, là người

con đích thực của vùng đất ngàn năm văn vật, luôn băn khoăn về số phận của ngành

nghề truyền thống. Cũng như Takichiro, ông già Singo trong Tiếng rền của núi, suốt

113

cuộc đời luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận tất cả mọi âm thanh của cuộc sống, kể

cả âm thanh ám ảnh rền vang của núi. Âm thanh ấy giống như một niềm hư ảo luôn

ám ảnh trong tâm hồn ông. Sự nhạy cảm tinh tế của Singo khiến ông cảm nhận

được quá trình lão hóa, già nua trên chính cơ thể mình. ông già Eghuchi trong

Người đẹp say ngủ cũng đầy tinh tế khi có thể ngửi được mùi mặn mòi củavbiển,

nghe được âm thanh tiếng sóng trên mặt biển,… Nhưng Eguchi luôn nuối tiếc đắng

cay và nỗ lực trong vô vọng trước sự phai tàn của cái đẹp qua niềm thương cảm, xót

xa về thân phận, số kiếp của những cô gái ngủ mê.

Dường như sự mong manh, hư ảo của cái đẹp đã gợi ra những xúc cảm mãnh

liệt trong tâm hồn lữ khách. Những trải nghiệm và cảm nhận của họ thể hiện sự

đồng cảm sâu sắc, chân thật trước những đau khổ, mất mát của con người, của nhân

loại. Đây chính là mục đích, là kết thúc của những cuộc hành trình đầy ý nghĩa. Con

người luôn có tâm thế hướng đến sự tinh khiết, thanh cao. Vì vậy, ý nghĩa lớn nhất

của những cuộc hành trình này, chính là giá trị tinh thần, khám phá ra nguồn sức

mạnh để bản thân mỗi người có thể trưởng thành, tự hoàn thiện mình, sẵn sàng đối

diện với sóng gió, trắc trở trong cuộc đời.

Đi là để trở về, cho dù kết thúc cuộc hành trình vẫn là những hồ nghi, day dứt.

Nhưng đó là hành trình con người được sống trọn vẹn với cảm xúc, cháy hết mình

trong những khao khát khám phá, đam mê, lắng đọng để thức tỉnh và ngộ ra chân lí.

Biểu tượng lữ khách là điểm sáng trong phong cách tiểu thuyết Kawabata.

“Lừng danh với tư cách người đi tìm cái Đẹp, người tôn thờ cái Đẹp, tác phẩm của

Kawabata thường xuyên hướng đề tài về nghệ thuật và nghệ sĩ. Hoặc nếu khác đi thì

ông đều sử dụng cái nhìn nghệ sĩ để nhìn cuộc đời” [117,30]. Thông qua hình tượng

này, nhà văn thể hiện niềm tin đối với sức mạnh và bản lĩnh của con người để vượt

qua những biến động của thời đại. Đây cũng chính là giá trị nhân văn được

Kawabata đặc biệt chú trọng trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Hành trình tìm

kiếm và trở về của các nhân vật Kawabata trở thành một cuộc hành hương đến với

giá trị đích thực của cái đẹp và gột rửa tâm hồn, là một biểu tượng nghệ thuật độc

đáo, có ý nghĩa thôi thúc sự tìm về với nguồn cội, mảnh đất đã sinh ra và nuôi

114

dưỡng tâm hồn thanh khiết của họ. Đó chính là nơi con người tìm được sự an yên,

tĩnh tại trong tâm hồn.

Qua biểu tượng lữ khách, ta thấy bóng dáng của người nghệ sĩ ưu sầu

Kawabata. Ông thuộc về đoàn hành hương truyền thống trong văn học Nhật, kế

thừa, tiếp nối bước đi của thi hào Basho và thiền sư Riocan. Trên hành trình tìm

đường và nhận đường, người đọc thấy được sự kí thác của Kawabata ở đó. Mặc dù

có sai lầm, có vấp ngã, nhưng ở cuối hành trình họ đều tìm thấy hoặc ý thức được

vẻ đẹp của cuộc sống, của bản chất tâm hồn mỗi con người, để từ đó biết trân quý

hơn những giá trị cao đẹp của cuộc đời.

Tiểu kết

Nội dung của chương 3, giải mã và tìm hiểu ý nghĩa tôn giáo của các biểu

tượng có gốc rễ từ tôn giáo bản địa Thần đạo và tinh thần của Phật giáo Thiền tông.

Qua đó cho thấy, con đường sáng tạo nghệ thuật của Kawabata là ý thức tiếp nối giá

trị truyền thống và tinh thần làm giàu thêm cho những giá trị đẹp đẽ trong quá khứ

của dân tộc. Những biểu tượng nổi bật của cảnh sắc Phù Tang như: hoa anh đào,

tuyết, suối nước nóng; cánh hạc, trà đạo… đều là những hình ảnh gợi nỗi buồn, tiếc

nuối cho số phận cái đẹp đang bị hủy hoại, phôi phai giá trị trong cuộc sống hiện

đại. Từ cội nguồn văn hóa Nhật Bản, biểu tượng bước vào trang văn Kawabata,

được khoác thêm nhiều ý nghĩa mới, thấm đẫm hơi thở Phật tính, Thiền tông, hướng

con người tới những giá trị nhân văn cao đẹp. Có lẽ, tình yêu tự nhiên, sự đề cao và

trân trọng cái đẹp đã giúp cho các giá trị truyền thống Nhật Bản được chắt lọc, gìn

giữ và bảo lưu hiệu quả trong các tác phẩm nghệ thuật của Kawabata.

Tinh thần kế thừa, tiếp nối những ý nghĩa phong phú của biểu tượng trong kho

tàng văn hóa nhân loại và cội nguồn văn hóa dân tộc cùng sự sáng tạo của người

nghệ sĩ tài hoa, Kawabata đã làm nên khác biệt cho các biểu tượng vốn rất thân

thuộc, bình dị, đã thực sự trở thành thứ “vàng mười” với nhiều sắc thái mới mang

hơi thở thời đại, làm nên vẻ đẹp riêng cho những tác phẩm đã đem đến vinh quang

và trở thành niềm tự hào cho người Nhật Bản.

115

Chƣơng 4

BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG

Văn hóa Nhật Bản được hiểu là sự kết tinh giữa giá trị vật chất và tinh thần do

người Nhật sáng tạo ra trong suốt quá trình hình thành và phát triển, tạo nên diện

mạo văn hóa Nhật mang nhiều nét độc đáo, riêng biệt. Trong đó, giá trị của nghệ

thuật truyền thống là niềm tự hào đối với mỗi người con Nhật Bản. Dù trải qua

nhiều biến cố, song đời sống tinh thần và nghệ thuật dân tộc vẫn sống động với cốt

tủy riêng, đến thời hiện đại vẫn đối thoại và ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhiều nền văn

hóa trên thế giới.

Văn chương Kawabata được đánh giá “là hiện tượng kì diệu nhất của văn học

Nhật Bản thế kỷ XX” [102,157]. Trong sáng tác của nhà văn, giá trị văn hóa truyền

thống gắn bó bền chặt tới mức qua mỗi tác phẩm của ông, người đọc sẽ lần lượt

được tiếp xúc với nhiều phương diện của nghệ thuật truyền thống xứ Phù Tang. Các

loại hình nghệ thuật đặc sắc của văn hóa Nhật Bản, dưới ngòi bút sáng tạo của

Kawabata đã trở thành những biểu tượng, những kí hiệu đặc biệt giàu ý nghĩa.

“Nghệ thuật tạo cho con người hiện thực thứ hai, tức là thế giới của các cảm xúc

được trải nghiệm của bản thân cuộc đời và được thể hiện bằng những hình tượng -

biểu tượng đặc biệt” [2,202]. Biểu tượng trong tác phẩm văn học chính là sự mã hóa

cảm xúc, ý tưởng của nhà văn và trở thành phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc

có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả.

4.1. Mối quan hệ giữa biểu tƣợng với nghệ thuật truyền thống trong tiểu

thuyết Y. Kawabata

Đọc Kawabata, chúng tôi nhận thấy, dấu ấn mĩ học truyền thống Nhật Bản rất

rõ nét, cái đẹp và nỗi buồn luôn song hành, sóng đôi trong sáng tác của nhà văn.

Thế giới nghệ thuật của người nghệ sĩ ưu sầu Kawabata là tinh thần hướng về cái

đẹp tinh khiết, trinh bạch, cái đẹp của hư không mộng ảo, của hình ảnh thiên nhiên

tươi đẹp, cảm xúc về cái đẹp mong manh và nỗi buồn dịu dàng, xao xuyến trước

con người và cảnh vật. Tình yêu đối với cái đẹp, cùng khát khao gìn giữ bảo tồn các

116

giá trị văn hóa dân tộc luôn có sức quyến rũ với Kawabata, nó dường như ăn sâu

vào tiềm thức và trở thành cảm hứng chính trong suốt con đường sáng tạo của nhà

văn. Vẻ đẹp của sự bình dị hàng ngày trong tâm hồn con người và vẻ đẹp của sự

trong trẻo tươi sáng trong thiên nhiên cảnh vật luôn là cảm hứng bất tận, làm rung

động tâm hồn nhạy cảm của nghệ sĩ Kawabata. Quan điểm mĩ học của Kawabata là

cái đẹp sâu thẳm sinh ra từ cội nguồn triết lí phương Đông, vẻ đẹp của thiên nhiên,

của người phụ nữ xứ Phù Tang ngọt ngào. Đó cũng là nét đặc trưng của các môn

nghệ thuật truyền thống, dòng văn chương duy mĩ, duy tình... trong đó có sự hòa

quyện tinh hoa mĩ học Thần đạo với cái tinh thần Phật giáo Thiền tông.

Đời sống văn hóa của nhân loại là một hệ thống chứa đầy biểu tượng. Đi tìm ý

nghĩa của nó là một cách chúng ta giải mã những kí hiệu để chạm được vào những

giá trị văn hóa của mỗi dân tộc trên thế giới. Vẻ đẹp của nghệ thuật Nhật Bản trong

tiểu thuyết Kawabata đã minh chứng cho khả năng cảm thụ tinh tế về cái đẹp thanh

nhã, hữu tình của tự nhiên và nhẹ nhàng, thuần khiết của tâm hồn con người, “Nghệ

thuật Nhật Bản gắn với thiên nhiên như là phương thức tìm hiểu thế giới, nên nó có

tầm quan trọng đặc biệt trong việc tìm hiểu tính cách, tâm hồn Nhật” [118,73].

Nghệ thuật Nhật Bản thú vị ở chỗ, được tạo nên từ sự giản dị, tao nhã nữ tính có cội

rễ từ văn hóa văn học truyền thống, không chú trọng đến yếu tố kỹ xảo, cầu kì. Đây

cũng chính là nhân tố tạo nên cốt cách và tâm hồn Nhật Bản. Điều đáng nói là, cách

cảm thụ mang tính hình tượng xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ độc đáo Nhật Bản,

đạt tới trình độ của “đạo”, làm nên những loại hình nghệ thuật thể hiện phong cách

độc đáo, làm nên bản sắc riêng cho nền văn hóa Nhật Bản. Các tác phẩm của

Kawabata phản ánh nỗ lực của ông trong việc khôi phục các truyền thống đang bị

đe dọa. Hơn nữa, phông nền của nhiều tác phẩm của nhà văn là truyền thống Nhật

Bản, đó là geisha suối nước nóng ở Xứ tuyết, kimono trong trong Cố đô. Qua các

tác phẩm nhà văn đã đưa vào các yếu tố của truyền thống Nhật Bản, với mong

muốn bảo tồn văn hóa thông qua văn học. Đó là nghề dệt vải Chijimi truyền thống,

là những bộ trang phục kimono cầu kì đầy quyến rũ. Trong đó, sẽ là một thiếu sót

nếu không kể đến những nàng geisha xinh đẹp của Xứ tuyết, họ được coi là những

117

người bảo lưu và truyền bá các giá trị văn hóa dân tộc khi khoác lên mình trang

phục truyền thống kimono và thể hiện tài năng qua ngón đàn shamisen tuyệt diệu...

Có thể thấy, những biểu tượng nghệ thuật có trong các tác phẩm của Kawabata đều

xuất phát từ cội nguồn văn hóa dân tộc, nó thể hiện tình yêu cái đẹp, sự trân trọng

đối với các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời khẳng định được cá tính sáng

tạo, phong cách độc đáo của Kawabata trong việc cảm thụ và chuyển tải vẻ đẹp văn

hóa qua con đường sáng tạo nghệ thuật của mình.

4.2. Biểu tƣợng nghệ thuật dệt may

4.2.1. Biểu tượng Kimono

4.2.1.1. Kimono trong nghệ thuật truyền thống Nhật Bản

Người Nhật Bản nổi tiếng với kĩ nghệ dệt lụa đạt đến trình độ cao. Nói đến

Nhật Bản là người ta nghĩ ngay đến sắc áo kimono với hình ảnh những người phụ

nữ xinh đẹp duyên dáng. Kimono chính là sản phẩm của nghề dệt truyền thống nổi

tiếng nhất, trở thành biểu tượng của người dân xứ sở Phù Tang. Cố đô Kyoto được

coi là không gian văn hóa, nơi bảo lưu nghề dệt nổi tiếng, cũng là nơi buôn bán

kimono dệt tay với chất lượng cao. Kimono được xem là một trong số các trang

phục truyền thống điển hình nhất của xứ sở hoa anh đào, là loại trang phục có thiết

kế tinh tế và tỉ mỉ trong từng chi tiết.

Ban đầu, kimono là một từ tiếng Nhật mang nghĩa là quần áo. Nhưng theo thời

gian, từ này được sử dụng để nói đến bộ quần áo Nhật truyền thống kimono ra đời

vào thời Heian (794-1192), nó không đơn thuần là loại trang phục truyền thống, mà

nó còn là một tác phẩm nghệ thuật. Qua thời gian, kimono trở thành thời trang,

người Nhật bắt đầu quan tâm đến việc phối hợp những bộ kimono và họ đã phát

triển một độ nhạy cao hơn cho màu sắc. Điển hình, sự kết hợp màu sắc thể hiện màu

theo mùa hoặc địa vị chính trị của người mặc. [Dẫn theo 119].

Kimono thực sự là linh hồn của nền văn hóa Nhật Bản. Cho dù trải qua quá

trình lâu dài thay đổi và phát triển, kimono vẫn luôn giữ được nét đẹp riêng và

khẳng định được giá trị trên toàn thế giới. Điều đặc biệt ở trang phục kimono là

được các nghệ nhân may hoàn toàn thủ công và có thêm các chi tiết hoa văn rất đẹp

118

mắt. Chính vì thế, kimono trở nên lộng lẫy, rực rỡ hơn so với quốc phục ở các nước

khác. Kimono Nhật Bản được coi là tấm áo của thiên nhiên bởi được may bằng các

loại vải dệt từ những chất liệu tự nhiên như vải bông, vải lanh và vải lụa. Chỉ riêng

kimono dành cho mùa hè được dệt bằng vải cotton. Với người Nhật, việc dệt may

và mặc kimono cũng phải tuân thủ theo những quy định rất nghiêm ngặt, về màu

sắc, về tuổi tác, về đặc trưng theo mùa, đặc biệt là màu đỏ, được dùng cho trẻ em và

phụ nữ trẻ chưa chồng. Mặc kimono kết hợp với các phụ kiện cũng phải tuân theo

nguyên tắc riêng. Có thể nói, kimono là một nét văn hóa đặc trưng, là tài sản quốc

gia và mãi là niềm tự hào của người Nhật.

4.2.1.2. Kimono trong tiểu thuyết của Y. Kawabata

Kimono có mặt gần như trong tất cả các tác phẩm của Kawabata, đi bên cạnh

cuộc đời các nhân vật với tần số xuất hiện cao. Ngàn cánh hạc 17 lần, Tiếng rền của

núi 20 lần, Xứ tuyết 41 lần, Đẹp và buồn 30 lần… và nhiều nhất là tiểu thuyết Cố đô

với 232 lần. Đáng chú ý nhất là, tiểu thuyết Cố đô, có rất nhiều yếu tố của nghệ

thuật truyền thống dân tộc được nhà văn quan tâm miêu tả. Bởi lẽ Cố đô - Kyoto

chính không gian lưu giữ bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được

trân trọng từ ngàn đời. Trong tác phẩm của Kawabata, kimono trở thành một kí hiệu

văn hóa nổi bật trong hệ thống biểu tượng văn hóa quốc gia, mang ý nghĩa biểu đạt

rất phong phú, đầy hấp dẫn.

Kimono - Tấm áo biểu tượng lưu giữ vẻ đẹp ngàn xưa

Điều làm nên sức hấp dẫn cho mỗi trang văn Kawabata là vẻ đẹp thiên nhiên

và giá trị văn hóa Phù Tang. Đó là những tác phẩm được nhà văn “dệt nên” từ chính

những chất liệu cổ truyền đã sản sinh ra nền văn hóa, văn học Nhật Bản. Cố đô là

một nỗ lực tiếp theo của Kawabata để mô tả sự nhạy cảm tinh tế đối với vẻ đẹp của

thiên nhiên và nghệ thuật truyền thống Nhật Bản. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh

Kyoto, nơi thiên nhiên và nghệ thuật nói hộ trái tim nhạy cảm về nét đẹp truyền

thống đã trở thành niềm tự hào cho truyền thống của dân tộc. Các sản phẩm dệt

truyền thống cũng như nhiều lễ hội cổ xưa là biểu tượng cho vẻ đẹp Nhật. Kyoto -

thủ đô cổ kính của nước Nhật, chính là không gian văn hóa, nơi hội tụ của những

119

giá trị truyền thống đã hiện ra sinh động đầy tự hào song cũng chất chứa nỗi buồn,

niềm tiếc nuối cho tà áo kimono, thắt lưng obi và sự suy vi của một nghề truyền

thống biểu hiện qua mỗi trang văn của Kawabata.

Kyoto quả thật là không gian văn hóa sinh động với những danh lam thắng

cảnh nổi tiếng, cùng với chùa chiền, lễ hội diễn ra quanh năm, và đặc biệt đây còn

là thành phố dịu dàng thướt tha của những bộ áo kimono truyền thống. Mỗi mùa

một màu áo, một kiểu họa tiết khác nhau, tạo nên một thế giới của kimono đa dạng,

tràn đầy màu sắc và đầy sức sống qua mỗi trang văn của Kawabata. Cách miêu tả

trang phục kimo no, chi tiết, cụ thể, hướng người theo những cảm hứng của niềm

hân hoan, say mê và đầy tự hào của một con người luôn tha thiết hướng về những kí

ức - gắn với khoảng không gian văn hóa hội tụ vẻ đẹp từ ngàn xưa. Kimono thực sự

là linh hồn của dân tộc Nhật, nó trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn, tính cách

của đất nước này. Do vậy, tìm hiểu ý nghĩa và lí giải biểu tượng kimono là cách

chúng ta có thể cảm nhận được một cách sâu sắc về cuộc sống và tâm hồn con

người Nhật Bản.

Kimono trong quan niệm của người Nhật là một công trình nghệ thuật, nó

được tạo nên từ tài năng tâm huyết, từ đôi bàn tay khéo léo của người nghệ sĩ. Vì

thế, nó là tấm áo của tâm hồn, tính cách Nhật, “Cái đẹp của sự duyên dáng, tế nhị

trong tâm hồn con người ở xứ sở Phù Tang luôn muốn tìm đến vẻ đẹp giản đơn,

bình dị nhất ẩn trong mọi biểu hiện của tự nhiên và sự vật” [120,73]. Cảm quan này,

khiến cho nghệ thuật Nhật Bản luôn tìm đến sự hòa điệu với thiên nhiên trong trẻo,

tinh khiết. Vì thế, sức hấp dẫn nổi bật của kimono chính là sự giản dị, đời thường,

hòa hợp cùng vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất. Quả thật, Kyoto là thành phố Kimono

đúng theo cách mà Kawabata đã ưu ái gọi trong tác phẩm, cho thấy tình yêu, niềm

trân trọng và tự hào của tác giả dành cho vẻ đẹp văn hóa dân tộc. Trong Cố đô,

chính vẻ duyên dáng đáng yêu của Chieko đã tôn thêm vẻ đẹp của trang phục

kimono truyền thống, nàng mặc chiếc kimono màu tím hoa cà màu dịu, và cái thắt

lưng rộng bằng vải hoa mà cha nàng đã tặng. Đó là sự hòa quyện của vẻ đẹp thiên

nhiên và sự đáng yêu, hồn nhiên trong bước chân khoan thai của Chieko, trong sự

120

cảm nhận tinh tế của Kawabata. Hơn nữa, nhìn vào một chiếc áo kimono, người ta

có cảm tưởng được hòa mình vào một thế giới thu nhỏ, thế giới được tạo ra từ

những họa tiết sinh động trên áo, trên chiếc thắt lưng thêu hình ngọn núi và cây

thông liễu mà Hideo đã kì công dệt tặng cho Naeko. Có thể nói, tình yêu tự nhiên,

sự hòa điệu với đất trời, hoa cỏ của nhà văn, đã tạo nên vẻ đẹp bình dị mà tinh tế

của tấm áo kimono, giúp cho những giá trị truyền thống ấy được chắt lọc, gìn giữ và

lưu truyền theo thời gian. Có lẽ đây là lí do khiến nghệ thuật Nhật Bản nói chung có

nét tương đồng, gần gũi với “những khoảng trống thinh lặng của không gian, thời

gian, hòa điệu cùng vòng luân chuyển bốn mùa của thiên nhiên vũ trụ” [121,97].

Kimono trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của tâm hồn dân tộc, được gìn giữ, bảo lưu

qua tài năng sáng tạo của những người nghệ sĩ đích thực.

Như vậy, kimono chính là bảo vật văn hóa, là biểu tượng lưu giữ vẻ đẹp ngàn

đời của nghề truyền thống cao nhã, là cốt cách của tâm hồn nghệ sĩ tài năng tâm

huyết, luôn yêu mến và trân trọng vẻ đẹp cội nguồn của dân tộc Nhật.

Kimono - tấm áo biểu tượng cho chỉnh thể vẻ đẹp nữ tính

Truyện Genji và một số tác phẩm thuộc dòng văn học nữ lưu có ảnh hưởng lớn

đến văn học Nhật bởi tính nữ vĩnh cửu, mang vẻ đẹp vừa mềm mại, dịu dàng, lại

vừa quyến rũ và mạnh mẽ, sâu lắng: “Tanizaki, Kawabata, Mishima... là những ngôi

sao sáng nhất của nền văn học Nhật Bản hiện đại, tất cả họ đều chịu ảnh hưởng của

Genji monogatari trong linh hồn của cái đẹp. Làn hương của Murasaki, người phụ

nữ của nghìn năm trước, vẫn còn vương trong bút pháp của TK XX” [94,126].

Chúng tôi cũng nhận thấy, có sự gặp gỡ của Kawabata với Tanizaki trong việc, đưa

kimono, một trong những biểu tượng nổi bật của văn hóa truyền thống dân tộc vào

sáng tạo văn chương nghệ thuật. Họ đều coi cái đẹp là điều cốt lõi hướng con người

tới giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Vì vậy, các nhân vật trong tác phẩm của họ đều

kiếm tìm vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong sáng tạo nghệ thuật truyền

thống. Tanizaki hướng tới chủ nghĩa duy mĩ Âu hóa đề cao vẻ đẹp cơ thể, sự khát

khao nhục dục nguyên thủy của người phụ nữ. Kimono trong tác phẩm Tanizaki là

sự hòa quyện giữa vẻ đẹp mềm mại của cơ thể con người và sự tinh tế của những

121

đường nét trên tấm áo, cho thấy sùng bái vẻ đẹp thân thể phụ nữ và tôn thờ nhan sắc

là đặc trưng nổi bật trong quan điểm thẩm mĩ của nhà văn. Văn chương Kawabata

thiên về đề cao vẻ đẹp của nghệ thuật truyền thống. Cái đẹp trong tác phẩm

Kawabata là sự mong manh, mau chóng phai tàn, nhưng là cái đẹp thuần khiết có

khả năng cứu rỗi con người. Kawabata được đánh giá là: “nhà văn lĩnh hội đối trọn

vẹn tinh thần của văn chương Heian. Trong tác phẩm của ông, văn phong giàu nữ

tính và người phụ nữ luôn là đối tượng để tôn vinh” [55,126]. Tính nữ, một đặc

trưng của vẻ đẹp Nhật Bản, được Kawabata tiếp thu, kế thừa và vận dụng một cách

sáng tạo qua biểu tượng kimono.

Nhìn từ cảm quan thẩm mĩ, tính nữ là đặc trưng của cái đẹp nói chung và vẻ

đẹp nữ giới nói riêng. “Tính nữ thường gắn với phái đẹp và bản thân cái đẹp cũng

hiện lên sâu sắc từ vẻ đẹp của nữ giới. Tính nữ được biểu hiện qua hai phương diện,

vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn của con người” [122,92]. Trong đó,

vẻ đẹp tâm hồn của người Nhật được Kawabata chú trọng khám phá, lí giải qua

những hình ảnh mang đặc tính nữ, trở thành những biểu tượng truyền tải nhiều

thông điệp ý nghĩa đến với người đọc, trong đó kimono thực sự là biểu tượng cho

chỉnh thể của vẻ đẹp nữ tính.

Kimono là vẻ đẹp văn hóa, là niềm tự hào của người Nhật về một tác phẩm

nghệ thuật thực sự, được tạo ra từ đôi tay khéo léo, tài hoa của những người nghệ

sĩ. Một chiếc kimono chỉ thực sự được phô bày tất cả vẻ đẹp khi gắn liền với

người phụ nữ, cùng sự kết hợp với dây lưng, guốc gỗ và mang bít tất, như là một

mặc định, tạo nên chỉnh thể của cái đẹp. Vì vậy, kimono trở thành biểu tượng cho

người phụ nữ Nhật Bản. Trong Xứ tuyết vẻ cuốn hút, ở nhân vật Komako dường

như là một điều rất tự nhiên. Có thể thấy, sức quyến rũ, cuốn hút của vẻ đẹp cơ thể

Komako chính là nhờ vẻ gợi tình mà kimono đem lại. Rõ ràng, kimono cùng với vẻ

đẹp cơ thể geisha đã tạo nên sự hoàn thiện, đầy đặn, đậm nữ tính cho người phụ nữ

Nhật Bản. Không cần những chi tiết quá cầu kỳ hay màu sắc sặc sỡ khi chọn lựa

trang phục kimono, sự khéo léo của người phụ nữ thể hiện ở việc kết hợp tinh tế

kimono với các phụ kiện gắn liền với họ như chiếc thắt lưng nhỏ hay guốc gỗ và bít

122

tất tạo nên sự gợi cảm, sức quyến rũ riêng. Vẻ đẹp và sự hấp dẫn của nàng geisha

Komako trong Xứ tuyết được tạo nên, không chỉ nhờ sự phô diễn vẻ đẹp cơ thể, mà

đẹp nhất là khi khoác lên người bộ trang phục truyền thống kimono để thể hiện sự

duyên dáng trong từng thao tác cử chỉ của những điệu múa truyền thống.

Điều đó cho thấy, kimono chính là trang phục làm tôn lên vẻ đẹp tao nhã,

trong sáng của người phụ nữ. Khi những nàng geisha khoác lên mình trang phục

kimono, chính là lúc họ trở nên đẹp và cuốn hút nhất. Với người Nhật, geisha cần

đến nhiều kĩ năng quan trọng, biết đàn, hát, múa và am hiểu văn hóa dân tộc, họ

được coi là những nghệ sĩ thực thụ. Để trở thành chuyên nghiệp, họ luôn phải tự ý

thức, rèn giũa từng cử chỉ, điệu bộ, thao tác di chuyển vừa để phô bày được vẻ đẹp

duyên dáng của hình thể vừa làm nổi bật được vẻ đẹp quyến rũ của trang phục

kimono. Komako, nàng geisha của Xứ tuyết, dường như ý thức được trách nhiệm

với công việc, là một thứ bản năng khó thể lí giải cho tường tận. Giữa chốn thâm

sơn cùng cốc, ý chí nghị lực chính là sức mạnh luôn thôi thúc cô tự rèn luyện, học

tập không ngừng. Có thể thấy ở Komako là sự hội tụ của vẻ đẹp tâm hồn và tính

cách con người Nhật Bản. Nàng xinh đẹp và vô cùng duyên dáng trong từng cử chỉ,

vừa tiếp khách vừa rót trà và say sưa đàn hát, sự uyển chuyển nhẹ nhàng ấy càng

tôn lên vẻ quyến rũ, gợi cảm của trang phục kimono. Đây có lẽ là lý do mà

Shimamura luôn cảm thấy ấm áp mỗi khi được ở gần Komako.

Trang phục kimono của người phụ nữ Nhật thường gắn liền với chiếc thắt

lưng obi. Obi là một loại vật liệu dệt, hoặc được thêu kim tuyến dầy đặc, rộng

chừng ba mươi centimet và dài khoảng hơn hai mét, bao trùm toàn bộ khu vực được

coi là thắt lưng. Obi cũng giống như việc trang trí hoa văn, được tuân thủ theo mùa

và theo quãng đời đã trôi qua. Vào dịp đầu xuân, người ta có thể trang điểm cho nó

hình hoa mận, vào dịp giữa hè là hình ảnh những dòng suối mát, vào mùa thu là

hình ảnh những cây gỗ thích rực đỏ, còn mùa đông là hình ảnh của cây thông với

màu xanh bất diệt. Obi cũng thay đổi theo lứa tuổi của người mặc. Khi còn trẻ, các

cô gái có thể mặc những chiếc obi sáng màu, thậm chí xanh đỏ sặc sỡ, nhưng khi đã

trưởng thành hơn họ phải mặc những chiếc obi thanh nhã. Dành cho các bà mẹ là

123

những chiếc obi màu bạc, còn dành cho các bà lão là những chiếc obi màu tối hay

màu nâu sẫm. Cho dù, đối với người phụ nữ, hình dáng của những chiếc obi và bộ

kimono là không hề thay đổi trong suốt cuộc đời, chỉ có màu và chất liệu vải là thay

đổi theo thời gian. Nếp ăn mặc trang phục truyền thống này cũng là biểu hiện cho

cái đẹp vĩnh cửu trong quan niệm của người Nhật.

Không phải ngẫu nhiên, trên con đường sáng tạo nghệ thuật, Kawabata đã

dành tài năng và tâm huyết để viết về vẻ đẹp của người phụ nữ, trong đó đặc biệt

dành nhiều ưu ái cho những nàng geisha Xứ tuyết, nhất là Komako. Phụ nữ là người

tạo dựng mái ấm gia đình, “trên chặng đường ra đi của người lữ khách, người nữ là

chốn dừng chân” [123,1084]. Komako cùng với tấm áo kimono truyền thống, chính

là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp nữ tính trong các tác phẩm của Kawabata.

