TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC TẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Họ và tên sinh viên: Đỗ Đức Kiên Lớp: Anh 2 Khoá: 41 – Kinh tế Ngoại thương Giáo viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Tƣờng Anh

Hà nội, tháng 10 năm 2006

Môc lôc

1

3

3

LỜI MỞ ĐẦU CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC. I. Những vấn đề về Doanh nghiệp Nhà nƣớc và công ty cổ phần

1. Một số nét về Doanh nghiệp Nhà nƣớc.

1.1 Quá trình hình thành và phát triển DNNN

1.2 Vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế

1.3 Thực trạng hoạt động của các DNNN

2. Một số nét về công ty cổ phần.

2.1 Cổ phần hoá, công ty cổ phần và đặc điểm của công ty cổ phần.

3 7 8 8 12 12 18 20

20

2.2 Cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành công ty cổ phần 2.3 Ưu điểm và nhược điểm của công ty cổ phần II. Những vấn đề chung về CPH DNNN ở Việt Nam

1. Bản chất CPH DNNN 2. Vai trò của việc CPH DNNN đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

2.1 CPH góp phần xây dựng một Nhà nước mạnh

2.2 CPH góp phần tăng cường hiệu quả đầu tư của toàn xã hội

2.3 CPH tác động tới sự tăng trưởng của đất nước 2.4 CPH tác động đến đời sống kinh tế của người lao động

2.5 CPH đẩy lùi vấn đề tham nhũng

20 22 23 24 25 26 26

27

3. Tính tất yếu của CPH ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

31

III. Kinh nghiệm quốc tế về CPH

1. Kinh nghiệm CPH ở các nƣớc phát triển 2. CPH và tƣ nhân hoá các doanh nghiệp ở Đông Âu 3. Quá trình CPH ở Trung Quốc

3.1 Xác định quan điểm CPH DNNN

3.2 Xác định mục tiêu CPH

3.3 Xây dựng môi trường pháp lý cho quá trình CPH

31 31 32 32 32 33

34

3.4 Lựa chọn hình thức và phương pháp CPH thích hợp để đạt được mục tiêu đã xác định. 3.5 Thành lập cơ quan CPH và sở hữu cổ phần Nhà nước.

3.6 Xây dựng quy trình CPH và tuân thủ quy trình này. 3.7 Chính phủ chấp nhận một khoản chi phí cho trương trình CPH DNNN 3.8 Tốc độ của tiến trình CPH DNNN phụ thuộc vào mức độ phát triển của

35 35 36 36

nền kinh tế thị trường. 4. Bài học rút ra cho Việt Nam

37

36 4.1 Vận dụng kinh nghiệm quốc tế về CPH vào điều kiện cụ thể của Việt Nam 37 4.2 Thành lập cơ quan quản lý Nhà nước chịu trách nhiệm về quá trình thực hiện CPH 4.3 Vừa làm vừa rút kinh nghiệm thực hiện CPH

4.4 Tạo môi trường pháp lý cần thiết để thực hiện CPH 4.5 Cần lập kế hoạch tài chính cho quá trình thực hiện CPH

37 37 37

38

38

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC. I. Quá trình CPH và thực trạng ở Việt Nam 1. Giai đoạn thí điểm (1992 đến tháng 5/1996)

1.1 Cơ sở pháp lý để thực hiện CPH 1.2 Triển khai CPH trong thực tế

2. Thời kỳ mở rộng CPH (tháng 5/1996 đến tháng 6/1998)

2.1 Cơ sở pháp lý nhằm mở rộng CPH 2.2 Thực tiễn triển khai đến các doanh nghiệp

3. Thời kỳ đẩy mạnh CPH hay giai đoạn chủ động (tháng 7/1998 đến nay)

3.1 Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. 3.2 Thực tiễn kết quả CPH đã đạt được

38 38 39 40 40 41 42 42 43

53

II. Những mặt đƣợc và những mặt chƣa đƣợc của quá trình CPH DNNN ở nƣớc ta trong thời gian qua

1 Đánh giá những kết quả đã đạt đƣợc của quá trình CPH 2 Những tồn tại làm chậm tiến trình CPH

2.1 Số lượng doanh nghiệp CPH còn hạn chế, tốc độ CPH còn chậm

54 59 59

59

2.2 Vốn trong các DNNN đã CPH còn quá nhỏ và và việc huy động vốn trong quá trình CPH chưa nhiều. 2.3 Việc đa dạng hoá sở hữu trong CPH còn hạn chế.

60 61

62

2.4 Các DNNN sau CPH chưa có sự đổi mới, chuyển biến thực sự. 2.5 Một số công ty cổ phần có kết quả kinh doanh thấp, giảm so với trước khi CPH

64

64

CHƢƠNG III: MỘT SỐ CƠ CHẾ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CPH. I. Phƣơng hƣớng chung của Nhà nƣớc

64 64

1. Quan điểm CPH 2. Mục tiêu CPH

II. Một số cơ chế giải pháp đẩy mạnh CPH

65 65 67 67

69

70

72

73 74 75

76

77

77

1. Nâng cao nhận thức về CPH 2. CPH kết hợp với hoàn thiện thị trƣờng chứng khoán 3. Hoàn thiện vấn đề định giá doanh nghiệp. 4. Giải quyết các bất cập, vƣớng mắc về quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất 5. Chính sách ƣu đãi hợp lý đối với DNNN thực hiện CPH, đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh bình đẳng. 6. Giải quyết lao động dôi dƣ, đảm bảo lợi ích của ngƣời lao động trong doanh nghiệp CPH. 7. Hoàn chỉnh chính sách bán cổ phần cho đối tác nƣớc ngoài 8. Việc phân bổ và bán cổ phiếu 9. Xoá bỏ sự can thiệp của Nhà nƣớc vào hoạt động nội bộ công ty 10. Công tác tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm về CPH ở các đơn vị đã tiến hành CPH. 11. Khen thƣởng, động viên khuyến khích đối với những Bộ, Địa phƣơng, Tổng công ty 91 làm tốt trong công tác CPH. 12. Đề xuất một số giải pháp sửa đổi nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 để phù hợp với thực tế và đồng bộ với các quy định mới nhất là các quy định mới của Luật Doanh nghiệp 2005.

80

81

85

KẾT LUẬN PHỤ LỤC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

1. Sơ đồ quản lý điều hành của công ty cổ phần

15

2. Kết quả thực hiện CPH sau 15 năm

45

3. Biến động của số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa qua các năm

45

4. Thời gian thực hiện CPH

46

5. Số ngày hoàn tất CPH một DNNN

46

6. Bảng phân loại các doanh nghiệp đã CPH tính đến hết năm 2004

48

7. Cơ cấu số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá phân theo lĩnh vực hoạt động

48

8. Cơ cấu số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá phân theo địa phương

49

9. Quy mô vốn Nhà nước của các doanh nghiệp CPH

50

10. Cơ cấu số lượng doanh nghiệp CPH phân theo quy mô vốn Nhà nước

51

11. Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp

51

12. Các hình thức cổ phần hoá DNNN

52

13. Cơ cấu số lượng doanh nghiệp CPH phân theo hình thức tiến hành CPH

52

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

LỜI MỞ ĐẦU.

Cổ phần hoá (CPH) doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một chủ

trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình đối mới và phát triển

đoanh nghiệp Nhà nước. Mục tiêu của chương trình CPH là đa dạng hóa sở

hữu đối với các doanh nghiệp nhằm huy động thêm vốn và kinh nghiệm của

toàn xã hội vào phát triển sản xuất – kinh doanh, tạo động lực mới và phát

huy quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả và

sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Trong hơn 15 năm qua, việc tiến hành cổ phần hóa ở nước ta đã đạt

được những kết quả đáng khích lệ. CPH đã thực sự trở thành giải pháp cơ bản

và quan trọng nhất để DNNN có cơ cấu thích hợp, quy mô lớn, tập trung vào

những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Tuy nhiên, tiến độ CPH

trong thời gian qua còn chậm, tỷ trọng vốn Nhà nước được cổ phần hóa còn ít

nên đã hạn chế việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Chính vì vậy, đòi hỏi phải có những giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình CPH

DNNN, nâng cao hiệu quả của CPH, đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước,

doanh nghiệp và người lao động.

Việc phân tích thực trạng CPH DNNN, xem xét đánh giá công tác thực

hiện không những cho phép chúng ta nắm được tình hình thực hiện CPH

trong thời gian qua mà còn có thể giúp các nhà quản lý tìm ra nguyên nhân và

các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình này, từ đó để rút ra giải pháp giải quyết

các vấn đề tồn tại và dự báo cho giai đoạn tiếp theo. Đây cũng là cơ sở quan

trọng để các nhà quản lý đưa ra được những kế hoạch chính xác trong tương

lai nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa ngày một hiệu quả hơn.

Trong quá trình tìm kiếm tài liệu tại Thư viện Bộ kế hoạch đầu tư, Thư

viện quốc gia, cũng như Viện quản lý kinh tế trung ương, em được biết tại

đây có nguồn số liệu về vấn đề CPH. Hơn nữa Viện quản l‎ý kinh tế trung

- 1 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

ương hiện nay đang nghiên cứu một số các phương án CPH trong thời gian

tới. Nhờ sự giúp đỡ của các cán bộ tại Viện, em đã được tìm hiểu về quá trình

CPH ở nước ta trong thời gian qua. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Cổ phần

hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế – thực trạng và giải pháp” cho khoá luận tốt nghiệp của mình nhằm

mục đích củng cố thêm hiểu biết và phần nào đóng góp được một số đề suất

để đẩy nhanh quá trình thực hiện tiến trình đổi mới DNNN của Đảng và Nhà

nước đã đề ra.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận tốt nghiệp gồm 3 chương:

Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về CPH DNNN

Chƣơng II: Thực trạng CPH các DNNN

Chƣơng III: Một số cơ chế giải pháp đẩy mạnh tiến trình CPH

Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này, em đã nhận được sự chỉ bảo

tận tình của giáo viên hướng dẫn cũng như các cán bộ tại Viện quản lý kinh tế

trung ương. Tuy nhiên, do lần đầu đi tìm kiếm tài liệu nghiên cứu, cũng như

các số liệu cập nhật, hơn nữa lại còn hạn chế về mặt kiến thức nên khoá luận

không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo và ý kiến

đóng góp bổ sung của giáo viên hướng dẫn cũng như các thầy cô trong khoa

để em có hiểu biết sâu hơn nữa kiến thức thực tế và có thể hoàn thiện khoá

luận tốt nghiệp của mình.

Em xin chân thành cám ơn cô Nguyễn Thị Tường Anh – giáo viên

hướng dẫn và các cô – Cán bộ làm việc tại Viện quản lý kinh tế trung ương đã

giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.

- 2 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN

HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC.

I. Những vấn đề về DNNN và công ty cổ phần.

1. Một số nét về DNNN.

DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ

chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện

các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. DNNN là bộ phận cấu thành quan

trọng nhất của nền kinh tế Nhà nước, quan trọng nhất nhưng không phải đồng

nhất và đồng nghĩa với kinh tế Nhà nước.

Trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, DNNN (trước đây gọi

là các xí nghiệp quốc doanh) chiếm vai trò độc tôn trong nền kinh tế. Đó là

các doanh nghiệp hoạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu đủ chi đủ. Về mặt sở

hữu. đó là những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn 100% và trực tiếp

quản lý.

Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc

chuyển đổi cơ chế quản lý đối với DNNN luôn là vấn đề trung tâm.

Theo luật DNNN ban hành ngày 30-3-1995, khái niệm DNNN đã được

đưa ra như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập

và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực

hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao, DNNN có tư cách pháp

nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt

động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý”.

Và theo luật doanh nghiệp 2005, khái niệm DNNN đã được sửa đổi lại

cho phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, và đặc biệt là trong tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế. Khái niệm DNNN đã được sửa đổi như sau:

“DNNN kà doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”.

- 3 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Thực chất DNNN là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn

toàn hay một phần. Quyền sở hữu thuộc về Nhà nước là đặc điểm phân biệt

DNNN với các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân, còn hoạt động kinh

doanh là đặc điểm để phân biệt chúng với các tổ chức và cơ quan khác của

Chính phủ.

DNNN được phân ra các loại khác nhau căn cứ xuất phát từ góc độ

hành chính, góc độ nguồn vốn, theo phương thức hoạt động (theo Quyết định

số: 58/2002/QĐ-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ)

Đối với DNNN:

A. Nhà nước nắm giữ 100% vốn đối với những DNNN hoạt động trong các

ngành, lĩnh vực sau:

1. DNNN hoạt động kinh doanh.

1.1. Những DNNN hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền

Nhà nước: Sản xuất, cung ứng vật liệu nổ; Sản xuất, cung ứng hoá chất độc;

Sản xuất, cung ứng chất phóng xạ; Hệ thống truyền tải điện quốc gia; Mạng

trục thông tin quốc gia và quốc tế; Sản xuất thuốc lá điếu.

1.2. Những DNNN hoạt động kinh doanh đáp ứng đủ các điều kiện

sau: vốn Nhà nước từ 20 tỷ đồng trở lên; mức thu nộp ngân sách Nhà nước

bình quân của 3 năm trước liền kề từ 3 tỷ đồng trở lên; đi đầu trong việc ứng

dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao; góp phần quan trọng ổn định kinh

tế vĩ mô và hoạt động trong những ngành, lĩnh vực sau: Sản xuất điện; Khai

thác các khoáng sản quan trọng: Dầu thô và khí tự nhiên; Than; Bô xít; Quặng

đồng; Quặng thiếc; Quặng có chất phóng xạ; Vàng; Đá quý…

1.3. Những DNNN hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu

cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào

nông thôn, đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.

1.4. Những DNNN hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù: Các

nhà xuất bản (trừ xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính trị, sách báo cho - 4 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

thiếu nhi, sách tiếng dân tộc); Xổ số kiến thiết; Một số DNNN hoạt động

trong những ngành quan trọng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

2. Những DNNN hoạt động công ích trong các lĩnh vực: In bạc và chứng

chỉ có giá; Điều hành bay; Bảo đảm hàng hải; Kiểm soát và phân phối tần số

vô tuyến điện; Sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho

quốc phòng, an ninh; Các doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc

phòng, an ninh đặc biệt và các doanh nghiệp đóng tại các địa bàn chiến lược

quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của Thủ tướng

Chính phủ…

B. Những DNNN tiến hành đa dạng hoá sở hữu dưới các hình thức: CPH,

giao doanh nghiệp cho tập thể người lao động hoặc bán doanh nghiệp.

1. Những DNNN khi CPH Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần

của doanh nghiệp.

1.1. DNNN hoạt động kinh doanh.

a) Những DNNN hoạt động kinh doanh có vốn Nhà nước từ 10 tỷ

đồng trở lên; mức thu nộp ngân sách Nhà nước bình quân của 3 năm trước

liền kề từ 1 tỷ đồng trở lên; hoạt động trong các ngành, lĩnh vực quy định tại

điểm 1.2 mục I.

b) Những DNNN hoạt động kinh doanh khác: Sản xuất đường, sữa,

dầu ăn thực vật; Kiểm định hàng hoá; In các loại (trừ in nhãn, mác, bao bì);

Dịch vụ hợp tác lao động; Kinh doanh mặt bằng hội chợ, triển lãm.

1.2. DNNN hoạt động công ích. Sản xuất giống gốc cây trồng, vật

nuôi và tinh đông; Dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ; Kiểm định kỹ thuật

phương tiện giao thông cơ giới; Quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ, đường

thuỷ; Quản lý, bảo trì bến tầu, bến xe quan trọng; Quản lý, khai thác các công

trình thuỷ nông.

2. Những DNNN hoạt động trong một số lĩnh vực quan trọng, khi tiến

hành CPH, Nhà nước không nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần của doanh - 5 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

nghiệp, nhưng sẽ nắm giữ cổ phần đặc biệt để quyết định một số vấn đề quan

trọng, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

3. Những DNNN không khác trên đây, khi tiến hành CPH, cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền căn cứ điều kiện cụ thể của doanh nghiệp quyết định Nhà

nước giữ cổ phần ở mức thấp hoặc không giữ cổ phần.

4. Những DNNN có vốn Nhà nước từ 5 tỷ đồng trở xuống, không CPH

được, thì thực hiện chuyển đổi sở hữu dưới hình thức giao doanh nghiệp cho

tập thể người lao động hoặc bán doanh nghiệp.

C. Những DNNN khác trên đây, hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài hoặc

hoạt động công ích không hoàn thành nhiệm vụ được giao, không thực hiện

được chuyển đổi sở hữu.

1. Những DNNN hoạt động kinh doanh.

a) Kinh doanh không có hiệu quả, thua lỗ hai năm liên tiếp nhưng

chưa đến mức phải giải thể, phá sản thì thực hiện biện pháp sáp nhập.

b) Kinh doanh thua lỗ ba năm liên tiếp và có số lỗ luỹ kế bằng 3/4 vốn

Nhà nước tại doanh nghiệp trở lên, nhưng chưa mất khả năng thanh toán nợ

đến hạn, tuy đã áp dụng các biện pháp tổ chức lại nhưng không thể khắc phục

được, thì thực hiện giải thể.

c) Kinh doanh bị thua lỗ hai năm liên tiếp, không có khả năng trả được

các khoản nợ đến hạn, thì thực hiện phá sản.

2. Những doanh nghiệp hoạt động công ích hai năm liên tiếp không hoàn

thành nhiệm vụ được giao, thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định

thực hiện sáp nhập, giải thể hoặc phá sản.

Tổng công ty Nhà nước (gồm Tổng công ty thành lập theo Quyết định

số 90/TTg và Quyết định số 91/TTg ngày 07 tháng 3 năm 1994 của Thủ

tướng Chính phủ).

Tổng công ty Nhà nước phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:

- 6 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

1. Thuộc các ngành, lĩnh vực : khai thác, chế biến dầu khí và kinh doanh

bán buôn xăng dầu; sản xuất và cung ứng điện; khai thác, chế biến, cung ứng

than, các khoáng sản quan trọng; luyện kim; cơ khí chế tạo; sản xuất xi măng;

bưu chính, viễn thông, điện tử; hàng không; hàng hải; đường sắt; hoá chất và

phân hoá học; sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực phẩm quan

trọng (dệt, giấy, muối, cà phê, cao su, chế biến gỗ, rượu, bia, thuốc lá); hoá

dược; xây dựng; kinh doanh bán buôn lương thực; ngân hàng; bảo hiểm.

2. Phải có vốn Nhà nước từ 500 tỷ đồng trở lên, đối với ngành đặc thù

theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ vốn Nhà nước có thể thấp hơn,

nhưng không dưới 100 tỷ đồng.

3. Mức thu nộp ngân sách Nhà nước bình quân của 3 năm trước liền kề

từ 50 tỷ đồng trở lên, đối với ngành đặc thù theo quyết định của Thủ tướng

Chính phủ không dưới 10 tỷ đồng.

4. Có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, chất lượng sản phẩm tốt,

hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh, có khả năng cạnh tranh trên thị

trường trong nước và quốc tế.

Những Tổng công ty Nhà nước không đáp ứng bốn điều kiện trên, sẽ

được sắp xếp lại theo hướng: sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể.

1.1 Quá trình hình thành và phát triển DNNN

Trước hết, do nhu cầu khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề

sau chiến tranh, các DNNN đã được lập ra nhằm thực hiện những dự án lớn

tái thiết đất nước, đòi hỏi vốn lớn mà lực lượng tư nhân không đảm trách nổi.

Thứ hai, đối với Việt Nam, sau khi giành được độc lập đã thực hiện

quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp của giai cấp tư bản. Thêm vào đó, thành

phần kinh tế quốc doanh được coi là thành phần kinh tế chính, do đó việc

quốc hữu hoá này nhằm để phát triển sở hữu công cộng.

Thứ ba, cùng với sự phát triển của học thuyết Keynes về vai trò kinh tế

của Nhà nước, nước ta đã chủ trương thành lập các DNNN để cung cấp hàng - 7 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

hoá công cộng, tạo việc làm, phân phối thu nhập, xóa bỏ độc quyền, thực hiện

công bằng xã hội cũng như tạo thực lực kinh tế mạnh để can thiệp thị trường,

điều tiết kinh tế vĩ mô. DNNN đượcgiao nhiệm vụ không chỉ đơn thuần về

mặt kinh tế mà còn các nhiệm vụ xã hội.

Thứ tư, với yêu cầu thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, đi tắt đón

đầu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, thì quá trình này đòi hỏi một lượng vốn

rất lớn và rủi ro cao khiến các doanh nghiệp tư nhân không thể hoặc không

muốn tham gia. Do đó, các DNNN đóng vai trò là các đầu tầu dẫn dắt nền

kinh tế.

Cuối cùng, nắm giữ các ngành công nghiệp đặc biệt để thực hiện các

mục tiêu hay lợi ích quốc gia là yêu cầu cần thiết để điều khiển nền kinh tế.

1.2 Vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế.

Kinh tế quốc doanh đóng vai trò một công cụ kinh tế, một lực lượng vật

chất trong tay Nhà nước để Nhà nước trực tiếp khống chế và điều tiết vĩ mô

nền kinh tế theo các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội. Mặt khác, kinh tế quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ các thành phần kinh tế

phát triển theo đúng định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và các mặt hoạt động

chính trị xã hội. Với 5700 “DNNN hiện nắm 60% tài sản sản xuất của đất

nước, tạo ra 30% GDP sử dụng 1,9 triệu lao động trên tổng số 38 triệu lao

động cả nước”. (Số liệu của ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp).

Hơn nữa, kinh tế quốc doanh có nhiệm vụ điều chỉnh, san lấp các lỗ

hổng do cơ chế thị trường, tạo ra các lĩnh vực cần thiết cho sự phát triển kinh

tế - xã hội, như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ

môi trường dù khả năng sinh lời thấp, không hấp dẫn khu vực tư nhân.

Xét về tiềm năng thì DNNN là rất to lớn và có vị trí rất quan trọng việc

phát triển kinh tế của đất nước. Bất cứ một tác động nào vào lực lượng này

- 8 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

cũng sẽ đem tới một tác động không nhỏ tới nền kinh tế chính trị- xã hội của

đất nước.

