
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng - Kỹ Thuật Y Học
283
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TUÂN THỦ PHÒNG NGỪA CHUẨN
CỦA ĐIỀU DƯỠNG TRONG CHĂM SÓC
Hoàng Thị Minh Phương1,2, Phạm Dương Thanh Tâm1,3, Nguyễn Thị Thanh Hà4
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phòng ngừa chuẩn là một trong những biện pháp cơ bản của phòng ngừa và kiểm soát nhiễm
khuẩn bệnh viện. Các phương pháp hiệu quả để tăng cường tuân thủ phòng ngừa chuẩn của điều dưỡng là cần
thiết để cải thiện sự an toàn của người bệnh và giảm bớt nguy cơ phơi nhiễm nghề nghiệp do các vấn đề liên quan
đến nhiễm khuẩn bệnh viện.
Mục tiêu: Xác định việc tuân thủ phòng ngừa chuẩn và các yếu tố liên quan đến tuân thủ phòng ngừa
chuẩn của điều dưỡng, qua đó góp phần đưa ra chiến lược tăng cường tuân thủ phòng ngừa chuẩn trong
bệnh viện.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 71 điều dưỡng được thực hiện
tại 8 khoa lâm sàng của Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai từ tháng 11/2020 đến tháng 02/2021. Thông tin được thu
thập bằng bộ câu hỏi soạn sẵn qua phỏng vấn.
Kết quả: Điểm trung bình tuân thủ phòng ngừa chuẩn của điều dưỡng là 3,20±0,60 (64%) trên thang điểm
5. Có 7 yếu tố liên quan đến tuân thủ phòng ngừa chuẩn của điều dưỡng là kiến thức, thái độ, ảnh hưởng từ
hành vi gương mẫu của đồng nghiệp, nhận thức về sự tạo điều kiện thuận lợi của tổ chức, nhận thức về khó khăn
trong quản lý của tổ chức, trình độ chuyên môn và giới tính.
Kết luận: Việc tăng cường tuân thủ phòng ngừa chuẩn của điều dưỡng trong chăm sóc là hết sức quan
trọng. Vì vậy, bệnh viện cần phải tăng cường truyền thông, tập huấn, kiểm tra giám sát về tuân thủ phòng ngừa
chuẩn cho nhân viên y tế và ban hành các chính sách quản lý, nội quy xử phạt phù hợp.
Từ khóa: tuân thủ phòng ngừa chuẩn, điều dưỡng, các yếu tố ảnh hưởng
ABSTRACT
FACTORS INFLUENCING COMPLIANCE WITH STANDARD PRECAUTIONS
AMONG NURSES IN HEALTH CARE
Hoang Thi Minh Phuong, Pham Duong Thanh Tam, Nguyen Thi Thanh Ha
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 5 - 2021: 283 - 291
Background: Standard precautions (SPs) is one of the fundamental measures of prevention and control of
nosocomial infections. Effective methods to increasing SPs compliance among nurses are needed to improve
patient safety and reduce the risk of occupational exposure related to nosocomial infections for healthcare worker.
Objectives: Identify the mean frequency score of the nurse's compliance with standard precautions and
factors influencing the nurse's compliance with SPs in healthcare. Through this result, we aim to set up a
strategy to strengthen compliance with SPs in hospitals.
Methods: A descriptive cross-sectional study was conducted on 71 nurses in 8 clinical departments at Gia
Lai general hospital from 11/2020 to 02/2021. Information was collected by the study questionnaires through
interviews.
1Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 2Khoa Y Dược, Trường Cao đẳng Gia Lai
3Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 4Bệnh viện Nhi đồng 1 Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN. Hoàng Thị Minh Phương ĐT: 0968095279 Email: phuonghoang0889@gmail.com

Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Chuyên Đề Điều Dưỡng - Kỹ Thuật Y Học
284
Results: The mean frequency score of SPs compliance was 3.20 ± 0.60 (64%) out of 5. There are 7 factors
that influencing compliance with SP among nurses were identified: knowledge, attitudes, influence from
exemplary behavior of colleagues, perception of facilitating organization, perception of organizational constraints,
professional level, and gender.
