![](images/graphics/blank.gif)
Chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
lượt xem 2
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Bài viết nghiên cứu về thực tiễn triển khai chiến lược đa dạng hóa tại các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam nhằm khám phá sự khác biệt về hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này khi theo đuổi các chiến lược đa dạng hóa khác nhau.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 CHIẾN LƯỢC ĐA DẠNG HÓA VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM DIVERSIFICATION STRATEGIES AND BUSINESS PERFORMANCE OF VIETNAM ENTERPRISES Nguyễn Thị Mỹ Nguyệt Trường Đại học Thương mại mynguyet@tmu.edu.vn TÓM TẮT Bài viết nghiên cứu về thực tiễn triển khai chiến lược đa dạng hóa tại các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam nhằm khám phá sự khác biệt về hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này khi theo đuổi các chiến lược đa dạng hóa khác nhau. Nghiên cứu vận dụng phương pháp chỉ số Entropy để xác định loại hình chiến lược đa dạng hóa và sử dụng các chỉ số hiệu quả tài chính ROA, ROE của 400 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2018 trong phân tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt trong lựa chọn chiến lược đa dạng hóa cũng như mức độ ảnh hưởng của chiến lược đa dạng hóa đến các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ tại Việt Nam. Từ khóa: Chiến lược đa dạng hóa, hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp dịch vụ. ABSTRACT The purpose of this article is to analyze situation of diversification strategies manufacturing enterprises and service enterprises in Vietnam. The research objects discover the difference in business efficiency of these businesses in pursuit of different diversification strategies. Quantitative research is done on the basic of relevant data of 400 enterprises listed on Vietnam stock market shares continuously in the period from 2014 to 2018. In this research, Entropy selected indicator to measure diversity and ROA, ROE as a measure of business performance of listed companies. The results of the study show that there are differences in the strategic selection of diversification as well the degree of influence of diversification strategy to manufacturing enterprises and service enterprises in Vietnam. Keywwords: Diversification strategies, manufacturing firms, service firms, business performance. 1. Đặt vấn đề Chiến lược đa dạng hóa được xác định là một xu thế tất yếu của các doanh nghiệp để hướng tới mục tiêu mở rộng phạm vi hoạt động, tăng trưởng mạnh mẽ và tăng cường sự hiện diện trên thị trường. Vào đầu những năm 1960, chiến lược đa dạng hóa bắt đầu được các doanh nghiệp áp dụng phổ biến trên thế giới và cách thức tăng trưởng này được các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện từ giữa năm 2000. Đến nay, một số doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể như Vingroup, FPT... Trong những năm gần đây, vấn đề đa dạng hóa tại các doanh nghiệp tồn tại một số khoảng trống nghiên cứu bao gồm: (1) Các doanh nghiệp Việt Nam có nên đa dạng hóa và coi đây như một cách thức tăng trưởng trong dài hạn hay không? Bởi trong xu hướng này phổ biến ở thị trường trong nước thì ở một số quốc gia phát triển trên thế giới lại chuyển sang xu hướng chuyên môn hóa bằng cách tập trung phát triển hoạt động cốt lõi và (2) Chiến lược đa dạng hóa mang lại hiệu quả kinh doanh như thế nào cho các doanh nghiệp Việt Nam, có cần sự khác biệt trong triển khai đa dạng hóa ở các đối tượng doanh nghiệp khác nhau (doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ) hay không? Do đó, đến nay vẫn còn nhiều tranh luận chiến lược đa dạng hóa tại các doanh nghiệp Việt Nam. Để lấp đầy khoảng trống nghiên cứu này, bài viết sử dụng bộ dữ liệu tài chính của 400 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (bao gồm cả sản xuất và kinh doanh dịch vụ) nhằm đánh giá thực tế áp dụng chiến lược đa dạng hóa cũng như sự khác biệt về hiệu quả kinh doanh khi triển khai các chiến lược khác nhau tại các doanh nghiệp Việt Nam. 2. Tổng quan tình hình hình nghiên cứu 2.1. Đa dạng hóa và các loại hình đa dạng hóa Đa dạng hóa là thuật ngữ được thảo luận trong nhiều nghiên cứu với các cách thức tiếp cận khác nhau, do đó tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Theo Ansoff (1965), đa dạng hóa là một chiến lược giúp 829
