CHỈNH ĐỐN ĐẢNG – GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG KIỀM CHẾ THAM
NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
ĐỖ HUY(*)
Luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chỉnh đốn
Đảng và phòng chống tham nhũng trong Đảng, tác giả đã khẳng
định chỉnh đốn Đảng là một giải pháp quan trọng để kiềm chế tham
nhũng ở nước ta hiện nay. Chỉnh đốn Đảng để kiềm chế tham nhũng,
theo tác giả, thứ nhất, phải giáo dục lại một cách khoa học lý tưởng
cách mạng của Đảng; thứ hai, giáo dục thật mạnh mẽ đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên của Đảng; thứ ba, giáo dục cán bộ,
đảng viên của Đảng sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật;
thứ tư, xốc lại cơ chế dân chủ trong Đảng; thứ năm, mở rộng phê
bình và tự phê bình trong Đảng; và thứ sáu, văn hoá hoá các hoạt
động của Đảng.
Sau khi khẳng định sự lớn mạnh về năng lực tư duy và những thành
công tốt đẹp của quá trình lãnh đạo nhân dân ta phát triển kinh tế,
thực hiện đổi mới mọi mặt đất nước suốt hai thập kỷ qua, Văn kiện
Đại hội X của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra nhiều khuyết điểm đang tồn
tại trong Đảng. Đó là: “Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng
“chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp””. Thoái
hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên...”(1). Đại hội cũng nhất trí nhận định rằng,
những khuyết điểm này “diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh
vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà
nước và quản lý tài chính”(2). Văn kiện Đại hội X còn đưa ra cảnh
báo: “Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng,
của chế độ”, “làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng”(3).
Nói về các thành tựu dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 20 năm đổi
mới đất nước, mỗi chúng ta đều trào dâng lòng tự hào và niềm vui
khôn tả so với những năm tháng khó khăn của thời kỳ bao cấp.
Song, nói về những tiêu cực trong 20 năm ấy vẫn kéo dài và diễn ra
nghiêm trọng, mỗi đảng viên chân chính, mỗi công dân lương thiện,
mỗi người yêu nước, thương dân, thương nhà đều không khỏi băn
khoăn, lo lắng. Nhiều người còn tự hỏi vì sao một Đảng vĩ đại là thế,
đã từng lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn thử thách khó khăn,
đập tan gông xiềng nô lệ, đánh thắng những đội quân xâm lược
hùng mạnh, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mang lại độc
lập, tự do cho nhân dân, nay lại vấp phải những khuyết điểm lớn
lao như vậy? Vì sao lý tưởng của Đảng thì cao đẹp như thế mà
không ít cán bộ, đảng viên lại sống nhỏ nhen và xấu xa đến như
vậy? Đó là khuyết điểm có tính chất cá nhân hay do cơ chế? Những
khuyết điểm này là nhất thời hay lâu dài? Vì sao Văn kiện Đại hội
X đã nhất trí khẳng định: đây là một cuộc chiến rất khó khăn. Văn
kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã
phải nêu lên 10 chủ trương, giải pháp, bao gồm cả việc đưa luật
phòng chống tham nhũng vào nội dung giáo dục đảng viên để đạt
mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng nhằm xây dựng
Đảng và Nhà nước vững mạnh. Trong bài viết này, chúng tôi không
có tham vọng đề cập tới quá nhiều tiêu cực và những giải pháp do
Đại hội Đảng X nêu ra, mà chỉ đề xuất một giải pháp quan trọng
trong số nhiều giải pháp để kiềm chế nạn tham nhũng trong Đảng.
Mặc dù các hiện tượng tiêu cực mà Đại hội Đảng X nêu lên đều có
diện mạo riêng, như bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thoái hóa, biến
chất về đạo đức và lối sống, tệ quan liêu..., song chúng đều có mối
liên hệ bản chất với nhau. Đã sa đà vào bệnh cơ hội thì đương nhiên,
không tránh khỏi sa vào chủ nghĩa cá nhân. Đã sa đà vào chủ nghĩa
cá nhân thì tất yếu dẫn đến thoái hóa, biến chất về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống. Đã biến chất về đạo đức, lối sống, tất yếu
đi đến chủ nghĩa thực dụng, tệ tham nhũng... Vì vậy, giải pháp kiềm
chế nạn tham nhũng cũng liên quan đến giải pháp làm lành mạnh
hóa đạo đức, lối sống; khắc phục tệ quan liêu, giảm bớt tình trạng
chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp.
