36 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 56 (06/2019) 36-40<br />
<br />
<br />
CHÍNH SÁCH GIAO LƯU VĂN HÓA CỦA TRIỀU<br />
NGUYỄN VỚI TRUNG QUỐC (GIAI ĐOẠN 1802 - 1884)<br />
<br />
Hoàng Thị Hương Trà*8<br />
<br />
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 3/12/2018<br />
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/6/2019<br />
Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/6/2019<br />
<br />
Abstract: Trong chính sách văn hóa của một nhà nước, vấn đề giao lưu, tiếp xúc văn<br />
hóa với nước ngoài là một nội dung quan trọng. Ở Việt Nam, trong quan hệ đối ngoại với các<br />
nước láng giềng cũng như các quốc gia khác, vấn đề ngoại giao văn hóa luôn được đề cao.<br />
Triều Nguyễn - triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam - đã nối tiếp truyền thống đó. Trong<br />
phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung làm sáng tỏ sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa triều<br />
đình nhà Nguyễn với Trung Hoa giai đoạn 1802 - 1884 trên hai phương diện: chính sách giao<br />
lưu văn hóa với triều đình nhà Thanh và chính sách với Hoa kiều.<br />
Từ khóa: Quan hệ ngoại giao; Trung Quốc; Triều Nguyễn<br />
<br />
1. Tổng luận về quan hệ ngoại giao rằng chiến tranh là điều không mong đợi và<br />
của triều Nguyễn không có lợi xét về phía một nước nhỏ. Chính<br />
Các tài liệu lịch sử còn lại ngày nay vì vậy, tư tưởng nhất quán trong đường lối đối<br />
cho phép chúng ta khẳng định rằng trong quan ngoại với nhà Thanh của các vị vua đầu triều<br />
hệ ngoại giao với các nước, triều Nguyễn đặt Nguyễn là giữ hòa hiếu với Trung Hoa thông<br />
quan hệ ngoại giao với nhà Mãn Thanh lên qua chính sách ngoại giao hòa bình.<br />
hàng ưu tiên số một. Nguồn gốc sâu xa của Các vua triều Nguyễn xem việc tuyên<br />
việc ưu tiên giữ mối quan hệ gắn bó với “Thiên phong của nhà Thanh là điều hết sức quan<br />
triều” xuất phát từ vị trí địa lý tự nhiên giữa trọng. Việc được nhà Thanh tuyên phong là<br />
Việt Nam và Trung Quốc: liền núi, liền sông, chính thống, là sự đảm bảo để trong nước sẽ<br />
có chung đường biên giới khá dài, việc bang không có một lực lượng nào dám tranh giành<br />
giao với làng giềng là điều hiển nhiên trong cơ nghiệp đế vương của mình và các nước<br />
quan hệ đối ngoại. Mặt khác, trong suốt chiều khác phải kính trọng. Trong quan hệ bang<br />
dài lịch sử xây dựng và phát triển đất nước, giao với nhà Thanh, cũng tương tự như các<br />
“người láng giềng” của Việt Nam lại là một lân triều đại quân chủ Đại Việt trước đó, nhà<br />
bang khổng lồ và luôn ôm mộng bành trướng, Nguyễn luôn giữ lễ của nước nhỏ đối với<br />
thống trị mình. Lịch sử các các cuộc kháng nước lớn. Triều Nguyễn có thông lệ là đều<br />
chiến từ thời người Việt xây dựng nhà nước sơ đặn cử sứ đoàn mang cống phẩm sang dâng<br />
khai cho đến thời điểm đó đã khiến các bậc nộp cho nhà Thanh. Ngoài ra, cứ mỗi lần<br />
quốc chủ triều Nguyễn từ Gia Long, Minh nhà Thanh có lễ mừng hay cáo tang, triều<br />
Mạng, Thiệu Trị đến Tự Đức nhận thức rất rõ Nguyễn đều cử sứ bộ mang lễ vật sang dâng<br />