Conclusion: Increasing SPs compliance among nurses in health care is very important. Therefore, the
hospital needs to increasing communication, training, monitoring, and supervision on SPs compliance for all
health care workers and issue appropriate management policies and sanctioning rules.
Key words: compliance with standard precautions, nurses, factors influencing
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế
hay còn gọi là nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV)
luôn là 1 vấn đề được quan tâm đặc biệt vì đó là
một nhiễm khuẩn gây ra hậu quả nặng nề như
tăng biến chứng và tử vong, tăng sự kháng
thuốc, tăng thời gian nằm viện và chi phí điều trị
cho người bệnh (NB). Bên cạnh đó, các tác nhân
có thể lây nhiễm qua đường máu, dịch, không
khí cũng làm tăng nguy cơ phơi nhiễm cho nhân
viên y tế (NVYT). Theo các nghiên cứu trên thế
giới, NVYT có nguy cơ mắc lao và viêm gan B
gấp 3-5 lần so với dân số khác(1,2). Hai triệu
NVYT phơi nhiễm với Virus viêm gan B (HBV),
1 triệu NVYT phơi nhiễm với Virus viêm gan C
(HCV) và gần 10% AIDS trong số các NVYT là
kết quả của phơi nhiễm nghề nghiệp(3,4). Năm
2003, trên thế giới tổng số NVYT bị mắc hội
chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) là 21%
(n=1.706) và Việt Nam cũng có tới 57% (n=36)
người bị nhiễm là NVYT(5). Hiện nay dịch bệnh
COVID-19 có diễn biến hết sức phức tạp. Tính
đến ngày 24/4/2021, trên thế giới có 146 triệu ca
nhiễm (14% trong số các ca nhiễm được báo cáo
cho tổ chức y tế thế giới WHO là NVYT) và hơn
3 triệu ca tử vong. Tại Việt Nam đã có 2833 ca
nhiễm COVID-19 (42 ca nhiễm là NVYT) và 35
ca tử vong(6). Vì vậy nguy cơ lây nhiễm chéo giữa
các NB và NVYT là rất cao nếu không tuân thủ
các biện pháp phòng ngừa chuẩn và kiểm soát
lây nhiễm.
Phòng ngừa chuẩn (PNC) là các biện pháp
phòng ngừa cơ bản áp dụng cho mọi NB không
phụ thuộc vào chẩn đoán, tình trạng nhiễm
trùng và thời điểm khám, điều trị, chăm sóc dựa
trên nguyên tắc coi máu, chất tiết và chất bài tiết
của NB đều có nguy cơ lây truyền bệnh. Việc
tuân thủ PNC đóng góp quan trọng vào việc
giảm NKBV, hạn chế cả sự lây truyền cho NVYT
và NB cũng như từ NB sang môi trường nhằm
bảo đảm an toàn và nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh(7). Hiện nay, trên thế giới và Việt Nam
có nhiều nghiên cứu ghi nhận sự tuân thủ không
nhất quán của NVYT với các biện pháp PNC. Tỷ
lệ tuân thủ PNC giữa các điều dưỡng thay đổi
theo từng nội dung, theo từng quốc gia và các
tuyến bệnh viện(8,9).