Tham nhũng, theo chúng tôi hiểu là tham lam và nhũng nhiễu. Tham
nhũng cũng có thể là tham ô, tức là vơ vét của công, ăn cắp của
công; quấy rối, rầy rà người khác. Tham nhũng cũng có thể hiểu là
làm rất ít, hay không làm, chỉ cậy quyền cậy thế mà muốn hưởng
thật nhiều, muốn “ngồi mát ăn bát vàng”, muốn “cốc làm cò xơi”.
Ngày xưa, cha ông ta dùng khái niệm này để chỉ giặc ngoại xâm và
các quan lại hay vơ vét của dân. Bọn giặc ngoại xâm thường hay
quấy nhiễu, nhũng nhiễu khi xâm lăng nước ta; còn các quan lại thì
hay vơ vét của dân như một loại giặc nội xâm.
Hiện nay, ai thường vơ vét và nhũng nhiễu dân? Trên thực tế, đó là
những người có chức, có quyền. Đảng ta là Đảng cầm quyền. Đảng
đã phong chức và giao quyền cho những đảng viên của Đảng thực
hiện cương lĩnh phát triển đất nước của Đảng. Vì vậy, khi có hiện
tượng tham nhũng xảy ra trong Đảng thì trước hết, Đảng phải nhận
trách nhiệm về mình. Trách nhiệm đó là Đảng đã giao quyền, phong
chức cho những người xấu, yếu kém về tư tưởng, đạo đức, suy thoái
về lối sống. Về điểm này, từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
Đảng ta là Đảng cầm quyền, “chính sách của Đảng và Chính phủ là
phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói,
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi;
nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và
Chính phủ có lỗi”(4) và tất nhiên, nếu đảng viên của Đảng rơi vào
tham nhũng thì nhất định, Đảng và Chính phủ không thể vô can.
Không những nhận biết các hiện tượng tham nhũng đã phổ biến đến
như thế nào, mà Đại hội X của Đảng còn chỉ rõ những lĩnh vực xảy
ra tham nhũng nhiều nhất là các cơ quan công quyền, quản lý đất
đai, quản lý tài chính, xây dựng cơ bản, quản lý doanh nghiệp nhà
nước. Những lĩnh vực này đều là những lĩnh vực chủ chốt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Những cán bộ, đảng viên tham nhũng trong các
lĩnh vực này đều vi phạm điều lệ Đảng, đều phản lại lý tưởng mang
những giá trị tốt đẹp để xây dựng xã hội của Đảng.
Lý tưởng của Đảng ta luôn hướng về xây dựng những con người biết
đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết và trước hết. Đó là
những con người thẳng thắn, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư; những con người thắng không kiêu, bại không nản, chịu
đựng mọi gian khổ, dấn thân vì nghĩa lớn; vui cái vui của nhân dân,
đau cái đau của những người bất hạnh. Lý tưởng của Đảng hoàn toàn
trái với các hiện tượng tham nhũng!
Vì sao nhiều người có chức, có quyền lại làm hoen ố lý tưởng của
Đảng? Vì sao không ít những người có chức, có quyền lại có thể
tham nhũng được và dám tham nhũng? Trước hết là họ lộng quyền.
Quyền mà Đảng giao cho họ, chức mà Đảng phong cho họ, họ đều
tưởng là bản chất mà họ có. Tài sản mà nhân dân bằng mồ hôi, nước
mắt và bằng cả bệnh tật và xương máu trao cho họ để họ thực hiện lý
tưởng phát triển đất nước của Đảng thì họ lại lạm quyền, chia chác
theo ý chủ quan và vơ vét theo chủ nghĩa cá nhân vị kỷ. Trong lý
tưởng của Đảng, quyền lực là của nhân dân và quyền lực đó là do
nhân dân và vì nhân dân mà thực hiện. Lý tưởng ấy là lý tưởng vĩ đại
của Đảng. Đó là lý tưởng nhân dân làm chủ đất nước.