<br />
<br />
8 *Trường Cao đẳng Cảnh sát Nhân dân I<br />
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 37<br />
<br />
nộp. Căn cứ vào sách Khâm định Đại Nam xuất phát từ ba lý do: Một là khẳng định mong<br />
hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn biên muốn có quan hệ hòa hiếu, đảm bảo an ninh<br />
soạn, có thể thấy rằng, trong 5 quyển ghi quốc gia cho Việt Nam; Hai là cách đảm bảo<br />
chép về vấn đề bang giao thì có tới 4 quyển giá trị sự phong vương mà hoàng đế thiên<br />
(từ quyển 128 đến quyển 131) ghi chép về triều đã ban cho vua Việt Nam và những<br />
quan hệ giữa triều Nguyễn và nhà Mãn người kế vị; Ba là để trao đổi tặng vật, đôi khi<br />
Thanh. Bốn quyển này ghi chép tỉ mỉ những tặng vật từ phía Trung Hoa có giá trị lớn hơn<br />
qui định chặt chẽ mà triều Nguyễn phải thực cống phẩm của Việt Nam. Trong ba lý do này,<br />
hiện trong quá trình quan hệ với nhà Thanh, lý do thứ hai có ý nghĩa quyết định nhất.<br />
từ thể thức việc sai sứ, lễ phẩm, đệ văn thư Chính L.Cadière, trong tài liệu dẫn<br />
đến thể thức việc tiếp sứ nhà Thanh, Đại lễ trên, cũng đã khẳng định: “Nhưng cũng như<br />
tuyên phong, Đại lễ dụ tế, lễ tiếp kiến... các vua ở Huế đã tự ban cho mình danh vị<br />
Tuy nhiên, nhìn vào quan hệ ngoại hoàng đế, chúng tôi cho rằng họ đã tìm cách<br />
giao giữa Việt Nam và Trung Quốc nửa đầu luồn lách để không tuân đúng theo các nghi<br />
thế kỷ XIX, một số nhà nghiên cứu (trong thức do Trung Hoa áp đặt, nhất là trong nghi<br />
và ngoài nước) nhận xét: Sự “thần phục” thức lên ngôi và lễ đăng quang long trọng<br />
của triều Nguyễn đối với nhà Thanh chỉ là để tế cáo với tổ tiên ở đàn Nam Giao hay Xã<br />
sự “thần phục về mặt hình thức”. Vì trong Tắc, …”. Rõ ràng, theo học giả này, sự thần<br />
thực tế, nửa đầu thế kỷ XIX, Việt Nam tồn phục của các vị vua triều Nguyễn trong mối<br />
tại hoàn toàn với tư cách là một nước độc quan hệ với nhà Thanh chỉ mang tính tương<br />
lập, có chủ quyền. Mọi công việc đối nội, đối, nếu không muốn nói là mang tính hình<br />
đối ngoại đều do triều đình quyết định mà thức. Họ không xưng “vương” như tước<br />
không có bất cứ một sự chỉ đạo, can thiệp hiệu được tấn phong mà xưng “hoàng đế”,<br />
nào của “Thiên triều”. Ngay cả việc đón tiếp nghĩa là khẳng định vị thế của các vị vua<br />
sứ bộ cũng diễn ra hết sức bình đẳng. Việc Việt Nam là ngang hàng với các hoàng đế<br />
đón và tiễn sứ giả nhà Thanh là do các quan Trung Hoa chứ không phải là vua chư hầu<br />
đảm nhiệm. Vấn đề triều cống giữ nguyên của một quốc gia lân bang nhỏ bé.<br />
như thời Tây Sơn với giá trị cống phẩm Để làm rõ hơn về chính sách ngoại<br />
không lớn lắm (các cống phẩm là dược liệu, giao khéo léo của triều Nguyễn, ta cần bàn<br />
ngà voi, sừng tê, tơ lụa). Từ năm 1803 đến sâu thêm về chuyện đi sứ sang nhà Thanh<br />
năm 1853, triều Nguyễn giữ lệ bốn năm gửi lúc bấy giờ. Theo lệ thường, một chuyến đi<br />
cống phẩm một lần và sau mỗi khi có vị vua sứ thường diễn ra theo quy trình sau: Sứ bộ<br />