1.3 Thực trạng hoạt động của các DNNN

Trước đây, DNNN đã có một thời kỳ hoạt động khá hiệu quả cả về mặt

kinh tế và xã hội, đóng góp to lớn vào công cuộc công nghiệp hoá đất nước.

Tuy nhiên do cơ chế quản lý theo kiểu cấp phát, tập trung kéo dài đã làm triệt

tiêu động lực sản xuất kinh doanh, cho nên các DNNN sau đó cũng tỏ ra trì

trệ, kém hiệu quả, không cạnh tranh được trên thị trường quốc tế, mặc dù,

những doanh nghiệp này được ưu ái rất nhiều từ phía Nhà nước về các mặt:

vốn đầu tư, ưu đãi độc quyền, đơn hàng, trợ cấp...

Nhiều doanh nghiệp được thành lập ra không những không thực hiện

được mục tiêu của mình mà còn trở thành những “máy tiêu tiền” làm suy kiệt

nguồn ngân sách vốn hạn hẹp của Nhà nước.

Nhưng cũng phải nói thêm rằng, DNNN làm ăn kém hiệu quả không

hoàn toàn do các nhà quản lý kém năng lực kinh doanh (rất nhiều người trong

số họ là những nhà quản lý giỏi, được đào tạo cẩn thận). Những lý do cơ bản

của tình trạng đó như sau:

- Một là, các DNNN thường bị đòi hỏi đáp ứng quá nhiều mục tiêu, trong

đó có một số mục tiêu mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, các DNNN phải thu

được lợi nhuận tối đa trong khi lại phải đảm bảo việc làm cho một số

lượng nhân viên, thường vượt quá mức cần thiết. Hay việc phát triển

hoạt động kinh daonh thúc đẩy nền kinh tế phát triển lại phải kèm theo

những yeu cầu về công bằng xã hội tránh tình trạng phân cấp giàu nghèo,

và ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên. Việc có quá nhiều mục tiêu không

chỉ làm cho các nhà quản lý khó tập trung vào mục tiêu hiệu quả kinh

doanh mà còn tạo cái cớ cho các nhà quản lý lợi dụng để biện hộ cho các

hoạt động kém hiệu quả của DNNN.

- 9 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Hai là, các DNNN thường phải chịu áp lực quản lý hoặc điều tiết của

Chính phủ như giá bán hay nguồn cung cấp nguyên vật liệu. Họ không

được chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó, các

DNNN còn chịu sự chi phối của không chỉ một cơ quan chủ quản, mỗi

cơ quan lại có những yêu cầu riêng về quản lý. Để một quyết đinh kinh

doanh được thông qua có khi phải cần sự đồng ý của nhiều cơ quan quản

lý, cơ quan liên ngành, liên bộ. Ví dụ như, trong trước đây các DNNN

thường hoạt động theo khuynh hướng dây truyền, sẽ có một số công ty

chuyên sản xuất nguyên vật liệu, và một số công ty chuyên sản xuất

thành phẩm, việc Nhà nước hạn chế đầu vào của các doanh nghiệp khiến

cho nguồn nguyên vật liệu hạn hẹp, cộng thêm chỉ có một số nhà cung

cấp nên sản phẩm có tính cạnh tranh rất thấp. Thêm nữa việc điều tiết giá

đầu ra của Chính phủ khiến cho các doanh nghiệp không những gặp khó

khăn trong việc phát triển mà còn sản phẩm của họ sẽ không có đủ tính

cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Ba là, các nhà quản lý DNNN không có một cơ chế khuyến khích làm -

việc. Việc không có một cơ chế rõ ràng nào về thưởng phạt có liên quan

đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các phần thưởng nếu có chỉ

mang tính hình thức. Ngay cả khi chúng ta muốn khuyến khích DNNN

bằng tiền cũng rất khó do mức lương của các công chức Nhà nước là cố

định và một sự khen thưởng như vậy rất có thể gây ra sự phản ứng từ

công chúng và các doanh nghiệp khác. Các nhà lãnh đạo DNNN cũng ít

khi bị trừng phạt như sa thải hay giảm lương một khi doanh nghiệp thua

lỗ.

Mặc dù làm ăn kém hiệu quả, sự tồn tại của DNNN là không thể thiếu

được ở Việt Nam, nhưng cũng không thể để kéo dài tình trạng hoạt động kém

hiệu quả hiện nay của chúng.

Cụ thể trong thời gian qua tại các DNNN ở Việt Nam:

- 10 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Về hiệu quả kinh doanh. Mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía

Nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng

các DNNN vẫn chưa chứng tỏ được tính hiệu quả của mình so với khu

vực tư nhân. Theo đánh giá của ban đổi mới doanh nghiệp Trung ương

(02/2002): số DNNN có lãi chiếm khoảng 40%, số DNNN bị lỗ chiếm

khoảng 20% (nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh

nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn), số DNNN còn lại nằm trong tình

trạng không ổn định, khi lỗ, khi lãi và lãi cũng không lớn. Tốc độ tăng

trưởng bình quân của DNNN: sau một thời gian dài đạt liên tục

13%/năm, đến năm 1998, 1999 tốc độ tăng trưởng chỉ còn 8-9%. Hiệu

quả sử dụng vốn giảm rõ rệt. Công nợ trong DNNN tính đến năm 1999

là quá lớn: nợ phải thu chiếm tới trên 60% và nợ phải trả bằng 124% vốn

Nhà nước trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ nợ quá hạn, khó đòi chiếm

tỷ lệ lớn. Do tình hình tài chính như vậy, Nhà nước đã phải thường

xuyên hỗ trợ cho DNNN, miễn giảm thuế, xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ,

cho vay vốn tín dụng ưu đãi. Nhưng đáng chú ý là việc hỗ trợ này không

mang lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân sách Nhà nước ít hơn

phần Nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp.

- Về khả năng cạnh tranh. Các DNNN ta rất yếu kém về khả năng cạnh

tranh. Có nhiều ngành, sản phẩm của DNNN phải bảo hộ tuyệt đối (ưu

đãi độc quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi

tín dụng và bù lỗ, miễn thuế...) nhưng các doanh nghiệp vẫn không

chứng tỏ được khả năng cạnh tranh của mình. Theo một số số liệu

nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2000 cho thấy, các

mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ điện gia dụng, kính xây dựng,

sứ xây dựng, xe đạp, động cơ nổ…đều được bảo hộ bằng cả công cụ

thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá trên thị trường Việt Nam cao hơn

quốc tế 10-50% tuỳ từng mặt hàng vào thời điểm đó. Khả năng cạnh

- 11 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

tranh kém của các DNNN thể hiện ngay trên thị trường nội địa: ở những

ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của các DNNN có xu hướng giảm

sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực tư nhân, ví dụ

như ngành du lịch là một điển hình. Khả năng cạnh tranh kém của các

DNNN trong điều kiện Việt Nam đang thực hiện các cam kết hội nhập

quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình Nhà nươcsẽ phải chịu chi phí rất

lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các DNNN.

- Về cơ cấu DNNN. Khu vực DNNN có cơ cấu còn bất hợp lý. Cơ cấu

ngành, vùng, quy mô còn bất hợp lý đều chưa được chuyển dịch theo

hướng sắp xếp lại. Trước hết, tỷ trọng DNNN (xét về số lượng) ở khu

vực nông nghiệp (25%) và thương mại, dịch vụ (40%) là quá lớn trong

khi một cơ cấu hợp lý đòi hỏi DNNN chủ yếu phải tập trung vào lĩnh

vực công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo. Cơ cấu cấp

quản lý cũng là bất hợp lý ở chỗ tỷ trọng doanh nghiệp thuộc địa phương

quản lớn. Về quy mô, tính đến năm 1999, doanh nghiệp có quy mô dưới

5 tỷ đồng chiếm 65%, trong đó gần 3/4 là doanh nghiệp địa phương, còn

có tới 23% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng. Số doanh nghiệp có vốn

trên 10 tỷ đồng chiếm 21%. (theo số liệu kinh tế Việt Nam trong những

năm đổi mới, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2001). Với một cơ cấu bất hợp lý

như nêu trên DNNN khó có thể thực hiện đầy đủ các chức năng và

kỳvọng về vai trò mà Đảng và Nhà nước mong đợi.

2. Một số nét về công ty cổ phần

2.1 Công ty cổ phần và đặc điểm của công ty cổ phần.

2.1.1 Công ty cổ phần

Quá trình CPH về thực chất là một quá trình chuyển đổi sở hữu từ một

chủ sở hữu thành nhiều chủ sở hữu (Cổ đông). CPH nói chung có thể diễn ra

tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh

và tại các DNNN. CPH là quá trình đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp. - 12 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Trong điều kiện ở DNNN thì CPH là quá trình chuyển một phần tài sản

chung của xã hội thành tài sản của cá nhân. Thực hiện CPH tạo ra khả năng

đa dạng hoá sở hữu trong Doanh nghiệp, thu hút các nguồn vốn trong nước và

ngoài nước vào việc trang bị lại kỹ thuật, đổi mới công nghệ, mở rộng sản

xuất, đồng thời tạo ra sự thay đổi cơ bản về phương thức quản lý Doanh

nghiệp. Nhờ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp

cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Công ty cổ phần là công ty mà trong đó vốn điều lệ được chia thành các

phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông.

Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác

của công ty trong phạm vi số cổ phần mà họ đã mua của công ty.

2.1.2 Đặc điểm của công ty cổ phần:

- Về mặt pháp lý:

Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà

vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Các cổ

đông là người cấp vốn cho Công ty - chỉ có trách nhiệm với cam kết tài chính

của Công ty trong giới hạn với số tiền mà họ đóng góp dưới hình thức cổ

phiếu, nghĩa là các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty

trong số tiền mà họ đã bỏ ra. Do đó, chế độ chịu trách nhiệm của Công ty cổ

phần là chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn, nhờ đặc điểm này nó khắc phục

được những trở ngại quan trọng là mạo hiểm đầu tư kinh doanh. Trong lúc

các hình thái doanh nghiệp khác không dám mạo hiểm thực hiện các dự án

kinh doanh có quy mô lớn, bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu, công ty

đã thu hút được nhiều vốn đầu tư mà không làm cho Chủ đầu tư e ngại về rủi

ro đối với toàn bộ tài sản của mình. Hơn nữa nó cho phép khắc phục phần lớn

trở ngại của hình thức doanh ngiệp chung vốn, nó tạo cho doanh nghiệp một

hình thái pháp lý để huy động vốn dư thừa trong xã hội.

- Về mặt tài chính:

- 13 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Đặc trưng cơ bản có tính quyết định để phân biệt Công ty cổ phần với

các hình thức tổ chức kinh tế khác là vốn của Công ty được chia thành nhiều

phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ

phiếu. Cổ phần là phần vốn cơ bản của Công ty, cổ phần chứng minh tư cách

thành viên của các cổ đông, cổ phần được biểu hiện về hình thức bằng cổ

phiếu. Đặc điểm tài chính của Công ty cổ phần còn thể hiện ở huy động vốn

để tăng cường nguồn vốn kinh doanh của công ty, ngoài cách huy động vốn

thuần tuý mà các doanh nghiệp khác vẫn làm, Công ty cổ phần còn tăng vốn

bằng cách phát hành cổ phiếu. Cách thu gom vốn tạo khả năng cho Công ty

huy động nguồn vốn lớn và nhanh hơn nhiều so với việc tích tụ vốn từ lợi

nhuận không chia.

Chính sách lợi tức cổ phần cũng là một đặc trưng trong hoạt động tài

chính của Công ty. Việc lựa chọn chính sách lợi tức cổ phần có ảnh hưởng rất

lớn đến sự tồn tại và phát triển của Công ty. Khả năng đầu tư và khả năng

tăng trưởng phụ thuộc vào quy mô lợi nhuận để lại sau khi chia và đặc biệt là

khả năng huy động vốn trên thị trường vốn, việc tăng vốn tự tích luỹ từ lợi

nhuận cũng làm tăng giá trị của Công ty.

- Về mặt sở hữu:

Công ty cổ phần đã thực hiện việc tách quan hệ sở hữu ra khỏi quyền

quản lý và sử dụng, tạo ra một hình thức xã hội sở hữu của đông đảo công

chúng ở một bên, còn bên kia là tầng lớp những nhà quản trị kinh doanh sử

dụng vốn cho các hoạt động kinh doanh. Những ngươi đóng vai trò chủ sở

hữu của Công ty cổ phần thường không trực tiếp đứng ra kinh doanh mà uỷ

thác chức năng đó cho bộ máy quản lý của Công ty. Bản thân công ty được

pháp luật thừa nhận như một pháp nhân được lập tách rời khỏi cá nhân góp

vốn và kiểm soát. Nhờ đó công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh dưới

danh nghĩa của chính mình và nhận trách nhiệm đến cùng với cam kết tài

- 14 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

chính của công ty. Chủ sở hữu chỉ thực hiện quyền sở hữu của mình trên các

phương diện sau:

o Thu lợi tức cổ phần trên cơ sở hoạt động của Công ty.

o Tham gia Đại hội cổ đông để quyết định những vấn đề có tính chất

chiến lược của công ty như: Thông qua điều lệ, phương án xây

dựng và phát triển của công ty, quyết toán tài chính, bầu hoặc bãi

miễn thành viên của Hội đồng quản trị và các kiểm soát viên.

o Mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.

Với số lượng cổ đông đông đảo và số lượng vốn rất lớn, Công ty cổ

phần đã hạn chế được sự lũng đoạn của một vài cá nhân. Đối với những công

ty có nhiều cổ đông sẽ làm cho khả năng chi phối của một vài cá nhân là khó

có thể xảy ra. Bởi vì, muốn chi phối được Công ty đòi hỏi phải có nguồn tài

chính lớn (Chiếm từ 50% cổ phần trở lên). Điều này rất khó đối với mỗi

cá nhân, mặt khác khi góp lượng vốn lớn thì mức độ rủi ro cũng tăng lên một

cách tương ứng, nên thực tế cho thấy chỉ có Nhà nước mới có khả năng thực

hiện sự chi phối này nếu thực sự thấy cần thiết.

- Về mặt tổ chức:

Công ty cổ phần phản ánh rõ đặc điểm về sự phân định giữa quyền sở

hữu và quyền quản lý kinh doanh. Do tính chất nhiều chủ sở hữu nên các cổ

đông không thể thực hiện trực tiếp vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông

qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty. Như vậy việc

quản lý điều hành công ty cổ phần được đặt dưới quyền bốn cấp:

o Đại hội cổ đông hoặc Đại hội đại biểu cổ đông

o Hội đồng quản trị

o Giám đốc điều hành

o Các kiểm soát viên hoạt động theo luật công ty.

- 15 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

-

Sơ đồ quản lý điều hành của công ty cổ phần

Đại hội cổ đông hoặc Đại hội đại biểu cổ đông

Hội đồng quản trị

Ban kiểm soát

Giám đốc điều hành

Công ty cổ phần

- - Về tính dân chủ:

Trong quản lý thì công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tính

dân chủ cao: số lượng cổ đông trong công ty thường rất đông nên cơ cấu tổ

chức và chức năng của từng bộ phận phải đảm bảo được vai trò chủ sở hữu

đồng thời đảm bảo cho công ty hoạt động có hiệu quả.

Tính dân chủ còn được thể hiện thông qua các Đại hội cổ đông, đó là:

Đại hội đồng là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Công ty gồm tất cả các

cổ đông, cổ đông có thể tham gia trực tiếp Đại hội đồng công ty, Đại hội đồng

là cơ quan tập thể chỉ tồn tại trong thòi gian họp, chỉ ra quyết định khi được

các cổ đông thảo luận và biểu quyết tán thành.

2.1.3 Các loại cổ phần trong công ty cổ phần:

- 16 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Cổ phần phổ thông.

Cổ phần phổ thông: là loại cổ phần bắt buộc phải có. Người sở hữu cổ

phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông có thể tham dự

để biểu quyết tất cả các vấn đề của Đại hội đồng cổ đông và mỗi cổ đông phổ

thông là một phiếu biểu quyết và được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán

tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty.

Cổ đông hoặc nhóm cổ đông mà sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông

trong thời hạn liên tục, ít nhất là 6 tháng, thì có quyền đề cử người vào hội

đồng quản trị và ban kiểm soát ( nếu có ), có quyền yêu cầu triệu tập Đại hội

đồng cổ đông, xem và nhận bản sao trích lục danh sách cổ đông, có quyền dự

họp Đại hội đồng cổ đông.

- Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập.

Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập: Trong vòng 3 năm đầu kể từ

khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì cổ đông sáng lập phải

cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán.

Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập chỉ có thể được chuyển

nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự đồng ý của

Đại hội đồng cổ đông. Cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần thì không

được quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng đó. Sau thời hạn 3 năm thì các

hạn chế trên đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập sẽ được bãi bỏ.

- Cổ phần ưu đãi biểu quyết.

Cổ phần ưu đãi biểu quyết: đây là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều

hơn so với cổ phần phổ thông, nó không hạn chế mức tối đa và số phiếu biểu

quyết cụ thể của một cổ phần ưu đãi biểu quyết thì do điều lệ của công ty quy

định.

Chỉ có những tổ chức do Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập

được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết.

- 17 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Cổ phần ưu đãi biểu quyết chỉ có hiệu lực trong 3 năm kể từ ngày đăng

ký được biểu quyết. Sau thời hạn 3 năm thì cổ phần đó trở thành cổ phần phổ

thông bình thường.

Trong trường hợp công ty cổ phần được chuyển đổi từ DNNN thì số cổ

phần ưu đãi biểu quyết tổ chức được quyền nắm giữ sẽ do Thủ tướng Chính

phủ quyết định và chỉ được sử dụng với các doanh nghiệp hoạt động trong các

ngành nghề:

o Tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ tài chính khác.

o Bưu chính viễn thông

o Vận tải hàng không

o Các ngành nghề khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ

- Cổ phần ưu đãi cổ tức.

Cổ phần ưu đãi cổ tức: là loại cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn

so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc trả mức ổn định hàng năm.

Người được nhận cổ phần ưu đãi cổ tức là những người không có quyền biểu

quyết.

- Cổ phần ưu đãi hoàn lại.

Cổ phần ưu đãi hoàn lại: là loại cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn

góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện

được ghi tại cổ phiếu. Người được hưởng cổ phần này cũng không có quyền

biểu quyết.

2.2 Cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành công ty cổ phần

Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần bao gồm:

2.2.1 Đại hội đồng cổ đông.

Gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết ( cổ đông phổ thông, cổ

đông sáng lập, cổ đông có cổ phần ưu đãi biểu quyết ). Đó là cơ quan cao nhất

của công ty, liên quan đến sự tồn tại và phát triển của công ty cổ phần.

- 18 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Đại hội đồng cổ đông họp ít nhất mỗi năm một lần do Hội đồng quản

trị hoặc theo yêu cầu của Ban kiểm soát hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10%

số cổ phần phổ thông liên tục ít nhất là 6 tháng triệu tập.

Cổ đông có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền bằng văn bản cho người khác đi

dự phiên họp của Đại hội đồng cổ đông. Cổ đông cũng có thể gửi phiếu biểu

quyết có niêm phong đến công ty trước giờ khai mạc Đại hội đồng cổ đông và

cũng được coi là dự họp Đại hội đồng cổ đông.

Cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông sẽ được tiến hành khi số cổ đông

dự họp đại diện cho ít nhất là 51% số cổ phần có quyền biểu quyết ( trừ

trường hợp điều lệ của công ty cổ phần có quy định khác ). Và nếu không

thành ( không đủ 51% ) thì trong vòng 30 ngày phải triệu tập lần thứ 2, phải

có ít nhất là 30% số cổ phần có quyền biểu quyết và nếu lần thứ 2 cũng không

thành thì phải triệu tập lần thứ 3 trong vòng 20 ngày và không cần tỷ lệ nữa.

Đại hội đồng cổ đông thông qua các quyết định thuộc thẩm quyền bằng

cách biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản. Riêng đối với việc

quyết định các loại cổ phần, số lượng cổ phần được quyền chào bán của từng

loại, sửa đổi, bổ sung điều lệ của công ty, tổ chức lại, giải thể công ty hoặc

bán hơn 50% tổng giá trị tài sản ghi trong sổ kế toán thì phải được số cổ đông

đại diện cho ít nhất là 65% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận.

Điều 79 Luật doanh nghiệp quy định về việc yêu cầu huỷ bỏ các quyết

định của Đại hội đồng cổ đông như sau : Trong vòng 90 ngày kể từ ngày

quyết định được thông qua, những người có thể yêu cầu huỷ bỏ các quyết

định của Đại hội đồng cổ đông bao gồm cổ đông, thành viên hội đồng quản

trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc, ban kiểm soát. Những người này có quyền

yêu cầu toà án cấp tỉnh xem xét huỷ bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông

trong 2 trường hợp sau:

- Trình tự và thủ tục triệu tập Đại hội đồng cổ đông không đúng luật và

điều lệ của công ty

- 19 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Nội dung quyết định vi phạm các quy định của pháp luật hoặc điều lệ của

công ty

2.2.2 Hội đồng quản trị.

Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty và có toàn quyền nhân

danh công ty quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của

công ty trừ những thẩm quyền do Đại hội đồng cổ đông quy định. Thành viên

của Hội đồng quản trị không quá 11 người và do Đại hội đồng cổ đông bầu ra,

chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông.

Hội đồng quản trị họp mỗi quý 1 lần, làm việc theo chế độ tập thể và

quyết định theo đa số, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc biểu quyết tại cuộc họp.

Mỗi thành viên thuộc Hội đồng quản trị là 1 phiếu biểu quyết và tiến hành

họp Hội đồng quản trị khi có trên 2/3 số thành viên của Hội đồng quản trị dự

họp.

