36
Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng
Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Chính sách tiền tệ và hiệu quả hoạt động ngân hàng:
Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam
Ngày nhận: 05/07/2024 Ngày nhận bản sửa: 03/06/2025 Ngày duyệt đăng: 04/06/2025
Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác động của các công cụ
trong chính sách tiền tệ đến hiệu quả hoạt động ngân hàng, đồng thời, xem xét
tác động của các công cụ này trong bối cảnh xảy ra đại dịch COVID-19. Để đạt
được mục tiêu trên, bài viết sử dụng dữ liệu thứ cấp của 27 ngân hàng thương
mại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2022. Bằng phương pháp
ước lượng GMM hệ thống (SGMM), nghiên cứu đã chỉ ra, khi Ngân hàng Nhà
nước gia tăng lãi suất tái cấp vốn hoặc gia tăng lượng cung tiền, hiệu quả hoạt
động của ngân hàng sẽ giảm sút ngược lại. Ngoài ra, bài viết cũng cho thấy,
trong bối cảnh đại dịch COVID-19, việc gia tăng lãi suất tái cấp vốn cũng sẽ
làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, một
số biến thuộc về đặc thù ngân hàng nền kinh tế cũng tác động đến
hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Từ khóa: Chính sách tiền tệ, Hiệu quả hoạt động của ngân hàng, COVID-19,
SGMM
Monetary policy and bank performance: Empirical evidence in Viet Nam
Abstract: This study investigates the impact of monetary policy instruments on the bank performance,
with particular attention to the effects observed during the COVID-19 pandemic. Utilizing a panel
dataset comprising 27 Vietnamese commercial banks from 2012 to 2022, the study employs the System
Generalized Method of Moments (SGMM) for estimation. The empirical findings reveal that increases in
the refinancing rate or money supply by the State Bank of Vietnam are associated with a decline in bank
performance, and vice versa. Moreover, the adverse effect of a rising refinancing rate on bank performance
is more pronounced during the COVID-19 period. The analysis also highlights the significant role of bank-
specific characteristics and macroeconomic variables in shaping banking performance.
Keywords: Monetary policy, Bank performance, COVID-19, SGMM
Doi: 10.59276/JELB.2025.10.2784
Nguyen Thi Nhu Quynh1, Phan Van Don2
Email: quynhntn@hub.edu.vn1, phanvandong1021@gmail.com2
Organization of all: Ho Chi Minh University of Banking, Viet Nam
Nguyễn Thị Như Quỳnh, Phan Văn Đồng
Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam
KINH TẾ VÀ NGÂN HÀNG
NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH - PHAN VĂN ĐỒNG
37
Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283- Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng
1. Giới thiệu
Trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ
(CSTT), ngân hàng trung ương (NHTW)
các quốc gia luôn phải xem xét nhằm điều
chỉnh các công cụ CSTT để đạt được các
mục tiêu đã đề ra. Với vai trò là trung gian
tài chính, hệ thống ngân hàng là một trong
những kênh truyền dẫn quan trọng nhất
trong việc thực thi CSTT đối với nền kinh
tế (Byrne & Foster, 2023; Dang, 2022).
Trong quá trình này, hiệu quả hoạt động
(HQHĐ) ngân hàng bị ảnh hưởng theo
nhiều cách khác nhau. Khi NHTW thực thi
CSTT mở rộng, nghĩa là các doanh nghiệp
trong nền kinh tế khả năng tiếp cận
nguồn vốn dồi dào với chi phí lãi thấp, từ
đó tạo điều kiện để họ cải thiện HQHĐ
giảm nợ xấu (Bernanke & Gertler, 1995).
Dẫu vậy, việc thực thi CSTT mở rộng
đôi khi cũng một số nhược điểm, nhất
khi lãi suất mức quá thấp trong thời
gian dài (Maddaloni & Peydró, 2011), điều
này thể làm giảm thu nhập lãi ròng của
ngân hàng (Samuelson, 1945), từ đó ảnh
hưởng tiêu cực đến HQHĐ của ngân hàng.
Điều này cho thấy CSTT thể tác động
đến hoạt động của ngân hàng thương mại
(NHTM) theo nhiều cơ chế khác nhau, làm
cho tác động của các công cụ trong CSTT
đến HQHĐ của ngân hàng còn nhiều tranh
luận (Dang & Huynh , 2022).