Kimono - niềm tiếc nuối trước số phận mong manh, dễ phai tàn của cái đẹp

hay sự suy vi của nghệ thuật truyền thống

Dệt kimono là một nghề truyền thống rất nổi tiếng của người Nhật, sản phẩm

được tạo ra hoàn toàn thủ công bằng chính đôi bàn tay tài hoa và tâm huyết của

những người nghệ sĩ thực thụ. Rõ ràng, dệt kimono không phải là một ngành

nghề lao động đơn thuần, mà với người Nhật đây thực sự là một hoạt động nghệ

thuật. Đây chính là giá trị văn hóa nghệ thuật, những tinh hoa thẩm mĩ được chắt

lọc và lưu truyền qua bao đời. Nhưng nghề dệt truyền thống đang đứng trước

nguy cơ mai một bởi những ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ của văn hóa Âu Mỹ.

Những tấm áo kimono chứa đựng tình yêu, tâm huyết và niềm tự hào của người

Nhật, giờ đây được thay thế bằng những sản phẩm được sản xuất hàng loạt. Cố

đô vốn sôi động, căng đầy sức sống, đã xuất hiện dấu hiệu của sự tàn phai, “Từ

mùa thu năm ngoái đến hết mùa xuân năm nay, nhiều hãng buôn vẫn mua vải may

kimono sản xuất ở Nhixidghin đã theo nhau phá sản” [103,717].

Sự suy vi của hãng buôn lâu đời cùng sự mai một của nghề dệt vải kimono

truyền thống là điều luôn ám ảnh Takichiro. Trước những chuyển xoay của thời thế,

sự tàn phai của cái đẹp, ông xót xa, trăn trở nhưng đành bất lực trước hiện thực. Có

thể thấy, mọi thứ đang biến đổi theo trào lưu hiện đại phương Tây, cả về nhu cầu và

thị hiếu thẩm mĩ. Tất cả trở nên xô bồ, ồn ào, ngành nghề thủ công truyền thống lâu

124

đời đang dần bị quên lãng. Thị hiếu của người dân cũng thay đổi nhanh chóng,

Takichiro cũng kinh doanh “rặt đồ trang phục bán cho người tiêu dùng thông

thường”. Takichiro và Hideo là những con người có trái tim rung động mãnh liệt

trước cái đẹp truyền thống tinh tế của dân tộc. Tâm huyết với nghề, sáng tạo ra

những mẫu phác thảo gửi gắm trong đó biết bao tâm tình thầm lặng. Vì vậy, trước

những biến thiên của đời sống họ không khỏi xót xa, nuối tiếc. Trước sự thay đổi

của xã hội, ông Takichiro luôn trăn trở, buồn bã: “Nếu không gửi gắm tâm hồn

vào thì làm sao làm được cái gì tốt đẹp… Khi phải dệt thứ đồ tầm thường thì công

việc trở nên nặng nhọc gấp đôi” [103,618]. Giữa nốt nhạc trầm buồn về thời thế

đổi thay, người ta vẫn cảm nhận đâu đó chút ánh sáng của niềm tin còn vương lại,

đó chính là tình cảm ấm áp yêu thương của con người. Câu chuyện cảm động

trong Cố đô, chính là câu chuyện về tình cảm của Takichiro đối với Naeko, khi cố

gắng tĩnh tâm vào chùa, tìm lại sự tĩnh lặng trong tâm hồn với mong muốn tạo ra

một món quà ý nghĩa dành tặng cho cô con gái nhỏ - niềm an ủi duy nhất còn lại

của Takichiro. Tình yêu dành cho Naeko, cùng với sự nghiêm túc của người làm

nghề được ông Takichiro dồn hết vào tác phẩm nghệ thuật của mình. Tình cảm

yêu thương ấm áp của người cha cũng được Naeko cảm nhận sâu sắc bằng sự nhạy

cảm, tinh tế của trái tim biết yêu thương và trân trọng. Chính tình yêu thương đó

đã tạo nên một cô con gái xinh đẹp và dịu dàng, người đồng cảm và động viên cha

mẹ già, những người cảm thấy lạc lõng trước những thay đổi nhanh chóng của đất

nước Nhật Bản hiện đại. Chủ đề về mối quan hệ giữa tình cảm của cha mẹ và một

cô con gái xinh đẹp dường như gợi ý một chủ đề sâu sắc hơn, rằng vẻ đẹp có thể

được tạo ra thông qua tình cảm, và vẻ đẹp đó là sức mạnh để duy trì cuộc sống của

chúng ta trên thế giới này. Cô cho rằng tác phẩm đầy tâm huyết của Takichiro

chính là những tìm tòi đến tận những ngóc ngách sâu thẳm của tâm linh con

người. Cho dù, dưới con mắt tinh tế của người làm nghệ thuật, chàng trai trẻ

Hideo cho rằng tác phẩm của Takichiro chưa thật sự hoàn hảo, nhưng người đọc

vẫn cảm nhận được ông đã thực sự hết mình cho vẻ đẹp văn hóa cội nguồn, trân

trọng lưu giữ nghệ thuật của dân tộc. Takichiro là một hình tượng rất điển hình,

125

quen thuộc trong cuộc hành hương kiếm tìm giá trị chân thực của cuộc sống trong

các tác phẩm nổi bật của tác giả Kawabata.

Câu chuyện của các nhân vật trong Cố đô là câu chuyện của quá khứ, trong đó

con người luôn ở tâm thế hướng về giá trị cội nguồn, mong muốn níu giữ cái đẹp

trường tồn, vĩnh cửu. Vẻ đẹp của văn hóa truyền thống có thể nói là vấn đề trọng

tâm, xuyên suốt trong hành trình nghệ thuật của Kawabata. Tiểu thuyết Cố đô thực

sự đã khắc họa nên cả không gian, thời gian, kí ức của con người về nền văn hóa

xưa cũ, mong muốn níu giữ cái đẹp của những ngày đã qua. Nhân vật của Cố đô

luôn hoài niệm, tiếc nuối, nhung nhớ về miền kí ức cổ kính đã từng là niềm tự hào

về nền văn hóa truyền thống của họ. Kawabata đã lan truyền đến người đọc niềm tự

hào, sự trân trọng về nền văn hóa Nhật qua câu chuyện kể về sự kì công, tâm huyết

của Takichiro trên từng họa tiết kimono.

Như vậy, trong sáng tác của Kawabata, kimono, obi hiện ra sinh động với đầy

đủ vẻ đẹp đáng tự hào về giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc. Điều đáng lưu

tâm nhất, là nhà văn muốn tìm đến căn nguyên của sự phai tàn giá trị cái đẹp, chính

là hiện thực và sức tàn phá của văn hóa phương Tây. Cố đô đang trở nên ồn ào, xô

bồ, thương mại hóa, nhuốm màu sắc của đô thị Tây phương, suy tàn ngành nghề

truyền thống, song trong tâm hồn những người con của nền văn hóa cũ, đó vẫn là

không gian văn hóa tươi đẹp, miền ký ức trong veo, tĩnh lặng và an yên vô cùng.

Nhà văn lên tiếng cảnh báo và mong muốn mỗi người tự ý thức gìn giữ, trân trọng

và bảo vệ những giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc. Trong Cố đô, ông Takichiro có

thể coi là nghệ nhân đầy tâm huyết, nỗ lực hết mình đối với kimono, với obi. Chìm

trong hương hoa anh đào, dưới bóng thông liễu xanh của Cố đô cổ kính chính là sự

tiếc nuối cho tà áo kimono, cho hoa văn trên thắt lưng obi và nguy cơ của thành phố

với biết bao lễ hội văn hóa cổ xưa đã biến thành chốn công nghiệp lạnh lùng cũng

như tinh thần thẩm mỹ cao nhã sẽ bị hủy hoại bởi thị hiếu thấp kém, nghèo nàn

trong buổi giao thời.

Kawabata qua tài năng và tâm huyết, đã nhắc nhớ mỗi người về bản sắc, cốt

cách của dân tộc, nó như một sự thức tỉnh con người hãy luôn gìn giữ và trân trọng

126

những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

4.2.2. Biểu tượng vải dệt Chijimi

4.2.2.1. Chijimi trong truyền thống văn hóa Nhật Bản

Đây là một nghề thủ công truyền thống tao nhã, giúp tẩy trắng vải dệt kimono

bằng tuyết ở Nhật Bản, vì vậy sản phẩm làm ra được gọi là một thứ vải của tuyết.

Những người thợ thủ công đã dệt nên những bộ kimono bằng vải chijimi truyền

thống. Đây chính là thứ vải tuyết, ra đời và hoàn thiện vẻ đẹp giữa vùng tuyết lạnh.

Chijimi cúng là một loại vải độc đáo, có thớ ngang dệt bằng loại sợi được xe rất bền

chắc. Sau khi dệt người ta thường ngâm vào nước nóng và vò nhàu tấm vải để làm

vải co rút lại tạo ra các vết nhăn (từ chijimi trong tiếng Nhật vốn có nghĩa là co rút

lại). Loại vải này thường được dùng để may quần áo mặc mùa hè.

Không có tuyết thì không có chijimi. Đó là một sự thật nổi tiếng ở vùng Ojiya

của tỉnh Niigata, một nơi được biết đến với những cánh đồng rộng, thoáng và tuyết

rơi dày đặc bất thường. Người dân ở đây luôn tận tâm để giữ gìn truyền thống dệt

may địa phương của Chijimi. Đây được coi là nghệ thuật biến sợi thực vật thành

một loại vải riêng biệt với sự giúp đỡ của mặt trời và tuyết, không chỉ là một loại

vải sản phẩm của nghề thủ công truyền thống, mà việc sản xuất gắn với nhịp điệu

đặc trưng của đời sống thuở xưa ở nơi mùa đông lạnh và tuyết phủ kéo dài, “từ đó

làm nổi bật mối tương quan giữa loại vải này và đặc điểm tự nhiên của miền đất đã

sinh ra nó” [124,306].

Quy trình truyền thống có nhiều công đoạn tỉ mỉ, bao gồm hái bằng tay thân

cây gai, lấy sợi, buộc các sợi lại với nhau, sau đó dệt vải thủ công trên khung cửi

mặt đất truyền thống. Việc kéo sợi chỉ chặt chẽ trong quá trình dệt tạo ra một nếp

gấp đặc biệt, mang lại cảm giác mịn và mát cho vải khi mặc. Sau khi mảnh vải đã

được tháo ra khỏi khung dệt, nó được giặt bằng nước nóng và xoa bóp bằng bàn

chân. Bước cuối cùng của quá trình này là lấy vải ướt bên ngoài, đặt nó trên tuyết

trong mười đến hai mươi ngày, nơi nó sẽ được làm sáng bởi các yếu tố của thiên

nhiên, đặc biệt là tuyết. Tuyết làm tăng phản xạ ánh sáng từ mặt trời và đẩy nhanh

quá trình làm sáng màu vải. Trong thời kỳ này, các cánh đồng trong khu vực trông

127

giống như những tác phẩm nghệ thuật ngoài trời tuyệt đẹp, với những dải vải dài

đầy màu sắc nổi bật trên nền tuyết trắng tinh. Mặc dù có lịch sử từ thế kỷ 17, nhưng

các loại vải được làm bằng quy trình này vẫn còn phổ biến cho đến ngày nay, với

chất liệu nhẹ, mát thường được sử dụng trong kimono mùa hè, bọc đệm và chăn ga

gối đệm. Nghề thủ công là sự thể hiện hoàn hảo của sự hài hòa giữa thiên nhiên và

con người, vì loại vải được sinh ra vào mùa đông nên mang lại cảm giác mát mẻ

cho người dân địa phương ngay cả trong cái nóng của những tháng mùa hè oi bức.

4.2.2.2. Chijimi trong tiểu thuyết của Kawabata - tấm áo kí ức, hoài niệm, biểu

tượng cho vẻ đẹp nữ tính, cao khiết, có khả năng thanh lọc

Chijimi xuất hiện 28 lần trong tiểu thuyết Xứ tuyết của Kawabata, Cùng với áo

kimono, nghề dệt vải chijimi - những tấm vải dệt áo được bắt đầu và kết thúc trong

tuyết, đem đến vẻ đẹp tinh khiết cho những ngành nghề truyền thống, giàu giá trị

văn hóa Nhật Bản

Chijimi - Tấm áo tinh khiết của tuyết, có khả năng thanh lọc

Qua ngòi bút của Kawabata, huyền thoại về vải chijimi hiển hiện trong suy

nghĩ của Shimamura, đó là loại vải đặc biệt được dệt nên trong tuyết, đẹp không

ngôn từ nào có thể tả được bởi nó thực sự là một tuyệt tác được tạo nên từ những

người thợ lành nghề địa phương. Shimamura cảm thấy có một sự gắn bó đặc biệt

với hàng dệt này ngưỡng mộ công sức của những người thợ dệt trẻ tuổi. Nhưng

quan trọng hơn là trong trí liên tưởng và cao thượng của mình, Shimamura cho

rằng, chijimi là viết tắt của cả Yoko và Komako. Giống như màn trình diễn

Shamisen của Komako, nghệ thuật và thiên nhiên đã hòa quyện tạo ra loại vải

chijimi trong môi trường nông thôn miền núi. Shimamura tin rằng, chijimi giữ được

sự mát mẻ của tuyết, vì vậy, trong cái nóng của mùa hè nó càng có ý nghĩa hơn.

Anh yêu thích và đánh giá rất cao loại vải chỉ mặc theo mùa này, thậm chí còn gửi

quần áo chijimi của mình đến xứ sở tuyết vào mỗi mùa đông để tẩy trắng chúng

theo phương pháp truyền thống, nghiêm ngặt, phơi chúng dưới tuyết và không khí

lạnh sau khi ngâm qua đêm và giặt vào sáng sớm trong vài ngày.

Để có được tấm vải chijimi là cả một quá trình tỉ mỉ công phu từ công đoạn

128

dệt, thêu. Khi vải chijimi trắng được dệt thành từng tấm thì công việc tẩy trắng

được thực hiện ngay, vải màu thì được hoàn thành ngay trên khung cửi cho đến

khi hoàn thành cả tấm. Tháng giêng, tháng hai âm lịch là thời điểm tốt nhất để

thực hiện công việc này. Đến Xứ tuyết vào dịp này, sẽ thấy chỗ nào cũng xuất hiện

những xưởng giặt tẩy, những đồng cỏ và vườn đầy tuyết: “Họ nhúng sợi hoặc vải

trong một thứ nước tro đẫy một đêm. Sáng mai giũ trong nước cho thật sạch,

người ta phơi vải suốt ngày trong tuyết, rồi lại cứ như thế ngày này qua ngày

khác…, Cái cách tẩy trắng vải bằng tuyết một cách trọn vẹn, được ấp iu trong ánh

nắng hồng dịu của ban mai, đẹp đến không bút nào tả nổi..., cho đến khi màu trắng

đã đạt đến mức hoàn hảo thì xuân về: đó chính là ký hiệu riêng báo hiệu mùa xuân

của xứ tuyết” [103,323].

Như vậy, tuyết trắng tinh khiết chính là cội nguồn, làm nên nét đẹp độc đáo

chỉ riêng xứ tuyết mới có: tuyết kéo ra từng sợi, tuyết dệt sợi thành vải và tuyết lại

giặt tẩy cho nó sạch bong ra. Có thể nói, tất cả sự tạo thành, bắt đầu và kết thúc

của tấm vải chimiji đều diễn ra trong tuyết. Tuyết chính là mẹ đẻ của vải chijimi.

Vẻ đẹp tinh khiết của tuyết đích thị là biểu tượng của cái đẹp nguyên sơ trinh

bạch, cái đẹp có khả năng thanh lọc và có sức mạnh cứu rỗi tâm hồn con người.

Điều này lí giải cho cảm nhận của Shimamura, “chỉ cần nghĩ tới sợi gai trắng, trải

dài trên tuyết, hòa với tuyết để hồng dưới ánh mặt trời mọc, anh đã có cảm giác

được thanh lọc mạnh mẽ đến nhường nào”; “anh tin chắc những bộ kimono của

mình đã trút lại đấy những vết bẩn, vết cáu nhơ của mùa hè, mà chính anh, chính

con người anh cũng như được tắm gội” [103,323]. Mối quan hệ không thể tách rời

giữa thiên nhiên và nhận thức mãnh liệt và thường tức thời của con người về cuộc

sống giải thích ưu thế của miêu tả thiên nhiên trong các tác phẩm của Kawabata.

Phần trữ tình trong các tác phẩm của ông không phải là tâm lí ủy mị, cũng không

phải là sự buông thả vô trách nhiệm trước sự dễ dàng của tình yêu thiên nhiên.

Thay vào đó, nó là một chuỗi khám phá và khám phá cuộc sống một cách chớp

nhoáng. Kawabata khám phá ra mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, và

nhận được sự an ủi trong vẻ đẹp của thiên nhiên và nghệ thuật. Như vậy, hành

129

trình đi qua các miền văn hóa của người lữ khách Shimamura chính là hành trình

tìm ra chân lí, nhận thức sâu sắc giá trị của cái đẹp, khi anh cảm nhận được mối

liên hệ giữa vẻ đẹp của thiên nhiên xứ tuyết và vẻ đẹp trong trắng trong tâm hồn

con người chính là lúc Shimamura được thức tỉnh, nhận ra được giá trị của cuộc

đời mình, khiến anh thêm trân quý những vẻ đẹp nguyên sơ, trinh bạch của cuộc

đời và những giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.

Chijimi - tấm áo tuyết biểu tượng cho vẻ đẹp cao khiết, nữ tính

Câu chuyện về chijimi thoạt nghe có vẻ không liên quan gì đến mối tình của

Shimamura và những cô geisha của Xứ tuyết, những thực chất nó lại có nhiều liên

hệ với lữ khách Shimamura. Bởi lẽ anh ta đến xứ tuyết để tìm lại những giá trị

truyền thống của dân tộc, vì vậy câu chuyện về chijimi, cùng với cách sản xuất nó

và cuối cùng được sử dụng bởi những người đàn ông như Shimamura đã gói gọn ý

nghĩa của toàn bộ câu chuyện. Những cô gái trẻ sống trong mùa đông dài và hoang

vắng của xứ tuyết, những người dệt vải chijimi sẽ có rất ít cơ hội để tiêu hao năng

lượng và đạt được cảm giác thỏa mãn nào đó ngoài việc làm ra một tấm vải đẹp;

nhưng điều này đến lượt nó sẽ trở thành đồ chơi của những người đàn ông giàu có,

những người sẽ thấy tấm vải hấp dẫn vì sự mát mẻ nhẹ nhàng của nó nhưng lại

không thể phân biệt được nền tảng tình cảm sâu sắc của nó. Trong trí tưởng tượng

của Shimamura tấm vải lanh trắng chuyển sang màu đỏ son với tuyết xung quanh

vào lúc bình minh, tương tự như khuôn mặt của Komako. Anh so sánh Komako với

tấm vải đặc biệt, cảm thấy ở cô cả sự mát mẻ an lành và sự ấm áp bình yên. Anh

thậm chí còn coi Komako như một kiểu chijimi của con người, và anh mong đợi ở

cô cái cảm giác được tẩy rửa bởi một vòng tay vừa mát mẻ vừa ấm áp. Khi anh ấy

mặc tấm áo bằng vải lanh chijimi mùa hè, anh thích hình dung ra vẻ đẹp của chijimi

trải ra và nhuộm màu bình minh, cảm thấy rằng bụi bẩn của mùa hè đã được tẩy

sạch, thậm chí bản thân anh ấy cũng đã được tẩy trắng sạch sẽ. Tuy nhiên, là một

người đàn ông nhạy cảm, anh ta có một ham muốn cơ bản để được tẩy sạch bản

thân, tìm lại giá trị của mình bằng cách tiếp xúc với môi trường tự nhiên nguyên sơ

thông qua việc leo núi, ngắm tuyết và và sau đó là tìm sự gần gũi thân thiết hơn

130

trong sự sạch sẽ và hoàn hảo ở Komako. Shimamura ở một vị trí độc nhất, với tư

cách là một trí thức, nhận thức được toàn bộ lịch sử, nhưng với tính cách cao ngạo

của mình, anh ta không thể đáp lại bất kỳ cảm giác nào. Và vì vậy tình yêu của

Komako, giống như một mảnh chijimi, bị mài mòn và rồi bị vứt bỏ. Bản thân

Shimamura cũng bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ rằng, tấm vải này phải tồn tại lâu hơn

nhiều so với hầu hết các mối tình trong cuộc đời này.

Vẫn là câu chuyện của Xứ tuyết, giữa mênh mông tuyết trắng là sự nhắc nhớ

và nỗi buồn thương, tiếc nuối cho vẻ đẹp truyền thống, không chỉ là geisha, obi, mà

còn có làng nghề dệt vải chijimi.

Vẻ đẹp của người phụ nữ có sự tương đồng với nét tinh khiết trong sáng của

tuyết, vì vậy những cô gái của xứ tuyết hiện lên với trọn vẹn nét đẹp cả trong hình

thức, tâm hồn, nét đẹp trong lao động. Nghề dệt vải chijimi cũng gắn liền với đôi

bàn tay mềm mại của những người phụ nữ, họ chính là những người thợ cần mẫn

tạo nên từng tấm vải tuyết chijimi. Vẻ đẹp trong lao động chỉ có ở những cô gái

vùng núi tuyết này đã khiến cho Shimamura say mê, anh luôn cảm thấy Yoko như

một nhân vật nào đó xa xưa, một con người lý tưởng của thế giới huyền thoại. Với

anh, vẻ đẹp của cô là một thứ gì đó mơ hồ, như một thứ ảo ảnh mà anh không bao

giờ có được. Để tạo ra tấm vải chijimi, những người phụ nữ ở xứ tuyết phải lao

động vô cùng vất vả trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, “làm việc triền miên trong

những tháng dài tuyết phủ mùa đông, kéo sợi, dệt thành những tấm vải gai mỏng,

thứ cây được thu hoạch từ những thửa ruộng chênh vênh đầu núi”. Thứ vải chijimi

“thanh khiết và tươi tắn biết bao trong màu trắng do chính bàn tay năng động của họ

tạo ra... họ dồn nghệ thuật cho công việc đầy hứng thú và say đắm trong những

tháng mà tuyết như đã giam lỏng họ… một công việc mà trái tim đã đặt cả tình yêu

vào đó” [103,322]. Shimamura tìm đến tận xứ tuyết, nơi khai sinh ra loại vải quý và

những cô gái dệt vải trinh trắng đã sống, chàng càng trân trọng hơn giá trị của

những tấm vải và những con người đã tạo nên chúng. Vải Chijimi có được sự mịn

màng đặc sắc ấy, chính là nhờ được dệt trong cái giá lạnh của mùa đông, lưu giữ

đến tận cái nóng khắc nghiệt của mùa hè. Như vậy, vải chijimi gắn liền với người

131

phụ nữ, họ chính là người tạo nên vẻ đẹp cho cho tấm vải tuyết, đó thực sự là tấm

vải của tâm hồn, của vẻ đẹp nữ tính.

Chijimi - tấm vải mang hồi ức, hoài niệm

Có cả một làng nghề truyền thống dệt vải chijimi, nhưng giờ đây nó chỉ còn là

hương khói hoài niệm. Khi Shimamura đến xứ tuyết, anh đã tìm đến xứ vải chijimi,

anh bâng khuâng không tìm đâu thấy dấu vết trên cõi đời này được, giống như tình

yêu của người đàn bà Xứ tuyết, tất cả đều tan theo tuyết. Tấm vải của tuyết và cũng

tan theo tuyết chỉ còn lại hoài niệm, nuối tiếc bởi đó là “thứ vải rất đỗi mỏng

manh”. Nghề dệt vải là một nét đẹp văn hóa của người Nhật, ẩn chứa đằng sau là

những giá trị văn hóa nghệ thuật, những tinh hoa thẩm mỹ được chắt lọc. Do vậy,

dệt chijimi không phải là một ngành nghề lao động đơn thuần để tạo ra vải, ra áo mà

nó đích thị là một nghệ thuật. Những người thợ tạo nên vải chijimi ở Xứ tuyết, hay

những người thợ như Hideo, Takachiro trong Cố đô đều là những nghệ sĩ đích thực,

có trái tim rung động mãnh liệt với cái đẹp truyền thống, họ chính là những con

người dệt nên giá trị văn hóa truyền thống và lưu giữ hồn cốt dân tộc qua sự tỉ mỉ,

tinh tế bằng chính tình yêu cái đẹp, yêu văn hóa dân tộc mình.

Như vậy, Kawabata không chỉ ca ngợi vẻ đẹp truyền thống, mà còn phát hiện

ra sự phai tàn của cái đẹp, cái đẹp đang kêu cứu. Tấm vải tuyết chijimi dù đẹp, dù

công phu tỉ mỉ nhưng nó đã là câu chuyện của những ngày xưa cũ, và vẻ đẹp truyền

thống ấy chỉ còn trong dĩ vãng, trong nỗi tiếc nuối, u hoài. Shimamura tìm đến ngôi

làng sản sinh ra thứ vải chjjimi, nhưng giờ đây “Bóng tối phủ đầy dưới những hàng

hiên sâu hun hút…, những thân cột gỗ chống đỡ đã chớm mục dưới chân”. Xứ vải

chijimi nằm ở một ga hẻo lánh và quạnh vắng, gồm những ngôi làng cách xa nhau

và bao bọc bởi một khu đất trống nơi đó có những cô gái trẻ mà “kiếp sống của họ

nào có được rực rỡ và sáng sủa như thứ vải chijimi…, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia

gò mình trong công việc, dệt không ngừng trong cái nhà tù của tuyết” [103,326].

Không gian toát lên vẻ tĩnh mịch, hoang lạnh đó, chính là không gian suy tàn của

văn hóa truyền thống.

Câu chuyện tình yêu của Shimamura và Komako, vẫn giữ nguyên ý nghĩa về

132

sự gặp gỡ và chia li. Nhưng hành trình kiếm tìm giá trị văn hóa truyền thống,

Shimamura bị chijimi làm cho vỡ mộng. Tìm kiếm những ngôi làng dệt vải cổ xưa

và những người hầu gái dệt vải tham gia vào các nghi lễ dệt vải cá nhân của họ,

thay vào đó, anh thấy những ngôi làng hầu như vắng vẻ, nơi một bà già mỉm cười

đắc ý khi anh gợi ý rằng những cô gái trong làng có thể tự dệt vải chijimi trong

mùa đông. Shimamura nhớ rằng cuốn sách hướng dẫn của anh đã nói với anh rằng

dệt vải theo cách cũ là không thực tế và quá tốn công sức so với thời hiện đại, và

trong chuyến thăm của mình, anh đã nghĩ đến việc rời khỏi Komako. Khát khao

tìm lại giá trị truyền thống của Shimamura đã tan biến trước sự xâm nhập của nền

công nghiệp đương đại vào môi trường Nhật Bản truyền thống. Anh ta chuyển sự

vỡ mộng của mình sang mối tình với Komako.

Cho dù, tiểu thuyết của Kawabata luôn có kết thúc mong manh, mơ hồ gắn với

nỗi buồn vời vợi trước số phận cái đẹp, nhưng ở đó người đọc vẫn cảm nhận được

khát vọng mãnh liệt muốn cứu rỗi cái đẹp của nhà văn, và thẳm sâu phía sau hình

ảnh của thiên nhiên, vẻ đẹp tinh khiết của xứ tuyết, sắc áo kimono, các nghề truyền

thống... Kawabata vẫn gieo niềm hi vọng vào tương lai tươi sáng, vào cái đẹp vĩnh

cửu của đời sống và tâm hồn Nhật Bản.

4.3. Biểu tƣợng nghệ thuật biểu diễn

4.3.1. Biểu tượng Geisha

4.3.1.1. Geisha trong văn hóa truyền thống Nhật Bản

Trong truyền thống văn hóa Nhật Bản, geisha được coi là một biểu tượng của

vẻ đẹp nữ tính. “Từ nghệ giả được hình thành từ hai chữ gei (藝 nghệ) và sha (者

giả) xuất phát từ phương ngữ Tokyo, được các ngôn ngữ phương Tây tiếp nhận

dưới dạng geisha. Tiếng Nhật chuẩn gọi là nghệ kĩ, Geigi (藝妓, "nữ nghệ sĩ"), và

họ được gọi theo phương ngữ Kansai (関西 Quan Tây) là nghệ tử, Geiko (藝子)”

[Dẫn theo125]. Một geisha đích thực bao giờ cũng là con người tao nhã, kiêu hãnh

và có sức hấp dẫn kì lạ. Vây quanh họ là những nghi thức tinh tế, đầy tính thẩm mĩ

của một nền văn hóa.

Từ truyền thống văn học Nhật Bản, người ta đã thấy những biểu hiện đặc

133

trưng của tính nữ. Bước vào vườn văn thời kỳ Heian, người đọc đã cảm nhận lập

tức một không khí diễm tình và đa cảm, đầy mùi hương nữ tính. Đó là vì hầu hết

các tác phẩm cổ điển thời này đều do phụ nữ viết ra, hai yếu tố dân tộc và nữ lưu,

chính là đặc trưng nổi bật của văn chương Heian. Kawabata ảnh hưởng sâu sắc văn

học thời kỳ này, màu sắc nữ tính đã được nhà văn hồi sinh trong các sáng tác tiêu

biểu của mình và hơn thế nữa được nâng lên trong quan niệm mĩ học. Chính điều

này tạo nên nét riêng biệt, độc đáo trong phong cách sáng tác của nhà văn.

Từ văn học cổ sơ cho đến cổ đại và hiện đại, tính nữ luôn là biểu tượng của vẻ

đẹp nữ giới, của một phần thế giới âm - dương trong quan niệm về vũ trụ của quan

điểm triết học phương Đông. Kawabata tôn thờ văn học nữ lưu thời Heian, đặc biệt

ngưỡng mộ Murasaki - tác giả Truyện Genji cũng là tác phẩm ảnh hưởng sâu sắc

đến các sáng tác của ông. Có thể nói, trong hành trình đi tìm cái đẹp, Kawabata đã

theo dấu chân của người phụ nữ tài hoa cách ông gần mười thế kỷ. Khi tắm mình

trong dòng suối cổ điển, có lẽ Kawabata cảm nhận được sự huyền diệu của cái đẹp,

từ thân xác đến tâm hồn chảy vào đời sống, qua những long mạch và xuyên qua

nghệ thuật geisha trong Xứ tuyết.

4.3.1.2. Geisha trong tiểu thuyết của Kawabata - biểu tượng của giá trị truyền

thống Nhật Bản được lưu giữ và bảo tồn

Geisha - bảo lưu và hồi sinh vẻ đẹp nữ tính

Kawabata thực sự là một người thấu hiểu tâm lí phụ nữ. Ông viết nhiều về

người phục nữ và luôn dành cho họ tình cảm yêu mến, trân trọng. Họ là những

Chieko và Naeko trong Cố đô, Yoko và Komako trong Xứ tuyết, Yukiko và Fumiko

trong Ngàn cánh hạc… luôn nổi bật bởi cái đẹp nữ tính trong trẻo, tinh khiết.

Nàng geisha Komako trong Xứ tuyết hiện lên một cách chân thật, đầy quyến rũ

qua con mắt nhìn của chàng “lữ khách” Shimamura. Shimamura vốn là người say

mê nghệ thuật, luôn ước mơ về một thứ nghệ thuật hoàn hảo, lí tưởng, cao quý và

khao khát về một cái đẹp có khả năng nâng đỡ, thanh lọc và cứu rỗi tâm hồn con

người. Thực ra ước mơ của Shimamura là hoàn toàn chính đáng, nghiêm túc trong

nghề nghiệp nhưng nó lại lạc lõng và có phần hoang tưởng trong xã hội đương thời.