2.2.3 Giám đốc hoặc tồng giám đốc.

Giám đốc là người điều hành hoạt động hàng ngày ở công ty do Hội

đồng quản trị bầu ra trong số các thành viên của Hội đồng quản trị. Giám đốc

là người chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện quyền và

nghĩa vụ được giao, là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nếu

không có quy định khác theo điều lệ của công ty.

2.2.4 Ban kiểm soát

Do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, bao gồm từ 3 đến 5 thành viên, trong

đó có ít nhất 1 thành viên có nghiệp vụ kế toán.

Ban kiểm soát có nhiệm vụ giúp Đại hội đồng cổ đông kiểm soát hoạt

động điều hành của Hội đồng quản trị, của giám đốc hoặc tổng giám đốc và

những người quản lý công ty.

2.3 Ƣu điểm và những nhƣợc điểm của công ty cổ phần.

- Ưu điểm:

- 20 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

o Quy mô sản xuất có khả năng được mở rộng to lớn và nhanh

chóng. Hơn nữa việc huy động vốn của CTCP nhanh chóng hơn.

o CTCP có thời gian tồn tại là vô hạn. Các cổ phiếu có thể được tự

do mua bán trên thị trường chứng khoán và được quyền thừa kế.

o Trong CTCP, chức năng của vốn tách rời quyền sở hữu của nó

cho phép sử dụng các nhà quản lý chuyên nghiệp giỏi

- Nhược điểm:

o Mức tham gia góp vốn vào công ty khác nhau, dễ dẫn đến việc lợi

dụng và lạm dụng hoặc nảy sinh tranh chấp và phân hoá lợi ích

giữa các nhóm cổ đông.

o Quyền kiểm soát công ty trên thực tế vẫn thuộc quyền của các cổ

đông lớn cho dù họ không có hiểu biết gì về công việc kinh doanh.

II. Những vấn đề chung về CPH DNNN ở Việt Nam

1.

Bản chất CPH DNNN

Sự ra đời của các DNNN là một sản phẩm tất yếu của mọi quốc gia,

không phân biệt chế độ chính trị. Các DNNN ra đời theo những giai đoạn lịch

sử khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia song nó đều

mang một ý nghĩa chung, đó là DNNN được lập ra nhằm tăng nguồn thu ngân

sách phục vụ cho lợi ích chung của xã hội. Tuy nhiên, DNNN không phải là

sản phẩm độc quyền của một quốc gia nào. Để huy động được một cách tốt

nhất nguồn vốn xã hội, đồng thời giảm đến mức ít nhất nguồn vốn đầu tư của

Nhà nước mà lại thu được nhiều thuế nhất và vẫn đảm bảo phát triển đất nước

đòi hỏi Nhà nước cần phải thực hiện lộ trình tư nhân hoá, chuyển giao các

DNNN cho nhân dân, từng bước thoát khỏi vị trí là nhà đầu tư.

Như vậy, Nhà nước cần tiến hành xã hội hoá đầu tư, xây dựng môi

trường đầu tư lành mạnh để mọi công dân đều có cơ hội đầu tư bình đẳng như

nhau, tạo điều kiện để mọi công dân đều có cơ hội thành lập doanh nghiệp,

- 21 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

tạo việc làm cho xã hội. Việc xã hội hoá đầu tư chính là cách khai thác một

cách hiệu quả và hợp lý kho tàng chất xám của nhân dân.

Công cuộc xã hội hóa đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải thoát khỏi vai trò là

nhà kinh doanh thông qua con đường chuyển đổi sở hữu các DNNN cho các

cá nhân và tổ chức dân doanh. Quá trình này các nước gọi là tư nhân hoá còn

nước ta gọi là CPH. Như vậy, CPH DNNN chính là một hình thức cụ thể của

tiến trình xã hội hoá đầu tư. Nhờ sự xuất hiện của công ty cổ phần mà vốn

được tập trung nhanh chóng. Thực hiện tốt CPH DNNN sẽ làm tăng sức mạnh

của kinh tế Nhà nước, làm chỗ dựa cho Nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô.

Mặt khác, nó cũng là một giải pháp để tăng tính năng động trong kinh doanh

và phát huy tính tích cực, tự chủ của doanh nghiệp.

Khái niệm CPH thực ra còn tiểm ẩn vai trò đầu tư của Nhà nước, ngay

cả khi đã chuyển DNNN thành công ty cổ phần thì Nhà nước vẫn có thể nắm

giữ các phần vốn nhất định, thậm chí là chi phối các công ty cổ phần. Như

vậy, số vốn của Nhà nước vẫn chưa được giải phóng một cách triệt để và Nhà

nước vẫn là một nhà đầu tư thực thụ. Với lập luận này thì ngay cả khi DNNN

kinh doanh rất có hiệu quả thì Nhà nước vẫn bán các doanh nghiệp của mình

để thu tiền về cho ngân sách, đồng thời để làm những việc dân không làm

được hoặc không muốn làm vì không có lời, nhưng vì lợi ích xã hội Nhà nước

vẫn phải đầu tư. Ví dụ như: các công ty Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực

công ích như thắp sáng đô thị, vệ sinh môi trường,… Như vậy, Nhà nước sẽ

chỉ đầu tư vào các lĩnh vực công cộng phục vụ cộng đồng, Nhà nước không

còn vai trò là nhà kinh doanh mà chỉ tập trung nhân tài vật lực vào việc

nghiên cứu chính sách pháp luật, giữ gìn trật tự an ninh quốc gia. Với cách

hiểu này, có thể coi CPH DNNN là một hình thức cải cách DNNN.

Ở nước ta, phần lớn các DNNN được hình thành do ý chí chủ quan

của các cơ quan Nhà nước chứ không phải do yêu cầu khách quan của trình

độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự - 22 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

hoạt động kém hiệu quả của hầu hết các doanh nghiệp ấy. Do vậy, việc CPH

DNNN hiện đang là một trong những vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta đặc

biệt quan tâm. CPH DNNN ở nước ta là quá trình chuyển sang một hình thức

quản lý hiện đại hơn, bên cạnh vai trò chi phối của Nhà nước, có sự tham gia

của các thành phần khác. Đảng và Nhà nước ta khẳng định CPH không phải

là tư nhân hoá vì CPH hướng tới tháo gỡ khó khăn về vốn, về cơ chế cho

DNNN hiện có, không nhằm thu hẹp sở hữu Nhà nước trong nền kinh tế quốc

dân. Từ năm 1992 đến nay, quan điểm của Đảng ta về CPH DNNN ngày càng

sáng tỏ, ngày càng phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa.

2. Vai trò của việc CPH DNNN đối với quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế

Thực hiện chủ trương đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập

trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà

nước ta đã xác định CPH DNNN là một nội dung đặc biệt quan trọng trong

tiến trình đổi mới và phát triển hệ thống DNNN. Mục tiêu của chương trình

CPH là đa dạng hoá sở hữu đối với các doanh nghiệp, nhằm huy động thêm

vốn và kinh nghiệm của toàn xã hội vào phát triển sản xuất - kinh doanh, tạo

động lực mới và phát huy quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó

nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Mục tiêu này cho thấy

CPH DNNN có vai trò rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của đất nước.

2.1 CPH góp phần xây dựng một Nhà nƣớc mạnh

CPH là con đường để tạo nên hiệu quả cho đầu tư xã hội, vì thực hiện

CPH tạo ra những lợi ích to lớn cho Nhà nước, cụ thể là:

- Nhà nước sẽ thu được tiền từ việc bán cổ phần, số tiền này có thể dùng để

đầu tư vào xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ dân sinh.

- 23 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Nhà nước không phải lo quản lý doanh nghiệp, giảm số tiền cấp vốn lưu

động hàng năm, giảm số người quản lý và các bộ máy quản lý đại diện

chủ sở hữu, có điều kiện tập trung xây dựng chính sách phát triển kinh tế.

Ví dụ như: trước đây, để quản lý các doanh nghiệp trực thuộc Bộ, ngành

của Nhà nước, thì Nhà nước không những phải chỉ định người quản lý

cho công ty mà còn phải hình thành các ban điều hành từ trên cơ quan

của Bộ để điều hành quản lý công ty. Giờ đây, bộ máy quản lý của công

ty thay đổi và về phía Nhà nước hầu như chỉ nắm vào phần quản lý vốn

góp và điều hành những chính sách phát triển đi theo định hướng phát

triển chung của nền kinh tế.

- Tạo điều kiện xã hội hoá đầu tư, phát triển dân trí.

- Tạo ra nguồn thu ngân sách nhiều hơn. Điều này có thể hiểu rằng, sau khi

các công ty được cổ phần, vì không dựa vào Nhà nước, khiến cho các

công ty cổ phần có điều kiện phát triển tạo ra nhiều lợi nhuận trên phần

vốn của Nhà nước góp phần tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhiều hơn.

Ví dụ như công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Khánh Hội (tiền thân là

DNNN được thành lập năm 1982 với tên gọi ban đầu là công ty Cung

ứng Hàng Xuất khẩu Quận 4.) có mức tăng trưởng lợi nhuận trung bình

hàng năm (từ 2001 đến năm 2005) là 37,97%; Hay công ty cổ xây lắp

bưu điện Hà Nội cũng xuất phát từ DNNN sau khi được CPH và niêm yết

trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh như công ty Cổ

phần xuất nhập khẩu Khánh Hội thì tăng trưởng lợi nhuận hàng năm của

công ty (từ năm 2001 đến năm 2005) là 19,42 %; Với mức tăng trưởng

lợi nhuận như vậy thì rõ ràng nguồn thu của ngân sách Nhà nước hàng năm được thấy rõ ràng.1

1 số liệu dựa trên phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp do công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu cung cấp trên trang web www.acbs.com.vn - 24 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Doanh nghiệp không giảm đi, ngược lại sẽ tăng thêm, Nhà nước sẽ thu

được nhiều thuế hơn. Việc các DNNN làm ăn kém hiệu quả có thể dẫn

tới việc thua lô và phải giải thể hoặc sáp nhập. Nhưng khi CPH, không

những các DNNN này làm ăn hiệu quả hơn mà Nhà nước lại có điều kiện

để góp vốn hình thành nên các công ty cổ phần khác tạo điều kiện tăng

thu về thuế.

- Giảm thiểu tối đa điều kiện tham nhũng của bộ máy công chức, tránh

được lãng phí trong đầu tư.

- Tạo được sự minh bạch về sở hữu, cân bằng lợi ích, tạo động lực thúc

đẩy xã hội phát triển.

Như vậy, CPH triệt để sẽ tạo nên những nguồn lực mới cho xã hội, thực

hiện được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh”, phát triển kinh tế quốc dân.

2.2 CPH góp phần tăng cƣờng hiệu quả đầu tƣ của toàn xã hội.

DNNN kinh doanh không hiệu quả sẽ làm lãng phí, thất thoát nguồn

lực quốc gia. Khi Nhà nước cấm dân kinh doanh thì DNNN không có đối thủ

cạnh tranh, hình thành cơ chế sản xuất quan liêu bao cấp. Thực tế ở nước ta

cho thấy phần lớn các DNNN hoạt động không hiệu quả. Nguyên nhân chính

của vấn đề này là do sự không minh bạch về sở hữu. Chính sự tù mù về sở

hữu đã làm triệt tiêu động lực của mọi người, làm tăng các chi phí để nuôi bộ

máy đại diện sở hữu cồng kềnh và hệ thống các cá nhân có liên quan tới họ.

Tiến hành cổ phần hóa sẽ giải quyết được vấn đề về sở hữu, từ đó làm tăng

hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, góp phần tăng cường hiệu quả đầu tư

của toàn xã hội.

- 25 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

2.3 CPH tác động tới sự tăng trƣởng của đất nƣớc

Thực tế ở nước ta cho thấy tăng trưởng của khu vực kinh tế Nhà nước

là một yếu tố quyết định trực tiếp đến sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.

Tuy nhiên, phần lớn các DNNN lại hoạt động không hiệu quả. Vì vậy, muốn

đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững thì cần phải cơ cấu lại

thành phần kinh tế này thông qua thực hiện CPH DNNN. Vai trò của việc

CPH đối với sự tăng trưởng kinh tế được biểu hiện cụ thể như sau:

- CPH làm giảm số lượng các Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, do đó sẽ

giảm bớt được một khoản bổ sung vốn từ ngân sách cho những doanh

nghiệp này để dành đầu tư vào những nhu cầu phát triển khác.

- Thông qua CPH, Nhà nước thu được một phần giá trị tài sản Nhà nước

trước đây giao cho doanh nghiệp quản lý nhưng sử dụng kém hiệu quả.

Khoản tiền này sẽ được đầu tư trở lại để phát triển doanh nghiệp, làm

tăng thêm phần giá trị tài sản còn lại của Nhà nước tại các doanh nghiệp

đó, bảo đảm quyền lợi cho các cổ đông khác, cho người lao động cũng

như giải quyết các vấn đề phát sinh từ quá trình CPH.

- Việc giảm đầu mối DNNN sẽ làm giảm nhu cầu hỗ trợ và ưu đãi tín dụng

của Nhà nước. Điều này sẽ làm giảm bớt áp lực vay vốn lên các Ngân

hàng thương mại quốc doanh và các Quỹ tín dụng Nhà nước. Thực trạng

tài chính của các ngân hàng này được lành mạnh hoá và cơ hội để các

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tiếp cận các nguồn vốn

vay sẽ mang tính bình đẳng và thị trường hơn.

- Sự tồn tại của các công ty cổ phần với cơ chế lưu chuyển cổ phần thông

qua thị trường chứng khoán tạo ra quá trình luân chuyển vốn từ nơi

không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao hơn. Toàn

bộ các nguồn lực xã hội nằm trong các công ty cổ phần sẽ được sử dụng

có hiệu quả hơn.

- 26 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Nếu biết tận dụng những lợi thế sẵn có của mình và những hỗ trợ ban đầu

về cơ chế, chính sách của Nhà nước thì các công ty cổ phần có khả năng

nhanh chóng vươn lên khẳng định vị thế và chiếm lĩnh thị trường. Điều

này sẽ tạo áp lực cạnh tranh mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp khác

trong nền kinh tế, từ đó tạo thành một vòng xoáy thúc đẩy sự tăng trưởng

của toàn bộ nền kinh tế.

2.4 CPH tác động đến đời sống kinh tế của ngƣời lao động

CPH làm cho sở hữu doanh nghiệp đa dạng hơn, vì vậy tạo cho những

người lao động cơ hội thực sự làm chủ doanh nghiệp. Bằng việc sở hữu các

cổ phần trong doanh nghiệp, người lao động có thể tham gia vào việc quyết

định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa rất lớn

trong việc nâng cao tính chủ động, tích cực của người lao động không chỉ đối

với các vấn đề của doanh nghiệp, mà cả đối với các vấn đề kinh tế - chính trị -

xã hội đất nước.

2.5 CPH đẩy lùi vấn đề tham nhũng

Ở nước ta hiện nay, tham nhũng đang là một vấn đề lớn của xã hội.

Tình trạng này đang là một trở lực lớn cho sự phát triển bền vững của đất

nước. Một trong những nguyên nhân quan trọng của nạn tham nhũng là do cơ

chế quản lý của Nhà nước còn nhiều bất hợp lý, nhiều thủ tục hành chính

phiền hà còn chưa được dỡ bỏ, quyền tự do dân chủ của công dân có lúc, có

nơi còn chưa được tôn trọng thực sự. Hơn nữa, sự thiếu minh bạch trong hoạt

động quản lý tạo điều kiện thuận lợi cho những người thực thi quyền Nhà

nước lợi dụng.

CPH DNNN ở nước ta có tác dụng rất lớn trong việc đẩy lùi tình trạng

lãng phí, tham nhũng đang khá phổ biến trong DNNN và những cơ quan quản

lý chúng. Sự bao cấp của Nhà nước đối với nhiều doanh nghiệp, cơ chế xin -

cho là mảnh đất tốt lành cho những hành động lãng phí, tham nhũng. CPH tạo

ra sự giám sát chặt chẽ của chủ sở hữu (cổ đông) đối với giám đốc và cán bộ - 27 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

quản lý DNNN. Điều này có nghĩa là giám đốc, các nhân viên quản lý không

dễ dàng thực hiện hành vi vụ lợi như khi DNNN đang hoàn toàn thuộc sở hữu

của Nhà nước.

3 Tính tất yếu của CPH ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế.

Thứ nhất, Vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nước và hạn chế sự can thiệp trực

tiếp của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,

phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp,

coi trọng hơn vai trò điều tiết của cơ chế thị trường.

Thứ hai, Xuất phát từ mục tiêu kinh doanh của các doanh nghiệp trong

điều kiên kinh tế thị trường phải thu được nhiều lợi nhuận. Những doanh

nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, muốn chiếm ưu thế để tồn tại và phát triển,

cạnh tranh trong cơ chế thị trường cũng như trong điều kiện mở cửa nền kinh

tế phải cùng nhau góp vốn tạo ra doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Vì với quy

mô lớn hơn, doanh nghiệp mới có ưu thế để tiến hành đổi mới quy trình công

nghệ, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến

vào sản xuất và quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản

phẩm, bảo đảm kinh doanh có lãi trong cơ chế thị trường và điều kiện cạnh

tranh mở cửa. Đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn, muốn hạn chế

được rủi ro trong kinh doanh cũng phải mua cổ phần của các doanh nghiệp

hoặc nhận vốn góp cổ phần của các doanh nghiệp khác. Điều này sẽ giúp cho

doanh nghiệp được san sẻ bớt sự rủi ro trong kinh doanh, nhằm đảm bảo có

được lợi nhuận tối thiểu ngang bằng lợi nhuận bình quân trong ngành. Do đó

hạn chế được những bất lợi trong quá trình cạnh tranh.

Thứ ba, Sự phát triển tràn lan của các DNNN một cách quá mức nhằm

tạo ra một thực lực kinh tế mạnh mẽ làm công cụ điều tiết vĩ mô. Các DNNN

được chú ý điều tiết phát triển không chỉ ở các lĩnh vực, các ngành then chốt

của nền kinh tế mà còn ở các ngành khác mà lẽ ra Nhà nước không cần nắm - 28 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

giữ. Sự phát triển tràn lan đó đã làm cho tình hình thị trường xấu đi và ảnh

hưởng tới năng suất chung của sản xuất xã hội. Yêu cầu của việc lợi dụng các

yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu, của việc tạo lập môi trường cạnh tranh hiệu

quả đòi hỏi phải sắp xếp lại cơ cấu hệ thống DNNN.

Thứ tư, Trong điều kiện nền kinh tế xã hội phát triển, chính nền kinh tế

thị trường đã làm bộc lộ sự hoạt động kém hiệu quả của nhiều DNNN, làm

cho các doanh nghiệp này ngày càng trở thành gánh nặng cho nền kinh tế

quốc dân.

Thứ năm, Sự thay đổi quan điểm về vai trò của Nhà nước trong nền

kinh tế thị trường. Cùng với tư tưởng tự do kinh tế người ta buộc phải xem xét

lại vai trò của Nhà nước theo phương châm thị trường nhiều hơn, tự do kinh

doanh nhiều hơn. Thêm vào đó, cùng với tiến trình hội nhập vào nền kinh tế

thế giới, Nhà nước cần quản lý doanh nghiệp bằng một cơ chế phù hợp hơn.

Từ đó đòi hỏi phải kiện toàn, sắp xếp lại cơ cấu khu vực nền kinh tế Nhà nước

theo xu hướng giảm dần cơ chế “trói buộc” của Nhà nước.

Xét từ hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh, các DNNN nói

chung hoạt động kém hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh. Chính xuất phát từ sự kém hiệu quả đó Nhà nước thường phải tài trợ,

bao cấp thông qua cấp vốn, trợ giá, giảm nộp ngân sách…để duy trì hoạt động

của DNNN, duy trì sở hữu Nhà nước.

Cuối cùng, Xuất phát từ những ưu điểm của công ty cổ phần so với

DNNN, những mặt ưu điểm này quyết định đến tính hiệu quả trong quản lý và

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Với những lý do trên, quá trình CPH DNNN ở nước ta đã được thực

hiện như một tất yếu khách quan trong hơn 15 năm qua.

Nội dung cơ bản chủ trương CPH của Nhà nước ta.

Nghị quyết Hội nghị TW Đảng lần thứ 3 (khoá IX) ra đời rất kịp thời

với nội dung đúng đắn, thể hiện sự đúng đắn sáng suốt, kiên định đường lối - 29 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

đổi mới theo định hướng XHCN, có tính lý luận sâu sắc phù hợp quan điểm

của CN Marx – Lenin - phù hợp quy luật kinh tế và thực tiễn của cách

mạng Việt Nam và mục tiêu: “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ và văn minh”.

Nghị quyết TW3 ra đời một lần nước khẳng định vị trí của DNNN

trong nền kinh tế, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng thế và

lực của đất nước làm cho DNNN chi phối được các ngành, các lĩnh vực then

chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần đưa đất nước ta hội nhập

nền kinh tế khu vực và quốc tế, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước.

Nghị quyết đồng thời cũng chỉ ra rõ những hạn chế nhiều mặt của DNNN.

Đặt ra yêu cầu phải sắp xếp, chuyển đổi cơ cấu sở hữu, nâng cao hiệu quả sản

xuất của doanh nghiệp, với một quyết tâm rất cao và bước đi thích hợp.

Trong đó phải áp dụng nhiều giải pháp: Vừa cơ cấu lại, sắp xếp lại

DNNN, và cải cách quản lý và xây dựng lực lượng, tăng thêm năng lực sản

xuất của doanh nghiệp về lao động, vốn, thiết bị, khoa học và công nghệ, trình

độ và năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo. Khơi dậy mọi tiềm năng (lao

động, vốn, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên...). Để phát triển bền vững làm

cho kinh tế Nhà nước có được vị trí và sức mạnh quyết định, có vai trò định

hướng.