Những người tham nhũng sau khi đã lộng quyền, lạm quyền lại mắc
vào lỗi thứ hai là phản lại lý tưởng của Đảng, độc quyền chân lý, coi
thường nhân dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Nhân danh
nguyên tắc Đảng, họ thường chia chác ngầm, khép kín phạm vi lợi
ích, bưng bít thông tin làm cho quyền lợi chỉ chảy vào túi của họ.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhân dân, nhưng Đảng
không đứng trên pháp luật. Những kẻ tham nhũng trong Đảng, do
lạm dụng, lộng quyền, chống lại dân chủ đã đi đến khinh thường pháp
luật. Nhiều kẻ tham nhũng tưởng chính mình là người đề ra luật pháp,
cho nên mọi hoạt động vơ vét và nhũng nhiễu của họ đều gắn với luật
ngầm, luật rừng. Nếu ai không thỏa mãn với các chuẩn mực bất thành
văn ấy thì đều gặp rất nhiều khó khăn trong các nhu cầu chính đáng
của mình.
Đảng ta phong chức và giao quyền cho những đảng viên không phải
vì Đảng bè phái. Đảng ta kiên quyết chống lại những hiện tượng bè
phái. Đảng ta phong chức và giao quyền cho các đảng viên sau khi
đã cân nhắc và đánh giá một cách tập thể về đức và về tài để thực thi
nhiệm vụ nhân dân trao. Tuy nhiên, khi chưa có chức, có quyền,
nhiều đảng viên rất khiêm tốn, trung thực và chí công vô tư. Một số
đảng viên khi đã được Đảng phong chức, trao quyền lại thiếu tu
dưỡng về đạo đức, lối sống, đam mê quyền lực và đi đến bè phái.
Các hiện tượng tham nhũng trong Đảng đều gắn với bè phái, nên
việc phát hiện để chống trả nó trở nên vô cùng khó khăn. Tham ô tập
thể, nhũng nhiễu tập thể là biểu hiện của sự chống lại lý tưởng đoàn
kết, thống nhất trong Đảng.
Lý tưởng của Đảng luôn kết nạp những người hiền tài. Do bè phái ở
những đơn vị nào đó mà có người có đức, có tài vẫn không được
tham gia vào tổ chức Đảng. Do Đảng ta là Đảng cầm quyền, nguyên
tắc lãnh đạo Nhà nước của Đảng phải theo đường lối của Đảng. Một
số người có đức, có tài do những hiện tượng bè phái trong Đảng mà
không được trở thành những người lãnh đạo chủ chốt của một đơn vị
nào đó. Những kẻ tham nhũng giữ quyền cao, chức trọng ở đơn vị ấy
đã tìm cách vô hiệu hóa một số người không cùng phe, cùng phái với
họ. Vì thế, các hiện tượng tham nhũng thường đi đôi với việc chống
lại những người lương thiện, vô hiệu hóa những người có năng lực,
những hiền tài.
Chúng ta có thể nhận diện được rất nhiều nguyên nhân đi đến tham
nhũng và bản chất của hiện tượng tham nhũng trong Đảng. Có
nguyên nhân chủ quan, có nguyên nhân khách quan; có nguyên
nhân do trình độ yếu kém; có nguyên nhân do cơ chế; có nguyên
nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Dù nguyên nhân nào thì
cũng gắn liền với Đảng cầm quyền. Mọi sự phát triển mạnh mẽ hay
yếu kém của đất nước đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Vì
vậy, trước hiện tượng tham nhũng nghiêm trọng và kéo dài, Đảng
ta cần có những giải pháp quyết liệt nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng để đưa đất nước vươn lên mạnh mẽ.
Lường trước những hư hỏng có thể xảy ra trong cán bộ, đảng viên
sau ngày kháng chiến chống Mỹ thắng lợi hoàn toàn, trong Di chúc
để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”(5).