134

Vì thế chàng rời bỏ cuộc sống ở Tokyo để tìm lên phương Bắc, tìm đến Xứ tuyết xa

xôi, hoang dã nhưng trong trẻo, trinh bạch. Đó là hành trình của lữ khách kiếm tìm

giá trị cuộc đời. Shimamura đã phát hiện ra vẻ đẹp nguyên sơ huyền diệu của thiên

nhiên và vẻ đẹp thanh cao, trong sáng đáng trân trọng của con người. Vẻ đẹp đó hội

tụ ở hai nhân vật Komako và Yoko, hai vẻ đẹp khác nhau nhưng thể hiện đầy đủ

nhất quan niệm về vẻ đẹp nữ tính trong sáng tác của Kawabata. Nhà văn dành nhiều

sự ưu ái để viết về Komako - một geisha xinh đẹp nổi bật của Xứ tuyết, cũng là một

trong những nhân vật nữ ấn tượng nhất trong thế giới nhân vật của nhà văn. Vẻ đẹp

của Komako được tác giả miêu tả đầy sức quyến rũ, “mũi cô thanh tú và cao…, đôi

môi cô thì giống một nụ hoa lúc chụm lúc nở, nồng nàn sống động và khát khao,

nước da hồng hào, mịn màng, đôi vai mảnh dẻ, cô gợi một ấn tượng tươi mát, trong

sạch đến nỗi cô có tất cả vẻ đẹp quyến rũ của một sắc đẹp” [103,341]. Anh tìm thấy

“cái thế giới thân mật và gần gũi” mỗi khi đến xứ tuyết, được gần gũi bên

Komako. Nhưng khi anh rời đi, cảm giác đó bỗng tan biến như chưa từng tồn tại.

Cho dù, Shimamura biết anh chưa quên cô, nhưng tất cả cứ mờ nhạt dần bởi

khoảng cách, nó không thể gợi cho anh một cái gì khác ngoài nỗi buồn mỗi lúc

một sâu lắng thường thấy trong các chuyến đi. Mặc dù vậy, ấn tượng về Komako

vẫn có chút gì đó nao lòng khi Shimamura cảm động nghĩ rằng, vì người đàn bà

này mà anh phải lặn lội từ xa đến đây. Không chỉ bị quyến rũ bởi vẻ đẹp

Komako, mà điều khiến anh cảm kích, ngưỡng mộ chính là sự nỗ lực và tài năng

chơi đàn shamisen tuyệt diệu của nàng. Tiếng đàn của Komako cất lên, ngay lập

tức khiến Shimamura thảng thốt: “Anh tưởng như những nốt nhạc đầu tiên đã khoét

một cái hốc trong ruột gan anh, tạo ở đó một khoảng trống cho tiếng đàn tinh khiết

và trong sáng ngân vang... Bị cuốn theo một cảm giác gần như sùng kính, gần như

ngập chìm trong biển cả những luyến tiếc, cảm động, hụt hẫng” [103,268]. Tiếng

đàn tuyệt diệu của cô cứ ám ảnh đầu óc anh, “thế là thế nào nhỉ? Vì nói cho cùng

đây chỉ là một cô geisha miền núi, một phụ nữ còn chưa đầy hai mươi tuổi, lẽ nào

cô lại có tài đến thế!” phải chăng Komako đã được thấm đẫm những nguồn thần

diệu, những sức mạnh huyền bí của thiên nhiên nơi đây? Rõ ràng, Komako là

135

minh chứng cho một chiến thắng lớn lao của ý chí nghị lực và sự kiên cường.

Dù không qua trường lớp geisha, Komako vẫn là những người am hiểu văn

hóa truyền thống, họ thực sự trân trọng vẻ đẹp của bộ trang phục kimono cổ truyền

mà họ khoác trên người, tự hào khi được hát múa những tác phẩm truyền thống của

dân tộc. Họ phô bày hết vẻ đẹp văn hóa của dân tộc bằng chính vẻ đẹp nữ tính của

mình. Komako đã chinh phục được Shimamura bằng tài năng và sự trong sáng,

chân thành, không hề ngượng ngùng giả tạo, cô gái miền sơn cước này đã bộc lộ hết

bản thân mình trước người mà cô yêu mến. Cô say sưa kể về những cuốn tiểu thuyết

đã đọc, hồn nhiên nhận xét, bình luận trong những trang nhật ký theo cảm nhận rất

riêng. Và cái cách cô thể hiện tình cảm với Shimamura cũng thật đáng yêu, hồn

nhiên như chính con người cô. Có thể nói, ấn tượng lớn nhất mà Komako tạo cho

độc giả, chính là ý thức bảo toàn danh dự giữa cuộc sống đầy gian khó nơi xứ tuyết

hoang lạnh. Komako khẳng định quan điểm của mình về vị trí của geisha đối với

bất kỳ ai trong xã hội, về sự độc lập và được sống tự do, không ai ép buộc một

geisha phải làm những gì cô ấy không muốn. Qua nhân vật Komako, Kawabata đã

vẽ nên hình ảnh diễm tuyệt của người con gái Nhật Bản.

Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, trong sáng tác của Kawabata, vẻ đẹp nữ tính

của người con gái còn được thể hiện qua nỗi buồn về thân phận của họ. Xuất phát từ

truyền thống mỹ học Nhật Bản, cái đẹp chỉ thực sự hoàn hảo khi gắn với nỗi buồn.

Vậy nên, người phụ nữ trong Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô… và rất nhiều tác

phẩm khác của Kawabata thường rất đẹp, nhưng cuộc đời truân chuyên, lận đận,

nhiều nỗi buồn. Họ là những người thực sự cô đơn, lạc lõng không nhà cửa, quê

quán, tiểu sử không rõ ràng, hoặc đó là những người phụ nữ cô độc, trắc trở, bất

hạnh trong tình yêu… Vẻ đẹp văn hóa ở người phụ nữ đã được Kawabata khắc họa

gắn với ý thức giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống như trà đạo, trang phục

kimono; hay nghệ thuật truyền thống geisha, đàn samisen… cùng với việc giữ gìn

phong tục tập quán, tín ngưỡng dân tộc theo chuẩn mực, quan niệm của xã hội. Điều

đặc biệt là vẻ đẹp văn hóa ấy lại được thể hiện hài hòa trong vẻ đẹp nữ tính. Ở họ

cũng là khát khao được làm mẹ, làm vợ, được yêu thương, mong ước về một mái

136

ấm gia đình và được hi sinh mang tính bản năng của giới nữ như biết bao những

người phụ nữ khác. Nhưng, mỗi nhân vật trong tiểu thuyết Kawabata lại được nhà

văn khai thác và nhấn mạnh ở những nét rất riêng. Xét trong cả hệ thống, vẻ đẹp các

nhân vật phụ nữ luôn được Kawabata đặt trong mối quan hệ bổ sung cho nhau, soi

chiếu lẫn nhau. Ở Xứ tuyết, bên cạnh một Yoko ân cần chăm sóc người đàn ông ốm

đau trên toa tàu như một người vợ, người mẹ, là một Komako sẵn sàng hi sinh bản

thân để làm geisha chuyên nghiệp lấy tiền chữa bệnh cho con trai bà giáo dạy nhạc,

cô cũng luôn khao khát có một người chồng để yêu thương, một gia đình để được

chăm sóc. Cũng như thế, trong Ngàn cánh hạc, Cố đô bên cạnh bà mẹ Ota với khao

khát yêu thương, hạnh phúc mãnh liệt, là những thiếu nữ như Yukiko, Fumiko,

Chieko, Naeko… với ước mong thầm kín về một mái ấm bình yên. Đó là khao khát

chính đáng từ trong thẳm sâu tâm hồn người phụ nữ, nó mang tính bản năng và

thiên chức của giới tính. Người phụ nữ trong tác phẩm của Kawabata luôn mong

muốn nhận được tình yêu thương và được đem yêu thương, hạnh phúc đến cho

người khác. Họ đã trở thành biểu tượng của nữ tính vĩnh cửu, của vẻ đẹp trong

sáng, thuần khiết mà Kawabata đã để họ trở đi trở lại nhiều lần trong các sáng tác.

Geisha - lưu giữ, bảo tồn giá trị truyền thống của cái đẹp Nhật Bản

Trong văn hóa truyền thống Nhật Bản, những cô geisha thực sự là những nghệ

sĩ, họ có khả năng múa hát, chơi đàn samisen và trò chuyện với khách. Vẻ đẹp của

geisha trong sáng tác của Kawabata luôn thể hiện gắn với ý thức giữ gìn các giá trị

văn hóa truyền thống như trà đạo, kimono; giữ gìn phong tục tập quán, tín ngưỡng,

văn học dân tộc theo chuẩn mực Nhật Bản.

Komako của Xứ tuyết nổi bật bởi tâm hồn trong sáng, tinh khiết và hấp dẫn

bởi ý chí nghị lực và tài năng. Nhưng Komako cũng như những cô gái khác trong

các tác phẩm của Kawabata, có số phận luôn gắn với nỗi buồn và sự bất hạnh. Cô

sống cuộc đời tha hương, phải lặn lội lên Tokyo làm geisha để kiếm sống, bươn

chải rồi đến cuối cùng cô geisha lại quay về sống ở nơi thâm sơn cùng cốc, hẻo lánh

và buồn bã của Xứ tuyết. Để trả ơn bà giáo dạy nhạc, Komako chọn cách làm geisha

chính thức. Komako luôn nhận thức rất rõ công việc cũng như thân phận của một

137

geisha, cuộc sống “phù du” trôi nổi giống như một quán trọ, phải tiếp đón những vị

khách đến và đi, không biết đến hôm nay hay ngày mai. Vì vậy, điều khiến cô luôn

day dứt, giằng xé tâm can chính là gặp và yêu Shimamura, bởi Komako biết cô

không thể kỳ vọng tìm được hạnh phúc trong mối quan hệ này. Nhưng trong thẳm

sâu tâm hồn, cô vẫn luôn khao khát cháy bỏng được yêu, được có hạnh phúc, và

dâng hiến hết mình cho tình yêu không cần biết ngày mai sẽ ra sao. Đối với

Shimamura, Komako hiểu rất rõ, chàng “lữ khách” cũng nay đây mai đó giống như

tất cả những vị khách khác tìm đến quán trọ, nhưng sau tất cả những dằn vặt,

Komako vẫn dành cho anh trọn vẹn tình yêu. Vì tình yêu đối với Shimamura, cô đã

vượt qua ranh giới của bản thân mình, đó chính là lòng tự trọng và ý thức giữ gìn

danh dự để cháy hết mình cho dù không có được sự đáp đền. Trái tim yêu của cô

geisha Xứ tuyết khiến người đọc cũng cảm thấy thật côi cút đáng tội nghiệp cho

thân phận của nàng, bởi cuối cùng kết cục dành cho Komako chỉ có nỗi buồn, sự cô

đơn ở lại, vây hãm xâm chiếm tâm hồn cô. Shimamura biết rõ con người và tình

cảm mà Komako dành cho anh: “Cô ấy yêu ta, người phụ nữ này phải lòng ta”,

nhưng cảm nhận được điều này chỉ càng khiến anh thêm day dứt, buồn vì không thể

làm gì hơn để đáp lại tình cảm ấy. Anh cũng tiếc cho cô, tiếc cho vẻ đẹp và tài năng

của cô, tuổi xuân phí hoài nơi vùng tuyết lạnh xa xôi, hoang vắng, dù vậy anh vẫn

tin “sự kiên trì của cô dù sao cũng có một nét gì đó tinh khiết. Và cả cuộc đời cô

nữa, nhờ vậy cũng được rọi sáng”. Đến Xứ tuyết, Shimamura tìm thấy niềm hạnh

phúc thực sự, không chỉ được đắm mình trong vẻ đẹp tinh khiết của thiên nhiên, mà

còn được tận hưởng cảm giác ấm áp bởi tâm hồn con người đem đến. Có thể nói, vẻ

đẹp của Xứ tuyết chính là cái đẹp của một nền văn hóa còn nguyên vẹn sự thuần

khiết, dung dị và đáng trân trọng.

Như vậy, geisha chính là biểu tượng của cái đẹp văn hóa truyền thống Nhật

Bản. Kawabata đã dành những trang viết đầy ưu ái cho Komako, ngợi ca và trân

trọng vẻ đẹp và tài năng của nàng. Tình yêu trong sáng, thanh khiết của Komako đã

sưởi ấm Shimamura giữa thiên nhiên xa xôi, hoang lạnh. Vẻ đẹp tâm hồn của nàng

chính là ánh sáng hồi sinh giúp Shimamura nhận ra chân lí sau rất nhiều những va

138

vấp, kiếm tìm đầy gian nan.

Có thể thấy, trong Xứ tuyết, vấn đề trọng tâm mà Kawabata hướng tới vẫn là

hình ảnh người phụ nữ với sức cuốn hút mãnh liệt của cái đẹp, của yếu tố nữ. Vẻ

đẹp của Komako cũng như Yoko hiện lên sinh động chân thực qua cảm nhận tinh tế

của Shimamura. Từ đó, Kawabata còn muốn truyền tải thông điệp mang ý nghĩa cao

cả đến người đọc đó là phải chủ động tìm kiếm, khám phá vẻ đẹp trong sâu thẳm

tâm hồn mỗi con người.

4.3.2. Biểu tượng đàn Shamisen

4.3.2.1. Đàn Shamisen trong văn hóa truyền thống

Đàn Shamisen thực tế là nhạc cụ truyền thống có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Đàn có ba dây, là một loại tựa ghita, giống đàn Balalaika của người Nga. Đàn

Shamisen xuất hiện và trở nên thịnh hành ở Nhật Bản vào những năm đầu thế kỉ

XVIII, là một nhạc cụ giống như đàn ghita cả về âm thanh và cách gảy. Đây được

xem là loại nhạc cụ truyền thống nổi tiếng nhất Nhật Bản, được dùng để đệm

trong rất nhiều thể loại bài hát dân ca truyền thống vì nó có thể tạo ra nhiều âm sắc

khác nhau. Người ta chơi thứ đàn này trong các bữa tiệc rượu, với các cô geisha,

khi diễn Kabuki, Bunraku hay múa những điệu múa cổ điển. Shamisen như hương

vị của Sake, gợi hình ảnh những cô kỹ nữ geisha, chiếc kimono hơi xộc xệch.

Người Nhật luôn có ý thức bảo tồn và phát triển âm nhạc truyền thống, trong đó

có đàn Shamisen.

4.3.2.2. Đàn Shamisen trong tiểu thuyết Kawabata - biểu tượng của âm vang

trong trẻo tinh khiết từ kí ức và ý nghĩa thức tỉnh tâm hồn con người

Shamisen - âm vang trong trẻo từ miền kí ức tinh khiết

Chơi đàn Shamisen là một trong những kĩ năng, đòi hỏi cần có đối với các

geisha Nhật Bản. Vừa hát, gảy đàn vừa trò chuyện với khách đã tạo nên một hình

ảnh đẹp, tao nhã, khó phai mờ của một geisha. Một cô gái chính thức được gọi là

geisha, thì phải thực sự tài năng. Bởi họ phải trải qua các môn học rất khắt khe như

múa, cắm hoa, pha trà, tiếp rượu và gảy đàn Shamisen. Ngoài ra, để là những người

có kiến thức xã hội rộng, họ phải học văn học, học thơ. Thêm vào đó, họ đã đạt

139

được một trình độ cao trong nghệ thuật nói chuyện và làm vừa lòng khách.

Trong Xứ tuyết, tiếng đàn gieo trên thân phận cô geisha lưu lạc Komako với

âm thanh quyến rũ mãnh liệt, đam mê dữ dội là thứ sức mạnh diệu kỳ lôi cuốn, hấp

dẫn Shimamura. Vẻ đẹp và số phận bất hạnh của Komako chính là niềm day dứt đối

với chàng lãng tử Shimamura. Anh thương cho nàng, tiếc cho vẻ đẹp và tài năng

của nàng, như hương quế âm thầm giữa thâm sơn cùng cốc, và chua chát nhận thấy

Komako “giống như một trái cây của xứ lạ không hiểu sao lại được đem bày trong

tủ kính bẩn thỉu của một cửa hàng tạp hóa thảm hại nào đó ở nông thôn”. Cảm giác

về một sự hoài phí, tiếc nuối luôn ám ảnh trong suy nghĩ khi Shimamura nhớ tới

Komako. Ngón đàn Shamisen tuyệt diệu của nàng trở thành một thứ phù phiếm nơi

hang sâu núi thẳm. Tài năng, tâm huyết và vẻ đẹp của nàng cũng sẽ dần tiêu tan, nó

cũng mong manh như kiếp người, cuối cùng sẽ chẳng còn lại gì trong cuộc đời này.

Quả thật, Komako là con người còn sót lại của một thời vàng son mà người kĩ nữ có

thể gieo nghệ thuật cầm ca trên cuộc sống. Komako cũng là đốm lửa cuối cùng leo

lắt của một nghề sắp tàn phai. Shimamura nhìn thấy ở tiếng đàn Komako là biểu

tượng của cái đẹp vĩnh hằng ngân vang vô tận.

Cảm nhận và thưởng thức tiếng đàn Shamisen cùng tài năng của geisha

Komako chính là con đường nhận ra chân lí và giá trị đích thực của cái đẹp, đó thực

sự là quá trình nhận đường, sau rất nhiều những hồ nghi, hoang mang kiếm tìm của

lữ khách Shimamura.

Tiếng đàn thức tỉnh bản thể Phật tính tinh khiết trong sâu thẳm tâm hồn

con người

Tiếng đàn Shamisen trong Xứ tuyết cũng giống như âm vang ám ảnh dữ dội

của dải Ngân Hà, hay hình ảnh chập chờn của ngàn cánh hạc đều tác động đến bản

thể Phật tính tinh khiết trong sâu thẳm tâm hồn con người. Đó là biểu tượng của sức

mạnh kì diệu có khả năng thanh lọc, thức tỉnh tâm hồn con người. Kawabata nhìn

thấy cái đẹp trong sự hạnh ngộ bởi sức mạnh vô biên và kì diệu của cái đẹp, có khả

năng hóa giải tất cả. Tiếng đàn trong trẻo, thuần khiết và tuyệt diệu của Komako là

sự hòa quyện thăng hoa của tâm trí. Bằng tiếng đàn ấy, nàng đã tận hiến tình yêu

140

cho người tri kỉ Shimamura, Komako là một vẻ đẹp ẩn tàng như “hoa anh đào nở

trong núi sâu” (tục ngữ của người Nhật). Nàng là cả một thế giới hạnh phúc dịu êm.

Vốn là một chuyên gia thẩm định nghệ thuật, Shimamura cũng phải sững sờ

trước tiếng đàn tuyệt diệu của Komako, “Lập tức Shimamura cảm thấy như bị

nhiễm điện, anh rùng mình và nổi da gà lên đến tận má. Anh tưởng như những nốt

nhạc đầu tiên đã khoét một cái hốc trong ruột gan anh, tạo ở đó một khoảng trống

cho tiếng đàn tinh khiết và trong sáng âm vang” [103,268]. Rõ ràng, Shimamura đã

cảm nhận rõ ở tiếng đàn của Komako chính là khả năng ngân vang vô tận trong

không gian thời gian, của khối tình bất tận u hoài và thấm đẫm mất mát, tiếc nuối

tận sâu thẳm tâm hồn con người.

Tiếng đàn shamisen chính là tiếng lòng Komako, là tâm hồn trong sáng tinh

khiết Nhật Bản. Có thể nói, Komako chính là chân dung geisha hoàn hảo nhất.

Không một geisha nào mà tài năng nghệ thuật lại được Kawabata khắc họa đậm nét

và thăng hoa như nàng Komako. Ở cô geisha này là kết tinh tất cả những phẩm chất,

tài năng đặc biệt của một geisha chuyên nghiệp, thực thụ. Tiếng đàn của Komako có

sức lay động mãnh liệt tâm can Shimamura, đó cũng là kết quả của những năm

tháng Komako miệt mài luyện tập một mình trong vùng núi tuyết hẻo lánh. Chính

sự cô đơn, bất hạnh của số phận đã tạo nên một Komako đầy nghị lực, giúp cô tìm

được sức mạnh chiến thắng của ý chí, để cô chế ngự được tất cả những khó khăn,

những nỗi phiền muộn của chính mình. Tài nghệ của geisha là như vậy, tất cả đều

từ khổ luyện mà thành, không có vinh quang nào không trải qua nhiều cay đắng,

gian khổ. Geisha mang trọng trách rất lớn - người lưu giữ những món nghệ thuật

truyền thống, làm cho cái đẹp nghệ thuật, cho tiếng đàn shamisen được âm vang

mãi mãi.

4.3.3. Biểu tượng mặt nạ kịch Noh

4.3.3.1. Mặt nạ kịch Noh trong văn hóa truyền thống Nhật Bản

Ở phương Đông, ý nghĩa tượng trưng của mặt nạ thay đổi tùy theo công dụng.

Các loại hình chính của mặt nạ gồm có mặt nạ sân khấu, mặt nạ hội hóa trang, mặt

nạ tang lễ, loại sau chủ yếu người Hi Lạp hay dùng.

141

Mặt nạ sân khấu, cũng là loại mặt nạ dùng trong các điệu múa thờ - là một

phương thức biểu hiện cái Ta phổ biến, song nhân cách người mang mặt nạ nói

chung không vì vậy mà thay đổi. Tuy nhiên, xét theo một khía cạnh khác, người

diễn viên đã thay đổi bộ mặt để thích nghi với vai trò mình đóng, tự đồng nhất hóa

với dạng biểu hiện của thần thánh mà mình thể hiện, đó chính là mục đích của việc

mang mặt nạ. Vì thế, mặt nạ còn có ý nghĩa giải phóng, ý nghĩa này cũng thấy trong

các lễ hội cổ xưa của Trung Quốc. Mặt nạ có tác dụng không che giấu mà ngược lại,

phô bầy ra những xu hướng thấp hèn mà ta cần xua đuổi. Ở mỗi nền văn hóa khác

nhau, mặt nạ sẽ mang những ý nghĩa khác nhau, tuy nhiên chúng ta vẫn tìm thấy

những nét tương đồng, phần lớn đều gắn với các lễ nghi tôn giáo, sức mạnh ma

thuật, các vấn đề của vũ trụ, con người và cái chết, sự hóa thân, là vị thần, là con vật

thần thoại hoặc hoang đường. Mặt nạ do có nhiều sức mạnh nên rất đa hình, đa

dạng, pha trộn nhiều chủ đề đan thoa vô cùng phức tạp.

Ở Nhật Bản, Noh là một dạng nghệ thuật biểu diễn cổ điển được trình diễn

khắp nơi trên đất nước bởi các nghệ sĩ chuyên nghiệp, chủ yếu là đàn ông. Thêm

vào đó là một lượng lớn các nghệ sĩ không chuyên cả nam lẫn nữ đảm trách

nhiệm vụ hát, múa và đàn. Trong kịch Noh, diễn viên không trang điểm mà sử

dụng mặt nạ được làm rất công phu, những chiếc mặt nạ này được nhìn nhận như

những vật thể tuyệt đẹp và là phương tiện biểu cảm tuyệt vời. Loại mặt nạ sân

khấu thể hiện một nhân vật, sau này đã thành tên gọi một cá nhân. Các mặt nạ

này thường làm theo các kiểu mẫu nhất định, nhấn mạnh các đặc điểm của một

nhân vật: vua chúa, ông già, phụ nữ,… chúng cũng được liệt kê thành danh mục

như các vở tuồng, kịch và các kiểu con người. Người diễn viên mang mặt nạ

đồng nhất hóa mình về hình thức bề ngoài hoặc nhờ cách nhập vai bằng ma

thuật, với nhân vật được thể hiện. Đây là một biểu tượng đồng nhất hóa. Ở loại

mặt nạ này, con người đồng nhất với nhân vật, với các mặt nạ đó tới mức không

thể tách bỏ ra được, ta có thể hình dung ra tất cả các tác dụng có thể có được nhờ

cái sức mạnh đồng hóa này của mặt nạ. Ta cũng ý thức được về mục đích của

việc phân tích nhằm lột mặt nạ con người, để người đó phải đối mặt với con

142

người thực sự, sâu kín của mình. Noh ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Phật giáo

trung đại, phủ nhận thực tại là viển vông, trong thuyết nhà Phật, chỉ vào lúc nhận

thức thì vạn vật mới hiện hữu, vì thế tất cả sự hiện hữu chỉ mang tính phù du.

Mặt nạ có truyền thống lâu đời ở Nhật, theo nhận định của giới nghiên cứu, có

thể mặt nạ kịch Noh đã ra đời cách đây gần 2000 năm. Trong tất cả các mặt nạ Nhật

Bản, mặt nạ Noh được cho là một trong những kiểu nghệ thuật nhất, tính u huyền

thể hiện trên mặt nạ kịch Noh một cách đậm đặc và thuần khiết, những xúc cảm

thông thường như hỷ, nộ, ái, ố không bao giờ và không được phép hiện diện trên

mặt nạ. Mặt nạ kịch Noh mang vẻ huyền bí, liêu trai và dường như thuộc về một thế

giới xa lạ nào đó.

Mỗi mặt nạ Noh là một bản sao hoàn hảo của mặt nạ chuẩn, người ta không

chấp nhận bất kỳ một khác biệt hay "sáng tạo" nào khi làm mặt nạ kịch Noh.

Giống hệt là tiêu chí hàng đầu, bản thân yếu tố phi thời gian này lại phủ lên mặt nạ

Noh một trầm tích lịch sử, chất chứa sức nặng của những huyền tích âm u. Những

mặt nạ làm cho vở kịch Noh diễn ra như một giấc mơ với những biểu tượng đầy

ảo giác. Người xem được sống với các câu chuyện về tình yêu, lòng căm hờn, nỗi

buồn, niềm hối tiếc, trong sự cường điệu dưới bầu không khí u mặc. Cảm xúc bị

dồn nén nhưng cách thể hiện lại rất chậm rãi và tỉ mẩn, như thể ta đang nhìn thế

giới của câu chuyện qua một bức vách không-thời gian huyễn hoặc. “Mặt nạ kịch

Noh được gọi là omote là đạo cụ rất quan trọng để Noh được liệt vào dạng kịch

mặt nạ” [Dẫn theo 126].

Chúng ta biết tới những chiếc mặt nạ Noh nổi tiếng bởi chúng gắn với nghệ

thuật kịch sân khấu truyền thống, bởi tính biểu cảm tuyệt vời của chúng nhưng ít ai

biết tới mặt nạ Noh được chế tác như thế nào từ bàn tay của những nghệ nhân Nhật

Bản. Làm một cái mặt nạ phải trải qua rất nhiều công đoạn, từ việc lựa chọn loại gỗ

để tạo tác đến việc hoàn thiện sơn màu, cầu kì và tỉ mỉ. Điều giá trị hơn cả đối với

mỗi chiếc mặt nạ được làm ra, đó là sự gửi gắm tinh thần cùng những tinh hoa từ

bàn tay của những người nghệ nhân, đã làm cho những chiếc mặt nạ trở nên sống

động có hồn.

143

4.3.3.2. Mặt nạ kịch Noh trong tiểu thuyết Kawabata - biểu tượng của giấc mơ

kì ảo cùng nỗi ám ảnh tuổi già và cái chết

Hình ảnh những chiếc mặt nạ trong sân khấu kịch Noh xuất hiện trong một số

tác phẩm của Kawabata, cho thấy sự quan tâm của nhà văn đến mảng sân khấu kịch

truyền thống của Nhật Bản. Đây cũng là hình ảnh được sử dụng như là một yếu tố

kì ảo của biện pháp nghệ thuật sáng tạo, nhằm biểu đạt nhiều tầng ý nghĩa mang

tính triết lí sâu xa về hiện thực cuộc sống và con người mà nhà văn muốn gửi gắm.

Trong tiểu thuyết Kawabata, nghệ thuật truyền thống được khắc họa bằng tình

yêu với cái đẹp và những giá trị văn hóa lâu đời của Nhật Bản. Tuy mặt nạ kịch

Noh không xuất hiện nhiều như hoa anh đào, kimono, tuyết trắng, gương soi nhưng

trong thế giới nghệ thuật phong phú của nhà văn, những dấu vết của nghệ thuật

truyền thống dân tộc vẫn luôn được tìm thấy. Trong Xứ tuyết, kịch Noh được nhắc

đến dù chỉ thoáng qua khi miêu tả tính cách Shimamura cùng niềm đam mê nghệ

thuật truyền thống Nhật Bản, nhưng vẫn thể hiện được niềm tự hào của tác giả với

giá trị văn hóa dân tộc.

Cũng như nhiều tiểu thuyết khác của Kawabata đơn giản về cốt truyện, không

có những tình tiết kịch tính cao trào, chúng tôi nhận thấy ở Tiếng rền của núi, cấu

trúc phức tạp hơn, kết cấu truyện cũng chặt chẽ và mạnh lạc, đặc biệt là hệ thống

biểu tượng có sự liên kết để làm nổi bật chủ đề tác phẩm. Một điều dễ nhận thấy

trong Tiếng rền của núi, nhà văn luôn sử dụng những hình ảnh của thiên nhiên để

hiển thị các biểu tượng và để lí giải cảm xúc và suy nghĩ của các nhân vật trong tiểu

thuyết, đó là mặt nạ kịch Noh, âm thanh của núi, là núi Phú Sĩ… Tuy nhiên, chúng

tôi quan tâm đến biểu tượng mặt nạ kịch Noh, được nhắc đến nhiều nhất, tần số xuất

hiện cao, góp phần thể hiện rõ nét tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Ở Tiếng rền

của núi, mặt nạ kịch Noh được nhắc tới 45 lần, gắn với nhân vật chính Singo và có

ý nghĩa quan trọng trong việc làm nổi bật những giấc mơ kì ảo về tuổi trẻ, đam mê

cái đẹp, cùng với những ám ảnh của nhân vật trước tuổi già và cái chết.

Mặt nạ kịch Noh là biểu tƣợng của những giấc mơ kì ảo về tuổi trẻ, hạnh

phúc và cái đẹp

144

Kịch Noh dường như là một loại hình sân khấu của những hồi ức và giấc mơ,

mặt nạ chính là điểm mấu chốt để diễn tả kịch tính nhân vật và cũng chỉ có một số

loại mặt nạ nhất định được lựa chọn trong một vở kịch. Kế thừa tính chất của nghệ

thuật kịch Noh truyền thống, Kawabata đã vận dụng sáng tạo trong các sáng tác của

mình. Một điểm nổi bật là, hầu hết các giấc mơ được miêu tả trong các tác phẩm

của nhà văn đều là của những ông già. Trong sự sống dưới tấm mặt nạ, ông già

Shingo ở tuổi sáu hai mơ về một cuộc du ngoạn của ông và một cô gái trẻ đến một

hòn đảo vắng, “Người đàn bà còn rất trẻ, gần như một cô gái vậy. Riêng bản thân

ông khi đó, ông không xác định được là mình bao nhiêu tuổi; Ông đã ôm cô gái

theo cách của một người trẻ tuổi. Ở cái tuổi sáu mươi hai mà lại mơ mình đang tuổi

hai mươi - chính đó là điều kì lạ nhất của giấc mơ” [103,468]. Trong khoảnh khắc

ấy, ông Singo cảm thấy như được trẻ lại tuổi đôi mươi tràn đầy sức sống, được ở

bên cạnh một cô gái trẻ để tận hưởng cảm giác quay về với thanh xuân, tuổi trẻ.