Muốn vậy, để cơ cấu lại DNNN tập trung vào các ngành, lĩnh vực kinh

tế mũi nhọn, then chốt, địa bàn quan trọng, sản phẩm thiết yếu... Nhà nước

cần nắm giữ tư tưởng chỉ đạo phải kiên trì nguyên tắc phát triển kinh tế phải

đi đôi với giữ vững, ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm Đảng Cộng sản Việt

Nam là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước. Phấn đấu và mục tiêu chính và định

hướng XHCN, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Nghị quyết chỉ rõ phải thực hiện bằng được việc xã hội hoá, lao động

sản xuất. Đa dạng hoá loại hình kinh doanh, tạo ra nhiều sản phẩm xã hội. - 30 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Mọi tổ chức cá nhân được phép kinh doanh những gì pháp luật không cấm.

Huy động mọi thành phần kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất xã hội.

Trong một mặt bằng, khuôn khổ pháp lý chung. Nhưng vẫn pảhi đặc biệt quan

tâm tới việc xây dựng vóc tương xứng với vai trò chủ đạo của DNNN.

Đảng và Nhà nước ta coi trọng yếu tố con người. Mang tầm vóc trí tuệ

Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, với hàng nghìn năm lịch sử, do vậy đổi mới,

sắp xếp lại doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN trong nền

kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm đem lại hiệu quả kinh tế chung cho

doanh nghiệp, cho đất nước và cho người lao động. Thành quả của những

năm đổi mới, do đảng ta lãnh đạo đã chứng minh. Ngoài mục đích của dân

tộc, Đảng ta không còn mục đích nào khác.

Đổi mới, sắp xếp lại DNNN là để phát huy quyền làm chủ của doanh

nghiệp lao động. Nâng cao quyền và trách nhiệm, trình tự chủ của doanh

nghiệp, đồng thời phân định rõ quyền đại diện chủ sở hữu tài sản Nhà nước

trong doanh nghiệp. Đồng thời làm rõ hai chức năng quản lý Nhà nước và

quản lý doanh nghiệp SXKD.

Cơ chế tự chịu trách nhiệm về SKXD cũng được làm rõ doanh nghiệp

được tự huy động vốn và có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực

trụ vụ SXKD trên nguyên tắc có hoàn trả. Bỏ cơ chế xin và cho, chuyển theo

hướng đầu tư tài chính vào doanh nghiệp, không lẫn lộn chức năng quản lý

chính với chức năng kinh tế.

Nghị quyết TW 3 là cơ sở, chỉ được động lực cho DNNN phát triển.

Trong đó CPH DNNN là giải pháp có tình lý luận và tiến triển để DNNN thực

sự là chủ đạo trong nền kinh tế, tạo điều kiện để người lao động tham gia

quản lý doanh nghiệp thu hút được nguồn vốn của các nhà đầu tư. Nghị quyết

64, Nghị quyết 41/CP cùng các chính sách kinh tế, tài chính khác đã cụ thể

hoá quan điểm đó của Đảng, sắp xếp, đổi mới, cơ cấu lại DNNN là ý Đảng và

lòng dân chúng ta không có quyền do dự, phải xốc tới và giành lấy thắng lợi. - 31 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

III. Kinh nghiệm quốc tế về CPH.

1. Kinh nghiệm CPH ở các nƣớc phát triển

Quá trình CPH diễn ra mạnh mẽ, sôi động ngay từ đầu thập kỷ 80 và

bắt đầu từ Anh, sau đó lan rộng ra hầu hết các nước công nghiệp phát triển và

đang phát triển như Pháp, Mỹ...

Tại những nước này, khu vực kinh tế quốc doanh được CPH và tư nhân

hoá theo 4 hình thức chính sau:

- Cổ phần của DNNN được bán thông qua thị trường vốn cho mọi người có

nguyện vọng mua.

- Khi gặp khó khăn về tài chính, doanh nghiệp cần bán đi một phần tài sản

cho tư nhân và công ty tư nhân.

- Bán cổ phần cho công nhân viên trong DNNN.

- Bán xí nghiệp “ con” thuộc xí nghiệp “mẹ” hoặc bán từng bộ phận thuộc

một ngành sản xuất chính. Phương pháp này được sử dụng phổ biến ở

Italia, Tây ban Nha, Pháp, thường là bán cho người nước ngoài. DNNN

dùng số tiền đó mua cổ phần của công ty tư nhân chứng khoán.

2. CPH và tƣ nhân hoá các doanh nghiệp ở Đông Âu

Ở các nước Đông Âu khi quan hệ sản xuất XHCN bị phá vỡ, CPH và tư

nhân hoá DNNN được đẩy mạnh và ngày càng sôi động đặc biệt là các nước

Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungari, Đức, Ba Lan…

Các nước thực hiện bán doanh nghiệp cho tất cả các đối tượng không

phân biệt người trong nước và người nước ngoài hoặc chuyển DNNN thành

công ty trách nhiệm hữu hạn.

Một số chế độ ưu đãi dưới các hình thức:

- Ưu tiên bán doanh nghiệp cho người lao động hoặc người quản lý.

- Giảm giá bán cổ phần cho người lao động.

- Bán chịu có thời hạn.

- Được vay không tính lãi và trả góp trong một số năm để mua cổ phần.

- Được miễn thuế thu nhập nếu đầu tư qua thị trường chứng khoán.

- 32 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Phần sở hữu còn lại của Nhà nước được bán theo cơ chế đấu giá thanh

toán tiền mặt hoặc đấu thầu đầu tư.

3. Quá trình CPH ở Trung Quốc

Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa (năm 1978), Trung

Quốc đồng thời đã thực hiện những biện pháp cải cách hướng vào hoạt động

của DNNN như: Mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất -

kinh doanh, cổ phần hóa, xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại...

CPH DNNN ở Trung Quốc là một bộ phận của chương trình đa dạng

hoá sở hữu ở Trung Quốc với những hỗ trợ sau:

- Giao quyền sử dụng đất có hạn định. Các doanh nghiệp phải nộp một

khoản phí nhất định khi tiến hành CPH DNNN.

- Giúp các doanh nghiệp lành mạnh hoá tình hình tài chính thông qua việc

cấp một phần vốn dự trữ cho các Ngân hàng để xoá một phần nợ không

có khả năng thanh toán cho các doanh nghiệp gặp khó khăn; chuyển một

phần nợ thành vốn góp cổ phần ở những doanh nghiệp gặp khó khăn do

thiếu vốn.

- Phát hành cổ phiếu thông qua các công ty chứng khoán, các công ty tài

chính ( đối với số cổ phiếu bán ra ngoài).

Cụ thể có đặc điểm như sau:

3.1 Xác định quan điểm CPH DNNN

Trung Quốc dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác để

tiến hành CPH DNNN; coi CPH một bộ phận DNNN là một phần hữu cơ

trong tổng thể đổi mới DNNN, luôn khẳng định đây là một con đường tìm

kiếm một cơ chế kinh doanh có hiệu quả, chứ không phải là tìm kiếm các hình

thức sở hữu khác nhau; đổi mới DNNN là khâu then chốt của cải cách kinh tế,

coi tiền đề cải cách doanh nghiệp là xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường.

3.2 Xác định mục tiêu CPH

- Mở rộng hình thức sở hữu, tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế thị trường;

- Điều chỉnh lại vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước, nâng cao năng lực

quản lý và hiệu quả hoạt động của DNNN;

- 33 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Định hướng năng lực hành chính của Nhà nước, giảm bớt tham nhũng và

thói quen dựa dẫm vào Nhà nước, thay đổi mối quan hệ giữa những

người quản lý hành chính với những người quản lý kinh tế;

- Thương mại hoá hành vi quản lý, thay đổi lực lượng lao động, nâng cao

thu nhập;

- Tăng nguồn thu để trả nợ cho các mục đích khác, cân bằng ngân sách.

3.3 Xây dựng môi trƣờng pháp lý cho quá trình CPH.

Trung Quốc rất chú trọng xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý

cho quá trình CPH DNNN được thuận lợi, đồng thời với xây dựng và hoàn

thiện toàn bộ môi trường cho sản xuất – kinh doanh nói chung. Trung Quốc

đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến

sự vận hành của DN. Lần lựợt “Luật phá sản doanh nghiêp”, “Luật Doanh

nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Điều lệ chuyển đổi cơ

chế kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn

dân”, “Các nguyên tắc tài chính doanh nghiệp”, “Điều lệ tạm thời về quản lý

phát hành và giao dịch cổ phiếu, “Luật Lao động”, “Luật Công ty”, “Điều lệ

quản lý đăng ký công ty”, “Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc”, “Luật

ngân hàng thương nghiệp”, “Luật xí nghiệp hương trấn”..., đã được ban hành

và đi vào cuộc sống của doanh nghiệp. Trong đó, hai văn bản có tầm quan

trọng đặc biệt là “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn

dân” và “Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu

toàn dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về các quyền

lợi của DNNN như: Cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu cầu

của thị trường; có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có

quyền từ chối các nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có

quyền tự tiêu thụ sản phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng... Có

thể thấy, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” đã

đem lại cho các doanh nghiệp nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất-kinh

doanh, góp phần tháo gỡ các ràng buộc về mặt hành chính, trả doanh nghiệp - 34 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

về đúng với vòng quay của thị trường. Để cụ thể hoá “Luật Doanh nghiệp

công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, ngày 23/7/1992, Trung Quốc đã

ban hành “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các DN công nghiệp

thuộc chế độ sở hữu toàn dân” với nội dung không những tiếp tục nâng cao

quyền tự chủ cho DN, mà còn phản ánh xu thế mới trong cải cách, đó là chuyển đổi cơ chế kinh doanh.2

3.4 Lựa chọn hình thức và phƣơng pháp CPH thích hợp để đạt đƣợc

mục tiêu đã xác định.

CPH ở Trung Quốc được tiến hành dưới 3 hình thức:

- DNNN cùng các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham gia nắm giữ cổ

phiếu, hình thành công ty cổ phần. Hình thức này có lợi cho việc áp dụng

hợp tác kinh tế theo chiều ngang, có lợi cho việc di chuyển hợp lý và kết

hợp tối ưu các yếu tố sản xuất nên phát triển rất nhanh.

- Bán cổ phiếu cho người lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Hình thức

này phát huy tốt vai trò làm chủ của người lao động, nhưng cũng nảy sinh

mâu thuẫn giữa thu nhập trước mắt của họ với sự phát triển lâu dài của

doạnh nghiệp.

- CPH DNNN bằng cách phát hành công khai cổ phiếu ra xã hội. Trong đó,

có doanh nghiệp trực tiếp phát hành cổ phiếu trên thị trường để tập trung

vốn; có doanh nghiệp phát hành qua hệ thống ngân hàng.

Trung Quốc tiến hành CPH DNNN theo thứ tự doanh nghiệp có quy

mô nhỏ trước, quy mô vừa và lớn sau, gắn với hình thành tập đoàn công ty cổ

phần. Theo quan điểm của Trung Quốc việc CPH các doanh nghiệp nhỏ rất dễ

dàng vì quy mô, hoạt động cũng như dễ thống nhất trong nhận thức. Vả lại,

CPH DNNN là một công việc mới mẻ, CPH ngay các doanh nghiệp lớn e

không đủ kinh nghiệm cần thiết. Tiến hành CPH các doanh nghiệp nhỏ làm

bài học kinh nghiệm để CPH các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn. Hiện

2 theo http://irv.moi.gov.vn/sodauthang/quocte/2006/9/14899.ttvn trang báo điện tử “Công nghiệp”. - 35 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

nay Trung Quốc đang tiến hành cải cách DNNN theo phương châm “nắm lớn,

buông nhỏ”.

Trong chương trình sắp xếp lại các doanh nghiệp loại nhỏ Trung Quốc

rất coi trọng hình thức chuyển một phần sở hữu Nhà nước thành kinh tế hợp

tác sở hữu của tập thể công nhân viên chức (vẫn thuộc về kinh tế công hữu).

Trung Quốc coi trọng hình thức công ty cổ phần mà Nhà nước nắm cổ

phần chi phối trong các doanh nghiệp lớn, ngành kinh tế quan trọng, trụ cột.

Trung Quốc coi đây là hình thức hợp lý để chắp nối mối quan hệ giữa Chính

phủ và doanh nghiệp, giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân, là hình thức

tổ chức có thể đưa các DNNN tham gia cạnh tranh quốc tế có hiệu quả, bảo

vệ lợi ích quốc gia trên thị trường quốc tế.

Trung quốc quy địng rõ loại DNNN cần CPH. Riêng các DNNN hoạt

động trong ngành quốc phòng, dầu mỏ, năng lượng nguyên tử, hàng không,

cấp nước, điện lực, bưu chính, đường sắt, tiền tệ, in giấy bạc, Nhà nước cần

nắm giữ, không thực hiện CPH. Các loại doanh nghiệp khác đều được CPH,

tuỳ tính chất ngành nghề mà quyết định tỷ lệ cổ phần của Nhà nước. Trong

công nghiệp, Nhà nước có thể nắm giữ 25-30% cổ phiếu.

3.5 Thành lập cơ quan CPH và sở hữu cổ phần Nhà nƣớc.

Cơ quan này thay mặt Chính phủ trực tiếp tổ chức, chỉ đạo việc tiến

hành CPH, thẩm tra giá trị doanh nghiệp để đưa ra và tổ chức đấu thầu; giải

quyết hậu quả sau khi CPH; quản lý phần vốn Nhà nước khi DNNN chuyển

thành công ty cổ phần. Bên cạnh đó còn thành lập một mạng lưới các tổ chức

tài chính để phục vụ CPH.

Trung Quốc còn rất coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục thông qua

nhiều hình thức để đi đến thống nhất nhận thức.

3.6 Xây dựng quy trình CPH và tuân thủ quy trình này.

Quy trình CPH bao gồm:

- Xác định danh sách các DNNN có đủ điều kiện CPH (kinh doanh có lãi,

không nằm trong diện Nhà nước nắm 100% vốn);

- Xác định thực tế tài sản doanh nghiệp;

- 36 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Tuyên truyền quảng cáo, hoàn thiện chính sách để mọi người nắm được

thực chất hoạt động của doanh nghiệp và có quyết định mua cổ phiếu;

- Lựa chọn phương thức bán cổ phiếu (bán rộng rãi cho công chúng hoặc

cho đối tượng đã xác định, bán theo giá ưu đãi cho người lao động của

doanh nghiệp,…).

- Giải quyết các vân đề xã hội sau khi CPH.

3.7 Chính phủ chấp nhận một khoản chi phí cho trƣơng trình CPH

DNNN

Cần giải quyết tốt các vấn đề xã hội khi chuyển DNNN thành công ty

cổ phần, như vấn đề việc làm, tiền lương của người lao động, các phúc lợi xã

hội, vấn đề lợi tức và thu nhập, v.v..

3.8 Tốc độ của tiến trình CPH DNNN phụ thuộc vào mức độ phát triển

của nền kinh tế thị trƣờng.

Với nền kinh tế thị trường đã phát triển, thị trường chứng khoán đã đi

vào nề nếp, khu vực kinh tế tư nhân đã mạnh thì quá trình CPH diễn ra đơn

giản và thuận lợi hơn.

Nói tóm lại, kinh nghiệm của Trung Quốc cho chúng ta cả những bài

học thành công và không thành công, cả những vấn đề vướng mắc chưa giải

quyết được.

4.

Bài học rút ra cho Việt Nam

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có nhiều điểm tương

đồng về kinh tế, văn hoá, lịch sử... Đặc biệt, trong thời hiện đại, Việt Nam

cũng đã đi con đường phát triển kinh tế-xã hội mà Trung Quốc đã đi qua. Từ

thực tiễn thành công trong cải cách DNNN ở Trung Quốc, Việt Nam có thể

học hỏi một số kinh nghiệm quý báu như:

- Kinh nghiệm về khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế

ngoài quốc doanh, nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho kinh tế Nhà nước.

- Kinh nghiệm trong vấn đề quản lý tài sản nhà nước.

- 37 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Đa dạng hóa hình thức thực hiện của chế độ công hữu, đẩy mạnh cải cách

quyền tài sản và cổ phần hóa DNNN.

- Kết hợp chặt chẽ giữa cải cách với quản lý DNNN, giữa cải cách DNNN

với điều chỉnh kết cấu và bố cục của kinh tế nhà nước.

4.1 Vận dụng kinh nghiệm quốc tế CPH vào điều kiện cụ thể ở Việt

Nam:

Việc sắp xếp lại các DNNN ở Việt Nam gắn chặt với cơ chế quản lý và

chính sách như cơ chế xuất nhập khẩu, vốn, thuế, tỷ giá, tín dụng và đầu tư...

Việc triển khai hình thành thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện thúc đẩy

CPH và sự năng động cho thị trường vốn của Việt Nam.

4.2 Thành lập cơ quan quản lý Nhà nƣớc chịu trách nhiệm về quá

trình thực hiện CPH:

Cơ quan này phải quản lý toàn bộ quá trình theo những quan điểm có

tính chiến lược trong việc đánh giá, soạn thảo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm

tra và điều chỉnh.

4.3 Vừa làm vừa rút kinh nghiệm thực hiện CPH:

Quá trình vừa làm vừa điều chỉnh và vừa hoàn thiện trong công việc

này tỏ ra thích hợp với cả Chính phủ đang cần thời gian để nắm bắt và kiểm

soát cũng như công chúng đang cần có thời gian để tin vào sự ổn định lâu dài

vào chính sách của Chính phủ.

4.4 Tạo môi trƣờng pháp lý cần thiết để thực hiện CPH:

Đó là các bộ luật quan trọng để xác lập và ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra

khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển hoá và hoạt động của các doanh nghiệp

được CPH và các công ty nói chung.

4.5 Cần lập kế hoạch tài chính cho quá trình thực hiện CPH

Đối với nước ta, cũng cần có sự lường định những khoản phí tổn không

thể cắt giảm được, nhất là vấn đề việc làm mới và đào tạo lại, bảo hiểm xã hội

trong các doanh nghiệp CPH, các vấn đề tư vấn, kiểm toán quảng cáo, môi

giới đầu tư trong và ngoài nước đối với vấn đề CPH.

- 38 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ CÁC

DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC.

I. Quá trình CPH và thực trạng ở Việt Nam

Bên cạnh các biện pháp sắp xếp, tổ chức lại, sáp nhập, giải thể các

DNNN để giảm bớt các doanh nghiệp kém hiệu quả, thua lỗ, Nhà nước chủ

trương tiến hành đa dạng hoá sở hữu, chuyển một bộ phận DNNN thành công

ty cổ phần, thực hiện chủ trương CPH DNNN.

Chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần lần đầu tiên được đề ra

tại Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam

(khoá VII) tháng 11 năm 1991. Chủ trương này được tiếp tục khẳng định

trong nhiều văn kiện tiếp theo của Đảng, như: Nghị quyết Hội nghị Đại biểu

toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII), Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về tiếp

tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của DNNN ngày 17 tháng 3 năm

1995, Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nghị quyết

Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khoá VIII), Thông báo số 63-TB/TW ngày 4

tháng 4 năm 1997 của Bộ chính trị về tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc

CPH DNNN.

Trong quá trình thực hiện CPH các DNNN, những chủ trương chích

sách của Đảng và Nhà nước cũng ngày càng hoàn thiện, cụ thể hoá mục tiêu,

đối tượng và giải pháp nên tiến trình cổ phần hóa DNNN ngày càng được

thuận lợi hơn.

1

Giai đoạn thí điểm (từ 1992 đến tháng 5/1996):

1.1 Cơ sở pháp lý để thực hiện CPH

Chủ trương CPH đã được nêu tại Nghị quyết hội nghị Trung ương 2 -

khoá VII, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Thông báo 63 TB/TW của Bộ

Chính trị, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết kỳ

- 39 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

họp thứ 10 - Quốc hội khoá VII ngày 26/12/1991, Nghị quyết kỳ họp thứ IV -

Quốc hội khoá IX tháng 12/1993.

Chính phủ (lúc đó là HĐBT) đã có quyết định 202/HĐBT ngày

8/6/1992 về việc: "tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ

phần"; và Chỉ thị 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc:

"xúc tiến thực hiện thí điểm CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hoá sở hữu

DNNN", đây là những cơ sở pháp lý đầu tiên của Chính phủ hướng dẫn và

thúc đẩy việc thực hiện thí điểm CPH DNNN. Về phía ngành tài chính cũng

đã ban hành Thông tư số 36/TC/CN ngày 7 tháng 5 năm 1993 hướng dẫn

những vấn đề về tài chính trong việc thực hiện thí điểm CPH DNNN. Có thể

nói chương trình CPH dnnn ở Việt Nam thực sự bắt đầu từ năm 1992.

Những nguyên nhân chính của việc thực hiện CPH DNNN trong giai

đoạn này:

- Còn quá nhiều chính sách ưu đãi cho DNNN, đặc biệt là các chính sách

tài chính, tín dụng.

- Việc xử lý các tồn tại về tài chính trong doanh nghiệp chưa có hướng

dẫn cụ thể, rõ ràng, còn mang tính chất khoán trắng cho doanh nghiệp.

- Chưa có các chính sách ưu đãi thoả đáng cho doanh nghiệp và người lao

động ở các doanh nghiệp thực hiện CPH.

- Việc định giá tài sản mang nặng tính chủ quan của người bán là Nhà

nước, chưa xét đến nhu cầu và quyền lợi của người mua.

1.2 Triển khai CPH trong thực tế.

Tiến trình thí điểm CPH DNNN trong giai đoạn này hết sức khó khăn

và chậm chạp. Trong 5 năm, kể từ tháng 6/1992 đến tháng 5/1996 mới CPH

được 5 doanh nghiệp thuộc 3 Bộ và 2 địa phương, đó là:

- Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ Giao thông)

- Công ty cổ phần giày Hiệp An (thuộc Bộ Công nghiệp)

- Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (thuộc Bộ Nông nghiệp)

- 40 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (thuộc UBND TP. Hồ Chí Minh)

- Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (thuộc UBND tỉnh

Long An).

Đối với giai đoạn thí điểm này thì, hiệu quả của các doanh nghiệp đã

được CPH được thể hiện rõ ràng, nhưng giai đoạn thí điểm đã tương đối kéo

dài (khoảng 5 năm). Điều này có thể thấy rằng tư tưởng nhận thức của các

DNNN về vấn đề CPH vẫn còn rụt rè hạn chế, thêm vào nữa, hệ tư tưởng của

cán bộ công nhân viên chức trong khối DNNN đã khiến cho quá trình này kéo

dài và sự chủ động của các Bộ ban nghành là chưa cao.