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 cho doanh nghiệp gia tăng phạm vi hoạt động bằng cách đưa ra thị trường các sản phẩm mới hoặc tham gia vào thị trường mới. Từ đó, giúp khẳng định sức mạnh trên thị trường, củng cố lợi thế cạnh tranh hơn nữa và tăng giá trị của doanh nghiệp. Chandler (1990) cho rằng, đa dạng hóa là khi các doanh nghiệp thâm nhập vào một thị trường hoặc ứng dụng công nghệ mới, để tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh khác. Normann (1984), nhấn mạnh đa dạng hóa là việc một doanh nghiệp cùng lúc quản lý, điều hành và kiểm soát nhiều hoạt động kinh doanh đồng thời. Trong khi đó, Johnson (2002) quan điểm chiến lược đa dạng hóa là việc mở rộng hoặc tham gia vào các thị trường khác với các sản phẩm hoặc thị trường hiện có của doanh nghiệp nhằm đạt được sự tăng trưởng trong kinh doanh. Capar và Kotabe (2003), định nghĩa một doanh nghiệp đa dạng hóa khi doanh nghiệp này tham gia hoạt động từ hai lĩnh vực kinh doanh hay ngành công nghiệp. Điều này có nghĩa đa dạng hóa là khi doanh nghiệp mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh ngoài lĩnh vực hiện tại thông qua gia nhập vào một lĩnh vực, ngành kinh doanh mới hoặc tham gia vào một phân khúc thị trường hoặc đưa ra thị trường một sản phẩm mới. Tại Việt Nam, một số nghiên cứu đã định hình khái niệm đa dạng hóa của doanh nghiệp đặt trong bối cảnh của thị trường nội địa. CIEM (2014), định nghĩa một doanh nghiệp được coi là đa dạng hóa khi doanh nghiệp sản xuất nhiều sản phẩm hay tham gia hoạt động trong nhiều hơn một ngành cấp 4 số theo bảng phân ngành chuẩn quốc tế VSIC. Châu (2014) cho rằng, chiến lược đa dạng hóa là chiến thuật tăng trưởng, phát triển và giảm rủi ro của oanh nghiệp thông qua việc mở rộng hoạt động kinh doanh sang các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh khác thông qua các hoạt động như phát triển nội bộ, liên doanh, sáp nhập, mua lại… Như vậy, các doanh nghiệp đa dạng hóa chấp nhận tham gia vào các ngành, lĩnh vực kinh doanh khác với ngành và hoạt động kinh doanh hiện tại (Hương, 2017). Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về chiến lược đa dạng hóa của doanh nghiệp, tuy nhiên có thể hiểu chiến lược đa dạng hóa là chiến lược tăng trưởng để doanh nghiệp khám phá các lĩnh vực kinh doanh nhiều tiềm năng hơn thông qua tham gia hoặc mở rộng thị trường hoặc ngành kinh doanh khác nhau. Chiến lược đa dạng hóa có được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, một số quan điểm cho rằng chiến lược đa dạng hóa được chia thành ba mức độ chính: không đa dạng hóa, chiến lược đa dạng hóa ở mức độ trung bình và chiến lược đa dạng hóa ở mức độ cao (Johnson, 2002). Tuy vậy, một số nghiên cứu (Rumelt, 1974; Mintzberg và cộng sự, 1992; Dess và cộng sự, 2004; Hitt và cộng sự, 2011) lại chia chiến lược đa dạng hóa thành hai loại chính bao gồm đa dạng hóa liên quan và đa dạng hóa không liên quan. Chiến lược đa dạng hóa không liên quan là việc doanh nghiệp tham gia vào một ngành kinh doanh mới không có liên quan đến ngành kinh doanh hiện tại. Theo (Lichtenhaler, 2005), đây là chiến lược đa dạng vào bất cứ ngành công nghiệp hấp dẫn nào có tiềm năng về hiệu quả tài chính cũng như giúp doanh nghiệp thiết lập được mối quan hệ để củng cố vị trí của mình trên thị trường. Trong đa dạng hóa không liên quan, công ty là đa dạng hóa vào bất kỳ ngành nào có vị trí dẫn đầu và có cơ hội lợi nhuận tốt. Chiến lược này luôn đòi hỏi khả năng tài chính vững chắc của doanh nghiệp đồng thời đòi hỏi về mức độ tập trung đầu tư về thời gian mới có thể thành công. Đa dạng hóa không liên quan cũng là lựa chọn giúp cho các doanh nghiệp đạt được hiệu suất vượt trội (Datta và cộng sự, 2011). Đa dạng hóa không liên quan phụ thuộc nhiều hơn vào năng lực quản lý và tài chính, trong một số điều kiện kinh tế nhất định, chiến lược đa dạng hóa không liên quan có thể là một chiến lược hiệu quả. Hơn nữa, đa dạng hóa không liên quan có thể là một chiến lược thuận lợi khi công ty đang đối mặt với sự suy giảm về lợi nhuận trong quá trình phát triển (Datta và cộng sự, 2011). Đa dạng hóa không liên quan cung cấp cơ hội để thay đổi để tiếp cận các ngành có lợi nhuận cao hơn. Ngoài ra, khi ngành chính của doanh nghiệp biến động mạnh, doanh nghiệp có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hóa vào các ngành không liên quan. Chiến lược đa dạng hóa liên quan là lựa chọn đầu tư của doanh nghiệp cho một sản phẩm tương tự, hoặc sản phẩm có sự tích hợp với sản phẩm hiện thời hoặc mở rộng thị trường đối với sản phẩm tương tự hoặc sản xuất một sản phẩm mới nhưng sử dụng chung công nghệ, nguồn lực, kiến thức, thông tin và nguồn lực đối với sản phẩm hiện tại (Nelson và Winter, 1982). Đây là loại hình chiến lược cho phép doanh nghiệp sử dụng chung hoặc chia sẻ tài nguyên trong nội bộ, từ đó cho phép doanh nghiệp vẫn tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm mới vừa sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và giảm chi phí. Mặt khác, đa 830
