
31
Vũ Công Thương
Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt: Thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới với những thay đổi mạnh
mẽ, trong đó công cuộc chuyển đổi số rộng khắp trên mọi lĩnh vực, ở các quốc gia,
dân tộc đóng vai trò nền tảng và là động lực chủ đạo. Bài viết khái quát về chuyển đổi
số, chuyển đổi số trong giáo dục; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những
yêu cầu đặt ra đối với chuyển đổi số trong giáo dục; một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong giáo dục ở nước ta trước tác động của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay.
Từ khóa: Chuyển đổi số, giáo dục, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công
nghệ thông tin.
1. Mở đầu
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự giao thoa, hòa quyện của các
công nghệ số - vật lý - sinh học có tác động to lớn, làm thay đổi mọi lĩnh vực
của đời sống con người, từ cách thức điều hành, quản lý xã hội đến cách thức
con người sống và làm việc, sinh hoạt. Trong bối cảnh đó, ngành Giáo dục Việt
Nam cũng đứng trước những cơ hội và thách thức lớn, đòi hỏi sự chuyển đổi
sang mô hình mới, tích hợp công nghệ trong các hoạt động và số hóa các quy
trình nghiệp vụ theo hướng tự động, thông minh có thể tiến hành các hoạt động
đào tạo, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng dễ dàng trên nền tảng số, khai
thác dữ liệu hiệu quả.
2. Nội dung
2.1. Chuyển đổi số và chuyển đổi số trong giáo dục
Mặc dù đã xuất hiện từ lâu trên thế giới, song đến khi cách mạng công
nghiệp lần thứ tư bùng nổ, chuyển đổi số (Digital transformation) mới xuất hiện
và trở nên phổ biến trong những năm gần đây. Chuyển đổi số được hiểu là “việc
sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất
cả các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống,
làm việc và liên hệ với nhau”
26
.
26
Bộ Thông tin và Truyền thông, Đề án chuyển đổi số quốc gia, Dự thảo 1.0 ngày 04/4/2019. Tải xuống
http://mic.gov.vn/Upload_Moi/DuThaoVanBan/PL03-DU-THAO-DE-AN-CHUYEN-DOI-SÓ-QG-
VER-1.0.pdf

32
Có thể hiểu một cách khái quát, chuyển đổi số là quá trình chuyển từ mô hình
truyền thống sang mô hình số, bằng cách ứng dụng các công nghệ mới như vạn vật
kết nối - Internet of things (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud
Computing), trí tuệ nhân tạo (AI)…, các phần mềm công nghệ để thay đổi phương
thức điều hành, quản lý, quy trình làm việc, văn hóa cơ quan, đơn vị; chuyển các
hoạt động từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng. Nhờ vậy, con
người dễ dàng và tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về
không gian, tiết kiệm về thời gian. Chuyển đổi số chính là một công cuộc cải biến
toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm khai
thác tối đa sức mạnh thời đại và tiến bộ công nghệ để nâng cao hiệu quả, sức cạnh
tranh và kiến tạo nền tảng căn bản cho hành trình phát triển bền vững.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới như Thái Lan, Malysia, Anh, Pháp, Đan
Mạch, Úc, Estonia … đã và đang triển khai các chiến lược quốc gia về chuyển
đổi số. Tùy thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể mà mỗi quốc gia xây dựng nội dung chuyển đổi số trong các lĩnh vực
cho phù hợp. Tuy nhiên, nhìn chung chuyển đổi số của các quốc gia đều hướng
tới các nội dung chính như: Chính phủ số (dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu mở);
kinh tế số (phát triển các doanh nghiệp số, tài chính số, thương mại điện tử); xã
hội số (giáo dục, văn hóa, y tế, an toàn xã hội) và chuyển đổi số trong các ngành
kinh tế trọng điểm (điện lực, du lịch, giao thông, công nghiệp).