2.

Thời kỳ mở rộng CPH (từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998):

Cơ sở pháp lý nhằm mở rộng CPH

Trong kết luận của Bộ Chính trị về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5

năm năm 1996-2000 và năm 1996 (số 30-1 BBK/BCT ngày 12/9/1995) đã

khẳng định CPH phải giữ vững định hướng XHCN và phải phân loại DNNN

để CPH.

Ngày 4/4/1997, Bộ Chính trị đã có thông báo số 63/TB-TW "triển khai

tích cực, vững chắc việc CPH DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động

lực để thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả, không phải để tư nhân hoá".

Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển

một số DNNN thành công ty cổ phần. Các bộ, ngành chức năng đã tiếp tục

ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 28/CP.

Nghị định 28/CP và Nghị định 25/CP đã thể hiện một bước sự thông

thoáng trong việc CPH DNNN như vấn đề xác định mục tiêu, đối tượng,

phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp CPH, hình thức CPH, chính sách

ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động ...

Với các cơ chế chính sách cởi mở và thông thoáng hơn, tiến trình CPH

DNNN trong thời gian đó đã có những chuyển biến tích cực, chỉ trong vòng 2

- 41 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

năm (từ 5/1996 đến tháng 6/1998) cả nước thực hiện CPH 25 DNNN (gấp 5

lần so với 5 năm thí điểm).

Tuy nhiên, quá trình thực hiện CPH DNNN trong 2 năm nói trên cũng

đã cho thấy hệ thống cơ chế chính sách về CPH DNNN biệt là cơ chế, chính

sách về tài chính) ban hành kèm theo Nghị định 28/CP và Nghị định 25/CP

cũng còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu để hoàn thiện về lựa chọn DNNN

để CPH, hình thức CPH, xác định giá trị doanh nghiệp CPH, chính sách ưu

đãi...

Thực tiễn triển khai đến các doanh nghiệp.

Các tỉnh, thành phố, bộ, ngành và tổng công ty 91 đã đăng ký hơn 200

DN thực hiện CPH, chiếm trên 3% số DNNN. Tính đến đầu tháng 6 năm

1998 đã có 25 DNNN chuyển thành CTP trong đó tập trung chủ yếu ở hai

thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn một số DN đang tiến

hành CPH ở các bước xác định giá trị DN, kiểm toán,...

Quy mô các DN tiến hành CPH đợt này cũng lớn hơn so với giai đoạn

thí điểm: 1 DN có vốn 120 tỷ đồng và 5 DN có vốn từ 10 tỷ trở lên (giai đoạn

thử nghiệm chỉ có 1 DN lớn có số vốn là 16 tỷ đồng). Trong số 25 DN đã

CPH có 1 DN Nhà nước không nắm giữ cổ phần là Công ty đầu tư sản xuất và

thương mại Hà Nội. Trong số 24 công ty còn lại thì Nhà nước nắm giữ ít nhất

là 10% và cao nhất là 60,62% số cổ phần của công ty. Cổ đông là người lao

động trong công ty sở hữu từ 10 đến 70% số cổ phần, còn lại là cổ đông ngoài

DN sở hữu.

Việc thực hiện chậm chễ và ì iạch đã khiến cho chủ chương của Đảng

và Nhà nước đưa ra chưa thực hiện được, khiến cho người dân giảm sự tin

tưởng vào các chủ chương của Đảng. Đồng thời, với việc CPH chậm chạp

khiến cho hiệu quả kinh tế của khu vực kinh tế Nhà nước vẫn kém hiệu quả

không thúc đẩy được nhiều sự phát triển chung của nền kinh tế, vốn Nhà nước

vẫn không được đầu tư có hiệu quả… - 42 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

3.

Thời kỳ đẩy mạnh CPH hay giai đoạn chủ động (từ tháng

7/1998 đến nay)

Chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc

Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành TW Đảng (khoá VIII)

tháng 12/1997: “Phân loại doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh

doanh, xác định danh mục loại doanh nghiệp cần giữ 100% vốn Nhà nước;

loại DNNN cần nắm giữ tỷ lệ cổ phần chi phối; loại DNNN chỉ cần giữ cổ

phần ở mức thấp”.

Ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP

thay cho Nghị định 28/CP ngày7/5/1996, các Bộ, ngành chức năng cũng đã

ban hành các thông tư hướng dẫn.

Những đổi mới quan trọng trong Nghị định này được thể hiện về đối

tượng CPH, về thẩm quyền quyết định CPH, về đối tượng bán cổ phần, về

chính sách ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp CPH, về hình thức

CPH, về xác định giá trị doanh nghiệp về quản lý và sử dụng tiền bán phần

vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Nếu như trong 7 năm (từ 1992 đến 6/1998) cả nước mới CPH được 30

doanh nghiệp, thì chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã CPH thành công 87

doanh nghiệp và trong năm 1999 đã triển khai công tác CPH ở trên 300 doanh

nghiệp, trong đó đã hoàn thành việc chuyển thành công ty cổ phần 250 doanh

nghiệp.

Về tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp sau khi thực hiện CPH: Theo báo cáo của Ban đổi mới quản lý doanh

nghiệp Trung ương thì cả 370 doanh nghiệp sau CPH đều nâng cao được hiệu

quả sản xuất kinh doanh, doanh thu bình quân của các doanh nghiệp tăng 30%

so với năm trước, lợi nhuận và nộp ngân sách bình quân đều tăng gấp 2 lần so

với trước khi CPH, về vốn tăng trưởng bình quân khoảng 15%/năm.

- 43 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp cũng tăng từ 1,5

đến 4 lần so với trước khi thực hiện CPH. Công ty cổ phần đã thu hút và giải

quyết thêm việc làm cho người lao động ở trên địa bàn (số lao động trong các

doanh nghiệp đã chuyển sang công ty cổ phần tăng khoảng 20% so với trước

khi thực hiện chuyển đổi).

Huy động được trên 1.000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để

phát triển sản xuất và giải quyết các chính sách xã hội cho người lao động.

Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển

DNNN thành công ty cổ phần thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP với những

đối mới cơ bản về mục tiêu CPH, về đối tượng áp dụng, xử lý những tồn tại

về tài chính trước khi cổ phần hóa, cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp, việc

bán cổ phần phát hành lần đầu chính sách đối với doanh nghiệp CPH, chính

sách đối với người lao động, về phân cấp trong công tác tổ chức và chỉ đạo

thực hiện CPH DNNN. Nghị định 64/CP đã giải quyết được nhiều vướng mắc

trong Nghj định 44/CP.

Thực tiễn kết quả CPH đã đạt đƣợc

Hiện tại đã có 11/13 Bộ, 14/17 Tổng công ty 91, 53/61 tỉnh, thành phố

đã có doanh nghiệp CPH. Đặc biệt một số Bộ, ngành, tỉnh, Tổng công ty 91

tích cực triển khai CPH như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định,

Thái Bình, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An, Bình Định, Lâm Đồng, Bộ

Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng công ty hàng hải,

Tổng công ty Dệt-May,Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty Bưu chính viễn

thông, Tổng công ty Than...

Việc thực hiện CPH có chuyển biến rõ rệt và đáng khích lệ từ khi có

Nghị định 44/1998/NĐ-CP. Riêng nửa cuối năm 1998 đã CPH và đa dạng hoá

sở hữu được 86 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp được chuyển đổi lên

116.

- 44 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp,

02/2005, số doanh nghiệp CPH năm 1999 là 249 doanh nghiệp, gấp hơn 8 lần

so với 7 năm trước cộng lại. Tổng số doanh nghiệp đã CPH đến thời điểm đó

đã gấp hơn 12 lần so với cả thời kỳ thí điểm CPH.

Năm 2005, có 754 DNNN và bộ phận DNNN hoàn thành CPH, đưa

tổng số DNNN và bộ phận DNNN được CPH từ trước tới nay lên 2987 đơn

vị, trong đó riêng 5 năm 2001 – 2005 CPH được 2407 đơn vị.

Như vậy, trong giai đoạn 5 năm 2001 – 2005, số lượng DNNN được

CPH đã bằng 80,4% tổng số DNNN CPH từ trước tới nay. Nếu chỉ tính trong

2 năm 2004 – 2005, đã CPH 1507 đơn vị bằng 58% tổng số đơn vị CPH. Qua

đó cho thấy, kể từ khi có nghị quyết Trung ương 3, khoá IX (năm 2001) đến

nay, công tác CPH DNNN đã có bước chuyển biến rõ rệt, đặc biệt những năm

gần đây, tiến độ CPH DNNN càng được đẩy nhanh hơn.

Trong số các DNNN đã được CPH, doanh nghiệp có vốn Nhà nước

dưới 5 tỷ đồng chiếm 56,1%, tập trung chủ yếu ở các ngành xây lắp, công

nghiệp sản xuất, gia công hàng tiêu dùng, thương mại dịch vụ, chế biến nông

sản thực phẩm do các địa phương quản lý. Doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ

5 – 10 tỷ đồng chiếm 24,4%. Còn lại là các doanh nghiệp có vốn Nhà nước

trên 10 tỷ đồng chiếm 19,5%. Những đơn vị đạt kết quả cao so với kế hoạch

cổ phần DNNN là: Bộ Công nghiệp (143%), Bộ Xây dựng (125%), Tổng

công ty Dệt May Việt Nam (133%), Tổng công ty Hoá chất Việt Nam

(100%), tỉnh Hải Dương (116%), tỉnh An Giang (130%), tỉnh Thanh Hoá

(120%), tỉnh Vĩnh Phúc (115%)...

Nói tóm lại, qua hơn 15 năm thực hiện CPH, đến hết năm 2005, chúng

ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở CPH DNNN và bộ phận

DNNN.

- 45 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Kết quả thực hiện qua từng năm như sau:

Năm Số lượng đơn vị Năm Số lượng đơn vị

1990 – 1992 không có 1999 250 đơn vị

1993 2 đơn vị 2000 212 đơn vị

1994 1 đơn vị 2001 204 đơn vị

1995 3 đơn vị 2002 164 đơn vị

1996 5 đơn vị 2003 532 đơn vị

1997 7 đơn vị 2004 753 đơn vị

1998 100 đơn vị 2005 754 đơn vị

* Nguồn: Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, 02/2005 và số liệu thời báo

kinh tế Việt Nam số 191 – 25/09/2006

Nhìn vào đồ thị dưới đây ta thấy được số lượng doanh nghiệp CPH từ

năm 1999 đến năm 2005 đã tăng đáng kể. Mặc dù thời gian đầu, số lượng

doanh nghiệp được cổ phần hoá mỗi năm còn ít song thời gian gần đây đã bắt

đầu tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2003, con số này đã tăng đột biến. Điều này

chứng tỏ trong những năm gần đây, tốc độ cổ phần hoá đã dần được đẩy

Biến động của số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa qua các năm

mạnh.

- 46 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Về thời gian thực hiện CPH, sau 15 năm đã rút ngắn đáng kể. Thời gian

CPH một doanh nghiệp:

Năm 2001 2002 2003 2004

Thời gian CPH 1 DN ( ngày ) 512 404 424 437

* Nguồn: Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, 02/2005

Số ngày để hoàn tất CPH một DNNN bình quân năm 2004 là 437 ngày.

Trong đó, chia theo các giai đoạn cụ thể là:

Số ngày Nội dung thực hiện

Thành lập ban đổi mới DN - bắt đầu định giá 135 ngày

Bắt đầu định giá – quy định giá trị DN 135 ngày

Quy định giá trị DN – phê duyệt phương án CPH 66 ngày

Phê duyệt phương án CPH - bắt đầu bán cổ phần 24 ngày

Bắt đầu bán cổ phiếu – hoàn thành bán cổ phiếu 38 ngày

Hoàn thành bán cổ phiếu - đại hội cổ đông 15 ngày

Đại hội cổ đông – đăng ký kinh doanh 24 ngày

437 ngày Tổng cộng

* Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển Doanh nghiệp Trung ương tháng 2/2005

Như vậy chỉ tính riêng từ khi thành lập Ban đổi mới doanh nghiệp đến

khi xác định xong giá trị doanh nghiệp đã mất 270 ngày, chiếm quá nửa số

thời gian cả quá trình CPH. Khâu đăng ký kinh doanh không có nội dung gì

phức tạp cũng phải mất một thời gian quá dài. Nhưng đến nay khoảng thời

gian này đã giảm từ bình quân 437 ngày/doanh nghiệp xuống còn khoảng 260

ngày, giảm 40%.

- 47 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình

thức CPH phổ biến nhất là bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh

nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%), tiếp đó là bán một

phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (26%), còn lại là bán toàn bộ

vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn Nhà nước và phát

hành thêm cổ phiếu (15,1%). Trong số các doanh nghiệp đã CPH, ngành công

nghiệp giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%, thương mại –

dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 5,8%. Nếu

phân chia theo địa phương tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chiếm

65,7%, bộ – ngành trung ương chiếm 25,8%, tổng công ty 91 chiếm 8,5%.

Điều này dẫn tới thực trạng cơ cấu vốn và hình thức sở hữu của các

doanh nghiệp CPH hiện nay là: Nhà nước nắm giữ 46,3% vốn, người lao

động 29,6% và cổ đông bên ngoài 24,1% vốn điều lệ. Nhà nước nắm giữ cổ

phần chi phối (từ 50% vốn điều lện trở lên) đối với 33% doanh nghiệp đã

CPH hiện nay.

* Cơ cấu doanh nghiệp CPH theo lĩnh vực hoạt động và theo địa phương

Số lượng các DNNN được CPH giữa các lĩnh vực, giữa các địa phương

không giống nhau mà có sự khác biệt tuỳ thuộc vào lĩnh vực hoạt động và tuỳ

theo từng địa phương. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự quan tâm

của địa phương về vấn đề này, số lượng DNNN ở địa phương…

- 48 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Bảng phân loại các doanh nghiệp đã CPH tính đến hết năm 2004

Tiêu chí phân loại

Số lượng DNNN CPH Tỷ lệ (%)

65,5 28,7 5,8 100 65,7 25,8 8,5 100 643 130 2.242 1.473 578 191 2.242

1. Theo lĩnh vực Công nghiệp - Giao thông - Xây dựng 1.469 Thương mại - Dịch vụ Nông - Lâm - Ngư nghiệp Tổng 2. Theo địa phương Tỉnh, Thành phố trực thuộc TW Bộ, ngành TW Tổng công ty 91 Tổng * Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển Doanh nghiệp Trung ương tháng 2/2005

Có thể thấy tiến trình CPH DNNN đã được tập trung vào thời kỳ vài

năm trở lại đây, sau khi đã có các Nghị quyết Trung ương 3, 4 khoá IX. Để

triển khai thực hiện các Nghị quyết này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt

104 đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN, sẽ cổ phần hóa 2053 trong tổng

số 4724 DNNN (năm 2002). Theo số liệu thực tế, trong năm 2001 đến hết

năm 2004 đã CPH được 1654 DNNN, đạt trên 80% so với nhiệm vụ của các

đề án được phê duyệt.

Cơ cấu số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá phân theo lĩnh vực hoạt động

Từ số liệu ở bảng trên, ta có đồ thị như sau:

- 49 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Đồ thị này cho thấy số lượng doanh nghiệp CPH được phân bổ theo

các lĩnh vực hoạt động là không giống nhau. Số lượng doanh nghiệp cổ phần

hóa trong các lĩnh vực Công nghiệp – Giao thông – Xây dựng chiếm tỷ trọng

cao nhất, khoảng 65 % cho thấy việc tiến hành CPH trong các lĩnh vực này

được thực hiện khá tốt. Trong khi đó, số lượng doanh nghiệp CPH trong lĩnh

vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp chỉ đạt khoảng 6 % trên tổng số, chiếm tỷ

trọng thấp nhất.

Cơ cấu số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá phân theo địa phương

Cũng theo bảng trên, ta thấy

Nhìn vào đồ thị ta thấy được sự phân bố doanh nghiệp CPH giữa các

địa phương. Cụ thể là số doanh nghiệp được CPH tại các tỉnh, thành phố trực

thuộc TW chiếm tỷ trọng 65 %, tại các bộ, ngành TW chiếm 26 % và tại Tổng

công ty 91 chiếm 9 %. Điều này cho thấy việc tiến hành CPH DNNN tại các

tỉnh, thành phố trực thuộc TW đã được thực hiện khá tốt. Còn tại Tổng công

ty 91, việc thực hiện chủ trương này còn chậm.

* Cơ cấu doanh nghiệp cổ phần hoá theo quy mô vốn

Nghị quyết TW 9 đã có chủ trương mở rộng quy mô và diện doanh

nghiệp cổ phần hoá nên đã triển khai trên thực tế cổ phần hoá một số doanh

nghiệp quy mô lớn, có giá trị doanh nghiệp lên tới hàng tỷ đồng, vốn Nhà

nước hàng trăm tỷ đồng như Công ty sữa Việt Nam ( giá trị doanh nghiệp

- 50 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

2.500 tỷ đồng, vốn Nhà nước 1.500 tỷ đồng ), nhà máy Thuỷ điện Sông Hinh

– Vĩnh Sơn ( giá trị doanh nghiệp 2.114 tỷ đồng, vốn Nhà nước 1.253 tỷ đồng

), Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh ( giá trị doanh nghiệp 1.311 tỷ

đồng, vốn Nhà nước 650 tỷ đồng ) … Mặc dù vậy, các doanh nghiệp được cổ

phần hoá vẫn là những đơn vị có quy mô nhỏ và vừa, vốn một doanh nghiệp

thường dưới 5 tỷ đồng, tập trung chủ yếu ở các ngành thi công xây lắp, công

nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, thương mại dịch vụ, chế biến nông phẩm do

các địa phương quản lý.

Quy mô vốn Nhà nước của các doanh nghiệp đã cổ phần hóa

Quy mô vốn Nhà nước Số lượng DNNN cổ phần hóa Tỷ lệ (%)

Dưới 5 tỷ đồng 1.327 59,2

Từ 5 – 10 tỷ đồng 500 22,3

* Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển Doanh nghiệp Trung ương tháng 2/2005

Trên 10 tỷ đồng 415 18,5

Như vậy, cổ phần hóa đối với doanh nghiệp lớn còn nhiều khó khăn do

những vướng mắc về cơ chế chính sách như sự vướng mắc về mặt pháp lý khi

tiến hành cổ phần hoá và sự khó khăn trong định giá tài sản của doanh nghiệp.

Cổ phần hoá đã tạo ra loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, bao

gồm Nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh

nghiệp.

Tính chung kết quả cổ phần hoá trong thời gian qua trong tổng số vốn

điều lệ của mỗi công ty, Nhà nước nắm giữ 46,5%, tương ứng với 10.792 tỷ

đồng, người lao động trong doanh nghiệp nắm giữ 38,1%, tương ứng với

8.847 tỷ đồng và cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ 15,4%, tương ứng với

3.564 tỷ đồng.

- 51 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Cơ cấu số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá phân theo quy mô vốn Nhà nước

Từ số liệu ở bảng trên, ta có được đồ thị:

Đồ thị này cho chúng ta thấy số lượng DNNN được CPH trong thời

gian qua chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có quy mô vốn Nhà nước

ít, chủ yếu là dưới 5 tỷ đồng ( chiếm tới 59 % ). Số lượng các doanh nghiệp

có vốn trên 10 tỷ đồng còn chiếm tỷ trọng quá thấp ( chỉ có 19 % ). Đây là

nguyên nhân vì sao mặc dù số lượng doanh nghiệp được CPH của chúng ta

khá lớn song số vốn Nhà nước được CPH lại rất nhỏ.

Cơ cấu vốn này có sự khác biệt khá rõ giữa số doanh nghiệp ở các bộ,

ngành và địa phương. Điều này thể hiện qua Bảng sau.

Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp

1 2 3 4

Bộ Giao thông Bộ xây TP Hà TP Hồ Chí

vận tải dựng Nội Minh

81 163 157 182 Số DN được CPH

Tỷ lệ vốn nắm giữ (%)

53 49 30,4 27 - Nhà nước

40 25 55,4 55 - Người LĐ trong DN

7 26 14,2 18 - Cổ đông ngoài DN

- 52 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

* Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển Doanh nghiệp Trung ương tháng 2/2005

* Cơ cấu doanh nghiệp theo hình thức cổ phần hoá

Các hình thức cổ phần hóa theo quy định đều đã được áp dụng trong cổ

phần hóa các DNNN. Trong đó, hình thức chủ yếu là bán bớt một phần vốn

của Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

Các hình thức cổ phần hoá DNNN

Số lượng Tỷ lệ ( Hình thức cổ phần hoá DN % )

1. Giữ nguyên vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ 339 15,1 phiếu

2. Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại Doanh 583 26,0 nghiệp

3. Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại Doanh 973 43,4 nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu

4. Bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại Doanh 347 15,5 nghiệp

* Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển Doanh nghiệp Trung ương tháng 2/2005

Tổng cộng 2.242 100,0

Cơ cấu số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá phân theo hình thức tiến hành CPH

Từ số liệu ở bảng trên, ta có đồ thị:

- 53 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Nhìn vào đồ thị ta thấy hình thức cổ phần hoá chủ yếu là hình thức bán

một phần vốn nhà nước kết hợp phát hành cổ phiếu ( chiếm khoảng 44 % ).

II. Những mặt đƣợc và những mặt chƣa đƣợc của quá trình

CPH DNNN ở nƣớc ta trong thời gian qua

Đổi mới, sắp xếp và phát triển DNNN là một chủ trương lớn của Đảng

và Nhà nước ta. Chủ trương này đã được triển khai thực hiện trong gần 20

năm qua. Mặc dù có những thăng trầm nhưng đã đem lại những kết quả đáng

ghi nhận.

CPH DNNN là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta thì sau 15

năm triển khai thực hiện chúng ta đã đạt được những hiệu quả nhất định

nhưng nhìn chung tiến độ cổ phần hóa còn khá chậm, nhất là ở các doanh

nghiệp quy mô lớn, trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Theo nội dung Báo

cáo tình hình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Việt Nam tại phiên họp thứ

43 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 21/9/2006.

