CẢM HỨNG PHÊ PHÁN

TRONG DI CẢO THƠ CỦA CHẾ LAN VIÊN

NGUYỄN DIỆU LINH (*)

Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhất là khi cả nước bước vào thời kỳ đổi

mới toàn diện và sâu sắc, nhà thơ Chế Lan Viên (23/10/1920 - 19/6/1989) có viết

nhiều bài thơ mang cảm hứng phê phán rõ nét.

1. Trước hết là sự nhìn nhận và phê phán về chính mình. Điều này không dễ

mấy ai dám nhìn thẳng vào những khiếm khuyết của mình mà rút ra bài học cần

thiết. Chẳng hạn, tu chỉnh về ý nghĩ để hành động cho đúng hướng, có ích cho cuộc

sống và cho chính bản thân mình... Thực ra, không phải đến thời điểm này Chế Lan

Viên mới có ý thức về vấn đề đó. Trước đây, thời chiến tranh và xây dựng cuộc

sống mới, Chế Lan Viên từng dũng cảm đưa con người cá nhân của mình ra để mổ

xẻ, để thấy rõ cái đớn hèn, bé nhỏ của mình và rộng ra là một lớp người thuộc thế

hệ mình để mà đau xót và hối hận. Phê phán mình xa rời cuộc đấu tranh của quần

chúng Chế Lan Viên từng viết: “Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy / Thơ xuôi

tay như nước chảy xuôi dòng!” (Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi) (1).

Để nêu bật sự hy sinh lớn lao của lãnh tụ, Chế Lan Viên đã chua xót nói về thế

hệ mình: “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp / Giấc mơ con đè nát cuộc đời

con / Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp / Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm

hồn” (Người đi tìm hình của Nước) (2).

Trong các bài nghĩ về thơ và nghề thơ, Chế Lan Viên đã có những câu mang

cảm hứng phê phán về bản thân mình. Cuộc đấu tranh tự phê bình và phê bình bao

giờ vế đầu cũng đáng trân trọng.

Đến Di cảo thơ, ý thức tự phê bình và phê bình càng được đẩy lên cao. Hoàn

cảnh đất nước lúc này đã thống nhất, không còn phải e dè những “khu vực cấm”

nữa. Song song với đó, ý thức dân chủ trong xã hội và trong văn học được đề cao,

con người có thể sống trung thực với mình, nói những suy nghĩ, chiêm nghiệm của

mình về đời sống xã hội và về con người. Chính vì vậy, cảm hứng phê phán trong

thơ Chế Lan Viên ở tầm cao hơn, sâu sắc hơn giai đoạn trước. Nhìn nhận lại bản

thân mình – không hiểu có quá mức cần thiết không – Chế Lan Viên viết: “… anh

1

tội lỗi, dại khờ, ngu si, bướng bỉnh / Làm sao? Làm sao anh có đủ khôn ngoan để

gặp tai ương mà né tránh / Anh là kẻ rất thấp mà, là chổi thôi mà, sao lại bắt anh

quét trời như những chùm sao / Ở tận trên cao?”(Làm sao?) (3).

Phê phán bản thân không lường được sức mình, thậm chí không thấy cả nhân

loại vô cùng to lớn, trong đó có nhiều người tài hơn mình, còn bản thân mình thật là

nhỏ nhoi tội nghiệp, Chế Lan Viên viết: “Sau anh còn mênh mông nhân loại / Đừng

nghĩ mình là người đi cuối / Phải để lại dấu chân, nhành cây, viên sỏi…/ Cho người

theo sau không cô đơn / Khi gặp dấu chân anh, người đi trước / Họ lại để một cành

hoa tiếp tục bên đường” (Sau anh) (4).

Sự thực thì có lúc nhà thơ cười mình tốn công lớn mà hiệu quả thu về thật nhỏ

nhoi: “Cười mình vung lưới rộng / Thu về con tép con / Nhặt bốn câu bé bỏng / Sải

cánh cả tâm hồn” (Tuổi già làm thơ tứ tuyệt) (5). Cũng có lúc Chế Lan Viên vươn

tới mức độ cao của sự phê phán là nhận ra đã đến lúc phải thay đổi con người mình.