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 dạng hóa liên quan có lợi thế khi được ảnh hưởng từ thương hiệu và danh tiếng của các sản phẩm được sản xuất trước đó, giúp cho ngành kinh doanh mới sớm xây dựng được lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, doanh nghiệp triển khai đa dạng hóa liên quan được hưởng lợi thế về chi phí khi được chia sẻ chi phí quản lý chung, chi phí truyền thông… 2.2. Chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất Trong lĩnh vực sản xuất, chiến lược đa dạng hóa có khả năng mang lại cơ hội tăng trưởng tốt hơn khi doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, nâng cao được tính kinh tế nhờ quy mô và khai thác được hiệu ứng học tập (Kim và cộng sự, 1993) nhờ sự chia sẻ các năng lực cốt lõi giữa các doanh nghiệp ở trên các phân khúc thị trường khác nhau. Các doanh nghiệp sản xuất càng đa dạng hóa cao sẽ càng tăng cường sự hiện diện sản phẩm của doanh nghiệp đồng thời khai thác tài nguyên hữu hình tối ưu, từ đó sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh tốt hơn (Barney, 1991). Ngoài ra, đa dạng hóa còn là cơ hội để doanh nghiệp sản xuất phát triển và tích hợp hoạt động vào chuỗi giá trị ngành, tiêu chuẩn hóa sản phẩm, hợp lý hóa sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh (Sundaram và Black, 1992). Bên cạnh các quan điểm ủng hộ chiến lược đa dạng hóa tại các doanh nghiệp sản xuất, một số nghiên cứu lại cho rằng tồn tại sự ảnh hưởng tiêu cực của chiến lược đa dạng hóa với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất. Porter (1987) đã nghiên cứu về chiến lược đa dạng hóa của 33 doanh nghiệp sản xuất tại Mỹ và nhấn mạnh các doanh nghiệp đều đạt được mức doanh thu và hiệu quả kinh doanh thấp hơn khi triển khai chiến lược đa dạng hóa, điều này hoàn toàn trái với kỳ vọng của các doanh nghiệp khi theo đuổi chiến lược này. Một số nghiên cứu khác cho rằng mối quan hệ giữa chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh có hình chữ U ngược, có nghĩa là chiến lược đa dạng hóa của doanh nghiệp tăng lên sẽ có thể kéo theo sự tăng lên về hiệu quả kinh doanh nhưng đến một mức tối ưu nào đó hiệu quả kinh doanh sẽ giảm xuống (Varadarajan và Ramanujam, 1987; Palich và cộng sự, 2000). Một số khác thì khẳng định mối quan hệ của chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp không xác định do chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như loại hình chiến lược đa dạng hóa liên quan và hay đa dạng hóa không liên quan hay không đa dạng hóa; năng lực của các nhà quản lý, cơ cấu ngành, quy mô doanh nghiệp và phương thức đa dạng hóa… Chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp dịch vụ Doanh nghiệp dịch vụ chuyên cung cấp sản phẩm vô hình và luôn đòi hỏi sự tương tác giữa người mua và người bán. Sự chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế và tầm quan trọng của phát triển ngành dịch vụ trong những năm gần đây là một tiền đề quan trọng cho các doanh nghiệp đa dạng hóa. Một số nghiên cứu trước đây cho răng các doanh nghiệp dịch vụ không nên đa dạng hóa (Nornann, 1984), tuy nhiên một số khác lại nhấn mạnh trong kinh doanh dịch vụ, doanh nghiệp đa dạng hóa dựa trên sự bất đối xứng về thông tin trong ngành có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ngược lại, đa dạng hóa dựa trên tính kinh tế nhờ quy mô lại tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh. Capar và Kotabe (2003) nhận thấy có mối quan hệ hình chữ U giữa chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp dịch vụ, mặc dù vậy do những đặc điểm độc đáo của dịch vụ nên mối quan hệ tuyến tính chữ U này có sự khác biệt cụ thể là trong giai đoạn đầu của đa dạng hóa, các doanh nghiệp dịch vụ phải đối mặt với tình hình hiệu quả kinh doanh suy giảm. (Hitt và cộng sự, 2011), chỉ ra chiến lược đa dạng hóa trong các doanh nghiệp dịch vụ giúp gia tăng giá trị và giảm thiểu rủi ro cho khách hàng và khách hàng là yếu tố quyết định đến các quyết định đa dạng hóa của doanh nghiệp. Một số nghiên cứu khác của (Zeithaml và cộng sự, 1985, Berthon và cộng sự, 1999) chỉ ra kinh doanh dịch vụ yêu cầu sản xuất và tiêu thụ đồng thời, người mua tham gia trực tiếp vào quy trình sản xuất điều này khiến các doanh nghiệp dịch vụ phải thiết lập cơ sở kinh doanh mới khi đa dạng hóa (khác với hàng hóa thường được sản xuất trước, tiêu dùng sau) điều này khiến doanh nghiệp tăng chi phí và giảm hiệu quả kinh doanh. Điều này cũng cho thấy tính phi kinh tế theo quy mô trong các ngành dịch vụ khi áp dụng chiến lược đa dạng hóa. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Mẫu nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở tổng hợp và phân tích số liệu của 400 doanh nghiệp niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2014 - 2018. Các doanh nghiệp niêm yết được lựa chọn nghiên cứu đáp ứng các tiêu chí cơ bản như sau: 831