Tại sao có biết bao nhiêu việc vô cùng bức thiết sau một cuộc chiến
tranh đẫm máu, gian khổ, hy sinh khốc liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại
Di chúc cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, việc cần làm trước tiên
phải là chỉnh đốn lại Đảng. Chắc chắn, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng
ta đã nhìn xa, trông rộng và thấy rõ những nguy cơ của đất nước cũng
như những vấn đề lớn của dân tộc đều liên quan đến sự lãnh đạo của
Đảng, nên Người mới căn dặn việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại
Đảng.
Các hiện tượng tham nhũng xảy ra chủ yếu ở những người có quyền,
có chức trong Đảng. Toàn thể bộ máy công quyền, nền kinh tế
khổng lồ, các lĩnh vực quản lý đất nước đều do Đảng lãnh đạo. Vậy,
muốn kiềm chế tham nhũng phải theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: Trước hết là chỉnh đốn lại Đảng. Chỉnh đốn lại Đảng có liên
quan bản chất đến sự nghiệp lãnh đạo đất nước của Đảng trong giai
đoạn phát triển mới mà hướng mục tiêu của nó là: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các hiện tượng tham
nhũng trong Đảng hoành hành thì bao giờ dân mới giàu? bao giờ
nước mới mạnh? bao giờ xã hội mới công bằng, nền dân chủ mới
được xác lập và dân tộc ta mới trở thành dân tộc văn minh? Đúng
như Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định, những tiêu cực
trong Đảng, trong đó có tệ tham nhũng, sẽ làm giảm lòng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sẽ “là một nguy cơ lớn liên
quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”. Đảng ta chỉ có thể
thực hiện được mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh khi đã kiềm chế được nạn tham nhũng để đi
đến ngăn chặn và đẩy lùi được nó. Ngược lại, khi kiềm chế, ngăn
chặn và đẩy lùi được tệ nạn tham nhũng thì năng lực lãnh đạo của
Đảng sẽ vươn lên ngang tầm với những nhiệm vụ trọng đại của dân
tộc trong thời kỳ mới.
Chỉnh đốn lại Đảng để ngăn chặn tệ nạn tham nhũng trước hết là
phải giáo dục lại lý tưởng của Đảng. Như Văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ X đã chỉ rõ, “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể
cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng
lực, thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin,
phai nhạt lý tưởng(6). Cán bộ chủ chốt mà giảm sút lòng tin, thiếu
tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, phai nhạt lý tưởng
thì nghị lực sống đã trở nên khô cạn, nhân cách sống đã trở thành
tầm thường, quan niệm về cống hiến và hưởng thụ trở nên lệch lạc,...
và do vậy, con đường dẫn đến tham nhũng không xa, nếu Đảng vẫn
giao quyền và phong chức cho đối tượng này.
Lý tưởng bao giờ cũng là cái thiêng liêng nhất. Lý tưởng xã hội của
Đảng và lý tưởng của cá nhân nếu không còn phù hợp thì những
nguyện vọng, ước mơ, hoài bão của cá nhân sẽ trở nên rất nhỏ bé,
con người thiếu mục tiêu phấn đấu, mất phương hướng hoạt động và
rất dễ sa đà vào chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Vì thế, muốn kiềm chế
nạn tham nhũng, ngăn ngừa sự xuất hiện của nạn tham nhũng, trong
quá trình chỉnh đốn lại Đảng, trước hết phải giáo dục lại một cách
khoa học lý tưởng cách mạng của Đảng. Thiếu lý tưởng này thì ước
mơ, khát vọng rất dễ đi đến lệch lạc. Tham nhũng chính là một trong
những biểu hiện đậm nét về sự lệch lạc đó, khi sa đà vào chủ nghĩa
cá nhân ích kỷ, ước mơ hưởng lạc, khát vọng làm giàu bất chính.
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG – GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG KIỀM CHẾ THAM
NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY (Tiếp theo)
ĐỖ HUY(*)
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉnh đốn lại Đảng là nâng cao năng lực của
mỗi đảng viên, mỗi chi bộ lên một tầm cao mới để đáp ứng tốt hơn với nhiệm
vụ Đảng giao. Vì thế, nội dung thứ hai trong việc chỉnh đốn lại Đảng có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc kiềm chế tham nhũng là “mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư”(7).