Năm 2020, với diễn biến phức tạp của đại
dịch COVID-19, đã gây ra nhiều khó khăn
cho các quốc gia trong việc phát triển nền
kinh tế. Để đối phó với tình trạng này,
hầu hết các Chính phủ đã thay đổi CSTT
bằng cách hạ lãi suất, giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc. Tuy nhiên, theo báo cáo của NEU
& JICA (2020), việc mở rộng CSTT trong
giai đoạn này dẫn đến tình trạng thừa
về thanh khoản trong hệ thống ngân hàng,
nhưng chất lượng tín dụng chưa sự cải
thiện. Điều này làm cho các ngành kinh tế
nói chung ngành ngân hàng nói riêng
phải đối mặt với nhiều khó khăn. Các khó
khăn này xảy ra tương tự như trong cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008,
khi chất lượng tài sản của NHTM bị suy
giảm. Điều này làm cho việc nghiên cứu
ảnh hưởng của CSTT trong bối cảnh đại
dịch COVID-19 cần thiết phải thực hiện
để đề xuất các hàm ý chính sách liên quan
nhằm gia tăng HQHĐ cho các NHTM
trong tương lai.
Với chủ đề nghiên cứu này, các nghiên
cứu trước đây thường tập trung vào hướng
nghiên cứu về tác động của lãi suất, điển
hình như nghiên cứu của Altavilla và cộng
sự (2018); Borio cộng sự (2017); Cruz-
García (2020); Kumar cộng sự (2020)
Dzeha cộng sự (2022). Trong phạm vi
của nghiên cứu này, nhóm tác giả tập trung
tìm hiểu về tác động của cả cung tiền
cả lãi suất đến HQHĐ của ngân hàng. Với
hướng nghiên cứu này, theo khảo lược của
nhóm tác giả, nghiên cứu của Nguyen
cộng sự (2017); Omankhanlen cộng sự
(2021) và Lê Duy Khánh (2023) thực hiện.
Tuy nhiên, khác so với các nghiên cứu trên,
nghiên cứu này, nhóm tác giả còn xem xét
tác động tương tác của đại dịch COVID-19
đối với ảnh hưởng của CSTT đến HQHĐ
của NHTM. Như vậy, với nghiên cứu này,
bằng việc sử dụng dữ liệu của 27 NHTM
trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2022,
nhóm tác giả kỳ vọng có các đóng góp bao
gồm: Một là, nghiên cứu xem xét tác động
tương đối toàn diện của CSTT thông qua cả
hai công cụ NHTW vẫn thường xuyên
thực hiện lãi suất tái cấp vốn cung
tiền đối với hoạt động của NHTM. Hai là,
nghiên cứu xem xét tác động của CSTT đối
với HQHĐ của NHTM trong bối cảnh điều
tiết của đại dịch COVID-19.
Với mục tiêu như trên, bài viết gồm 5 phần.
Trừ phần giới thiệu, phần còn lại của nghiên
cứu được cấu trúc như sau: Phần 2 cung
Chính sách tiền tệ và hiệu quả hoạt động ngân hàng:
Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam
38 Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng- Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283
KINH TẾ VÀ NGÂN HÀNG
cấp sở thuyết tổng quan nghiên
cứu; Phần 3 trình bày hình, phương
pháp dữ liệu nghiên cứu; Phần 4 phân
tích kết quả nghiên cứu; cuối cùng, kết luận
và đề xuất hàm ý chính sách liên quan.
2. sở thuyết tổng quan nghiên cứu
2.1. Chính sách tiền tệ
Theo Mishkin (2012), CSTT quá trình
quản cung tiền lãi suất của NHTW
nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế
như ổn định giá cả, toàn dụng lao động, và
tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong nghiên
cứu này, kế thừa cách hiểu trên, thể coi
CSTT được điều hành bởi NHTW thông
qua việc kiểm soát điều tiết lượng tiền
lưu thông trong nền kinh tế cũng như thay
đổi chính sách lãi suất, nhằm đạt được các
mục tiêu như kiểm soát lạm phát, ổn định
giá trị đồng tiền, kích thích tăng trưởng
kinh tế, gia tăng việc làm cho người dân.
