VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ LAN

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ LAN

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứ Luận văn thạc sĩ đề tài “ Bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp Luật đất đai

từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh ” là của riêng tôi. Các thông tin, số liệu, trích

dẫn được sử dụng trong Luận văn hoàn toàn chính xác, trung thực.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số

liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích

nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu

trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2019

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Lan

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới PGS.TS. Trần

Đình Hảo là người hướng dẫn khoa học cho tác giả. Trong quá trình hướng

dẫn, PGS.TS. Trần Đình Hảo bằng tinh thần, trách nhiệm, sự nhiệt tình đã

hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ.

Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời chân thành cảm ơn đến Ban Giám

hiệu, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ và các giảng viên Học viện khoa học

xã hội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong quá trình tác giả

theo học tại Học viện. Cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên Học viện khoa học

xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong thời gian học tập và

nghiên cứu nhằm hoàn thành chương trình Cao học.

Sau cùng, tác giả xin được cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng bảo vệ

và kính mong nhận được sự quan tâm, nhận xét của các Thầy, Cô để tác giả

có điều kiện hoàn thiện tốt hơn những nội dung của luận văn nhằm đạt được

tính hiệu quả, hữu ích khi áp dụng vào trong thực tiễn.

Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả

Hoàng Thị Lan

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ... 8 1.1.Lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ... 8 1.2 Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ........................................................................................................... 20 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 24 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH .. 25 QUẢNG NINH ........................................................................................................... 25 2.1. Thực trạng quy định pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. ..................................................................... 25 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh. ................................... 38 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 59 Chương 3. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH QUẢNG NINH ........... 61 3.1.Những yêu cầu, đòi hỏi khách quan của của việc tiếp tục hoàn thiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. .................................................................................. 61 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh gồm: ............. 63 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh.............................................................................................................. 66 Tiểu kết chương 3 ...................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................ 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 75

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

GCN: Giấy chứng nhận

GPMB: Giải phóng mặt bằng

NĐ: Nghị định

QĐ: Quyết định

UBND: Ủy ban nhân dân

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang là một trong những tỉnh có tốc độ phát

triển kinh tế nhanh và thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Một trong những

yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư là tiến độ bàn giao mặt bằng cho dự

án. Điều này liên quan trực tiếp đến các quy định về thu hồi đất, để nhanh

chóng bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư thì vấn đề giải quyết quyền lợi của

người bị thu hồi đất đó là việc bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản gắn liền trên

đất và các quyền lợi liên quan đến việc thu hồi đất cần phải được đảm bảo.

Tuy nhiên, từ trước đến nay việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

luôn là vấn đề phức tạp, nó không chỉ dừng lại ở việc Nhà nước được quyền

thu hồi thì Nhà nước được quyền áp đặt mọi chính sách để giải quyết hậu quả

sau thu hồi đất mà đòi hỏi những chính sách giải quyết này phải đảm bảo

được quyền lợi chính đáng cho người bị thu hồi. Việc bồi thường, hỗ trợ

không phải trong mọi trường hợp đều giống nhau, bồi thường, hỗ trợ đối với

đất ở, đất phi nông nghiệp sẽ khác với bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp.

Xét về phương diện nhà đầu tư, ở đây nhà đầu tư có thể là chính Nhà nước ,

có thể là nhà đầu tư tư nhân ( tư nhân trong trường hợp này được hiểu là nhà

đầu tư không phải là Nhà nước ), để đầu tư một lĩnh vực nào thì nhà đầu tư

phải xem xét kỹ lưỡng đến các yếu tố: chi phí đầu tư, nhu cầu của thị trường,

vị trí địa lý, thủ tục pháp lý, chính sách thu hút đầu tư, mức độ cạnh tranh,

nguồn lao động, nguồn nguyên liệu. Trên thực tế, chi phí đầu tư đóng vai trò

rất quan trọng trong việc quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Tại Quảng

Ninh, phần lớn các dự án đầu tư được thực hiện ở những địa phương có tỷ lệ

đất nông nghiệp cao, bởi đất khi đầu tư vào những khu vực đất nông nghiệp

mang lại lợi ích vô cùng lớn cho nhà đầu tư như: Giá thành bồi thường, hỗ trợ

thấp, giảm chi phí san lấp mặt bằng, công tác thu hồi đất và GPMB cũng

1

thuận lợi hơn so với thu hồi đất ở. Mặc dù dựa trên quy của đã có định chung

của pháp luật, tỉnh Quảng Ninh cũng đã có những chính sách mới phù hợp

hơn trong việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp nhưng dường như những quy định này vẫn chưa đáp ứng hết các yêu

cầu thực tiễn. Hiện nay, tại những địa phương có dự án được triển khai đều

xuất hiện đơn nhiều đơn thư khiếu kiện, tố cáo của người bị thu hồi đất, của

người bị ảnh hưởng do việc thu hồi đất. Nhiều nơi như tại Vân Đồn, thị xã

Quảng Yên còn trở thành điểm nóng của khiếu kiện về đất đai do có nhiều dự

án đầu tư tập trung ảnh hưởng không nhỏ tới ổn định chính trị, kinh tế xã hội

của địa phương cũng như tỉnh Quảng Ninh. Một trong những nguyên nhân

dẫn đến tình hình khiếu kiện về đất đai của địa phương ngày càng trở nên

phức tạp do giá đất thị trường ngày càng tăng trong khi đó giá đất áp dụng bồi

thường, hỗ trợ không được áp theo đúng mức giá thị trường, đặc biệt đối với

đất nông nghiệp không được xem xét định giá, hay tăng giá bồi thường, hỗ

trợ, việc áp dụng chính sách tái định cư không được thống nhất, không xem

xét hỗ trợ tái định cư khi thu hồi vào đất nông nghiệp cho người bị thu hồi

đất. Ngoài ra còn rất nhiều vấn đề liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như thu hồi đất không đúng thẩm quyền,

xác định trường hợp thu hồi đất không đúng,…dẫn đến khiếu kiện kéo dài,

vượt cấp, điều này đang trở thành thách thức cho các cơ quan Nhà nước. Do

vậy, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp Luật đất đai từ thực tiễn tỉnh

Quảng Ninh” là vô cùng cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vì vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đã và đang trở thành

vấn đề cấp thiết mang tính thời sự và thường xuyên được các phương tiện

truyền thông đăng tải cũng như có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình bồi

2

thường, hỗ trợ và ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý người bị thu hồi đất. Vì thế,

đã có rất nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề từ có liên quan như thu hồi

đất nông nghiệp, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi vì mục

đích phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng…Cho đến các vấn

đề trực diện của đề tài là bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp tiêu biểu như các công trình: Nguyễn Minh Tuấn, “Thu hồi đất vì mục

đích kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ (năm 2013); Phạm Thu

Thùy " Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam" Luận

án Tiến sĩ (năm 2014); Đào Danh Dũng, “ Thu hồi đất nông nghiệp để phát

triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo pháp Luật đất đai từ

thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ (năm

2018), Trần Nhật Quân, “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, Luận văn thạc sĩ

(2018),…

Mặc dù cùng các quy định pháp luật điều chỉnh, nhưng ở mỗi luận văn

sẽ gắn với thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật ở từng địa phương. Do

đặc điểm về kinh tế, xã hội… nên ở tỉnh Quảng Ninh cũng sẽ có mức giá bồi

thường và các biện pháp hỗ trợ khác nhau cho từng đối tượng được bồi

thường hỗ trợ. Trong quá trình bồi thường, hỗ trợ về đất nông nghiệp cũng

phát sinh nhiều vướng mắc như về đơn giá bồi thường, điều kiện, đối tượng

được bồi thường, hỗ trợ, các khoản hỗ trợ khác cần bổ sung.

Do vậy, trong luận văn này, ngoài việc nghiên cứu về các vấn đề truyền

thống như cơ sở pháp lý về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tác giả còn cho thấy

thực trạng áp dụng pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh như các vấn đề: Xác định

đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, thái độ và trình độ chuyên môn của các cơ

quan liên quan trong việc thực hiện, giải quyết các vấn đề trong bồi thường,

hỗ trợ đất nông nghiệp, lý do xuất hiện các dự án treo, nguyên nhân dẫn đến

3

những bất bình trong nhân dân về việc bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông

nghiệp, quy trình bồi thường, hỗ trợ còn chưa được nghiêm chỉnh chấp hành,

chưa đảm bảo được tính công khai, minh bạch, từ đó đưa ra giải pháp hoàn

thiện và nâng cao công tác thực hiện các quy định của pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi .

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu:

Nhằm phản ánh thực trạng quy định pháp luật và áp dụng các quy định

định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp Luật

đất đai từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.

Từ đó tác giả đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp

nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Phân tích để làm rõ các cơ sở lý luận về các khái niệm, ý nghĩa, vai trò

của bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp;

- Phân tích để làm rõ cơ sở pháp lý về bồi bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh;

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh từ đó, chỉ ra

những yếu kém, khó khăn, bất cập.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng

cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

4

Các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp và thực trạng áp dụng những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

4.1.2. Phạm vi nghiên cứu:

Các quy định pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về về thu hồi

đất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo luật Luật

đất đai 2013 từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp luận

Luận văn dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, dựa trên những quan điểm, định hướng của Đảng về xây dựng

Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới;

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích: Dựa trên các quy định của pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phân tích nội dung

điều luật, phân tích các dữ liệu định lượng. Căn cứ vào thực trạng thực hiện các

dự án có thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh để phân tích, làm

rõ quá trình thực hiện pháp luật của tỉnh.

Phương pháp đánh giá: Sau khi phân tích các quy định pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng

Ninh từ đó tác giả đưa ra quan điểm đánh giá những ưu điểm và những hạn chế

của các quy định của pháp luật.

Phương pháp diễn dịch: Dựa trên những quy định hiện hành về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, tác giả diễn giải những

nội dung, trường hợp áp dụng mà luật quy định để áp dụng, từ đó thấy được

những những bất cập khi áp dụng quy định trên thực tế như trường hợp pháp

luật còn chưa điều chỉnh hay điều chỉnh chưa phù hợp.

5

Phương pháp quy nạp: Từ những quy định của pháp luật và thực tiễn áp

dụng, tác giả đánh giá, phân tích những yếu tố này để nêu ra những điểm

được và chưa được, những khía cạnh còn thiếu của quy định pháp luật từ đó

đưa ra những quy định tích cực cần tiếp tục được áp dụng, những giải pháp,

phương hướng để hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.

Phương pháp so sánh: Để đánh giá được sự tiến bộ của pháp luật cũng

như sự phù hợp của pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp, cần sử dụng phương pháp so sánh quy định pháp luật

qua các thời kỳ, mặt khác cũng cần so sánh các khái niệm hay nhầm lần như

bồi thường với đền bù, bồi hoàn, thu hồi với trưng mua, trưng dụng…thông

qua đó luận văn sẽ thể hiện rõ hơn bản chất của vấn đề được đề cập tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra được những tồn tại, hạn chế trong thực

trạng quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, khắc phục những hạn chế đó

nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật.

Từ thực tiễn áp dụng các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh mà tiêu biểu là thị xã Quảng Yên,

góp phần xây dựng luận cứ khoa học để tỉnh Quảng Ninh nhanh chóng ban hành

những quy định phù hợp với đòi hỏi thực tiễn của địa phương.

Từ đó, tạo cơ sở để nhà nhà lãnh đạo, đại biểu quốc hội của tỉnh nhìn nhận

những vấn đề tồn đọng để góp ý kiến với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa

đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp, thiếu khách quan trong Luật

đất đai năm 2013 cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

6

7. Cơ cấu của Luận văn

Để làm sáng tỏ các vấn đề nêu trên, tác giả bố cục luận văn gồm các

phần sau: Mục lục; Danh mục các chữ viết tắt; Mở đầu; chương 1; chương 2;

chương 3; kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp.

Chương 2: Thực trạng pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh.

Chương 3: Giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh

Quảng Ninh.

7

Chương 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ

TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

1.1.Lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thu hồi đất nông nghiệp

- Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp

Vấn đề thu hồi đất đã thực sự được manh nha từ lâu, nhưng nó thực sự

được quan tâm từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, thời điểm đó

Nhà nước đã tiến hành xoá bỏ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, thiết lập

quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Theo đó, Hiến pháp năm 1959 thừa

nhận ba hình thức sở hữu đất đai là sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân và sở

hữu tập thể. Khi tiến hành thu hồi đất Nhà nước tiến hành điều chỉnh ruộng

đất hoặc nhượng lại ruộng đất cho người bị trưng dụng sẽ được đền bù từ 1

đến 4 năm sản lượng thường niên của ruộng bị trưng dụng. Mặc dù thời kỳ

này, vấn đề thu hồi đất chưa được quy định chi tiết nhưng đó là cơ sở để các

quy định về thu hồi đất sau này được phát triển.

Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai là sở hữu toàn dân, trên cơ sở đó

tại mục 3, phần v của quyết định số 201/CP ngày 01/07/1980 Hội đồng Chính

phủ quy định về thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý

ruộng đất trong cả nước cũng quy định về việc thu hồi đất cụ thể quy định về

lý do thu hồi và việc bồi thường khi thu hồi đất. Quan hệ đất đai thời kỳ này

đơn thuần chỉ là quan hệ “Giao-thu” giữa Nhà nước và người sử dụng. cho

đến trước Luật đất đai năm 2003 thì các quy định về thu hồi đất vẫn tiếp tục

được quy định và mở rộng nhưng không có định nghĩa cụ thể. Khi Luật đất

đai năm 2003 ra đời đã chính thức đề cập đến định nghĩa thu hồi đất là gì,

theo đó, khoản 5, điều 3 Luật đất đai năm 2003 quy định: Thu hồi đất là việc

Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại

8

đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo

quy định của Luật này.

Tại định nghĩa này mặc dù đã khái quát được những nội dung cơ bản

nhất của việc thu hồi đất đó là việc Nhà nước ra quyết định hành chính, điều

này thể hiện tính mệnh lệnh phục tùng đặc điểm đặc trưng của quyết định

hành chính, định nghĩa cũng thể hiện được việc thu hồi đất là thu hồi lại

quyền sử dụng đất hoặc thu hồi lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân

xã, phường, thị trấn… đây là điểm thể hiện hạn chế của định nghĩa bởi việc

thu hồi đất đã giao ngoài các chủ thể được đề cập còn thu hồi đất đã giao của

hộ gia đình, cá nhân. Vậy khi Nhà nước thu hồi đất của cá nhân, hộ gia đình

thì việc thu hồi đất được xử lý như thế nào, rõ ràng đối với nội dung này, Luật

đất đai năm 2003 với các văn bản hướng dẫn luật không có sự thống nhất.

Nhận thấy những điểm hạn chế này, thông qua thực tiễn thực hiện và

yêu cầu của nền kinh tế. Để đất nước hội nhập nhanh chóng với xu thế phát

triển của thế giới, theo kịp các nước phát triển trong khu vực, bắt buộc Nhà

nước phải nhanh chóng có những quyết sách phù hợp với thực tế, mà cụ thể

là Nhà nước phải sửa đổi những điểm chưa phù hợp của luật và các văn bản

hướng dẫn luật trong đó có Luật đất đai năm 2003.

Việc sửa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến thu hồi đất, bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là điều tất yếu, bởi một trong những

điều kiện để nền kinh tế quốc gia phát triển đó là thu hồi các nguồn vốn đầu

tư và nước ta. Mà một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư

của các nhà đầu tư là điều kiện chính sách của Quốc gia cũng như của địa

phương về thu hút đầu tư. Khi các quy định về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nói chung cũng chính là đối với đất nông nghiệp nói

riêng được quy định cụ thể, phù hợp với xu thế, cân đối được quyền lợi cũng

như trách nhiệm của các bên có liên quan thì việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ

9

sẽ được tiến hành nhanh chóng, đem lại lợi ích cho các bên, góp phần ổn định

an ninh xã hội và giúp kinh tế phát triển vững mạnh. Hơn nữa pháp luật quy

định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, người sử dụng đất được Nhà nước giao

đất, cho thuế đất, được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng hợp pháp, Nhà

nước phải có trách nhiệm bảo hộ quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất,

việc thu hồi đất trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.

Do vậy, để những quan điểm, chính sách về bồi thu hồi đất, bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trong các văn bản luật thay đổi phù hợp với

điều kiện thực tế thì Nhà nước ta đã thực hiện việc sửa đổi đầu tiên ở đạo

luật cao nhất của đất nước là Hiến pháp, cụ thể Hiến pháp năm 2013 quy

định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường

hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; Phát triển

kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công

khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”1. Trên cơ sở

đó, Luật đất đai năm 2013 quy định như sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc

Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước

trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp

luật về đất đai”2.

Mặc dù hiến pháp quy định Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân

sử dụng trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; Phát

triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng điều này cũng được áp

dụng đối với thu hồi đất nông nghiệp nhưng Luật đất đai và các văn bản

hướng dẫn luật lại bỏ cụm từ này. Trên thực tế, cũng không có văn bản pháp

luật nào quy định trường hợp thật cần thiết để Nhà nước thu hồi đất là như

1 Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013. 2 Khoản 11 Điều 3 Luật đất đai năm 2013

thế nào, thế nào là thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh? Thế nào là

10

thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công

cộng, điều này vô hình trung đã dẫn đến nhiều trường hợp trong thực tế doanh

nghiệp lớn xin quy hoạch để phát triển kinh tế doanh nghiệp nhưng lại được

núp dưới vỏ bọc dự án phát triển kinh tế vì lợi ích quốc gia và thuộc trường

hợp Nhà nước thu hồi đất, còn doanh nghiệp nhỏ hay các cá nhân, hộ gia đình

khác cũng đang hoạt động kinh tế, cũng đang trực tiếp sản xuất trên diện tích

đất bị thu hồi để phát triển kinh tế gia đình, từ đó góp phần ổn định kinh tế địa

phương lại không được xem trọng.

Ở một khía cạnh khác, mặc dù Luật đất đai năm 2013 và các văn bản

liên quan không quy định nhưng tác giả nhận thấy bản chất của việc Nhà

nước thu hồi đất cũng gần giống với trường hợp trưng mua bởi trưng mua là

việc ép buộc người có tài sản phải bán cho Nhà nước tài sản đó trong trường

hợp nhất định, cũng giống như những trường hợp thuộc Nhà nước thu hồi

đất, bằng quyết định thu hồi đất, chủ sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ bàn

giao đất cho Nhà nước. Ở đây xét trường hợp Nhà nước thu hồi là đúng với

quy định của pháp luật còn trường hợp thu hồi bất hợp pháp tức việc thu hồi

đất không thuộc các trường hợp Nhà nước thu hồi đất thì về bản chất người sử

dụng đất không có trách nhiệm bàn giao đất cho Nhà nước. Tuy nhiên, giữa

trưng mua và trường hợp Nhà nước thu hồi đất có điểm khác nhau cơ bản, đó

là khi trưng mua thì Nhà nước chỉ phải chi trả khoản tiền, tài sản tương ứng

với giá trị thực tế của quyền sử dụng đất và tài sản bị trưng mua, còn khi thu

hồi đất thì Nhà nước bồi thường khoản tiền hoặc diện tích đất có giá trị tương

đương với giá trị quyền sử dụng đất, tài sản bị thu hồi, ngoài ra Nhà nước còn

áp dụng cách chính sách hỗ trợ khác nhau nhằm đảm bảo cuộc sống sau thu

hồi cho người bị thu hồi đất.