Mặc dù NVYT nhận ra PNC là một biện
pháp chăm sóc sức khỏe quan trọng. Tuy nhiên,
việc áp dụng thường xuyên các biện pháp PNC
có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các rào cản như
yếu tố cá nhân (thiếu kiến thức và kỹ năng, thói
quen trong chăm sóc), môi trường làm việc (thời
gian, cơ sở vật chất, việc đào tạo không đầy đủ);
yếu tố xã hội (cấp trên, đồng nghiệp, NB) và các
chính sách, quản lý của bệnh viện(9). Trong số các
NVYT thì điều dưỡng (ĐD) là đội ngũ đông đảo
nhất và dành phần lớn thời gian trực tiếp chăm
sóc cho NB, việc không tuân thủ các biện pháp
PNC khiến họ dễ bị tổn thương trước các rủi ro
phơi nhiễm nghề nghiệp trong quá trình chăm
sóc(11). Các phương pháp hiệu quả để thay đổi
thực hành PNC của ĐD là cần thiết để đảm bảo
sự an toàn của NB và giảm bớt nguy cơ phơi
nhiễm nghề nghiệp do các vấn đề liên quan đến
nhiễm khuẩn bệnh viện thì điều quan trọng là
phải hiểu các yếu tố tạo thuận lợi và cản trở sự
tuân thủ PNC. Đã có một số nghiên cứu trên thế
giới xác định các yếu tố tác động đến tuân thủ
các biện pháp PNC của ĐD(8,9). Tuy nhiên, đối
với các tài liệu nghiên cứu trong nước còn chưa

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng - Kỹ Thuật Y Học
285
nhiều và đặc biệt tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia
Lai chưa có nghiên cứu nào. Do đó tôi thực hiện
đề tài nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tuân
thủ phòng ngừa chuẩn của điều dưỡng trong
chăm sóc.
Mục tiêu
Xác định điểm trung bình của tuân thủ
phòng ngừa chuẩn.
Xác định các yếu tố liên quan đến sự tuân
thủ phòng ngừa chuẩn của điều dưỡng trong
chăm sóc.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những ĐD chăm sóc trực tiếp và thường
xuyên trên NB. ĐD bao gồm cả nhân viên
chính thức, nhân viên hợp đồng và nhân viên
học việc. Thời gian nghiên cứu từ tháng
11/2020 đến tháng 02/2021 tại bệnh viện Đa
khoa tỉnh Gia Lai.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những ĐD phụ trách hành chính, điều
dưỡng trưởng, những người đi học, nghỉ phép,
nghỉ thai sản.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
Được tính theo công thức ước lượng 1 tỷ lệ
với mức độ tin cậy 95%; sai số cho phép 10% và
tỷ lệ ước tính 78,96% dựa vào kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Thị Liên tại BVĐK Đức Giang
năm 2019(12). Vậy cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được
cho nghiên cứu là 64 đối tượng.
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn ngẫu nhiên phân tầng 71 điều dưỡng
đáp ứng đủ các tiêu chí tham gia nghiên cứu
đang công tác tại 8 khoa lâm sàng của bệnh viện
Đa khoa tỉnh Gia Lai: khoa Hồi sức tích cực-
chống độc (14 ĐD), khoa Cấp cứu (12 ĐD), khoa
Nội Tim mạch (08 ĐD), khoa Nội tổng hợp (12
ĐD), khoa Ngoại Tổng hợp (10 ĐD), khoa Ngoại
Thần kinh-Sọ não (05 ĐD), khoa Ngoại CTCH-
Bỏng (06 ĐD), khoa Phẫu thuật thần kinh-cột
sống (04 ĐD).
Công cụ thu thập số liệu
Bộ câu hỏi có cấu trúc bao gồm 3 phần:
Phần A: các thông tin cá nhân của điều
dưỡng gồm 7 câu hỏi về tuổi, giới tính, trình độ
chuyên môn, khoa làm việc, thâm niên công tác,
tập huấn về PNC, kiểm tra định kỳ.
Phần B: kiến thức phòng ngừa chuẩn gồm 15
câu hỏi về: mục tiêu PNC, các đường lây truyền
bệnh, chuỗi lây truyền bệnh, 9 nội dung của biện
pháp PNC. Thang đo được xây dựng dựa trên
Quyết định 3671/QĐ-BYT của Bộ y tế về hướng
dẫn phòng ngừa chuẩn trong các cơ sở khám
chữa bệnh; Quyết định 468/QĐ-BYT về việc ban
hành hướng dẫn phòng và kiểm soát lây nhiễm
bệnh viêm đường hô hấp cấp do Vi rút Corona
2019 (COVID-19) trong các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh và tổng quan tài liệu từ các nghiên
cứu(7,14).