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 - Các doanh nghiệp tham gia từ hai ngành công nghiệp (theo quy định hệ thống ngành kinh tế Việt Nam VSIC) được coi là doanh nghiệp triển khai chiến lược đa dạng hóa. - Doanh nghiệp được niêm yết công khai và liên tục trong giai đoạn 2014 - 2018 và có báo cáo tài chính trong tối thiểu 3 năm gần nhất. Tất cả các doanh nghiệp này bao gồm các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược tập trung, chiến lược đa dạng hóa liên quan và chiến lược đa dạng hóa không liên quan. 3.2. Nguồn dữ liệu - Việc xác định loại hình đa dạng hóa dựa vào mã khu vực kinh doanh theo quy định của VSIC, trong đó các ngành nghề liên quan nếu cùng một nhóm ngành và có 2 chữ số mã ngành giống nhau và ngược lại các ngành không liên quan khi thuộc các ngành khác nhau và có 2 chữ số mã ngành khác nhau. - Việc xác định ngành chính được tính dựa trên tỷ lệ doanh thu của phân ngành đó và phải chiếm ít nhất 60% tổng doanh thu của doanh nghiệp hoặc nếu không có phân ngành chiếm hơn 60% doanh thu thì sẽ chọn phân ngành đóng góp tỷ lệ doanh thu cao nhất. - Dữ liệu về doanh thu và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết được thu thập từ báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp trong giai đoạn 2014 - 2018. - Dữ liệu về hiệu quả tài chính của doanh nghiệp (doanh thu, ROA, ROE) được thu thập từ báo cáo tài chính của công ty và dữ liệu của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Vietstock, Cophieu68… 3.3. Phương pháp phân tích số liệu Đo lường chiến lược đa dạng hóa bằng chỉ số Entropy Dữ liệu về doanh thu, cơ cấu doanh thu hàng năm liên tục trong giai đoạn 2014 - 2018 của các 400 doanh nghiệp niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được đưa vào phân tích trên ba khía cạnh: (1) Số lượng các lĩnh vực/phân khúc sản phẩm mà trong đó các doanh nghiệp hoạt động; (2) Sự phân bổ của tổng doanh số thông qua phân khúc sản phẩm; (3) Mức độ của mối quan hệ giữa các phân khúc sản phẩm khác nhau. Từ đó, xác định chỉ số Entropy loại hình chiến lược đa dạng hóa được tính bằng các công thức: (1) DTit - Tổng đa dạng hóa của doanh nghiệp (tính cho doanh nghiệp i trong thời gian t): Trong đó: Pj: Tỷ lệ doanh thu của phân ngành j được xác định bởi phân ngành 4 chữ số. n: Số phân ngành 4 chữ số mà doanh nghiệp đang hoạt động. DTit biến thiên trong khoảng giá trị từ 0 (Pj=l) khi doanh nghiệp chỉ tham gia một phân ngành 4 chữ số duy nhất (Không đa dạng hóa). DTit đạt giá trị lớn nhất khi doanh nghiệp hoạt động trong n phân ngành 4 chữ số, đồng thời các phân ngành này có doanh thu bằng nhau. (2) DUit - Chỉ số chiến lược đa dạng hóa không liên quan (tính trong doanh nghiệp i trong thời gian t): Trong đó: Sj: Tỷ lệ doanh thu của phân ngành j được xác định bởi phân ngành 2 chữ số. N: Số phân ngành 4 chữ số mà doanh nghiệp đang hoạt động N≤n. DUit biến thiên trong khoảng giá trị từ 0 (Pj=l) khi doanh nghiệp chỉ tham gia một phân ngành 2 chữ số duy nhất (Không đa dạng hóa). DTit đạt giá trị lớn nhất khi doanh nghiệp hoạt động trong N phân ngành 2 chữ số. DRit - Chỉ số chiến lược đa dạng hóa liên quan (tính trong doanh nghiệp i trong thời gian t): Đo lường hiệu quả tài chính của doanh nghiệp Theo đề xuất của Simon (2000) các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh cần được thiết kế nhằm hỗ trợ cho các nhà quản trị theo dõi việc triển khai chiến lược kinh và đo lường hiệu quả các phương thức chiến lược này trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Hai loại chỉ tiêu đo lường 832