Tương tự với trường hợp trưng mua thì Nhà nước cũng có thể áp dụng

việc trưng dụng quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền trên đất trong

11

trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc

trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai. Đối

với trưng dụng, không phải mọi trường hợp Nhà nước đều phải bồi thường

thiệt hại, nếu không có thiệt hại xảy ra thì Nhà nước không phải bồi thường,

mà chỉ phải bồi thường khi tài sản bị hủy hoại hoặc bị thiệt hại do mất thu

nhập khi Nhà nước trưng dụng đất. Vậy khi tài sản trưng dụng bị hủy hoại thì

vấn đề bồi thường không được quy định chi tiết trong Luật đất đai 2013 và

các văn bản hướng dẫn, Nhà nước chỉ bồi thường hay còn hỗ trợ khi tài sản

bị hủy hoại, liệu giá trị bồi thường, hỗ trợ có giống với trường hợp Nhà nước

thu hồi đất hay không? Trong điều kiện không có chiến tranh thì thời hạn

trưng dụng không được xác định cụ thể ( điều kiện bình thường là 30 ngày)

mà phụ thuộc vào tình hình chiến tranh nhưng vấn đề bồi thường trong trường

hợp này cũng không được đặt ra, mặc dù pháp luật bảo hộ quyền sử dụng đất

cho người dân.

Việc thu hồi đất cũng như thu hồi đất nông nghiệp dẫn đến hậu quả tất

yếu là chấm dứt quyền sử dụng đất của người bị thu hồi đất, nhưng lại mở ra

mối quan hệ mới giữa Nhà nước với người được Nhà nước giao lại đất sau

thu hồi đất. Khi chấm dứt các quyền sử dụng đối với đất bị thu hồi, Nhà nước

sẽ phải có những chính sách pháp lý nhằm bù đắp những thiệt hại thực tế,

những ảnh hưởng cơ bản sẽ xảy ra sau thu hồi đất. Các khoản bù đắp có

khoản bồi thường và hỗ trợ. Bồi thường trong trường hợp này không phải là

bồi thường do bên có lỗi gây ra thiệt hại mà do Nhà nước thu hồi đất được

pháp luật cho phép. Nếu pháp luật không phù hợp, không đảm bảo được

quyền lợi giữa các bên, đặc biệt là quyền lợi của người bị thu hồi đất hay

trong quá trình áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng mà không đảm bảo được quyền lợi

chính đáng cho người bị thu hồi đất thì tất yếu sẽ phát sinh mâu thuẫn, mâu

12

thuẫn đó sẽ bộc lộ hay không được bộc lộ ra ngoài tùy thuộc vào nhiều yếu tố.

Nhưng đều đó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình ổn định chính trị, xã hội,

sự phát triển kinh tế của địa phương bị thu hồi đất cũng như Quốc gia.

- Đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp

Thứ nhất, nhà nước thu đất nông nghiệp là thu hồi tư liệu sản xuất và

đối tượng sản xuất của người bị thu hồi đất, điều này ảnh hưởng không nhỏ

đến đời sống, đến thu nhập của người bị thu hồi đất.

Thứ hai, việc thu hồi đất nông nghiệp đồng nghĩa với việc chấm dứt

quyền sử dụng đất của người bị thu hồi đất, chấm dứt các quyền sử dụng đối

với các tài sản gắn liền trên đất không phục hồi được như cây trồng, vật nuôi,

bờ đầm, cầu cống…

Thứ ba, việc thu hồi đất nông nghiệp phần lớn có nhiều thuận lợi hơn

so với thu hồi các loại đất khác, do không phải tốn nhiều chi phí phá dỡ, san

lấp mặt bằng.

Thứ tư, thu hồi đất nông nghiệp mang lại giá trị lợi nhuận lớn cho chủ

đầu tư, do giảm bớt các chi phí phụ, đặc biệt giá thành bồi thường, hỗ trợ cho

đất nông nghiệp thấp hơn rất nhiều so với đất phi nông nghiệp

- Ý nghĩa của thu hồi đất nông nghiệp

Việc thu hồi đất nông nghiệp nhằm phục vụ các lợi ích Quốc gia như:

an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế xã hội, về phương diện rộng sẽ góp

phần lớn thúc đẩy kinh tế Quốc gia phát triển, là nền tảng vững chắc để đẩy

mạnh kinh tế địa phương.

Việc thu hồi đất nông nghiệp sẽ góp phần đưa địa phương mang một

diện mạo mới về kinh tế, xã hội, tạo nguồn cảm hứng lao động, thu hút nhân

lực và nhân tài về địa phương lao động, sáng tạo.

Thu hồi đất nông nghiệp góp phần giảm bớt lãng phí trong sử dụng đất

nông nghiệp như đối với các diện tích đất ít sử dụng, sử dụng không hiệu quả,

13

từ đó đánh thức ý thức sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp của người lao động,

do diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp thì người lao động cần phải sử

dụng mọi biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động, tránh lãng phí đất đai.

1.1.2. Các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp:

Để đảm bảo sự phát triển ổn định của đất nước cũng như đảm bảo

quyền lợi tốt nhất cho người dân, Nhà nước với vai trò là cơ quan đại diện

cho toàn dân thực hiện quyền sở hữu đất đai có trách nhiệm đưa ra các quy

định phù hợp về việc thu hồi đất tránh việc trường hợp lợi dụng việc Nhà

nước thu hồi đất để trục lợi cá nhân. Do vậy, Nhà nước quy định cụ thể

những trường hợp thu hồi đất gồm:

Một là, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh: rõ ràng, việc đưa

ra mục đích thu hồi đất này đầu tiên cho thấy tầm quan trọng của mục đích

thu hồi đất này. Theo cách nhìn nhận khách quan của tác giả, việc đưa lý do

thu hồi đất này đầu tiên cho thấy tính cấp thiết, tầm quan trọng của mục đích

bởi: Quốc phòng, an ninh là là yếu tố hàng đầu đảm bảo cho an ninh quốc gia

tạo cơ sở vững chắc cho kinh tế phát triển.

Hai là, thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công

cộng: Đây là yếu tố trực tiếp tác động đến mức độ phát triển kinh tế của Quốc

gia. Nhà nước quy định những trường hợp thu hồi đất vì mục đích này để

đảm bảo những dự án có tầm quan trọng, có mục đích phát triển kinh tế quốc

gia, công cộng đều có thể thực hiện được (vì lợi ích chung). Hiện nay, xuất

hiện rất nhiều trường hợp mặc dù dự án để xây dựng khu đô thị mới, khu dân

cư nông thôn do doanh nghiệp tư nhân làm chủ được Nhà nước đứng ra thu

hồi, bồi thường đất ở cho người dân với giá 3000.000 đồng - 4.000.000

đồng/m2 đất, còn với đất nông nghiệp như đất trồng cây hàng năm là 55.000

đồng…nhưng lại được chủ đầu tư phân lô, bán nền với giá 20.000.000 đồng -

25.000.000 đồng. rõ ràng mục đích tư lợi cho doanh nghiệp nhưng luật lại quy

14

định những dự án đó thuộc Nhà nước thu hồi nên gây ra hiện tượng lạm dụng

pháp luật mang lại lợi ích cho doanh nghiệp nhưng gây thiệt hại cho người bị

thu hồi đất.

Ba là, thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai: Vì Nhà nước là

người đại diện thực hiện quyền sở hữu về đất đai, nên Nhà nước phải thể hiện

quyền quản lý nghiêm ngặt đối với đất đai, việc người sử dụng đất không

đúng quy định của pháp luật thì sẽ bị xử lý. Điều này góp phần đảm bảo tính

nghiêm minh của pháp luật, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất.

Bốn là, thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự

nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người. đây là một trong

những trường hợp cho thấy Nhà nước luôn quan tâm đến quyền lợi của người

sử dụng đất. khi người sử dụng đất không có nhu cầu sử dụng thì sẽ được Nhà

nước thu hồi, khi có những yếu tố khách quan bất lợi, ảnh hưởng đến đời sống

của người sử dụng đất cũng được Nhà nước quan tâm thu hồi đất, tạo lập nơi

ở mới cho người bị thu hồi đất.

1.1.3. Khái niệm bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp

1.1.3.1. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Xuất phát từ việc xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, như đã nêu ở

các phần trên quyền sử dụng đất của người sử dụng đất được Nhà nước bảo

hộ nên khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người sử dụng đất đã trực

tiếp xâm phạm đến quyền lợi của họ thì Nhà nước phải có những chính sách

phù hợp nhằm hoàn trả lại cho họ những giá trị vật chất khác tương đương với

giá trị họ bị mất đi.

Khoản 12 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 giải thích: Bồi thường về đất

là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi

cho người sử dụng đất. Khái niệm nêu trên chỉ xác định bồi thường về đất,

15

trong khi việc thu hồi đất còn gây những thiệt hại liên quan đến các tài sản

khác gắn liền trên đất như nhà cửa, công trình sinh hoạt, cây cối, hoa màu…

Để xác định cụ thể việc bồi thường cần căn cứ vào các yếu tố sau:

Xác định thiệt hại: thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra có thể là thiệt hại liên

quan đến quyền sử dụng đất bị chấm dứt như thiệt hại về đất, thiệt hại về công

trình, nhà cửa, cây trồng. Nhưng trên thực tế, còn nhiều thiệt hại chưa được

tính toán để bồi thường như: Các loại vật nuôi trên mặt đất, dưới nước chưa

đến kỳ thu hoạch nhưng thiệt hại do phải thu hoạch sớm, hoặc phải di chuyển

đi nơi khiến cho người bị thu hồi đất bị thiệt hại khoản thu nhập do phải bán

vật nuôi sớm, giá rẻ hoặc phải thuê, xây dựng… lại điểm chăn nuôi khác.

Việc xác định chủ thể thiệt hại. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, các

chủ thể sau có thể bị thiệt hại như: Chủ thể có đất bị thu hồi; chủ thể đang trực

tiếp sử dụng đất ; các chủ thể không bị thu hồi đất nhưng vẫn bị ảnh hưởng do

việc thu hồi đất như bị lún, nứt nhà, bị lụt, bị ô nhiễm môi trường, ô nhiễm

nguồn nước…

Như vậy, rõ ràng giải thích về bồi thường về đất nêu tại Khoản 12 Điều

3 Luật đất đai năm 2013 thì chủ bị thu hồi mới được Nhà nước bồi thường

nhưng nội dung phân tích ở trên cho thấy còn nhiều chủ thể, còn nhiều thiệt

hại khác chưa được bổ sung trong điều luật để điều chỉnh.

Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng giải thích trên cần sửa đổi,

bổ sung theo hướng: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước

trả cho người có đất bị thu hồi và các chủ thể bị thiệt hại trong quá trình thu

hồi đất những thiệt hại về quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu, sử dụng đối

với công trình, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi và những thiệt hại khác do

việc thu hồi đất gây ra”.

Trước kia, Luật đất đai năm 1987 và Luật đất đai năm 1993 sử dụng

thuật ngữ “ Đền bù” thay cho “ Bồi thường”. Theo tác giả, đền bù là việc Nhà

16

nước đền trả lại cho người bị thiệt hại giá trị tương đương với tài sản bị thiệt

hại, điều này có nghĩa là người bị thu hồi đất mà diện tích đất đó được xác

định có giá trị là A thì sẽ được đền bù với giá trị là A, người bị thu hồi đất

không được trả thêm bất kỳ khoản tiền hay vật chất nào nữa.

Còn đối với cụm từ “Bồi thường” trong lĩnh vực dân sự quy định về bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng đòi hỏi phải có yếu tố lỗi, có thiệt hại thực tế

xảy ra, thiệt hại có mối quan hệ nhân quả với hành vi, hậu quả bồi thường là

bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại đây là thiệt hại có thể nhìn thấy được,

ngoài ra bên gây thiệt hại còn phải bồi thường giá trị tổn thất không thể nhìn

thấy được đó là thiệt hại về tổn thất tinh thần. Tuy nhiên, để được bồi thường

về nội dung này, người bị thiệt hại phải chứng minh được, còn bồi thường khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không hoàn toàn giống với bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự. Xét về hình thức thì chủ thể

trực tiếp gây thiệt hại là Nhà nước , nhưng hành vi gây thiệt hại này lại được

pháp luật quy định và cho phép tức không có yếu tố lỗi trong trường hợp này.

Mức bồi thường và các khoản bồi thường thiệt hại đã được xác định trước, về

nguyên tắc, bên bị thiệt hại tức người bị thu hồi đất không phải chứng minh

thiệt hại thực tế xảy ra.

Theo quy định thì Nhà nước được quyền thu hồi đất nông nghiệp trong

các trường hợp pháp luật quy định, nhưng thực tế đã có nhiều trường hợp xảy

ra, khi chủ đầu tư sử dụng những lợi ích vật chất, cấu kết với cơ quan có thẩm

quyền thu hồi đất để đưa dự án kinh doanh thương mại, dự án của doanh

nghiệp tư nhân nhằm mục đích thu lợi cho doanh nghiệp núp dưới hình thức

dự án xây dựng khu dân cư nông thôn không đảm bảo được điều kiện thuộc

trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế vì mục

đích quốc gia, công cộng. hay trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

nhưng chưa đảm bảo về trình tự thu hồi, trong những trường hợp này việc thu

17

hồi đất nông nghiệp không được coi là hợp pháp, quyết định thu hồi đất

không có hiệu lực, nhưng hậu quả của việc thu hồi đất nông nghiệp trái luật

không được đề cập trong Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi

hành kèm theo. Căn cứ để xác định và bồi thường những thiệt hại này thuộc

phạm vi điều chỉnh của luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước .

Những thiệt hại do Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không chỉ là

thiệt hại về quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi, không chỉ là những tài

sản gắn liền với đất bị phá hủy, không có điều kiện sử dụng mà thiệt hại còn

là những tài sản sẽ mang lại nguồn lợi cho tương lai như vườn thanh long

đang trong thời kỳ kết quả, hay các loài thủy sinh đang trong thời kỳ sinh

trưởng, khi Nhà nước thu hồi đất, buộc người bị thu hồi đất phải phá dỡ cây

trồng, phải thu hoạch vật nuôi chưa đến thời kỳ thu hoạch để bán với mức giá

thấp nhất…hay việc xác định giá đất để bồi thường hiện nay áp dụng bảng giá

đất 05 năm một lần, trong khoảng thời gian này xét theo tốc độ phát triển kinh

tế của cả nước nói chung, ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng thì bảng giá đất hầu

như không còn phù hợp qua từng năm. Đặc biệt là đối với đất nông nghiệp,

đất nông nghiệp không áp dụng giá bồi thường theo giá thị trường mà áp dụng

một mức giá cho 05 năm, đất nông nghiệp không được áp dụng giá đất cho

từng vị trí đất như đất ở mà áp dụng chung cho từng địa phương. Trong khi

giá đất nông nghiệp trong khu dân cư, đất nông nghiệp gần đường giao thông,

đất nông nghiệp cạnh các khu công nghiệp, khu quy hoạch có giá thị trường

cao hơn nhiều so với những đất nông nghiệp cùng loại nhưng ở vị trí khác,

đặc biệt đối với đất nông nghiệp liền kề với đất ở. Do vậy, việc bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cần phải được xem xét ở nhiều phương

diện, đó là thiệt hại thực tế có thể xác định được cần phải được mở rộng cho

cả những thiệt hại trong tương lai gần, xem xét giá trị thực tế của đất nông

nghiệp linh hoạt theo thị trường.

18

1.1.3.2.Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Để giải quyết hậu quả do Nhà nước thu hồi đất, người thu hồi đất

ngoài việc được bồi thường thì còn được hỗ trợ. Theo khoản 14 Điều 3 Luật

đất đai năm 2013 thì: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ

giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”.

Các khoản hỗ trợ chính khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là hỗ trợ ổn

định đời sống và sản xuất và hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc

làm.

Tuy nhiên theo quan điểm của tác giả, bản chất của những hỗ trợ này

không phải là Nhà nước trợ giúp cho người có đất bị thu hồi mà phải là Nhà

nước bồi thường mới đúng bởi: Những vấn đề mà Nhà nước hỗ trợ đều xuất

phát từ việc thu hồi đất, đó là thiệt hại mà người có đất bị thu hồi bị ảnh

hưởng. Bởi thu hồi đất nông nghiệp nên những gia đình đang trực tiếp sản

xuất nông nghiệp bị mất đất, không còn tư liệu sản xuất, những người nông

dân vốn chỉ quen với công việc đồng ruộng, nay không còn đất hoặc còn ít đất

để canh tác khiến họ hoang mang, phải đi tìm, thích nghi với công việc mới,

có người không thể được nhận vào làm ở các xí nghiệp do không có trình độ,

không trong độ tuổi tuyển dụng. Quy định về các hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp cho thấy Nhà nước đang ban phát cho người bị thu hồi đất

mà không phải ở phương diện Nhà nước phải có trách nhiệm “ Bồi thường”

do hành vi thu hồi đất của mình.

Rõ ràng, vì Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà có thể người bị thu

hồi đất mất tư liệu sản xuất, đối với những người đang trực tiếp sản xuất nông

nghiệp, không còn đất để canh tác, mất thu nhập, nông cụ bỏ phí do không

còn đối tượng lao động đây phải được coi là thiệt hại thực tế, còn các khoản

được coi là hỗ trợ như hỗ trợ hộ gia đình nghèo, hỗ trợ người có công với

cách mạng, hỗ trợ người bị tàn tật, thương binh…

19

Khi Nhà nước bồi thường theo nguyên tắc ngang giá tức người bị thu

hồi đất nông nghiệp được bồi thường công bằng như nhau về giá đất, cách

tính giá trị bồi thường, còn hỗ trợ không phải ai được bồi thường thì cũng

được hỗ trợ. Hỗ trợ có thể áp dụng với từng đối tượng - người bị thu hồi đất

có người cũng bị thu hồi đất nông nghiệp nhưng chỉ được bồi thường mà

không được hỗ trợ, có người được bồi thường và được hỗ trợ các khoản hỗ trợ

chính, có người còn ngoài việc được bồi thường, hỗ trợ chính còn được hưởng

các khoản hỗ trợ khác. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp trên thực tế cần phải xem xét đến đối tượng được hỗ trợ bởi có

người bị thu hồi đất nông nghiệp nhưng trên thực tế không sử dụng đất nông

nghiệp nhưng lại được chính quyền địa phương xác nhận đang trực tiếp sản

xuất nông nghiệp, thu nhập phụ thuộc vào nông nghiệp để hưởng các khoản

hỗ trợ từ việc thu hồi đất nông nghiệp. Bởi mục đích hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp là đảm bảo ổn định đời sống cho người bị thu hồi đất nên

đối với những người bị thu hồi đất mà cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn

vào canh tác đất nông nghiệp. Ngoài việc bồi thường, hỗ trợ bằng tiền cần

phải xem xét đến tầm quan trọng của chính sách hỗ trợ đào tào chuyển đổi và

tìm kiếm việc làm trên thực tế, không nên quy đổi mọi trường hợp hỗ trợ

thành tiền, mà cần phải đào tạo, hỗ trợ tích cực để người bị thu hồi đất thích

nghi, chuyển đổi sang công việc mới có như vậy, mới ổn định được cuộc sống

sau này của người bị thu hồi đất.