Như vậy, chỉ có trong giấc mơ và hoài niệm, con người mới thỏa mãn được mong

muốn của bản thân, điều này càng khắc sâu hơn niềm nuối tiếc tuổi xuân, và khao

khát sức sống tuổi trẻ của nhân vật Singo trong tác phẩm của nhà văn.

Ở Tiếng rền của núi, ông già Singo trải qua rất nhiều giấc mơ, tất cả đều kì lạ,

nghiêm trọng đối với tâm lí của một người đang phải đối mặt với nhiều vấn đề về

tuổi già như Singo. Tất cả những giấc mơ ấy luôn dẫn đến một điều gì đó xảy ra với

ông Singo hoặc với gia đình ông ấy. Ở nhân vật này, những ức chế của cuộc sống

thường ngày là nguyên nhân dẫn đến sự giải toả về mặt tâm lí thể hiện trong những

giấc mơ về ban đêm. Mọi giá trị về đạo đức, cái đẹp bị tha hóa, biến chất khiến cho

một ông già gần đất xa trời, tôn sùng các giá trị đạo đức, khao khát về cái đẹp, về

hạnh phúc luôn hiển hiện trong những giấc mơ nay dường như đều sụp đổ trước

mắt. Ông muốn quay đi, để không phải chứng kiến hiện thực, muốn nhìn sang một

hướng khác để thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn, nhưng rồi vẫn phải đối mặt trước thực

tại, xót xa âm ỉ trong tâm can. Có lẽ, vì những đau khổ của hiện tại nên nhân vật

Singo luôn có thiên hướng mơ về quá khứ, những giấc mơ vĩnh hằng để được sống

trọn vẹn với niềm đam mê cái đẹp trong sáng, thuần khiết. Đối với ông, người con

145

dâu trẻ đã là niềm an ủi duy nhất, tình thương yêu dành cho cô là một tia sáng trong

sự cô đơn buồn khổ của ông, thông qua đó, ông muốn làm cho cuộc sống của chính

mình được tốt hơn. Có lẽ giấc mơ ám ảnh nhất với Singo chính là giấc mơ về người

chết. Đây được coi là một sự việc rất hệ trọng đối với ông, vì vậy được tác giả kể lại

rất chi tiết. Thay vì chỉ nói về giấc mơ đó, tác giả lại kể về tất cả các chi tiết xuất

hiện trong giấc đó, những người có liên quan đến những giấc mơ, thậm chí còn chú

trọng đến cả màu sắc của mọi thứ có trong giấc mơ. Giấc mơ về người chết lặp lại

nhiều lần, trở thành hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, nó như lời kêu gọi của cái

chết đang ở rất gần ông Singo. Vì vây, ông luôn cảm thấy cuộc sống dường như

đang từ từ rời bỏ ông.

Một điều rất nghiêm trọng nữa đang len lỏi, tác động đến cuộc sống của Singo

đó chính là âm thanh “rền rĩ” của ngọn núi Phú Sĩ. Âm thanh đó đâu chỉ là của núi

rừng vọng lại, mà còn là của chính người cha đang bất lực trước cuộc sống của

những đứa con và của chính bản thân mình. Tiếng rền kia cứ đeo bám mãi với bất kì

một nhân vật nào của Kawabata, những người luôn bị dằn vặt, ám ảnh bởi quá khứ

hay những tín điều của quá khứ. Tiếng rền của núi là câu chuyện của những mối

quan hệ trong gia đình ông Singo, cùng những biểu hiện vô đạo đức của anh con

trai, người đang chán nản hết thảy vì hậu quả của chiến tranh. Trong khi đó, cô con

dâu Kikuco lại thùy mị nết na, ngoan ngoãn theo cái cách của một khuôn mẫu cam

chịu điển hình khiến cho ông Singo rất xót xa, dằn vặt. Từ mối qua hệ gia đình này,

tác giả gợi cho người đọc những vấn đề xã hội rộng lớn hơn thông qua việc để

người đọc cắt nghĩa tại sao người con trai đó lại đối xử với vợ mình như thế? Ai là

người chịu khổ đau nhất trong cuộc hôn nhân không hạnh phúc kia?

Trong cuộc đời mỗi người có nhiều bộ mặt, con người cũng được che đậy

dưới các cái mặt nạ khác nhau. Việc nhấn mạnh đến chiếc mặt nạ trong tác

phẩm, Kawabata muốn gửi đến người đọc những thông điệp ý nghĩa. Hai chiếc

mặt nạ Noh trẻ em, cùng những giấc mơ kì lạ của nhân vật Singo trong tác phẩm,

nhà văn mong muốn tìm kiếm cái đẹp tự nhiên không cần che đậy, tô vẽ như cái

mặt nạ đầy giả dối kia, cùng với đó là khao khát sự vĩnh cửu của tuổi trẻ, hạnh

146

phúc và tình yêu.

Mặt nạ kịch Noh - nỗi ám ảnh về tuổi già và cái chết

Mặt nạ kịch Noh được nhắc đến trong Tiếng rền của núi, cuốn tiểu thuyết

được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là một tác phẩm hấp dẫn, giàu giá trị nhân văn

trong di sản Kawabata. Cũng như nhiều tiểu thuyết khác của nhà văn, tác phẩm lấy

bối cảnh từ chính quê hương của ông, xoay quanh các chủ đề ám ảnh về sự cô đơn,

tuổi già và cái chết. Xung đột bắt đầu dâng cao khi ông Singo phát hiện ra hôn nhân

của cậu con trai đang đứng trước nguy cơ đổ, con gái cũng gặp nhiều trắc trở, khó

khăn trong cuộc sống gia đình phải quay về nhà bố mẹ. Nhiều biến cố cùng lúc xảy

đến, khiến một người đàn ông lớn tuổi như Singo cảm thấy đầy áp lực. Ông luôn tự

vấn bản thân rằng, ông đã làm được những gì trong suốt cuộc đời mình; ông có phải

là một người đàn ông thành công không; và trong việc nuôi dạy con cái, ông đã làm

hết trách nhiệm, đã hết lòng yêu thương quan tâm đến chúng hay chưa? Tất cả

những câu hỏi này làm cuộc sống của ông mỗi ngày càng thêm nặng nề, và nó càng

trở nên trầm trọng, phức tạp hơn khi ông Singo phải đối mặt với tất cả vấn đề, các

dấu hiệu về quá trình lão hóa của người già. Tiếng rền của núi hấp dẫn người đọc

chính là câu chuyện cuộc đời về nhân vật Singo lồng trong hành trình khám phá vẻ

đẹp của những loại hình nghệ thuật truyền thống Nhật Bản được khắc họa đậm nét,

nhà văn thông qua nhân vật trung tâm của tác phẩm mà gửi đến độc giả những hình

ảnh, cảm nhận độc đáo và đậm chất u huyền về những chiếc mặt nạ sử dụng trong

biểu diễn kịch Noh. Đối mặt với các vấn đề của tuổi già, cái chết, ông Singo càng

thấm thía nỗi đau và sự bất lực của mình trước cuộc sống của gia đình. ông già

Singo muốn “trốn”, để giấu đi tất cả những ám ảnh cùng cực đó của bản thân mình.

Có thể nói, cuộc khủng hoảng về tuổi già và những quá trình tâm lí của nhân vật

chính được khắc họa thông qua biểu tượng mặt nạ kịch Noh, trở thành chủ đề trọng

tâm trong tiểu thuyết Tiếng rền của núi.

Mặt nạ được Kawabata chú trọng miêu tả, giới thiệu trong tác phẩm Tiếng rền

của núi là mặt nạ của các nhân vật trẻ em. Ông Shingo đã mua hai chiếc mặt nạ này

của một người bạn của ông, nhưng trên thực tế chiếc mặt nạ này lại thuộc về một

147

người bạn cũ của cả hai là Mizuta, và người này đã chết trong một khách sạn ở vùng

suối nước nóng. Sau đám tang, vợ của Mizuta đến gặp Suzomuto nhờ mua mấy cái

mặt nạ. Suzomuto đã mua hai chiếc mặt nạ phụ nữ. Anh ta gặp Shingo và cũng định

cho ông mặt nạ phụ nữ, nhưng ông thích mặt nạ trẻ con hơn. Shingo mang mặt nạ

về cho vợ và con dâu xem, bà Yasuco thốt lên “Gớm, trông khiếp quá”. Còn cô con

dâu chỉ cười và khuyên bà nên đeo kính để ngắm. Ông Singo hơi ngạc nhiên trước

thái độ quả quyết của vợ. Trên cả hai chiếc mặt nạ đều có viết tên nghệ nhân chế tạo

ra nó, bản thân chiếc mặt nạ kịch Noh của văn hóa Nhật Bản không tượng trưng cho

tuổi trẻ vĩnh cửu, nhưng mặt nạ trong tác phẩm Kawabata trở thành biểu tượng cho

tuổi trẻ, tuổi xuân vĩnh viễn.

Trong Tiếng rền của núi, còn có một loại mặt nạ truyền thống của Nhật được

tác giả nhắc đến, đó là mặt nạ phụ nữ. Chiếc mặt nạ sống động này, khiến Singo

bỗng thấy sự hấp dẫn một cách kì lạ và ông ngồi sững người như bị thôi miên. Như

vậy, khuôn mặt thật hằng ngày của Ayco đã bị giấu đi sau tấm mặt nạ, chỉ còn biết

lúc này cô trở nên đẹp và hấp dẫn. Điều này rất có ý nghĩa với ông Singo, nó chính

là thứ đồ hữu hiệu che lấp đi nỗi buồn chán của cuộc sống hiện thực đang đè nặng

lên tâm can ông mỗi ngày.

Qua biểu tượng mặt nạ kịch Noh, một mặt Kawabata muốn ca ngợi nghề chế

tác mặt nạ, nghệ thuật truyền thống của dân tộc, mặt khác, nhà văn cũng muốn tìm

hiểu những ám ảnh của nhân vật về nỗi khiếp sợ do tiếng rền của núi tạo ra, xâm

chiếm cõi lòng khiến Singo luôn cảm thấy đó như là tiếng rền từ trong chính bản

thân mình, ông cảm thấy sợ. Singo luôn nghĩ rằng, biết đâu, đó chính là dấu hiệu

thần chết sắp gọi ông.

Ý nghĩa của chiếc mặt nạ trẻ em được Kawabata tiết lộ qua cuộc trò chuyện

của Singo với các nhân vật trong tác phẩm, Singo nói rằng ông “chẳng hiểu gì về

mặt nạ”, nhưng Xutzumoto giảng giải rằng “nghĩa là để diễn tả một cậu bé chưa đến

tuổi thành niên… nếu chiếc mặt nạ Noh hơi nghiêng xuống dưới, sắc thái của nó sẽ

có vẻ buồn rầu, còn nếu nó ngước lên thì sẽ có một sắc diện vui hơn” [109,469].

Điều này cũng đã từng được nhận định bởi một số nhà nghiên cứu, mặt nạ được đeo

148

bởi các diễn viên lành nghề trong truyền thống Noh, có thể tạo ra biểu cảm, và cách

cảm nhận khác nhau tùy theo vị trí góc nhìn mặt nạ, người xem sẽ có phản ứng một

cách có hệ thống với những thay đổi này, “cho thấy rằng những thay đổi nhỏ về

hướng dọc của mặt nạ, trong các điều kiện quan sát thích hợp, có thể làm phát sinh

ảo giác rằng khuôn mặt có những biểu cảm khác nhau” [127,2239].

Có thể thấy, một mặt Kawabata trực tiếp khẳng định ý nghĩa của biểu tượng

mặt nạ kịch Noh, mặt khác ông cũng chỉ ra một số chi tiết để người đọc có thể cảm

nhận về ý nghĩa ấy khi tác giả kể về những đứa trẻ đeo mặt nạ trong tiểu thuyết của

mình. Đó là chiếc Djido và chiếc Casiki, cả hai đều là mặt nạ trẻ con, nhưng chiếc

Djido thể hiện một tư tưởng đẹp đẽ nào đó, dường như là tuổi thơ vĩnh viễn thì phải.

Như vậy, mặt nạ kịch Noh vừa là đại diện cho chính nó, nhưng nó còn đại diện cho

một ý nghĩa khác đó là ý nghĩa về sự vĩnh cửu của tuổi trẻ. Bởi lẽ, một chiếc mặt nạ

trẻ con sẽ luôn mang khuôn mặt trẻ con ấy mãi mãi, nó không thể già đi, vì vậy nó

trở thành biểu tượng của tuổi trẻ, tuổi xuân vĩnh viễn. Ông Singo luôn tin sự “vĩnh

viễn” đó, vì được chứng kiến khoảnh khắc “thật kì lạ” khi cô nhân viên làm cùng

ông đeo chiếc mặt nạ, cô trở nên hấp dẫn, quyến rũ tới mức khiến ông phải sững

sờ. Chiếc mặt nạ dường như đã giúp cho các nhân vật cởi mở với nhau một cách dễ

dàng hơn. Khi Kikuco đeo mặt nạ, “Chiếc mặt nạ che hết gần cằm Kikuco và từ chỗ

cằm lộ ra hai hàng nước mắt chảy dài xuống cổ, những giọt lệ cứ nhỏ xuống, nhỏ

xuống … Chiếc mặt nạ gật gật. Nếu chúng con có phải chia tay, con vẫn muốn được

ở lại đây với ba; những lời ấy phát ra từ dưới chiếc mặt nạ, nhưng thật rõ ràng”

[102,504]. Kikuco được sống thật với nỗi đau của mình vì niềm tin được che

chắn sau chiếc mặt nạ, điều này cũng giúp ông Singo cảm nhận được nỗi tủi hổ

của cô con dâu mà ông đặc biệt yêu mến. Sự có mặt của chiếc mặt nạ Djido

dường như đem đến một sự thay đổi cho cuộc sống buồn tẻ của ông Singo, Chiếc

mặt nạ ấy không hẳn rõ mặt con gái cũng không rõ mặt con trai, tuy vậy đôi lông

mày vắt cong gợi cho Singo nghĩ đến một cô gái nhỏ. Khuôn mặt rạng rỡ của cô

bé ấy bỗng trở nên mềm mại trong đôi mắt già nua của ông. Đưa sát chiếc mặt nạ

vào tận mắt, “ông Singo cảm thấy nó đang sống và mỉm cười thật tươi tắn”.

149

Nhưng, đó chỉ là trong một khoảnh khắc để tạm quên đi thực tại phiền não

đang đè nặng cuộc sống của ông, ông nhận thấy mọi thứ thật giả dối, cảm giác

hơi thở trở nên nặng nhọc và gấp gáp.

Kawabata đã kế thừa tính chất ảo giác, huyền bí của những giấc mơ của mặt

nạ kịch Noh trong văn hóa truyền thống để vận dụng sáng tạo trong tác phẩm Tiếng

rền của núi. Thông qua nhân vật Singo, Kawabata đã lí giải về cuộc khủng hoảng

tuổi già với mọi giai đoạn lão hóa cùng những ám ảnh về lời kêu gọi của cái chết.

Từ những ám ảnh đó, Singo luôn lo lắng về cuộc sống gia đình, thấy cần phải có

trách nhiệm giải quyết tất cả những vấn đề đang xảy đến, đe dọa sự bình yên, hạnh

phúc của các con, để hướng tương lai tươi sáng. Như vậy, bằng sự liên kết của hệ

thống biểu tượng núi Phú Sĩ, âm thanh của núi, mặt nạ kịch Noh, nhà văn đã cố

gắng chỉ ra những yếu tố của cuộc khủng hoảng tuổi tác xảy ra với nhân vật chính

của tiểu thuyết. Ý tưởng về tuổi trẻ vĩnh cửu thông qua biểu tượng mặt nạ kịch Noh

trở thành một yếu tố của cuộc khủng hoảng xảy ra với nhân vật Singo vì ông luôn lo

lắng, ám ảnh về thời kì lão hóa của mình. Ông có xu hướng nhìn về quá khứ và luôn

tự vấn liệu mình có thể có được tuổi trẻ vĩnh cửu ấy hay không? Như vậy, mặt nạ

kịch Noh trong Tiếng rền của núi trở thành biểu tượng cho tuổi trẻ vĩnh cửu, đây

cũng chính là một nét văn hóa nghệ thuật truyền thống của Nhật Bản.

Kawbata viết về nhân vật chính Singo, nhưng có ý nghĩa với cuộc đời mỗi

người, ai cũng có thể gặp và phải trải qua một loại khủng hoảng trong quá trình

lão hóa của mình, điều quan trọng là mỗi sẽ phải chấp nhận và đối diện với những

quá trình đó như thế nào. Cái độc đáo ở tác phẩm này, là yếu tố huyền ảo, mơ hồ

được đẩy lên cao thông qua những giấc mơ, những chiếc mặt nạ, khiến cho cuộc

sống của nhân vật Singo cũng đầy huyễn hoặc, mơ hồ, đó là yếu tố làm nên chất

riêng cho những sáng tác của Kawabata, truyền tải đến người đọc nhiều thông

điệp ý nghĩa về cuộc đời.

150

Tiểu kết

Nội dung chương 4, khám phá biểu tượng nghệ thuật truyền thống Nhật Bản

trên hai lĩnh vực: Nghệ thuật dệt may truyền thống và Nghệ thuật biểu diễn. Chúng

tôi nhận thấy, Kimono, obi, chijimi, geisha, đàn shamisen, mặt nạ kịch Noh đã trở

thành những biểu tượng nghệ thuật sống động, thể hiện tư tưởng, phong cách và cá

tính sáng tạo, làm nên sức sống mãnh liệt cho các tiểu thuyết của Kawabata. Thế

giới biểu tượng đó cũng khẳng định quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, hết

mình và nỗ lực tạo nên những tầng ý nghĩa mới, phong phú, giàu sức biểu cảm cho

các biểu tượng truyền thống và tạo ra những liên tưởng mới lạ, đầy mơ hồ nhưng có

sức hấp dẫn kì lạ, cuốn hút người đọc, người nghe. Đó là nỗi buồn vời vợi trước

khát vọng cứu rỗi cái đẹp đang bị đọa đày trầm luân. Dưới ánh sáng vô biên tận

cùng của vũ trụ, tất cả vẻ đẹp của tiếng đàn, tiếng hát của những cô geisha, của vải

chijimi hay tà áo kimono… rồi cũng tan đi như những hình ảnh siêu thực được in

trên nền của tuyết, của tấm kính toa tàu. Tất cả đều mơ hồ, pha chút bi thảm, thẳm

sâu trong các hình ảnh tươi đẹp tinh khiết của thiên nhiên và các nghề truyền thống

trong tiểu thuyết Kawabata… nhưng, chúng ta vẫn thấy đọng lại đâu đó niềm hi

vọng về cái đẹp vĩnh cửu của đời sống và tâm hồn Nhật Bản.

151

KẾT LUẬN

Tiếp cận và diễn giải biểu tượng không phải là điều dễ dàng. Biểu tượng luôn

tồn tại và chứa đựng trong nó cả một thế giới rộng lớn với vẻ đẹp của hiện thực và

tâm linh. Biểu tượng phản ánh tư duy trừu tượng đỉnh cao, được kiến thiết và tri

nhận bằng chính trí tuệ của con người. Thông qua biểu tượng để tìm về cái “bản

thểchân như”, người đọc nhờ đó mà thêm yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên,

con người, trân quý lẽ nhân bản, đồng thời có ý thức giữ gìn, bảo vệ những giá trị

cao quý trên đời. Vậy nên, đi tìm ý nghĩa của hệ thống biểu tượng trong tiểu thuyết

Kawabata là cách chúng ta giải mã những kí hiệu độc đáo để chạm đến được những

giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của xứ sở Hoa anh đào.

Quá trình phân tích, tìm hiểu tiểu thuyết Kawabata từ việc giải mã các biểu

tượng văn hóa truyền thống, cho thấy, tác giả đã sáng tạo nên một hệ thống biểu

tượng đa dạng, nhiều màu sắc. Nhìn vào ý nghĩa phong phú của các biểu tượng, có

thể thấy được sự mối liên hệ của các yếu tố của văn hóa Đông - Tây, vừa có nét

truyền thống nhưng cũng rất hiện đại. Người đọc có thể nhận thấy, ở những biểu

tượng ấy một mặt là ý nghĩa gốc, khởi nguyên vốn có; mặt khác, nhà văn đưa vào

biểu tượng những ý nghĩa mới, mang tính thời đại và bản sắc tâm hồn Nhật Bản.

Những biểu tượng chính trong tiểu thuyết Kawabata mà chúng tôi khảo sát,

được phân thành hai nhóm lớn là (1) biểu tượng mang ý nghĩa tôn giáo, tín ngưỡng

và (2) biểu tượng nghệ thuật truyền thống.

Ở nhóm thứ nhất (1), hoa anh đào - thông qua thể hiện của Kawabata - chính

là đại diện cho vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết, thấm đượm u sầu nhưng mang số

phận mong manh, ngắn ngủi của cái đẹp. Tuyết trắng - biểu tượng của không gian

tinh khiết, thanh sạch và thế giới huyền ảo mang ý nghĩa soi sáng, thanh lọc tâm

hồn, là hành trình trở về miền thẳm sâu, nguyên sơ của con người. Với biểu tượng

đậm nét Thần đạo - chiếc gương soi (và các biến thể của nó) cho ta thấy một

Kawabata luôn hướng tới sự thật, tính chân thực, một thế giới nội tâm sâu thẳm và

cái đẹp nữ tính vĩnh cửu. Cánh hạc cũng vậy, đây chính là điểm tựa tinh thần, sức

152

mạnh của niềm tin vào sự trường tồn, bất tử của cái đẹp. Những biểu tượng mang

tính thanh lọc như vậy còn có thể kể tới suối nước nóng, các biểu tượng của trà đạo

như trà thất, trà cụ,… với những khát vọng lưu giữ và kết nối giá trị cái đẹp từ quá

khứ đến hiện tại mà nhà văn gửi gắm. Trong nhóm biểu tượng (1) này, có hình ảnh

người lữ khách với hành trình kiếm tìm cái đẹp trong vô vọng nhưng vẫn mang đậm

ý nghĩa tôn giáo bởi hành trình ấy chính là hành trình trở về miền tâm linh tinh

khiết, vô ưu của tâm hồn.

Ở nhóm thứ hai (2) - những biểu tượng nghệ thuật truyền thống, độc giả - nhờ

ngòi bút của sứ giả văn hóa Kawabata - có thể hiểu kĩ hơn về kimono, một loại trang

phục truyền thống cực kì nổi tiếng của Nhật Bản. Kimono chính là tấm áo lưu giữ vẻ

đẹp ngàn xưa, biểu tượng cho chỉnh thể của vẻ đẹp nữ tính nhưng cũng là niềm tiếc

nuối trước số phận mong manh, dễ phai tàn của cái đẹp hay sự mai một, suy vi của

nghệ thuật truyền thống. Kawabata còn hướng độc giả đến với nghề dệt vải chijimi -

một loại vải dệt cầu kì, gói ghém bao nhiêu tâm tình của người làm ra nó, thể hiện

một lối sống thuần khiết, thuận tự nhiên của con người Nhật Bản. Các biểu tượng

khác như geisha, đàn Shamisen không chỉ bảo lưu và hồi sinh vẻ đẹp nữ tính mà còn

có giá trị lưu giữ, bảo tồn giá trị truyền thống của cái đẹp Nhật Bản. Thêm vào đó là

biểu tượng Mặt nạ kịch Noh, một sáng tạo độc đáo của Kawabata, biểu đạt nhiều tầng

ý nghĩa, không chỉ là giấc mơ kì ảo về tuổi trẻ, hạnh phúc, mà còn là nỗi ám ảnh của

con người về tuổi già, cái chết và những mối tình dang dở trong quá khứ.

Dù thế giới nhiều biến động, Kawabata vẫn bám chắc vào mảnh đất quê

hương, cội nguồn văn hóa dân tộc, tạo nên nét riêng nhưng vẫn đậm đà phong cách

và tư duy Nhật Bản. Từ những hiện hữu văn hóa truyền thống, qua ngòi bút của nhà

văn, chúng đã trở thành những biểu tượng có hiệu ứng thẩm mĩ cao, dễ dàng tìm

được sự đồng cảm sâu sắc. Kawabata đã tạo nên sự chuyển nghĩa của mỗi biểu

tượng bằng sự khéo léo, định hướng trường liên tưởng của độc giả theo dụng ý của

riêng mình. Những biểu hiện đặc trưng của hệ thống biểu tượng trong tác phẩm của

nhà văn có sức gợi mở và hướng người đọc đến một dòng chảy cảm xúc trong sự so

sánh và giằng co giữa xấu và tốt, giữa mất và còn trong mỗi sự vật hoặc con người

153

và xã hội. Dù mỗi biểu tượng được thể hiện theo một cách khác nhau nhưng vẫn

thống nhất trong mạch nguồn chung của tác phẩm là phản ánh vẻ đẹp văn hóa dân

tộc đang dần bị mất đi và biến chất. Với những biểu tượng sinh động về văn hóa,

cốt cách Nhật, nhà văn mang đến một cảm xúc mới lạ, lan tỏa được tình yêu, khơi

gợi lòng tự hào dân tộc và sự trắc ẩn về cái đẹp trong lòng người đọc năm châu.

Một điểm nổi bật nữa, đó là tiểu thuyết của Kawabata đơn giản về cốt truyện,

ít biến cố, tiết tấu chậm. Tất cả chỉ chú trọng vào tâm trạng nhân vật và việc miêu tả

cảnh sắc thiên nhiên cũng như các sinh hoạt văn hóa truyền thống Nhật Bản. Nhưng

lại không hề dễ đọc, bởi chúng giàu tính biểu tượng, gợi mở nhiều điều trong thế

giới của sự mơ hồ, huyền ảo, của hư không, trống rỗng và những nỗi buồn dịu nhẹ

thấm trong cảnh vật và tâm hồn con người, cùng với đó là sự chiêm nghiệm về lẽ

đời nổi trôi, hoài niệm đẫm u sầu với quá khứ, và tình yêu cùng hư vô bất tận.

Bằng cảm quan của một nghệ sĩ đa cảm, tinh tế và sâu sắc, vẻ đẹp của truyền

thống văn hóa và con người Nhật được phản ánh với tất cả sự yêu mến và nuối tiếc.

Biểu tượng trong tiểu thuyết Kawabata khắc chạm thêm những cảm xúc mãnh liệt

về con người và thời đại nước Nhật sau Đại chiến II. Xã hội Nhật Bản đã trở nên bị

tổn thương sâu sắc và lắng đọng trong dòng cảm xúc trầm buồn của toàn bộ sáng

tác, Kawabata thầm lặng gửi thông điệp về việc cần giữ gìn truyền thống thanh cao

của người Nhật với vẻ đẹp nguyên thủy và phát huy những giá trị đẹp đẽ của bản

sắc văn hóa dân tộc. Việc tuyệt đối hóa, đẩy cái đẹp lên thành tín ngưỡng như cảm

thức vĩnh cửu trong sáng tạo, cho thấy Kawabata là một người duy mĩ trong thế giới

hư cấu của mình. Hành trình khám phá cái đẹp, lên tiếng kêu cứu, cảnh báo về số

phận và nguy cơ diệt vong cái đẹp chính là đóng góp lớn nhất của Kawabata cho

văn đàn Nhật và cho cả thế giới, nơi cái đẹp luôn thường trực nguy cơ bị diệt vong.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi nhận thấy có nhiều triển vọng cho

hướng nghiên cứu khác về đối tượng này. Đó là, đào sâu thêm những thành tựu về

biểu tượng văn hóa truyền thống Nhật Bản trong toàn bộ sáng tác của Y. Kawabata,

bao gồm cả thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết.

154

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

Bài Tiếng Việt

1. Nguyễn Thị Thanh Nga (2017), “Bi cảm (Aware) trong Cố đô của Kawabata”,

Tạp chí Khoa học trường ĐH SP Hà Nội, Số 7, tr. 26-33.

2. Nguyễn Thị Thanh Nga (2020), “Tính nữ trong sáng tác của Y. Kawabata: trường

hợp nghiên cứu Xứ Tuyết”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 429, tr. 92-95.

3. Nguyễn Thị Thanh Nga (2020), “Giải mã văn hóa Nhật Bản qua một số biểu

tượng trong Xứ tuyết của Y. Kawabata”, Tạp chí Khoa học trường ĐH SP Hà

Nội, Số 5 tr. 24-32.

4. Nguyễn Thị Thanh Nga (Tháng 12/2021), “Ảnh hưởng văn hóa trong văn học

qua các biểu tượng trong tiểu thuyết Cố đô của Kawabata”, Tạp chí Khoa học

trường ĐH Hồng Đức, Số 52, tr. 71-80.

5. Nguyễn Thị Thanh Nga (Tháng 8/2022), “Tiếp cận tác phẩm văn học từ góc

nhìn văn hóa: trường hợp tiểu thuyêt Cố đô của Kawabata Yasunary”, Kỷ yếu

Hội thảo khoa học quốc tế TED-2022, Nxb Tài chính, tr.101-107.

Bài Tiếng Anh

6. Nguyễn Thị Thanh Nga (2020), “A Survey on the Research of Traditional

Cultural Symbols Appeared in the Y. Kawabata Novels in Viet Nam”, Tạp chí

Khoa học trường Đại học SP Hà Nội, Số 11, tr. 54-63.

155

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. N. T. Fedorenko (1999), “Kawabata - con mắt nhìn thấu cái đẹp”, Thái Hà dịch,

Yasunry Kawabata - tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, Hà Nội, tr. 1023-1052.

2. Lê Nguyên Cẩn (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

3. Itasaka (edited) (1983), Encyclopedia of Japan, Kodansha International, L.T.D,

Tokyo, New York, London.

4. Anders Uslerling (1999), The Nobel prize for literature 1968, the NobelFoundation,

https://www.nobelprize.org/prizes/literature/1968/summary/

5. Mary Jo Moran (Nov., 1982), Recommended: Yasunari Kawabata, Source: The

English Journal, Vol. 71, No. 7, Published by: National Council of Teachers of

English, pp. 75-76.

6. Donald Keene (1984), Dawn to the West - Janpanse Literature in the modern era,

Fiction Hold, Rinebart anhwinston, New York.

7. Yasunary Kawabata (1968), Snown Contry, Tranladed by Edward Seidensticker,

Berkle Publishingcorporation, New York, pp7.

8. Edward Seidensticker (Spring, 1969), Kawabata, Source: The Hudson Review,

Vol. 22, No. 1, Published by: The Hudson Review, Inc, pp. 6+8+10.

9. Francis Mathy (1969), Kawabata Yasunari: Bridge-Builder to the West, Source:

Monumenta Nipponica, Vol. 24, No. 3, Published by: Sophia University, pp. 211-217.

10. Takeda Katsuhito (1983), Biblical influence upon Yasunari Kawabata Neohelicon,

10(1), 95-103.

11. Setsuko Tsutsumi (1997), Kawabata Yasunary - Interweaving the “Old Song of the

East” and Avan-Garde Techniques - Kawabata Yasunary, Thesis (Ph.D),

University of Washington, US.