Sự “đổi đời ” cũng có nghĩa là phải thay đổi cách suy nghĩ, cách hành động. Phải

đắm mình vào trong cuộc sống bình dị hàng ngày, biến con người mình cũng bình

thường như bao người bình thường khác thì mới mong “đổi Lời”: “Ngồi giữa cá

tôm, trong xe buýt, xe lam đầy bụi / Ra khỏi sức hút của danh vọng, bản thân, tên

tuổi / Trộn hạt giống anh vào trăm giống cao sang hay hèn hạ của đời / Ăn miếng

ngọt ngon, giờ ăn nhục tủi / Đang là ngọc, tự vùi mình là hạt sỏi / Nghĩ sâu vào

trong cái đang sống bên ngoài / Rồi từ đấy anh mới đẻ ra thơ như Đức Chúa Lời /

Đẻ Đức Chúa Con của Người trong chuồng cừu bên máng cỏ / Hôi hám thế mới

thực tình là Chúa / Muối đổi Lời ư? Anh phải đổi Đời” (Đổi Đời) (6).

2. Sau khi tự phê phán mình, Chế Lan Viên mở rộng cảm hứng ấy sang những

vấn đề chung của xã hội và những người xung quanh mà nhà thơ nhận thấy. Trước

hết, đó là việc phê phán sự quên quá khứ, sự nhìn nhận không đúng về quá khứ ở

một số người. Có sự vật rất có ích cho cuộc sống, thậm chí nếu không có nó thì

cũng chấm dứt sự tồn tại của sự sống. Nhưng vì ta quá quen, quá nhờn có khi tưởng

không có nó thì ta vẫn là ta cho nên tưởng nó chưa từng tồn tại: “Cái mặt trời quá

quen / Loài người dùng hằng bữa / Quên phứt nó là hoa / Chẳng ai ca tụng nữa”

(Quá quen) (7).

Đánh giá về quá khứ, rất cần có sự xem xét hoàn cảnh cụ thể về yếu tố khách quan, từ đó

ta nhìn nhận yếu tố chủ quan một cách có lý có tình hơn. Chế Lan Viên đã viện đến lịch sử để

2

nhắn nhủ những điều rất thời sự: “Vua Hùng, vua Lê, cả dân tộc sống trong Châu Á đói nghèo

/ Dẫm chân trong bùn, dẫm chân tại chỗ / Có làm vua cũng là vua thứ quèn / Mũ triều thiên

lẫn cùng rổ rá / Áo long bào lắm khi phải vá / Suốt đời lo miếng ăn cho dân tộc không xong! /

Không phải thứ vua lục viện, tam cung / Có ba nghìn con em vườn lê múa hát / Do đó ta có

chửi vua nước mình cũng chửi cho chừng mực” (Vua) (8).

Nhìn nhận về đất nước, về truyền thống lịch sử như vậy là rất khách quan. Ta

có thể phê phán trước đây nhiều thứ nhưng đừng quên rằng lịch sử nước ta mấy

nghìn năm phải chống giặc ngoại xâm và chống chọi với thiên nhiên. Ngay trong 61

năm dưới chế độ mới thì đã có 30 năm chiến tranh chống hai tên đế quốc đầu sỏ và

16 năm chống chiến tranh biên giới. Thực sự chúng ta có 15 năm sống trong hoà

bình. Nhưng hoà bình cũng chỉ là tương đối. Bao thế lực còn chống phá ta. Vả lại,

đến từng thời điểm lịch sử, chúng ta có sức bấy nhiêu thôi, chúng ta đành chấp nhận

cách giải quyết của cha ông ta là đến chừng mực ấy. Nhìn thẳng vào thực trạng của

đất nước một cách đúng đắn thiết tưởng cũng là cách phê phán những cái nhìn phi

thực tế: “Việt Nam chỉ giàu chiến công thôi / Còn nghèo vô kể / Chả lẽ lại đổ cho

Nhật, cho Tây,cho Tàu, cho Mỹ / Hay lãnh đạo về kinh tế / Khi trái tim ta tồi / Mà

cuộc đời như rệp như bọ chét / Suốt đêm cắn xé / Đánh ta liên hồi” (Đôi giầy chật)

(9).