băng hà hay vua mới đăng quang, ở Trung Việt Nam trình thư tay lên vua Trung Quốc.<br />
Hoa hoặc ở Việt Nam. Trong quan hệ với Sau đó, sứ giả dâng các cống phẩm cho<br />
nhà Thanh, triều Nguyễn chính thức sử hoàng đế đại quốc. Đáp lại, hoàng đế Trung<br />
dụng thuật ngữ “triều cống”, nhưng về mặt Quốc ban nhiều tặng vật hơn cho vua Việt<br />
đối nội, trong sử sách triều Nguyễn gọi đó Nam và cho các sứ giả. Cuối cùng, sứ bộ<br />
là “bang giao” - nghĩa là quan hệ ngoại giao nhất thiết phải: 1. Làm bản tường trình về<br />
thuần túy giữa nước này và nước khác, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Trung<br />
không tồn tại quan niệm trên - dưới, cao - Hoa theo sứ giả quan sát trong suốt chuyến<br />
thấp. đi sứ; 2. Trình báo về các thể chế mới của<br />
Học giả Y.Tsuboi lý giải về sự triều triều đình Trung Hoa; 3. Mua sách của<br />
cống của triều Nguyễn đối với triều Thanh Trung Hoa.<br />
38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion<br />
<br />
Qua đó, có thể thấy rằng mục đích nhập những kỹ thuật mới vào nước ta lúc<br />
đi sứ không chỉ là vì nhiệm vụ chính trị, mà bấy giờ. Trường hợp của Đặng Huy Trứ là<br />
thông qua đó để khéo léo thực hiện các một ví dụ điển hình. Năm 1865, ông được<br />
nhiệm vụ khác, nhất là nhiệm vụ văn hóa. triều đình cử sang Trung Quốc với sứ mệnh<br />
Các vị vua đầu triều Nguyễn và cả tầng lớp “thám phỏng Dương tình” (nghe ngóng thái<br />
trí thức Nho học trong xã hội đều ý thức rõ độ của các nước phương Tây đối với nước<br />
rằng Trung Quốc là ngọn nguồn của tri ta). Đặng Huy Trứ đã đến Hương Cảng và<br />
thức. Cho nên, một trong những nhiệm vụ có dịp thưởng thức một loại hình văn hóa<br />
quan trọng của sứ thần khi đi sang nhà nghệ thuật mới có xuất xứ từ phương Tây:<br />
Thanh là mang về các thư tịch Trung nhiếp ảnh. Năm 1867, khi được cử sang<br />
Quốc, nhất là thư tịch mới phát hành, để Trung Quốc lần nữa, ông liền mua các dụng<br />
tìm hiểu cách thức điều hành đất nước và cụ máy móc nghề ảnh mang về nước. Đầu<br />
văn hóa Trung Hoa. Trong chỉ dụ đối với năm 1869, ông cho khai trương hiệu ảnh đầu<br />
sứ giả đi sứ nhà Thanh năm 1829, vua tiên tại Việt Nam, đó là hiệu Cảm Hiếu đường<br />
Minh Mạng yêu cầu tìm mua cổ thi, cổ họa tại phố Thanh Hà, Hà Nội. Cũng chính ông,<br />
và cổ nhân kỳ thư, đặc biệt, nếu có thể tìm trong chuyến đi sứ của mình, khi chứng kiến<br />
được thực lục của nhà Thanh thì dù chỉ là sự phát triển của khoa học kỹ thuật đường<br />
bản thảo cũng bằng mọi giá phải mua về. thủy của nước ngoài, đã tác động vua Tự Đức<br />
Đồng thời, trọng trách khác của sứ thần đi cử người đi học về nghề đóng tàu hiện đại.<br />
sứ Trung Quốc là truyền bá nước mình là Sau này, chính nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã<br />
một nước văn hóa. Vì vậy khi tuyển chọn sứ đánh giá Phan Huy Trứ là: “Một trong những<br />
thần, nhà Nguyễn đề cao tài ngoại giao cũng người trồng cái mầm khai hóa đầu tiên ở Việt<br />
như tri thức về văn hóa. Chúng ta có thể Nam”.<br />
thấy điều này qua một sắc lệnh mà vua 2. Chính sách quản lý Hoa kiều<br />