12. Peter M. Carriere (2002), “Writing as Tea Ceremony: Kawabata's Geido

Aesthetics”, International Fiction Review, 29(1). Retrieved from

https://journals.lib.unb.ca/index.php/IFR/article/view/7716

13. Nawang Sari (2010), “The aging crises seen through the characterization and

symbols in Yasunari Kawabata’s the Sound of the mountain”, English Letters Study

program department of English letters Faculty of letters Sanata Dharma University

156

Yogyakarta.

14. Yuli Christiana Yoedo (2011), “Reader-Response Analysis in Snow Country A

Novel by Yasunari Kawabata”, English Department, Faculty of Letters. Petra

christian university yuli chy@Peter.Petra.ac.id, Vol.4.no1.Mei 2011: 115-127.

15. Reiko Tsukimura (Jul, 1968), “A Thematic Study of the Works of Kawabata

Yasunari”, Source: The Journal - Newsletter of the Association of Teachers of

Japanese, Vol. 5, No. 2, Papers from the 1968 AAS Meetings, pp. 22-31, Published

by:American Association of Teachers of Japanese.

16. Gwenn. R. Boardman (1969), “Kawabata Yasunari”, Critique: Studies in

Contemporary Fiction, 11(2), 5-15. To link to this article: http://dx.doi.org.

17. Mishima Yokio (1980) Yasunari Kawabata, House of the Sleeping Beauties and

Other Stories, Translated by Edward Seidensticker, Kodansha international, Tokyo,

New Jork and San Francisco.

18. Makoto Ueda (1983), Modern Japanese Poets and the Nature of Literature,

Stanford, Calif: Stanford University, Press.

19. J. Thomas Rimer (1988), A Reader’s Guide to Japanses Literature, Tokyo and New

York: Kodansha International.

20. Sidney DeVere Brown (Summer, 1988), Yasunari Kawabata (1899-1972),

Tradition versus Modernity, Source: World Literature Today, Vol.62, No.3,

Contemporary Japanese Literature, Published by: Board of Regents of the

University of Oklahoma, pp. 375-379.

21. Shuichi Kato (1990), A history of Japanese Literature, 3vols, Kodansha

international, Tokyo.

22. Masaki Mori (2004), “Kawabata's Mirrored Poetics”, Japan Studies Review 8,

pp.51-68.

23. Masaki Mori (2007), Symbiotic Conflict in Snow Country, Japan Studies

Review 11, pp. 51-72

24. Numano Mitsuyoshi (2009), “Thế giới thơ và tiểu thuyết Nhật Bản - từ “Truyện

Genji” đến Murakami Haruki”, Hội thảo Văn học Nhật Bản, Viện Văn học, Trung

tâm Giao lưu Văn hoá Nhật Bản tại Việt Nam, Hà Nội

25. Laura Ricca (2017), “The Aesthetics and Poetics of the Image in Japanese Culture.

An Example from the Literary Tradition: Yukiguni [SnowCountry]”, Proceedings,

157

1,1087, doi:10.3390/proceedings1091087, www.mdpi.com.

26. Vũ Thư Thanh (15/10/1969), “Yasunary Kawabata, cuộc đời và sự nghiệp”, Tạp

chí Văn, số 140, số đặc biệt về Kawabata Yasnary, Sài Gòn, tr.34-45.

27. Lưu Đức Trung (1997), Yasunary Kawabata cuộc đời và tác phẩm, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

28. Nguyễn Nam Trân (2011), Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, Nxb Giáo dục

Việt Nam.

29. Hữu Ngọc (2016), Lãng du trong văn hóa xứ sở hoa anh đào, Nxb Thông tin và

truyền thông, Hà Nội.

30. Nhật Chiêu (1991), “Yasunary Kawabata - người cứu rỗi cái đẹp”, Yasunara

Kawabata - tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, Hà Nội, tr. 1060-1076.

31. Lưu Đức Trung (1999), “Thi pháp tiểu thuyết Yasunari Kawabata, nhà văn lớn

Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9, Hà Nội, tr.40-47.

32. Nhật Chiêu (2000), “Yasunari Kawabata và thẩm mỹ của chiếc gương soi”, Tạp

chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 4, tr.29-36.

33. Khương Việt Hà (2004), “Thủ pháp tương phản trong truyện Người đẹp say ngủ

của Kawbata Yasunary”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1, tr.101- 109.

34. Thụy Khuê (2005), “Từ Murasaki đến Kawabata”, Yasunary Kawabata - tuyển tập

tác phẩm, Nxb Lao động, Hà Nội, tr 976 - 1022.

35. Khương Việt Hà (2006), “Mĩ học Yasunary Kawabata”, Tạp chí Nghiên cứu văn

học, số 6, Hà Nội, tr 68-85.

36. Đào Thị Thu Hằng (2007), Văn hóa Nhật Bản và Yasunary Kawabata (chuyên

luận), Nxb Giáo dục.

37. Vũ Thị Thanh Hoài (2007), “Đẹp và Buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunary

Kawabata”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 4, tr.32-36.

38. Nguyễn Thị Mai Liên (2009), “Sự phân cực không gian nghệ thuật trong sáng tác của

Kawabata”, Kỷ yếu Hội thảo Kawabata trong nhà trường, ĐHSPHN, tr.93-106.

39. Nguyễn Tuấn Khanh (2011), Những cây bút kiệt xuất trong văn học Nhật Bản hiện

đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

40. Nguyễn Đức Ninh (2012), “Y. Kawabata - Nghệ sĩ kì công nâng niu cái đẹp”, Tạp

chí Văn hóa và Nghệ thuật, số 339, tr.43-47.

41. Nguyễn Thị Huân (2017), “Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Yasunary

158

Kawabata”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 393, tr.79-81.

42. Lê Thị Bích Thủy (2017), “Nghệ thuật biểu hiện cái đẹp trong Người đẹp say ngủ

của Y. Kawabata”, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 398, tr.87-90, 97.

43. Đoàn Lê Giang (2000), “Kawabata - Cái đẹp truyền thống qua thấu kính hiện đại”,

Kỷ yếu hội thảo Kawabata Yasunary trong nhà trường, ĐHSPHN, tr.33-37.

44. Đào Thị Thu Hằng (2004), “Yasunary Kawabata giữa dòng chảy Đông Tây”,

Yasunary Kawabata - tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, Hà Nội, tr.1090 - 1107.

45. Hà Văn Lưỡng (2006), “Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết

Người đẹp say ngủ của Y. Kawabata”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 9, Hà

Nội, tr.65-72.

46. Hoàng Thị Mỹ Nhị (2017), “Biểu tượng trong “Ngàn cánh hạc” dưới góc nhìn phân

tâm học”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 396, tr.74-76.

47. Nhật Chiêu (2000), “Thế giới Kawabata (hay là cái đẹp: Hình và bóng)”, Tạp chí

văn học số 3, tr.85-92.

48. Nguyễn Thị Mai Liên (2005), “Yasunary Kawabata - Lữ khách muôn đời đi tìm cái

đẹp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7, tr.74-86.

49. Trần Tố Loan (2005), “Biểu tượng trong tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của Y.

Kawabata, https://vnkienthuc.com.

50. Trần Tố Loan (2006), “Cái đẹp truyền thống Nhật Bản trong sáng tác của Y.

Kawabata”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 1, tr.67 - 71.

51. Trần Tố Loan (2009), Biểu tượng trong tiểu thuyết Kawabata Yasunary, Kỷ yếu

Hội thảo Kawabata trong nhà trường, ĐHSP HN, tr.120-130.

52. https://trieuxuan.info

53. Hoàng Thị Mỹ Nhị (2016), “Cảm thức Thiền của Kawabata Yasunary nhìn từ quan

niệm về thế giới và con người trong Ngàn cánh hạc”, Tạp chí Nghiên cứu Đông

Bắc Á, số 7, tr.73-78.

54. Hoàng Thị Mỹ Nhị (2016), “Cảm thức thiên nhiên trong “Ngàn cánh hạc” của

Kawabata Yasunary từ góc nhìn truyền thống”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số

3, tr.74-80.

55. Đào Thị Thu Hằng (2018), Nhà văn Nhật Bản thế kỉ XX, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí

Minh.

56. Phạm Thị Khánh Liêm (2009), Biểu tượng trong bộ ba tác phẩm “Xứ tuyết”,

159

“Ngàn cánh hạc”, “Cố đô” của Yasunary Kawabata, Luận văn thạc sĩ văn học,

Trường ĐH Sư phạm TP Hồ Chí Minh.

57. Đào Thị Thu Hằng (2006), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm của Yasunary

Kawabata, Luận án TS Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội,

58. Hoàng Thị Mỹ Nhị (2018), Mỹ cảm aware trong văn học Nhật Bản qua tiểu thuyết

Truyện Genji của Murasaki Shikibu và Ngàn cánh hạc của Kawabata Yasunary,

Luận án TS Ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Hà Nội.

59. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant, (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới,

(Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb Đà Nẵng, Hà Nội.

60. Alain Rey et al., eds., (1995), Historical Dictionary of the French Language, new

edition, vol. 2 (Paris: Dictionaries Le Robert).

61. Eric Partridge, Origins (1959), A Short Etymological Dictionary of Modern English,

2nd ed. (New York: Macmillan).

62. Đỗ Lai Thuý (2004), Phân tâm học và văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá thông tin, Hà

Nội.

63. M. H. Abrams (1971), A Glossary of Literary Term, Holt, Rine and Win Inc,

New York.

64. Edward Quinn (2006), A Dictionary of Literary and Thematic Terms (Second

edition), An Imprint of Infobase Publishing, New York.

65. Andrew Sneddon (2015), Symbolic Value” - Andrew Sneddon, The Journal of

Value Inquiry, Volume 49, No.3.

66. Hoàng Phê (chủ biên), (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ

điển học Hà Nội.

67. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1992), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

68. Đinh Hồng Hải (2012), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống

Việt Nam - tập 1, Nxb Tri thức, Hà Nội.

69. Trần Lâm Biền - Trịnh Sinh (2017), Thế giới biểu tượng trong di sản văn hóa, Nxb

Hồng Đức, Hà Nội.

70. Phạm Đức Dương (2013), Từ văn hóa đến văn hóa học, Nxb Văn hóa - thông tin,

Hà Nội.

71. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên), (2018), Từ kí hiệu đến biểu tượng, Nxb Đại học Quốc

160

gia, Hà Nội.

Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội. 72.

Phạm Đức Dương (2013), Văn hóa học dẫn luận, Nxb Văn hóa - Thông tin, Thành 73.

phố Hồ Chí Minh.

74. http://www.vanhoahoc.edu.vn/

75. Hồ Hoàng Hoa (chủ biên) (2001), Văn hóa Nhật, những chặng đường phát

triển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

76. Trần Quốc Vượng chủ biên (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

https://study.com/learn/lesson/cultural-symbols-importance examples.htlm. 77.

Dongxiang Li, (2018), “A study of Relationship between Symbols and 78.

Cultures from the Perspective of Linguistics”, Proceedings of the 2018 2nd

International Conference on Education Science and Economic Management

(ICESEM 2018), pp.811-813

79. Grayson, Kent; Martinec, Radan (2004-09-01), Consumer Perceptions of

Iconicity and Indexicality and Their Influence on Assessments of Authentic

Market Offerings, Journal of Consumer Research, 31 (2), doi:10.1086/422109.

ISSN 0093-5301.

80. Motley, Carol M; Henderson, Geraldine Rosa (2008-03-01), The global hip-

hop Diaspora: Understanding the culture, Journal of Business Research.

Cross-Cultural Business Research. 61(3): doi:10.1016/j.jbusres.2007.06.020.

81. http://vusta.vn/

82. IU.M. Lotman (2015), Kí hiệu học văn hóa, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

83. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng, một số hướng tiếp cận lí thuyết,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

84. A.A. Radughin (2001), Từ điển bách khoa các khoa học về văn hóa, Viện Nghiên

cứu văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

85. Mai Thị Hồng Tuyết (2016), Hình tượng văn học như là kí hiệu, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

86. Lê Nguyên Cẩn (2018), Mã văn hóa trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

87. Nguyễn Linh Chi (2018), Mã văn hóa trong tác phẩm văn học của James Joyce,

161

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

88. Eiichi Aoki (chủ biên), (2008), Nhật Bản đất nước và con người, Nxb Văn học,

Thành phố Hồ Chí Minh.

89. Hà Văn Lưỡng (2012), “Một số biểu hiện của Thiền tông và chất phương Đông

trong văn xuôi Y. Kawabata”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3, tr. 73-78.

90. Suzuki. T. Daisetsu (Nguyễn Nam Trân dịch và chú thích), (2019), Thiền và văn

hóa Nhật Bản, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

91. Yasunary Kawabata (1968), “Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản” (Diễn từ Nobel),

Yasunsry Kawabata - tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, Hà Nội, tr.961-975.

92. Nguyễn Phương Khánh (2018), Nhật Bản từ mỹ học đến văn chương, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

93. Phạm Thảo Hương Ly (2011), Bi cảm (aware) trong tiểu thuyết Yasunary

Kawabata, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Tp Hồ Chí Minh.

94. Nhật Chiêu (2009), Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến năm 1968, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

95. Hà Văn Lưỡng (2009), “Những yếu tố kì ảo và giấc mơ trong sáng tác của

Kawabata”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7, tr.64-67.

96. Ruth Benedicht (2020), Hoa cúc và gươm - những khuôn mẫu văn hóa Nhật Bản,

Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

97. Mircea Eliade (2018), Bàn về nguồn gốc các tôn giáo, Đoàn Văn Chúc - Đỗ Lai

Thúy dịch, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

98. Phạm Đức Dương (2003), Từ văn hóa đến văn hóa học, Nxb Văn hóa - thông tin,

Hà Nội.

99. Nguyễn Linh Chi (2018), Mã văn hóa trong tác phẩm văn học của James Joyce,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

100. Nguyễn Văn Hạnh (2006), “Quan hệ giữa tôn giáo và thơ ca trong thế giới biểu

tượng”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số (9), tr 55 - 64.

101. Nhật Chiêu (1998), Thơ ca Nhật Bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

102. Nhật Chiêu (1999), Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

103. Yasunary Kawabata (2005), Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động - Trung tâm văn

hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

104. Nargiza Isakovna Toirova (2019), “The significance of the symbols of Mirror and

162

Portrait in teaching Symbolism”, International Journal of English, Literature and

Social Science (IJELS) Vol.4, Issue-4,https://dx.doi.org/10.22161/ijels.4424,

ISSN: 2456-7620.

105. Trần Thị Ngọc Anh (2016), “Hình tượng chiếc gương trong Thủy nguyệt của

Yasunary Kawabata”, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, tr. 207 - 210.

106. https://nhatban.vietnhat.tv/

107. Nguyễn Thị Bích Hải ((2009), Đến với tác phẩm văn chương phương Đông, Nxb

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

108. Nguyễn Thị Tuyết (2017), Thơ du tiên đời Đường, Luận án TS Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.

109. Nhiều tác giả (1991), Tìm hiểu Nhật Bản: từ vựng, phong tục và quan niệm, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội, tập 2.

110. D.T. Suzuki (2013), Thiền học nhập môn, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

111. Nhiều tác giả (2015), Văn học Việt Nam và Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hóa,

Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.

112. Laura C. Martin (2019), Lịch sử của Trà, (Nguyễn Huyền Linh dịch), Nxb Dân trí,

Hà Nội.

113. https://vanvn.vn/

114. U Ueda Makoto (2018), Matsuo Basho, bậc đại sư thơ Haiku (Nguyễn Nam Trân

biên dịch và chú thích), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

115. Đào Thị Thu Hằng (2006), “Kiểu nhân vật lữ khách đi tìm cái đẹp trong tác phẩm

của Ysunari Kawabata”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3, tr.57-62.

116. Nguyễn Hồng Anh, (2015), “Biểu tượng Giếng trong tác phẩm Haruki Murakami -

hành trình từ nhân loại đến dân tộc”, Kỷ yếu hội thảo, Nx Đại học Quốc gia TP Hồ

Chí Minh, tr.635-642.

117. Lê Huy Bắc (2009), “Yasunary Kawabata và truyện kể của những giới hạn”, Hội

thảo Yasunary Kawabata, Khoa Ngữ văn, Đại học Sư Phạm Hà Nội, tr. 26-32.

118. Đỗ Lai Thúy (2018), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa Tri thức, Hà Nội.

119. https://vi.wikipedia.org/

120. Đào Thị Thu Hằng (2009), “Murakami - một hiện tượng văn học tại Việt Nam”,

Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5, tr. 69-76

121. Lê Thị Thanh Tâm (2015), “Haiku từ mĩ học Thiền - khuynh hướng phê bình có

tính quốc tế đối với tinh hoa văn học Nhật Bản”, Kỉ yếu hội thảo Văn học Việt Nam và

163

Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hóa, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, tr 82-100.

122. Nguyễn Thị Thanh Nga, Hoàng Thị Mỹ Nhị (2020), “Tính nữ trong sáng tác của Y.

Kawabata: trường hợp nghiên cứu Xứ Tuyết”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 429,

tr. 92-95.

123. Hoàng Long (2003), “Đặc điểm thi pháp truyện trong lòng bàn tay của Yasunari

Kawabata”, Yasunry Kawabata - tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, Hà Nội,

tr.1077-1089.

124. Lam Anh (2021), Văn học Nhật Bản, vẻ đẹp mong manh và bất tận, Nxb Tổng

hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

125. https://vjol.info.vn

126. https://vanthekt.blogspot.com › 2019/12 › 1-mat-na-kic...

127. Michael J. Lyons, Ruth Campbell, Andre Plante, Mike Coleman, Miyuki Kamachi

and Shigeru Akamatsu (2000), “The Noh mask effect: vertical viewpoint

dependence of facial expression perception”, Proc Biol Sci. 2000 Nov 22;

267(1459): 2239-2245, pp.2239-2245, doi: 10.1098/rspb.2000.1274

128. Nhật Chiêu (2000), “Yasunari Kawabata và thẩm mỹ của chiếc gương soi”, Tạp

chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 4, tr.29-36.

129. Nhật Chiêu (1997), “Manyoshu (Vạn diệp tập) hay là thơ ca từ mọi nẻo đường”, Tạp chí văn học, số 9, Hà Nội. 130. Đỗ Thị Thu Hà (2003), Cái đẹp và người phụ nữ trong tác phẩm của Yasunary

Kawabata và R. Tagore, Kỉ yếu Hội thảo “30 năm hợp tác hữu nghị Việt Nam -

Nhật Bản”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.463-472.

131. Lê Thị Hường (2001), “Kawabata Yasunary - Người lữ khách ưu sầu đi tìm cái

đẹp”, Tạp chí Sông Hương, số 154, tr. 70-72.

132. Mai Liên (tuyển chọn, giới thiệu và dịch), (2010), Hợp tuyển Văn học Nhật Bản,

Nxb Lao động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

133. Nhiều tác giả (2019), Các lí thuyết văn hóa, Đỗ Lai Thúy tuyển chọn và giới thiệu,

Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

134. Nguyễn Thị Mai Liên (2005), “Kawabata - Lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp”, Tạp

chí Nghiên cứu Văn học, số 7, tr.74-86.

135. Nguyễn Thị Mai Liên (2009), “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của

Kawabata Yasunari”, Kỷ yếu Hội thảo Kawabata trong nhà trường, ĐHSP

HN, tr.71-92.

164

136. Toshimitsu Hasumi (1962), Zen in Japanese Art, RKP London.

137. N.I Korat (1999), Văn học Nhật Bản từ cổ đến cận đại, Nxb Đà Nẵng

138. Hữu Ngọc (2016), Lãng du trong văn hóa xứ sở hoa anh đào, Nxb Thông tin và

truyền thông, Hà Nội.

139. Tâm Duy Ngọc (2019), Nhật Bản: hoa anh đào, kimono và gì nữa, Nxb trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

140. http://viviandiary.net/

141. http://baotanglichsu.vn › mat-na-kich-noh-nhat-ban

142. Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền luận, Trang web: http://thuvien247.net.

143. Hạ Thị Lan Phi (2006), “Geisha Nhật Bản - truyền thống và hiện đại”, Tạp chí

Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5, tr.57-62.

144. Nancy Ann Watanabe (2019), “The Symbolism of Solar and Lunar Personas in the

Vegetable Glass of Nature”, in book: explorations: essays in comparative literature

festscrift directed publisher: lanham, maryland usa: rowman and littlefield, pp.59-86

145. Đỗ Lai Thúy (biên soạn và giới thiệu) (2018), Phân tâm học và tính cách dân tộc,

Nxb Tri thức, Hà Nội.

146. Yasunary Kawabata (1988), Cố đô, Thái Văn Hiếu dịch, Nxb Hải Phòng.

147. Yasunary Kawabata (1995), Xứ tuyết, Ngô Văn Phú, Vũ Đình Bình dịch, Nxb Hội

nhà văn, Hà Nội.

148. Yasunary Kawabata (2001), Tuyển tập Kawabata, Nxb Hội nhà văn, Thành phố Hồ

Chí Minh.

149. Yasunary Kawabata (2005), Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động - Trung tâm văn

hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

150. Yasunary Kawabata, (2016), Hồ, Uyên Thiểm dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Xứ tuyết Tuyết, băng

- “Ở đó màu trắng của tuyết đã biến mất trong màn đêm; Vả lại, tuyết dày và bao nhiêu công việc nữa; Năm ngoái, tuyết rơi nhiều đến nỗi các đoàn tàu luôn bị các khối tuyết lở chặn lại, tr.221. - Giọng nàng, nó vang cao và rung lên lướt như một tiếng vọng trong tuyết; Có ba chiếc xe dọn tuyết sẵn sàng hoạt động khi có tuyết lở… lập tức có một hệ thống báo động bằng điện để ngay lập tức phát tín hiệu khi tuyết làm nghẽn đường; Các ga xép này đang bị tuyết đe dọa, tr.222. - Khi bầu trời trong trẻo sau một đợt tuyết rơi; Shimamura thoáng đưa mắt nhìn những lớp băng mỏng… Trong màu trắng của tuyết; … Thế có nhiều tuyết không? ... Thường tuyết dày khoảng 30cm… Bây giờ tuyết sắp rơi… tuyết đã dày khoảng 30cm, nhưng đã tan kha khá… Mà bây giờ tuyết tan được sao?… Nhưng ngày mai tuyết sẽ tan nhiều lắm, tr.227. - Ở Tôkyo vẫn chưa có tuyết hả anh? tr.229. - Đó là lúc mở đầu mùa leo núi, không còn nguy cơ tuyết lở nữa. tr.230. - Shimamura nhớ tới xứ tuyết, nghĩ tới cái lạnh ở đây, tr.246. - Một sự thoải mái tột độ chẳng khác gì anh đã để cho tuyết rơi lặng lẽ nói thay anh, tr.248. - Đáp lại tiếng lạo xạo của tuyết đóng thành băng ở khắp mọi nơi, tr.249. - Các quả núi đen sẫm nhưng vẫn rực sáng ánh tuyết, tr.250. - Cái màu trắng tít sâu trong gương đó là màu tuyết, ở giữa đó rực đỏ đôi má người đàn bà trẻ. Vẻ đẹp của sự tương phản ấy cực kì trong sạch, nó vô cùng dữ dội vì nó sắc nhọn và sống động, tr.252. - Những đám tuyết từ trên các cành bá hương đỉnh núi lấp đầy tuyết… con đường biến mất hẳn dưới tuyết, ngập lút trong các đống tuyết... lúc này tuyết đã dày hơn ba mét… những đỉnh núi

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

đầy tuyết lấp lóa dịu dàng trong ánh sáng… chưa bị tuyết vùi lấp hẳn… chơi trượt tuyết trên cánh đồng… người đàn ông quét tuyết… chuẩn bị cho mùa trượt tuyết… trắng xóa những tuyết… tr.253. - Những đám tuyết từ trên những cánh bá hương rơi xuống mái nhà tắm tạo thành những khối bẹt chẳng ra hình thù gì, gần như di động, gần như ấm áp, tr.253. - Những hòn đá to tròn nhẵn, trắng xoá những tuyết ở phía bóng râm… chúng bóng loáng không phải vì ướt mà chủ yếu vì chúng được bào nhẵn bởi băng giá, gió mưa, tr.254 - Hình ảnh Komako trong gương, màu đỏ của má cô trên nền tuyết trắng rõ ràng làm anh nhớ tới hình ảnh người đàn bà trên tàu, tr.255. - … khu vườn nhỏ phủ tuyết... Tuyết nằm từng mảng trên mái nhà bị gồ lên bởi những thanh xà cong queo khiến phần mái che như được trang trí, tr.256. - Khi đôi má của Komako rực lên trên nền tuyết trắng, tr.258. - Không, cửa kính của toa tầu mà màn đêm đã biến thành một tấm gương hay cái gương tràn ngập màu trắng của tuyết không còn là sản phẩm của bàn tay con người nữa…, tr.259. - Xa xa trên các ngọn núi tuyết trông như một lớp kem mềm mại, tr.265. - Komako ngước nhìn bầu trời trong trẻo ở phía tuyết trắng, “khi thời tiết thế này, tiếng đàn nghe khác hẳn… chất pha lê của âm nhạc hình như tung tiếng hát rung cảm và tinh khiết của nó đến tận những đỉnh núi đầy tuyết ở tít xa, tận đường chân trời, tr.269. - Căn phòng hướng nam nên trông thấy được những bãi tuyết rộng ở sườn núi phía Bắc; Vẫn ở trong ngăn sưởi, Shimamura quay đầu để nhìn những mảng tuyết nằm áp chặt vào sườn núi…, các bờ ngăn còn lộ rõ vì tuyết ở đó mỏng, tr.271. - Các ông khách du lịch luôn ngạc nhiên khi một cô geisha chào họ ở trên bãi trượt tuyết… mặc quần áo trượt tuyết? Mùa trượt

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

tuyết bao giờ cũng đến nhọc nhằn, họ luôn muốn gặp lại để cùng trượt tuyết. Trời lạnh thế này, có thể tối nay sẽ có tuyết. Đêm trước hôm có tuyết bao giờ cũng lạnh; Shimamura nhìn Komako… đi xuống con đường dốc phía trước các bãi tuyết, tr.272. - Vẽ nên một phong cảnh băng giá, bóng tối đã trùm lên các sườn dốc dành cho những người trượt tuyết. Các que băng ở các rìa mái nhà hãy còn có nước rỏ giọt… Tối nay chưa có tuyết…; mặt đường rắn đanh dưới lớp băng giá, tr.272. - Shimamura vừa nhìn ngắm cảnh vật, vừa nghĩ đến sự chật hẹp của cái thung lung bé xíu bị ép chặt giữa những ngọn núi tuyết, tr.274. - Tuyết đã tan kha khá từ hôm anh đến đây; Ở đây, tuyết chỉ rơi hai ngày là đã dày 2m, rồi tuyết cứ rơi thêm mãi… Ở đây nhiều tuyết thế cơ à? Bọn trẻ nhảy từ phòng ngủ… và chúng đi trong tuyết, kìa một xe gạt tuyết… “Anh thích xem tuyết sâu thế lắm”, đường sắt có thể bị nghẽn vì tuyết lở, tr.275. - Giọng nói đẹp đến nao lòng, chẳng khác gì tiếng vang sống động trên những ngọn núi xa xôi tuyết phủ, tr.277. - Màu đỏ của má cô đã trở nên phi thực, cũng bừng lên như màu đỏ rực giữa nền tuyết chói mắt trong tấm gương buổi sáng hôm xưa; Sườn núi phía bên này còn chưa có dấu vết của tuyết, tr.278 - Mười ngày trước lễ hội, nhét đầy tuyết vào những chiếc dép rơm; xây thành một lâu đài tuyết; ngày hội rơi đúng vào lúc nhiều tuyết nhất, tr.284. - Mùa đông này nhiều tuyết quá, thật dễ sợ; và cái nhà sàn xứ tuyết gần chỗ trượt tuyết, tuyết lở đã lăn cả vào lầu một; khi họ lê lầu đầy ắp tuyết; May đó là một cơn tuyết lăn, chứ chưa phải là trận sụt tuyết; em đã quyết không đi trượt tuyết nữa, tr.288. - Thứ tiếng lảnh lót trong đêm và trong tuyết, tr.300. - Có lẽ tuyết sắp rơi. Cửa sổ khuôn vào màu bầu trời xám quánh những búi tuyết rơi thẳng xuống như những đoá hoa đơn trắng…

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Núi non vừa lúc trước có vẻ như bị đẩy dần xa bởi sắc màu ảm đạm của mùa thu, đã sống động và ngời sáng lên trong tuyết; những cây bá hương phủ một lớp voan trắng mỏng nổi trên nền tuyết, tr.321. - Tuyết kéo ra từng sợi và cũng như chính tuyết đã dệt những sợi ấy thành tấm vải… rồi chính tuyết lại giặt tẩy cho nó sạch bong ra. Tất cả được tạo thành, bắt đầu và kết thúc trong tuyết, “Vải chijimi chỉ được sinh ra khi có tuyết, tuyết là mẹ đẻ của Chijimi”; Công việc đầy hứng thú và say đắm trong những tháng mà tuyết giam lỏng họ; những vuông vườn phủ đầy tuyết, tr.322. - Anh cũng chẳng lấy gì làm chắc chắn những bộ kimono kia được tuyết tẩy trắng theo lối cổ truyền; Việc tẩy trắng bằng tuyết từ đời này sang đời khác do các thợ chuyên nghiệp đảm nhận; Đồng cỏ và vườn thời kì này đầy tuyết; Cái cảnh tẩy trắng vải bằng tuyết trọn vẹn được ấp iu trong ánh nắng hồng dịu ban mai, đẹp đến không bút nào tả nổi, tr.323. - Bàn tay của những người đàn bà trong xứ tuyết, làm việc triền miên trong những tháng dài tuyết phủ mùa đông, tr.324. - Sợi gai của đất núi óng như một thứ tơ chế từ lông thú, trong mùa ẩm ướt của tuyết vào mùa đông xứ tuyết là mùa thích hợp cho các công việc của người thợ dệt, tr.324. - Giọng nàng sao mà tuyệt diệu đến thế, nó cao vang và rung lên lướt như một tiếng vọng trên tuyết và trong màn đêm… như tuyết rơi lặng câm trên thảm tuyết, như thứ tiếng vọng lịm dần sau sự bươn chải qua những bức tường trống rỗng, tr.325. - Bởi khi tuyết đổ họ không xuống được nữa; phía trên cầu, tuyết đầu tiên đã phơi màu trắng toát; Người ta đã nhận ra tuyết trong không khí; Những vòng cung núi bao quanh, trắng xóa lên từ trận tuyết đầu, tr.327. - Núi đội nón và tiếng rì rầm của lòng đất… thường báo hiệu và xuất hiện trước mùa tuyết lớn đôi chút; Từng thấy những bông tuyết đầu mùa vào buổi sáng anh thức dậy; trong suốt thời kì bị