Báo cáo nêu rõ: Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001, số lượng

DNNN được CPH tăng đáng kể, nhưng nhìn chung việc triển khai còn chậm.

Tính đến 31/12/2005, cả nước mới CPH được 2987 DNNN. Số doanh nghiệp

được CPH tăng nhiều, nhưng số vốn mới chiếm 12% tổng số vốn trong các

DNNN; nếu trừ đi phần vốn Nhà nước còn giữ lại gần 50% trong các doanh

nghiệp CPH, thì thực chất tỷ lệ trên chỉ chiếm khoảng 6%. So với mục tiêu

của Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX thì còn chậm, nhất là các doanh nghiệp

có qui mô lớn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Tiến độ

CPH không đồng đều giữa các bộ, ngành, địa phương; một số bộ, ngành chưa

hoàn thành theo đề án đã được phê duyệt…

Qua hơn 15 năm triển khai, chủ trương CPH DNNN đã đạt được những

hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội nhất định, tạo sự rõ ràng về quyền lợi,

nghĩa vụ, trách nhiệm của từng thành phần sở hữu, từng cổ đông; xoá bỏ cơ

chế phân phối bình quân; hình thành phương thức phân chia lợi nhuận theo tỷ

- 54 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

lệ góp vốn, giảm được sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của các

cấp chính quyền, các cơ quan quản lý Nhà nước; tạo cơ chế quản lý tự chủ, tự

chịu trách nhiệm nhằm thúc đẩy doanh nghiệp năng động hơn; tạo cơ sở pháp

lý và vật chất để người lao động xác lập và nâng cao vai trò làm chủ, gắn bó

máu thịt với doanh nghiệp. Kết quả nổi bật của CPH là năng lực cạch tranh

của các DNNN được nâng lên đáng kể. Họ phải tự tìm kiếm cơ hội, đối tác

kinh doanh, chủ động đổi mới công nghệ, tiết kiệm tối đa các chi phí để tăng

doanh thu. CPH cũng đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư cho phát triển

sản xuất kinh doanh, tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Dưới góc độ

phân công lao động trong xã hội, CPH đã thực sự giải phóng sức lao động từ

chỗ đông mà không mạnh, ỷ lại, dựa dẫm, thụ động chuyển sang chủ động

tích cực hơn trong nền kinh tế nhiều thành phần với thái độ đầy đủ hơn, trách

nhiệm hơn, góp phần tăng thu nhập cho xã hội, cho Nhà nước và cho người

lao động.

CPH là vấn đề hệ trọng và khá nhạy cảm, phù hợp với chủ trương của

Đảng, Nhà nước, được quốc tế ủng hộ và chúng ta đã thu được một số kết

quả, tuy nhiên tiến độ còn chậm, chất lượng CPH chưa đồng đều ở 3 giai

đoạn, điều day dứt nhất vẫn là vấn đề xác định giá trị tài sản không chính xác

làm thiệt hại lớn cho Nhà nước … Cần phải có đánh giá cụ thể về nộp ngân

sách cho Nhà nước là bao nhiêu khi bán cổ phần …, để có chính sách thuế,

hoặc ưu đãi cho những doanh nghiệp đã CPH làm ăn tốt; vấn đề nợ cũng là

vấn đề cần phải bàn, nhất là nợ xấu khó đòi đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Cần có giải pháp khả thi để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa DNNN.3

1. Đánh giá những kết quả đã đạt đƣợc của quá trình CPH

3 http://www.cpv.org.vn/details_cd.asp?topic=70&subtopic=169&id=BT2190657284 theo báo điện tử “Đảng Cộng sản Việt Nam”. - 55 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

CPH DNNN là một chủ trương lớn của Đảng, một nội dung cơ bản và

quan trọng nhất của tiến trình đổi mới hệ thống DNNN. Hơn 15 năm qua, kể

từ năm 1992 đến nay, CPH DNNN đã đem lại những kết quả rõ rệt. Cụ thể là:

- Về số lượng DNNN được cổ phần hóa.

Chủ trương CPH DNNN đã được thí điểm từ trước năm 1992, thực

hiện từ năm 1993, được triển khai mạnh từ năm 1998 và đẩy mạnh hơn từ

năm 2003.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa

IX đã đề ra phải rà soát và thu hẹp hơn nữa diện các DNNN giữ 100% vốn

hoặc có cổ phần chi phối, tập trung vào một số ngành và lĩnh vực then chốt

thật sự cần có vai trò của kinh tế Nhà nước; đẩy mạnh CPH DNNN, mở rộng

diện các DNNN CPH, kể cả những doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty

kinh doanh có hiệu quả. Nhờ đó, từ năm 1992 đến hết năm 2005, trên phạm vi

cả nước đã cổ phần hóa được 2987 DNNN và bộ phận DNNN.

- Về vấn đề cơ cấu lại DNNN

Việc hoàn thành CPH 2987 DNNN không chỉ đơn thuần là giảm được

số lượng DNNN mà còn để DNNN có được bước cơ cấu lại quan trọng. Từ

chỗ DNNN rất phân tán, dàn trải trong tất cả các ngành, các lĩnh vực, đã tập

trung vào hơn 39 ngành, lĩnh vực then chốt của ngành kinh tế, trong đó nhiều

ngành, lĩnh vực, DNNN cần chi phối để Nhà nước làm công cụ điều tiết vĩ

mô.

Quy mô vốn của DNNN sau CPH cũng được tăng lên đáng kể. Vốn

bình quân của một công ty cổ phần khoảng 24 tỷ đồng (năm 2001) đến năm

2004 đã tăng lên đến 63,6 tỷ đồng. Tỷ trọng các doanh nghiệp có vốn Nhà

nước dưới 5 tỷ đồng giảm đáng kể và đến nay hầu như không còn công ty cổ

phần có vốn Nhà nước dưới 1 tỷ đồng.

Tài chính doanh nghiệp được lành mạnh hoá hơn một bước thông qua

việc cơ cấu lại các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hoá ứ đọng, tồn kho

- 56 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

lâu ngày, kém hoặc mất phẩm chất, máy móc thiết bị không dùng hạch toán

vào chi phí hoạt động kinh doanh, giảm vốn Nhà nước hoặc bán cho công ty

mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.

Lao động của công ty cổ phần được cơ cấu lại một bước. Tính đến

31/12/2004 đã có 654 doanh nghiệp được duyệt kinh phí giải quyết cho

27.674 lao động dôi dư với số tiền trợ cấp là 812,113 tỷ đồng, bình quân mỗi

người được 30 triệu đồng.

- Về việc huy động vốn xã hội đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh

Trong quá trình CPH DNNN, vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đã được

đánh giá lại khách quan hơn, tiếp cận hơn với kinh tế thị trường. Mặt khác đã

huy động được 12.411 tỷ đồng của các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội vào

doanh nghiệp để kinh doanh, đầu tư phát triển sản xuất. Đồng thời, Nhà nước

cũng thu lại được 10.169 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN và sử dụng vào

mục đích khác khuyến khích DNNN phát triển. Phần vốn Nhà nước tại các

doanh nghiệp CPH không những không bị giảm đi mà còn được bảo toàn và

phát triển nhờ hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp CPH ngày

càng tăng. ở một số doanh nghiệp, tỷ trọng vốn Nhà nước giảm là do Nhà

nước bán phần vốn Nhà nước trong công ty cổ phần hoặc Nhà nước không bổ

sung thêm tiền để duy trì tỷ lệ vốn Nhà nước theo phương án CPH ban đầu

khi công ty cổ phần phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ cho công ty

FPT, công ty cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh…

Trong quá trình hoạt động, các công ty cổ phần đã phát hành các loại

cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Sự chuyển nhượng các

loại cổ phiếu và trái phiếu này trên thị trường chứng khoán đã tạo nên sự phân

bổ linh hoạt các nguồn vốn xã hội. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy

móc kỹ thuật hiện đại, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, kinh doanh đa

ngành, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước cũng như ngoài

nước.

- 57 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

CPH thúc đẩy quá trình ra đời, hình thành và phát triển thị trường

chứng khoán. Đến cuối năm 2004, đã có 26 công ty cổ phần hình thành từ

CPH DNNN được niêm yết, mặc dù số lượng còn ít nhưng đây mới chỉ là kết

quả ban đầu. Tới thời điểm hiện tại đã có 45 công ty cổ phần được niêm yết.

Sự thành công và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam phụ thuộc

vào quá trình CPH DNNN. CPH đang ngày càng tạo ra nhiều hàng hoá đủ

tiêu chuẩn và chất lượng cho hoạt động của thị trường chứng khoán. Ngược

lại, thị trường chứng khoán được phát triển lại có tác động đẩy nhanh tiến độ

và quy mô CPH.

- Về cơ chế quản lý của công ty sau CPH

Việc chuyển từ DNNN thành công ty cổ phần đã mang lại cho công ty

cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả, thích nghi với nền kinh tế thị trường.

nhờ CPH đã xác định rõ người chủ đích thực của doanh nghiệp – công ty cổ

phần. Đó là các cổ đông, bao gồm Nhà nước, lao động - cổ đông trong doanh

nghiệp và các cổ đông ngoài doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động hoàn

toàn theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt

động sản xuất kinh doanh theo pháp luật, hạch toán kinh tế thật sự.

Sau CPH, doanh nghiệp được tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật

doanh nghiệp. Theo cơ cấu có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban

kiểm soát và Ban giám đốc công ty. Có sự phân định rõ ràng quyền hạn và

trách nhiệm của chủ sử hữu và người sử dụng tài sản của công ty trong kinh

doanh. Mô hình tổ chức quản lý mới đã tạo thêm động lực và tính năng động

trong sản xuất kinh doanh, đồng thời đã loại bỏ hoặc hạn chế về cơ bản những

hiện tượng tiêu cực trong các hoạt động kinh doanh và quản lý. Công ty được

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, đặc biệt là trong đầu tư phát triển, phân

phối lợi nhuận, sắp xếp tổ chức và bổ nhiệm cán bộ. Thực tế sau CPH, các

công ty đã và đang thực hiện nhiều biện pháp tiết kiệm trong sản xuất kinh

doanh và quản lý, đem lại hiệu quả rõ rệt.

- 58 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Các chi phí gián tiếp, quản lý đã giảm được khoảng 25%, cá biệt có

công ty giảm 50% so với trước CPH. Nhiều công ty cổ phần đã tiến hành rà

soát lại và xây dựng mới các nội quy hoạt động như: quy chế tài chính, quy

chế lao động, tuyển dụng, … Qua đó CPH cũng góp phần đào tạo, rèn luyện,

dần hình thành đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp thích

nghi với cơ chế thị trường.

- Về vai trò của người lao động trong doanh nghiệp

Cổ phần đã tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng

cao vai trò làm chủ của doanh nghiệp. Chính sách CPH cho phép người lao

động đang làm việc trong DNNN khi chuyển sang công ty cổ phần trở thành

cổ đông. Người lao động - cổ đông là chủ thực sự phần vốn góp của mình, có

quyền tham gia quản lý doanh nghiệp một cách có hiệu quả bằng việc dự Đại

hội cổ đông để thông qua điều lệ công ty, bầu các thành viên Hội đồng quản

trị và Ban kiểm soát, biểu quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất

kinh doanh thuộc thẩm quyền Đại hội đồng cổ đông như chiến lược kinh

doanh, kế hoạch phát triển dài hạn và hàng năm, tăng giảm vốn điều lệ, đầu tư

chiều sâu và mở rộng sản xuất, phân chia lợi nhuận… Nhờ đó, họ nâng cao

được tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong sản xuất

kinh doanh, góp phần làm cho hiệu quả doanh nghiệp ngày càng tăng.

Việc kiểm tra, giám sát của người lao động - cổ đông và xã hội đối với

công ty cổ phần, nhất là những công ty niêm yết, thực sự có hiệu quả, tài

chính của công ty cổ phần được minh bạch, công khai, cùng với những quy

định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông nói trên, tạo điều kiện

cho việc thực hiện quy chế dân chủ trong doanh nghiệp một cách đầy đủ và

khá triệt để.

- Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau CPH

Nhìn chung, đại đa số các doanh nghiệp sau CPH hoạt động có hiệu

quả hơn. Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về tình hình doanh

- 59 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

nghiệp của 850 DNNN hoàn thành CPH đã hoạt động trên một năm cho thấy

các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả hơn theo tất cả các chỉ tiêu chủ

yếu. Cụ thể là:

o Vốn điều lệ tăng bình quân 44%

o Doanh thu tăng bình quân 23,6%, trong đó 71,4% số doanh nghiệp

có doanh thu tăng.

o Lợi nhuận tăng bình quân 39,7% ; trên 90% số doanh nghiệp sau

khi cổ phần hoạt động kinh doanh có lãi.

o Nộp ngân sách tăng bình quân 24,9%, mặc dù các doanh nghiệp

này được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử

dụng đất, tiền thu sử dụng vốn Nhà nước.

o Thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%

o Số lao động bình quân tăng 6,6% do các doanh nghiệp mở rộng sản

xuất kinh doanh, tăng việc làm.

o Cổ tức bình quân đạt 17,11%, cao hơn nhiều so với lãi suất tiền gửi

ngân hàng. Tính chung tới 71,4% số doanh nghiệp có cổ tức cao

hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng.

Tóm lại, những kết quả đạt được nêu trên đã khẳng định chủ trương

CPH DNNN của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. CPH là giải pháp

cơ bản, là nội dung quan trọng và chủ yếu nhất của tiến trình sắp xếp, đổi mới

và phát triển DNNN ở nước ta.

2. Những tồn tại làm chậm tiến trình CPH

Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, trong quá trình CPH vẫn còn

tồn tại và phát sinh một số vấn đề rất đáng lưu tâm và cần được giải quyết như

sau:

2.1 Số lƣợng doanh nghiệp CPH tuy có tăng đáng kể, nhất là những

năm gần đây nhƣng so với yêu cầu đổi mới còn hạn chế, tốc độ

CPH còn chậm, thời gian thực hiện CPH còn quá dài

- 60 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Về số lượng doanh nghiệp được CPH so với các đề án của các bộ,

ngành, địa phương và tổng công ty 91 do Chính phủ phê duyệt mới chỉ thực

hiện được 80%. Nhiều bộ, ngành, và các tổng công ty kết quả CPH còn quá

thấp, hàng loạt đề án mới chỉ đạt 15-30%.

Về thời gian CPH , từ năm 2001 đến năm 2004, thời gian cần thiết bình

quân để chuyển một DNNN sang công ty cổ phần đã được rút bớt từ bình

quân 437 ngày/ doanh nghiệp xuống 260 ngày, giảm 40% song vẫn còn quá

dài.

2.2 Vốn Nhà nƣớc trong các DNNN đã CPH còn quá nhỏ và việc huy

động vốn trong quá trình CPH chƣa nhiều.

Kết quả CPH cho thấy, mặc dù đã CPH được khoảng trên 70% số

DNNN (tính đến hết năm 2005) song số vốn Nhà nước được CPH còn quá

nhỏ bé, mới được 25,9 ngàn tỷ đồng, bằng 12% tổng số vốn Nhà nước tại các

DNNN. Nhà nước vẫn nắm giữ tỷ lệ vốn quá cao trong tổng vốn điều lệ các

doanh nghiệp đã được CPH, bình quân tới 46,3%. Trong khi đó tỷ lệ vốn này

của lao động - cổ đông trong doanh nghiệp và của các cổ đông ngoài doanh

nghiệp thì thấp, tương ứng là 29,6% và 24,1%. Hầu hết số DNNN được CPH

là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, mà vốn Nhà nước thường tập trung ở các doanh nghiệp lớn.4

Nhà nước cũng còn nắm giữ cổ phần chi phối ở gần 80% tổng số công

ty cổ phần và nắm giữ 100% vốn tại 1200 DNNN. Điều này cho thấy, Nhà

nước vẫn còn đầu tư tràn lan, dàn trải ra phần lớn các ngành và lĩnh vực của

nền kinh tế. Đồng thời, tình trạng này cũng hạn chế việc mua cổ phần tham

gia đầu tư của công nhân viên trong doanh nghiệp, đặc biệt là của các tổ chức

và cá nhân ngoài doanh nghiệp ở trong nước và những nhà đầu tư nước ngoài.

2.3 Việc đa dạng hoá sở hữu trong CPH còn hạn chế.

4 Theo nguồn số liệu của www.vneconomy.com.vn - 61 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Điều này thể hiện ở tỷ lệ vốn của Nhà nước trong tổng vốn điều lệ còn

lớn. Nhiều doanh nghiệp thuộc diện không cần giữ cổ phần chi phối nhưng

Nhà nước vẫn nắm giữ. Nhiều người lao động trong doanh nghiệp chưa đủ

khả năng mua cổ phần với số lượng lớn ngoài số lượng cổ phần ưu đãi. Trong

khi đó, không ít người lao động không những không mua cổ phần lại bán cổ

phần ưu đãi ngay sau khi mua. Việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp cũng

chưa được nhiều (mới chỉ đạt 24,1% vốn điều lệ) và chưa rộng rãi; các cổ

đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để trở thành những người

chủ có vai trò nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp thực hiện CPH “khép kín”, có tới 860 doanh

nghiệp (38,4%) không có cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp. ở một số nơi có

hiện tượng định giá doanh nghiệp thấp hơn so với giá thị trường gây thất thoát

tài sản của Nhà nước.

Việc cơ cấu lại DNNN chưa được thực hiện triệt để theo đúng tinh thần

Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX và chương trình hành động của Chính phủ,

chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Nhiều doanh nghiệp thuộc diện CPH

nhưng vẫn chưa tiến hành, lộ trình CPH ở nhiều bộ, địa phương, tổng công ty

Nhà nước không đảm bảo. ở nhiều bộ, địa phương, DNNN vẫn còn dàn trải.

Tỷ trọng DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng tuy có giảm nhưng vẫn còn quá cao.

Tài chính doanh nghiệp còn nhiều tồn tại và lao động dôi dư vẫn đang tiếp tục

là trở ngại không nhỏ đối với việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của

DNNN.

2.4 Các DNNN sau CPH chƣa có sự đổi mới, chuyển biến thực sự

Đây là điểm hạn chế nổi bật trong quản lý doanh nghiệp sau CPH.

Phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn tiếp tục duy trì như

khi còn là DNNN. Điều này thường tồn tại ở những doanh nghiệp mà Nhà

nước còn giữ cổ phần quá lớn (trên 70%) và chi phối; chủ tịch Hội đồng quản

trị, giám đốc và các cán bộ quản lý khác đều từ DNNN trước đó chuyển sang;

- 62 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

đồng thời sự hiểu biết, nắm vững và áp dụng pháp luật công ty cổ phần,

quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của cổ đông còn hạn chế. Những thông lệ quản

trị doanh nghiệp tốt chưa được áp dụng nhiều trong các công ty cổ phần, điều

lệ bắt buộc đối với các công ty niêm yết trên thực tế cũng mới chỉ có tính chất

tham khảo. Các công ty cổ phần chưa được khuyến khích mạnh mẽ niêm yết

trên thị trường chứng khoán.

Trong nhiều công ty cổ phần, người lao đông - cổ đông một phần chưa

nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần khác do sự kém hiểu

biết pháp luật về công ty cổ phần nên có chỗ quyền làm chủ chưa được phát

huy đầy đủ, ngược lại ở những công ty khác những quy định của pháp luật lại

bị lạm dụng quá mức, gây khó khăn cho quản lý của Hội đồng quản trị, điều

hành của giám đốc và đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn bế tắc, việc

xử lý kéo dài, ảnh hưởng đến quá trình CPH. Về pháp lý, cổ đông thiểu số

cũng chưa có được những chế định bảo vệ đúng mức nên vai trò còn mờ nhạt.

Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý công ty cổ phần vẫn chưa

được thay đổi mà phần lớn các công ty vẫn áp dụng như DNNN.

2.5 Một số công ty cổ phần có kết quả kinh doanh thấp, giảm so với

trƣớc khi CPH

Tuy hiệu quả của CPH ngày càng được khẳng định, nhưng sau CPH rất

nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn, đặc biệt đã xuất hiện tình trạng phân

biệt đối xử giữa DNNN với doanh nghiệp đã CPH mà theo phản ánh của các

doanh nghiệp điều này thể hiện rõ các chính sách và thực thi chính sách về đất

đai, tài sản, tín dụng.

Thực tế, sau CPH, diện tích đất đai nhà xưởng không thay đổi nhiều.

Các địa phương vẫn tiếp tục cho doanh nghiệp thuê đất với giá thấp, giao đất

với giá thấp hơn so với giá thị trường, nhưng do sự thiếu rõ ràng về quyền sử

dụng đất cũng như chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ đất đai có

liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức công ty cổ phần đã làm nảy sinh

- 63 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp CPH. Rất nhiều doanh nghiệp lúng túng

trong việc bố trí kế hoạch hoạt động kinh doanh như xây dựng nhà xưởng, cơ

sở hạ tầng...; hay góp vốn liên doanh bằng tài sản có trên đất mà doanh nghiệp

đang sử dụng. Từ thực tế này đã xuất hiện tình trạng các đơn vị thành viên

tổng công ty đã CPH nhưng không có quyền sử dụng đất, không được đứng

tên thuê giao đất nên phải nhờ tổng công ty đứng ra dùng quyền sử dụng đất

vay vốn hộ.

Tương tự, trước đây, khi còn là thành viên trong các Tổng công ty, hầu

hết các dây chuyền sản xuất chính hoặc các tài sản lớn đều do Tổng công ty

đầu tư, đứng tên sở hữu, nhưng khi CPH việc chuyển giao đăng ký chưa được

dứt điểm, gây ra tình trạng quyền sở hữu tài sản không rõ ràng. Sự không rõ

ràng về quyền lợi và trách nhiệm đã khiến cho doanh nghiệp CPH gặp nhiều

vướng mắc, nhất là khi doanh nghiệp triển khai mở rộng, liên doanh, hợp tác

kinh doanh... với các đối tác khác.