Trong lĩnh vực giáo dục, chuyển đổi số là việc ứng dụng công nghệ số vào
việc đổi mới mọi khía cạnh trong tổ chức và hoạt động của giáo dục (quản lý,
dạy, học, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng). Quá trình này đã diễn ra
từ khi bước sang thế kỷ XXI do sự bùng nổ của công nghệ thông tin, song khi
thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nó mới trở thành xu
thế toàn cầu. Trong điều kiện sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ
hiện nay, kỹ năng và tri thức của con người trở thành tài sản chính yếu của mọi
quốc gia, dân tộc. Nếu trước đây lao động sản xuất chủ yếu dựa vào các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, thì hiện nay lao động sản xuất lại chú trọng vào việc thu
hút các nguồn tài năng và chất xám người lao động. “Tri thức với tư cách là
nguồn tài nguyên chủ chốt sẽ thay đổi về cơ bản kết cấu xã hội, sáng tạo ra động
lực phát triển mới, đồng thời thông qua sự chuyển hóa hiện thực của các cá thể
thay đổi tiến trình của sự sống”
27
. Bởi vậy, chuyển đổi số trong giáo dục là tất
yếu khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu lãnh đạo, quản lý giảng dạy, học tập của
người lãnh đạo, người dạy và người học, giúp họ phát huy tối đa khả năng tư duy,
tính sáng tạo, chủ động, tích cực trong hoạt động lãnh đạo, dạy và học.
27
Thế Trường (2004), Hành trang thời đại kinh tế tri thức, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội, tr.8.

33
Trong giáo dục, chuyển đổi số được thể hiện ở hai nội dung cơ bản là: chuyển
đổi số trong quản lý giáo dục; chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá,
nghiên cứu khoa học. Trong quản lý giáo dục, chuyển đổi số bao gồm: số hóa thông
tin quản lý, tạo ra hệ thống cơ sở dữ liệu lớn, triển khai các dịch vụ công trực tuyến,
ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (như blockchain,
AI, phân tích dữ liệu) để quản lý, điều hành, dự báo, định hướng trong lĩnh vực giáo
dục một cách nhanh chóng, chính xác. Trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên
cứu khoa học bao gồm: số hóa học liệu (sách giáo trình, bài giảng điện tử, ngân hàng
câu hỏi trắc nghiệm, học liệu số đa phương tiện, phần mềm mô phỏng, bài báo và
các học liệu khác), thư viện số, phòng thí nghiệm.
2.2. Cuộc cách mạng lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với chuyển đổi
số trong giáo dục
Trong lịch sử, nhân loại đã chứng kiến ba cuộc cách mạng công nghiệp.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất gắn với quá trình cơ giới hóa sản xuất,
diễn ra khoảng từ 1760 đến 1840 với sự khởi đầu bằng việc phát minh ra máy
hơi nước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai gắn liền với quá trình điện
khí hóa và áp dụng dây chuyền sản xuất, diễn ra từ cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu
thế kỷ 20. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba gắn liền với việc điện tử hóa,
số hóa quá trình sản xuất và phát minh ra Internet, diễn ra từ khoảng những năm
1960 đến thập niên đầu tiên của thế kỷ 21. Cuộc cách mạng cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (thường gọi là cách mạng 4.0 hay Industrie 4.0) là một thuật ngữ
mới được công bố lần đầu tiên năm 2011 tại triển lãm công Hannover - Đức.
Hiện nay, thuật ngữ này thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều quốc gia trên thế
giới và tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos (tháng 01/2016) đã được thảo luận
sôi nổi.
Hiện nay, thế giới đang ở chặng đường đầu tiên bước vào cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, với đặc trưng là tích hợp toàn bộ những thành tựu của ba
cuộc cách mạng trước đây nhưng nâng lên một bước phát triển mới về chất, gắn
liền với các trụ cột về trí thông minh nhân tạo (artificial intelligence), người máy
thông minh có thể tự học hỏi (learning machines), Internet vạn vật kết nối
(Internet of things), công nghệ điện toán đám mây (cloud computing) và xử lý
dữ liệu lớn (big data). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư chính là “sự lên
ngôi của những công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, trạng thái số hóa và thông
minh hóa các ứng dụng công nghệ thông tin”
28
.
Bản chất của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư chính là việc ứng dụng
công nghệ, khoa học dữ liệu và sử dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ sản xuất, đời
28
https://ictnews.vn/cntt/cach-mang-40/nhin-lai-dinh-nghia-cong-nghiep-4-0-va-cach-viet-nam-don-
nhan-xu-huong-nay-162188.ict.