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Cố đô

Đẹp và buồn

tuyết giam hãm; Những vệt đường trong tuyết, tr.328. - Dưới ánh sáng gợi cảm của những vì sao chiếu trên tuyết; Cô nói và lượm gấu áo kimono đang kéo lê trong tuyết, tr.332. - Anh phân biệt được hàng tỏi ở trên tuyết; Komako chạy nhanh, tay khép lấy người, chân lướt vèo trên mặt đất tuyết, tr.333. - Anh còn chưa biết bão tuyết ở vùng em thế nào đâu, khi gió cóng thổi tuyết chạy là trên mặt đất đêm này qua đêm khác, tr.335. - Chúng giày xéo lên đám tuyết vỡ, để lại trước chúng một đám bùn nhão lẫn tuyết, tr.336. - Tuyết ẩm thay thế mưa, tr.718. - Bắc Sơn đang mưa, mà có thể cả tuyết nữa, tr.721. - Bắt đầu có mưa kèm theo tuyết ướt; Đấy chưa phải là tuyết thực sự mà là những hạt tuyết ướt, tr.728. - Thứ tuyết này ở vùng núi em đôi khi vẫn thấy; Cứ đang làm việc, cắm cúi trên các súc gỗ, thì tuyết đã đọng trên lá thông liễu thành một lớp trắng tinh lúc nào không biết. Nhìn lên thì dường như những bông hoa trắng đã thình lình nở rộ, tr.735. - Tuyết ướt chăng, hay tuyết cùng với mưa; Chắc là tuyết nhẹ thôi; Tuyết đấy, nhưng chưa hẳn. Nó rơi hầu như không có tiếng động tr.735. - Bụi tuyết sẽ trút xuống, rồi ngừng, rồi lại lần nữa… Naeko đã đoán đúng: hồi đêm có tuyết nhẹ rơi. tr.736. - Những bông tuyết rơi xuống tóc Chieko và tức khắc tan ra, tr.737 - Được tin sáng nay Kyoto có chút băng đóng, tr.816. - Minh họa mấy con choi choi chơi đùa trong tuyết, tr.827. - Nhưng nhìn kĩ hóa ra là một dãy núi tuyết, tr.840. - Ý niệm lạnh của tuyết phối hợp với cái ấm của màu Keiko dùng để vẽ tuyết; Keiko không vẽ tuyết bằng màu trắng, tr.841. - Đó là một đêm tuyết mỏng rơi, tr.572. - Eguchi thấy mưa bụi đã biến thành tuyết mỏng; Ông nhận ra

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Người đẹp say ngủ

Hồ

Cố đô

Hoa anh đào

những nụ tuyết trắng dưới chân mình, tr.786. - Thay bằng bức tranh khác vẽ cảnh tuyết mùa đông, tr.787. - Tuyết rơi rất nhẹ hòa lẫn với mưa rì rào; Những nụ tuyết trắng rơi xuống rồi tan đi, tr.791. - Và đêm nay lại gặp mưa tuyết; Cái lạnh lẽo của cơn mưa tuyết đang rơi bên ngoài; Mưa tuyết thế nào rồi, tr.793. - Cỏ úa tàn và tuyết cũng phủ đầy, tr.128. - Thậm chí cả vào những hôm tuyết phủ dày, tr.132. - Mặc dù tuyết ở trên phố đã tan hết, song tuyết ở đây vẫn còn; hất hết cả chỗ tuyết cào được; Phía trong cổng tuyết chất thành đống; đang bị vùi lấp dưới tuyết, tr.133. - Giữa tháng ba rồi mà trận tuyết bắt đầu rơi, phủ một lớp dày; Gimpei đội tuyết đến chỗ trọ của Nishimura, tr.154. - Xinichi mời Chieko đi xem hoa anh đào nở ở chùa Heian Dgingu; Cho biết hiện giờ anh đào đang giữa kì nở rộ; Gặp nhau trong vườn chỗ rặng anh đào; Ngắm hoa một mình; Anh đào nở làm sao chán được; Hoa sẽ rụng mất; Cảnh hoa rụng cũng rất tuyệt; Cánh hoa vấy bùn; Đấy là cánh hoa rụng ư? tr.584. - Trồng cam, chanh và anh đào vậy; Những cây anh đào đã tô điểm cho khu vườn; Duy chỉ có anh đào thủ thỉ cùng ta; Không sao rời mắt khỏi rặng anh đào rủ; Những đóa hoa sắc hồng đẹp lạ lùng; Ngắm hoa; tr.585. - Tôi có ý định dạo khắp những cây anh đào đã ra hoa; Những cây anh đào đã nở; Cành cây buông rủ, bị những đóa hoa kép màu hồng kéo trĩu; Nâng đỡ cánh hoa; Anh đào ở đây tốt lạ thường; Sừng sững một cây anh đào nở rộ; Say mê ngắm cái cây; Cành cây mềm mại; Những đóa hoa dịu dàng; Trên cây đào hùng vĩ là những đóa hoa kép màu hồng phơi sắc tím, tr.587. - Gần hồ anh đào không mọc; Cây anh đào đầy hoa in bóng trên mặt nước hồ, tr.588. - Giá một khi không có anh đào ra hoa; Những đóa anh đào phớt hồng; Dù sao thế gian cũng chẳng còn gì đẹp hơn anh đào nở hoa,

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

tr.589 - Hình bóng những cây anh đào và thông xao động; Bên kia cầu có một cây anh đào, tr.590. - Cây anh đào đẹp lạ thường; Bên chân nàng mấy cánh hoa; Những bông hoa rụng phủ đầy phía dưới cây anh đào; Những cành cây ngập hoa; Họ đứng dưới cây anh đào, tr.591. - Cha thì nói là dưới rặng anh đào ở Ghion, tr.593. - Anh đào giờ thế nào; Hoa hầu như rụng hết, cánh hoa bồng bềnh cả mặt hồ; Những nhành hoa giữa đám lá non, tr.598. - Đến cả anh đào nở trên chùa Heian Dgingu cũng không xua được nỗi buồn, tr.606. - Cha mẹ đến đấy vào buổi chiều để ngắm anh đào nở; Đứa bé nằm trên ghế băng dưới gốc cây đào; nó đẹp như nụ hoa vậy, tr.610. - Đến Omuro ngắm hoa không?; Ông chồng đã mời bà đi ngắm hoa; Mời đi ngắm hoa thôi mà; Anh đào đang thì nở rộ; Anh đào ở Omuru, chúng khai hoa muộn; Kyoto chưa phải vội chia tay với hoa; Cánh rừng anh đào (khu vườn anh đào thì đúng hơn); Họ quen với việc ngắm hoa anh đào ở Omuro, tr.621. - Những đóa hoa hồng hồng của loài anh đào núi; Ta xem anh đào ở Omuro là đã làm tròn bổn phận với mùa xuân rồi, tr.622. - Một đằng anh đào như cơn bão thực sự bằng cánh hoa, tr.626. - Chúng tôi không kịp cả việc ngắm anh đào cho đến nơi đến chốn, tr.627. - Đáng ra phải tới chỗ cây anh đào trên núi, Xiudzan; Cậu còn nhớ cái cây anh đào già ấy, tr.631. - Họ ngắm anh đào trên núi Xiudzan, tr.633. - Sinh ra ở Gion dưới rặng anh đào nở, tr.639. - Trong công viên Maruyana dưới rặng anh đào nở, tr.640. - Luôn đáp lại với bất cứ thứ hoa gì, tr.690 - Dạo họ đến chùa Kiyomdzu ngắm hoa anh đào, tr.713.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

- Sát trên hàng hiên là một cây anh đào nở hoa, tr.341.

Ngàn cánh hạc Đẹp và buồn Tiếng rền của núi

- Tuy đang mùa hoa anh đào mà nhờ mưa nên vắng du khách; Hoa anh đào núi nở lẫn với lộc non, tr.887. - Đêm đêm ve sầu từ cây anh đào ngoài vườn lại bay vào nhà, Singo bước ra vườn và đến chỗ gốc cây, tr.451. - Sức mạnh kì lạ mà ở cây anh đào không có, tr.459. - Mới giữa tháng một mà cây anh đào trong vườn khách sạn đã nở đầy hoa; Đó là giống hoa anh đào mùa đông, tr.480. - Kỷ niệm 700 năm kinh đô Phật giáo ở Kamakura vào mùa hoa anh đào nở; Được ngồi ngắm hoa anh đào nở và nghe tiếng chuông chùa, tr.494. - Singo chăm chú nhìn những cây anh đào nở ngoài vườn, tr.495. - Singo lặng thinh ngắm nhìn cây anh đào nở đầy hoa; Những cánh hoa đầy đặn và lộng lẫy; Cây hoa dường như vẫn choán hết cả bầu trời; Nó đang ở vào giai đoạn nảy nở rực rỡ nhất, tr.497. - Phía sau lưng các em có mấy cây đào nở đầy hoa. Những cánh hoa bị chìm đi bởi màu sắc rực rỡ của những tấm áo, tr.500. - Nhất định ba sẽ dọn sạch bụi tầm gửi dưới gốc cây anh đào nhà mình; Con biết không chưa bao giờ ba đốn bớt cây anh đào đi cả; Cây đó có những cành nở đầy hoa; Tháng trước ba con mình đã ngồi nghe tiếng chuông chùa vào dịp hoa đào nở, tr.523. - Singo dùng cưa cắt bụi cây dây leo quấn chặt lấy gốc cây anh đào ngoài vườn; nhưng kết quả là bụi dây leo mọc um lên khiến cây anh đào gần như chết ngạt, tr.528. - Suychi chỉ vào mấy chồi anh đào non mới nhú dưới gốc; Chưa chắc bởi vì anh đào lớn rất nhanh, tr.528. - Ông chuyển tia mắt về phía những cành anh đào non đâm ra từ gốc cây; những cành đào non nớt mảnh mai ấy sẽ lớn lên và vươn ra hùng vĩ như thế nào, tr.529. - Xem hoa anh đào đêm ở vườn thú; Ngắm hoa anh đào đêm, tr.72.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Hồ

Xứ tuyết

Suối nƣớc nóng

- Để sau đó đi ngắm hoa anh đào ban đêm ở Oeno; đám cây anh đào cũng mệt mỏi đến độ nhành hoa cũng chẳng chịu vươn ra; Màu cánh hoa vẫn rực rỡ, nom như màu hoa đào; Những cánh hoa đào rụng đầy trên bụi đỗ quyên; những bông hoa của rặng anh đào, tr.76. - Hoa anh đào trải ra miên man, nhóm khách thưởng hoa ngồi quây lại, tr.77. - Tới ngắm hoa anh đào đêm ở Ueno để ăn mừng, tr.90 - Gimpei đang ngồi dưới tán hoa anh đào núi bên bờ hồ, bóng hoa in xuống nước, tr.95. - Ngay cả tiếng hót của con chim nhỏ từ ngọn cây anh đào; Bóng hoa in xuống nước; đôi mắt thẫn thờ; gia đình danh giá bên bờ hồ, tr.97. - Hình ảnh những bông anh đào núi in trên hồ nước hiện lên sắc nét trong tâm tưởng hắn; Hồ nước ấy như tấm gương lớn không một gợn sóng, tr.98. - Cành anh đào đã bắt đầu ra lá ở gần cửa sổ, tr.104. - Tựa như hương thơm cao quý của nụ hoa đang hé nở, tr.138. - Đưa đi xem hoa anh đào đêm ở Oeno, tr.146. - Ở quán trọ suối nước nóng, tr.228. - Anh tới trạm suối nước nóng sau một tuần lễ đi khắp dãy núi ba tỉnh, tr.230. - Chiều hôm ấy sau khi tắm ở trạm nước nóng, tr.231. - Nói cho cùng thì đây chỉ là một trạm suối nước nóng… tr.234. - Vậy ông coi suối nước nóng này là một trong những nơi tầm thường, tr.237 - Khu suối nước nóng chỉ có những người lân cận đến để tắm chữa bệnh, tr.238. - Người đàn bà trẻ nhìn con thác chảy ở xa xa trong ánh mặt trời đã tắt, tr.240 - Trong cảnh yên tĩnh thanh bình, tiếng nước chảy rào rào trên sỏi của dòng thác xa xa vọng tới, tr.241.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Tiếng rền của núi

Cánh hạc

Hồ Ngàn cánh hạc

- Bà bị liệt và chính là để chữa bệnh mà bà trở về khu suối nước nóng, tr.257. - Còn gì tầm thường hơn là nghe bà tẩm quất ở một trạm suối nước nóng chuyện phiếm về các cô geisha, tr. 261. - Cô thường xuyên tắm ở suối, ham chuộng những hiệu quả thâm nhập bền bỉ của nước nóng, tr.291. - Nước tắm ấm thấm vào người cô, đem lại tính tình vui vẻ, đáng yêu, linh hoạt, tự nhiên, tr.310. - Mà trạm nước nóng lại ở ngay trên xứ sở của vải Chijimi, phía xuôi thác nước, tr.324. - Những ngôi nhà nằm cách nhau và tiếp nối dưới kia với ngôi làng của Komako và suối nước nóng; Ở cửa hàng bình dị bên bờ sông được hình thành từ dòng thác chảy xuống trạm nước nóng, tr.237. - Quay trở lại trạm nước nóng, anh cũng chẳng hiểu tại sao đã rời bỏ nó, tr.328. - Hay là con phải nấu canh ở suối nước nóng; Suối nào? Thì suối nước nóng sôi sung sục ấy; Có phải người ta vẫn luộc trứng và hấp bánh ở suối nước nóng như vậy không? Được ăn món canh rau nấu ở suối nước nóng thì bố sẽ khỏe mạnh, tr.515. - Hắn nhớ đến cái nhà thổ ở vùng suối nước nóng, tr.150. - Thiếu nữ thu vén mấy chiếc tất rải rác vào trong chiếc khăn có in hình ngàn cánh hạc; Cái cô với chiếc khăn có in hình ngàn cánh hạc ấy, tr.345. - Có vẻ không thích hợp thế nào trong việc gặp cô gái với chiếc khăn in hình ngàn cánh hạc trước mặt bà Ota, tr.348 - Cô gái với ngàn cánh hạc đứng lên, tr.349. - Chàng có thể hình dung ra chiếc khăn màu hồng với hình vẽ bầy hạc trắng trên đó, tr.359. - Hình ảnh người con gái với chiếc khăn in hình ngàn cánh hạc trở lại trong tâm trí chàng, tr.364. - Cô gái với chiếc khăn màu hồng có vẽ bầy hạc trắng trong tay.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Hồ

Xứ tuyết

Gƣơng, mặt trăng, tấm kính, mặt hồ, dải Ngân Hà,

Chàng có thể nhìn rõ bầy hạc trắng và chiếc khăn đó, tr.368. - Bầy hạc trắng in trên chiếc khăn choàng của cô gái nhà Inamura bay ngang qua vầng mặt trời và chúng ngự trị trong mắt chàng, tr.383. - Chiếc khăn choàng với ngàn cánh hạc trắng - tất cả những hình ảnh đó trôi dạt vào tâm trí chàng với một vẻ trong sáng, tr.417. - Chị đã gấp những con hạc giấy và cùng mẹ đem đến treo ở điện thờ này, tr.77. - Nàng vặn kính cửa sổ, áp chặt hai bàn tay vào đôi má ửng hồng, tr.222. - Giơ thẳng một ngón tay, anh vạch nhanh một đường trên mặt kính cửa sổ mờ hơi nước; xuất hiện một con mắt phụ nữ; bóng cô gái phản chiếu trên mặt kính, đèn trong toa tầu đã bật, cho nên kính cửa sổ chẳng khác gì một tấm gương; Con mắt mà Shimamura trông thấy có vẻ đẹp kì lạ, tr.223 - Shimamura hiểu rằng đó cũng chính là sự căng thẳng ở con mắt đăm đăm của nàng, tr.224; Nên qua kính cửa sổ anh chỉ nhìn thấy hình trông nghiêng; Chắc hẳn anh có cảm giác ấy vì anh nhìn sự việc phản chiếu trong một tấm gương; giống như cái nền di động ở đáy tấm gương, tr.224. - Đèn trong toa tàu không sáng nên những gì mà Shimamura nhìn thấy không thể rõ như trong một tấm gương thật; Cảm thấy bàng hoàng khi một ánh lửa tít xa trên núi bỗng loé sáng ở giữa gương mặt đẹp của người đàn bà trẻ, khiến cho vẻ đẹp không thể nào tả xiết ấy đạt tới đỉnh điểm, tr.225. - Con mắt rực sáng ấy như lênh đênh trên đại dương đêm tối; Bóng đêm và tất cả phong cảnh ban đêm đã chiếm lĩnh ngoài cửa sổ, tấm kính đã mất hết sức quyến rũ của một chiếc gương khi đoàn tàu dừng bánh; Khi ánh mắt và ánh lửa trùng khít nhau, thì đó là một vẻ đẹp huyền diệu lạ kì, con mắt rực sáng ấy như lênh đênh trên đại dương đêm tối, và trên những cơn sóng xô nhanh các núi non, tr.226.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

- Người đàn ông đau ốm mà anh đã nhìn thấy trong tấm gương… Nhưng cũng có thể anh chưa thoát được ra khỏi những sự thần diệu của tấm gương, tr.228. - … lại còn có sự ám ảnh quyến rũ của cô gái trong toa tầu, trước tấm gương có nền phong cảnh đẹp… rất gần với chất thơ của hình phản chiếu ở tấm kính cửa sổ toa tầu, tr.235. - Cái màu trắng tít sâu trong gương đó là màu tuyết, ở giữa đó rực đỏ đôi má người đàn bà trẻ. Vẻ đẹp của sự tương phản ấy cực kì trong sạch, nó vô cùng dữ dội vì nó sắc nhọn và sống động, tr.252. - Hình ảnh Komako trong gương, màu đỏ của má cô trên nền tuyết trắng rõ ràng làm anh nhớ tới hình ảnh người đàn bà trên tàu, phản chiếu của nàng trong tấm kính cửa sổ toa tàu, tr.255. - Shimamura vẫn còn bị ám ảnh bởi ánh mắt liếc xéo kia… trong cánh cửa kính của toa tầu… rồi sáng nay nó lại hòa trộn vào sự thần kì trong tấm gương khi đôi má của Komako rực lên trên nền tuyết trắng, tr.258. - Không, cửa kính của toa tầu mà màn đêm đã biến thành một tấm gương hay cái gương tràn ngập màu trắng của tuyết không còn là sản phẩm của bàn tay con người nữa…, tr.259. - Ánh mắt cô ướt và sáng một cách ngây thơ lại càng non trẻ; đôi mắt cô vẫn là đội mắt của một thiếu nữ mới lớn, gần như của một đứa bé, tr.270. - Komako đứng lại đó, nhìn qua cửa kính đóng kín, qua lớp kính của buồng toa… một ánh phản chiếu thoáng hắt vào ô cửa sổ; Màu đỏ của má cô đã trở nên phi thực, cũng bừng lên như màu đỏ rực giữa nền tuyết chói mắt trong tấm gương buổi sáng hôm xưa, tr.278. - Nơi mặt trăng có màu sắc lúc cuối ngày; mặt trăng đã mất sắc nhạt của ánh sáng ban ngày; Khí nóng của hơi nước làm mặt kính cửa sổ hơi mờ nước; kính cửa sổ lại bắt đầu biến thành tấm gương… vẫn còn kém xa một tấm gương, nó phản chiếu những

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

hình bóng lờ mờ của hành khách, tr.279. - Phía sau nàng, trăng sáng rực rỡ rõ đến cả vành tai của nàng. Trăng tuôn ánh sáng vào phòng khiến những chiếc chiếu cũng loáng cả lên thứ màu hồ thuỷ lạnh, tr.288. - Cô dịch bàn trang điểm nhỏ về phía cửa sổ và dưới ánh nắng thu, tấm gương phản chiếu lá đỏ của núi non, tr.293. - Đôi mắt thơ ngây kia, đôi mắt của Yoko có thể rọi sáng đến đáy của những chuyện đó, tr.306. - Khi ngẩng lên nhìn anh, mắt nàng ngấn nước, tr.315. - Kết quả hài hoà của những luật trao đổi của ánh sáng và bóng đêm. Và: “Komako cũng được hình thành từ cái nguyên lí của tạo hoá ấy”, tr.324. - Shimamura ngoảnh lại nhìn qua tấm kính hậu… anh nhìn thấy lấp lánh dưới ánh sáng của những vì sao, tr.328. - Lộ ra màu đỏ gay gắt của tấm áo lốt, chiếu rõ lên tấm kính đóng chặt, chính nó đã sưởi ấm trái tim Shimamura; Rồi gương mặt của Komako dính chặt vào kính; Cô hét lên qua ô kính đóng, tr.329. - Ồ, dải Ngân Hà, đẹp quá; Dải Ngân Hà… anh ngước mắt nhìn lên; như cánh cung hòa bình bắc qua đại dương sôi sục; Ngay trên đầu anh, dải Ngân Hà nghiêng cái vòng cung xuống; Shimamura thoáng gợn như tự phô bầy ra hình bóng của chính mình được nhân ra vô số như các vì sao cũng từng được nhân ra vô số trên cao; Đến tận cái tia phản chiếu soi bóng những đám mây; Cái dải băng vô cùng tận đó; Phía sau ánh sáng của dải Ngân Hà tỏa xuống; ánh sáng gợi cảm của những vì sao chiếu trên tuyết, tr.332. - Anh lại nhận ra dải Ngân Hà; dải Ngân Hà? Đẹp tuyệt, phải không; Cái vòng cung lấp lánh bổ nhào đúng vào hai người đang chạy; Cái vầng sáng kì diệu vắt ngang trời ấy; khi nó được chiếu rực rỡ của dải sao có khi sáng hơn cả trăng rằm; Cái quầng sáng của dải Ngân Hà kia nào có soi sáng nổi bóng một ai trên mặt đất; cái ánh sáng ma quái của nó; Dưới cái vòm ánh sáng bao la; dải

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Cố đô

Ngàn cánh hạc

Ngân Hà dâng sáng ngập người anh, tr.334. Shimamura thấy tấm voan phủ lộng lẫy của dải Ngân Hà bị xé toạc; Shimamura nhìn lên giữa lòng dải Ngân Hà, tr.337. - Dải Ngân Hà tuôn chảy lên anh trong cái thứ tiếng thét gầm dằn dữ, tr.339. - Chiếc gương Komako: “Ánh sáng ma quái của nó khiến gương mặt Komako có vẻ kì lạ như một mặt nạ cổ xưa, phía sau đó lại hiện rõ một sắc mặt đầy nữ tính”, tr.344. - Hồi tưởng đến thứ ánh sáng kì diệu, hun hút trên tầng cao của núi non, vừa chiếu rọi nét mặt đầy gợi cảm của Yoko, trong tấm gương hoàng hôn của ô cửa sổ, lúc anh tới đây để gặp Komako. - Hình ảnh Chieko và Naeko cứ hoà làm một trong mắt anh, tr.697. - Em hoàn toàn không phải là hình bóng, không phải là ước vọng. Em là chị em sinh đôi với chị, tr.727. - Đôi mắt người đàn bà như hai hũng sâu; đôi mắt đầy cầu khẩn dàn dụa những nước mắt và nước mắt, tr.376. - Đôi mắt bà Ota ướt đầm, tr.378. - Đôi mắt người đàn bà khép lại; một giọt nước mắt nhỏ ra từ khóe mắt người đàn bà, tr.380. - Kikuji ngồi bên điện thoại với đôi mắt nhắm nghiền. Chàng trông thấy mặt trời về chiều; vầng mặt trời hiện ra sau dãy cửa sổ xe lửa; Vầng mặt trời dường như sắp rơi xuống; Vầng mặt trời đang trôi nổi trên các cành cây, rơi vào đôi mắt mệt mỏi của chàng và chàng khép chúng lại; Bầy hạc trắng in trên chiếc khăn bay ngang qua vầng mặt trời chiều và chúng còn ngự trị trong mắt chàng, tr.382-383. - Đôi mắt chàng nhắm nghiền, tr.384. - Đôi mắt Kikuji chiếu thẳng vào mắt Chikako; đôi mắt nhỏ của cô ta hướng về phía chàng, tr.404. - Đôi mắt màu đen xám của nàng ngước lên nhìn Kikuji một lát, nhìn xuống chén Karatsu; đôi mắt dán chặt trên cổ tay, tr.434.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Đẹp và buồn

- Một vì sao lớn chiếu những tia sáng; đã nhiều năm giờ chàng mới nhìn thấy sao hôm, nhìn sững sờ vì sao và mây bắt đầu kéo đầy trời; Ngôi sao trở nên lớn hơn, sáng long lanh qua lớp sương mù buổi sáng. Ánh sao trông thật tươi mát; giữa ánh sáng của ngôi sao hôm và cái việc tìm kiếm mảnh vỡ của chiếc chén có sự tương phản; Khi bắt gặp ngôi sao hôm, chàng liệng những mảnh vụn đi; Ngước lên nhìn trời; Không một vì sao; ngôi sao hôm đã biến mất, tr.435. - Chàng chẳng biết ngôi sao nằm chỗ nào, tr.436. - Ông đứng dậy bước tới gương; Trong gương cô bé kề má lại với ông, tr.815. - Otoko ngồi ngoài hiên ngắm trăng; Ngắm hình ông trăng phản chiếu trong bát, tr.845. - Hay là đi Otsu ngắm trăng trong hồ Biwa; Trăng trong hồ Biwa thì có gì mà ngắm; Cô không nghĩ như vậy còn hơn ngắm trăng trong bát rượu sao; Tối nay gần nửa vườn dãi trăng; Nàng cúi đầu trầm tư ngắm mảnh vườn dãi trăng, tr.846. - Ánh trăng lờ mờ chiếc sáng mấy ô cửa giấy, tr.856. - Ông trăng soi hình vào trong bát, tr.858. - Cô gái có vẻ rất hứng thú vì hội trăng rằm tối nay, tr.859. - Đứng trước gương trong xưởng vẽ, Keiko mở ví trang điểm lại khuôn mặt, tr.879. - Keiko vẫn đứng trước gương, tr.880. - Keiko quay đi, mặt nàng phản chiếc trong gương, tr.881. - Nhìn lại gương, Otoko ngắm tóc mình, tr.882. - Người ta tìm thấy một tấm gương nhỏ hơn tấm danh thiếp; Người viết nghĩ di vật có thể là cái gương bỏ túi hay là tấm ảnh, tr.905. - Với bà mẹ con gái là tấm gương phản chiếu lại Oki, Với Otoko, bà mẹ lại phản chiếu lại cố nhân của nàng; Và mẹ cũng như con thấy chân tướng mình trong chiếc gương phản chiếu này, tr.921. - Gimpei không biết tự lúc nào đã áp mình vào ô kính; Hắn gần

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Hồ

như tì trán vào tấm kính; Bóng cô gái in trên ô kính, tựa như đang lồng vào những đóa hoa bên kia tấm kính, tr.25. - Gimpei chống bàn tay phải vào tấm kính lớn của ô cửa sổ; sợ cánh tay phải sẽ tì vỡ tấm kính bị chảy máu, tr.26. - Gimpei vừa cảm thấy cánh tay mình sắp tì vỡ tấm kính rộng như mặt hồ; hình ảnh mặt hồ đóng băng bất chợt hiện lên trong tâm trí. Đó là hồ nước làng mẹ hắn. Bên bờ hồ còn có một thị trấn; Hơi sương nghi ngút trên hồ; phía bên kia lớp băng; ẩn giữa màn sương; Cùng bước đi trên mặt hồ đóng băng; mong cho lớp băng vụn vỡ để Yayoi rơi xuống hồ; tr.27. - Bóng hai đứa kề vai in dưới mặt hồ; bóng hai đứa in trên mặt nước; Điều ước thầm cho lớp băng dưới chân vụn vỡ; Hồi tưởng lớp băng trên mặt hồ từ tấm kính cửa sổ, tr.28. - Tatsu mở tròn hai con mắt rất nhỏ, Mắt của Tatsu, kiểu tròn như mắt bồ câu; đôi mắt nhỏ; bắt gặp đôi mắt Tatsu, màu mắt nâu nhạt, trong suốt, cảm giác lạnh lẽo, tr.46. - Ngôi nhà bên bờ hồ, tr.84. - Bên bờ hồ, nghe tiếng nước buồn thảm trong màn đêm, tr.85. - Đôi mắt đen của cô gái sáng long lanh, đôi mắt cô tựa như một hồ nước đen, tr.89. - Hắn muốn được bơi trong đôi mắt trong veo ấy, bơi trong hồ nước đen ấy; vẻ lấp lánh như nước sẫm trong đôi mắt đen; ước gì anh được nhìn thấy đôi mắt Machie mở to vào buổi sáng; không thể là đôi mắt ngái ngủ, tr.90. - Nhật Bản là một đất nước tuyệt vời bởi những đôi mắt đen thế này; Đôi mắt đen thẳm ấy tôn vẻ đẹp của lông mày và mi. Tóc cũng phản chiếu màu mắt, tr.91. - Hồi đó mắt em to và tròn hơn; Hướng đôi mắt đen về phía Mizuno, tr.92. - Nhắm mắt lại, thấy hiện ra ảo ảnh, lướt qua trên mặt nước; Gimpei đang ngồi dưới tán hoa anh đào núi bên bờ hồ, bóng hoa in xuống nước; Cha Gimpei chết ở hồ nước, tr.95.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

- Người ta đồn rằng ông bị ai giết và ném xuống hồ; hồn ma cha thường hiện ra bên bờ hồ; đi qua bờ hồ sẽ thấy tiếng bước chân bám theo, tr.96. - Hình ảnh những bông anh đào núi in trên hồ nước hiện lên sắc nét trong tâm tưởng hắn; Hồ nước ấy như tấm gương lớn không một gợn sóng, tr.98. - Màu hồng nhạt nhòa trong đôi mắt đang nheo lại, tr.101. - Phố xá nhìn qua kính xe nhuốm màu xanh nhạt; Qua lớp kính xe là màu xanh, qua cửa sổ ghế lái đã hạ kính là màu hồng, tr.102 - Qua lớp kính cửa sổ hành lang; đã trở thành một con mắt của thiên hạ, tr.104. - Hướng đôi mắt về phía Gimpei, đôi mắt ấy, ánh mắt cô như muốn Gimpei nhìn vào chúng, tr.105. - Hôm nào trăng đẹp, em lại tự hỏi thầy có đang ngắm trăng hay không, tr.113. - Ánh trăng đổ bóng xuống mặt đường nhựa, tr.118. - Hồ nước làng mẹ, hắn thường theo mẹ ra hồ bắt đom đóm, tr.119. - Ở vùng hồ làng mẹ hắn, khắp mặt hồ rồi tắt lịm; hồn ma của người cha đã chết bên hồ; mặt hồ đêm; vùng nước sâu; nước hồ được soi sáng, tr.121. - Nhìn như nguýt Gimpei với ánh mắt long lanh, tr.122. - Gimpei cố nhớ lại những con đom đóm từng nhìn thấy ở hồ nước làng mẹ hắn, tr.143. - Đáy bồn tắm biến thành một tấm gương, tr.150. - Con mắt ở đằng sau dần nên sống động; Nhưng con mắt đằng sau của Gimpei cũng không hiểu; Gimpei thấy hiện ra trước mắt; Ánh mắt hai bên dội vào nhau như dò xét, tr.161. - Tia sáng từ đôi mắt khô khan và sắc nhọn; Một bên mắt lại quá nhỏ, tr.162. - Từ ngôi Thanh tâm đình - nơi cử hành nghi lễ trà đạo, tr.587. - Cô bạn học nghi lễ trà đạo với tôi, tr.588.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Cố đô