1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp

1.2.1 Đặc điểm và vai trò của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp

- Đặc điểm của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp:

20

Thứ nhất, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp ra đời khi xuất hiện chế độ sở hữu, đặc biệt thể hiện cụ thể hơn khi

xuất hiện hình thức sở hữu toàn dân về đất đai trong đó Nhà nước là đại diện

chủ sở hữu có quyền phân bổ, điều chỉnh đất đai cho các mục tiêu kinh tế, xã

hội, tránh sự lạm quyền, tùy tiện trong thu hồi và bồi thường, hỗ trợ đất bị thu

hồi.

Thứ hai, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

ngày càng được hoàn thiện đầy đủ, theo hướng đảm bảo tốt nhất quyền lợi của

các bên, đặc biệt là người bị thu hồi đất. Theo đó, các quy định về bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không phù hợp với thực tế sẽ dần bị

loại bỏ do không nhận được sự đồng tình của người dân và gây ra những bất

ổn về kinh tế, chính trị, xã hội.

Thứ ba, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

xuất phát từ thực tiễn những tổn thất mà người bị thu hồi đất phải gánh chịu

sau thu hồi, từ những yêu cầu cần phải ổn định đời sống, ổn định kinh tế của

người bị thu hồi đất.

- Vai trò của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp:

Thứ nhất, pháp luật mang những đặc trưng đó là: tính quy phạm, tính

bắt buộc chung, tính cưỡng chế và tính thích ứng. Thông qua pháp luật thể

hiện sự quản lý của nhà nước về đất đai, thể hiện sự quan tâm của nhà nước

thông qua các chính sách bồi thường, hỗ trợ đối với người bị thu hồi đất.

Thứ hai, pháp luật quy định các trình tự, thủ tục thu hồi và phương thức

giải quyết hậu quả do việc thu hồi đất nông nghiệp gây ra nhằm chế thấp nhất

việc khiếu kiện, gây khó khăn khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp giúp ổn

định chính trị - xã hội.

21

Thứ ba, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp còn có vai trò thể hiện xu hướng phát triển kinh tế của đất nước, thể

hiện các chính sách đối nội, đối ngoại về việc thu hút vốn đầu tư, và thông

qua đó là thông cụ thể hiện quyền lực Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đất

đai.

1.2. 2. Cấu trúc của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp

Thứ nhât, về nguyên tắc và điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp Nhà nước đã quy định chi tiết hơn các nguyên tắc bồi

thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất,

kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt. Dựa trên những

nguyên tắc và điều kiện bồi thường, hỗ trợ này nhằm đảo bảo việc bồi thường

đúng đối tượng, bồi thưởng, hỗ trợ thỏa đáng những thiệt hại đối với người bị

thu hồi đất đồng thời tạo cơ sở cho việc thực hiện và áp dụng các quy định chi

tiết về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, điều này được quy

định cụ thể tại Điều 74, Điều 88 Luật đất đai 2013, hướng dẫn thực hiện

tại Nghị định 47/2014/NĐ-CP

Thứ hai, nội dung bồi thường, hỗ trợ đối với người bị thu hồi đất nông

nghiệp, bao gồm các quy định cụ thể về bồi thường về phương thức bồi

thường đó là bồi thường bằng tiền và bằng đất điều này được quy định tại

Điều 79 Luật đất đai năm 2013 ; Về giá đất tính bồi thường quy định tại điều

Điều 114 Luật đất đai 2013, Điều 4 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2014 của Chính phủ quy định về giá đất. Luật đất đai 2013 quy định rõ

nguyên tắc định giá đất phải theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời

điểm định giá, theo thời hạn sử dụng đất; bổ sung quy định về cơ quan xây

dựng, cơ quan thẩm định giá đất, vị trí của tư vấn giá đất trong việc xác định

giá đất, thẩm định giá đất và việc thuê tư vấn để xác định giá đất cụ thể. Luật

22

quy định khung giá đất do Chính phủ ban hành, định kỳ 05 năm một lần đối

với từng loại đất, theo từng vùng; bỏ quy định việc công bố bảng giá đất vào

ngày 01/01 hàng năm, thay vào đó, bảng giá đất được xây dựng định kỳ 5

năm một lần và công bố công khai vào ngày 01/01 của năm đầu kỳ.

Thứ ba, về trình tự và thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp gồm các quy định về: Lập, bổ sung, thẩm định, thực hiện phương án

bồi thường, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong

việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất nông nghiệp.

Thứ tư, việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

luôn là vấn đề dư luận quan tâm, ở đâu có dự án thì ở đó có khiếu nại, đó có

thể là khiếu nại về thu thu hồi đất, khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ, việc giải

quyết những vấn đề này được quy định tại Khoản 2, Điều 204 và Khoản 2,

Điều 205 Nhà nước áp dụng các quy định về giải quyết khiếu nại Luật Khiếu

nại, Luật Tố cáo năm 2011; Luật Tố tụng hành chính năm 2010.

1.2.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp

Thứ nhất, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tác động đến nội dung các

quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

thể hiện: Vì nhà nước là đại diện chủ sở hữu nên khi thu hồi đất nông nghiệp

nhà nước đứng ra bồi thường một khoản tiền tương ứng với giá trị đất bị thu

hồi cho người bị thu hồi đất; không phải mọi trường hợp bị nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp đều được bồi thường mà chỉ những diện tích đất đáp ứng

điều kiện được bồi thường theo quy định của pháp luật mới được bồi thường

và hỗ trợ.

Thứ hai, xây dựng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp phải quan tâm đến quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng

về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đổi mới đất

23

nước. Nhà nước thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng bằng các quy

định của pháp luật để quản lý xã hội.

Thứ ba, dựa trên các nền tảng cơ bản của quyền được sống, được mưu

cầu hạnh phúc… bởi khi thu hồi đất nông nghiệp, đương nhiên người sử dụng

đất bị tước đi quyền sử dụng đất kéo theo là các hệ lụy về việc dừng sản xuất

lao động, không tạo ra được thu nhập cũng như lương thực thực phẩm trên

diện tích đất bị thu hồi, điều này đe dọa trực tiếp đến đời sống của người dân,

do vậy nhà nước cần phải ban hành các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi thu

hồi đất nông nghiệp để ổn định đời sống cho người bị thu hồi đất.

Thứ tư, về phương diện chính trị, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được ban hành, được quan tâm thực hiện sẽ

tạo được lòng tin cho nhân dân, từ đó nhà nước có điều kiện thuận lợi để thực

hiện các chính sách pháp luật khác.

Tiểu kết chương 1

Thông qua những phân tích về những vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ

trợ, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và pháp Luật đất đai về bồi thường,

hỗ trợ, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, tác giả thấy rằng việc quy định

các cơ sở pháp lý về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp không thể tùy tiện quy định và áp dụng mà phải

được quy định bằng việc xác định phạm vi, đối tượng cụ thể nhằm mục đích

đảm bảo quyền lợi giữa các bên liên quan. Thông qua những vấn đề lý luận về

pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, cũng cho

thấy tính cấp thiết cần nhanh chóng hoàn thiện các quy định này, căn cứ vào

quả thực hiện các quy định pháp luật sẽ chọn lọc ra những quy định phù hợp,

quy định cần bổ sung cần sửa đổi và cần hủy bỏ, từ đó đó góp phần phát triển

kinh tế và ổn định chính trị - xã hội.

24

CHƯƠNG 2.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ

KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH

QUẢNG NINH

2.1. Thực trạng quy định pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

2.1.1. Các quy định về nguyên tắc và điều kiện bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp

Để quy định cụ thể về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp, căn cứ vào thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Luật Đất đai năm 2013

ngoài việc quy định về nguyên tắc bồi thường đã có sự phân biệt cụ thể về

nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản,

ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành những điều luật

riêng biệt, cụ thể:

Thứ nhất về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Tác giả cho rằng lý do khiến Nhà nước đưa quy định về nguyên tắc bồi

thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất đứng trước các nguyên tắc bồi

thường, hỗ trợ còn lại vì Nhà nước thu hồi đất, đầu tiên sẽ xâm phạm trực tiếp

đến quyền sử dụng đất của người bị thu hồi đất, đó là việc chấm dứt quyền sử

dụng đất và đây cũng là hậu quả thấy đầu tiên.

Một là, để bồi thường về đất, Nhà nước quy định phạm vi đối tượng

được bồi thường về đất là người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có

đủ điều kiện được bồi thường hay nói cách khác người sử dụng đất nếu được

Nhà nước công nhận hoặc đủ điều kiện để Nhà nước cấp quyền sử dụng đất,

quyền ở hữu nhà ở, quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất thì sẽ được bồi

thường theo thiệt hại thực tế họ mắc phải khi gặp phải chính sách thu hồi đất

của Nhà nước . Đều đó thể hiện sự bình đẳng của Nhà nước đối với người sử

25

dụng đất, họ được đối xử như nhau trên pháp luật. Trên thực tế, ở nước ta giai

đoạn Luật đất đai năm 1993 còn hiệu lực, việc áp dụng chính sách dồn điền

đổi thửa được khuyến khích, các hộ dân tự ý dồn điền đổi thửa với nhau có

nơi thông qua chính quyền địa phương có nơi không thông qua chính quyền

địa phương, khi Nhà nước thu hồi vào đất bắt đầu phát sinh các vấn đề về

diện tích đất được bồi thường. Nhiều trường hợp các bên không tranh chấp về

diện tích đất đã đổi nay được bồi thường và tự thống nhất nhận tiền bồi

thường theo diện tích đất mà người đó đang canh tác. Nhưng cũng có nhiều

trường hợp khi Nhà nước thu hồi và bồi thường giá trị đất nông nghiệp đó thì

các bên bắt đầu có tranh chấp, có thể là tranh chấp về diện tích đất dồn đổi,

chẳng hạn một bên dồn đổi sau khi thu hồi phát hiện ra diện tích đất bị thu hồi

của gia đình mình ít hơn bên còn lại mặc dù khi đổi các bên có ý định là đổi

ngang nhau về diện tích và thực tế cho đến thời điểm thu hồi đất thì chính

quyền địa phương vẫn chưa thực hiện, hay chưa hoàn thiện thủ tục cấp lại

giấy chứng nhận cho người dân đối với phần diện tích dồn đổi. Như vậy, việc

bồi thường về đất nếu xét về điều kiện được cấp giấy chứng nhận thì trong

trường hợp này phải bồi thường cho chủ sử dụng có tên trong giấy chứng

nhận, nhưng trên thực tế các bên đã dồn đổi ruộng cho nhau theo đúng chính

sách của Nhà nước nên chăng áp dụng bồi thường đối với diện tích đất các

bên hiện đang sử dụng?

Hai là, việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục

đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi

thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Việc bồi thường sẽ

ưu tiên bồi thường bằng đất rồi sau đó đến trả tiền ( trừ một số trường hợp

khác muốn lấy tiền hay buộc lấy đất). Như vậy, khi Nhà nước thu hồi đất thì

được thực hiện bồi thường bằng hai hình thức đó là bồi thường bằng đất cùng

26

loại, nếu không có đất cùng loại thì được bồi thường bằng tiền với giá trị

tương đương. Quy định này ưu tiên việc bồi thường thu hồi đất bằng đất cùng

loại trước vì nhà làm luật cho rằng nếu bồi thường bằng đúng loại đất đã thu

hồi thì sẽ giảm thiểu thiệt hại xuống mức thấp hơn, như bị thu hồi đất trồng

lúa, Nhà nước sẽ bồi thường đất trồng lúa khác cho người bị thu hồi, nhưng

quy định này lại không làm rõ vấn đề, mặc dù, đều là đất cùng loại nhưng vị

trí canh tác khác nhau như đất gần đường giao thông thuận lợi hơn so với đất

cách xa đường giao thông, đất ở nơi có nhiều bồi đắp phù sa thì canh tác sẽ

đạt năng suất cao hơn đất ở nơi khô cạn. Tuy nhiên, quy định này có tác dụng

ngăn ngừa tình trạng người bị thu hồi đất đòi bồi thường quá cao, nếu còn quỹ

đất thì Nhà nước vẫn được quyền áp dụng bồi thường bằng đất cùng loại.

theo quan điểm của tác giả, khi thu hồi đất, Nhà nước cần tham khảo ý kiến

của người dân về lựa chọn hình thức bồi thường, hỗ trợ, chẳng hạn có nhiều

hộ gia đình sau thu hồi đất, họ tiếp tục lựa chọn hình thức sản xuất nghiệp là

nghề nghiệp chính của họ thì căn cứ vào nguyện vọng Nhà nước cần ưu tiên

bồi thường cho người bị thu hồi đất diện tích đất nông nghiệp cùng loại và có

điều kiện sử dụng, khai thác kinh tế tương đương với diện tích đất đã bị thu

hồi. điều này góp phần ổn định tâm lý của và phần nào giải tỏa được bài toán

về ổn định công việc, đời sống của người bị thu hồi đất. Còn đối với những

địa phương có quỹ đất nông nghiệp hạn hẹp thì nên cân nhắc tới việc thu hồi

vào đất nông nghiệp, đồng thời cần có đánh giá cụ thể về ảnh hưởng của việc

thu hồi đất nông nghiệp tới đời sống của người bị thu hồi đất, ảnh hưởng đến

ổn định an ninh lương thực của địa phương để có phương án thu hồi đất phù

hợp đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho các bên.

Trường hợp Nhà nước không bồi thường bằng đất thì có thể bồi thường

bằng tiền. Quy định này thể hiện sự linh hoạt của Nhà nước trong việc bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, bởi, trên thực tế có nhiều cá

27

nhân, hộ gia đình không còn nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp và ở một góc

độ nào đó, việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đã trút bớt gánh nặng đóng

thuế hàng năm cho họ, đồng thời lại tạo cho họ có nguồn thu nhập, tạo vốn

kinh doanh cho người bị thu hồi đất hoặc có nhiều người khi bị thu hồi đất

nông nghiệp, họ đang ở độ tuổi nghỉ hưu và không có khả năng lao động nữa,

việc Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất góp phần nâng cao chất lượng

cuộc sống cho người bị thu hồi đất. Tác giả nhận thấy, hình thức bồi thường

này hiện nay đang được áp dụng phổ biến bởi nó nhanh, gọn và cũng phù hợp

với đa số tâm lý của người bị thu hồi đất.

Ba là, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ,

khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.

tác giả cho rằng, việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế rất khó xác định

việc bồi thường đã đảm bảo các nguyên tắc hay chưa, không có một chuẩn

mực cụ thể nào được quy định. Có thực sự dân chủ không khi thực tế, nhiều

dự án sử dụng vào mục đích kinh doanh thương mại của doanh nghiệp nhưng

lại được Nhà nước thu hồi đất, người dân không đồng ý, nhưng phản đối gần

như không có tác dụng, có khách quan không? khi rất nhiều dự án xảy ra việc

bồi thường, hỗ trợ không phù hợp, không đúng với quy định của pháp luật,

Thứ hai, nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản sản xuất, kinh

doanh khi Nhà nước thu hồi đất:

Một là, khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn

liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường. Đây là một điểm mới

của Luật đất đai 2013 khi đã bắt đầu xem xét bồi thường về đất không chỉ với

tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên và tư liệu sản xuất. Trên thực tế, ngoài

ý nghĩa tài sản, đất nông nghiệp còn là đối tượng lao động, tư liệu sản xuất

mang lại thu nhập cho con người, trên đất nông nghiệp vẫn có những tài sản

khác như bờ đầm, bờ ao, cống, kè bê tông, cây trồng nhưng với điều kiện các

28

tài sản này phải được hình thành hợp pháp như không bị xử phạt vi phạm

hành chính, hình thành trước khi có thông báo thu hồi đất.... nếu đáp ứng

được yêu cầu này thì ngoài việc bồi thường giá trị của đất còn phải bồi

thường thiệt hại về tài sản cho người dân là phù hợp.

Hai là, khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân,

người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường

thiệt hại. Nếu chỉ hỗ trợ một khoản trong một thời gian nhất định thì coi như

đã phó mặc việc tìm kiếm kế sinh mới cho người mất đất, để được bồi thường

thiệt hại trong trường hợp này người bị thu hồi đất phải chăng càng chứng

minh thiệt hại càng nhiều thì giá trị được bồi thường càng lớn? Do đó, thay vì

quy tất cả các khoản bồi thường thành tiền rồi Nhà nước phó mặc cho người

bị thu hồi đất tự tìm công việc để kiếm kế sinh nhai thì Nhà nước cần phải

cùng với người bị thu hồi đất tìm ra giải pháp công việc phù hợp bằng các

buồi đối thoại trước và sau khi có quyết định thu hồi; Đồng thời, nhà đầu tư

phải chi trả cho người mất đất một khoản tiền tương ứng với mức thu từ sử

dụng đất trước đây cho tới khi người bị mất đất có nguồn thu nhập mới và

theo nguyên tắc, càng để lâu, chi phí bồi thường càng lớn để bắt buộc nhà đầu

tư không thể trì hoãn.