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 hiệu quả kinh doanh bao gồm hiệu quả tài chính và hiệu quả thị trường. Trong đó hiệu quả tài chính được đo lường bởi một số tiêu chí như: Tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ lệ lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE), lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI),… có xu hướng dễ kiểm soát và dễ thực hiện đo lường hơn các hiệu quả thị trường (Waal & Coevert (2013)). Do đó, nghiên cứu tiếp cận đo lường hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam qua hai chỉ số tài chính gồm: ROA, ROE do đây là hai chỉ số tài chính cơ bản xác định hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp và không phụ thuộc vào sự thay đổi của thị trường chứng khoán. Các chỉ số này được thu thập từ báo cáo tài chính hàng năm của các doanh nghiệp niêm yết. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Các loại hình hiến lược đa dạng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam Qua tổng hợp và phân tích về tình hình chiến lược đa dạng hóa của 400 doanh niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy: Hình 1: Cơ cấu doanh nghiệp niêm yết theo nhóm ngành năm 2018 Nguồn: Kết quả thống kê của tác giả từ dữ liệu của Vietstock Một là, các doanh nghiệp niêm yết được chia thành hai nhóm ngành chính bao gồm: sản xuất (51,75%) và dịch vụ (48,25%). Theo kết quả thống kê đến tháng 12/2018 (Hình 1) trong ngành sản xuất, thực phẩm – đồ uống chiếm cao nhất 12,5% và hóa chất – dược phẩm 10% còn lại là các phân ngành khác như khoáng chất phi kim, nhựa – cao su… Trong ngành kinh doanh dịch vụ, phân ngành bán buôn và vận tải – kho bãi chiếm tỷ lệ cao nhất lần lượt là 14,25% và 13,5%. Tiếp đến là dịch vụ chứng khoán, bán lẻ… Hình 2: Mức độ đa dạng hóa của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Nguồn: Kết quả thống kê của tác giả từ dữ liệu của HOSE, HNX và Vietstock Hai là, có sự thay đổi đang kể về chiến lược đa dạng hóa của các doanh nghiệp. Cụ thể, các doanh nghiệp triển khai chiến lược đa dạng hóa theo hướng tăng dần trong giai đoạn 2014 – 2018. Năm 2010, chỉ có 23,81% doanh nghiệp hoạt động đơn ngành, không có đa dạng hóa trên 4 phân ngành, còn lại là hoạt động ở trong 2,3, hoặc 4 phân ngành. Đến năm 2014, tỷ lệ các doanh nghiệp hoạt động đơn ngành 833
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 chỉ chiếm 21,27%, số lượng doanh nghiệp hoạt động ở 2,3 phân ngành tăng lên với tỷ lệ lần lượt 39,68%, 20,63% và 0,95% doanh nghiệp hoạt động trên 4 phân ngành. Năm 2018 cũng đánh dấu sự tăng trưởng của số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong 2 phân ngành và trên 4 phân ngành. Tuy nhiên, lại giảm ở các phân ngành còn lại. Điều này cho thấy sự phân hóa rõ ràng trong các chiến lược đa dạng hóa, xu hướng hoặc là tập trung vào một, hai phân ngành chính hoặc đa dạng hóa mạnh mẽ cùng lúc ở nhiều phân ngành khác nhau. Bảng 1: Chiến lược đa dạng hóa của các doanh nghiệp sản xuất Chiến lược đa Chiến lược đa Tổng chiến Ngành Số lượng Tỷ trọng dạng hóa không dạng hóa liên lược đa liên quan quan dạng hóa 1. Dệt may 15 7,25% 0,1328 0,3015 0,4343 2. Kim loại 17 8,21% 0,0824 0,2004 0,2828 3. Nhựa - cao su 22 10,63% 0,041 0,0958 0,1368 4. Thực phẩm – đồ uống 50 24,15% 0,1341 0,2711 0,4052 5. Giấy 12 0,00% 0,0822 0,0705 0,1527 6. Hóa chất – dược phẩm 40 5,80% 0,1244 0,3434 0,4678 7. Khoáng chất phi kim 30 19,32% 0,0981 0,1992 0,2973 8. Thiết bị máy móc 8 14,49% 0,1328 0,1532 0,286 9. Thiết bị điện 13 3,86% 0,1626 0,2147 0,3773 Tổng 207 100 0,1100 0,2055 0,3156 Nguồn: Kết quả thống kê và tính toán của tác giả từ dữ liệu của HOSE, HNX và Vietstock Ba là, theo kết quả đánh giá mức độ chiến lược đa dạng hóa bằng chỉ số Entropy cho thấy việc thực hiện chiến lược đa dạng hóa của ngành sản xuất còn ở mức độ khá khiêm tốn (trung bình mức độ đa dạng hóa của 207 doanh nghiệp nghiên cứu đạt 0,3156). Cụ thể, các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành nhựa – cao su có mức độ đa dạng hóa thấp nhất với tổng mức độ đa dạng hóa đạt 0,1368. Nhóm ngành sản xuất giấy, kim loại cũng có tổng đa dạng hóa thấp lần lượt là 0,1527 và 0,2828. Do đặc thù của các doanh nghiệp trong nhóm ngành này thường có mức đầu tư ban đầu lớn bao gồm nhà xưởng máy móc, công nghệ. Mặt khác, đây là các nhóm ngành công nghiệp sản phẩm đầu ra của các nhóm ngành này là sản phẩm đầu vào của một số nhóm ngành khác nên có xu hướng độc quyền do đó các doanh nghiệp có xu hướng tập trung vào sản phẩm, thị trường để duy trì sự ổn định của doanh nghiệp. Ngoài ra, một số nhóm ngành có chỉ số đa dạng hóa ở mức trung bình như sản xuất khoáng chất phi kim loại (vật liệu xây dựng), thiết bị máy móc cũng ít triển khai chiến lược đa dạng hóa do trong ngành này tính kinh tế nhờ quy mô đóng vai trò quan trọng, hàm lượng công nghệ cao nên phù hợp với hoạt động chuyên môn hóa. Các nhóm ngành sản xuất có mức độ đa dạng hóa cao nhất phải kể đến hóa chất – thực phẩm (0.4678), dệt may (0,4343) và thực phẩm đồ uống (0,4052), sản xuất thiết bị điện (0,3774) bởi đây là những nhóm ngành cung cấp các sản phẩm hướng đến tiêu dùng cá nhân, sản phẩm thay đổi nhanh chóng nên đa dạng hóa mạnh mẽ. Bảng 2: Chiến lược đa dạng hóa của các doanh nghiệp dịch vụ Chiến lược đa Chiến lược đa Tổng chiến Số Ngành Tỷ trọng dạng hóa không dạng hóa liên lược đa dạng lượng liên quan quan hóa 1. Bán buôn 57 29,53% 0,2557 0,3948 0,6505 2. Vận tải - kho bãi 54 27,98% 0,2333 0,3018 0,5351 834