Minh Mạng ban năm 1840. Theo vua Minh Chính sách bang giao linh hoạt với<br />
Mạng, sứ thần phải là người giỏi văn học và Trung Quốc của triều Nguyễn không chỉ thể<br />
ngôn ngữ, nếu là người kém cỏi thì chỉ hiện qua việc triều cống, nhận phong hay đi<br />
chuốc lấy sự khinh miệt của nước khác. Bởi sứ, mà còn được thể hiện ở thái độ ứng xử<br />
vì, những người này không chỉ phải đối đáp với Hoa kiều trên đất Việt Nam.<br />
thơ văn một cách bình đẳng với các quan lại Một mặt, triều Nguyễn đề ra những<br />
nhà Thanh mà họ còn phải thi thố văn quy tắc để quản lý Hoa kiều. Sau khi lên<br />
chương với các sứ thần đến từ các nước ngôi ít lâu, vua Gia Long xác định quy tắc<br />
khác (như Triều Tiên). Việc cân nhắc tài của sự quản lý đặc biệt các đoàn thể người<br />
văn chương của sứ giả đi sứ Trung Quốc đã Hoa: quy định thể chế theo đó các đoàn thể<br />
được các triều đại quân chủ Việt Nam trước này phải tập hợp thành những tổ chức đặc<br />
đó thực hiện, đến triều Nguyễn vẫn tiếp tục biệt gọi là “bang”. Trong mỗi địa phương,<br />
được đề cao. có bao nhiêu Hoa ngữ khác nhau thì có bấy<br />
Mặt khác, ngoài con đường ngoại nhiêu bang. Mỗi bang bầu một bang trưởng<br />
giao chính thức, những trí thức của triều đứng đầu và một phụ tá. Bang trưởng và phụ<br />
Nguyễn, bằng vốn liếng văn hóa của mình, tá giúp sức cho các cơ quan hành chính<br />
đã trở thành cầu nối văn hóa giữa Việt Nam trong việc đánh thuế các phần tử trong bang<br />
và Trung Hoa. Họ đã đóng góp lớn, cụ thể và kiểm soát nhập cư.<br />
vào việc thúc đẩy sự giao lưu văn hóa, du<br />
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 39<br />
<br />
Nhưng mặt khác, triều Nguyễn cũng buôn. Và tất cả thuyền buôn trong hạt vượt<br />
có những chính sách cởi mở đối với Hoa biển thì cũng không được mượn người Thanh<br />
kiều. Cùng với các bang, một số xã “Minh làm lái thuyền hay thủy thủ, người trái lệnh thì<br />
Hương” đã được tạo lập trên khắp lãnh thổ bắt tội. Lại nghiêm sức cho viên coi giữ các<br />
Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX. Lúc đầu, đó là cửa biển hết lòng tra xét. Nếu có người Thanh<br />
những làng người Minh tỵ nạn, về sau, xã nhờ thuyền ra biển buôn bán và ngầm đáp<br />
Minh Hương chỉ những làng con cháu thuyền buôn của dân trong hạt thì lập tức bắt<br />
người Hoa hoặc người Hoa lai Việt sinh giải để nghiêm trị”.<br />
sống. Theo quy định của nhà Nguyễn, nếu Chính sách đối với Hoa kiều của<br />
trong một tỉnh có trên 5 người Minh Hương triều Nguyễn cho thấy, một mặt, nhà nước<br />
mà chưa có làng Minh Hương thì họ có thể trao cho họ một số quyền tự chủ về hành<br />
lập làng riêng hoặc sống trong các bang cũ. chính, được phép tự trị trong phạm vi các<br />
Tuy nhiên, từ năm 1841 trở đi, một chính bang, các làng Minh Hương, nhưng mặt<br />
sách đồng hóa di dân người Hoa được xác khác, nhà nước cũng tạo ra những rào cản<br />
định: “...người bang ấy (tức người Thanh) để hạn chế sự phát triển lấn lướt của người<br />
sinh ra con cháu, đều không được gọt tóc để Hoa về kinh tế, đặc biệt ở khu vực Nam Kỳ.<br />