Thứ ba nguyên tắc hỗ trợ:

Đây cũng là điểm mới của Luật đất đai 2013, Nhà nước quy định rõ

ràng các nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:

Ngoài việc được bồi thường về thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất thì

người sử dụng đất còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ; Việc hỗ trợ phải bảo

đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp

luật3. Tính khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định pháp

3 Khoản 1 Điều 83 Luật đất đai 2013

29

luật khi Nhà nước tiến hành hỗ trợ chưa có một quy chuẩn nào để xác định cơ

quan Nhà nước đã đảm bảo những điều này. Trên thực tế đã xuất hiện rất

nhiều mâu thuẫn xuất phát từ việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp như: mâu thuẫn khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, mâu

thuẫn do giá đất bồi thường thấp, mâu thuẫn do cơ quan Nhà nước , chủ đầu

tư chậm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, mâu thuẫn do thông báo thu hồi đất từ

năm 2013 nhưng đến năm 2015 mới ra quyết định thu hồi đất gây thiệt hại

cho người dân, mâu thuẫn do áp dụng chính sách bồi thường không đúng đối

tượng, tất cả các mâu thuẫn trên đều xuất phát từ việc cơ quan Nhà nước tiến

hành hỗ trợ không đúng quy định của pháp luật như: áp dụng đối tượng, điều

kiện được hưởng hỗ trợ không đúng theo quy định của pháp luật, không đảm

bảo sự công bằng, cùng một dự án, cùng có thời điểm kiểm đếm như nhau

nhưng có người lại được bồi thường, hỗ trợ sớm hơn những người khác 01

năm

Tương tự như nguyên tắc bồi thường, khi Nhà nước thu hồi đất của

người dân ngoài việc phải bồi thường lại phần của họ bị mất còn phải hỗ trợ

cho người dân để họ sớm khắc phục tình hình, nhanh chóng ổn định đời sống.

Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp và thể hiện sự quan tâm của Nhà nước với

người bị thu hồi đất. Các khoản hỗ trợ được Nhà nước hỗ trợ khi thu hồi đất

là hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm

kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá

nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; và các hỗ trợ khác. Nhà nước đặt

nguyên tắc này ở vị trí đầu tiên trong nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất cho thấy ý nghĩa quan trọng của nó trọng của nó. Như đã phân tích, đất

nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, trước hết

thông qua sản xuất nông nghiệp đã cung cấp lương thực ổn định cho chính

người sản xuất, tạo thu nhập và góp phần ổn định về kinh tế, xã hội của địa

30

phương. Việc thu hồi đất nông nghiệp, trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến nhu

cầu lương thực hàng ngày của người dân, khi bị thu hồi đất, người bị thu hồi

chưa thể thích nghi cũng như sản xuất được lương thực thực phẩm tại nơi ở

mới. Nhà nước ban hành quy định hỗ trợ ổn định đời sống khi thu hồi đất

nông nghiệp nhằm giải quyết những vướng mắc ở trên, nhưng việc áp dụng

chính sách này còn bộc lộ bất cập đó là việc xác định tỷ lệ thu hồi đất nông

nghiệp để tính giá trị hỗ trợ.

Ở Quảng Ninh, hầu hết các địa phương đều áp dụng việc xác định tỷ lệ

thu hồi đất nông nghiệp dựa vào diện tích đất nông nghiệp được cấp GCN

QSDĐ, chứ không áp dụng tỷ lệ thu hồi đất căn cứ vào diện tích đất nông

nghiệp đang sử dụng, bởi nếu xác định theo cách này thì ngoài diện tích đã

được cấp GCN QSDĐ thì còn những diện tích đất nông nghiệp đủ điều kiện

cấp gcn nhưng chưa được cấp. Trường hợp phần lớn diện tích đất mà người bị

thu hồi đất đang sử dụng và bị thu hồi là đất nông nghiệp khai hoang, đủ điều

kiện cấp GCN QSDĐ, còn diện tích đất nông nghiệp đã được cấp GCN

QSDĐ thì chỉ chiếm tỷ lệ thu hồi rất nhỏ, nếu áp dụng cách xác định tỷ lệ thu

hồi đất nông nghiệp căn cứ vào diện tích đất nông nghiệp đã được cấp GCN

QSDĐ thì sẽ gây thiệt thòi cho người bị thu hồi đất.

Còn đối với khoản hỗ trợ hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm

việc làm, cho đến thời điểm này, tác giả chưa có bất kỳ số liệu cũng như

thông tin nào về việc các địa phương tại tỉnh Quảng Ninh tiến hành đào tạo

chuyển đổi nghề cho người bị thu hồi đất. Chưa có dự án nào mà trước khi

thu hồi đất hoặc trong quá trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ mà cơ quan

Nhà nước lấy ý kiến của người dân về nhu cầu việc làm sau khi thu hồi đất

mà chỉ mặc định khi thu hồi đất sẽ chuyển tất cả các khoản hỗ trợ theo quy

định thành tiền để chi trả cho người dân. Về phía người dân do không am hiểu

pháp luật, cũng như “ Lần đầu tiên” bị thu hồi đất nên chưa đưa ra ý kiến của

31

mình về hình thức hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm, điều

này đã ảnh hưởng không nhỏ tới ổn định đời sống về lâu dài cho người bị thu

hồi đất. Nếu người bị thu hồi đất còn trong độ tuổi lao động và có khả năng

thích nghi với điều kiện sống với về công việc thì mức độ ảnh hưởng giảm

bớt, nhưng nếu người bị thu hồi đất có khả năng thích nghi chậm hoặc không

thể thích nghi với các công việc phổ thông tại địa phương thì cơ quan Nhà

nước nên tìm hiểu nguyện vọng về công việc của người dân, từ đó có phương

án cũng như hỗ trợ phù hợp cho những đối tượng đặc biệt.

Về hỗ trợ tái định cư, mặc dù theo cách hiểu thông thường thì hỗ trợ

tái định cư chỉ áp dụng trong trường hợp Nhà nước thu hồi vào đất ở của

người bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở nhưng tại khoản 4, Điều 6 Nghị

định 47/2014/NĐ - CP thì: Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi

Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ

ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở

nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được Nhà

nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng

đất. Giá bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở; Giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi

Nhà nước giao đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.

Như vậy, Nhà nước đã thể hiện sự đồng cảm, sự quan tâm tới đời sống

của nhân dân, theo quy định này thì mặc dù diện tích đất bị thu hồi không

được công nhận là đất ở nhưng khi thu hồi, trên đất có nhà ở và người bị thu

hồi đất đang sử dụng mà phải di chuyển chỗ ở, trên địa bàn xã phường nơi có

đất bị thu hồi không còn chỗ ở nào khác thì Nhà nước sẽ tạo điều kiện về nơi

ở mới bằng cách bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu

tiền sử dụng đất. Mặc dù, quy định này thể hiện sự tiến bộ trong tư duy của

nhà làm luật nhưng trên thực tế áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh cũng như ở thị

xã Quảng Yên, tác giả gần như chưa nhận thấy được trường hợp nào bị thu

32

hồi vào đất không phải đất ở mà được Nhà nước tạo điều kiện về nơi ở mới

như điều luật quy định. Nên chăng, Nhà nước cần phải có những quy định cụ

thể hơn để quy định này được áp dụng trên thực tế.

2.1.2. Điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp

Điều kiện được bồi thường, hỗ trợ: Được cấp Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ( gọi tắt là Giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất); Căn cứ vào Điều 100 Luật đất đai năm 2013,

diện tích đất đủ điều kiện được cấp GCN QSDĐ theo quy định của pháp luật.

Điều kiện có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài

sản khác gắn liền với đất. Hiện nay, đây được xác định là giấy tờ có giá trị

pháp lý cao nhất. Tuy nhiên trên thực tế xảy ra nhiều trường hợp mà khi

người sử dụng đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất những vẫn chưa

được xác định là người được bồi thường, hỗ trợ, quay lại trường hợp dồn điền

đổi thửa đã trình bày ở trên thì hai hộ gia đình dồn diền đổi thửa với nhau

nhưng vẫn chưa được cơ quan Nhà nước cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất thì việc bồi thường theo giấy chứng nhận có áp dụng trong trường

hợp này. Hay việc cấp giấy chứng nhận là không đúng quy định của pháp luật

như cấp giấy chứng nhận đối với diện tích đất là di sản thừa kế nhưng các bên

chưa phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật hay việc cấp nhầm

giấy chứng nhận cho người khác thì việc bồi thường cũng không được áp

dụng trong những trường hợp này.

2.1.3. Giá đất bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp

Theo khoản 2 Điều 74 Luật đất đai năm 2013, “nếu không có đất để

bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu

hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Trong

33

khi đó Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định giá đất để

tính mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường

hợp Nhà nước THĐ nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất

nông nghiệp trong trường hợp hỗ trợ bằng tiền là không quá 05 lần giá đất

nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất do UBND tỉnh đó ban hành. Ở đây

thấy rõ, Luật đất đai năm 2013 quy định hai loại giá đất, đó là giá đất theo

“bảng giá đất” và “giá đất cụ thể”. Khoản 3 Điều 112 Luật đất đai năm 2013

quy định: Giá đất của Nhà nước phải “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị

trường. Giá đất phổ biến trên thị trường là mức giá xuất hiện với tần suất

nhiều nhất trong các giao dịch đã chuyển nhượng thành công trên thị trường,

giá đất trúng đấu giá QSDĐ, giá đất xác định từ chi phí, thu nhập của các thửa

đất có cùng mục đích sử dụng tại một khu vực và trong một khoảng thời gian

nhất định4. Thực tế cho thấy, điểm khó nhất vẫn là xác định giá đất phổ biến

trên thị trường bởi thị trường đất đai ở Việt Nam, nếu có, là một thị trường

chưa hoàn chỉnh và nhiều biến động.

Theo quy định tại khoản 3, 4 Điều 114 Luật đất đai năm 2013 thì:

UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có

trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể trên cơ

sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về

giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai; Áp dụng phương pháp định giá đất phù

hợp. Căn cứ kết quả xác định giá đất, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình

Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi trình UBND cùng cấp quyết

định. Việc thẩm định phương án giá đất do Hội đồng thẩm định giá đất thực

hiện, UBND cấp tỉnh quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá đất bao

gồm các thành phần sau: Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng;

4 Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP

Đại diện lãnh đạo Sở Tài chính làm thường trực Hội đồng; đại diện lãnh đạo

34

Sở Tài nguyên và Môi trường và UBND cấp huyện nơi có đất; tổ chức có

chức năng tư vấn xác định giá đất hoặc chuyên gia về giá đất và các thành

viên khác do UBND cấp tỉnh quyết định.

Như vậy, chủ thể định giá đất tính bồi thường và chủ thể trực tiếp chi

trả tiền bồi thường cũng là các cơ quan, đơn vị thuộc các cơ quan hành chính

Nhà nước , điều này liệu có đảm bảo được tính khách quan của việc xác định

giá bồi thường. Bởi nhiều trường hợp Nhà nước cũng chính là chủ đầu tư, mà

số tiền mà người bị thu hồi đất được nhận phụ thuộc vào đơn giá bồi thường

do các cơ quan trên quyết định vì nếu đơn giá thấp thì khoản tiền chi trả sẽ

thấp và nó sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị thu hồi đất.

Việc xác định giá đất trên thực tế chỉ được áp dụng cho đất ở, vậy đất

nông nghiệp tại sao không được áp dụng phương pháp định giá đất theo giá

thị trường, bởi đất nông nghiệp cũng chịu ảnh hưởng biến động của thì trường

về giá đất. như đã nói đối với đất nông nghiệp có vị trí gần đường giao thông,

khu dân cư, khu công nghiệp… thì sẽ có nhiều lợi thế hơn, đặc biệt là đối với

đất trồng cây lâu năm, đất vườn ao liền kề với đất ở, bởi loại đất này thông

thường sẽ dễ thực hiện việc nhận chuyển nhượng, chuyển mục đích đất, nhiều

nơi đất nông nghiệp trên thực tế có giá vài triệu, thậm chí vài chục triệu nếu

chuyển nhượng đất cho người khác hoặc chuyển nhượng lại cho doanh

nghiệp, nhưng khi Nhà nước thu hồi thì chỉ được bồi thường với mức giá

55.000 đồng/m2, điều này đã tạo điều kiện đẩy mâu thuẫn khi Nhà nước thu

hồi đất lên cao hơn.

2.1.4. Các quy định về trình tự, thủ tục bồi thường đối với người bị thu hồi đất

nông nghiệp

Trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp theo Luật đất đai năm 2013 bao gồm các bước sau:

35

Bước 1: Xây dựng phương án bồi thường. Sau khi dự án đầu tư được

xét duyệt hoặc chấp thuận, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường có trách nhiệm

lập và trình phương án về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp. Căn cứ vào kế hoạch và việc thực hiện các dự án đầu tư, các cơ quan

có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư và ra quyết định về nội dung bồi

thường. Người sử dụng đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ

bồi thường, giải phóng mặt bằng và thực hiện việc khảo sát, đo đạc và xác

định diện tích đất, tài sản gắn liền với đất để lập phương án bồi thường.

Bước 2: Lấy ý kiến bằng văn bản có xác nhận của cơ quan có thẩm

quyền về phương án bồi thường thông qua hình thức lấy ý kiến là tổ chức họp

trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi và niêm yết công khai

phương án bồi thường cư tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung

của khu dân cư nơi có đất thu hồi.

Bước 3: Hoàn chỉnh phương án bồi thường. Trên cơ sở ý kiến góp ý

của các đối tượng có đất bị thu hồi, đại diện chính quyền, 28 đoàn thể ở cơ sở,

tổ chức bồi thường tiếp thu, hoàn chỉnh phương án chi tiết bồi thường trình cơ

quan chuyên môn thẩm định và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Bước 4: Phê duyệt phương án bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Sở

Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm

chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện thẩm định phương án

bồi thường trước khi Ủy ban nhân dân cùng cấp phê duyệt (Theo Điều 13

Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014). Quyết định thu hồi đất và

tổ chức thực hiện phương án bồi thường được UBND cấp có thẩm quyền quy

định tại Điều 66 của Luật đất đai năm 2013 quyết định thu hồi đất, quyết định

phê duyệt phương án bồi thường.

Bước 5: Công khai phương án bồi thường. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi

thường, GPMB có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã phổ biến và niêm

36

yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở UBND

cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và gửi

quyết định bồi thường đến từng người có đất nông nghiệp bị thu hồi. Trong

đó ghi rõ về mức bồi thường, thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường và

thời gian bàn giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường và giải

phóng mặt bằng.

Bước 6: Thực hiện bồi thường. Tổ chức thực hiện việc bồi thường theo

phương án bồi thường đã được phê duyệt nếu trường hợp người có đất thu hồi

không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt

bằng thì UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, nơi có đất

nông nghiệp bị thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường thì Ban giải

phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực

hiện. Nếu người dân vẫn không chấp hành việc bàn giao đất thì tiến hành các

thủ tục cưỡng chế theo quy định. Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm

bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người

có đất thu hồi, ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường được

cấp có thẩm quyền phê duyệt thì người có đất thu hồi còn được thanh toán

thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý

thuế năm 2012 tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả là. Người sử

được bồi thường có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối

với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền chưa

thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường để hoàn trả ngân

sách Nhà nước .

2.1.5. Nội dung các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo

về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Việc khiếu nại tố cáo về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp đang diễn ra rất phức tạp, nhiều trường hợp khiếu nại vượt cấp,

37

tụ tập đông người, có lời lẽ xuyên tạc, đi ngược với chính sách của Nhà nước.

Việc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực này áp dụng các quy định tại Luật

Khiếu nại năm 2011, luật tố cáo năm 2011, Luật Tố tụng Hành chính năm

2010.

Các quy định về giải quyết khiếu nại tố cáo khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp đã thể hiện trách nhiệm của Nhà nước nhằm đảm bảo cho việc

bồi thường, hỗ trợ được thỏa đáng cho người bị thu hồi đất. Trong quá trình

giải quyết bồi thường cho người dân, cơ quan có thẩm quyền cần phải xem

xét, căn cứ tình hình thực tế để có sự áp dụng chính xác các quy định pháp

luật để đánh giá đúng thiệt hại, đưa ra phương án bồi thường hợp lý, tránh

tình trạng mức bồi thường quá thấp, quá chênh lệch với thiệt hại thực tế. Điều

này sẽ gây bức xúc lớn trong dư luận, tạo khó khăn trong quá trình thu hồi đất

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh.

2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, kinh tế - xã hội

của tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Quảng

Ninh được ví như một Việt Nam thu nhỏ, vì có cả biển, đảo, đồng bằng, trung

du, đồi núi, biên giới. Trong quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa

thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc vừa thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ.

Đây là tỉnh khai thác than đá chính của Việt Nam và có vịnh Hạ Long là di

sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới.

Thứ nhất về vị trí địa lý của tỉnh Quảng Ninh:

Tỉnh quảng ninh là tỉnh có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi để phát triển

kinh tế bởi phía bắc giáp Trung Quốc là một cường quốc trên thế giới tạo cơ

hội thông thương về nhiều lĩnh vực, phía đông giáp vịnh bắc bộ thuận lợi để

phát triển giao thông đường thủy, phía phía tây nam giáp tỉnh Hải

38

Dương và thành phố Hải Phòng là một trong những tỉnh, thành phố có tốc độ

phát triển kinh tế mạnh của cả người, đồng thời phía tây bắc giáp các tỉnh

Lạng Sơn, Bắc Giang và Hải Dương. Với vị trí địa lý vô cùng thuận lợi để

phát triển kinh tế không chỉ ở phạm vi khu vực phía bắc mà còn thuận lợi để

phát triển kinh tế trong nhiều lĩnh vực với các tỉnh khác trong cả nước, đồng

thời Quảng Ninh còn là cửa ngõ giao thương với cường quốc kinh tế thế giới

là Trung Quốc, nên tỉnh Quảng Ninh là điểm đến của các đầu tư là điều dễ

hiểu.

Thứ hai về điều kiện tự nhiên:

Quảng Ninh là tỉnh miền núi, trung du nằm ở vùng duyên hải, với hơn

80% đất đai là đồi núi. Trong đó, có hơn hai nghìn hòn đảo núi đá vôi nổi trên

mặt biển, phần lớn chưa được đặt tên. Địa hình của tỉnh có thể chia thành 3

vùng gồm có vùng núi, vùng trung du và đồng bằng ven biển, và Vùng biển

và hải đảo. Địa hình đáy biển Quảng Ninh, không bằng phẳng, độ sâu trung

bình là 20 m. Có những lạch sâu là di tích các dòng chảy cổ và có những dải

đá ngầm làm nơi sinh trưởng các rặng san hô rất đa dạng.

Quảng Ninh nằm vùng Khí hậu cận nhiệt đới ẩm đặc trưng cho các tỉnh

miền bắc vừa có nét riêng của một tỉnh vùng núi ven biển có một mùa hạ

nóng ẩm mưa nhiều, một mùa đông lạnh khô và ít mưa.

Quảng Ninh có tất cả khoảng 30 sông, suối với chiều dài trên 10 km.

Diện tích lưu vực thông thường không quá 300 km2, trong đó có bốn con sông

lớn là hạ lưu sông Thái Bình, sông Ka Long, sông Tiên Yên và sông Ba Chẽ.