Phần C: thang đo các yếu tố liên quan đến sự
tuân thủ PNC (SPQ) được phát triển bởi
Michinov năm 2016(9). Thang đo gồm 6 mục với
35 câu tự điền. Trong đó có 5 mục đánh giá các
yếu tố ảnh hưởng tuân thủ PNC gồm: thái độ (6
câu hỏi), ảnh hưởng từ xã hội (4 câu hỏi), ảnh
hưởng từ hành vi gương mẫu (7 câu hỏi), yếu tố
tạo thuận lợi (5 câu hỏi), yếu tố gây khó khăn (5
câu hỏi), nhận thức về năng lực cá nhân (4 câu
hỏi). Và một mục đánh giá tuân thủ PNC (4 câu
hỏi)(10). Bộ câu hỏi được chuyển ngữ và đánh giá
theo hướng dẫn của Tổ Chức Y Tế Thế Giới.
Bộ câu hỏi được sự hỗ trợ của các chuyên gia
trong lĩnh vực kiểm soát nhiễm khuẩn và điều
dưỡng điều chỉnh lại cho phù hợp với bối cảnh
lâm sàng tại Việt Nam, và nghiên cứu trên mẫu
thử 30 ĐD đạt được Cronbach alpha từ 0,74-0,89.
Liệt kê và định nghĩa biến số
Tất cả các câu hỏi được tính điểm bằng thang
điểm Likert 5 mức độ. Mỗi biến số được tính
bằng cách lấy điểm trung bình cộng, độ lệch
chuẩn của các câu hỏi trong mục.

Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Chuyên Đề Điều Dưỡng - Kỹ Thuật Y Học
286
Bảng 1. Nhóm biến số độc lập
Biến số
Định nghĩa
Tiêu chuẩn đánh giá
Kiến thức
Là biến số liên tục đo lường mức độ hiểu biết của ĐD
về các nội dung của Phòng ngừa chuẩn.
- Bao gồm 15 câu hỏi từ B1.1 – B1.15.
- Đo bằng thang đo Likert (1= hoàn toàn không
biết, 2= mơ hồ, 3 = có nghe đến, 4 = biết rõ, 5 =
biết rất rõ).
Thái độ
Là biến số liên tục đo lường mức độ đánh giá tích cực
hay tiêu cực của ĐD đối với tuân thủ PNC dựa trên
niềm tin cá nhân của ĐD về hiệu quả của PNC trong
phòng tránh lây nhiễm y tế đối với bản thân và NB.
- Bao gồm 6 câu hỏi từ B2.1 – B2.6.
- Câu trả lời được đo bằng thang đo Likert (1=
hoàn toàn không đồng ý, 2= không đồng ý, 3 =
trung lập, 4 = đồng ý, 5 = hoàn toàn đồng ý).
Ảnh hưởng của xã
hội
Là biến số liên tục đo lường niềm tin của ĐD đối với
tuân thủ PNC trong chăm sóc bởi tác động từ suy nghĩ
của đồng nghiệp và sự kiểm soát từ cấp trên về tuân
thủ PNC.
- Bao gồm 4 câu hỏi từ B3.1– B3.4.
- Câu trả lời được đo bằng thang đo Likert (1=
hoàn toàn không đồng ý, 2= không đồng ý, 3 =
trung lập, 4 = đồng ý, 5 = hoàn toàn đồng ý).
Ảnh hưởng từ hành
vi gương mẫu của
đồng nghiệp
Là biến số liên tục đo lường niềm tin của ĐD đối với
tuân thủ PNC trong chăm sóc bởi tác động từ hành vi
tuân thủ PNC của đồng nghiệp.
- Bao gồm 7 câu hỏi từ B4.1 - B4.5 và B5.6,
B5.7.
- Câu trả lời được đo bằng thang đo Likert (1=
không bao giờ, 2= hiếm khi, 3= thỉnh thoảng, 4 =
thường xuyên, 5 = luôn luôn).