2.2. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại
Theo McKinley Banaian (2005) ngân
hàng HQHĐ khi chi phí hoạt động
thấp và lợi nhuận tăng trưởng ổn định. Đối
với nền kinh tế, HQHĐ của ngân hàng
còn mang lại sự phát triển ổn định tăng
trưởng kinh tế. Do đó, thể hiểu HQHĐ
trong hoạt động của NHTM là việc chuyển
đổi các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu
ra để đạt được lợi nhuận cao nhất hay làm
giảm chi phí để tăng cường sức cạnh tranh
với các tổ chức tài chính khác nhưng vẫn
phải đảm bảo hoạt động hiệu quả ổn
định của ngân hàng dựa trên những hoạt
động chính yếu cùng với chiến lược hợp lý
và hiệu quả.
2.3. Tác động của chính sách tiền tệ đến
hiệu quả hoạt động ngân hàng tổng
quan nghiên cứu trước
Lãi suất cung tiền hai trong số các kênh
truyền dẫn phổ biến của CSTT (Mishkin,
1996; Neuenkirch & Nöckel, 2018; Bruno
& Shin, 2015). Theo hình IS-LM của
Keynes, chế truyền dẫn CSTT thể
được minh họa như sau:
M↑ → ir↓ → I↑ → Y↑
Trong đó, M↑ thể hiện sự gia tăng cung
tiền làm cho lãi suất thực giảm (ir↓), điều
này giúp thúc đẩy hoạt động đầu (I↑),
từ đó ảnh hưởng tích cực đến đến tổng
cầu sự gia tăng sản lượng kinh tế (Y↑)
(Mishkin, 1996). Thông qua chế này,
thể thấy khi NHTW thực hiện CSTT
thắt chặt (bằng cách giảm cung tiền hoặc
gia tăng lãi suất), sẽ không kích thích hoạt
động chi tiêu, đầu tư của người dân. Từ đó
ảnh hưởng tiêu cực đến sản lượng trong
nền kinh tế, làm cho việc đi vay của người
dân giảm. Trái lại, khi NHTW thực hiện
CSTT mở rộng (bằng cách tăng lượng cung
tiền hoặc giảm lãi suất), sẽ kích thích hoạt
động đầu tư, tiêu dùng của công chúng, khi
đó nhu cầu đi vay, tổng sản lượng trong
nền kinh tế tăng sẽ ảnh hưởng tích cực đến
HQHĐ của NHTM. Điều này được giải
thích, khi lãi suất bản giảm, NHTW
thể cho NHTM vay với lãi suất thấp hơn,
giúp NHTM giảm chi phí vốn. Kết quả
NHTM sẽ hạ lãi suất cho vay, khuyến
khích người dân vay vốn, chi tiêu đầu
tư nhiều hơn, đồng thời làm giảm động lực
tiết kiệm, làm gia tăng HQHĐ của ngân
hàng (Partachi & Mija, 2015).
Về mặt bằng chứng thực nghiệm, nghiên
cứu của Omankhanlen cộng sự (2021)
phân tích mối liên hệ giữa CSTT HQHĐ
của ngân hàng dựa trên báo cáo thường
niên của ngân hàng Liên hiệp Châu Phi
(UBA) trong giai đoạn 2002- 2019. Kết
quả nghiên cứu cho thấy lãi suất tác
NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH - PHAN VĂN ĐỒNG
39
Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283- Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng
động ngược chiều đến HQHĐ của NHTM,
nghĩa khi NHTM duy trì mức lãi suất
thấp, hiệu quả hoạt động được cải thiện.
Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu
của Dzeha cộng sự (2022) khi sử dụng
dữ liệu của 29 ngân hàng ở Ghana.