Tuy nhiên, hầu hết các sông suối đều ngắn, nhỏ và độ dốc lớn. Lưu lượng và

lưu tốc rất khác biệt giữa các mùa. Vào mùa đông, các sông cạn nước, có chỗ

trơ ghềnh đá nhưng mùa hạ lại ào ào thác lũ, nước dâng cao rất nhanh. Lưu

lượng mùa khô 1,45 m3/s, mùa mưa lên tới 1500 m3/s, chênh nhau 1.000 lần

39

Quảng Ninh là một trong 25 tỉnh, thành phố có biên giới, tuy nhiên lại

là tỉnh duy nhất có đường biên giới trên bộ và trên biển với Trung Quốc, với

đường biên giới trên bộ dài 118,825 km và đường phân định Vịnh Bắc Bộ

trên biển dài trên 191 km. Mặc khác, Quảng Ninh là một trong 28 tỉnh, thành

có biển, với đường bờ biển dài 250 km, trong đó có 40.000 hecta bãi triều và

trên 20.000 hecta eo vịnh, có 2/12 huyện đảo của cả nước. Tỉnh có 2.077 hòn

đảo, và diện tích các đảo chiếm 11,5% diện tích đất tự nhiên.

Không chỉ có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, điều kiện về đất đai

màu mỡ, nguồn khoáng sản dồi dào mà tỉnh Quảng Ninh còn là một trong

những tỉnh có "dân số trẻ", tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi chiếm tới 37,6%. Người

già trên 60 tuổi (với nam) và trên 55 tuổi (với nữ) là 7,1%. Các huyện miền

núi tỉ lệ trẻ em dưới tuổi lao động còn lên tới 45%. Nét đáng chú ý thứ hai là

ở Quảng Ninh, nam giới đông hơn nữ giới (nam chiếm 50,9 %, nữ chiếm

49,1%). Điều kiện này đã góp phần tạo nền tảng vững chắc cho tỉnh Quảng

Ninh phát triển, đồng thời là một trong những yếu tố quan trọng để nhà đầu tư

quyết định lựa chọn tỉnh Quảng Ninh để phát triển kinh doanh, nguồn nhân

lực lao động góp phần quyết định đến năng suất, sản lượng lao động và nó

quyết định không nhỏ đến lợi nhuận kinh doanh của chủ đầu tư và là một

trong những điểm cộng để tỉnh Quảng Ninh thu hút nguồn vốn đầu tư.

Thứ ba, điều kiện kinh tế - xã hội:

Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh là tỉnh dẫn đầu trong cả nước về chỉ số năng

lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI, Quảng Ninh cũng đẩy mạnh thực hiện tốt khâu

đột phá chiến lược là phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác hiệu quả hình thức đối

tác công - tư (PPP), do đó đã tạo sự đột phá trong phát triển giao thông, mang

lại diện mạo mới cho Quảng Ninh.

Năm 2018, Quảng Ninh đã hoàn thành đưa vào sử dụng các dự án quan

trọng như cao tốc Hạ Long - Hải Phòng mức đầu tư hơn 13.000 tỷ đồng bằng

40

ngân sách của tỉnh và cầu Bạch Đằng mức đầu tư hơn 7.270 tỷ đồng theo hình

thức BOT. Đặc biệt, cao tốc Hạ Long - Vân Đồn dài 59,5km, mức đầu tư trên

12.000 tỷ đồng, chủ yếu bằng vốn BOT; Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn

mức đầu tư 7.500 tỷ đồng, trong đó 6.729 tỷ đồng là vốn của Sun Group và

Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long do Sun Group đầu tư theo hình thức BOT có

tổng vốn đầu tư gần 1.100 tỷ đồng vừa được khánh thành và đưa vào hoạt

động trong tháng 12/2018 đã góp phần tạo động lực mới cho phát triển KT-

XH của tỉnh, liên kết vùng và kết nối với quốc tế. Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh

đang là một trong những địa phương có nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng,

đặc biệt là hệ thống đường giao thông lớn trong cả nước, tạo sự thông suốt

cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh

vực ngành công nghiệp không khói như du lịch, và các ngành dịch vụ đi kèm

khác như nhà hàng, khách sạn.

Các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt nhiều thành tích xuất sắc: Quán quân

chung kết năm 2018 Đường lên đỉnh Olympia; giải nhất kỳ thi Olympic tiếng

Anh học sinh sinh viên toàn quốc; Huy chương đồng Olympic Vật lý quốc tế;

đón em bé thứ 100 chào đời bằng phương pháp hiếm muộn...

Là một ngành công nghiệp khai khoáng lớn trên địa bàn tỉnh, ngành Than

có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Quảng Ninh.

Tỉnh Quảng Ninh và ngành Than luôn có mối quan hệ mật thiết, đồng hành cùng

phát triển. Tập đoàn than TKV, Đảng ủy tỉnh Quảng Ninh và các đơn vị tại

Quảng Ninh đã phối hợp chặt chẽ với các cấp ủy, chính quyền trong công tác

quản lý Nhà nước, quản lý bảo vệ tài nguyên than, môi trường...

2.2.2.Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh

Căn cứ vào các quy định pháp luật chung về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp là: Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm

41

2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật đất đai ; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014

của Chính phủ quy định về giá đất; Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2013 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất; Nghị định số

46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất,

thuê mặt nước; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ

quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị

định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 sửa đổi các Nghị định hướng dẫn

Luật đất đai ;

Tỉnh Quảng Ninh ban hành các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nói chung trong đó bao gồm các quy định về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, phù hợp với đặc thù của tỉnh

Quảng Ninh mà vẫn tuân thủ các quy định của Luật đất đai năm 2013.

Hiện nay, ngoài các văn bản chung ở trên, tỉnh Quảng Ninh đang áp

dụng các văn bản về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất sau:

Quyết định số 3238/2014/QĐ-UBND ngày 26/12/2014 của UBND tỉnh

Quảng Ninh về việc quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

thực hiện từ ngày 01/01/2015 đến 31/12/2019; Quyết định số 1768/2014/QĐ-

UBND tỉnh Quảng Ninh ngày 13 tháng 08 năm 2014 Về việc ban hành quy

định hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở, diện tích đất ở tối thiểu

được tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; Quyết

định 4234/2015/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ngày

28/12/2015 Về Bộ đơn giá bồi thường tài sản gắn liền với đất Nhà nước thu

hồi đất Quảng Ninh ; Quyết định số 3000/2017/QĐ-UBND ngày 02/8/2017

của UBND Tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Quảng Ninh.

Nhưng tại mỗi dự án cụ thể, UBND đều có quyết định cá biệt chủ yếu quy

42

định về giá đất để áp dụng bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp riêng, phù hợp với giá đất trên thị trường của từng địa phương, từng

thời gian cụ thể. Việc áp dụng các quy định pháp luật trên, thể hiện thông qua

các dự án cụ thể được thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tác giả xin

được đề cập đến một số dự án cụ thể:

Thứ nhất, Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng Khu công nghiệp Đông

Mai ở thị xã Quảng Yên.

Tổng diện tích theo quy hoạch của dự án là 160ha, trong đó tỷ lệ diện

tích thu hồi đất nông nghiệp là 99%, phần lớn loại đất nông nghiệp bị thu hồi

là đất trồng lúa và trồng cây hàng năm. Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và

công tác GPMB được thực hiện làm nhiều giai đoạn. Hiện nay, dự án đang

được thực hiện ở giai đoạn cuối với diện tích thu hồi theo giai đoạn là 90,6 ha.

Có 345 hộ dân đã nhận tiền theo phương án được phê duyệt và đã bàn giao mặt

bằng với diện tích 80,2 ha.

Đối với việc áp dụng điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp

Vướng mắc:

Có 23 hộ chưa nhận tiền trong đó có 04 hộ đất ở và 19 hộ đất nông nghiệp

đòi bồi thường đất thầu mượn, đất khai hoang như đất giao lâu dài và một số tài

sản có sau thông báo thu hồi đất; kiến nghị đơn giá bồi thường thấp, cụ thể đơn

giá bồi thường, hỗ trợ áp dụng như sau: Đất trồng cây hàng năm: đơn giá

55.000đ/m2; Đất trồng cây lâu năm: đơn giá 45.000đ/m2; Đất trồng rừng sản

xuất: đơn giá 5.200đ/m2; Đất nuôi trồng thủy sản: đơn giá 29.000đ/m2, giá hỗ

trợ đất thầu mượn bằng 30% giá đất bồi thường cùng loại.

Quá trình giải quyết khiếu nại của UBND thị xã Quảng Yên chưa đảm bảo

được thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật.

Hướng giải quyết:

43

Theo tác giả để giải quyết những vướng mắc trên UBND thị xã Quảng

Yên cần xem xét:

Đối với diện tích đất thầu mượn cần xác định lại nguồn gốc đất bởi trên

thực tế có nhiều hộ gia đình sử dụng đất có hình thức thầu mượn nhưng có

nguồn gốc trước kia là đất do các hộ gia đình tự khai hoang, phục hóa, cải tạo

để canh tác. Sau đó, khi có chính sách chia lại ruộng đất theo Luật đất đai năm

2003 thì chỉ xác định chia ruộng theo số nhân khẩu. Những phần diện tích đất

thừa ra so với số nhân khẩu được sử dụng được chuyển sang đất công ích và

được Nhà nước cho nhân dân thầu lại. Do đó, cần tính giá hỗ trợ cao hơn 30%

giá đất cùng loại cho người bị thu hồi đất đề phù hợp với công sức tôn tạo cho

người bị thu hồi đất; Đối với đất khai hoang, cũng cần xác định lại nguồn gốc

đất, xem đất đó khai hoang theo quy hoạch hay lấn chiếm trái phép, đất sử

dụng ổn định hay không, nếu đất đủ điều kiện được cấp GCN quyền sử dụng

đất thì tính lại khoản hỗ trợ cho người bị thu hồi đất;

Về giá đất, UBND cấp tỉnh cũng cần xem xét đến yếu tố giá thị trường đối

với đất nông nghiệp, đặc biệt là đất liền kề với đất ở. bởi cũng là đất nông

nghiệp trồng cây lâu năm nhưng đất nông nghiệp có vị trí giáp đường, đất liền

kề với đất ở … Sẽ có giá chuyển nhượng thực tế cao hơn vì người sử dụng đất

căn cứ vào nguồn gốc đất có thể làm thủ tục chuyển mục đích sang đất ở và sẽ

mang lại giá trị cao hơn rất nhiều.

Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên cần chỉ đạo các cơ quan có liên quan

nhanh chóng rà soát lại những vướng mắc của người dân, tổ chức đối thoại và

thực hiện nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo của người

khiếu nại.

Thứ hai, dự án Nhà máy xử lý chất thải rắn và bãi chôn lấp rác thải tại

khu vực Khe Giang, xã Thượng Yên Công, TP. Uông Bí có tổng diện tích thu

44

hồi là tổng diện tích trên 120.000 m2 chủ đầu tư là Công ty CP Đầu tư và Xây

dựng Việt Long.

Vướng mắc:

Đây là dự án đầu tiên về xử lý rác thải được thực hiện tại ubnd thành phố

uông bí, trong quá trình thực hiện đã vấp phải sự phản đối của người dân do ô

nhiễm môi trường. Việc bồi thường hỗ trợ chỉ thực hiện đối với đất ở và đất

có giấy chứng nhận, còn lại đất chưa được cấp giấy chứng nhận và đất để

canh tác ( đất trồng lúa, trồng cây hàng năm…) UBND thành phố Uông Bí xét

không thuộc trường hợp được bồi thường. Việc xác định bồi thường, hỗ trợ

các tài sản gắn liễn với đất còn cứng nhắc. Vì khu đất bị thu hồi đất nằm ở

vùng núi, điều kiện đi lại khó khắn và giá trị đất thấp nên hầu hết người bị thu

hồi đất không đặt ra yêu cầu tăng giá bồi thường, về đất. Nhưng thực trạng

xảy ra là các vấn đề về hỗ trợ việc làm đối với người dân còn chưa được chú

trọng xem xét giải quyết.

Hướng giải quyết:

Việc UBND thành phố Uông Bí chỉ xác định thu hồi đất ở, đất vườn liền

kề với đất ở trong phạm vi khu đất bị ô nhiễm môi trường do việc thực hiện

dự án là không đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người dân. Bởi diện tích

đất nông nghiệp cùng là tài sản trực tiếp chịu ảnh hưởng từ ô nhiễm môi

trường do nhà máy xử lý rác thải đi vào hoạt động, việc người dân đã bị thu

hồi đất ở, không còn chỗ để ở, điều kiện địa hình của khu vực thu hồi đất và

khu vực đất nông nghiệp bị ảnh hưởng ở trên vùng núi đi lại khó khăn. Khi

nhà nưucó thu hồi đất ở buộc người dân phải tìm nơi tái định cư xa khu vực bị

ô nhiễm và tìm công việc mới. Do vậy, không thuận lợi cho việc canh tác trên

các diện tích đất nông nghiệp này, hơn nữa mùi hôi thối ở bãi rác cũng ảnh

hưởng đến sức khỏe của người dân khi canh tác và ảnh hưởng đến chất lượng

45

sản phẩm nông nghiệp. UBND thành phố Uông Bí cần phải xác định diện tích

đất nông nghiệp bị ảnh hưởng cũng thuộc đối tượng bị thu hồi đất.

Về hỗ trợ tìm kiếm việc làm của người dân sau khi thu hồi đất. hầu hết

các hộ dân bị thu hồi đất sống bằng canh tác nông nghiệp như cấy lúa, trồng

rau, làm rẫy thuê, chăn nuôi. Nhưng khi thu hồi đất, UBND thành phố Uông

Bí không có định hướng, hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho các hộ dân. Do vậy, để

đảm bảo được mục đích ổn định đời sống của người dân sau thu hồi, UBND

thành phố Uông Bí nên có những giải pháp nghề nghiệp như đào tạo cho

người dân công việc mới, phù hợp với tình hình kinh tế của thành phố.

Thứ hai, Dự án Bến xe khách tại xã Liên Hòa do Công ty vận tải Phúc

Xuyên làm chủ đầu tư tại thị xã quảng yên

Diện tích đất bị thu hồi GPMB là 3,54 ha, có 39 hộ dân bị ảnh hưởng,

trong đó có 27 hộ thuộc xã Liên Hòa; 12 hộ thuộc xã Liên Vị. Hiện tại đã có

39 hộ dân được UBND thị xã Quảng Yên ban hành quyết định thu hồi đất và

quyết định phê duyệt phương án, tổng kinh phí phê duyệt là 5,76 tỷ đồng, trong

đó: Xã Liên Hòa: 27/27 hộ đã nhận tiền và bàn giao mặt bằng, số tiền chi trả

là 3,09 tỷ đồng; Xã Liên Vị: 8/12 hộ đã nhận tiền, số tiền chi trả 1,23 tỷ đồng.

Vướng mắc:

Vì diện tích đất thu hồi ít và số hộ dân bị ảnh hưởng cũng không nhiều

nên việc bồi thường, hỗ trợ thuộc dự án ít xảy ra tranh chấp. Hiện nay còn 04

hộ xã Liên Vị chưa nhận tiền với lý do đơn giá bồi thường thấp và đòi bồi

thường đất thầu mượn như đất giao lâu dài.

Hướng giải quyết:

- Hướng giải quyết đối với yêu cầu đòi bồi thường, hỗ trợ đất thầu mượn

như tại dự án đầu tư xây dựng hạ tầng Khu công nghiệp Đông Mai.

- Về đơn giá bồi thường, hỗ trợ thấp, ngoài những lý do chung như tại

dự án đầu tư xây dựng hạ tầng Khu công nghiệp Đông Mai thì tác giả cho

46

rằng, việc bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp đơn giá theo bảng giá chung là:

Đất trồng cây hàng năm: đơn giá 51.000đ/m2; Đất trồng cây lâu năm: đơn giá

40.000đ/m2; Đất nuôi trồng thủy sản: đơn giá 33.000đ/m2, giá hỗ trợ đất thầu

mượn bằng 30% giá đất bồi thường cùng loại là quá thấp. Vì khu vực đất bị thu

hồi này gần các dự án lớn như dự án Dự án phát triển Tổ hợp cảng biển và khu

công nghiệp tại khu vực Đầm nhà Mạc, TX Quảng Yên; Dự án cầu bạch

đằng…thuận tiện giao thông và sẽ mang lại lợi ích cao cho người sử dụng

cũng như nhà đầu tư, việc sử dụng đơn giá trên để tính bồi thường, hỗ trợ cho

người bị thu hồi đất nông nghiệp là vô cùng máy móc, do vậy, ubnd tỉnh

quảng ninh cần bổ sung việc áp dụng giá đất nông nghiệp thực tế chuyển

nhượng trên thị trường để tính bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đất,

đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho họ.

- UBND thị xã cần phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức đối thoại

với các hộ dân, cần nhanh chóng đưa ra các giải pháp giải quyết hiệu quả

những vướng mắc, xin ý kiến chỉ đạo từ cấp trên để giải quyết thỏa đáng cho

người dân đối với những trường hợp luật không quy định, hoặc luật quy định

chưa cụ thể.

Thứ ba, Dự án xây dựng Trung tâm huấn luyện Quốc gia về phòng

chống khủng bố tại thị xã Quảng Yên

Tổng diện tích thu hồi 524,8 ha thuộc 05 xã, phường: Minh Thành, Cộng

Hòa, Tân An, Hoàng Tân, Tiền An trong đó: đất trồng cây hàng năm 38 ha,

đất rừng sản xuất 88 ha, đất ở 9,2 ha, đất nuôi trồng thủy sản 234 ha, đất do

UBND xã, phường quản lý 155,6 ha, tỷ lệ thu hồi đất nông nghiệp khoảng

69%. Số hộ ảnh hưởng 277 hộ và 03 tổ chức, số hộ tái định cư 14 hộ (5 hộ tái

định cư nơi ở mới; 9 hộ tái định cư tại chỗ). Dự án triển khai giải phóng mặt

bằng từ năm 2014 đến nay UBND thị xã Quảng Yên đã phê duyệt phương án

247 hộ/277 hộ dân; Bộ Công an đã chi trả tiền cho 200 hộ/247 hộ dân với số

47

tiền chi trả là 90,34 tỷ đồng. UBND thị xã đã bàn giao cho Bộ Công an là

339,75 ha/524,8 ha đất đã giải phóng mặt bằng xong.

Vướng mắc:

- Mặc dù 47 hộ dân đã được UBND thị xã phê duyệt với kinh phí 46,2

tỷ đồng (phê duyệt từ năm 2016-2017) nhưng Bộ Công an chưa chi trả cho

các hộ dân khiến các hộ bị thu hồi đất khiếu nại vượt cấp gây khó khăn trong

việc giải quyết đơn thư.

- 30 hộ dân và 03 tổ chức UBND thị xã chưa phê duyệt phương án với

số tiền 31,15 tỷ đồng (Do Bộ Công án chưa bố trí được nguồn kinh phí để chi

trả cho hộ dân, vì vậy UBND thị xã tạm thời dừng lại phê duyệt phương án

cho các hộ) điều này gây hoang mang cho người bị thu hồi đất, trì trệ kinh tế

do diện tích đất thuộc dự án nên người dân không thiết tha làm kinh tế, không

muốn đầu tư thêm các công trình nuôi trồng thủy sản trên đất.