Sau CPH, doanh nghiệp cần rất nhiều vốn để sản xuất kinh doanh, đầu

tư mở rộng sản xuất nhưng dưới mô hình hoạt động mới - công ty cổ phần đã

gặp phải khó khăn rất lớn là thiếu vốn. Theo các doanh nghiệp, sau CPH, tỷ

trọng vay vốn từ nguồn tín dụng thương mại nhà nước đã giảm đi đáng kể.

Doanh nghiệp cần vốn phải trông chờ vào các nguồn tín dụng khác kể cả tín

dụng phi chính thức và tín dụng người lao động, cổ động hoặc gia đình, bạn

bè.

Không chỉ có thế, sự phân biệt đối xử đối với doanh nghiệp CPH thể

hiện rõ qua việc các điều kiện về tín dụng, thế chấp, cầm cố tài sản và lòng tin

khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể đối với doanh nghiệp trước

và sau khi chuyển đổi. Đây là những trở ngại phát sinh gây hạn chế đối với

các doanh nghiệp chuyển đổi. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn

vay ưu đãi và các biện pháp tài chính như khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ, chuyển

vốn vay thành vốn nhà nước đầu tư... sau CPH không còn. Doanh nghiệp cần

- 64 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

nguồn vốn lớn, huy động nội bộ không đủ buộc phải tính đến các nguồn vốn

bên ngoài khác, thậm cho với cả tín dụng phi chính thức tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Những công ty này là những công ty hoạt động trong những ngành, lĩnh

vực điều kiện phát triển khó khăn, công nghệ lạc hậu, sản phẩm thiếu sức

cạnh tranh, chi phí kinh doanh cao hơn mức trung bình, ví dụ như các công ty

hoạt động trong lĩnh vực cơ khí, máy móc… Cụ thể trong đó có 28,6% số

doanh nghiệp có doanh thu giảm; 10% số doanh nghiệp bị thua lỗ; 42% số

doanh nghiệp có số nộp ngân sách giảm so với trước khi CPH. Nhiều doanh

nghiệp có số lao động giảm, chủ yếu là do doanh nghiệp được giải quyết lao

động dôi dư, sắp xếp lại lao động, tinh giảm biên chế.

Theo đánh giá chung, qua hơn mười lăm năm tiến hành, CPH DNNN

đã được triển khai thực hiện đúng hướng, đường lối của Đảng và đạt được

nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên bên cạnh đó, trong CPH cũng có nhiều tồn

tại, đòi hỏi phải có những chủ trương, giải pháp phù hợp để đẩy nhanh trong

thời gian tới.

- 65 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

CHƢƠNG III: MỘT SỐ CƠ CHẾ GIẢI PHÁP ĐẨY

MẠNH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ.

I.

Phƣơng hƣớng chung của Nhà nƣớc

1. Quan điểm CPH:

Thứ nhất, phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu

khách quan. CPH DNNN để cơ cấu lại lực lượng, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp thuộc các thành phần khác có kinh doanh, cơ hội cùng phát triển

Thứ hai, CPH phải tạo điều kiện để phát huy vai trò chủ đạo, thực hiện

cho được định hướng xã hội chủ nghĩa đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Thứ ba, trên cơ sở quan điểm hiệu quả, tăng trưởng, ổn định và bền

vững để lựa chọn phương hướng và các giải pháp thực hiện CPH DNNN.

Thứ tư, cần tiến hành một cách thận trọng, nhưng kiên trì và đồng bộ

các giải pháp trong tổ chức thực hiện

Thứ năm, muốn đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả việc CPH các DNNN

phải tiến hành đồng thời cải cách hành chính với đổi mới quản lý Nhà nước

về kinh tế.

Thứ sáu, CPH các DNNN phải dựa theo tiêu thức ngành kinh tế - kỹ

thuật, không phân biệt chủ quản, quy mô, đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập

trung sản xuất sau khi thực hiện sắp xếp.

Thứ bảy, trong quá trình thực hiện CPH DNNN phải bảo đảm ổn định

được tư tưởng của cán bộ, Đảng viên, người lao động.

Thứ tám, khẳng định rõ chức năng của tổ chức Công đoàn là đại diện

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động .

2. Mục tiêu CPH:

Thứ nhất, tạo lập những tiền đề cơ bản, toàn diện để DNNN phát huy

quyền tự chủ

- 66 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Thứ hai, CPH giúp cho việc tổ chức sắp xếp lại một bước cơ bản các

DNNN tạo ra cơ cấu hợp lý trong khu vực kinh tế Nhà nước

Thứ ba, tách chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế ra khỏi chức năng

quản lý sản xuất kinh doanh ở các DNNN.

II. Một số cơ chế, giải pháp đẩy mạnh CPH:

1. Nâng cao nhận thức về CPH

Tuyên truyền nhận thức đúng đắn về chủ trương CPH cho nhân dân,

đặc biệt là đội ngũ cán bộ công nhân viên trong các DNNN thực hiện CPH là

công việc đầu tiên phải tiến hành. Vấn đề nhận thức, tư tưởng là một trở lực

lớn đối với tiến trình CPH nhưng một khi được khơi thông, quán triệt; sẽ nhận

được sự đồng lòng, ủng hộ của mọi thành viên và sẽ biến thành một động lực

lớn. Cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nhận thức về CPH rộng rãi trong cả

nước để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và các cơ

quan hữu quan trong quá trình và sau CPH. Nhận thức đúng về DNCPH sẽ

giúp các cơ quan quản lý Nhà nước quan tâm đúng mức hơn đến hoạt động

sản xuất kinh doanh của các DNCPH, tránh phân biệt đối xử. Quá trình CPH

phải được tiến hành công khai, dân chủ, tạo điều kiện cho mọi người và các tổ

chức nắm được thông tin, sẵn sàng tham gia mua cổ phiếu khi có điều kiện.

Kết hợp tuyên truyền, thuyết phục với áp dụng biện pháp hành chính

đối với những doanh nghiệp thuộc diện cổ phẩn hoá. Tăng cường công tác

tuyên truyền CPH, khuyến khích các DNNN tự nguyện đăng ký CPH, đồng

thời áp dụng các biện pháp hành chính buộc các DNNN thuộc diện CPH phải

thực hiện. Sử dụng rộng rãi các hình thức hội thảo khoa học để đẩy mạnh

tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN, phổ biến,

thông tin những kinh nghiệm tốt của một số nước trên thế giới nhất là các

nước có điều kiện tương tự như Việt Nam. Cần phải làm cho mọi người hiểu

- 67 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

rõ rằng Đảng ta không những đang tiếp tục đẩy nhanh quá trình CPH DNNN,

mà còn chuyển sang giai đoạn nâng cao cả về chất trên cả ba mặt:

- Từ CPH chỉ là những doanh nghiệp nhỏ và làm ăn thua lỗ sang CPH cả

những doanh nghiệp lớn, các tổng công ty, các doanh nghiệp làm ăn có

hiệu quả, kể cả những doanh nghiệp trước đây Nhà nước độc quyền.

- Từ CPH DNNN trong một số lĩnh vực rất hạn chế sang CPH các doanh

nghiệp ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá.

- Từ hình thức CPH khép kín trong nội bộ là chính sang bán ra bên ngoài

thị trường, kể cả bán cho các nhà đầu tư nước ngoài.

CPH DNNN ở nước ta hiện nay đang là vấn đề thời sự cấp thiết. Quản

lý Doanh nghiệp cổ phần là công việc mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi các nhà

quản lý phải nắm vững đặc điểm đặc thù của Doanh nghiệp cổ phần, vận dụng

lý luận để xử lý các tình huống kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh

nhằm đạt hiêụ quả kinh tế cao.

Trong sản xuất, Doanh nghiệp đòi hỏi sự tồn tại một lượng vốn tiền tệ

như một tiền đề bắt buộc. Không có vốn sẽ không có bất kỳ công việc sản

xuất kinh doanh nào. Quy mô sản xuất kinh doanh càng lớn, áp dụng tiến bộ

khoa học kỹ thuật càng nhiều, đòi hỏi càng nhiều vốn.

Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển, nhu cầu tập trung

vốn tạo điều kiện cho những kinh doanh lớn, áp dụng kỹ nghệ và công nghệ

tiên tiến, tăng sức cạnh tranh là điều tất yếu. Điều đó dẫn đến sự hình thành

các công ty cổ phần.

Ở nước ta hiện nay, chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần. Do đó, các công ty cổ phần ra đời là xu hướng tất yếu. Sự hình thành

các công ty cổ phần là hướng đi đúng đắn để nền kinh tế nước ta hoà nhập với

kinh tế thế giới, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tập trung vốn đầu tư trong

nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang rất cần vốn và công

- 68 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

nghệ mới, đồng thời điều đó cũng phù hợp với xu hướng quốc tế hoá đời sống

kinh tế.

Công tác CPH Doanh nghiệp là quá trình tạo ra, thành lập các công ty

cổ phần. Với mục đích thu hút vốn và tạo việc làm cho xã hội do đó cho nên

công tác phổ biến, tuyên truyền chủ trương đường lối chính sách CPH Doanh

nghiệp của Đảng và Nhà nước phải được quán triệt sâu sắc trong cán bộ,

Đảng viên, trong toàn thể nhân dân. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải

quán triệt và tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trương, chính sách

của Đảng về CPH DNNN. Nhằm làm cho mọi người hiểu rõ được mục đích,

ý nghĩa, ích lợi và trách nhiệm của mình đối với chủ trương lớn của Đảng và

Nhà nước đề ra. Từ đó mọi người sẽ tích cực hưởng ứng tham gia một cách

nhiệt tình và với tinh thần tự nguyện, thoải mái, để được đóng góp một phần

công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới đất nước.

2. CPH kết hợp với hoàn thiện thị trƣờng chứng khoán

Phát triển, hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường, nhất là thị

trường chứng khoán. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến

khích kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể phát triển; khuyến khích các hình thức

liên kết, liên doanh với Nhà nước; Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích

hợp pháp của họ; tạo lập đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là phát triển thị

trường chứng khoán. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để hoạt động của Trung

tâm giao dịch chứng khoán ngày càng phát triển thuận lợi, hoàn thiện các

công cụ quản lý vĩ mô. Điểm mấu chốt là tăng tiềm lực và lành mạnh hoá nền

tài chính quốc gia, hoàn thiện chính sách tài chính tiền tệ và hoạt động ngân

hàng, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và giảm phát, nâng cao năng lực

quản lý kinh tế thị trường của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa

phương, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường,

đồng thời phải hướng dẫn, kiểm tra nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm túc các

Luật đã ban hành. - 69 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

3. Hoàn thiện vấn đề định giá doanh nghiệp.

Định giá doanh nghiệp là một nội dung quan trọng trong quá trình

CPH, mang tính kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản nhưng rất phức tạp khó khăn.

Các cơ quan quản lý các cấp cần tiến hành khẩn trương, chỉ đạo kịp

thời và cụ thể ngay từ khi bắt đầu để các ngành, các đơn vị vận dụng thống

nhất về nguyên tắc và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp.

Các văn bản hướng dẫn phải thống nhất và phù hợp với chỉ đạo của

Chính phủ để tạo ra sự công bằng và khách quan giữa các doanh nghiệp.

Hướng dẫn phương pháp định giá DN thống nhất trong từng loại hình

sản xuất kinh doanh để đảm bảo sự nhất quán và công bằng giữa các DN.

Nghiên cứu sửa đổi quy định về Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp

theo hướng nhanh chóng và gọn nhẹ. Việc thành lập chậm Hội đồng xác định

giá trị DN sẽ ảnh hưởng đến kết quả xác định giá trị doanh nghiệp do thời

gian kiểm kê và thời gian thẩm tra xác định giá trị doanh nghiệp cách xa nhau.

Tiến độ CPH cũng vì thế bị chậm lại.

Bổ sung hệ thống các văn bản hướng dẫn việc xác định chất lượng còn

lại của tài sản làm cơ sở cho việc định giá như các phương pháp hoặc quy

chuẩn để xác định hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình của các thiết bị, nhà

cửa, phương pháp xác định giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế do vị trí kinh

doanh, giá trị thương hiệu.

Đổi mới cách xác định giá trị doanh nghiệp gắn với đổi mới phương

thức bán cổ phiếu đối với doanh nghiệp CPH. Theo đó, cần mở rộng hình

thức định giá thông qua các tổ chức thẩm định giá, kiểm toán, tư vấn tài chính

đối với doanh nghiệp vừa và lớn, đối với tổng công ty nên thuê các tổ chức

định giá nước ngoài, đồng thời gắn quá trình CPH với niêm yết cổ phiếu trên

thị trường chứng khoán, đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ nên dùng hình

thức đấu giá doanh nghiệp thông qua hội đồng đấu giá, hoặc dùng hình thức

định giá thông qua hội đồng (có chuyên môn), hoặc có thể giao cho doanh - 70 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

nghiệp tự định giá, trừ cơ quan có quyết định CPH công bố. Các chính sách

đối với người lao động vẫn phải được giải quyết thoả đáng theo nguyên tắc

đảm bảo lợi ích vật chất và tái tạo việc làm và các nghĩa vụ xã hội khác.

4. Giải quyết các bất cập, vƣớng mắc về quyền sở hữu nhà, quyền sử

dụng đất.

Có thể giải quyết vướng mắc này theo hướng:

- Thí điểm tính giá trị quyền sử dụng đất vào phần vốn góp Nhà nước trong

công ty cổ phần theo giá thoả thuận trong Hội đồng định giá dựa trên

khung giá phân loại cụ thể. Đây là biện pháp để khai thác tối đa và hiệu

quả giá trị quyền sử dụng đất, tạo điều kiện phát triển một thị trường đất

đai, thị trường bất động sản của Việt Nam.

- Cho phép các DN CPH được mua lại quyền sử dụng đất theo phương

thức trả góp trong một khoảng thời gian nhất định. Nhà nước cũng có thể

cho thuê quyền sử dụng đất với thời hạn ít nhất là 50 năm, có điều chỉnh

giá 5 năm một lần theo mặt bằng chung của thị trường. Việc chỉnh giá

thuê đất không thể điều chỉnh ngay được vì phải tính lại đồng bộ tất cả

các quận huyện. Thời gian tính lại giá cho thuê có khi đến gần 2 năm làm

chậm quá trình CPH.

- Nhà nước tiến hành bán đấu giá một số nhà đất đắc địa, dùng tiền đó bổ

sung vào Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH. Hoặc Nhà nước cho đấu giá thuê

đối với các nhà đất đó.

Các cơ quan quản lý nhà đất, Uỷ ban nhân dân.phải được giao trách

nhiệm hướng dẫn và xử lý trực tiếp các tranh chấp quyền sử dụng đất nh-

ư trường hợp các DN Nhà nước cùng chung một lô đất hoặc DN này xây

dựng trên đất thuê của DN khác, một phần đất bị lấn chiếm chưa đựoc

giải toả, mặc dù DN đã trả tiền thuê đầy đủ.

Cơ quan hữu trách về nhà đất cần sớm giải quyết vấn đề hợp thức hoá

giấy tờ sở hữu nhà và ký hợp đồng chính thức về việc cho thuê đất đối

- 71 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

với các DN đã CPH. Đến nay, mặc dù đã hơn 4 năm kể từ khi tiến hành

CPH ở Hà Nội, song tất cả 89 DN CPH vẫn chưa được cấp giấy chứng

nhận sở hữu nhà và hợp đồng thuê đất. Điều này gây khó khăn cho doanh

nghiệp trong việc thế chấp tài sản có giá trị để vay vốn ngân hàng.

Giải quyết thoả đáng lao động dôi dư sau CPH, doanh nghiệp có quyền

chọn, sử dụng những người đáp ứng được yêu cầu công việc. Những người

không đáp ứng yêu cầu thì Nhà nước phải giải quyết. Nhà nước có chế độ rõ,

thoả đáng cho về hưu sớm, về mất sức hoặc đào tạo lại đối với những người

còn trẻ, khoẻ có khả năng đáp ứng những ngành nghề, công việc mới. Quy

định hiện nay về việc không được chấm dứt hợp đồng lao động với người lao

động sau khi doanh nghiệp thực hiện CPH trong năm đầu tiên đang gây khó

khăn cho doanh nghiệp. Việc chấm dứt hợp đồng lao động với những người

không đáp ứng yêu cầu công việc ở các doanh nghiệp CPH theo quy định hiện

hành cần được điều chỉnh và sửa đổi theo hướng: tăng mức trợ cấp mất việc

cho người lao động, nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động khi để

người lao động bị mất việc sau khi chuyển sang làm việc tại doanh nghiệp,

giảm bớt thủ tục và tập trung thực hiện sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua quỹ

hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp. Có chương trình tổ chức đào tạo bồi dưỡng lao

động về năng lực làm chủ doanh nghiệp, năng lực quản lý, chuyên môn, nghề

nghiệp

5. Chính sách ƣu đãi hợp lý đối với DNNN thực hiện CPH, đảm bảo

quyền tự chủ kinh doanh bình đẳng

Định hướng chính các chính sách ưu đãi hợp lý như sau:

- Nghiên cứu và ban hành các chính sách để tạo lập môi trường kinh doanh

bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt giữa DN CPH và các

DNNN. Cần xoá bỏ các ưu đãi mang tính chất bao cấp kéo dài đối với

DNNN như cho vay chỉ cần tín chấp với phương án được duyệt, cho vay

với lãi suất ưu đãi, cho khoanh nợ, xoá nợ, dãn nợ. Xem xét lại sự bao

- 72 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

cấp về sử dụng đất đai với diện tích quá rộng, vị trí thuận lợi nhưng

không nộp đầy đủ tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất. Tiến hành thu hồi

hoặc tăng mức thuê phải nộp đối với phần đất sử dụng không đúng mục

đích. Không tiếp tục cho nợ thuế, hợp thức hoá các khoản nợ thuế kéo

dài. Xoá bỏ các hình thức trợ cấp, trợ giá và ưu đãi kiểu bao cấp đối với

các hình thức khác.

Cần cụ thể hoá quyền lợi và trách nhiệm hành chính, trách nhiệm vật chất

và trách nhiệm pháp lý đối với kết quả làm việc của cán bộ quản lý điều

hành trong DNNN. Việc cách chức đối với giám đốc điều hành DNNN

không hiệu quả nhiều năm liền còn là hy hữu trong thực tế.

- Thực hiện chế độ miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần

lợi nhuận được DN để lại đầu tư cho sản xuất kinh doanh như đối với các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài....

Doanh nghiệp được phép thanh toán vào giá thành khoản lãi vay đầu tư

bằng nguồn vốn hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi để thanh toán

lại cho người lao động trong doanh nghiệp.

Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện để các doanh nghiệp sau

CPH được quyền huy động vốn rộng rãi từ nhiều nguồn, giảm bớt số DNNN

nắm cổ phần chi phối. Nhà nước chỉ tiếp tục đầu tư để giữ tỷ lệ cổ phần chi

phối đối với số ít doanh nghiệp thuộc những ngành, lĩnh vực then chốt trong

nền kinh tế, những ngành mà xã hội cần nhưng tư nhân không thể hoặc không

muốn đầu tư; bởi nếu Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối ở nhiều Doanh

nghiệp thì vốn Nhà nước vẫn bị dàn trải, không thể đầu tư theo trọng tâm,

trọng điểm, trong khi lại kìm hãm các công ty cổ phần huy động vốn từ các

nguồn trong xã hội.

Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, bình đẳng đối với các doanh nghiệp

CPH. Thống nhất các chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp

CPH nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; tạo sân chơi bình đẳng giữa các - 73 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Cần hướng dẫn rõ ràng và thống

nhất các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp cổ phần

hóa theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Sớm xoá bỏ sự

phân biệt đối xử trong hệ thống cơ chế, chính sách giữa doanh nghiệp dân

doanh và DNNN, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các công ty cổ

phần và DNNN, nhất là về giải quyết quyền sử dụng đất theo yêu cầu kinh

doanh, vay vốn , xuất nhập khẩu…

Đối với cơ chế quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào công ty cổ phần, cần

có tiêu chuẩn rõ và thống nhất về người đại diện sở hữu Nhà nước và người

trực tiếp quản lý cổ phần Nhà nước tại công ty cổ phần. Cần xác định rõ

quyền và trách nhiệm của người đại diện này đối với hiệu quả kinh doanh của

doanh nghiệp và với hiệu quả sử dụng vốn của Nhà nước. Quy định rõ cơ chế

phối hợp giữa những người quản lý trực tiếp phần vốn Nhà nước tại doanh

nghiệp để bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tránh tình trạng các cá nhân quản lý

trực tiếp phần vốn của Nhà nước có các ý kiến biểu quyết khác nhau. Quy

định cụ thể những vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước thì

người trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nước cần xin ý kiến của cơ quan, trước

khi biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông. Trong các kênh quản lý vốn trực tiếp

từ các cấp thuộc cơ quan Nhà nước (Chính phủ, bộ, địa phương) hoặc quản lý

gián tiếp qua các công ty mẹ, cần phải có một hành lang pháp lý và kinh

nghiệm về quản lý tài sản, tài chính để tránh gây thất thoát.

6. Giải quyết lao động dôi dƣ, đảm bảo lợi ích của ngƣời lao động

trong DN CPH.

Đối với lao động nghèo trong DN CPH: Cần bỏ mức khống chế “không

được vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi” đối với số

cổ phần mua trả dần của người lao động nghèo trong DN. Thay vì bán chịu

cổ phiếu cho ngươì nghèo theo giá ưu đãi, có thể áp dụng phương thức cấp

không một số lượng cổ phiếu nhất định tương đương với mức ưu đãi 30%. . - 74 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Doanh nghiệp sau CPH không phải ghi nợ, theo dõi suốt 10 năm. Hơn nữa,

rủi ro cổ phiếu bán chịu trở thành một khoản nợ khó đòi sau này cũng sẽ bị

loại trừ.

