CƠ CHẾ XÚC TÁC CỦA ENZYME

Khi đặt vấn đề nghiên cứu về cơ chế xúc tác của

enzyme

người ta xuất phát từ giả thiết cho rằng trong các

phản ứng được

enzyme xúc tác, phức tạm thời “Enzyme – Cơ chất”

được tạo thành.

Quá trình này gồm 3 giai đoạn:

Ở giai đoạn 1 phản ứng xảy ra tương đối nhanh, cơ

chất (S) được

liên kết với enzyme (E) nhờ các liên kết yếu. Lúc này

sự liên kết

không gian giữa các phân tử cơ chất và enzyme chưa

đủ hiệu quả đối

với sự xúc tác của enzyme.

Ở giai đoạn tiếp theo xảy ra sự biến đổi của cơ chất

(S) có liên

quan tới việc phá vỡ hay hình thành các liên kết cộng

hóa trị. Ở giai

đoạn này, cơ chất được hoạt hóa (một hoặc vài phức

chất ES chuyển

tiếp được hoạt hóa). Ở đây, cấu trúc bậc 3 của

enzyme luôn biến đổi

E + S ES ES* E + P

1 2 3

46

tạo khả năng tiếp xúc giữa các nhóm hoạt động của

enzyme với cơ

chất đang biến đổi.

Enzyme đã làm biến đổi phần tử cơ chất làm cho các

liên kết bên

trong phân tử trở nên “lỏng lẻo” hơn, do đó chỉ cần

một lượng năng

lượng nhỏ cũng đủ làm cho cơ chất biến thành các

sản phẩm (P)

khác nhau.

Người ta đã chứng minh rằng trong khi hình thành

phức chất ES

có 2 quá trình đồng thời xảy ra nhanh chóng đó là:

a) Sự thay đổi mật độ điện tử gây nên sự phân cực

hóa các

liên kết.

b) Sự biến dạng về mặt hóa học của các liên kết “kéo

căng”

trong phân tử cơ chất.

Cả hai yếu tố này (sự biến hình và sự phân cực hóa

các liên

kết đồng hóa trị) đều làm tăng thế năng nhiệt động

học của các liên

kết này, nghĩa là xúc tiến việc vượt qua “hàng rào”

năng lượng hoạt

hóa của quá trình chuyển tiếp phức “Enzyme-Cơ

chất”.