- Đối với những hộ dân đã được cấp đất ở nhưng bị cấm xây dựng nhà ở

ngay khi được cấp GCN quyền sử dụng đất ở, buộc người dân phải tiếp tục ở

tạm trên các công trình, nhà tạm tại đầm nuôi trồng thủy sản nhưng khi bồi

thường, hỗ trợ lại không xem xét hỗ trợ tiền thuê nhà, hỗ trợ tái định cư cho

người bị thu hồi đất.

- Trình độ chuyên môn của các cán bộ thực hiện công tác đo đạc, kiểm

đếm tài sản, cây trồng...Trên đất còn thiếu tinh thần trách nhiệm kiểm kê còn

thiếu các tài sản có giá trị cho người dân như chiều cao bờ đầm, đất đắp nền,

không xem xét về quá trình tạo lập bờ đầm của các hộ dân, tự ý tính tỷ lệ đắp

bờ đầm thủ công, cơ giới không đúng tỷ lệ đắp thực tế.

Hướng giải quyết:

- Đối với trường hợp đã được UBND thị xã Quảng Yên lập phương án

bồi thường, hỗ trợ, được phê duyệt phương án đã giao cho người bị thu hồi

đất nhưng chủ đầu tư chưa thực hiện việc chi trả thì UBND thị xã Quảng Yên

48

cần phối hợp với các cơ quan ban ngành và Bộ Công an tìm ra hướng giải

quyết, chi trả đầy đủ khoản tiền bồi thường, hỗ trợ kèm tiền chậm chi trả cho

người bị thu hồi đất.

- Đối với trường hợp đã được UBND thị xã Quảng Yên lập phương án

bồi thường, hỗ trợ, nhưng chưa được phê duyệt phương án với lý do UBND

thị xã nhận thấy chủ đầu tư hiện chưa có khả năng chi trả mà không tiến hành

phê duyệt phương án theo thẩm quyền và bàn giao cho người dân là sai quy

định. UBND thị xã cần nhanh chóng phê duyệt phương án, bàn giao cho

người bị thu hồi đất, để người bị thu hồi đất thực hiện các quyền của mình

theo phương án. Đồng thời UBND thị xã cũng cần phải kiên quyết xử lý đối

với trường hợp chủ đầu tư cố ý chây ỳ, không thực hiện nghĩa vụ khiến dự án

trở thành dự án treo, không đảm bảo quyền lợi cho người dân.

Đối với trường hợp không hỗ trợ tái định cư, hỗ trợ tiền thuê nhà cho

người có đất ở bị thu hồi. UBND thị xã Quảng Yên cho rằng trên diện tích đất

bị thu hồi mà không có nhà ở thì người bị thu hồi không được hỗ trợ tái định

cư là chưa thỏa đáng. Bởi ngay cả trường hợp không thu hồi vào đất ở mà thu

hồi vào đất không đủ điều kiện để bồi thường về đất ở nhưng người sử dụng

đất đang sử dụng nhà ở được xây dựng trên đất này, không còn nơi ở nào

khác trong phạm vi xã, phường nơi có đất bị thu hồi thì sẽ được Nhà nước

bán, cho thuê, cho thuê mau nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất.

Do vậy, UBND thị xã Quảng Yên cần nhanh chóng xem xét lại trường

hợp này và tiến hành hỗ trợ tái định cư, cũng như hỗ trợ tiền thuê nhà cho

người bị thu hồi đất.

Thứ tư, Dự án Đầu tư xây dựng – kinh doanh hạ tầng khu dân cư

trung tâm thị trấn Cái Rồng, huyện Vân Đồn

Dự án đã được triển khai từ năm 2005, cho đến nay vẫn hoàn thiện do

người bị thu hồi đất không đồng ý với quyết định thu hồi.

49

Vướng mắc:

Thu hồi đất không đảm bảo được trình tự thủ tục theo quy định của Nhà

nước đó là việc UBND huyện Vân Đồn vi phạm quy định về thành lập hội

đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, không cho người có đất bị thu hồi đại

diện vào hội đồng bồi thường nên không đảm bảo được quyền lợi cho người

bị thu hồi đất.

Trong quá trình thu hồi đất và lên phương án bồi thường, hỗ trợ, UBND

huyện không tổ chức cho chủ đầu tư thỏa thuận với người dân. Quyết định giá

đất ở trung bình và hạn mức giao đất ở trung bình không đúng quy định.

Không bồi thường hỗ trợ cho con hộ chính chủ.

Hướng giải quyết:

Hướng giải quyêt của UBND tỉnh Quảng Ninh

Tại văn bản số 2961/UBND – QLĐĐ ngày 3/8/2011 của UBND tỉnh

Quảng Ninh ghi rõ các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị

thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện Dự án khu đô thị Trung tâm thị trấn Cái

Rồng mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng

thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm bằng đất thì được giao

một ô đất xây nhà liền kề trong quỹ đất 20% của dự án. Nhưng trên thực tế

UBND huyện Vân Đồn và Chủ đầu tư là Công ty Vương Long không thực

hiện chỉ thị tại văn bản nói trên.

Tại Quyết định 2659/ QĐ – UBND ngày 1/8/2005 ghi rõ: Công ty

Vương Long có trách nhiệm sau khi nộp tiền sử dụng đất và xây dựng hạ tầng

xong mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất nhà đầu tư được

kinh doanh và được chuyển nhượng…tại Quyết định 2659/QĐ – UBND cũng

ghi rõ: Nếu quá thời hạn 12 tháng chủ đầu tư không sử dụng đất để xây dựng

công trình theo đúng quy hoạch và thiết kế đã được duyệt UBND tỉnh sẽ thu

hồi đất.

50

Tuy nhiên hiện nay công ty vương Long vẫn không thực hiện những

quyết định này của tỉnh. Do vậy, Theo tác giả UBND tỉnh cần thực hiện việc

thu hồi dự án, để làm gương cho chủ đầu tư có ý định chây ỳ sau này. Bởi trên

thực tế công ty vương long đã thể hiện rõ thái độ coi thường pháp luật khi

không thực hiện theo chỉ đạo của tỉnh, khi tại đơn vị này vẫn chưa hoàn thiện

xong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, điện, nước cùng với đó công tác giải phóng

mặt bằng dự án vẫn chưa xong nhưng đơn vị này đã giao bán và thực hiện

việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Thứ năm, Dự án Khu công nghiệp sông khoai tại thị xã Quảng Yên

Dự án KCN Sông Khoai được triển khai trên diện tích 714 ha và được

thực hiện trong 5 giai đoạn. Tổng vốn đầu tư của dự án 3.535 tỷ đồng (tương

đương trên 155 triệu USD); thời gian thực hiện dự án 50 năm. Dự kiến cuối

năm 2020 sẽ hoàn thành, đưa giai đoạn 1 vào hoạt động với diện tích 123 ha.

Hiện trạng đất bị thu hồi, gồm: Đất nông nghiệp trồng cây hàng năm

diện tích 76,47 ha; đất nuôi trồng thủy sản diện tích 38,21 ha; đất giao thông

thủy lợi, đất khác diện tích 8,41 ha, với tỷ lệ thu hồi đất nông nghiệp giai đoạn

1 của dự án là 100% diện tích đất thu hồi. Tổng số hộ bị ảnh hưởng 538 hộ,

trong đó: Số hộ bị thu hồi đất nông nghiệp trồng cây hàng năm là 450 hộ; số

hộ bị thu hồi đất nông nghiệp trồng cây hàng năm có ao nuôi trồng thủy sản là

88 hộ. Ngoài ra, dự án đi qua nhiều hệ thống kênh mương, sông ngòi, đường

giao thông nội đồng.

Vướng mắc:

- Hiện còn 16,7 ha đất nằm trong ranh giới thu hồi GPMB, các hộ dân

chưa đồng ý nhận tiền và bàn giao mặt bằng vì cho rằng việc áp dụng chính

sách, bồi thường, hỗ trợ chưa thỏa đáng.

- Diện tích 4,3ha đất (của 09 hộ dân) hiện trạng là đất nuôi trồng thủy sản,

các hộ chưa đồng ý nhận tiền vì chưa thống nhất về nguồn gốc sử dụng đất và

51

không đồng ý với khối lượng kiểm đếm tài sản mà gia đình đã ký nhận khi thực

hiện kiểm đếm trước đây, UBND thị xã Quảng Yên cũng đã chỉ đạo thực hiện

kiểm tra, phúc tra nhiều lần.

- Diện tích 10,0 ha đất (của 45 hộ gia đình chưa nhận tiền và 7 hộ mới

nhận tiền một phần diện tích) hiện trạng là đất nông nghiệp trồng cây hàng

năm. UBND TX đã chỉ đạo Trung tâm Phát triển quỹ đất, UBND xã Sông

Khoai mời các hộ làm việc nhiều lần để vận động, giải thích nhưng các hộ

vẫn chưa đồng ý nhận tiền. Đối với những diện tích đất này, người dân yêu cầu

phải được bồi thường, hỗ trợ 100% giá trị của đất do trước khi toàn bộ diện tích

đất được xác định là đất công ích thì đất này là đất do người bị thu hồi đất khai

hoang hoặc nhận chuyển nhượng từ những người khai hoang, đến năm 1996 -

1997 do Nhà nước thực hiện chính sách giao đất theo nhân khẩu đã chuyển đổi

những diện tích đất này sang đất công ích.

Nhìn chung ở dự án Khu công nghiệp Sông Khoai đang có ba vướng mắc

chính đó là: Người bị thu hồi đất cho rằng việc kiểm kê tài sản trên đất mà cụ thể

là xác định khối lượng đất đắp nền, đất đắp bờ ao là không đảm bảo quyền lợi

cho gia đình; Hỗ trợ tái định cư; Yêu cầu bồi thường, hỗ trợ đối với đất công ích

như đối với đất được giao lâu dài hoặc như chính sách đã được áp dụng với đất

khai hoang.

Hướng giải quyết:

- Đối với việc bồi thường tài sản trên đất. mặc dù UBND thị xã Quảng Yên

đã nhiều lần cử đoàn xác minh, phúc tra lại hiện trạng cho các hộ dân, hầu hết

việc phúc tra ở giai đoạn đầu dự án đều đảm bảo theo yêu cầu của người dân. Do

sự thiếu tinh thần trách nhiệm cũng như chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ

nên việc kiểm kê thiếu tài sản thường xuyên xảy ra. Đặc biệt đối với việc tính

khối lượng đất đắp nền, đất đắp bờ ao. Có nhiều hộ gia đình sau khi phúc tra lại

thì chiều cao bờ ao từ 1,1m lên tới 2m. Tuy nhiên cũng có hộ gia đình cũng yêu

52

cầu phúc tra lại khối lượng đất đắp khu vực nền nhà, bờ ao nhưng lại không

được phúc tra, mặc dù trước đó gia đình này chưa từng được phúc tra lần nào.

Thực tế hiện trạng bờ ao và nền nhà của gia đình này có chiều cao 1,8m ( không

tính độ lún) hiện trạng này đã được lập vi bằng nhưng theo hồ sơ được bồi

thường chỉ xác định chiều cao tài sản này là 1,1m. Sau nhiều lần yêu cầu cơ quan

chức năng vẫn không xuống thực địa để phúc tra lại và cho rằng việc tính chiều

cao là 1,1m là sau khi đã trừ đi cốt nền. Chỉ một vài hộ bị trừ cốt nền, còn nhiều

hộ khác không trừ cốt nền, mặt khác việc trừ cốt nền của cơ quan này không hề

có văn bản hướng dẫn…

Do vậy, UBND thị xã Quảng Yên cần nghiêm túc thực hiện nguyên tắc bồi

thường, đó là bồi thường theo hiện trạng, bồi thường khách quan giữa các hộ

dân. Nhanh chóng chỉ đạo cơ quan chức năng, cán bộ có chuyên môn xác minh

nội dung vụ việc áp dụng hướng giải quyết đồng bộ giữa các vụ việc tương tự

nhau, tránh trường hợp không khách quan như ở trên.

- Đối với yêu cầu được hỗ trợ tái định cư, tại khoản 7 Điều 18 Quyết định

3000/2017/QĐ-UBND của UBND tỉnh Quảng Ninh quy định: Trường hợp hộ

gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà

ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi

thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị

trấn nơi có đất ở thu hồi thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà

ở hoặc được giao 01 ô đất ở tái định cư có thu tiền sử dụng đất. Giá bán, cho

thuê, cho thuê mua nhà ở; giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao

đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định.

Thực tiễn ở dự án Khu công nghiệp Sông Khoai, mặc dù tỷ lệ thu hồi đất

nông nghiệp giai đoạn đầu là 100% ( Hiện nay đang thực hiện giai đoạn này)

nhưng có rất nhiều hộ gia đình đã xây dựng nhà ở trên đất nuôi trồng thủy sản

và sử dụng ổn định. Các hộ gia đình ở trên diện tích đất bị thu hồi từ khoảng

53

năm 1996 cho đến thời điểm bàn giao mặt bằng, rất nhiều hộ gia đình không

có nơi ở nào khác trên địa bàn xã Sông Khoai và Nhà nước thu hồi vào toàn

bộ diện tích đất nông nghiệp cũng như nhà ở của họ nhưng không xem xét

bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc được giao 01 ô đất ở tái định cư có

thu tiền sử dụng đất là thiệt thòi cho người dân.

Do vậy, theo tác giả nhận thấy, trên thực tế quy định này chưa từng được

áp dụng tại thị xã Quảng Yên, nhưng sự kiện pháp lý thì đã xảy ra thực tế. Vì

thế UBND thị xã nên vận dụng triệt để những quy định này để đảm bảo chỗ ở

mới cũng đảm bảo cuộc sống cho người bị thu hồi đất.

- Đối với trường hợp đất công ích thì hướng giải quyết như đối với các

dự án cũng có đất công ích nêu trên.

Đánh giá những kết quả đạt được qua việc áp dụng pháp luật về bồi

thườn, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh

Những ưu điểm

Thông qua thực tiễn thực hiện những dự án nêu trên tại tỉnh Quảng

Ninh cho thấy, nhìn chung việc thực hiện chính sách bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp đã được tỉnh quan tâm được cụ thể như sau:

Về căn cứ áp dụng bồi thường, hỗ trợ: Các văn bản quy định khá đầy

đủ, chi tiết, đã bổ sung những quy định rất quan trọng như: Quy định giá đất

bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đã được áp dụng giá đất cụ thể do

UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Quy định rõ

ràng các điều kiện được bồi thường về đất và bồi thường chi phí đầu tư vào

đất còn lại, quy định chi tiết các khoản hỗ trợ khác theo Điều 25 Nghị định

47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ phù hợp với điều kiện địa

phương.

Về công tác tổ chức và trình tự thực hiện: Các dự án đều thực hiện theo

quy trình tại Luật đất đai năm 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày

54

15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất; Quyết định số 3000/2017/QĐ-UBND ngày 02/8/2017 của

UBND Tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Quảng Ninh;

Về việc xác định đối tượng và điều kiện được bồi thường: Nhìn chung

UBND tỉnh Quảng Ninh đã áp dụng hiệu quả việc xác định đối tượng và điều

kiện được bồi thường, như đã xem xét hồ sơ pháp lý, xác định nguồn gốc thửa

đất, loại đất và tiến hành GPMB theo đúng quy định. Nhiều trường hợp tỉnh

Quảng Ninh đã linh hoạt xin ý kiến chỉ đạo của Bộ tài nguyên môi trường, Bộ

giao thông vận tải, Cục quản lý đất đai, Tòa án nhân dân tối cao và nhiều cơ

quan có thẩm quyền để áp dụng chính sách bồi thường, hỗ trợ đảm bảo quyền

lợi cho người dân, nhiều địa phương trong tỉnh như thị xã Quảng Yên, huyện

Vân Đồn cũng đã chủ động xin ý kiến chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền để

áp dụng chính sách bồi thường, hỗ trợ thỏa đáng cho người bị thu hồi đất.

Về việc xác định đơn giá bồi thường cũng được Ủy ban nhân dân tỉnh

Quảng Ninh áp dụng hiệu quả việc xác định giá đất ở theo giá thị trường tại

thời điểm thu hồi đất.

Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: về cơ bản phần lớn khiếu nại,t

tố cáo của người dân đều được giải quyết, UBND có thẩm quyền đã phối hợp

cùng các cơ quan chuyên môn, nhanh chóng giải quyết vướng mắc, khiếu nại,

tố cáo của người dân. Đặc biệt, đối với những dự án lớn, trở thành điểm nóng

của khiếu nại, tố cáo, hoặc những dự án phải cưỡng chế thì việc áp dụng giải

quyết khiếu nại theo trình tự quy định của pháp luật được áp dụng linh hoạt,

nhìn chung đảm bảo được quyền lợi cơ bản cho người bị thu hồi đất.

Những hạn chế, bất cập

Bất cập nổi bật đầu tiên đó là việc xác định giá đất, bởi việc áp dụng

giá đất 05 năm một lần đã gây thiệt hại lớn cho người dân. Hiện nay tỉnh

55

Quảng Ninh đang là tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế và thu hút đầu tư mạnh

trong cả nước, giá đất tại một số địa phương có thay đổi đáng kể như tại

huyện Vân Đồn, thị xã Quảng Yên nhưng khi Nhà nước thu hồi thì vẫn áp

dụng đơn giá cũ đối với đất nông nghiệp và việc xác định giá đất ở còn chưa

sát thực tế. Tại nhiều địa phương như Tp. Hạ Long, thị xã Quảng Yên, huyện

Vân Đồn những năm gần đây, giá đất có sự thay đổi theo chiều hướng tăng

lên có nơi giá đất tăng lên gấp nhiều lần so với giá đất được xác định tại bảng

giá nhưng UBND tỉnh Quảng Ninh cũng không điều chỉnh mức giá đất cho

phù hợp với sự biến động của thị trường theo quy định tại Nghị định

44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, điều này cho thấy sự thụ

động của UBND tỉnh Quảng Ninh trong việc xác định giá đất để tính bồi

thường, hỗ trợ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị thu

hồi đất, bởi pháp luật cho phép nhưng địa phương lại không thực hiện.

Về trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế. Nhiều người

dân bị thu hồi đất nông nghiệp đã được Nhà nước đã được áp dụng đầy đủ các

chính sách, đã được vận động thuyết phục nhưng vẫn cố tình chống đối,

không chấp hành phương án đền bù thiệt hại. Họ còn lôi kéo kích động nhân

dân không chấp hành chính sách của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến tiến độ

giải phóng mặt bằng và thi công dự án, khiến cho tình trạng khiếu kiện, đơn

thư kéo dài, làm ảnh hưởng đến công tác quản lý của cơ quan Nhà nước.