Nhận thức về sự tạo
điều kiện thuận lợi
trong quản lý của tổ
chức
Là biến số liên tục đo lường nhận thức về nguồn lực,
sự hỗ trợ từ quản lý của tổ chức tạo điều kiện cho việc
tuân thủ PNC như trang thiết bị để sử dụng luôn có sẵn
trong tất cả các khu chăm sóc NB, được đào tạo/ nhắc
nhở về việc áp dụng PNC.
- Bao gồm 5 câu hỏi từ B5.1-B5.5.
- Câu trả lời được đo bằng thang đo Likert (1=
hoàn toàn không có hiệu quả, 2= không hiệu quả,
3 = trung lập, 4 = hiệu quả, 5 = rất hiệu quả).
Nhận thức về khó
khăn trong quản lý
của tổ chức
Là biến số liên tục đo lường nhận thức của ĐD về
nguồn lực từ quản lý của tổ chức gây cản trở cho việc
tuân thủ PNC trong chăm sóc như là sự cố ngoài ý
muốn ảnh hưởng bất lợi đến công việc, không đủ thời
gian, công việc bị quá tải, độ phức tạp của các quy định
về PNC
- Thang đo gồm 5 câu hỏi từ B6.1 – B6.5.
- Câu trả lời được đo bằng thang đo Likert (1=
hoàn toàn không cản trở, 2= không cản trở, 3 =
cản trở vừa phải, 4 = cản trở nhiều, 5 = cực kỳ
cản trở).
Nhận thức về năng
lực cá nhân
Là biến số liên tục đo lường nhận thức các yếu tố khó
khăn từ bản thân ĐD tác động gây cản trở tuân thủ
PNC trong chăm sóc như là thiếu kiến thức về PNC,
thói quen chăm sóc, niềm tin cá nhân về các biện pháp
PNC, các vấn đề liên quan đến sử dụng trang thiết bị.
- Bao gồm 4 câu hỏi từ B6.6 – B6.9.
- Câu trả lời được đo bằng thang đo Likert (1=
hoàn toàn không cản trở, 2= không cản trở, 3 =
cản trở vừa phải, 4 = cản trở nhiều, 5 = cực kỳ
cản trở).
Bảng 2. Tuân thủ PNC (Biến số phụ thuộc)
Biến số
Định nghĩa
Tiêu chuẩn đánh giá
Tuân thủ PNC
Là biến số liên tục đo lường mức độ tích cực trong
tuân thủ PNC của ĐD dựa trên các câu hỏi về việc ra
quyết định tuân thủ PNC trong các bối cảnh thực tế
(khi gặp các khó khăn từ NB, thời gian hạn chế, khi
có tổn thương ở tay, trong tình huống khẩn cấp).
- Bao gồm 4 câu hỏi từ B7.1 – B7.4.
- Câu trả lời được đo bằng thang đo Likert (1=
không bao giờ, 2= hiếm khi, 3= thỉnh thoảng, 4 =
thường xuyên, 5 = luôn luôn).
- Điểm số càng cao nghĩa là việc tuân thủ PNC
càng tích cực.
Phương pháp thu thập số liệu
Nghiên cứu viên xem xét và ghi nhận các
thông tin ban đầu của điều dưỡng phù hợp với
tiêu chí chọn mẫu, mời các đối tượng trên vào
nghiên cứu. Những người tham gia nghiên cứu
là hoàn toàn tự nguyện đế tránh các sai lệch do
báo cáo.
Hàng tuần, đầu giờ chiều từ thứ 2 đến thứ
6 hoặc theo lịch trực của người tham gia
nghiên cứu, nghiên cứu viên trực tiếp vào
từng khoa theo lịch hẹn trước để hướng dẫn
kỹ và nói rõ mục tiêu nghiên cứu, thời gian
ước tính thực hiện phỏng vấn điều dưỡng
viên. Cần nhấn mạnh cho các điều dưỡng hiểu
được: các dữ liệu thu thập được coi là bí mật,
nghiên cứu hoàn toàn không ảnh hưởng đến
lương thưởng và xếp loại công chức hằng năm
của người tham gia. Hướng dẫn người tham
gia điền phiếu chấp thuận tham gia nghiên
cứu trước khi tiến hành phỏng vấn. Nghiên
cứu viên sẽ giải đáp hết những thắc mắc nếu
đối tượng tham gia không rõ.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng - Kỹ Thuật Y Học
287
Phải đảm bảo buổi thu thập số liệu diễn ra
trong phòng kín, yên tĩnh và không có mặt của
điều dưỡng trưởng và lãnh đạo khoa để người
tham gia nghiên cứu có thể trả lời câu hỏi trung
thực và chính xác nhất. Dữ liệu được thu thập
bằng cách phỏng vấn theo bộ câu hỏi soạn sẵn,
người tham gia nghiên cứu có 30 phút để hoàn
thành bảng câu hỏi.