Có thể nói, khi phong chức, trao quyền cho cán bộ, đảng viên, Đảng ta rất
quan tâm đến đức và đến tài. Tuy nhiên, Đảng ta còn cho rằng, tài không tách
rời đức. Cha ông ta coi hiền tài là nguyên khí của quốc gia, cho nên tài và đức
trong việc bổ nhiệm cán bộ là một tiêu chí quan trọng. Đạo đức luôn quan hệ
đến lợi ích. Thấm nhuần đạo đức cách mạng thì sẽ thấu hiểu mối quan hệ giữa
lợi ích của tập thể, lợi ích của cá nhân và sự phát triển hài hòa giữa hai lợi ích
ấy. Người đảng viên cộng sản nhất định phải xem lợi ích của cộng đồng là lợi
ích quan trọng, bởi nó là cơ sở tồn tại của các lợi ích khác.
Lợi ích cộng đồng, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội là thước đo nhân cách của
người đảng viên cộng sản. Nếu người đảng viên chỉ thu va hà vén cho cá
nhân; nếu cùng lao động, cùng chức vụ mà người đảng viên, người lãnh đạo
lại tự cho mình là có công to, tự chia chác, tự biển thủ thì nhận thức ấy nhất
định đi đến tham nhũng. Vì sao các đồng chí có tài năng cùng lao động như
mình mà họ thì sống thanh bạch, còn mình thì giầu lên nhanh chóng? Dư luận
xã hội bao giờ cũng thẩm tra hiện tượng đó một cách công bằng. Vì thế, chỉnh
đốn lại Đảng, song song với việc giáo dục lại lý tưởng của Đảng, phải giáo
dục thật mạnh mẽ đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là đạo đức do
Đảng ta khởi xướng và giáo dục. Đó là đạo đức của những con người làm
trước thiên hạ, mà hưởng bổng lộc sau thiên hạ. Đó là đạo đức cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Khi những quan niệm, những giá trị đạo đức này đã
thấm sâu vào lương tâm, vào danh dự, vào ý nghĩa cuộc sống của người cán
bộ đảng viên thì nhất định nạn tham nhũng sẽ được kiềm chế, quan hệ giữa
con người với con người sẽ tốt hơn rất nhiều, sự hy sinh của người này cho
người khác sẽ trở thành lẽ sống.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ năm khóa VIII đã nhận xét: hiện
nay, những hiện tượng tham nhũng không chỉ gắn với sự hoài nghi về con
đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, gắn với sự suy thoái về đạo đức, mà còn
gắn cả với sự suy thoái về lối sống. Lối sống “dùng tiền nhà nước tiêu sài
phung phí, ăn chơi sa đọa..., kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương, bè phái...”(8)
- đó là một lối sống xấu xa, bệnh tật, thực dụng.
Trong quá trình xây dựng Đảng, Đảng ta luôn hướng về một lối sống lành
mạnh. Do phai nhạt về lý tưởng, do nhiễm vào lối sống thực dụng, chỉ chú ý
đến lợi ích vật chất mà coi nhẹ các giá trị tinh thần, chỉ coi trọng lợi ích cá
nhân mà coi nhẹ lợi ích cộng đồng, chỉ chú ý đến lợi ích trước mắt, không
phấn đấu vì lợi ích lâu dài, nên nhiều cán bộ, đảng viên, kể cả những người có
chức, có quyền, đã đi đến ăn cắp của công, nhũng nhiễu nhân dân. Chỉnh đốn
lại Đảng cần phải giáo dục cho đảng viên lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
lập, tự cường, tinh thần đoàn kết cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung. Lối
sống này đối lập với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, chủ nghĩa thực dụng vụ lợi. Nó
có tác dụng ngăn chặn tệ tham nhũng trong mọi hoạt động thường nhật.
Lối sống lành mạnh thường gắn liền với nhân cách sống thẳng thắn, trung
thực, vị tha của người cách mạng. Đảng ta, trong rất nhiều nghị quyết trước
và trong thời kỳ đổi mới, đều hướng vào tạo dựng nhân cách người cách
mạng. Nhân cách này là sản phẩm của quá trình cách mạng của nhân dân ta.