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 3. Viễn thông 8 4,15% 0,1192 0,1624 0,2816 4. Ngân hàng - tài chính 13 6,74% 0 0,047 0,047 5. Chứng khoán 28 14,51% 0,1512 0,2801 0,4313 6. Bảo hiểm 6 3,11% 0,1094 0,3671 0,4765 7. Bán lẻ 22 11,40% 0,2128 0,3211 0,5339 8. Du lịch 5 2,59% 0,2412 0,3008 0,542 Tổng 193 100% 0,1654 0,2844 0,4372 Nguồn: Kết quả thống kê và tính toán của tác giả từ dữ liệu của HOSE, HNX và Vietstock Bốn là, so sánh mới mức độ đa dạng hóa của các doanh nghiệp sản xuất trong Bảng 1 và doanh nghiệp dịch vụ trong Bảng 2 cho thấy các doanh nghiệp dịch vụ có sự vượt trội hơn với chỉ số trung bình đạt 0,4372. Các nhóm ngành có chiến lược đa dạng hóa mức độ cao bao gồm bán buôn (0.6505), du lịch (0,5339), vận tải – kho bãi (0,5351). Đây là một số ngành truyền thống đóng vai trò quan trọng đối với cả ngành dịch vụ và ngành sản xuất nói chung, do đó mức độ hấp dẫn cao trong thu hút các doanh nghiệp gia nhập ngành. Mặt khác, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam, các dịch vụ truyền thống, có tiềm năng lợi nhuận cao sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp dịch vụ đa dạng hóa. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại một số nhóm ngành có chiến lược đa dạng hóa thấp như ngân hàng – tài chính (0,047) hay viễn thông (0,2816), nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp này đòi hỏi quy mô vốn đầu tư lớn, nền tảng công nghệ cao nên tập trung cao vào một nhóm ngành chủ yếu. Hình 3: Kết quả đánh giá chỉ số đa dạng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam Nguồn: Kết quả thống kê và tính toán của tác giả từ dữ liệu của HOSE, HNX và Vietstock Năm là, nhìn chung chiến lược đa dạng hóa đang được triển khai một cách phổ biến ở cả doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ. Tuy nhiên, mức độ đa dạng hóa của các doanh nghiệp dịch vụ lớn hơn so với các doanh nghiệp sản xuất. Mặt khác, trong hai loại hình chiến lược đa dạng hóa phổ biến bao gồm đa dạng hóa không liên quan và đa dạng hóa liên quan thì đa số các doanh nghiệp đều triển khai mạnh mẽ chiến lược đa dạng hóa liên quan để khai thác hiệu quả tính tương đồng về nguồn lực, thị trường, công nghệ và sản phẩm. Điều này giúp doanh nghiệp có thể tạo lập được tính kinh tế theo quy mô, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. 4.2. Chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam Hình 4: Hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp niêm yết chứng khoán Việt Nam Nguồn: Kết quả thống kê và tính toán của tác giả từ dữ liệu của HOSE, HNX và Vietstock 835
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Có thể thấy, không chỉ có mức độ khác biệt cao trong việc áp dụng chiến lược đa dạng hóa tại các doanh nghiệp niêm yết chứng khoán tại Việt Nam mà còn tồn tại sự chênh lệch về hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này khi triển khai loại hình đa dạng hóa khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, một số nhóm ngành có mức độ đa dạng thấp như ngành giấy, sản xuất nhựa và cao su, thiết bị kim loại lại duy trì được hiệu quả tài chính tốt hơn so với nhóm ngành có mức độ đa dạng cao. Cụ thể, với nhóm ngành nhựa – cao su, trung bình ROA 6,37%; ROE 37,16% hay ngành giấy ROA 6,53% và ROE 15,46% cao hơn so với trung bình ROA, ROE của một số ngành có mức độ đa dạng hóa cao như thực phẩm – đồ uống, dệt may. Điều này cho thấy một doanh nghiệp chuyên ngành và có thị trường ổn định sẽ vẫn có khả năng duy trì hiệu quả kinh doanh tốt hơn là đa dạng hóa. Tuy vậy, đa dạng hóa cũng mang lại cơ hội cải thiện hiệu quả tài chính của một số nhóm ngành sản xuất như thực phẩm – đồ uống với trung bình ROA 10,14% và ROE 17,22%. Bảng 3. Chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp sản xuất niêm yết chứng khoán Việt Nam Tổng chiến lược Doanh thu Ngành Số lượng ROA ROE đa dạng hóa (tỷ đồng) 1. Dệt may 15 0,4343 6,26% 13,29% 1369,71 2. Kim loại 17 0,2828 4,67% 12,23% 6556,50 3. Nhựa và cao su 22 0,1368 6,37% 37,16% 1232,07 4. Thực phẩm – đồ uống 50 0,4052 7,23% 12,34% 4203,42 5. Giấy 12 0,1527 6,53% 15,46% 499,66 6. Hóa chất – dược phẩm 40 0,4678 10,14% 17,22% 1337,68 7. Khoáng chất