Tuy nhiên, trái với quan điểm trên, Borio
cộng sự (2017) khi sử dụng dữ liệu của
109 ngân hàng quốc tế lớn từ năm 1995
đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu chỉ ra
cấu trúc lãi suất mối quan hệ tích cực
đến khả năng sinh lời, nghĩa là lãi suất chủ
yếu ảnh hưởng đến thu nhập lãi trong
cấu tổng thu nhập của ngân hàng. Nói cách
khác, khi NHTW tăng lãi suất, kéo theo lãi
suất của NHTM gia tăng, từ đó khiến thu
nhập từ lãi khả năng sinh lời của ngân
hàng gia tăng. Nghiên cứu của Altavilla
cộng sự (2018), Kumar cộng sự (2020)
và Cruz-García (2020) cũng đưa ra kết quả
tương tự như kết quả trên.
Đối với các nghiên cứu xem xét về tác động
của cung tiền đối với HQHĐ của NHTM,
nghiên cứu của Omankhanlen cộng sự
(2021), đã chỉ ra, khi tăng lượng cung tiền
ra lưu thông, lượng dự trữ vốn của ngân
hàng cũng sự cải thiện, từ đó họ khả
năng cho vay nhiều hơn, nhờ vậy lợi
nhuận được cải thiện. Khi xem xét tác
động của CSTT đối với ổn định ngân hàng,
Nguyen & Nguyen (2021) đã chỉ ra việc
bơm tiền vào nền kinh tế tạo nên những bất
ổn cho ngân hàng.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19,
Nguyen cộng sự (2022) khi phân tích về
tác động của CSTT đến rủi ro hiệu quả
hoạt động của NHTM Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra, việc mở rộng CSTT
giúp tăng HQHĐ của các NHTM Việt Nam
thông qua việc cắt giảm lãi suất chính sách.
Ngoài ra, tại Việt Nam, nghiên cứu của
Dang & Huynh (2022) khi phân tích về
tác động điều tiết của hình kinh doanh
trong mối quan hệ ảnh hưởng của CSTT
đến HQHĐ của ngân hàng. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, khi Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) thực hiện tăng lãi suất chính sách
hoặc thực hiện các hoạt động trên thị trường
mở, lợi nhuận tổng thể của ngân hàng giảm
gia tăng sự bất ổn tài chính. Dẫu vậy,
trái với kết quả này, Lê Duy Khánh (2023)
khi xem xét mối quan hệ giữa CSTT
HQHĐ của ngân hàng tại Việt Nam, cho
thấy khi NHNN điều chỉnh tăng lãi suất tái
cấp vốn thì hoạt động của ngân hàng càng
hiệu quả hơn, do các NHTM gia tăng các
nguồn thu nhập từ lãi, đồng thời khi NHNN
thực hiện CSTT nới lỏng bằng các gia tăng
lượng cung tiền thì HQHĐ của NHTM bị
giảm sút. Với nghiên cứu của Dang (2022)
khi xem xét vai trò điều tiết của hình
tài trợ thông qua ảnh hưởng CSTT đến khả
năng sinh lời của NHTM, tác giả chỉ ra khi
NHNN thực hiện tăng lãi suất thì khả năng
sinh lời của ngân hàng được cải thiện. Theo
nghiên cứu của Duy Khánh (2023) khi
phân tích tác động của CSTT đến HQHĐ
của ngân hàng tại 25 NHTM Việt Nam
trong giai đoạn 2009- 2021. Nghiên cứu
cho thấy khi NHNN nới lỏng CSTT bằng
cách tăng cung tiền thì HQHĐ của ngân
hàng bị giảm sút.
Như vậy, có thể thấy, các nghiên cứu trước
đây về chủ đề tác động của CSTT đến hoạt
động NHTM đã được thực hiện khá nhiều,
song kết quả vẫn chưa đồng nhất. Ngoài ra,
khi xem xét về mối quan hệ này trong bối
cảnh đại dịch COVID-19 vẫn còn tương
đối hạn chế. Do đó, bài viết này sẽ đóng
góp thêm bằng chứng thực nghiệm về tác
động của CSTT thông qua hai công cụ
cung tiền lãi suất tái cấp vốn đến HQHĐ
của các NHTM, đồng thời nghiên cứu các
tác động này trong bối cảnh xảy ra đại dịch
COVID-19.