Nhân cách này khác với các nhân cách kẻ sĩ, bậc trượng phu, người quân tử ở
thái độ đối với nhân dân, với đồng bào, đồng chí, với lao động, với các hoạt
động chính trị - xã hội. Nhân cách này cũng khác với nhân cách của các ông
chủ nhà máy của giai cấp tư sản, ông chủ của những đồn điền thẳng cánh cò
bay. Nhân cách này được hình thành theo lý tưởng và hình mẫu của người
đảng viên cộng sản. Đó là nhân cách sống cao thượng, văn minh, có văn hóa.
Chỉnh đốn lại Đảng, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là Đảng phải
quan tâm đến việc rèn luyện nhân cách này bằng cách: khi giáo dục những
phẩm chất cách mạng cho đảng viên, cần quan tâm đến thái độ ứng xử đối với
mọi người trong xã hội. Người cộng sản cần quan tâm đến cuộc sống lao
động, lam lũ, vất vả của nhân dân. Người cộng sản cần có tình thương bao la,
chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Khi những phẩm chất ấy chiếm lĩnh phần lớn các
hoạt động sống của họ, thì chắc chắn nạn tham nhũng sẽ được kiềm chế.
Nhân cách người cách mạng thường được thử thách và hình thành trong công
việc. Đó là nhân cách không chỉ nói đi đôi với làm, mà phải nói việc hay, làm
việc giỏi, việc tốt. Hiện nay có tình hình, Đảng giao quyền, phong chức cho
nhiều cán bộ đủ nhân cách để xây dựng lại đất nước to đẹp hơn, đàng hoàng
hơn theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, song sau khi mỗi công trình to
đẹp hoàn thành, mỗi con đường rộng thênh thang ra đời, mỗi khu đô thị đàng
hoàng xuất hiện thì không ít nhân cách người thực hiện những công trình ấy
lại nhỏ bé đi rất nhiều. Sự tha hóa này về nhân cách do những hiện tượng
tham nhũng, bớt xén công trình, ăn cắp nguyên vật liệu tạo nên. Xây dựng
Đảng, chỉnh đốn Đảng để kiềm chế tham nhũng gắn bó chặt chẽ với việc bảo
vệ nhân cách con người cách mạng; làm sao cho họ không biến chất mỗi khi
một việc tốt được hoàn thành. Sự ăn cắp của cải của nhân dân, sự rút ruột các
công trình của nhà nước đều đem lại sự tha hóa về nhân cách của các quan
tham. Tất nhiên, nếu tham nhũng, chia chác và rút ruột các công trình thì
chẳng những nhân cách kẻ tham nhũng sớm sụp đổ, mà cả các công trình
cũng không thể bền vững.
Tệ nạn tham nhũng, như chúng tôi đã trình bày, có khía cạnh lộng quyền, lạm
quyền, coi thường hiến pháp và pháp luật. Ở đây còn có cả biểu hiện của tính
kiêu ngạo cộng sản lẫn tình trạng mất dân chủ trong lối sống của các quan
tham. Ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phát hiện những quan cách mạng trái phép, cậy thế, kiêu
ngạo, “ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận... ăn
muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ”(9). Có thể nói,
đây là một trong những nguyên nhân rất cơ bản của tệ tham nhũng trong
Đảng. Chỉnh đốn lại Đảng nhất thiết cần giáo dục đảng viên sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật. Dù là cán bộ cấp nào thì cũng không thể đứng
trên pháp luật, coi thường dư luận, coi thường nhân dân. Dù trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng phải tôn trọng các chuẩn mực của cơ chế dân chủ.