phi kim 30 0,2973 6,11% 10,06% 1287,86 8. Thiết bị máy móc 8 0,286 5,76% 13,02% 630,26 9. Thiết bị điện 13 0,3773 7,12% 11,97% 2166,32 Tổng 207 0,3156 6,69% 15,86% 2142,61 (Nguồn: Kết quả thống kê và tính toán của tác giả từ dữ liệu của HOSE, HNX và Vietstock) Đối với các doanh nghiệp dịch vụ, xu hướng cho thấy các nhóm ngành có mức độ đa dạng hóa càng cao thì hiệu quả tài chính của doanh nghiệp càng được cải thiện. Minh chứng bằng trung bình chỉ số ROA, ROE của nhóm ngành vận tải – kho bãi đạt lần lượt 10,94% và 16,63% và nhóm ngành du lịch đạt 16% và 5,64%. Trong khi nhóm ngành đa dạng hóa thấp như ngân hàng thì hiệu quả tài chính đạt ROA 1,62% và ROE 11,51%. Kết quả phân tích ở Bảng 3 và 4 cũng cho thấy, mức độ dạng hóa của các doanh nghiệp dịch vụ cao hơn so với các doanh nghiệp sản xuất và hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp này cũng thấp hơn so với các doanh nghiệp sản xuất. Tuy nhiên, mức độ chênh lệch không quá cao, tổng mức đa dạng hóa của doanh nghiệp sản xuất đạt 0,3156 còn của doanh nghiệp dịch vụ là 0,4372. Hiệu quả tài chính ROA, ROE của doanh nghiệp sản xuất 6,69% và 15,86% còn của doanh nghiệp dịch vụ là 6,62% và 10,22%. Bảng 4. Chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp dịch vụ niêm yết chứng khoán Việt Nam Số Tổng chiến lược đa Ngành ROA ROE Doanh thu lượng dạng hóa 1. Bán buôn 57 0,6505 3,94% 9,41% 4775,30 2. Vận tải - kho bãi 54 0,5351 10,94% 16,68% 2807,74 3. Viễn thông 8 0,2816 6,08% 13,00% 811,62 836
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 4. Ngân hàng - tài chính 13 0,047 1,62% 11,51% 9359,62 5. Chứng khoán 28 0,4313 4,08% 5,61% 510,96 6. Bảo hiểm 6 0,4765 3,02% 8,82% 3563,05 7. Bán lẻ 22 0,5339 6,85% 14,24% 4777,68 8. Du lịch 5 0,542 16,00% 5,64% 354,57 Tổng 193 0,4372 6,62% 10,22% 3370,07 Nguồn: Kết quả thống kê và tính toán của tác giả từ dữ liệu của HOSE, HNX và Vietstock 5. Thảo luận kết quả Kết quả phân tích chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của hai nhóm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ tại Việt Nam cho thấy, các doanh nghiệp dịch vụ áp dụng phổ biến chiến lược đa dạng hóa và có tổng đa dạng hóa lớn hơn so với các doanh nghiệp sản xuất. Tuy nhiên, mức hiệu quả kinh doanh của nhóm doanh nghiệp dịch vụ lại thấp hơn so với các doanh nghiệp sản xuất. Bởi doanh nghiệp dịch vụ thuộc nhóm ngành đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu ít hơn và các rào cản xuất nhập ngành dễ dàng hơn so với nhóm ngành sản xuất. Mặt khác, cùng với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự phát triển của ngành dịch vụ và công nghiệp phụ trợ ngày càng hấp dẫn và thu hút được sự đầu tư của các doanh nghiệp. Các kết quả nghiên cứu này phù hợp với các công trình nghiên cứu trước đây của Barney (1991), Sundaram và Black (1992) và Capar và Kotabe (2003) về ảnh hưởng của chiến lược đa dạng hóa đối với hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất đòi hỏi chi phí vốn đầu tư ban đầu lớn, chi phí vận hành, chi phí đầu tư công nghệ cao,… do đó khó đa dạng hóa. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất có xu hướng cao hơn doanh nghiệp dịch vụ do các doanh nghiệp thường có quy mô lớn, rào cản xuất nhập cao, cạnh tranh ít hơn so với lĩnh vực dịch vụ đồng thời các doanh nghiệp này có khả năng quản lý, phân phối và kiểm soát thị trường và chất lượng sản phẩm tốt hơn so với doanh nghiệp dịch vụ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ansoff I.H (1965), Corporate Strategy: An Analytic Approach to Business Policy for Growth and Expansion, McGraw-Hill: New York. [2] Barney J (1991), Firm resources and sustained competitive advantage, Journal of Management 17(1): 99–120. [3] Berthon, P., Pitt, L., Katsikeas, C.S. and Berthon, J.P. (1999), Virtual services go international: international services in the marketplace, Journal of International Marketing 7(3): 84–105. [4] Chandler A (1990), Scale and Scope: The Dynamics of Industrial Capitalism, Harvard University Press. [5] CIEM (2014), Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam – Kết quả điều tra danh nghiệp nhỏ và vừa năm 2014, NXB Tài chính, Hà Nội. [6] Datta, D., Rajagopalan, N., Rasheed (2011), Diversification and performance: critical review and future directions, Journal of Management Studies. 28, 529-558. [7] Dess G, Lumpkin T & Taylor, Marilyn L (2004), Strategic Management: Text And Cases, New York, Mcgraw-Hill, International Edition. [8] Hitt M.A, Ireland R.D & Hoskisson R.E (2011), Strategic management: Concepts, competitiveness globalization, South – Western Cengage. [9] Johnson G.K (2002), Exploring Corporate Strategy Text and Cases, Pearson Education Press. [10] Kim, C.W., Hwang, P. and Burgers, W.P. (1989), Global diversification strategy and corporate profit performance, Strategic Management Journal 10(1): 45–57. [11] Lichtenthaler, E. (2005), Corporate diversification: identifying new businesses systematically in the diversified firm, Technovation, Vol. 25, 697-709. 837