34
sống sinh hoạt của con người và cấu trúc của nền hành chính - thể chế, quản lý -
quản trị. Chính vì vậy, cuộc cách mạng công nghiệp này đã đem lại nhiều điều
kiện thuận lợi cho con người khám phá ra những tri thức mới, nâng cao quy mô và
chất lượng nền kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất vật chất, và tiêu dùng sản
phẩm. Với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền sản xuất chủ yếu là các
máy móc được kết nối internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự
vận hành toàn bộ quá trình sản xuất theo một kế hoạch đã được xác lập từ trước,
năng suất lao động tăng cao. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt giáo
dục, nhất là giáo dục đại học trước nhiều thách thức lớn. Trong đó, sự xuất hiện
của các công nghệ mới đã làm thay đổi nền tảng sản xuất và đặt ra những yêu
cầu mới về năng lực nhân sự, khoa học, công nghệ và tri thức. Để đáp ứng được
thị trường lao động hiện đại cần phải đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng
cao, đảm bảo các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và phẩm chất thích ứng với môi
trường lao động mới. Điều đó, đòi hỏi ngành giáo dục nước ta phải nhận thức
được những thách thức mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại để
sẵn sàng thay đổi và có định hướng cụ thể cho sự phát triển, thay đổi các hoạt
động đào tạo: đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, quản lý sinh viên,
phương pháp kiểm tra, đánh giá chuẩn đầu ra với sự ứng dụng mạnh mẽ công
nghệ thông tin, đầu tư cơ sở vật chất để phục vụ đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao trong thời kỳ kỹ thuật số. Trong đó, người học phải chủ động, tích cực
tự học, tự nghiên cứu và tu dưỡng rèn luyện bản thân, tự chịu trách nhiệm về mọi
hoạt động của mình; phải thay đổi phương pháp học tập phù hợp với sự đổi mới
và chuyển đổi số trong giáo dục. Đối với nhà quản lý và người dạy cần phải thay
đổi tư duy, tìm hiểu, vận dụng linh hoạt các phương tiện công nghệ thông tin,
phương pháp dạy học nhằm mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất.
2.3. Cơ chế, chính sách và hạ tầng thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục
Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về
một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Căn cứ các quan điểm, mục tiêu, chủ trương và chính sách tại Nghị
quyết này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 về
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 52. Thủ tướng Chính phủ cũng
ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình
Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó giáo
dục và đào tạo là một trong 8 lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu trong triển khai
thực hiện. Triển khai, thực hiện định hướng, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo, ban hành Kế
hoạch hành động của ngành triển khai thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị nêu trên,
như: Quyết định số 2653/QĐ- BGDĐT ngày 25/7/2014 về chương trình hành
động của ngành Giáo dục triển khai chương trình hành động của Chính phủ thực

35
hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”;
Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 về việc phê duyệt Đề án “Tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy
và học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025”. Trong đó, xác định mục tiêu
chung là: “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đẩy mạnh triển khai
chính phủ điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong hoạt động quản lý điều
hành của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở trung ương và các
địa phương; đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra, đánh giá và
nghiên cứu khoa học và công tác quản lý tại các cơ sở giáo dục đào tạo trong hệ
thống giáo dục quốc dân góp phần hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo”
29
. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là: “Hình thành cơ sở dữ liệu toàn
ngành giáo dục và đào tạo; phấn đấu 100% các cơ quan quản lý nhà nước về giáo
dục và đào tạo, các cơ sở giáo dục và đào tạo thực hiện quản lý hành chính xử lý
hồ sơ công việc trên môi trường mạng; 70% cuộc họp giữa các cơ quan quản lý
nhà nước và cơ sở giáo dục và đào tạo được áp dụng hình thức trực tuyến; 70%
lớp bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được thực
hiện qua mạng theo phương thức học tập kết hợp (blended learning); 50% hồ sơ
thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến tối thiểu mức độ 3, trong đó 30% được
xử lý trực tuyến ở mức độ 4... Định hướng đến năm 2025: Mức độ ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa
học đạt trình độ tiên tiến trong khu vực ASEAN, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Công nghệ thông tin trở thành động
lực đổi mới quản lý, nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá trong
giáo dục và đào tạo”
30
.
Ngoài ra, có nhiều chính sách, văn bản pháp luật được xây dựng, sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện tạo hành lang pháp lý quan trọng nhằm thúc đẩy chuyển đổi
số giáo dục như Thông tư số 12/2016/TT-BGDĐT ngày 22/4/2016 quy định
“Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng”; quy
chế đào tạo từ xa trình độ đại học; quy định quản lý, vận hành sử dụng hệ thống
cơ sở dữ liệu toàn ngành; hướng dẫn nhiệm vụ công nghệ thông tin cho khối đại
học, phổ thông và nhiều văn bản chỉ đạo điều hành khác.
29
Thủ tướng Chính phủ, số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017, Quyết định phê duyệt đề án “Tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025”.
30
Thủ tướng Chính phủ, số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017, Quyết định phê duyệt đề án “Tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025”.