Trình độ nhận thức của một số các cán bộ trong các cơ quan Nhà nước

không đồng đều khiến việc giải quyết khiếu nại của người dân còn chậm trễ,

chưa đảm bảo được quyền lợi chính đánh cho người bị thu hồi đất. Bên cạnh

đó áp lực tiến độ của các công việc liên quan đến thu hồi, lập phương án bồi

thường, hỗ trợ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức, thái độ làm việc

của các cán bộ chuyên môn. Các cán bộ thực hiện công tác kiểm đếm vật, tài

sản kiến trúc không giải thích rõ cho người dân hiểu được vai trò của công tác

56

kiểm đếm, không giải thích rõ về trách nhiệm phối hợp với tổ kiểm đếm để

xác định chính xác khối lượng, vật, tài sản kiến trúc trên đất. Người bị thu hồi

đất thì tin tưởng vào chuyên môn của cán bộ, nên ký vào biên bản kiểm đếm

mà không đọc lại nội dung, hoặc có đọc lại cũng không hiểu hết được số liệu

ghi trong biên bản, còn cán bộ kiểm đếm lại giải thích hời hợt về số liệu kiểm

đếm, đồng thời trấn an người dân bằng cách khẳng định việc kiểm đếm chỉ là

khẳng định quyền sử dụng đất của người bị thu hồi, còn tài sản, vật kiến trúc

thì sẽ được kiểm đếm chi tiết sau, đồng thời trước khi ban hành phương án

còn có buổi đối thoại với người dân về các vướng mắc. Nhưng trên thực tế,

như dự án Xây dựng trung tâm huấn luyện Quốc gia về phòng chống khủng

bố tại thị xã Quảng Yên sau khi thực hiện xong công tác kiểm đếm, trung tâm

phát triển quỹ đất ban hành phương án bồi thường, hỗ trợ mà không hề có

buổi đối thoại, lấy ý kiến của người dân về nội dung phương án, hay tại dự án

Xây dựng khu công nghiệp Sông Khoai cũng tại thị xã Quảng Yên, sau khi

kiểm đếm và lập phương án bồi thường, hỗ trợ, người dân có ý kiến về các

công trình kiến trúc còn thiếu, lập chưa chính xác thì nhận được câu trả lời từ

phía UBND thị xã Quảng Yên là các công trình, kiến trúc trên đất đã được các

hộ dân thống nhất ký vào biên bản kiểm đếm, do vậy không có cơ sở khiếu

nại. Chính những điều này đã gây ra tâm lý hoang mang, tiêu cực của người

bị thu hồi đất.

Việc hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đồi nghề và tìm

kiếm việc làm cho người dân chỉ dừng lại ở việc quy đổi thành giá tiền mà

không thực sự quan tâm đến công việc của người bị thu hồi đất sau thu hồi.

Tuy nhiên, vấn đề xác định tỷ lệ thu hồi đất nông nghiệp để áp dụng chính

sách hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất tại một số địa phương còn chưa

thống nhất, như tại thị xã Quảng Yên thì 100% dự án được thực hiện chỉ áp

dụng cách xác định tỷ lệ thu hồi đất nông nghiệp dựa vào diện tích đất nông

57

nghiệp đã được cấp GCN QSDĐ, nhưng tại Tp. Uông Bí, việc xác định này

lại căn cứ vào tổng diện tích đất nông nghiệp mà người bị thu hồi đất đang sử

dụng. Hay đối với việc xác định đối tượng được hưởng chính sách đào tạo

chuyển đồi nghề và tìm kiếm việc làm, ở các thành phố, địa phương như Tp.

Hạ Long, thị xã Đông Triều, huyện Vân Đồn, Tp. Uông Bí đều áp dụng tính

hỗ trợ đào tạo chuyển đồi nghề và tìm kiếm việc làm đối với cả diện tích đất

khai hoang, đủ điều kiện cấp GCN QSDĐ trong hạn mức giao đất. Nhưng tại

thị xã Quảng Yên, chính sách hỗ trợ này đối với đất khai hoang còn xem xét

một cách cứng nhắc khi áp dụng quy định tại khoản 2, Điều 77 Luật đất đai

năm 2013 để không hỗ trợ cho diện tích đất khai hoang, điều này đã gây bức

xúc lớn cho người dân. Bởi trên thực tế, diện tích đất khai hoang này phù hợp

quy hoạch và được sử dụng ổn định. Có dự án được áp dụng hỗ trợ đào tạo

chuyển đồi nghề và tìm kiếm việc làm như dự án Xây dựng khu công nghiệp

Sông Khoai nhưng tại dự án Xây dựng khu công nghiệp Đông Mai, dự án

Công viên nghĩa trang tại xã Tiền An lại không được áp dụng hỗ trợ này đối

với đất khai hoang, điều này không đảm bảo được sự công bằng cho người bị

thu hồi đất.

Công tác quản lý dữ liệu đất đai còn chưa chủ động, nhiều trường hợp

vẫn để người dân tự ý chuyển nhượng đất đai không theo quy định, các hồ sơ

địa chính không lưu trữ được hết biến động đất đai, nguồn gốc đất, diện tích

đất sử dụng qua các thời kỳ. Điều này, gây khó khăn trong quá trình xác định

nguồn gốc đất, loại đất, diện tích đất sử dụng khi bị thu hồi đất. Điển hình là

tại dự án Khu công nghiệp Sông Khoai - thị xã Quảng Yên. Hiện nay, tại

UBND xã Sông Khoai chỉ lưu giữ số liệu, thông tin đất đai từ năm 1997 của

những diện tích đất công ích, nhưng trước thời điểm đó, các hộ dân đã tự khai

hoang sử dụng diện tích đất công ích này. Năm 1997, do có thay đổi về chính

sách đất đai và do hạn chế hiểu biết về pháp luật nên các cán bộ địa chính xã

58

Sông Khoai thời kỳ đó đã yêu cầu các hộ dân phải ghi diện tích đất khai

hoang ngoài hạn mức giao đất địa phương ( 2 sào 3) sang đất công ích. Đến

nay, việc bồi thường, hỗ trợ căn cứ vào nguồn gốc là đất công ích của những

diện tích đất khai hoang này để hỗ trợ với đơn giá bằng 30% giá đất cùng mục

đích sử dụng đã gây bức xúc cho người bị thu hồi đất.

Tiểu kết chương 2

Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và

pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói

riêng đều có những bước đổi mới, tiến bộ hơn các quy định trước đó. Như

việc bổ sung quy định phân biệt cụ thể về nguyên tắc bồi thường về đất và

nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi

Nhà nước thu hồi đất thành những điều luật riêng biệt, hay quy định rõ về

phương thức bồi thường bằng đất hay bằng tiền, bằng tiền thì tính giá trị như

thế nào, bổ sung quy định cụ thể về lập và thực hiện dự án tái định cư. Và với

các quy định mới về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp đã nâng cao quyền của người dân trong quá trình tham gia vào

việc bồi thường, thu hồi đất. Luật đất đai 2013 đưa vào thực hiện có tác dụng

giảm số lượng khiếu nại, khiếu kiện do đã có quy định rõ ràng và nâng cao

hơn nữa quyền của người dân đối với quyền sử dụng đất khi được Nhà nước

bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất. Việc người dân cũng nên nắm bắt những

điểm mới này về bồi thường, thu hồi đất để tự bảo vệ được quyền lợi của

mình, tránh được các tranh chấp không đáng có về sau…Nhằm bảo đảm tốt

hơn quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi đất, khắc phục bất cập và

điều tiết một cách hài hòa lợi ích giữa Nhà nước , người sử dụng đất và nhà

đầu tư.

59

Tuy nhiên, mục đích ban hành các quy định của pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng như đất nông nghiệp là quá rõ.

nhưng thực tiễn áp dụng vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc cần phải giải quyết

thông qua các dự án điển hình như trên. Nên cơ quan có thẩm quyền cần nhìn

nhận khách quan về những vướng mắc, không nên cứng nhắc trong việc giải

quyết yêu cầu của người khiếu nại, pháp luật vẫn có những hướng mở cho

việc bồi thường, hỗ trợ như quy định tại Điều 25 Nghị định 47/2014/NĐ-CP

về các khoản hỗ trợ khác. Tùy vào từng điều kiện của địa phương, tùy vào

hoàn cảnh cụ thể, địa phương nên có những biện pháp bồi thường, hỗ trợ phù

hợp . Có như vậy, mới tạo được lòng tin, sự ủng hộ của người dân không chỉ

với người bị thu hồi đất mà với cả những người không liên quan đến diện tích

đất bị thu hồi đối với cơ quan Nhà nước .

60

Chương 3

GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH QUẢNG NINH

3.1.Những yêu cầu, đòi hỏi khách quan của của việc tiếp tục hoàn

thiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.

Thứ nhất, hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang trở thành điểm đến của các

nhà đầu tư, việc thu hồi đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế vì lợi ích

quốc gia là cần thiết. Trong đó, đối tượng được nhắm đến chủ yếu là đất nông

nghiệp, việc thu hồi đất nông nghiệp không chỉ đơn giản làm chấm dứt quan

hệ pháp Luật đất đai giữa người sử dụng đất nông nghiệp với Nhà nước mà

còn ảnh hưởng tới lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, kéo theo những hệ

lụy về mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Hầu hết các vụ khiếu kiện tại tỉnh Quảng

Ninh trong lĩnh vực đất đai hiện nay chủ yếu là do không giải quyết thỏa đáng

các hậu quả của việc thu hồi đất nông nghiệp, nhưng vấn đề như thế nào là

thỏa đáng thì tác giả cho rằng, những quy định của pháp luật hiện tại về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp chưa đảm bảo được,

đơn cử như trường hợp hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất mà trên

đất có nhà ở nhưng đất không đủ điều kiện để cấp đất ở. Quy định pháp luật

có nhưng không được hướng dẫn cụ thể, quy định cá biệt của UBND tỉnh

Quảng Ninh cũng có quy định trường hợp này nhưng lại không được áp dụng

thực tiễn, nên chăng cần phải có những cơ chế, chế tài cho để quy định này và

những quy định khác về bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được áp

dụng hiệu quả trong thực tiễn.

Thứ hai, yêu cầu đảm bảo về ổn định chính trị: Nếu việc bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không thỏa đáng sẽ xảy ra bất

61

đồng có thể dẫn tới biểu tình, chống đối chính quyền, tạo thành những điểm

nóng. Là cơ hội cho những phần từ phản quốc, chống đối Nhà nước kích

động nhân dân, lợi dụng vào mâu thuẫn này mà gây mất ổn định chính trị. Do

vậy, vấn đề đất đai, đất nông nghiệp luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và

nhạy cảm. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, quyền và lợi ích trực tiếp,

trước mắt của người sử dụng đất bị xâm hại, họ không chỉ mất quyền sử dụng

đất, mà còn mất nguồn sống, mất việc làm, phải thay đổi môi trường sống và

làm việc.

Thứ ba, yêu cầu về sự ổn định về kinh tế - xã hội: Chúng ta cũng biết,

nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp, phần lớn người dân sản xuất nông

nghiệp, việc thu hồi đất nông nghiệp vô hình chung sẽ ảnh hưởng đến lao

động, việc làm, cơ cấu cây trồng vật nuôi, phương hướng sản xuất, cơ cấu lao

động… cũng như văn hóa, nếu sống cộng đồng của địa phương. Bên cạnh

những ảnh hưởng tích cực là những tác động tiêu cực như mất tư liệu sản

xuất, mất việc làm, không có thu nhập, kéo theo những hệ lụy là tệ nạn xã hội

như cờ bạc, rượu chè, trộm cắp.

Ngày nay, theo nhìn nhận khách quan, tác giả thấy rằng song song với

việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cần phải thực hiện tốt công tác bồi

thường đối với người có đất bị thu hồi. Từ đó, người bị thu hồi đất cùng

những người có liên quan ( thành viên trong gia đình) nhanh chóng ổn định

cuộc sống để tập trung cho sản xuất, góp phần cải thiện và nâng cao mức

sống. Nhờ vậy mà kinh tế, bộ mặt văn hóa nông thôn sẽ có những chuyển

biến tích cực.

Thứ tư, xuất phát từ việc hoàn thiện các chế định pháp luật về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Luật đất đai năm 2013 đã được

chú trọng sửa đổi, từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng

tốt hơn cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống và sản xuất như quy định

62

nguyên tắc bồi thường về đất đai khi Nhà nước thu hồi đất; Quy định cụ thể

và làm rõ các điều kiện để được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất

vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia,

công cộng đối với từng loại đối tượng mà Nhà nước thu hồi đất; Thể chế hóa

cơ chế, chính sách bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại thông qua

các quy định chi tiết đối với từng loại đất, gồm: đất nông nghiệp, đất phi nông

nghiệp, đất ở… Như vậy, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp nói riêng, pháp luật về quản lý đất đai nói chung luôn cần

được xem xét, hoàn thiện để đạt được hiệu quả áp dụng cao nhất.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh gồm:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệ phải dựa trên việc đảm bảo tính hài hòa giữa các mối quan

hệ giữa người thu hồi đất, người bị thu hồi đất và người được giao lại đất sau

thu hồi. Mối quan hệ này xuất phát từ chính lợi ích kinh tế giữa các bên khi

người thu hồi đất là: Nhà nước thì muốn dự án nhanh chóng được thực hiện

để thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển; Chủ đầu tư thì muốn nhanh chóng nhận

được mặt bằng để thực hiện dự án, quay vòng vốn, đồng thời áp dụng nhiều

biện pháp để giảm thiểu chi phí đầu tư; Người có đất bị thu hồi và những

người bị ảnh hưởng do việc thu hồi đất thì mong muốn Nhà nước đảm bảo

quyền lợi cho mình một cách tốt nhất. Vấn đề này là bài toán mà trong mọi dự

án các bên liên quan đều mong muốn mình giành được nhiều quyền lợi nhất,

do vậy nó luôn xuất hiện nhiều trường hợp mà pháp luật chưa kịp điều chỉnh

hoặc cần chỉnh sửa đề phù hợp với thực tiễn.

Thứ hai, để hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp, đặt ra yêu cầu thực tiễn là phải nhanh chóng hoàn

thành việc cập nhật thông tin đất đai bằng dữ liệu điện tử, từ đó kiên quyết

63

đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thông qua việc số

hóa đất đai này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước trong quá trình xác

định đối tượng bồi thường, hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi cho người bị thu hồi

đất theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền, cần tiếp thu, rút kinh

nghiệm về những vướng mắc còn gặp phải trong thực tiễn cũng như việc phải

hướng vào việc đổi mới cơ chế thực hiện bồi thường cho phù hợp với điều

kiện kinh tế thị trường; từng bước thực hiện việc "xã hội hóa" công tác bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Thứ tư, việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất phải dựa trên việc tiếp tục phát huy dân chủ, huy động

sự tham gia của các tổ chức quần chúng và nâng cao tính công khai, minh

bạch, công bằng trong việc thu hồi đất. Điều này đòi hỏi các cơ quan Nhà

nước cần phải hiểu được tầm quan trọng và hậu quả của việc bồi thường hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp luôn thực hiện công tác này với

tinh thần trách nhiệm và tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ.

Việc hoàn thiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp cần sửa đổi một số nội dung chính sau:

Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn thông báo quyết định thu hồi đất.

Điều 62 Luật đất đai năm 2013 chỉ quy định về thời gian trước khi có quyết

định thu hồi đất thì trước 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối

với đất phi nông nghiệp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải ra quyết định

thu hồi đất. Như vậy, quy định này chỉ quy định về thời gian tối tối thiểu còn

thời gian tối về kể từ thời điểm có quyết định thu hồi đất quay ngược lại thời

điểm có thông báo thu hồi đất không được quy định. Tác giả nhận thấy, mặc

64

dù việc thông báo về thu hồi đất không quy định trực tiếp về việc bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng nó có ảnh hưởng gián tiếp và ảnh

hưởng không nhỏ tới việc áp dụng quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp. Bởi trên thực tế, tại thị xã Quảng Yên đã xảy

ra nhiều trường hợp cơ quan thu hồi đất đã cố tình kéo dài thời gian ban hàn

quyết định thu hồi đất để áp đợi thời điểm có hiệu lực của văn bản pháp luật

về bồi thường, hỗ trợ có lợi cho chủ đầu tư, cụ thể là ở dự án Xây dựng bệnh

viện đa khoa thị xã Quảng Yên, điều này xảy ra trong giai đoạn giao thoa giữa

thời điểm hết hiệu lực của Luật đất đai năm 2003 và thời điểm có hiệu lực của

Luật đất đai năm 2013. Vì Luật đất đai năm 2003 có quy định trường hợp khi

thu hồi đất nông nghiệp người bị thu hồi đất ngoài việc được ồi thường còn

được hỗ trợ từ 30- 70% trung bình giá đất ở của khu vực đất bị thu hồi…còn

Luật đất đai năm 2013 lại bỏ quy định này. Điều này làm giảm quyền lợi của

người bị thu hồi đất nhưng lại có lợi cho chủ đầu tư - người phải chi trả các

chí phí bồi thường, hỗ trợ…

Sửa đổi, bổ sung quy định về thu hồi đất làm rõ được thuật ngữ “ Nhà

nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần

thiết do luật định” bởi, trên thực tế đã có nhiều trường hợp chủ đầu tư lợi

dụng vào quy định tại Điều 62 Luật đất đai năm 2013 quy định về mục đích

để phát triển kinh tế vì lợi ích Quốc gia để phối hợp với cơ quan Nhà nước

đưa vào trường hợp Nhà nước thu hồi đất. Theo tác giả, Nhà nước thực hiện

việc thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,

lợi ích công cộng và sử dụng đất vào mục đích phát triển kinh tế có tầm quan

trọng đặc biệt đối với đất nước. Còn đối với các dự án phát triển kinh tế khác,

Nhà nước không thực hiện việc thu hồi đất mà muốn có đất thì nhà đầu tư

thỏa thuận việc bồi thường với người sử dụng đất.

65

Sửa đổi, bổ sung quy định về bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu

hồi .Theo tác giả việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện quy định bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư cho người có đất bị thu hồi của Luật đất đai năm 2013 như

sau: - Sửa đổi quy định về thời điểm tính giá bồi thường cho người sử dụng

đất khi bị Nhà nước thu hồi đất theo giải pháp sau đây: Nên quy định việc

tính giá bồi thường theo thời điểm trả tiền bồi thường trên thực tế; Đối với

trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của nông dân thì ngoài việc họ được bồi

thường theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm thu hồi cần quy định một tỷ lệ

hỗ trợ nhằm để thưởng khuyến khích đối với những người bị thu hồi đất chấp

hành nghiêm chỉnh, nhanh chóng việc bàn giao mặt bằng cho các nhà đầu tư.