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 [12] Mintzberg, Henry and James Brian Quin (1992), The Strategy Process Concepts and Contexts, Prentice Hall International Press. [13] Nayyar, P.R (1993), Stock Market Reactions to Related Diversification Moves By Service Firms Seeking Benefits From Information Asymmetry and Economics of Scope, Strategic management Journal 14, 569-591. [14] Nelson, R. R. and S. G. Winter (1982), An Evolutionary Theory of Economic Change, Harvard University Press: Cambridge, Mass. [15] Nejat Capar, Masaaki Kotabe (2003), The Relationship Between International Diversification and Performance in Service Firms, Journal of International Business Studies 34(4):345-355. [16] Normann, R (1984), Service Management: Strategy and Leadership in Service Business, Chichester (West Sussex); New York: Wiley. [17] Nguyễn Việt Cường (2013), kinh doanh đa ngành – xu hướng và điều kiện đảm bảo hiệu quả kinh doanh đa ngành, tạp chí Vietnam Business Forum, VCCI số 3+4/2013. [18] Pandya A (1998), Diversification and firm performance: an empirical evaluation, Journal of financial and strategic decisions, Vol. 11, No. 2,PP. 67-81. [19] Palich, Leslie E, Laura B.C & Miller C (2000), Curvilinearity in the Diversificationperformance Linkage: An Examınatıon of Over Three Decades of Research, Strategic Management Journal 21:155-174. [20] Phạm Thị Thanh Hương, Trần Văn Bão (2017), “Ảnh hưởng của mức độ đa dạng hóa đến hiệu quả kinh doanh của cá doanh nghiệp niêm yết Việt Nam”, Tạp chí kinh tế và phát triển, 10/2016. [21] Phan Thị Minh Châu (2014), Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, đa dạng hóa kinh doanh và thành quả hoạt động của công ty: Bằng chứng thực nghiệm ở Việt Nam, Tập san NCKH, ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh. [22] Porter (1987), From Competitive advantage to corporate strategy, Havard Business review. [23] Rumelt R.P (1974), Strategy, Structure, and Economic Performance, Boston, Harvard University. [24] Sundaram A.K & Black S.J (1992), The environment and internal organization of multinational enterprises, Academy of management Review 17(4): 729–757. [25] Varadarajan P.R & Ramanujan V (1990), The Corporate Performance Conundrum: A Synthesis of Contemporary Views and an Extension, Journal of Management Studies 27, 463-483. [26] Vietstock (2014, 2015, 2016, 2017, 2018), Niên giám doanh nghiệp niêm yết , NXB Thông tấn, 29. Thành phố Hồ Chí Minh. [27] Zeithaml, V., Parasuraman, A. and Berry, L.L. (1985),Problems and strategies in services marketing, Journal of Marketing 49: 33–46. [28] https://vietstock.vn [29] www.cophieu68.vn [30] https://www.hnx.vn [31] https://www.hsx.vn 838
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chiến Lược Marketing Về Sản Phẩm Của Vinamilk
9 p |
1570 |
200
-
Bài giảng Quản trị học - Chương 4: Hoạch định và chiến lược
22 p |
1766 |
181
-
DẠNG HÓA SẢN PHẨM
2 p |
443 |
104
-
Bài giảng Quản trị chiến lược: Bài 5 - Tổ hợp GD TOPICA
20 p |
241 |
44
-
Bài giảng môn quản trị chiến lược: Chương 2. Quản trị Chiến lược trong thực tiễn - Th.S Hoàng Giang
54 p |
221 |
38
-
Hướng tới chiến lược cạnh tranh động
10 p |
115 |
28
-
Bài giảng Quản trị chiến lược - Chương 6: Chiến lược công ty hội nhập dọc, đa dạng hóa các chiến lược liên minh
29 p |
164 |
20
-
Hướng tới chiến lược cạnh tranh động trong kinh doanh
9 p |
96 |
19
-
CHIẾN LƯỢC ĐA DẠNG HÓA CƠ SỞ KHÁCH HÀNG
7 p |
129 |
18
-
Phương thức hướng tới chiến lược cạnh tranh động
8 p |
100 |
16
-
Đa dạng hóa danh mục đầu tư – Kế sinh lời
5 p |
143 |
14
-
Bài giảng Quản trị và nhà quản trị - Chương 4: Hoạch định và chiến lược
22 p |
105 |
9
-
Bài giảng Quản trị chiến lược - Bài 5: Chiến lược cấp doanh nghiệp
20 p |
55 |
9
-
Bài giảng Quản trị chiến lược: Tuần 4 - Lê Mạnh Đức
11 p |
83 |
8
-
Bài giảng Quản lý chiến lược: Hình thành chiến lược - Lại Văn Tài
56 p |
86 |
8
-
Bài giảng Quản lý chiến lược: Chương 5 - Lại Văn Tài
56 p |
55 |
8
-
Mối quan hệ giữa chiến lược đa dạng hóa và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
16 p |
25 |
3
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)