Trong thời hậu chiến, bên cạnh cái lo toan của cuộc sống hiện tại, chúng ta còn lo chu

đáo cho những người đã vì sự nghiệp chung mà ra đi mãi mãi. Có những người bình thường,

cuộc sống bao vất vả mà họ vẫn dành tấm lòng và làm trọn nghĩa với người đã khuất. Nhưng

cũng có những người thờ ơ, tỏ ra “vô can” trước mọi trách nhiệm mà lẽ ra họ nên góp phần

chia sẻ. Chế Lan Viên đã dựng lên hai hình ảnh đối lập nhằm phê phán đối tượng này:

“Người nông dân ấy đã bốc mộ cho hàng ba trăm thương binh / Xác anh em và xác con

mình / Anh xếp trên gường nhà anh như họ còn nằm ngủ /(…) Có khi bản thân anh cũng

muốn quên giữa cuộc đời chật vật / Còn ta à! Thì bận vì dạ hội, liên hoan / Tình ca, hội

thảo… /Bao nhiêu điều láo nháo chúng ta quên / Quên rằng giờ chiến thắng mười năm /

Anh ta vẫn khổ / Con vào trường không có chỗ / Đến bệnh viện không tiền / Ra đường không

ai nhớ / Về làng người ta quên ” (Một người thường) (10).

3. Tập trung nhất là cảm hứng phê phán những mặt bất cập xuất hiện vào thời

kỳ đổi mới. Chế Lan Viên phê phán những quan niệm làm đảo điên các giá trị, tôn

thờ chủ nghĩa vật chất khiến nhân loại như sắp đến lụi tàn: “Thế kỷ 20. Nôn mửa

3

thành cổ điển / Và phá phách vào Hàn lâm viện / Họ chia ra buồn tiền chiến và say

hậu chiến / Biến chén rượu hạt mít và cái ao nhà thành ra biển, / Dựng cặp đùi lên

thành Khải hoàn môn / Giết hết hoa sen để vạn tuế buồn / Họ lao trượt ái tình như

trẻ con chơi cầu trượt…/ Đồ vật là chúa tể mà / Nhân loại sắp hoàng hôn” (Mô -

đéc) (11).

Trong đối nhân xử thế, có kẻ chỉ dùng lời lẽ đầu lưỡi mà không thực tâm ghi sâu đáy

lòng ơn huệ của người khác. Chắc chắn là Chế Lan Viên không nhạo báng từ “cảm ơn” từ

bao đời để lại mà chúng ta vẫn dùng. Nhà thơ muốn phê phán những kẻ dùng lời nói để vuỗi

đi mọi thứ cần ghi nhớ: “Để khỏi nhớ ơn, người ta bày ra chữ cảm ơn / Cảm ơn một lần, hai

lần thôi thế là rảnh nợ” (Cảm ơn) (12).

Cuộc sống xô bồ khiến con người không sống thật là mình, phải nguỵ trang

nhiều thứ dẫn đến việc khó nhận ra con người đích thực của mình. Đến khi nhắm

mắt xuôi tay, anh ta cũng không tự chủ để trở về với bản chất thật của mình. Yêu,

ghét cũng tuỳ do người đời định liệu. Chế Lan Viên phê phán hiện tượng này: “Anh

ta có nhiều mặt nạ / Cái nào cũng là mặt thật của mình / Vì cái thật hơn nó phải ẩn

hình / Sau mặt thật vốn là giả ấy / Chiếc mặt nạ anh đánh lừa người khác / Lẫn

cùng bao mặt nạ bao người” (Mặt nạ) (13).

Vấn đề danh và thực hiện nay đang là mối quan tâm của dư luận xã hội, thậm chí là một

điều nhức nhối. Đáng trân trọng sao khi mà trước công cuộc đổi mới một năm, Chế Lan Viên

đã nhận ra điều này, đã cảnh tỉnh dư luận xã hội cần đi vào thực chất của con người cùng

những đóng góp cụ thể, hiệu quả của người ấy cho xã hội. Nhà thơ dựng lên một cảnh tượng

thật hiếm có: “Trong lễ đón người đến tự Thiên Hà / Anh bị gạt ra / Vì không cấp bậc / Lương

anh quá thấp / Lại không bằng cấp / Ốm chưa bao giờ nằm lầu A / Từ anh đến những người

được mời đi đón còn xa / Cách nhiều phẩm trật /(…) Người trong phòng họp / Quay nhìn ra

anh nhà thơ bị gạt / Cho anh một bạt tai đánh đốp: / "Cút ! Đi đi ! Đừng có đứng đây nghe /

Rồi tưởng bở / Nghĩ mình cũng là thi sĩ / Đến tự thiên ha, thiên hả, thiên hà” (Đón người Thiên

Hà) (14).