Khoản hỗ trợ này được trích từ khoản chênh lệch giữa giá đất bồi thường với

giá đất sau khi đã chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp.

Cần nghiên cứu, xây dựng quy định về bồi thường thiệt hại về tinh thần

cho người bị thu hồi đất. - Bên cạnh các quy định hiện hành về giải quyết vấn

đề công ăn, việc làm bảo đảm đời sống của người nông dân bị mất đất sản

xuất; Nhà nước nên xây dựng, bổ sung quy định về việc thành lập quỹ trợ cấp

thất nghiệp, quỹ giải quyết việc làm cho người nông dân bị mất đất nông

nghiệp. Một phần kinh phí để thành lập các quỹ này do các doanh nghiệp

được hưởng lợi từ việc thu hồi đất của người nông dân đóng góp.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp Luật đất đai về

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tại

tỉnh Quảng Ninh

Một là, cần nhanh chóng tăng cường thực hiện việc tuyên truyền, phổ

biến giáo dục pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng cho

cán bộ và nhân dân.Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp về cơ bản nhằm giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và người bị

thu hồi đất. Việc thu hồi đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng đa phần

66

trở lên khó khăn vì không đạt được sự đồng thuận của người dân, không chỉ

vì lợi ích kinh tế của họ chưa đạt được mà chủ yếu vì người dân chưa hiểu rõ,

chưa nắm bắt được đường lối, chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước

về đất đai. Đặc biệt đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động trước thu hồi

đất, khi có dự án được phê duyệt, cơ quan có thẩm quyền tại địa phương nên

nhanh chóng phối hợp với chủ đầu tư tổ chức buổi tuyên truyền về pháp luật

cũng như trách nhiệm pháp luật, lợi ích của dự án mang lại cho địa phương để

người dân hiểu được tầm quan trọng của dự án, hiểu dược quy trình thu hồi

đất. Trước khi tiến hành các bước tiếp theo, cơ quan có thẩm quyền cũng cần

phải tổ chức đối thoại tham vấn ý kiến của người bị thu hồi đất về những

vướng mắc sau thu hồi như nguyện vọng về nơi ở, nguyện vọng về công việc,

từ đó có giải pháp thích hợp với tình hình địa phương.

Hai là, cần nâng cao mức thưởng tiến độ giải phóng mặt bằng, mức

thưởng tiến độ gpmb ở tỉnh quảng ninh hiện nay tác giả cho rằng rất thấp,

thưởng cao nhất là 10 triệu đồng đối với hộ bị thu hồi vào đất ở và phải di

chuyển chỗ ở, thưởng cao nhất 5 triệu đồng đối với đất nông nghiệp. cần xem

xét nâng cao mức thưởng tiến độ và có chia ra các trường hợp thưởng đối với

hộ có đất bị thu hồi đất ở mà có nhiều hộ gia đình, thế hệ cùng chung sống và

đất chỉ có một hộ gia đình sinh sống, cần chia ra các mức thưởng tiến độ khác

nhau phụ thuộc vào thời gian bàn giao mặt bằng của người bị thu hồi đất,

người bàn giao sớm được nhiều tiền, người bàn giao muộn được ít tiền hơn

hoặc không được.

Ba là, đẩy mạnh việc công khai, minh bạch quá trình thực thi pháp luật

về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Ở nhiều nơi, việc thu

hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp diễn ra không rõ ràng, minh

bạch. Chính những điều này đã gây nên những nghi ngờ trong nhân dân về sự

không công tâm của các cán bộ thực thi việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

67

thu hồi đất nông nghiệp.Vì vậy, cần lưu ý rằng, minh bạch, công khai về bồi

thường phải đảm bảo ở tất cả các khâu, các công đoạn của quá trình thu hồi

đất, bồi thường, hỗ trợ và giải phóng mặt bằng.

Bốn là, Tăng cường tổ chức các buổi tập huấn, phổ biến những văn bản

quy phạm pháp luật mới, những chính sách mới. Trong giai đoạn hiện nay,

khi các văn bản quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp có sự thay đổi liên tục. Từ đó góp phần nâng cao trình độ chuyên

môn, kiến thức pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

cho đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường.

Năm là, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất. Một trong những nguyên nhân khiến việc bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp chưa đạt hiệu quả xuất phát từ

chính đội ngũ trực tiếp thực hiện công tác này. Đây không chỉ là đội ngũ giữ

vai trò thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất mà

còn là người tư vấn, định hướng cho nhà đầu tư, người có đất bị thu hồi để họ

chủ động trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Đội ngũ này đa

phần làm việc theo cơ chế kiêm nghiệm, thiếu tính chuyên nghiệp trong việc

lập hồ sơ phục vụ công tác bồi thường. Trong thời gian tới, cần bổ sung biên

chế, nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công tác kiểm

kê, lập phương án đền bù, tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ. Hội đồng bồi

thường cần quan tâm tới cán bộ địa chính tại địa phương thôn, xã. Có thể bổ

sung thêm cán bộ làm địa chính cho xã khi xã có nhiều dự án cần giải phóng

mặt bằng.

Sáu là, cơ quan có thẩm quyền chủ động xây dựng kế hoạch tiếp tục

đối thoại, lắng nghe ý kiến, kiến nghị, nhất là các tình tiết mới đối với từng vụ

việc, thành lập các tổ công tác với các thành viên chưa tham gia xử lý trước

đây, trong đó mời các tổ chức luật sư, luật gia, mặt trận tổ quốc, đại diện Ban

68

xây dựng Đảng, hội đồng nhân dân để phản biện rà soát và xem xét kỹ lưỡng

chính sách đã phê duyệt để giải quyết các khiếu nại, tố cáo kiến nghị của công

dân. Trong trường hợp chưa đúng, thiếu khách quan thì chỉ đạo các ngành, địa

phương sửa chữa, khắc phục, trên cơ sở đó đối thoại để giải thích rõ với người

dân. Trường hợp lỗi do vướng mắc chính sách, chưa phù hợp thì tiếp tục xin ý

kiến hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương để căn cứ tình hình thực tiễn

vận dụng pháp luật giải quyết theo hướng có lợi nhất cho người dân có đất bị

thu hồi; Yêu cầu người đứng đầu các địa phương nơi có công dân tập trung

đông người phải tập trung chỉ đạo vận động, giải thích để đưa công dân về địa

phương xem xét, giải quyết. Gắn trách nhiệm về tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo đối với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền địa phương khi

để xảy ra tình trạng công dân thường xuyên tụ tập đông người;

Bảy là, tăng cường kiểm tra, thanh tra các tổ chức làm nhiệm vụ bồi

thường, UBND cấp xã và các cơ quan các có thẩm quyền thu hồi đất, có liên

quan trong quá trình thực hiện các quy định về trình tự thủ tục thu hồi đất, bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những sai

phạm và xử lý nghiêm minh các vi phạm về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi

thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Trường hợp cán bộ

chuyên môn hay lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền sai phạm nghiêm trọng, gây

thất thoát tiền bạc của nhà nước cũng như của người bị thu hồi đất cần phải

xem xét kỷ luật thích đáng và nếu có dấu hiệu hình sự cần được đưa ra cơ

quan điều tra để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tám là, đề cao trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ

thống chính trị trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, trước hết là nhờ vai

trò lãnh đạo của các cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền. Các cấp

chính quyền có kế hoạch thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo,

phân công trách nhiệm một cách rõ ràng, cụ thể để giải quyết kịp thời, dứt

69

điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Khi nhận được đơn thư khiếu nại, tố cáo

của người bị thu hồi đất, trong thời gian luật định, cơ quan có thẩm quyền cần

nhanh chóng ban hành một trong những văn bản như thông báo thụ lý, thông

báo chuyển đơn thư, hoặc không thụ lý đơn thư thông qua đó, người bị thu hồi

đất sẽ nhận thấy thái độ tích cực của cơ quan chức năng trong bước đầu giải

quyết khiếu nại, tố cáo.

Tiểu kết chương 3

Thông qua các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thực hiện các quy định này tại tỉnh

Quảng Ninh. Cho thấy dưới sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta, nền kinh tế

của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cả nước nói chung đang thể hiện rõ sự hội

nhập quốc tế sâu rộng. Điều đó được thể hiện qua sự ban hành thêm các đạo

luật mới, sửa đổi bổ sung các đạo luật cũ nhằm phù hợp với sự phát triển kinh

tế hiện nay của đất nước và hội nhập thế giới. Nền kinh tế luôn vận động

không ngừng, luôn có sự thay đổi các loại hình kinh tế, mô hình kinh tế…

Tỉnh Quảng Ninh hiện nay đang là địa phương có sức thu hút lớn với các nhà

đầu tư.

Việc thu hồi đất và các quy định đi kèm theo việc thu hồi đất đó là các

quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư… đang trở thàn vấn đề thời sự.

Bởi hiện nay, ở hầu hết các dự án đặc biệt dự án do Nhà nước thu hồi luôn có

những điểm nóng về việc kiếu kiện. Do việc mâu thuẫn về quyền lợi giữa các

bên mà chủ yếu là giữa người bị thu hồi đất với người thu hồi đất. Việc thu

hồi đất nông nghiệp đang bị lạm dụng, có sự mập mờ về việc xác định dự án

thuộc Điều 62 Luật đất đai năm 2013, với việc thu hồi thực hiện dự án phát

triển kinh tế tư nhân. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về việc bồi

70

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nên các quy định về thu

hồi đất theo Luật đất đai 2013 trên thực tiễn vẫn còn rất nhiều vướng mắc

trong việc đảm bảo lợi ích của người bị thu hồi đất. Để đảm bảo được ổn định

về chính trị, xã hội mà kinh tế Nhà nước và địa phương cần phải quan tâm và

sửa đổi, bổ sung những quy định phù hợp với thực tiễn để hạn chế các tranh

chấp, khiếu nại kéo dài, gây mất an ninh, chính trị ở địa phương. luat su

71

KẾT LUẬN CHUNG

Hiến pháp năm 2013 đã xác định ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn

dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Theo đó, Nhà nước thực hiện quyền của

chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho

phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá

trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất, hoặc người được trao

quyền sử dụng đất tạo ra. Vì thế, thu hồi đất là phạm trù không thể thiếu trong

toàn bộ các quyền của chủ sở hữu đất đai do Nhà nước làm đại diện.

Trong quá trình phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, tất yếu phải thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công

cộng, bản thân việc này cũng tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người sử dụng đất thì phải bồi thường

cho những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra trong đó có việc bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư và nhiều chính sách hỗ trợ khác nhằm bù đắp những thiệt hại

xảy ra do việc thu hồi đất mà người sử dụng đất phải chịu. Để giải quyết hậu

quả của việc thu hồi đất thì Nhà nước cần phải điều tiết, giải quyết hài hòa lợi

ích giữa Nhà nước , nhà đầu tư và người bị thu hồi đất, đây là động lực của sự

phát triển, nếu giải quyết tốt lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể này thì sẽ tạo động

lực cho sự phát triển của xã hội, ngược lại, chế định thu hồi đất để phát triển

kinh tế - xã hội sẽ là nguyên nhân của những đối kháng và mâu thuẫn xã hội.

Phải thừa nhận rằng, việc thu hồi đất mang lại nhiều ý nghĩa tích cực

như: Mang lại lợi ích về kinh tế cho chính nhà đầu tư; Làm tăng thêm giá trị

của đất, không chỉ những nơi có đất bị thu hồi, mà còn những khu vực “vệ

tinh” của dự án; Là cơ sở để địa phương tiếp tục thu hút các nhà đầu tư khác;

Tạo công việc cho người dân không chỉ ở địa phương mà còn ở các địa

phương khác về làm.

72

Trên cơ sở các vấn đề mà tác giả đã nghiên cứu và trình bày tại luận

văn, đặc biệt là vấn đề về thực trạng các quy định pháp luật và thực trạng áp

dụng những quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh cho thấy: Nhìn chung, pháp luật đã đảm

bảo được các quyền lợi chính của người bị thu hồi đất nhưng thực tiễn áp

dụng pháp luật còn gặp nhiều vướng mắc cần được giải quyết như các vấn đề

về xác định trường hợp nào mới thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất để

thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;

Xác định điều kiện được bồi thường, hỗ trợ; Việc xác định điều kiện được hỗ

trợ tái định cư; việc xác định đơn giá để bồi thường, hỗ trợ. Hay những vấn đề

liên quan khác như việc chấn chỉnh lại thái độ và chuyên môn nghiệp vụ của

các cán bộ làm công tác thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

thông qua thực tiễn áp dụng và để các chính sách bồi thường, hỗ trợ được

người dân đồng thuận, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước và chủ đầu tư

thực hiện dự án, tác giả cũng đưa ra các giải pháp để việc áp dụng pháp luật

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được hiệu quả như:

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng cho cán bộ và nhân dân;

- Đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch hóa quá trình thực thi pháp

luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp;

- Tăng cường tổ chức các buổi tập huấn, phổ biến những văn bản quy

phạm pháp luật mới, những chính sách mới.

- Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất

- Cơ quan có thẩm quyền chủ động xây dựng kế hoạch tiếp tục đối thoại,

với người bị thu hồi đất có buổi làm việc với các cơ quan chức năng,

tham khảo ý kiến tư vấn của các chuyên gia, các tổ chức luật sư, luật

73

gia, mặt trận tổ quốc, đại diện Ban xây dựng Đảng, hội đồng nhân dân

nâng cao hiệu quả giải quyết các vấn đề vướng mắc về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

- Tăng cường kiểm tra, thanh tra các tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường,

UBND cấp xã và các cơ quan các có thẩm quyền thu hồi đất nhằm

nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những sai phạm và xử lý nghiêm

minh các vi phạm về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đang là

vấn đề phức tạp và đang được xã hội quan tâm, chú ý. Việc đảm bảo lợi

ích giữa các bên liên quan là vấn đề không dễ dàng giải quyết. Do vậy,

trong quá trình nghiên cứu luận văn, có thể còn nhiều vấn đề về lý luận

và thực tiễn mà tác giả chưa nhận diện được đầy đủ, toàn diện, hoặc các

vấn đề về kỹ thuật trình bày luận văn. Tác giả mong muốn nhận được

nhận xét, góp ý của Hội đồng chấm luận văn, của các thầy cô, đồng

nghiệp và bạn đọc về nội dung và hình thức của luận văn và sẽ nghiêm

túc rút kinh nghiệm của bản thân và sẽ nhanh chóng hoàn thiện luận

văn đạt hiệu quả tốt nhất.

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chính phủ (2014) Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai ;

2. Chính phủ (2014) Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của

Chính phủ quy định về giá đất;

3. Chính phủ (2014) Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2013 của

Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất;

4. Chính phủ (2014) Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của

Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;

5. Chính phủ (2014) Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của

Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất;

6. Chính phủ (2014) Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 sửa

đổi các Nghị định hướng dẫn Luật đất đai ;

7. Nguyễn Quốc Cường ( 2018), Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trự,

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Hoài Đức, thành phố

Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;

8. Đào Danh Dũng (2018), Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế -

xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo pháp Luật đất đai từ thực

tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật kinh

tế, Học viện khoa học xã hội, trang 52-55;

9. Trần Nhật Quân (2018), Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định, Luận văn

thạc sĩ luật, Học viện khoa học xã hội , trang 7, 59-64;

10. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự;

11. Quốc hội (2003), Luật đất đai ;

12. Quốc hội (2013), Luật đất đai ;

75

13. Quyết định số 1766/2014/QĐ-UBND ngày 13/8/2014 của UBND tỉnh

Quảng Ninh về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai 2013 trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh;

14. UBND tỉnh Quảng Ninh ( 2014) Quyết định số 3238/2014/QĐ-UBND

ngày 26/12/2014 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc quy định giá các

loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thực hiện từ ngày 01/01/2015 đến

31/12/2019;

15. UBND tỉnh Quảng Ninh ( 2015) Quyết định 4234/2015/QĐ-UBND Bộ

đơn giá bồi thường tài sản gắn liền với đất Nhà nước thu hồi đất Quảng

Ninh ngày 28/12/2015;

16. UBND tỉnh Quảng Ninh ( 2017) Quyết định số 3000/2017/QĐ-UBND

ngày 02/8/2017 của UBND Tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành Quy

định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên

địa bàn Tỉnh Quảng Ninh;

17. UBND tỉnh Quảng Ninh, báo cáo ( tóm tắt) số 82/UBND-TM5 ngày

19/4/2019 của UBND tỉnh Quảng Ninh Kết quả triển khai thực hiện cải

thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo nghị quyết 19/NQ-CP và nâng

cao năng lực cạnh tranh PCI Quảng Ninh năm 2018, phương hướng

nhiệm vụ và giải pháp năm 2019;

18. UBND thị xã Quảng Yên, Báo cáo Công tác GPMB dự án Cải tạo, nâng

cấp đường 331B đoạn Chợ Rộc - Bến Giang, (Báo cáo phục vụ Hội nghị

ngày 09 tháng 5 năm 2019 UBND thị xã Quảng Yên);

19. Địa danh tỉnh Quảng Ninh, http://nguoikesu.com/dia-danh/tinh-quang-

ninh;

20. loigiaihay.com, Vai trò và đặc điểm của nông nghiệp,

https://loigiaihay.com/vai-tro-cua-nong-nghiep-c93a12293.html;

76

21. Cao Thanh Sơn (Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh An Giang), Thu hồi đất để

phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng: Thực trạng và

kiến nghị sửa đổi, tạp chí công thương, http://tapchicongthuong.vn/bai-

viet/thu-hoi-dat-de-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vi-loi-ich-quoc-gia-cong-

cong-thuc-trang-va-kien-nghi-sua-doi-57383.htm, 20/11/2018 lúc

20:23;

22. TS. Lê Minh Tuynh - Phó Hiệu trưởng, Quán triệt quan điểm kinh tế

trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy ở các trường chính

trị , https://tct.quangbinh.gov.vn/3cms/quan-triet-quan-diem-kinh-te-

trong-van-kien-dai-hoi-xii-cu%CC%89a-da%CC%89ng-vao-giang-

day-o-cac-truong-c.htm;

23. Nguyên Vũ, Quảng Ninh tiếp tục đứng đầu bảng xếp hạng PCI,

http://vneconomy.vn/quang-ninh-tiep-tuc-dung-dau-bang-xep-hang-

pci-20190328083808037.htm, 28/03/2019 08:44;

24. Quyết khiếu kiện liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt

bằng, baoquangninh, http://baoquangninh.com.vn/chinh-tri/201708/tra-

loi-chat-van-tai-ky-hop-thu-5-hdnd-tinh-khoa-xiii-ve-giai-quyet-khieu-

kien-lien-quan-den-thu-hoi-dat-boi-thuong-gpmb-2352805/,Thứ Năm,

10/08/2017, 06:17.

77