Mặc các nghiên cứu trước kết quả
trái chiều, tuy nhiên, trong nghiên cứu này,
nhóm nghiên cứu kỳ vọng, khi NHTW
Chính sách tiền tệ và hiệu quả hoạt động ngân hàng:
Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam
40 Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng- Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283
KINH TẾ VÀ NGÂN HÀNG
gia tăng lãi suất tái cấp vốn, tạo điều kiện
cho các NHTM gia tăng lãi suất, điều này
góp phần gia tăng thu nhập từ lãi cho các
NHTM. Ngoài ra, việc giảm cung tiền giúp
nền kinh tế kiềm chế lạm phát, thúc đẩy
hoạt động tiêu dùng, đầu tư. Đồng thời,
trong bối cảnh đại dịch COVID-19, NHNN
giảm lãi suất tái cấp vốn. Tuy nhiên, trong
bối cảnh này việc giảm lãi suất giúp các cá
nhân, doanh nghiệp được tiếp cận vốn dễ
dàng hơn, từ đó kích thích phát triển của
nền kinh tế gia tăng hiệu quả cho các
NHTM. Với các lý do này, bài viết đề xuất
các giả thuyết như sau:
Giả thuyết 1: Lãi suất tái cấp vốn có tác
động cùng chiều đến HQHĐ của NHTM
Việt Nam
Giả thuyết 2: Cung tiền tác động
ngược chiều đến HQHĐ của các NHTM
Việt Nam
Giả thuyết 3: COVID-19 làm hạn chế tác
động của lãi suất tái cấp vốn đến HQHĐ
của NHTM Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Dựa trên mô hình nghiên cứu của Altavilla
cộng sự (2018); Dang (2022); Dang &
Huynh (2022) và Borio và cộng sự (2017),
hình phân tích tác động của các công
cụ trong CSTT đến HQHĐ của ngân hàng
như sau:
Performi,t = α0 + α1Performi,t-1 + αjMPt +
αlChari,t + αkMacrot + εi,t (1)
Bên cạnh việc sử dụng các biến độc lập đơn
thuần, nhóm tác giả sẽ sử dụng biến tương
tác giữa CSTT COVID-19. Để kiểm
tra mối quan hệ của biến tương tác này
HQHĐ của ngân hàng, nhóm tác giả xây
dựng mô hình dựa trên các nghiên cứu của
Nguyen và cộng sự (2022) mô hình nghiên
cứu có dạng như sau:
Performi,t = α
0 + α
1Performi,t-1 + β
jMPt
×COVID19t + αlChari,t + αkMacrot + εi,t
(2)
Trong hình 1 hình 2, với Perform
biến đại diện cho HQHĐ; MP biến đại
diện cho các công cụ của CSTT; Char
biến kiểm soát, thể hiện tính đặc thù của
ngân hàng; Macro biến kiểm soát, đại
diện cho các chỉ số kinh tế là biến
tương tác nhằm thấy được trong bối cảnh
COVID-19 thì việc điều hành CSTT có tác
động đến HQHĐ của ngân hàng.
3.1.1. Chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt
động ngân hàng
Trong nghiên cứu này sử dụng hai chỉ tiêu
tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)
tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu
(ROE), đây là hai chỉ tiêu được sử dụng để
đo lường khả năng sinh lời của các NHTM
thường được kết hợp để đánh giá HQHĐ
của NHTM (Flamini cộng sự, 2009;
Zeitun & Goaied, 2022). ROA ROE
càng cao càng thể hiện HQHĐ của ngân
hàng càng được đánh giá cao (Nguyen
cộng sự, 2020), cụ thể chỉ tiêu này được đo
lường như sau:
ROAi,t = Lợi nhuận sau thuếi,t/Tổng tài
sản bình quâni,t (3)
ROEi,t = Lợi nhuận sau thuếi,t /Vốn chủ sở
hữu bình quâni,t (4)
Bên cạnh đó, nhóm tác giả sử dụng Z-score,
một chỉ số đo lường sự ổn định, HQHĐ của
ngân hàng, để kiểm tra tính vững của
hình thực nghiệm, chỉ tiêu này đáp ứng
được rủi ro biến động của lợi nhuận cũng
như HQHĐ của ngân hàng. Để tính toán
chỉ tiêu này, kế thừa phương pháp tính toán
của Fernández cộng sự (2016) được
đo lường như sau:
Z-scorei,t = (ROAi,t + E/Ai,t)/σ(ROA)i,t (5)
3.1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