Biểu tƣợng của Trà đạo

Ngàn cánh hạc

- Dưới nhà ngang trong chùa đôi lúc cũng tiến hành nghi lễ trà đạo, tr.595 - Dựng các đình quán dùng cho nghi thức trà đạo, tr.635. - Các vị ni cô chùa Thanh Thiên Sen có bày nghi thức trà đãi du khách; Nếu có thể gọi cảnh uống trà như thế là nghi thức; Nghiêm thủ mọi quy tắc thì riêng việc uống trà đã hết bao nhiêu thời gian, tr.686. - Chàng không biết có nên hay không nên đến dự buổi trà đạo; Mỗi lần Chikako tổ chức trà đạo tại túp lều dành cho buổi trà đạo; Xem mặt một thiếu nữ vốn là học trò về môn trà đạo của mình, tr.340. - Cô ta bước đến lò nấu trà; Cô ta đến đây dạy tôi môn trà đạo, tr.341. - Sở dĩ cô ta tổ chức buổi trà đạo là cốt có lí do, tr.343. - Tại buổi trà đạo hôm nay; Đến cái lều mà Kurimuto tổ chức trà đạo; Họ cũng trên đường đến dự buổi trà đạo như chàng; Là chàng đang đi đến chỗ tổ chức trà đạo đấy thôi, tr.344. - Đồ sứ uống trà do Chikako mang lại; Tại một góc nhà người đầy tớ gái đang lau chùi một món đồ; Đã có cái lệ là ai cũng có thể tham dự vào các buổi trà đạo, tr.345. - Cô ta thường đến đằng nhà chàng để giúp việc trong bếp mỗi khi có tổ chức trà đạo; thành công một cách khiêm tốn với tư cách một người dạy về môn trà đạo; một người bạn cùng chia sẻ với mình trong các buổi trà đạo; Cha Kikiji đã lãnh trách nhiệm coi sóc bộ sưu tầm đồ sứ uống trà, tr.346. - Chính bà Ota kia đến túp lều Chikako tổ chức trà đạo, tr.347. - Cậu đang học về môn trà đạo có phải không? Cô vui lòng pha trà cho cậu Mitani; mời cô gái pha trà cốt ý để chàng quan sát nàng kĩ, tr.349. - Dùng cái chén nào? Cái chén Oribe được đấy, cái chén đó trước là của cha chàng, ông ấy rất thích cái chén đó; Kikuji nhớ chiếc chén uống trà; Quả thật chiếc chén này ngày trước là của cha

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

chàng và chính bà Ota là người cho ông chiếc chén đó; Khi nhìn thấy tại buổi trà đạo chiếc chén uống trà đã từng được nâng niu rồi chuyển đến tay Chikako; nàng đặt chén trà trước mặt Kikuji; Uống trà xong, Kikuji nhìn vào chiếc chén. Chiếc chén Oribe màu đen, điểm trắng ở một bên chén; một trong những chiếc chén tốt nhất để dùng vào dịp đầu xuân, tr.350. - Chỉ làm chủ cái chén trong một thời gian; Cái chén đó đã có bốn trăm tuổi; Những vị tổ sư của môn trà đạo đã coi sóc giữ gìn chiếc chén; quên đi cái liên hệ mà chiếc chén gợi lên; chiếc chén được truyền đi; chiếc chén cuối cùng về tay Chikako; Sự có mặt của chiếc chén uống trà; đều nâng chén trà lên và kề môi uống; tôi có thể dùng trà trong chiếc chén Oribe; lần trước tôi dùng chiếc chén khác; dâng trà cho bà; lịch sử của chiếc chén Oribe màu đen; đây là buổi thực tập trà đạo; Hơi sáng quá với một túp lều dùng cho các buổi trà đạo; chiếc khăn kê trà màu đỏ, tr.351. - Tôi thấy tội cho cô ta trong buổi trà đạo, tr.354. - Cô gái ngồi bên trái bà trong buổi trà đạo trưa nay, tr.358. - Tại sao cô lại chấp nhận để bác gái đợi tôi sau buổi trà đạo của Kurimoto? Tr.361. - Hôm nay là ngày ông thường tổ chức trà đạo mỗi năm, tr.364. - Cái lều dùng để tổ chức trà đạo… tôi lau chùi cái lều; cậu cho phép tôi lau chùi lại túp lều; Kikuji đã không sử dụng đến túp lều vẫn được ông dùng làm nơi tổ chức trà đạo; thỉnh thoảng đến ngồi trong túp lều đó; đem nước sôi pha trà; Kikuji chăm sóc túp lều; thỉnh thoảng mẹ chàng mới đến thăm túp lều; Đóng cửa lều từ ngày mẹ mất; người đầy tớ thường mở cửa túp lều; lần cuối quét dọn túp lều…, tr.365. - Không ai trong số bạn của tôi thích uống trà; dọn dẹp lều và bày hoa, tr.366. - Tôi nghĩ mời nàng ra túp lều là hơn cả, tr.369. - Kikuji ra ngoài lều thu dọn dụng cụ đã dùng, tr.370. - Từ phòng khách đến túp lều ngoài vườn; hương thơm của nàng

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

còn vương vất trong lều, ra thăm lều lúc nửa đêm; túp lều đã được dọn, chỉ còn việc cất đi những đồ dùng, tr.371. - Người đầy tớ mang than và ấm nước pha trà, túp lều có vẻ hoang lạnh, chàng không định pha trà uống, tr.372. - Kikuji bỏ than vào lò và đặt ấm nước lên đó; chàng luôn có mặt bên cha trong những cuộc trà đạo; tôi có nghe nói hôm nay là ngày cha anh thường tổ chức trà đạo; Dù học các nghi thức của trà đạo thật đấy; đến đây dọn dẹp túp lều, tr.373. - Sau khi rót trà, đem khay trà của cô ngồi vào bàn; tôi tự thấy không xứng đáng trong túp lều của ông Mitani, hoài niệm về cha Kikuji và túp lều, tr.374. - Chikako sửa soạn đồ uống trà, mẹ chàng và chàng đều nghĩ về túp lều theo cảm quan của mỗi người, tr.375. - Trong túp lều này phải không; Quả là túp lều xinh xắn; thỉnh thoảng đến đây uống trà; chúng ta uống trà chứ; muốn uống một chén; hai chén trà và những dụng cụ khác; cái ấm đun nước, chiếc đũa tre khuấy trà, cái ấm trà, chiếc ấm đun nước đã từng là vật sở hữu của chồng người đàn bà; không thể mang trà đến; pha trà; tự đến lấy chén trà; Kikuji đến bên lò sưởi và nâng ly trà lên uống, tr.379-380. - Chiếc bình Shino, hình như đây là cái bình đựng nước pha trà; chiếc bình nàng dùng cắm hoa; đó là chiếc bình đựng nước trong các cuộc trà đạo; tôi cho là dùng bình đó hợp hơn cả; Một chiếc bình Shino khá đẹp; dùng như cái bình cắm hoa cho đám tang, chiếc bình có phần hơi nhỏ, tr.834. - Hình chụp được trong một buổi trà đạo, tr.386. - Hình ảnh người đàn bà đang pha trà; khi bà Ota khuấy trà, nước mắt rơi trên thành ấm, chàng tự lấy trà uống, không mang trà cho chàng, chàng uống trà, tr.386. - Xoay câu chuyện sang chiếc bình Shino, chàng quỳ trước chiếc bình, như nhìn những bình trà khác; mặt bình nhẵn bóng và mát rượi; vẻ đẹp của chiếc bình Shino này; chiếc bình đó không tệ

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

đâu; tôi không dùng để đựng nước pha trà. Tôi sẽ biến nó thành bình cắm hoa; mẹ tôi cũng dùng bình đó để cắm hoa; không cắm hoa trong các cuộc trà đạo, tôi nghĩ đến việc bỏ trà, tr.387. - Một chiếc khay có hai cái chén: chén Raku màu đỏ và một chiếc Raku màu đen; tôi chắc là Ryonyu; hình như đây là mmột cặp, tr.389. - Cặp chén Raku đào sâu thêm mối phiền muộn, dường như sự mơ tưởng cũng có mặt ở đây trong cặp chén Raku, tr.391. - Chiếc chén Raku đỏ gần đụng tóc nàng; cái bình Shino; Shinno cắm hoa vào bình Shino, tr.393. - Tôi đã cho hoa vào bình Shino, Một buổi trà đạo? Không hẳn là một buổi trà đạo, song thực uổng nếu không dùng chiếc bình để đựng nước pha trà, tr.394. - Cô ta đang chăm chú nhìn vào chiếc bình; Cái bình Shino của bà Ota đấy; cậu có đủ mọi dụng cụ uống trà, tr.395. - Tôi ra ngoài túp lều; dường như mờ đi trong sương cùng với chiếc bình Shino, tr.396. - Kikuji không biết tí gì về loại hoa dùng trong trà đạo; dẫu sao để dùng cho buổi trà đạo buổi sáng; Chứa trong chiếc bình đã truyền tay ba thế kỉ, chiếc bình Shino ba trăm tuổi; chàng định cắm thược dược vào bình Shino, tr.397. - Khi Fumiko cho chàng chiếc bình thì mùa hoa thược dược đã qua rồi; Chiếc bình Shino đứng trơ trọi giữa góc nhà; khi nhận chiếc bình, chàng đã cắm hoa; ngay cả khi chàng chỉ cần sờ tay vào chiếc bình, tr.398. - Chàng bỏ chiếc bình Shino vào hộp; Chiếc bình Shino mà cô cho; một cái chén uống trà hình trụ, mẹ tôi dùng để uống trà; Thoạt đầu cái chén Shino hơi đỏ; tôi nhìn vào cái chén… có vết đỏ đậm ở một chỗ trên vành chén, tr.400. - Tôi nghĩ là tôi có thể được phép dùng chiếc bình Shino, tr.406. - Tôi có mang theo chiếc chén Shino; Nàng đặt cái chén được gói; Bác gái dùng chén Raku để uống trà; dùng chiếc chén Ruka dù là

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

màu đen hay màu đỏ để uống trà thường, mẹ tôi dùng cái chén này; chiếc chén Raku; Kikuji ngồi lặng trước chén Shino; vẫn không đưa tay cầm chiếc chén Raku lên; chiếc chén y hệt lời Fumiko mô tả; vành chén hơi ngả nâu, tr.407. - Vành chén bị nhuộm bởi màu trà; vòng quanh lưng chén là hình vẽ lá cỏ rậm rạp; chiếc chén có vẻ cân đối; Kikuji nâng chén lên; một cái chén uống trà dành cho phụ nữ; chiếc chén có vết son; chàng xoay xoay chiếc chén trên đầu gối; nàng bỏ chiếc chén vào hộp; có ý biếu chàng chiếc chén; nàng kết luận là chàng không thích chiếc chén đó, tr.408. - Chiếc bình đựng nước của bà Ota; Cô không thể dùng chiếc bình khác ở đây sao; tôi muốn dùng chiếc bình đó; Tôi đề nghị dùng chiếc bình Shino của mẹ cô; Kikuji mang chiếc bình Shino ra, tr.409. - Chikako tốn ít thời gian thu dọn túp lều; bày chiếc bình Shino; Cả hai cùng nhìn vào chiếc bình Shino; chiếc bình đóng vai trò một cái bình cắm hoa; một cái bình đựng nước trong buổi trà đạo; một cái bình thuộc quyền sở hữu của bà Ota; trước khi chiếc bình trở thành vật sở hữu, tr.410. - Bên cạnh chiếc ấm sắt, chiếc Shino trông đẹp; màu nóng của bình rực lên; chàng ngắm chiếc Shino; Kikuji đẩy rộng các cửa lều, Kikako chăm chú nhìn chiếc bình; các người không thể đem lại sức sống cho cái bình, trừ phi các người muốn dùng nó cho các buổi trà đạo; Chắc bà ấy sẽ sung sướng khi nhìn thấy chiếc bình Shino; Chikako nhìn quanh lều, tôi từng có mặt ở tất cả các túp lều khác; Chúng ta nên có một buổi trà đạo, tr.411. - Túp lều này luôn có mùi một thứ chất độc mốc meo; buổi trà đạo có thể sẽ làm tan biến chất độc đó; tôi sẽ tổ chức buổi trà đạo; tôi hạn chế liên hệ giữa tôi và trà đạo; đến đây để dọn dẹp túp lều; khuấy trà bằng một cây đũa tre; khuôn mặt mẹ cô trong chiếc bình; Kikuji uống trà rồi đặt chén xuống, đưa mắt nhìn chiếc bình Shino, tr.412.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

- Cô Inamura tổ chức một nhóm trau dồi môn trà đạo; tôi phải đưa nhóm đó đến túp lều này; Nàng cầm chiếc bình Shino và đi vào trong; Cô đem chiếc bình Shino của mẹ cô phải không? tr.414. - Ở Kyoto, tại nhà thầy dạy môn trà đạo, cô gặp một tay buôn bán đụng cụ uống trà, tr.415. - Chikako để nàng sửa soạn trà trong buổi trà đạo, tr.417. - Nếu cậu đang học về môn trà đạo, cậu sẽ không thể chấp nhận một chuyện như vậy, tr.418. - Chén trà của Kikuji là một chiếc chén Shino hình trụ; đôi mắt của Fumiko cũng hướng về phía chiếc chén; anh vẫn dùng chén này à; Xin lỗi vì đã biếu anh cái chén Shino xấu xí như vậy; Đó không thể là cái chén Shino đẹp được, mẹ tôi dùng để uống trà thường ngày; chàng nâng chiếc chén lên; còn nhiều chiếc chén Shino đẹp hơn, cái chén này gợi cho anh nhớ chiếc chén kia và cái kia đẹp hơn; chiếc chén Shino nhỏ; anh không có chiếc chén đó trong tay, những chiếc chén kia đến trong trí anh khi anh dùng chén này; anh nghĩ chiếc chén kia đẹp hơn, tr.428. - Mỗi ngày rời xa môn trà đạo; nhìn thấy một cái chén trà; anh hẳn phải trông thấy nhiều đồ sứ đẹp hơn; yêu cầu anh đập vỡ chiếc chén này đi; đập vỡ cái chén này? Chiếc chén này xuất thân từ lò chế tác Shino cổ điển; chỉ là chén ăn cơm trở thành chén uống trà; Kikuji có chiếc chén trong tay; cái chén màu nâu nhạt; có lẽ đó là màu đỏ của chính chiếc bình Shino; chiếc chén dùng nhiều quá, dùng cái chén đó nhiều hơn cả; nó trở thành cái chén uống trà thường ngày của bà, sử dụng chiếc chén thường xuyên, Ota và cha chàng dùng hai chiếc chén Raku hình trụ, như cặp chén trà “chồng vợ”, tr.429. - Có phải cha chàng bảo bà Ota dùng chiếc bình Shino cắm hoa, rồi lại bảo dùng chiếc chén Shino để làm chén uống trà; Chiếc bình và chiếc chén đã về tay Kikuji; tôi mong anh đập cái chén đi; anh thích cái bình tôi biếu anh; tôi nhớ cái chén Shino, nó hợp với cái bình hơn; lẽ ra tôi không nên dùng cái chén đó uống trà, có

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

nhiều chén đẹp hơn; Anh uống trà bằng chén này và anh sẽ nghĩ đến cái chén khác; Chiếc bình là nhân chứng của nó; một vẻ ấm áp của chiếc bình; có lẽ vì chiếc bình đẹp quá; chàng ngắm chiếc bình và thấy muốn gặp Fumiko, tr.430. - Nàng còn một chiếc chén Shino nữa và nàng mang chiếc chén đó đến cho chàng; chiếc chén không đẹp bằng cái bình thật; chiếc chén trong bộ đồ trà của ông hẳn là xấu hơn cái này; Fumiko giục chàng cho xem chiếc chén; tôi chẳng biết bộ đồ uống trà nằm ở đâu; Bộ đồ trà nằm ngay trong tủ cốc tách trà; Kikuji mang bộ trà vào; Chàng nâng bộ đồ trà lên, tr.431. - Một chiếc chén rất đẹp, nàng đặt chiếc chén trên nền nhà trải chiếu; đó là chiếc chén Karatsu nhỏ, hình trụ và giống chiếc chén Shino, có thể dùng uống trà thường ngày; đẹp hơn chén Shino nhiều; vẻ mạnh mẽ của chiếc chén Karatsu, Kikuji nâng chiếc chén lên; tôi đem chén Shino lại đây nhé; Họ để chiếc Shino và chiếc Karatsu gần nhau, bốn mắt gặp nhau và cùng nhìn xuống hai chiếc chén; đúng là chiếc chén của người đàn ông, và chiếc chén của người đàn bà; chiếc chén Karatsu với nền hơi xanh; một chiếc chén rất quý, tr.432. - Chén Kikuji cũng giống mẹ nàng; sự hiện diện của hai chiếc chén tựa như sự hiện diện của hai linh hồn cha chàng và mẹ chàng; những chiếc chén uống trà có đến ba hoặc bốn trăm tuổi; trong cặp chén trước mắt; cặp chén uống trà nằm đây; đối diện với nhau bên cặp chén; sự hiện diện của cặp chén; bản chất của cha đâu phải tìm thú vui trong việc sưu tầm những chén uống trà; Khi cô nhìn thấy chiếc chén; cô quên đi khuyết điểm của người chủ cũ của chiếc chén; Người tớ gái mang một ấm nước và vật dụng khác để uống trà; Họ dùng chiếc chén Shino và chiếc Karatsu bây giờ; Xin phép anh cho tôi được dùng chiếc chén Shino lần cuối cùng; Nàng lấy chiếc đũa khuấy trà; Tay khuấy trà trong chén bằng một chiếc đũa nhỏ; nhấc chiếc đũa khuấy trà ra; nàng nhìn chiếc chén Karatsu; đôi mắt nàng dõi theo chiếc chén

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Đẹp và buồn

Shino của mẹ nàng, chiếc đũa khuấy trà khua vang trong lòng chén; chiếc chén nhỏ, tr.434. - Chiếc chén bị đập vỡ nằm trên phiến đá; miệng chén thiếu một mảnh lớn; Fumiko đã đập vỡ chén Shino; liệng chiếc chén quá mạnh; còn nhiều chiếc chén Shino đẹp hơn thế này mà; so sánh chiếc chén nàng vừa đập vỡ với một chiếc chén Shino khác đẹp hơn, tr.435. - Nghĩ đến việc chôn cất chiếc chén; chàng gói những mảnh chén vỡ vào mảnh giấy; Nàng đã khiếp hãi khi bắt chàng so sánh chiếc chén Shino, tr.436. - Trong trà thất bên cạnh, đèn giấy đặt bốn góc sân thượng; Các trà thất xây sân thượng chìa ra sông; Hai cô gái ngồi đối diện lò sưởi bên trên có treo ấm nước bằng gang, tr.884. - Ngồi trên sân thượng trà thất, Otoko nhớ lại, tr.886. - Đá ướt mưa làm cô nghĩ đến những bình gốm Iga được tráng nước sôi khi pha trà; Keiko chưa bao giờ thấy gốm Iga, tr.887. - Otoko nhìn ánh đèn mấy trà thất bên đường; Thực khách nhộn nhịp trong các sân thượng trà thất, tr.889. - Hai người tới trà thất cuối con hẻm, tr.915. - Keiko tới trà thất Kiyammachi, tr.932. - Ra khỏi trà thất, Keiko gọi tacxi, tr.937. - Sực tỉnh vì tiếng đồ gốm rơi hoặc đổ trong bếp, tr.79. Shimamura

Lữ khách

Hồ Xứ tuyết Cố đô Tachikiro Ngàn Kikuji cánh hạc Đẹp và buồn Người đẹp Oki Eguchi

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Singo

say ngủ Tiếng rền của núi Hồ

Kimono, Obi

Xứ tuyết

Gimpei - Shimamura giật mình khi thấy cô ta mặc áo kimono dài, rốt cuộc cô đã trở thành geisha rồi sao? tr.228. - Cô không mặc áo kimono dài quết đất, nhưng cách ăn mặc vẫn có nét gì giống một geisha, tr.231. - Anh đột ngột quay trở lại, giắt phần dưới áo kimono vào thắt lưng…, tr.239. - Cô lấy thuốc lá từ tay áo kimono ra và đánh một bao diêm, tr.240. - Với một phụ nữ thường thắt khăn lưng rộng như các geisha, tr.241 - Đầu nghiêng một chút và vươn thẳng nên anh có thể trông thấy lưng cô đỏ ửng dưới áo kimono hơi hở ra, tr.246. - Phải mặc ngoài kimono một cái quần miền núi xấu xí, tr.253. - Chiếc kimono cô mặc tối qua treo trên vách, tr.257. - …Đồng thời làm cho hai ống tay dài ở áo kimono bằng len của nàng có vẻ quyến rũ hơn, tr.258. - Nắm hai bàn tay lại đặt lên cổ áo kimono, cô nằm cuộn tròn như một cô bé muốn ngủ, tr.264. - Yoko chính là người đem tới cho Komako một chiếc kimono và cây đàn cùng các bản nhạc, tr.266. - Komako kéo chiếc áo kimono dài lượt thượt lên giắt vào đai lưng, tr.272. - Khi từ biệt để đi ra, lấy tay nâng vạt áo dài kimono lễ phục đen, Shimamura nhận ra cô: đó là một geisha, tr.281. - Shimamura nâng cổ áo kimono lên, tr.287.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

- Thuốc họ mời em, em đều bỏ vào tay áo kimono; Cho dù thân hình có khuôn trong bộ áo cổ truyền thường thấy ở các geisha: háng thì hẹp nhưng bụng lại cồn lên, tr.291. - Người đem chiếc kimono mặc ngày cho Komako lại là đứa con gái của người chủ cũ, tr.293. - Cô vận một bộ kimono màu rất sáng, và được thắt bằng một dải thắt lưng rất nhỏ dành cho đồ lót, tr.303. - “Miếng vải đen quàng trên cổ cố giấu chiếc kimono ở bên dưới, nhờ chất rượu, da thịt cô đỏ rực đến tận bàn chân trần; nhưng khi ra tới cửa thì chân cô dẫm phải gấu áo kimono, tr.304. - Em cứ muốn mặc bộ kimono khác mỗi lần đến thăm anh, nhưng những cái em có, em đều đã mặc hết rồi, tr.308. - Chiếc cổ cứng áo kimono tách xa khỏi cổ lộ ra một khoảng lưng trắng hình quạt hở đến tận vai; cái màu đỏ óng ả phía dưới áo kimono lót chặt vào da thịt, tr.311. - Lấy chân hất chiếc áo dài kimono, cô bước ra ngoài, tr.213. - Trên những chiếc mắc dựa vào vách ngăn, treo thành dãy những bộ kimono của Komako, tr.320. - Áo kimono để mở, đang lấy khan lau cổ, tr.321. - Những miếng vải đã trở nên khan hiếm để may những bộ kimono mùa hè, tr.322. - Một vài bộ kimono của Shimamura được may từ tấm vải dệt do những bàn tay của các cô gái ấy; không những anh tin chắc những bộ kimono của mình đã trút lại đấy những vết bẩn, vết cáu dơ của mùa hè; anh cũng chẳng lấy gì làm chắc chắn những bộ kimono kia được tuyết tẩy trắng theo lối cổ truyền, tr.323. - Vận những bộ kimono gai mùa hè; Shimamura nào phải loại người có sáng kiến đi nghiên cứu một thời kì của nghề dệt truyền thống trong dân gian, tr.234. - Khi Komako giơ cánh tay phía lên trên …, ống tay áo của kimono của cô kéo lên tận khuỷu; Cô có cử chỉ tiêu biểu của cô geisha khi vén gấu áo kimono lên, tr.329.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Cố đô

- Cô chạy nhanh khiến anh tưởng như nhìn thấy cả lần lót của bộ kimono được vén lên thật cao trên cánh tay vung lên; Cô nói và lượm gấu áo kimono đang kéo lê trong tuyết, tr.332. … Và niềm đau lưu trú nơi hình hài thiếu nữ Yoko bừng trong lửa đỏ: Ánh mắt anh lần theo chiếc kimono đỏ trên gương mặt nàng… chiếc áo kimono hơi hất lên trên đầu gối một chút, tr.338. - Chiếc áo dài kimono của geisha phất phới sau cô khi cô chạy, lảo đảo giữa những vũng nước, tr.239. - Mặc xong chiếc áo kimono giản dị, Chieko rời nhà, tr.584. - Cô ta mặc chiếc kimono diện lễ tay thụng, tr.587. - Chieko đành vắt lại vạt gấu kimono cho gọn, tr.589. - Sau chiến tranh hoa văn trên kimono biến đổi nhiều; Sử dụng đến khi cần khối màu cho hàng may kimono; Đúng lúc Takichiro đang mải vẽ phác thảo, tr.596. - Chỗ đấy làm thắt lưng kimono có được không? Làm thắt lưng cho con đây; trông con thắt chiếc thắt lưng này, nảy sinh ý đồ phác thảo mới; Chieko đã thắt chính cái thắt lưng ấy; Tachikiro có để ý cái thắt lưng; Cái thắt lưng thật lộng lẫy với hình trang trí; Liệu thắt lưng ấy có hợp với cô gái, tr.598 - Con toàn mặc những kimono theo phác họa của cha; Con mặc các áo kimono của cha vì con thích mà; Viên quản lí đưa nhuộm màu độ hai, ba chiếc kimono làm theo phác thảo của Takichiro; Chieko hăm hở mua một trong chiếc áo ấy; Không nên mặc toàn những kimono theo phác họa của cha, Tr.599. - Cho dù có ý tứ hơn cả việc mặc những kimono quá ư giản dị, tr.601. - Con thì lúc nào cũng mặc kimono may theo mẫu của cha; Cha không nói những kimono và thắt lưng con dùng có vẻ buồn bã thế nào ấy; Ừ thì những kimono giản dị đúng là hợp với con gái có nhan sắc; Không hiểu vì sao cha con lại thôi làm các phác thảo thời trang cho loại kimono mặc diện; Thế sao không bao giờ mẹ mặc kimono theo phác thảo của cha, tr.608.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

- Kimono có họa tiết kiểu Edo, tinh tế, giản dị; Cha hứa sẽ chuẩn bị cho lễ cưới của con một chiếc kimono thật đặc sắc, tr.609. - Người ta bày vải vóc và áo kimono ra để người mua dễ dàng xem xét, tr.612. - Dệt cái thắt lưng theo mẫu này; Họa tiết thì vẫn tao nhã như xưa; dệt cải theo nó không dễ đâu; Ở Nhật từ thượng cổ đã có cách cảm thụ màu sắc riêng biệt tinh tế, có cần diễn đạt bằng lời này đâu; Xem những ai là người duy nhất chuyên sản xuất thắt lưng bây giờ, tr.615. - Họ dệt tới năm trăm cái thắt lưng mỗi ngày; Họa tiết và màu sắc cho cái thắt lưng này; Chúng tôi cố dệt một chiếc thắt lưng đẹp; Cái thắt lưng này tính dành cho mùa thu; Thế áo kimono dùng với thắt lưng đã chọn; Trước hết hãy thắt lưng đã; Chọn một cái kimono không đáng gì lắm; Kỹ xảo dệt được cha truyền con nối; Nghề dệt tay ở mức độ nào đấy là một nghệ thuật, tr.616. - Người nào cũng dệt thắt lưng bằng máy dệt cao takabata; Chàng thanh niên đang mải dệt chiếc thắt lưng hai mặt, tr.617. - Yêu cầu dệt một cái thắt lưng; Đây là chiếc thắt lưng đặc biệt; Cái thắt lưng hai mặt bình thường thôi; Phải dệt thứ đồ tầm thường thì công việc thành nặng nhọc, tr.618, - Đây là thắt lưng của tiểu thư Chieko; Cho phép tôi được dệt chiếc thắt lưng này, tr.619. - Tôi dệt cái thắt lưng; sẽ dệt chiếc thắt lưng, tr.620. - Hoạ tiết bằng hoa uất kim hương cũng hoàn toàn hợp với kimono theo phong cách mới chăng, tr.623. - Một hoạ tiết bằng hoa uất kim hương không hợp với kimono hoặc obi lắm; Tôi không có ý dệt những cái thắt lưng khả dĩ dành lại cho cháu chắt chúng ta; Yêu cầu dệt thắt lưng có họa tiết uất kim hương, tr.625- 626. - Mặc bộ trang phục gồm 12 chiếc kimono, tr.631. - Chieko trong bộ kimono thắt lưng khổ rộng; Cái kimono giản dị giữa màu xanh mơn mởn cây lá; Hôm ấy Chieko mặc chiếc

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

kimono tím hoa cà màu dịu, và cái thắt lưng rộng bằng vải hoa mà cha nàng đã hào hứng tặng nàng, tr.632. - Cô gái mặc kimono màu chàm thẫm lấm tấm trắng hạt đỗ; Tay áo thắt nơ, tạp dề mặc ra ngoài kimono; Nơ và thắt lưng hẹp khổ màu đỏ, tr.634. - Nhanh nhẹn thay sang chiếc áo ngủ kimono; Xighe đón lấy chiếc kimono từ tay nàng và ném lên cái móc áo, tr.642. - Thưa đây là thắt lưng cho cô nhà; Thắt lưng ư? Thắt lưng cho con bé ư? Tôi mang đến chiếc thắt lưng mà ngài yêu cầu dệt; Vì lẽ gì mà anh dệt thắt lưng theo cái mẫu mà tôi đã vứt đi, tr.645. - Ngài hạ cố xem qua chiếc thắt lưng một chút; Đây là chiếc thắt lưng làm theo mẫu vẽ của cha tiểu thư; Chieko bẻ lại mép chiếc thắt lưng; Cái thắt lưng quả là tuyệt diệu; Nàng rờ rờ chiếc thắt lưng, Trải rộng hết khổ chiếc thắt lưng ra sàn, tr.646. - Thắt lưng tuyệt diệu rồi, chỉ cần một chiếc áo khoác kimono tương hợp nữa; Hơi ấm tâm hồn họa trên chiếc thắt lưng; Nàng nhìn chiếc thắt lưng lần nữa; Cái đó còn tùy thuộc ở kimono và người sẽ mang chiếc thắt lưng; Hideo đã dệt chiếc thắt lưng hoàn toàn theo mẫu vẽ của cha; Hãy ướm thử thắt lưng xem; Với kimono này ư? Quàng thắt lưng quanh lưng, tr.647. - Chieko mặc chiếc áo kimono mùa hè, thắt dây lưng ngắn lấm tấm đỏ hạt đỗ, tr.651. - Tiểu thư quả thực thích cái thắt lưng chứ; Chưa gì đã nói chuyện thắt lưng; Tiểu thư đã lần nào mặc chiếc thắt lưng ấy chưa; Tiểu thư quả thực thích chiếc thắt lưng chứ, tr.657. - Tôi sẽ dệt tặng tiểu thư một chiếc thắt lưng; Còn thắt lưng thì dù sao tôi cũng sẽ dệt; Câu chuyện của chàng trai nói về chiếc thắt lưng không mảy may khiến cô lưu tâm, tr.658. - Rồi thắt chặt dải dây lưng ngoài áo kimono mặc ngủ, tr.663. - Cheko nằm, định sắp kimono cho Takichiro, tr.665. - Xighe ngạc nhiên và đưa chiếc kimono cho nàng, tr.666. - Bắt đầu cùng nhau vẽ các phác thảo cho kimono và thắt lưng,