đuôi sam, hễ tuổi đến 18, bang trưởng ấy Kết luận<br />
phải báo quan, cho theo sổ Minh Hương...” Nhận thức được tính tất yếu khách<br />
(Chỉ dụ của vua Thiệu Trị năm 1841). quan và tầm quan trọng của mối bang giao<br />
Chính người Minh Hương, dưới hòa hảo với láng giềng, kế tục truyền thống<br />
triều Nguyễn, được tham dự các kỳ thi để ra của các triều đại trước về tinh thần hòa bình,<br />
làm quan, điều hoàn toàn cấm đoán với Hoa hợp tác, các vị vua đầu triều Nguyễn đã có<br />
kiều di cư. Nhờ chính sách này mà nhiều chính sách ngoại giao khá mềm dẻo, linh<br />
người Minh Hương đã thành danh, trở thành hoạt với Trung Quốc. Lựa chọn Nho giáo<br />
những quan lại trong bộ máy triều Nguyễn, làm hệ tư tưởng chính thống nên Trung Hoa<br />
ví dụ như Trịnh Hoài Đức, tác giả Gia Định trở thành hình mẫu cho các vị vua đầu triều<br />
thành thông chí, đã từng được cất nhắc tới Nguyễn học hỏi, tham chiếu. Việc giao lưu,<br />
chức Thượng thư bộ Công, rồi bộ Lễ. tiếp xúc trên các phương diện kinh tế, chính<br />
Người Hoa nhập cư và người Minh trị, văn hóa, xã hội giữa hai nhà nước được<br />
Hương được quyền tự do kinh doanh, buôn thực hiện một cách thường xuyên. Đặc biệt,<br />
bán, tất nhiên, trong tầm kiểm soát của triều trong quá trình giao lưu với nhà Thanh, nhà<br />
đình nhà Nguyễn. Chẳng hạn, triều đình Nguyễn đã rất chú ý tới các vấn đề văn hóa.<br />
thực thi nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn Bằng thiện chí hòa bình, hợp tác, học hỏi và<br />
việc xuất cảng lậu gạo và nhập cảng lậu dựa trên bản lĩnh, bản sắc dân tộc nhà<br />
thuốc phiện. Năm 1837, Minh Mạng xuống Nguyễn đã chọn lọc, tiếp thu các giá trị văn<br />
dụ cấm người Minh Hương và người Hoa hóa, các sản phẩm văn hóa Trung Hoa, đồng<br />
đã định cư buôn bán bằng đường biển. Năm thời tranh thủ giới thiệu văn hóa của dân tộc<br />
1838, điều cấm này lại một lần nữa được Việt Nam với người Trung Quốc. Việc ưu<br />
nhắc lại: “Truyền dụ các tỉnh Nam Kỳ cho tiên trong quan hệ ngoại giao với triều<br />
đến bọn đốc phủ bố án các địa phương, đều Thanh đã tạo một mối quan hệ láng giềng<br />
phải tuân theo các điều cấm, phàm người hòa hiếu, đảm bảo an ninh quốc gia và vị thế<br />
Thanh đến làm ăn sinh sống chỉ cho đi lại trong khu vực, thúc đẩy sự hiểu biết, gắn bó<br />
đường sông buôn bán, không được ra biển đi<br />
40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion<br />
<br />
giữa hai nền văn hóa, đồng thời góp phần 2. The cabinet of the Nguyen dynasty, Dai Nam<br />
làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc. hoi dien su le, vol.4.<br />
3. The Nguyen dynasty's cabinet, Kham dinh<br />
Tài liệu tham khảo: Dai Nam, Thuan Hoa Publisher, Hue, 1993.<br />
1. Hue University of Education, Nguyen 4. Y.Tsuboi, Dai Nam opposite France and<br />
Dynasty - Historical, ideological and literary China, Knowledge Publisher and Nha Nam<br />
issues (Nguyen Dynasty research program), Culture and Media Company, Hanoi, 2011.<br />
Hue, 1992.<br />
Địa chỉ tác giả: Trường Cao đẳng Cảnh sát<br />
Nhân dân I<br />