Lâu nay, người ta thường nói đến tình hình ở một số tổ chức Đảng vừa thiếu
dân chủ, vừa xuê xoa chín bỏ làm mười. Có cơ sở Đảng, những quyết định
quan trọng không được thông qua ở hệ thống chính trị. Công đoàn không
biết, Thanh niên không hay, đảng viên thường bị vượt mặt, nhân dân bị bưng
bít, Mặt trận mù tịt. Sự thiếu minh bạch, không công khai, độc quyền chân lý
như thế đã dẫn tới nhiều vụ tham ô, nhũng nhiễu rất điển hình. Chỉnh đốn lại
Đảng phải xốc lại cơ chế dân chủ để kẻ muốn tham nhũng cũng không thể
tham nhũng được, kẻ sắp sửa tham nhũng cũng chùn tay và kẻ đã tham nhũng
rồi nhất định sẽ bị lôi ra ánh sáng.
Cơ chế và thiết chế dân chủ cần trở thành một nội dung thật sự cơ bản, thật sự
quan trọng để răn đe, kiềm chế, hạn chế và ngăn chặn có hiệu lực tham
nhũng. Cơ chế dân chủ cũng tạo điều kiện để phát huy hết năng lực của mỗi
người, để người nào có khả năng, có tài sẽ có một cuộc sống khá hơn, đàng
hoàng hơn.
Sự phát triển của nền dân chủ theo Hiến pháp và pháp luật của chúng ta là
một trong những thành tố quan trọng để kiềm chế nạn tham nhũng. Nó công
khai hóa mọi quan hệ. Sự kiểm tra, kiểm soát có khoa học, có hệ thống, có
chuẩn mực rõ ràng thì nếu các quan tham muốn tham nhũng cũng khó thực
hiện; còn những người làm giàu chính đáng sẽ thoải mái làm giàu.
Hiện nay, thực tiễn cuộc sống của nhân dân ta đang biến đổi từng ngày, cơ
chế quản lý có khi không theo kịp sự vận động của cuộc sống. Chúng ta lại
chưa có kiến thức đầy đủ về cơ chế thị trường. Vì thế, trong quản lý đất nước,
có nhiều kẽ hở để cho các quan tham luồn lách. Chỉnh đốn lại Đảng, xốc lại
cơ chế phải gắn liền với sự phát triển nội sinh về khoa học trong Đảng. Đảng
phải nắm được khoa học tiên tiến trong quản lý đất nước. Hiện nay, kinh tế tri
thức đang phát triển rất mạnh. Nếu Đảng không gắn việc quản lý đất nước với
kinh tế ấy thì nhất định nạn tham nhũng vẫn chưa thể ngăn chặn, đẩy lùi được
và người có năng lực phát triển vẫn chưa được giải phóng tiềm năng.
Chỉnh đốn lại Đảng phải mở rộng phê bình và tự phê bình trong Đảng. Đây là
một trong những giải pháp quan trọng kiềm chế tham nhũng, nếu nó được tiến
hành thường xuyên và nghiêm túc. Tình trạng nể nang, xuê xoa, phớt lờ
nguyên tắc tổ chức và xây dựng Đảng, độc quyền chân lý đã tạo những kẽ hở
để các quan tham tự do vơ vét của cải của nhà nước và của nhân dân. Phê
bình và tự phê bình một cách nghiêm túc thì đạo đức, lối sống của con người
sẽ tốt hơn lên rất nhiều. Tập thể lành mạnh và đoàn kết có liên quan mật thiết
đến việc kiềm chế tệ tham nhũng. Nó vừa chống các thế lực quan liêu, vừa
phản đối chủ nghĩa tự do, vô tổ chức, hướng mỗi con người vào cuộc sống lao
động lành mạnh, chân chính.
Lâu nay, Đảng ta vẫn coi phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của
Đảng. Tuy nhiên, hiện nay, có tình trạng kẻ xấu phê bình người tốt và người
tốt không muốn, không dám phê bình kẻ xấu, bởi những “liên minh thần
thánh” của thế lực xấu rất nguy hiểm. Có tình trạng “chưa được vạ mà má đã
sưng”. Vì thế, trong nhiều cơ sở Đảng, các hoạt động phê bình và tự phê bình
không diễn ra đúng như quy luật mà nó cần phải phát huy.
