
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHM QUNH NHƯ
BI THƯNG, H TR, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NH NƯC
THU HI ĐT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUT ĐT ĐAI
T THC TIN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TNH TÂY NINH
LUN VĂN THC SĨ LUT KINH TẾ
HÀ NỘI - 2021

2
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHM QUNH NHƯ
BI THƯNG, H TR, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NH NƯC
THU HI ĐT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUT ĐT ĐAI
T THC TIN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TNH TÂY NINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯI HƯNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG ANH QUÂN
HÀ NỘI, NĂM 2021

3
M ĐU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài sản, sản phẩm của tự nhiên, là điều kiện lao động cơ bản
phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội loài người. Đất đai tham
gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội, là địa điểm, là cơ sở
của các thành phố, làng mạc các công trình công nghiệp, giao thông, xây dựng
và các công trình thuỷ lợi khác. Đất nông nghiệp một trong những là tư liệu
sản xuất đặc biệt và đặc thù mang tính quyết định mà chúng ta không gì có thể
thay thế được trong sản xuất nông nghiệp. Trong thế giới hiện đại, vấn đề an
ninh lương thực đang là một trong những thách thức mang tính toàn cầu. An
ninh lương thực gắn liền với đất nông nghiệp. Vì vậy, việc bảo vệ bền vững và
có khoa học quỹ đất nông nghiệp là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Tuy nhiên, đất nước ngày một phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nhu cầu khách quan đặt là quỹ đất xây dựng các cơ sở hạ tầng
khu công nghiệp, khu kinh tế, khu đô thị có giới hạn nên Nhà nước bắt buộc
phải chuyển một tỉ lệ đất nông nghiệp thích hợp sang phi nông nghiệp nhằm
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Để giải quyết yêu cầu
này, bắt buộc Nhà nước phải thực hiện việc thu hồi đất của người sử dụng đất
nông nghiệp để tạo tiền đề cho các hoạt động phát triển khác. Thu hồi đất là
một vấn đề khá nhạy cảm không đơn giản chỉ là việc làm chấm dứt quyền sử
dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân riêng rẽ đối với một diện tích đất
nông nghiệp nhất định mà còn là hành động liên quan đến kinh tế, xã hội và
chính trị của quốc gia vì thế cần được xem xét cẩn thận và kỹ lưỡng, đảm bảo
duy trì sự ổn định về mọi mặt của đất nước.
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, công năng chủ yếu của đất đai là
tập trung vào sản xuất vật chất, đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Đến thời
kì cuộc sống xã hội phát triển ở mức cao hơn, công năng của đất đai từng bước
được mở rộng, sử dụng đất đai cũng phức tạp hơn. Trên thực tế, ở bất cứ quốc
gia nào theo chế độ công hữu hay tư hữu, có dùng khái niệm “sở hữu toàn dân”
hay không, đất đai là tài sản mà thiên nhiên ban tặng cho cả cộng đồng dân cư,

4
được chính người dân khai thác để hưởng lợi, sinh sống. Mỗi chủ thể đều có
phần quyền định đoạt, trong đó Nhà nước giữ quyền định đoạt cao nhất. Trong
Báo cáo “Những chiến lược cải cách các quan hệ đất đai” của tổ chức FAO
(1994) đã nhận định: “Hệ thống đất đai ở Việt Nam trên danh nghĩa là của Nhà
nước nhưng trên thực tế là sở hữu tư nhân, có thể coi đó là mô hình tốt mà các
nước đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường nên học tập và làm theo”. Các
nhận định trên có cơ sở khiến ta nghĩ rằng đó không phải là sự suy diễn kiểu
“vơ vào” theo thuyết Hội tụ, mà là một phát hiện đáng suy nghĩ từ thực tiễn
(Báo cáo nghiên cứu chính sách “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo
yêu cầu của Nghị quyết 48/NQ-TW”: PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Đặng Văn
Thanh, Trần Hữu Huỳnh, Nguyễn Tiến Lập). Sau 20 năm thực hiện đổi mới,
chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, kế hoạch hóa cao độ sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đất nước ta
đã đạt được những thành tựu quan trọng về nhiều mặt: Kinh tế phát triển; chính
trị ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường; chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế. Thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước có phần đóng góp không
nhỏ của mảng pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường thiệt
hại cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng (sau đây gọi
chung là pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất); bởi lẽ, đất đai
được xác định là một trong những yếu tố mang tính chất “đầu vào” của quá
trình sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ. Các doanh nghiệp không
thể tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc triển khai thực hiện các dự
án đầu tư nếu không tiếp cận được vấn đề đất đai.
Tuy nhiên, do quỹ đất công hiện nay hầu như đã được giao cho người dân
sử dụng ổn định lâu dài; vì vậy, để giải quyết “bài toán đất đai” cho các mục
tiêu phát triển kinh tế, xã hội thì không thể tránh khỏi việc Nhà nước thu hồi
đất. Hơn nữa, đất đai cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác ở nước
ta là có hạn; trong khi đó, với sự phát triển năng động và nhanh chóng của nền
kinh tế thị trường thì nhu cầu sử dụng đất cho phát triển ngày càng tăng, vì vậy
áp lực của việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích của người sử dụng đất, lợi ích
của Nhà nước, lợi ích của nhà đầu tư đang là một vấn đề nhạy cảm và mang

5
tính thời sự. Nhận thức rõ vấn đề này, Nhà nước ta đã không ngừng sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên
trong quan hệ thu hồi đất. Tuy nhiên, thực tế thi hành các quy định này vẫn bộc
lộ nhiều khó khăn, phức tạp: Nhà nước, người sử dụng đất, nhà đầu tư dường
như chưa tìm được “tiếng nói” chung về lợi ích. Do những nguyên nhân trên
nên những vướng mắc trong việc thu hồi đất và bồi thường thiệt hại là vấn đề
tất yếu xảy ra trong quá trình hoàn thiện pháp luật về đất đai. Thời gian gần
đây, tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp của công dân trong lĩnh vực đất đai
diễn ra gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Trong đó có
rất nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc thu hồi đất. Theo báo cáo
của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hàng năm Bộ nhận được gần 10.000 lượt
đơn tranh chấp, khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường của
công dân 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó đơn thuộc lĩnh
vực đất đai chiếm 98,6% tổng số đơn. Do đó việc tìm hiểu thực trạng, nghiên
cứu, đề xuất hướng giải quyết cho vấn đề thu hồi đất và bồi thường thiệt hại
ngày càng trở nên bức thiết. Nắm được tình hình thực tế trên, tôi xin đề cập
trong đề tài một số ý kiến về vướng mắc trong vấn đề thu hồi đất và bồi thường
thiệt hại, đồng thời đưa ra một số kiến nghị, giải pháp giải quyết các vướng
mắc, bất cập trên cụ thể đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Dương
Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đặc biệt là đất nông
nghiệp là một vấn đề lớn mang tính thời sự nóng bỏng, vì vấn đề bù đắp tổn
thất cho người sử dụng đất do thu hồi đất gây ra thông qua chinh sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư là một trong những vấn đề trọng tâm của chính sách
đất đai. So với Luật đất đai 2003, Luật đất đai 2013 đã có nhiều quy định về
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Đồng thời
đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này và được
xem xét dưới các góc độ khác nhau. Qua việc nghiên cứu học hỏi các công
trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án tác giả có thể có cái nhìn tổng