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Dữ liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm
SPSS 20.0.
Thống kê mô tả các biến số định tính dưới
dạng tần số và tỷ lệ phần trăm, biến số định
lượng có phân phối chuẩn được trình bày dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, biến số định
lượng không có phân phối chuẩn được trình bày
dưới dạng trung vị ± tứ phân vị.
Thống kê phân tích được sử dụng để tìm
mối liên quan giữa biến số thông tin chung và 7
biến số nghiên cứu về (1) kiến thức, (2) thái độ,
(3) ảnh hưởng từ xã hội, (4) ảnh hưởng từ hành
vi gương mẫu, (5) yếu tố tạo thuận lợi, (6) yếu tố
gây khó khăn, (7) nhận thức về năng lực cá nhân
với biến số tuân thủ PNC của điều dưỡng. Biến
phụ thuộc là biến tuân thủ PNC là biến định
lượng có phân phối chuẩn. Vì vậy, phép kiểm
ANOVA được sử dụng nếu biến độc lập là danh
định và thứ tự; phép kiểm Independent T-test
được sử dụng nếu biến độc lập là các biến độc
lập là biến nhị giá; hệ số tương quan Pearson
được sử dụng nếu biến độc lập là biến định
lượng phân phối chuẩn; hệ số tương quan
Spearman được sử dụng nếu biến độc lập là biến
định lượng phân phối không chuẩn. Có ý nghĩa
thống kê khi p <0,05, KTC 95%.
Y đức
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng
Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y
dược TP. HCM, số 865/HĐĐĐ-ĐHYD, ngày
12/11/2020.
KẾT QUẢ
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
Các ĐD trong nghiên cứu đa phần là nữ
chiếm 94,4% với độ tuổi trung bình là 30,73±5,84.
Trong đó nhóm tuổi <30 chiếm tỷ lệ cao nhất với
50,7%. Trình độ cao đẳng và đại học chiếm tỷ lệ
cao với gần ¾ (73,2%) số điều dưỡng. Thâm niên
công tác trung bình là 8,55±5,21; đa số dưới 10
năm công tác với tỷ lệ 80% số ĐD. Hầu hết các
ĐD (98,6%) đã có tiếp cận truyền thông/ tập
huấn về PNC (Bảng 3).
Bảng 3. Thông tin chung của điều dưỡng (N=71)
Nội dung thông tin
Tần số (n)
Tỷ lệ (%)
Tuổi
< 30
36
50,7
30 – 39
30
42,3
≥ 40
5
7
Trung bình tuổi
(30,73±5,84)
Giới tính
Nam
4
5,6
Nữ
67
94,4
Trình độ chuyên
môn
Trung cấp
19
26,8
Cao đẳng
28
39,4
Đại học
24
33,8
Thâm niên công tác
≤ 5 năm
18
25,4
Từ 6–10 năm
39
54,9
Từ 11–20
năm
10
14,1
Trên 20 năm
4
5,6
Trung bình thâm
niên
(8,55±5,21)
Truyền thông/ tập
huấn PNC
Có
70
98,6
Không
1
1,4
TỔNG
71
100
Hình 1. Điểm trung bình tuân thủ PNC của ĐD
Điểm trung bình tuân thủ PNC của điều
dưỡng là 3,20± 0,60 (64%) với giá trị lớn nhất là
4,5 và giá trị nhỏ nhất là 1,75 trên thang điểm 5
(100%) (Hình 1).