Tham nhũng hiện nay trở thành “quốc nạn”. Người ta lên án nó, căm giận nó và tìm cách

dần dần loại nó ra khỏi đời sống xã hội. Vào những năm cuối đời, Chế Lan Viên đã góp tiếng

nói phê phán loại sâu mọt này. Khác với mọi người khác khi họ thường lớn tiếng tố cáo, bằng

sức mạnh của thơ ca, Chế Lan Viên đã dựng lên những hình tượng tương phản khiến cho ý

nghĩa tố cáo sâu sắc hơn. Thời chiến tranh, nhà thơ hốt lá bàng rơi để đun nấu. Vui trong cảnh

4

nghèo bởi nghĩ đến chiến trường xa có người lính đổ máu cho mình. Nếu người lính biết được

cảnh ở hậu phương có một nhà thơ, chưa nói là một nhà thơ lớn, đang nhặt lá để nấu đun, vì

chiến tranh, đất nước còn nghèo, người lính sẽ được an ủi phần nào. Nhưng giờ đã hoà bình, mà

hoà bình đã trên mười năm, nhà thơ vẫn phải nhặt lá (để đun thay củi) :“Không phải vì đất nước

mình còn chiến tranh, nghèo khó / Mà vì có bao nhiêu thằng đang sống xa hoa / Vì có bọn người

thoái hoá / Khiến cho thắng trận rồi mà vẫn còn nhặt lá - kẻ làm thơ!” (Hốt lá) (15).

Một năm sau, tiếng nói phê phán lại tiếp tục trong câu chuyện nhà thơ bị phạt

tiền điện, không có tiền trả, phải bán đi bảy tấm ván bạn cho định làm trần nhà để có

tiền nộp phạt. Nghĩ mà thương thân. Giá có ván làm trần “Tuổi lớn vẫn viết được /

Miễn nhà có cái trần”. Nhà thơ thì khổ vậy mà thấy quanh mình còn có những kẻ :

“Chung quanh bọn tham ô / Xây biệt thự lớn, nhỏ / Còn lên lớp nhà thơ: / “Cần chịu

đựng gian khổ” (Nhà không trần) (16).

Bọn tham ô mà nhà thơ nói đến trong bài thơ tất không thể là bọn bình thường.

Phải có chức, có quyền mới “lên lớp” răn dạy nhà thơ được chứ. Thưa vong linh

nhà thơ Chế Lan Viên, những “bọn”, những “thằng” mà ông nói tới ngay những

năm đầu sau đổi mới đã có nhiều tên phải ra trước vành móng ngựa, phải vào nhà

đá nhưng chưa phải đã hết. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn tiếp tục và hy

vọng đất nước, xã hội ngày một tốt đẹp hơn bởi những ung nhọt đó dần dần được

cắt bỏ.

Với cảm hứng phê phán mạnh mẽ, Chế Lan Viên còn hướng tới nhiều vấn đề khác

phức tạp hơn. Đó là “cuộc cãi cọ giữa chân lý và bọn cầm cờ trắng cờ đen nghiêng ngả /

Giữa người lên chiến hào và kẻ tụt lại sau / Giữa mặt trời lên và các ngôi sao chết / Giữa cờ

đỏ thiêng liêng và những kẻ đổi màu” (Tranh luận) (17). Đó còn là sự phê phán triết học: “Ngỡ như nhờ anh mà cỏ mọc / Nhờ anh mà trái rơi!” (Triết (1)) (18). Hoặc đó là sự phê

phán tôn giáo không còn thiêng khi phạm tội sát nhân: “Các tôn giáo bây giờ được việc hơn

xưa / Thần thánh tham dự các vụ giết người dữ dằn hơn hôm qua” (Tôn giáo mới) (19).

Có lần Chế Lan Viên phải thốt lên một cách chua xót: “Thế kỷ đông người mà nhân

loại vắng tanh”. Phần “nhân loại” mà nhà thơ muốn nói tới tất nhiên phải là phần trong

sáng, lành mạnh của con người. Nói như vậy có phần cực đoan chăng? Nhưng phải thừa

nhận là cái xấu, cái ác còn hoành hành dữ quá. Con người có lương tâm cần phải nỗ lực

nhiều hơn để đẩy lùi nó, dần dần loại bỏ nó.

