Chuyển động Brown và thị

trường chứng khoán

Sự vận động của các thị trường chứng khoán là sản phẩm của

sự vận động kinh tế xã hội của con người. Chuyển động không

ngừng của các hạt phấn hoa có nguồn gốc từ quá trình động học

hỗn độn của các phân tử. Các nhà toán học bảo rằng, hai hiện

tượng này là rất tương đồng với nhau, bởi vì chúng đều thuộc về

những quy luật khoa học tự nhiên sâu sắc.

Vào năm 1827, nhà thực vật học Robert Brown đã quan sát thấy

một hiện tượng kỳ lạ của những hạt phấn hoa lơ lửng trong một

cốc nước. Chúng liên tục lắc lư, chuyển động một cách ngẫu

nhiên và dường như không bao giờ dừng lại ngay cả khi cốc

nước được giữ yên gần như tuyệt đối. Mãi đến năm 1905, hiện

tượng này mới được Einstein giải thích đến nơi đến chốn bằng

những tính toán xác suất thống kê sử dụng thuyết động học phân

tử. Thuyết này giải thích rằng, sự nhảy nhót của các hạt phấn hoa

được gây ra bởi chuyển động hỗn độn không ngừng của các

phân tử nước. Và Einstein đã thành lập được những định luật

toán học chi phối chuyển động của chúng.

Vào giai đoạn mà Einstein giải thích chuyển động Brown, nhà

toán học Pháp Louis Bachelier cũng đã lần đầu tiên đề xuất rằng,

các thị trường tài chính cũng tuân theo một "chuyển động ngẫu

nhiên" có thể được mô hình hóa bằng các phép tính xác suất

thông thường. Về đại để, cái "chuyển động ngẫu nhiên" của

Bachelier cũng chính là một kiểu chuyển động Brown. Đối với sự

chuyển động này, xu hướng thay đổi giá trị của một biến không

liên hệ gì với những thay đổi của nó trong quá khứ. Ở đây, các

phương pháp thống kê có thể được áp dụng với độ chính xác cao

và đem lại sự giải thích có thể coi là hoàn hảo. Chính vì vậy, khi

gặp phải một quá trình đa chiều kiểu như sự vận động của một thị

trường chứng khoán thì các nhà phân tích vẫn có xu hướng

chuyển nó thành một bài toán tương tự như chuyển động Brown.

Lý thuyết chuyển động Brown của Einstein và mô hình "chuyển

động ngẫu nhiên" của Bachelier trên thực tế là tương đương

nhau. Chúng đã được áp dụng rộng rãi cho việc tính toán sự vận

động của các thị trường.

Hồi giữa thế kỷ 20, một nghiên cứu của M.F.M Osborne đã cho

thấy rằng, vì những giá trị của các giá cổ phiếu phổ thông biến

đổi theo thời gian nên chúng có thể được coi là một tập hợp

tương đồng với tập hợp các tọa độ của một số lớn các phân tử.

Sử dụng một hàm phân bố xác suất để tính toán đối với một tập

hợp các biến là các giá của một cổ phiếu được chọn ở các thời

điểm ngẫu nhiên, Osborne đã có thể dẫn ra một hàm phân bố

trạng thái dừng giống hệt như sự phân bố xác suất của một hạt

trong chuyển động Brown. Một quy luật phân bố tương tự như

vậy cũng áp dụng được đối với giá trị của tiền, được xác định một

cách gần đúng bằng các chỉ số cổ phiếu. Một hệ quả của hàm

phân bố là chính các giá trị kỳ vọng cho giá lại tăng theo sự tăng

các khoảng thời gian và theo sự tăng các dao động giá. Nghiên

cứu của Osborne đã chỉ ra một cách rõ ràng rằng, giá cả trên thị

trường thực sự biến đổi theo một kiểu cách giống như các phân

tử trong chuyển động Brown. Osborne cũng đã khám phá ra rằng,

có bằng chứng về sự tồn tại của các chu kỳ một ngày, một tuần,

một quý và một năm của sự vận động giá trong kiểu chuyển động

Brown. Những chu kỳ đó thực ra chính là những chu kỳ chi phối

hoạt động xã hội của con người.

Đã có rất nhiều chương trình nghiên cứu về thị trường cổ phiếu

đã được thực hiện và phát triển xoay quanh mô hình chuyển

động Brown. Chẳng hạn, theo một phân tích thống kê đối với thị

trường cổ phiếu New York được thực hiện bởi R. N. Mantegna,

những biến động hàng ngày của chỉ số giá được phân bố theo

một phân bố bền Levy và mật độ phổ của chỉ số giá là gần với

mật độ phổ trong chuyển động Brown. Một nghiên cứu khác là

công trình của William Smith, người đã sử dụng phương pháp

chuyển động Brown để phân tích các hiệu ứng ổn định giá trong

đầu tư khi nhu cầu là bất định. Ông đã khảo sát các đặc điểm của

sự đầu tư khi giá là ngẫu nhiên, ngoài sự phụ thuộc vào giá trần

ngoại sinh. Với các phương trình toán học của chuyển động

Brown, ông đã tính ra rằng, những điều khiển giá sẽ làm giảm

nhẹ sự phản ứng của việc đầu tư đối với những thay đổi về giá,

thậm chí cả khi những điều khiển là không bắt buộc. Những kết

luận được rút ra có thể áp dụng cho bất cứ trạng thái kinh tế nào

liên quan đến những chi phí cho việc điều chỉnh các cổ phiếu khi

giá là bất định nhưng phụ thuộc vào sự điều khiển của chính phủ.

Những áp dụng của lý thuyết ngẫu nhiên này thực ra là rất sâu và

rộng. Trong lĩnh vực kinh tế, các biến cố ngẫu nhiên có tác dụng

thúc đẩy sự đổi mới. Nếu chúng ta mà biết được chính xác điều

gì sẽ đến thì chúng ta chả cần phải học hành hay nghiên cứu gì

nữa. Ở đây không có gì đảm bảo là chúng ta sẽ thắng lớn trong

một vụ buôn cổ phiếu nhờ vào hiểu biết về chuyển động Brown,

bởi vì nó chỉ đơn giản là đem lại cho chúng ta một cách tiếp cận

để hiểu về sự vận động của các thị trường cổ phiếu. Tuy nhiên,

dù sao thì lý thuyết về chuyển động Brown cũng giúp chúng ta

kiếm tiền dễ hơn và có khả năng tốt hơn trong việc phát triển các

chiến thuật đầu tư cũng như đánh giá rủi ro.