CẢI CÁCH CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC
Tôi rất tán đồng ý kiến của nhiều nhà giáo dục đã đặt ra từ lâu là cải cách giáo dục
phải bắt đầu từ việc xác định triết giáo dục, một triết lý rõ ràng, phù hợp với yêu cầu của
thời đại trong giai đoạn toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. một số đặc điểm của thời đại
gắn liền với triết lý giáo dục.
Trước tiên đó trong kỷ nguyên thông tin, kiến thức của nhân loại gia tăng gắp
đôi sau mỗi thập niên, vì vậy cần hiểu rằng việc quá chú trọng nhồi nhét kiến thức đến mức
quá tải là một quan niệm sai lầm. Những gì đúng m nay rất thể không còn đúng vào
ngày mai. Ý định biên soạn sách giáo khoa “chuẩn’ , giáo trình “chuẩn”, chương trình
khung để áp dụng trong 10 năm là một quan điểm tự thân đã làm cho nền giáo dục tụt
hậu.
Đặc điểm thứ hai của thời đại là những vấn đmới tầm quan trọng chưa từng
gặp xuất hiện ngày càng dồn dập, dẫn đến nhiều công cụ và biện pháp từng phát huy hiệu
qutốt trong quá khkhông còn tác dụng nữa. Bước sang thế kỷ XXI, loài người tiến vào
một giai đoạn phát triển mới với cường độ ngày càng tăng. Viện Nghiên cứu Nomura của
Nhật Bản cho rằng sau làn sóng thba của kỷ nguyên thông tin, thế giới đang chuyển vào
làn sóng thư đặc trưng tập trung vào sng tạo với công nghệ tạo ra ý tưởng
mới (Ideas Engineering) đưa ra các khái niệm mới (Concepter).Tương lai một xã hội
sáng tạo sẽ bùng nvà ngtrị tất cả, người sáng tạo n sẽ là người chiến thắng. Ngày
nay, mục tiêu của giáo dục không phải là cung cp càng nhiều kiến thức càng tốt, điều
quan trọng hơn tạo ra những con người biết tư duy sáng tạo, vì vậy, truyền đạt kiến thức
theo kiểu áp đặt, với những bài “mẫu” phải học thuộc lòng, hoàn toàn phn tác dụng. Triết
gia người Pháp J.J. Rousseau rất chí khi cho rằng: Nếu chnhào nặn con người theo
duy nhất một trạng thái, thì anh ta sẽ trở nên vô dụng trước mọi tình huống khác”.
Vấn đề thứ ba là “dạy m người”. Thông điệp về giáo dục của UNESCO trong
thế kỷ XXI là: Học để biết, học để làm, học để làm người và học để chung sống. Trong bốn
yêu cầu đặt ra nói trên thì vthực chất nền giáo dục nước nhà mới chú trọng yêu cầu th
nhất với một số lệch lạc như đã nói trên. Mặt khác, Ngân hàng Thế giới c định thế kỷ
XXI k nguyên kinh tế dựa vào k năng(Skills based economy). Kết quả của nhiều
nghiên cu đã đi đến nhận định là trong các yếu tốt quyết định mức độ thành công của con
người thì kỹ năng sống chiếm đến 85%, còn kiến thức chuyên môn chđóng vai trò khoảng
15%. Nhận định đó rất xác hợp với số trường hợp thành công ợt trội trong tất cả các
lĩnh vực hoạt động xã hội, vì chính k năng sống quyết định nhân cách, ý chí, văn hóa, bản
lĩnh, các mối quan hệ, tính năng động sáng tạo, tính chuyên nghiệp…của con người.
UNESCO cũng xác định NĂNG LỰC = KIẾN THỨC + KỸ NĂNG + THÁI ĐỘ, mà hai
yếu tố sau lại thuộc về kỹ năng sống. Các nước phát triển Âu, Mỹ, Úc, Nhật, Singapore…
đều đã lập ra các ủy ban c định yêu cầu đối với nguồn nhân lực trong thế kỷ thXXI.
Tất cả các nghiên cứu nói trên đều đi đến kết luận chung về tầm quan trọng của kỹ năng
sống. Xin trích dẫn ra đây kết luận của Ủy ban Đào tạo và Phát triển Hoa Kỳ về 13 kỹ năng
cần có của người lao động trong thế kỷ thứ XXI: 1- kỹ năng tư duy sáng tạo, 2- kỹ năng đặt
mục tiêu tạo động m việc, 3- knăng quan hệ, giao tiếp ứng xử, 4- knăng lãnh
đạo, 5- kỹ năng học hỏi, 6- kỹ năng lắng nghe, 7- kỹ năng thương lượng, 8- knăng thuyết
trình và diễn giải ý tưởng, 9- knăng đảm bảo tính hiệu quả trong công việc, 10- knăng
phát triển nhân trong công việc, 11- knăng tìm giải pháp và giải quyết nhanh vấn đề,
12- lòng ttôn vbản thân, 13- knăng làm việc theo nhóm. Chúng ta nói v“dạy làm
người”, nhưng hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học còn khiếm khuyết trầm trọng
trong mảng này. Kiến thức tự nó không giá trị, chỉ giá trị khi được đem ra ứng
dụng vào những việc mang lại hiệu quả thiết thực. Kiến thức chỉ là sức mạnh tiềm tàng.
Liên quan đến những vấn đề trên tư duy quan lý cần thay đổi triệt để hơn.
Những m gần đây Bộ đã mrộng phần nào quyền tự chcủa các trường đại học, nhưng
nhìn chung vẫn còn mang nặng tính “chăn dắt, xin cho”. Người quan lý thường muốn tất cả
các đối tượng mình quản đều phải làm theo cùng một cách mà mình áp đặt cho dễ. Tuy
nhiên, điều đó lại hạn chế sự xuất hiện những nhân tố mới tích cực, tiến bộ, vì trái với
quy luật tiến hóa dựa trên sự chọn lọc từ sự đa dạng.