5

4. Là người làm thơ, Chế Lan Viên không thể không nghĩ đến những mặt bất

cập của nghề nghiệp văn chương mà bày tỏ thái độ. Trước hết, đó là sự xa rời thực

tế của mình (và của nhiều người khác): “Mẹ già chạy gạo nuôi anh từng ngày, từng

buổi / Một tháng bao lần ngô ghế theo khoai / Thế mà anh đi tìm nắm cỏ tiên để hái

/ Mẹ cần ăn, anh cho nắm cỏ hái trên trời” (Hái trên trời) (20).

Chế Lan Viên còn phê phán những tác giả muốn tìm chữ lạ để lừa người chứ

thực chất không có gì mới, chứng tỏ sự lười động não trong sáng tạo nghệ thuật:

“Những nhà thơ mất giá / Lại thường hay đổi tiền / Mong dùng nhiều chữ lạ / Lừa

người tiêu quá quen” (Mất giá) (21). Rồi có cả những nhà thơ vô cảm, không biết

đến "cây đời" với bao điều hấp dẫn. Cách phê phán rất nhẹ nhàng mà đầy oán

trách : "Những nhà thơ không nghe biếc đầu cây gọi họ / Gặp mùa đào mà không có

nỗi buồn Thôi Hộ / Đi qua mùa xuân không ngoái cổ lấy một lần / Họ sống ba trăm

sáu chục ngày, không biết một ngày Xuân!” (Lãnh đạm) (22).

Nhiều trường hợp “dịch thơ” lại hoá “diệt thơ”. Chế Lan Viên cũng không

buông tha những “dịch giả” này: “…thằng dịch chết dịch /Không hiểu mà dịch bừa

/(…) Ở đời chết bởi bọn trung gian ấy / Không trung mà lại gian” (Bị lừa) (23).

Cảm hứng phê phán trong Di cảo thơ ở dạng khái quát nhất có lẽ là ở một bài

thơ viết ngay sau khi phát động đổi mới. Những người đã có quá khứ, tạm cho là

vinh quang mà nhà thơ gọi là “cuộc đời là ở phía đằng sau” muốn níu kéo “hoàng

hôn đã tắt”, cũng có nghĩa là muốn cản trở bình minh đến. Sự bảo thủ, trì trệ đến

một mức nào đó có thể xem là tội lỗi. Nhà thơ gần bẩy mươi tuổi tự nhủ với mình

và để nhắn cùng kẻ khác: “Hãy nhớ mình là nước, hãy trôi đi, đừng quẩn mãi chân

cầu / Khốn nỗi! Có người cuộc đời là ở phía đằng sau / Họ níu kéo các bình minh

đã tắt, các hoàng hôn đã tắt / Quên chuẩn bị tiếng gà cho ngày mọc hôm sau” (Tiếc

nuối) (24).

N.D.L

………………………….

(1) Chế Lan Viên: Hoa ngày thường, chim báo bão, Nxb Văn học, 1967, tr.35. (2) Chế Lan Viên: Ánh sáng và phù sa, Nxb Văn học, 1960, tr.90. (3), (10), (11), (14), (15), (18), (22) Chế Lan Viên: Di cảo thơ (tập II), Nxb Thuận

Hoá, 1993, tr. 75, 173 - 174, 120, 89 - 91, 105, 100, 158.

TÀI LIỆU THAM KHẢO :

6

(4), (12), (13), (17), (19), (20), (23), (24) Chế Lan Viên: Di cảo thơ (tập III), Nxb

Thuận Hoá, 1996, tr. 50, 129, 83, 47, 49, 58, 22, 87.

(5), (6), (7), (8), (9), (16), (21) Chế Lan Viên: Di cảo thơ (tập I), Nxb Thuận Hoá,

1992, tr. 152, 171, 164, 199, 100, 69, 75.

(ThS-NCS), Giảng viên Ngữ Văn, Trường đại học Khoa học Thái Nguyên.

--------------------------- (*) Địa chỉ: NGUYỄN DIỆU LINH

(ĐTDĐ: 0975 190 882)

(Đã được nhận in trên tạp chí Nghiên cứu văn học trong tháng 01.2011 )

7