Cũng cần nói thêm rằng, phê bình và tự phê bình phải gắn với các hoạt động
thi đua, khen thưởng đúng đắn. Chỉ có thế thì tệ tham nhũng mới có thể kiềm
chế được. Trong thực tế vừa qua, không ít người lao động có thành tích đã
không kịp thời được khen thưởng, mà ngược lại, nhiều người có ít thành tích,
thậm chí có người còn không có thành tích, thành tích giả, thành tích yếu kém
vẫn được khen thưởng. Chỉnh đốn lại Đảng, kiềm chế tham nhũng cần phải
xây dựng lại cơ chế thi đua, khen thưởng.
Khen thưởng không phải là một cơ chế xin cho. Khen thưởng phải có chuẩn
mực khách quan, khoa học, dựa vào lao động phát triển xã hội. Nhiều người
có thành tích lao động xuất sắc, nhưng nếu một tập thể nào đó yếu kém không
đề xuất khen thưởng cá nhân ấy; như vậy xã hội mất đi một gương điển hình
tích cực. Hiện nay, có tình hình là nhiều tấm gương lao động xuất sắc không
tự xin khen thưởng. Chỉnh đốn lại Đảng, xây dựng lại cơ chế khen thưởng
phải chứng tỏ năng lực quản lý lao động, quản lý xã hội của Đảng là khách
quan, là tiên tiến, là khoa học và nhân đạo. Phải có cơ chế phát hiện những
người tốt để khen thưởng.
Chỉnh đốn lại Đảng, kiềm chế tham nhũng là quá trình văn hóa hóa các hoạt
động của Đảng. Chỉnh đốn lại Đảng để kiềm chế tham nhũng, theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, là một “cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ,
hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ tốt tươi”(10). Đây là cuộc chiến đấu để “giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch”, để Đảng “xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân”(11). Đảng ta là một Đảng cầm quyền, Đảng
phải có văn hóa cao mới có đủ năng lực, trình độ phát huy sức mạnh của toàn
dân tộc – một dân tộc có mấy ngàn năm lịch sử, một dân tộc có chủ nghĩa
nhân văn cao quý, có nền văn hóa đầy bản sắc. Kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi
được tham nhũng, Đảng ta có thêm sức mạnh mới để tiếp tục chống mọi hiện
tượng tham nhũng mới phát sinh trong quá trình phát triển của Đảng. Vì thế,
chỉnh đốn lại Đảng thật sự vừa là một giải pháp quan trọng kiềm chế tham
nhũng, vừa là một động lực để củng cố và phát triển Đảng.
Tuy nhiên, theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc chỉnh đốn này rất
khó khăn, gian khổ, riêng mình Đảng tự vận động là hiệu quả không cao. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tất cả những phức tạp về tâm lý, về tính cách
và những điều kiện của Đảng cầm quyền trong một đất nước mà nền sản xuất
còn thấp, lối sống tiểu nông còn khá phổ biến, lại phải trải qua những cuộc
chiến tranh lâu dài, nhân dân ta phần lớn đều đã góp nhiều công sức xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Để chống lại những hiện tượng tham lam và nhũng nhiễu
của các quan tham cần phải nâng cao dân trí, “cần phải động viên toàn dân, tổ
chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(12). Động
viên toàn dân, tổ chức toàn dân, dựa vào lực lượng toàn dân có nghĩa là biến
sức mạnh của nhân dân thành sức mạnh của Đảng, mang sức mạnh của Đảng
phát huy sức mạnh của toàn dân; đoàn kết sức mạnh của Đảng với sức mạnh
của toàn dân. Làm được như vậy thì chắc chắn, cuộc chỉnh đốn lại Đảng sẽ
thu được thắng lợi vẻ vang và tệ nạn tham nhũng sẽ được kiềm chế một bước
quan trọng để đi đến ngăn chặn và đẩy lùi nó, như lời kêu gọi của Đảng trong
Đại hội Đảng lần thứ X vừa qua.r
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.263-264.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.263-264.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.263-264.
(4) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.572.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.503.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Sđd., tr.263.
(7) Hồ Chí Minh Toàn tập. Sđd., t.12, tr.510.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.46-47.
(9) Hồ Chí Minh. Toàn tập. Sđd., t.4, tr.56-57.
(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.505.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.510.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.505.