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

tr.667. - Cô ta mặc kimono mùa hè, thắt giải lưng hẹp màu đỏ, tr.668. - Thắt lưng hoa cúc được mặc quanh năm; tiểu thư cho phép dệt thắt lưng theo kiểu mẫu ấy; Thế tiên sinh không dệt những dãy núi thông phủ lên thắt lưng được hay sao; Thắt lưng có núi non phủ thông liễu và thông đỏ ư? Tiên sinh đã hứa dệt thắt lưng không phải với tôi, tr.673. - Tiên sinh hãy dệt thắt lưng cho cô gái ấy; Tiểu thư yêu cầu dệt hình núi với thông liễu và thông đỏ; Liệu một thắt lưng như thế có luôn làm cô gái nhớ đến công việc… Chị ấy sẽ trân trọng chiếc thắt lưng như vậy suốt đời, tr.674. - Tôi cố dệt chiếc thắt lưng thật đẹp; Khi nào xong thắt lưng thì cứ mang đến cho tiểu thư chứ? Có thuận lòng nhận chiếc thắt lưng không? Nếu vậy tôi sẽ đem chiếc thắt lưng đến chỗ cô ấy, tr.675. - Tôi sẽ cố gắng làm chiếc thắt lưng thật tốt, như thể dệt cho chính tiểu thư; Hãy vì Naeko mà làm chiếc thắt lưng thật tốt, như thể dệt cho tôi; nhưng tâm trí anh hướng vào mẫu trang trí cho thắt lưng nhiều hơn; Đối với Chieko chiếc thắt lưng có vẻ quá ư tầm thường; Anh phải dệt thắt lưng cho Chieki dùng; Làm sao để hình trang trí trên thắt lưng khỏi nhắc nhở cô ta về công việc hàng ngày, tr.676. - Nhân thể nói với chị ấy chuyện thắt lưng đã đặt Hideo làm; Chieko lên đường sau khi đã mặc chiếc kimono giản dị, tr.678. - Cái ngài cứ nói với em chuyện thắt lưng; Anh ấy hứa sẽ dệt cho chị một chiếc thắt lưng thật đẹp; Em đã yêu cầu anh ấy dệt thắt lưng cho chị; Chị không nhận chiếc thắt lưng kia ngay cả là chính em tặng nó cho chị sao? Em yêu cầu dệt thắt lưng là để tặng chị; Cái ngài kia nói là muốn làm chiếc thắt lưng cho Chieko, tr.682. - Chắc đấy sẽ là một chiếc thắt lưng rất lộng lẫy; Người ta không chuyên bán thắt lưng thế nhưng áo kimono hợp với thắt lưng thì có thể chọn được; Kimono nhàu mà ướt hết cả rồi, tr.683. - Kimono họ mặc thì xài xạc, thắt lưng cẩu thả; Họ thì lại mặc

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

những chiếc kimono rất xa hoa, tr.687. - Họa tiết như vậy hợp với kimono của nữ mặc mùa hè; Con làm họa tiết không phải cho kimono; Cha sẽ vẽ cho con một phác thảo kimono; Không lẽ con cả gan mặc kimono họa tiết long não; Tatsumura buôn những thứ thắt lưng kimono ra làm sao, tr.690. - Có những loại vải dùng làm thắt lưng phụ nữ; hẳn sẽ rất vui khi mua vài cái thắt lưng như thế; Nhưng cửa hiệu này không bán thắt lưng, tr.691. - Tôi muốn lựa ít vải may kimono; Hiện đang có kimono Tết và kimono mặc lúc ra ngoài, cả áo kimono tay dài; Tôi không quan tâm đến kimono mặc tết; Cùng lắm là một tuần kimono phải xong chứ; Ta có may kimono đâu, tr.695. - Mẹ cho con tặng cô gái làng Bắc Sơn một trong những chiếc kimono của con nhé; Hideo nhìn mặt vải hoa có hoa văn của chiếc thắt lưng Chieko đặt; Cái thắt lưng anh dệt cho Naeko cơ mà; Trong khi dệt hình ảnh Chieko và Naeko cứ hòa làm một trong mắt anh, tr.697. - Được chiếc thắt lưng tốt đây; Người cha sờ sờ rìa chiếc thắt lưng vẫn còn trên máy; Thắt lưng sẽ rất bền; Từ đấy làm thắt lưng; Lại mang bán cho nhà buôn từng chiếc thắt lưng một; Ngay khi chiếc thắt lưng vừa xong, anh đến để trao nó, tr.698. - Đây là chiếc thắt lưng đã hứa với chị; Chiếc thắt lưng mà tôi phải mặc thay cho Chieko ư? Chính tôi hứa dệt cho chị; Cửa hiệu nhà Chieko gửi; nào kimono, nào dgiori, tr.699. - Tôi sẽ giữ gìn chiếc thắt lưng của tiên sinh suốt đời; Hideo cẩn thận lấy chiếc thắt lưng ra khỏi túi giấy, tr.700. - Hình này là trên thắt lưng phía trước; Naeko chăm chú ngắm chiếc thắt lưng; Chiếc thắt lưng này là do một thanh niên thiếu kinh nghiệm dệt thôi mà; Thông đỏ và thông liễu hợp với kimono mặc tế; Bao giờ mới có dịp mặc chiếc thắt lưng lộng lẫy; Liệu có hợp với chiếc kimono Chieko gửi không; Không dám để tiểu thư xem chiếc thắt lưng này; Cẩn thận bỏ chiếc thắt lưng vào túi giấy;

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Dẫu sao cũng đã cố làm chiếc thắt lưng, tr.701. - Rừng thông liễu mọc thành hàng tựa thể những món đồ chơi mà lá trên ngọn cây thì na ná như những cánh hoa giản dị, chẳng hề chói lọi; bước vào dải thắt lưng; Từ thuở nhỏ Chieko đã quen xem xét kimono nên tôi tin là chiếc thắt lưng sẽ hết sức hợp với áo mà Chieko gửi cho chị; Naeko đặt gói đựng thắt lưng lên đầu gối; Kimono và thắt lưng tôi sẽ chỉ mặc một lần, tr.702. - Tôi muốn được thấy chị mặc chiếc thắt lưng này, tr.703. - Anh đã dệt chiếc thắt lưng cho cô gái thôn dã này; Thực quả lần đầu tiên diện kimono với thắt lưng mới cứ ngường ngượng làm sao ấy, tr.704. - Cái thắt lưng của tiểu thư đẹp quá chừng và lại rất hợp với komono; Bà ta sờ tay vào chiếc thắt lưng, tr.705. - Đây là lần đầu tiên Naeko diện kimono và chiếc thắt lưng mới, tr.706. - Chị ấy mặc chiếc kimono do cửa hàng gửi đến cùng chiếc thắt lưng Hideo dệt, tr.708. - Sau đấy nàng ướm thử kimono nhưng không sao quyết định được nên chọn cái nào, tr.710. - Các cô gái đều mặc kimono màu hồng dài tay như nhau; Tại sao chỉ cô ta là mặc kimono màu thanh thiên, tr.714. - Bà ta dẫn cô bé mặc kimono màu thiên thanh vào, tr.716. - Nhiều hãng buôn vẫn mua vải may kimono sản xuất ở Nhixidgin đã theo nhau phá sản; Ở xưởng Hideo người ta chỉ dệt thắt lưng cho kimono, tr.717. - Từ ngày Naeko mặc chiếc thắt lưng do anh dệt, Hideo càng hăng hái lao mình vào công việc hơn, tr.718. - Người ta dệt thắt lưng dùng cho kimono, tr.723. - Bản thân anh ấy vẽ phác thảo thắt lưng rất đẹp, tr.724. - Kimono tay áo dài, vừa và ngắn; gấm vóc quý, các loại vải có thêu ren; kimono mặc ra đường; kimono mặc ngày lễ; kimono may đơn chiếc, thắt lưng cho kimono… tr.733.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Ngàn cánh hạc

- Để mọi người thấy em mặc chiếc kimono chị đã tặng, tr.734. - Chiếc kimono của cô ta bỏ ngỏ; Cô ta túm vội hai vạt áo kimono phía trên cổ khép lại; cẩn thận buộc lại dải lưng của chiếc kimono, tr.340. - Những người đàn bà mặc kimono màu sáng, tr.344. - Các bà các cô ngồi trong phòng với những bộ kimono màu sáng rỡ, tr.348. - Một bóng lá non chiếu nhẹ lên bờ vai và trên cánh tay áo kimono màu xám của nàng, tr.351. - Vừa nói bà Ota vừa khép nhanh chiếc kimono lại; Làm sao cậu có thể nhìn thấy nó bên dưới chiếc áo kimono chứ, tr.357. - Kikuji mở phăng chiếc áo kimono của bà Ota ra, tr.360. - Trang hoàng theo lối Âu châu mặc chiếc kimono vậy, tr.373. - Chỉ để lộ ra một mảng áo kimono không thấy rõ đôi vai, tr.386. - Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường dùng tay áo kimono của bà để che đầu cho tôi khi có tiếng sấm, tr.407. - Bờ vai và cánh tay áo kimono dài, cả mái tóc nữa, tất cả như lung linh trong ánh sáng; Dù cho bây giờ có đang là ban ngày, chàng cũng không thể nào nhìn thấy cái bớt của Chikako qua lớp áo kimono, tr.417. - Nhân tiện, chàng thay áo và khoác lên mình chiếc kimono màu trắng, tr.424. - Trong tấm áo kimono mùa hạ, mồ hôi chảy ra như suối, anh có tưởng tượng nổi không? tr.426. - Chàng lại cúi xuống nhặt những mảnh vụn lên và bỏ chúng trong tay chiếc áo kimono dùng để ngủ, tr.436. - Hôm ấy Otoko mặc chiếc kimono lụa màu đỏ tươi, tr.819. - Cô thường mặc kimono; Nhưng hôm nay cô em dặn phải mặc kimono để đón năm mới và nghe chuông chùa, tr.822. - Hai người chỉ mặc một chiếc kimono giản dị, trừ thắt lưng bằng loại hàng tốt và nhã, tr.825. - Keiko mặc nguyên chiếc kimono sa tanh xanh hôm qua, tr.827. Đẹp và buồn

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Người đẹp say ngủ

- Chỉ có điều những kimono gấm rộng lộng lẫy tiên đồng mặc giờ chỉ còn thấy trong tuồng Noh mà thôi, tr.855. - Keiko với tay lấy chiếc kimono mỏng mặc vào, tr.879. - Nghĩ Omiyo thấy mình lung túng với cái thắt lưng; Loay hoay buộc cái thắt lưng, tr.880. - Em buộc thắt lưng; Buộc thắt lưng? Thấy Keiko sạch trong sạch bóng trong chiếc kimono mới giặt, tr.881. - Đúng, áo cô, thắt lưng cô; Mùa hè em thấy mặc kimono mà thắt lưng cho sát thì mát hơn; Em thích màu nhã cho mùa hè, như màu chiếc thắt lưng này; Thắt lưng hai mặt hai kiểu khác nhau; Cái thắt lưng do cô gái bất thường vẽ thì phải bất thường thôi, tr.912. - Otoko thường mặc kimono thay vì váy hay quần, tr.922. - Em nghĩ em sẽ mặc kimono cho nó đàng hoàng; Keiko đưa tay ra sau nắm múi thắt lưng kéo mạnh; Thắt lưng phải cho gọn và chặt, tr.927. - Vừa bước lên bậc đá, anh quay lại thấy kimono của cô gái bị rách khi cô bước vội theo anh, tr.937. - Em mặc kimono leo có nổi không, tr.939. - Tay áo kimono rộng đã trụt xuống, tr.941. - Tay vẫn bị cô gái nắm, anh cố luồn dưới tà áo kimono tìm về vùng da thịt, tr.944. - Keiko mặc kimono mới, nhưng vẫn đeo thắt lưng vẽ cầu vồng, tr.946. - Ngưng lau mình, anh quàng kimono ra khỏi phòng tắm, tr.948. - Mặc tấm áo kimono của khách sạn, tr.776. - Nàng mặc áo kimono; Em mặc kimono? Eguchi mua tặng nàng vải may kimono và đai lưng rồi cả hai trở lại khách sạn, tr.777. - Trên người ông chỉ mặc chiếc kimono bằng vải bông, tr.785. - Eguchi đứng trong phòng với tấm áo kimono mặc đêm, tr.810. - Kikuko đưa lại cho ông chiếc kimono, tr.462. - … Mà tôi lại không mặc kimono nữa, tr.471.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Tiếng rền của núi

Hồ

Vải dệt Chijimi

Xứ tuyết

- Fuxaco choàng vạt áo kimono lên, tr.488. - Các vũ nữ nhỏ tuổi mặc kimono ngày hội nhiều màu rực rỡ; Những cánh hoa bị chìm đi bởi màu sắc rực rỡ của những tấm áo; Con muốn kimono, kimono - Xatoco réo lên; Ông ngoại đã hứa mua cho con kimono vào ngày lễ; Khổ thân con bé cho đến giờ vẫn chưa được mặc kimono; Nó chỉ được mặc thứ kimono mùa hè chắp nối; một con bé mặc chiếc kimono nhiều màu sắc; Kimono - Xatoco hét lên và túm lấy tay áo của cô bé kia, tr.500. - Singo đi ra phố, ông đi vòng qua một lượt các xưởng may kimono, tr.501. - Không lẽ Yaxuco chỉ may áo cho cháu bằng vải cắt ra từ những tấm kimono cũ; Mà Fuxaco muốn ông mua kimono hay là váy đầm cho cháu nhỉ; Ông không nói với vợ và con dâu là ông vừa đi tìm mua kimono cho cháu, tr.502. - Yaxuco phân bua và đem kimono lại cho chồng, tr.512. - Lúc đi làm về ba đã choàng vạt áo kimono ngược sang bên trái thay vì bên phải, sau đó cha thắt đai vào như không ấy, tr.517. - Bà Yaxuco nhận được một tấm lụa để may đai kimono, tr.529. - Mụ đứng dậy đem kimono của ông già lại, tr.61 - Yayoi hét lên, rồi bỏ chạy làm tung gấu áo kimono, tr.97. - Tuyết kéo ra từng sợi và cũng như chính tuyết đã dệt những sợi ấy thành tấm vải… rồi chính tuyết lại giặt tẩy cho nó sạch bong ra. Tất cả được tạo thành, bắt đầu và kết thúc trong tuyết, “Vải chijimi chỉ được sinh ra khi có tuyết, tuyết là mẹ đẻ của Chijimi”, tr.322. - Anh đã giao kèo với chủ tiệm, khi anh có trong tay tấm vải Chijimi chính phẩm; Hội chợ Chijimi thường khai trương vào mùa xuân; Những thiếu nữ học dệt từ bé, với hoa tay của mình, các cô sẽ tạo ra giá trị của vải Chijimi, tr.322. - Một vài bộ kimono của Shimamura được may từ tấm vải dệt do những bàn tay của các cô gái ấy; Việc tẩy trắng bằng tuyết từ đời này sang đời khác do các thợ chuyên nghiệp đảm nhận; Người ta

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

tẩy trắng ngay khi vải Chijimi trắng dệt xong thành từng tấm; Cái cảnh tẩy trắng vải bằng tuyết trọn vẹn được ấp iu trong ánh nắng hồng dịu của ban mai, đẹp đến không bút nào tả nổi; Bàn tay của những người đàn bà trong xứ tuyết, làm việc triền miên trong những tháng dài tuyết phủ mùa đông, kéo sợi, dệt nên thành những tấm vải gai mỏng, tr.323. - Mà trạm nước nóng lại ở ngay trên xứ sở của vải Chijimi, phía xuôi thác nước; dọc những thôn xóm có họp hội chợ Chijimi, nay đều thành nhà ga; vận những bộ kimono gai mùa hè, lúc thứ vải Chijimi mà anh yêu thích được dệt thành, Shimamura nào phải loại người có sáng kiến đi nghiên cứu một thời kì của nghề dệt truyền thống trong dân gian; Sự mịn màng đặc sắc của loại vải ấy có được là nhờ dệt trong cái lạnh của mùa đông, tr.324. - Anh vụt có ý nghĩ các cô gái thời xa xưa ấy cùng một lúc cất tiếng hát trong lúc chăm chú vào công việc, khom mình trên khung dệt, đưa thoi chạy vun vút qua giữa hai làn sợi, tr.324. - Sợi gai của đất núi óng như một thứ tơ chế từ lông thú, trong mùa ẩm ướt của tuyết vào mùa đông xứ tuyết là mùa thích hợp cho các công việc của người thợ dệt; Sự mịn màng đặc sắc của loại vải ấy có được là nhờ dệt trong cái lạnh giá của mùa đông, tr.324. - Không để lại dấu vết trên cõi đời này như là dấu vết của thứ vải Chijimi; sản phẩm của mỹ nghệ như vải chijimi ấy, cũng giữ bằng được chất vải, tr.324. - Dù thứ vải rất đỗi mỏng manh, sản phẩm của mỹ nghệ, như vải chijimi ấy cũng giữ bằng được chất vải, màu sắc sống động có tới nửa thế kỉ, còn lâu mới rách sờn, nếu được giữ gìn cẩn thận, tr.324. - Anh nhận ra rằng kiếp sống của họ nào có và sáng sủa như thứ vải chijimi, thanh khiết và tươi tắn biết bao trong màu trắng do chính bàn tay năng động của họ tạo ra, tr.326. - Vậy là những bàn tay vô danh kia đã chết, sau khi làm việc cần

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Geisha

Xứ tuyết

mẫn, chỉ còn lại những tác phẩm của họ là thứ vải Chijimi hiếm hoi này, thứ vải đã gây ra sự dễ chịu thích thú, tr.327. - Một công việc mà trái tim đã đặt cả tình yêu vào đó, liệu nó có truyền đi được lời thông báo về lòng dũng cảm của một nỗ lực thuần nhất và lòng nhiệt thành của một cảm hứng thuần nhất, tr.327. - Liệu có thể đề xuất với họ việc dệt vải Chijimi không? tr.328. - Shimamura giật mình khi thấy cô ta mặc áo kimono dài, rốt cuộc cô đã trở thành geisha rồi sao? tr.228. - Gương mặt đánh phấn đậm theo kiểu geisha…, tr.229. - Anh nhờ gọi cho anh một geisha… Tất cả 12, 13 cô geisha được huy động hết cũng chẳng thấm vào đâu… Đó không phải là một geisha thực sự… Tuy cô không chuyên nghiệp… cũng không thể coi cô là một geisha tài tử, tr.230. - Cô không mặc áo kimono dài quết đất, nhưng cách ăn mặc vẫn có nét gì giống một geisha... Sinh ra ở xứ tuyết, cô đã ra Tokyo làm geisha… và anh lại thấy một sự thoải mái anh vẫn mong muốn khi ngồi với một geisha thật sự… Shimamura cảm thấy ngay rằng không thể xếp cô vào hạng geisha chuyên nghiệp, tr.231. - Cô chưa kịp ngồi, anh đã nhờ cô gọi cho anh một geisha. Gọi một geisha? Ở đây các geisha đều tự do… nhưng không ai ngăn cản ông gọi một geisha đến và tự thu xếp với cô ta, tr.232. - Vậy thì ông cứ cho gọi geisha nào ông chọn… Nếu cô geisha đến với tôi là người đáng chê trách thì về sau chính cô không muốn gặp tôi…, tr.233. - Quả thật, anh không thể coi cô như một geisha chuyên nghiệp… Anh thấy thật may mắn vì cô gái này lại không phải geisha chuyên nghiệp, tr.234. - Môi cô thoáng một nụ cười để lộ đôi chút vui vẻ, hồn nhiên của một geisha, tr.237. - Cô vẫn kiên quyết như lần trước, rằng các geisha ở đây không

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

phải những người đàn bà như anh tưởng… geisha mới là người quyết định có qua đêm hay không, tr.237. - Ngôi nhà có một geisha nào đó, thường là một phòng trà hoặc một quán ăn… cửa hàng bán bánh cũng có geisha riêng, chủ cửa hàng còn có trang trại, ngoài cửa hàng và cô geisha. Do vậy, không một cô geisha nào bất bình khi thỉnh thoảng có một cô gái khác… Các geisha ấy ạ? Cô geisha tới sau đó khoảng mười bảy hay mười tám tuổi… nói với cô geisha miền núi này ư? Anh và cô geisha mới đến càng khó trò chuyện, tr.238. - Chả lẽ tất cả các cô geisha đều giống cô ban nãy, tr.239. Tôi cứ tưởng tất cả các cô geisha ở đây đều như cô… Nói cho cùng, khách là người quyết định để geisha ra về lúc nào, tr.240. - Cùng với mấy cô geisha tham gia buổi tối ồn ào, tr.242. - Khi cô là một geisha, cách xử sự của anh không thoải mái hơn, tr.249. - Bên kia đường có mấy cô geisha đang tán gẫu, tr.254. - Bà dạy múa ở vùng biển này, ngay cả khi bà đã thôi làm geisha, tr.257. - Trong cảnh yên tĩnh, từ xa vọng lại tiếng đàn samisen… Chỉ cần nghe, bà cũng luôn biết được là cô geisha nào đánh đàn chứ? tr.260. - … vào mùa hè vừa rồi, Komako đã quyết định làm geisha chuyên nghiệp… còn gì tầm thường hơn là nghe bà tẩm quất ở một trạm suối nước nóng chuyện phiếm về các cô geisha… Thế nào nhỉ, vậy là Komako đi làm geisha để cứu chồng chưa cưới…; nếu một cô gái tự dùng quyền của mình để bán thân làm geisha, tr.261. - “em bắt đầu làm geisha từ bao giờ? tr.262. - Câu chuyện khẳng định em đi làm geisha để có tiền trả chi phí chữa bệnh… em làm geisha cũng không phải để giúp đỡ bất kì ai… anh ấy là người duy nhất tiễn em ra ga lên Tokyo học nghề geisha, tr.266.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

- Yoko chính là người đem tới cho Komako một chiếc kimono và cây đàn cùng các bản nhạc, tr.266. - Geisha thực sự chứ không phải một kẻ tài tử - lại học đàn theo sách… để hành nghề ở vùng núi này. Tr.267. - Lối hát ê a…phù hợp với diễn xuất của các diễn viên hơn là với nghệ thuật thân mật để giải trí của geisha… vì nói cho cùng, đây là một cô geisha miền núi, một phụ nữ chưa đầy 20 tuổi, tr.268. - Mỗi lần trông thấy một geisha, nó lại gọi Komako bằng cái giọng lảnh lót, tr.271. - Các ông khách du lịch luôn ngạc nhiên khi một cô geisha chào họ ở trên bãi trượt tuyết, tr.272. - Tiếng Komako và anh hiểu hai người đang nói về tiền thù lao geisha của cô… mà không tính thêm khi geisha ngủ lại qua đêm, tr.274. - Vừa có nhiều geisha mới, chẳng cô nào ăn ý với cô nào, tr.286. - …trên làn phấn mịn màng của cô geisha, ánh trăng ngời chiếu lên như thể vân trai; Và giờ em mới thực sự ở trong quán của geisha; Một quán của geisha? Em là cô geisha duy nhất ở đó, tr.288. - Họ luôn tử tế, đến nỗi em không tin nổi là họ mướn mình làm geisha, tr.289. - Chẳng bao giờ em nghĩ mình đã trở thành geisha, tr.290. - Thuốc họ mời em, em đều bỏ vào tay áo kimono; Cho dù thân hình có khuôn trong bộ áo cổ truyền thường thấy ở các geisha; tưởng như mọi sự cũng như lúc tập nghề geisha, tr.291. - Đó là khi em đến đây làm geisha và em chuyển nhà sau cái chết của bà dạy nhạc, tr.292. - Vẫn câu hát ấy, giờ đây anh đã nghe một geisha hát chói chang theo đàn samisen trong lúc anh dùng bữa tối, tr.295. - Nhưng gì đi nữa, cô cũng đã làm geisha để trang trải tiền thuốc men cho anh ta, tr.296.

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

- Những ba mươi khách, chí ít cũng phải sáu geisha, tr.307. - Trên sàn nhà bóng nhẵn của hành lang cũ kĩ có hộp đàn samisen của một geisha nào bỏ lại, tr.317. - Ba bốn cô geisha đang tán gẫu ở trước cửa, tr.328. - Cô có cử chỉ tiêu biểu của cô geisha khi vén gấu áo kimono lên, tr.329. - Nàng là một cô geisha, người tình của ông dạo đó; Eguchi và cô geisha từ đó không giữ được quan hệ tốt đẹp; Mùi sữa mà cô geisha oán ghét đến từ đứa con gái út của ông, tr.748.

Người đẹp say ngủ Xứ tuyết Đàn Samisen

- Đó là cô gái ở trọ nhà bà dạy nhạc…, dạy đàn Samisen, tr.230. - Đó là cái hộp đựng đàn Samisen, nó có kích thước rất lạ, tr.257. - Trong cảnh yên tĩnh, từ xa vọng lại tiếng đàn samisen… Chỉ cần nghe, bà cũng luôn biết được là cô geisha nào đánh đàn chứ? ... Ta hãy trở lại câu chuyện về cô gái đánh đàn Samisen. Ai đã biết đánh đàn thời còn trẻ thì không thể quên được… tai nhạc của tôi vẫn sành, nên nghe họ đánh đàn, tôi ngán lắm, cách chơi đàn hồi trẻ của tôi cũng không còn vừa lòng nữa… những cô đàn hay nhất và những cô đàn dở nhất bao giờ cũng dễ nhận ra, tr.260. - Có những cô đàn hay thật hả bà? ... Komako chơi hay tuyệt… tôi thấy cô ấy đánh đàn tuyệt hay, tr.261. - Lẽ ra em phải về nhà để đánh đàn samisen: thời tiết thế này, tiếng đàn nghe hay tuyệt… Shimamura liền yêu cầu cô chơi đàn luôn ở đây, tr.265. - Yoko chính là người đem tới cho Komako một chiếc kimono và cây đàn cùng các bản nhạc, tr.266. - Komako ôm đàn lên gảy… cô sử dụng cây đàn rất thành thạo… em học đàn theo tài liệu này? Ở đây chẳng ai có thể dạy em chơi đàn samisen; Bà ấy khổ sở khi nghe người khác đánh đàn samisen mà không làm gì được; em đành phải học đàn samisen theo những phương pháp viết ra giấy này… còn đàn samisen em

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Tiếng rền của núi

chỉ học một chút, thêm thắt thôi, tr.267. - Nốt nhạc đầu tiên đã khoét một cái hốc ở ruột gan anh, tạo ở đó một khoảng trống cho tiếng đàn tinh khiết trong sáng âm vang, tr.268. - Cô chơi đàn đầy kiêu hãnh như cô đang ở một sân khấu lớn; tiếng đàn bạo dạn của cô khiến Shimamura chóng mặt. Komako ngước nhìn bầu trời trong trẻo ở phía tuyết trắng, “khi thời tiết thế này, tiếng đàn nghe khác hẳn… chất pha lê của âm nhạc hình như tung tiếng hát rung cảm và tinh khiết của nó đến tận những đỉnh núi đầy tuyết ở tít xa, tận đường chân trời… Tự mình tập đánh đàn ở vùng hẻo núi hẻo lánh này, lại chịu khó luyện đàn đến mức thuộc lòng cả bài, tr.269. - Và cả con người cô nữa, nhờ tiếng đàn samisen nên không kém phần thánh thiện… Shimamura chịu tác động êm ái của tiếng đàn gợi cảm, dịu dàng; Giờ đây Komako vừa nhìn bản nhạc, vừa chơi đàn một bài cô còn chưa thuộc lòng hẳn, tr.270. - Nghe tiếng đàn samisen, em có thể nhận ra ngay đó là tiếng đàn của cô geisha nào không? Dễ thôi, vì ở đây chỉ có mười hai geisha… phong cách của một số bản nhạc giúp ta xác định được người chơi đàn rõ hơn, tr.271. - Vẫn câu hát ấy, giờ đây anh đã nghe một geisha hát chói chang theo đàn samisen trong lúc anh dùng bữa tối, tr.295. - Vuốt ve những ngón tay thon chai lên vì đánh đàn samisen, tr.296. - Trên sàn nhà bóng nhẵn của hành lang cũ kĩ có hộp đàn samisen của một geisha nào bỏ lại, tr.317. - Mặt nạ đấy. Mặt nạ để diễn Noh; Tôi chẳng hiểu gì về mặt nạ; Lấy từ trong hộp đựng ra những chiếc mặt nạ; Đây là chiếc Djido, còn đây là chiếc Casiki, chúng đều là mặt nạ trẻ con; Nếu chiếc mặt nạ Noh hơi nghiêng xuống dưới, sắc thái sẽ có vẻ buồn rầu, tr.469. - Thật khó tin rằng đấy là bộ mặt trẻ con; Sẽ thấy đó là mặt nạ trẻ con; Singo đặt chiếc mặt nạ lên bàn; Tôi đã mua hai chiếc rồi; Cả thảy có 5 chiếc; Có mấy cái mặt nạ phụ nữ; Anh định lấy mặt nạ

Bối cảnh xuất hiện trong tác phẩm Tác phẩm Biểu tƣợng văn hóa truyền thống

Mặt nạ kịch Noh

phụ nữ à?; Hai chiếc trẻ con này có giá trị; Người vẫn ngồi ngắm lũ mặt nạ cả ngày; Mấy cái mặt nạ của anh cũng không làm tôi thấy dễ chịu lắm đâu; Tôi để lại mấy cái mặt nạ cho anh xem chán đi; Tôi vốn chẳng hiểu gì về mặt nạ cả; Singo sẽ đưa mặt nạ cho cô, tr.470. - Ayco đeo mặt nạ vào và quay đi quay lại; Chiếc mặt nạ sống động hẳn lên với mỗi cử chỉ; Tóc bồng bềnh xõa xuống hai bên chiếc mặt nạ; Mua cho ông cuốn sách về chiếc mặt nạ Noh; Trên cả hai chiếc mặt nạ đều có viết tên nghệ nhân; Singo chìa mấy chiếc mặt nạ cho bà xem; Đưa sát chiếc mặt nạ vào tận mắt, tr. 471. - Ông tránh xa khỏi chiếc mặt nạ; Ông đã chui sâu vào chiếc mặt nạ; Nhìn mặt nạ Noh gần sát tận mắt hẳn là điều kì lạ; Nhìn gần mặt nạ có vẻ sống động hơn; Khi nhìn Ayco biểu diễn mặt nạ và cuối cùng là suýt hôn cái mặt nạ, tr.472. - Bất chợt Singo lại nhớ đến mấy chiếc mặt nạ; Tác giả của chiếc Kasaki; Và chiếc mặt nạ Djido thì biến thành cô gái nhỏ; Làm cô bé hóa thành mặt nạ, tr.473. - Singo buộc phải mua lại chiếc mặt nạ Noh, tr.483. - Mấy chiếc mặt nạ cũng ở trong ngăn tủ; Kikuco đeo chiếc mặt nạ; Singo nhớ lại hôm mang chiếc mặt nạ về nhà; chiếc mặt nạ che gần hết cằm Kikuco; Chiếc mặt nạ gật gật; Những lời ấy phát ra từ dưới chiếc mặt nạ, tr.504.”