Việc xác định lao động thuộc diện nghèo nên giao cho ban giám đốc,

đảng uỷ, công đoàn bình xét. Thông tư số 03/LĐTBXH ngày 9/1/1999 của Bộ

Lao động Thương binh và Xã hội về quy định chuẩn nghèo chỉ nên dùng làm

tài liệu tham khảo. Thông tư này rất khó áp dụng vì không có căn cứ cụ thể để

xác định thu nhập của người lao động. Nếu chỉ căn cứ những khoản thu nhập

chính thức thì bình quân thu nhập đầu người trong gia đình của hầu hết người

lao động là dưới 300.000 đ. Như vậy dễ xảy ra tranh chấp.

Cần có sự phân biệt mức độ ưu đãi ( số cổ phần cho mỗi năm làm việc

thực tế ) đối với người lao động theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, khắc

phục tình trạng dàn trải, mang tính bình quân như hiện nay.

Nên mở rộng phạm vi đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi đến cả các

cán bộ, công nhân viên của DN thực hiện CPH đã nghỉ hưu, nghỉ việc chờ

giải quyết chế độ, nghỉ mất sức lao động để ghi nhận sự đóng góp của họ

trong quá trình tạo dựng DN trước CPH. Tuy nhiên mức độ ưu đãi đối với đối

tượng này cần có sự phân biệt so với những người đang làm việc.

Người lao động gắn bó với DN trong suốt quá trình hình thành và phát

triển sẽ không khỏi băn khoăn, lo lắng khi DN thực hiện CPH. Đảm bảo lợi

ích người lao động trong quá trình CPH đòi hỏi sự quan tâm đúng mức của

Nhà nước và doanh nghiệp.

Đối với người lao động dôi dư sau CPH: Việc CPH tất yếu sẽ dẫn đến

một bộ phận người lao động mất việc hoặc thôi việc và con số này sẽ càng lớn

lên khi đẩy mạnh triển khai CPH. Giải quyết triệt để vấn đề xã hội này sẽ giúp

giảm trở lực to lớn đối với tiến trình CPH.

7. Hoàn chỉnh chính sách bán cổ phần cho đối tác nƣớc ngoài.

- 75 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Cần dành ưu tiên hơn cho đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của

các doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực như:

- Trong những ngành nghề, lĩnh vực có sự cạnh tranh mãnh liệt với kinh tế

khu vực và thế giới, có nhu cầu về vốn để hiện đại hoá thiết bị, đổi mới

công nghệ, thay đổi phương thức quản lý và mở rộng thị trường ngoài nư-

ớc như: Dệt may, giấy, da giầy, chế biến hàng nông sản, thuỷ sản...

- Trong những ngành công nghệ tiên tiến, hoặc những ngành nghề mới yêu

cầu chất lượng cao nhu: sản xuất thiết bị điện tử, tin học,

- Trong các ngành nghề có nhu cầu vốn lớn, khả năng sinh lời chưa cao

như các ngành giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc các dự án BOT,

BT...

- Thực hiện bán cổ phiếu không giới hạn số lượng ngoài phần bán nội bộ

cho các nhà đầu tư nước ngoài ở những DNNN không cần thiết phải nắm

giữ cổ phần; gặp khó khăn trong việc phát hành cổ phiếu. Kịp thời cung

cấp thông tin, tổ chức bán đấu giá cho các nhà đầu tư nước ngoài thông

qua các công ty Tài chính, thị trường chứng khoán... để đảm bảo thực

hiện tốt các mục tiêu huy động vốn hoặc đổi mới phương thức quản lý.

8. Việc phân bổ và bán cổ phiếu

Xác định mức độ Nhà nước nắm cổ phần chi phối tại các doanh nghiệp

CPH theo hướng thu hẹp lĩnh vực Nhà nước nắm cổ phần chi phối, cho CPH

hết vốn Nhà nước ở những doanh nghiệp hiện Nhà nước còn vốn góp nhưng

dưới mức 50% tổng vốn điều lệ. Hiện nay, vốn cổ phần chi phối của Nhà

nước cũng đang gây ra cho Doanh nghiệp một số khó khăn trong quản lý điều

hành, khó thống nhất về quyền lợi giữa các cổ đông và sự can thiệp quá sâu

của cơ quan Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh donah của doanh nghiệp

sau CPH.

- 76 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

Việc phân bổ cổ phiếu một cách khoa học, hợp lý làm cơ sở cho hoạt

động phát hành là hết sức cần thiết, tạo sự bình đẳng cho các cổ đông, đồng

thời khuyến khích các thành phần tích cực tham gia mua cổ phiếu.

Đối với cán bộ quản lý trong doanh nghiệp: Nhằm mang lại quyền lợi

và trách nhiệm của họ cho DN , cần xác định mức cao hơn người lao động

khác, một khi nhu cầu mua cổ phiếu trong nội bộ vượt quá số cổ phiếu phát

hành. Cán bộ lãnh đạo với số cổ phiếu vượt trội sẽ quan tâm hơn đến công

việc hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Mức cao hơn có thể là 30% so

với người lao động khác. Mức này chỉ áp dụng đối với cổ phiếu thường,

không áp dụng đối với cổ phiếu ưu đãi.

Đối với các nhà cung cấp dịch vụ và sản phẩm đầu vào, cũng như các

đại lý và các nhà phân phối sản phẩm đầu ra cho doanh nghiệp. Có thể dành

cho họ 15% giá trị phần vốn Nhà nước tại DN, trong đó 50% cổ phiếu được

bán đúng mệnh giá và 50% còn lại bán với giá ưu đãi, giảm 30% so với mệnh

giá. Sự ưu ái này chỉ nên áp dụng đối với các nhà cung cấp sản phẩm đầu vào

và tiêu thụ chủ chốt, có ảnh hưởng lớn đến DN.

Đối với những nhà đầu tư cổ phiếu bên ngoài DN, cần thực hiện bán

đấu giá, song giảm giá thắng đấu giá cho người lao động cùng cơ quản chủ

quản với mức 20%

Việc bán cổ phiếu được phân thành 2 giai đoạn :

Phát hành cổ phiếu lần đầu: Việc phát hành cổ phiếu DNNN sẽ được

giao cho Công ty hỗ trợ chuyển đổi sở hữu và mua bán nợ, tài sản của doanh

nghiệp hoặc Quỹ sắp xếp DNNN đảm nhận theo phương thức: Cổ phiếu ưu

đãi hoặc mua theo quyền ưu tiên mua cổ phần thì thực hiện phát hành theo

đăng ký của DN. Đối với các loại cổ phiếu khác thì thực hiện đấu giá hoặc

đấu thầu theo những điều kiện nhất định.

Phát hành các lần sau và các hoạt động mua bán cổ phiếu. Việc phát

hành cổ phiếu các lần sau của DN chịu sự quản lý thống nhất của quy phạm - 77 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

pháp luật của Chính phủ về phát hành trái phiếu, cổ phiếu: Các doanh nghiệp

đủ điều kiện niêm yết thì thực hiện việc phát hành và mua bán chứng khoán

thông qua các công ty chứng khoán tại các Trung tâm giao dịch chứng khoán.

Với những DN chưa đủ điều kiện niêm yết do Việt Nam chưa hình thành thị

trường thứ cấp nên việc mua bán, phát hành thêm cổ phiếu sẽ được thực hiện

thông qua các công ty chứng khoán, công ty tài chính, công ty hỗ trợ chuyển

đổi sở hữu hoặc hệ thống Quỹ sắp xếp DNNN.

9. Xoá bỏ sự can thiệp của Nhà nƣớc vào hoạt động nội bộ công ty.

Xoá bỏ sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động nội bộ của công

ty cổ phần, mọi sự can thiệp phải thông qua người trực tiếp quản lý phần vốn

Nhà nước trong các công ty cổ phần.

Công tác tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm về CPH ở các đơn vị đã

tiến hành CPH.

Tổng kết rút kinh nghiệm làm bài học thực tiễn về công tác CPH từ các

đơn vị đã tiến hành CPH cho các đơn vị làm sau là một việc làm không thể

nào thiếu được, bởi lẽ CPH Doanh nghiệp là một công việc hết sức mới mẻ

đối với các Doanh nghiệp và đối với mỗi người chúng ta.

Việc duy trì quá lâu cơ chế bao cấp từ việc cung ứng vật tư, lao động,

tiền vốn, tiêu thụ sản phẩm..... Kể cả lỗ lãi của công ty đã gây ra tâm lý "ỷ lại"

cấp trên, ỷ lại Nhà nước. Không có sự chủ động, năng động sáng tạo trong sản

xuất kinh doanh, không có tính quyết đáp những phương sách cho sự tồn tại

và phát triển của doanh nghiệp khi bước vào cơ chế thị trường, nhất là bước

đầu tiếp cận làm ăn với các Doanh nghiệp nước ngoài.

Ví dụ như, chọn một Doanh nghiệp để làm CPH thì nên chọn một đơn

vị như thế nào? Quy mô và tổ chức ra làm sao? Thuộc lĩnh vực gì? Tình hình

sản xuất hiện tại như thế nào? Mặt hàng sản xuất ra trong tương lai ra sao?

Khi đã chọn được đơn vị để CPH rồi thì các bước tiếp theo như thế nào? Theo

quy trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần phải trải qua 4 bước": - 78 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

- Bước 1: Chuẩn bị CPH, thì chuẩn bị những vấn đề gì? Các công việc cần

chuẩn bị ra sao? Chuẩn bị như thế nào? Tốt, xấu, cái gì cần phát huy? Cái

gì cần khắc phục?

- Bước 2: Xây dựng phương án CPH Doanh nghiệp, bộ phận Doanh nghiệp

bao gồm những công việc gì? Các bước tiến hành ra sao? Tiến độ như thế

nào?

- Bước 3: Duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH

- Bước 4: Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh.

Như vậy để cho tiến trình CPH DNNN đạt được kết quả, thực hiện

thành công mục tiêu kế hoạch mà Đảng và Nhà nước đề ra trong công cuộc

đổi mới quản lý DNNN, trong sự nghiệp đổi mới đất nước thì công tác tổng

kết rút ra bài học kinh nghiệm về công tác CPH DNNN là việc làm không thể

thiếu. Chỉ có như thế thì mới giúp cho Doanh nghiệp chủ động, tự tin, sáng

tạo, tiến hành công tác CPH đảm bảo chất lượng, hiệu quả và rút ngắn được

thời gian CPH.

10. Khen thƣởng, động viên khuyến khích đối với những Bộ, Địa

phƣơng, Tổng công ty 91 làm tốt công tác CPH.

CPH DNNN là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước,

là một công việc hoàn toàn mới mẻ, cũng có nhiều khó khăn phức tạp trong

công việc nghiệp vụ chuyên môn và trong nhận thức chính trị tư tưởng của

cán bộ, công nhân viên. Là một công cuộc đổi mới, cho nên để tạo điều kiện

thúc đẩy tiến trình CPH các Doanh nghiệp đạt được kết quả tốt và đảm bảo

tiến độ, hiệu quả; nên chăng Nhà nước cần có biện pháp khen thưởng động

viên các Doanh nghiệp, Bộ, địa phương và các Tổng công ty 91 làm tốt công

tác CPH.

Khen thưởng, biểu dương là công việc tiếp theo của công tác tổng kết

rút bài học kinh nghiệm về CPH Doanh nghiệp. Bởi vì nếu làm được điều đó

cũng có nghĩa rằng ta làm tốt về công tác thông tin, quảng cáo những người - 79 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

tốt, việc tốt, đơn vị tốt, ngành và địa phương làm tốt chủ chương đường lối

chính sách của Đảng và Nhà nước. Cũng từ đó mà các Doanh nghiệp, các địa

phương, các ngành còn đang lừng chừng do dự sẽ yên tâm và quyết tâm hơn

đối với công việc của họ mà mạnh dạn đẩy nhanh tiến độ CPH theo kế hoạch

mà họ đã định, đã có kế hoạch đi đến thành công và thắng lợi.

11. Đề xuất một số giải pháp sửa đổi nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày

16/11/2004 để phù hợp với thực tế và đồng bộ với các quy định

mới nhất là các quy định mới của Luật Doanh nghiệp 2005.

Bổ sung thêm đối tượng CPH là các công ty TNHH Nhà nước một

thành viên; Tổng công ty, công ty nhà nước độc lập là công ty mẹ được tổ

chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con; Công ty TNHH

Nhà nước hai thành viên.

Theo quy định tại Nghị định 187 thì chỉ CPH những đơn vị còn vốn

nhà nước. Nhưng thực tế cho thấy có DNNN sau khi được xử lý các tồn tại về

tài chính và thực hiện một số giải pháp cơ cấu lại, nếu có hướng phát triển tốt

thì mặc dù không còn vốn nhưng vẫn CPH được và vẫn thu hồi được một giá

trị nhất định sau khi tổ chức đấu giá bán cổ phần. Do đó, cần có sửa đổi để

cho phép CPH cả doanh nghiệp loại này.

Khuyến khích và tạo điều kiện hơn cho các nhà đầu tư chiến lược góp

vốn mua cổ phần và tham gia quản lý doanh nghiệp, đảm bảo điều kiện về số

lượng cổ đông đại chúng khi tham gia thị trường chứng khoán

Phương thức bán cổ phần lần đầu nên được mở rộng hơn. có thể thêm

các hình thức khác như bảo lãnh phát hành, bán thoả thuận trực tiếp.

Xem xét lại quy định nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong

nước mà mở rộng đối tượng nhà đầu tư chiến lược bao gồm cả nhà đầu tư

nước ngoài, đồng thời xem xét cơ chế ưu đãi giảm giá bán cổ phần 20%.

Việc quy định nhà đầu tư chiến lược là nhà đầy tư trong nước không

còn phủ hợp. Quy định này còn phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà - 80 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

đầu tư nước ngoài; chưa khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn,

công nghệ và kinh nghiệm quản lý vào doanh nghiệp CPH. Hơn nữa, thực tế

triển khai có những đơn vị đã xác định nhà đầu tư chiến lược là người lao

động trong doanh nghiệp và các doanh nghiệp thành viên trong nội bộ của

Tổng công ty làm hạn chế khả năng huy động vốn trong xã hội, thay đổi

phương thức quản lý.

Bên cạnh đó, việc quy định giảm giá 20% bán cổ phần cho nhà đầu tư

tiềm năng là không cần thiết vì các nhà đầu tư tiềm năng đều có tiềm lực về

tài chính, họ góp vốn mua cổ phần với kỳ vọng tham gia quản trị doanh

nghiệp. Vì vậy, họ cần được ưu đãi quyền mua cổ phần hơn là ưu đãi giảm

giá. Ngoài ra, cung cần lưu ý là thời gian tới sẽ CPH các doanh nghiệp lớn,

nếu tiếp tục giảm giá bán cho nhà đầu tư chiến lược thì số tiền ưu đãi giảm giá

sẽ rất lớn.

Đối với những doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết, đăng ký giao dịch

trên thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật có liên quan về

chứng khoán nên thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch ngay trên Trung tâm

giao dịch chứng khoán trong quá trình CPH. Các cơ quan có thẩm quyền

quyết định CPH nên hướng dẫn và xây dựng phương án niêm yết, đăng ký

giao dịch ngay trong phương án CPH. Đồng thời gắn kết quá trình CPH

DNNN với việc phát triển thị trường chứng khoán.

- 81 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

KẾT LUẬN

Trong thời gian qua, tiến trình đổi mới DNNN nói chung, tiến trình cổ

phần hóa DNNN nói riêng đã bước đầu được ổn định. Nhiều chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề này đã được thực hiện và phát

huy tác dụng, từng bước đẩy nhanh việc thực hiện CPH, góp phần đưa nền

kinh tế nước ta dần thích nghi với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Cho tới nay, quá trình CPH ở nước ta đã đạt được một số những kết

quả tích cực nhất định. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều những tồn tại

và khó khăn đòi hỏi phải có những biện pháp giải quyết. Cổ phần hoá là một

tiến trình tất yếu phải có nhằm lành mạnh hóa nền kinh tế cũng như để phát

triển đất nước, đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Vì vậy, để thúc

đẩy tiến trình CPH cũng như nâng cao hiệu quả của CPH, các nhà quản lý cần

đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức tư tưởng, hoàn thiện về cơ

chế chính sách, tạo những điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý cho việc thực

hiện tiến trình này.

Với đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế – thực trạng và giải pháp”, em hy vọng

sẽ đóng góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu về quá trình CPH hiện nay.

Tuy nhiên, đây là một vấn đề khó và phức tạp, mặt khác, do thời gian

tìm kiếm tài liệu còn chưa nhiều và trình độ bản thân còn hạn chế, những

phân tích trong đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được thầy

cô và các cán bộ tại Viện đóng góp ý kiến giúp em hoàn thiện đề tài hơn.

Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn cô Nguyễn Thị Tường Anh –

giáo viên hướng dẫn và các cô – Cán bộ làm việc tại Viện quản lý kinh tế

trung ương đã giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.

- 82 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

PHỤ LỤC

Một số văn bản pháp quy về CPH DNNN

CPH DNNN được bắt đầu thực hiện thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp

lý cho việc thực hiện chương trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày

10/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng, với mục tiêu đảm bảo quyền sở hữu Nhà

nước, huy động vốn nhàn rỗi, tạo điều kiện cho người lao động làm chủ

doanh nghiệp, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Sau đó, CPH được chủ

chương thực hiện với quy mô rộng lớn hơn. Cụ thể là:

1. Quyết định số 202-CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ

trưởng về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ

phần.

2. Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc

tiếp xúc thực hiện thí điểm cổ phần hóa DNNN và các giải pháp đa dạng hoá

hình thức sở hữu đối với các DNNN.

3. Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển đổi một

số DNNN thành công ty cổ phần.

4. Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ sửa đổi một số

điều của Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 về chuyển một số doanh nghiệp

thành công ty cổ phần.

5. Thông báo số 63-TB/TW ngày 4/4/1997 ý kiến của Bộ Chính trị về

tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc CPH DNNN.

6. Quyết định số 111/1998/QĐ-TTg ngày 29/6/1998 của Thủ tướng

Chính phủ về việc thành lập Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương.

7. Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển

DNNN thành công ty cổ phần.

- 83 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

8. Thông tư số 104/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ Tài chính

hướng dẫn những vấn đề về tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ

phần.

9. Thông tư số 06/1998/TT-NHNNI ngày 15/8/1998 của Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện một số nội dung liên quan đến ngân

hàng khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần.

10. Thông tư số 11/1998/TT-LĐTBXH ngày 21/8/1998 của Bộ Lao

động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn về chính sách đối với người lao

động khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần.

11. Văn bản số 3395/VPCP-ĐMDN ngày 29/8/1998 của Văn phòng

Chính phủ về việc hướng dẫn quy trình và phương án mẫu CPH.

12. Nghị định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10/9/1999 của Chính phủ về

giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN.

13. Thông tư số 07/2000/TT-BLĐTB&XH ngày 29/3/2000 của Bộ

Thương binh và xã hộ hướng dẫn một số điều về lao động theo Nghị định số

103/1999/NĐ-CP ngày 10/9/1999 của Chính phủ về giao, bán, khoán kinh

doanh, và cho thuê DNNN.

14. Thông tư số 47/2000/TT-BTC ngày 24/5/2000 của Bộ Tài chính

hướng dẫn về giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN.

15. Thông tư số 51/2000/TT-Btc ngày 2/6/2000 của Bộ Tài chính

hướng dẫn vấn đề tài chính trong khoán kinh doanh, cho thuê DNNN theo

quy định tại Nghị định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10/9/1999 của Chính phủ.

16. Quyết định số 69/2001/QĐ-TTg ngày 3/5/2001 của Thủ tướng

Chính phủ về việc bán cổ phần ưu đãi tại các doanh nghiệp công nghiệp chế

biến cho người trồng và bán nguyên liệu.

17. Thông tư số 96/2001/TT-BTC ngày 23/11/2001 của Bộ Tài chính

về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định số 69/2001/QĐ-TTg ngày 3/5/2001

- 84 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

của Thủ tướng Chính phủ về việc bán cổ phần ưu đãi tại các doanh nghiệp

công nghiệp chế biến cho người trồng và bán nguyên liệu.

18. Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ về

chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN.

19. Nghị định số 49/2002/NĐ-CP ngày 24/4/2002 của Chính phủ sửa

đổi, bổ xung một số điều của Nghị định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10/9/1999

của Chính phủ về giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN.

20. Thông tư số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ về

chuyển DNNN thành công ty cổ phần.

21. Thông tư số 66/2002/TT-BTC ngày 6/8/2002 của Bộ Tài chính

hướng dẫn trình tự, thủ tục, xử lý tài chính khi giải thể DNNN.

22. Thông tư số 76/2002/TT-BTC ngày 9/9/2002 của Bộ Tài chính

hướng dẫn những vấn đề về tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ

phần.

23. Thông tư số 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 của Bộ Tài chính

hướng dẫn xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển DNNN thành công ty cổ

phần.

24. Thông tư số 80/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 của Bộ Tài chính

hướng dẫn bảo lãnh phát hành và bán đấu giá cổ phần ra bên ngoài của các

DNNN thực hiện CPH.

25. Thông tư số 15/2002/TT-BLĐTBXH ngày 23/10/2002 của Bộ Lao

động thương binh và xã hội hướng dẫn về chính sách đối với người lao động

khi chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần.

26. Quyết định số 174/2002/QĐ-TTg ngày 2/12/2002 của Thủ tướng

Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN.

27. Nghị định số 38/2003/NĐ-CP ngày 15/4/2003 của Chính phủ về

việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt

động theo hình thức công ty cổ phần. - 85 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

28. Nghị quyết số 76/2003/QĐ-BTC ngày 28/5/2003 của Bộ trưởng Bộ

Tài chính về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và

CPH DNNN.

29. Nghị định số 155/2004/NĐ-CP ngày 10/8/2004 của Chính phủ về

việc bổ sung một số điều của Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002

của Chính phủ về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN.

30. Quyết định số 155/QĐ-TTg ngày 24/8/2004 của Thủ tướng Chính

phủ về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty Nhà nước và công ty

thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty Nhà nước.

31. Nghị định số 153/2004/NĐ-CP ngày 9/8/2004 của Chính phủ về tổ

chức, quản lý tổng công ty Nhà nước và chuyển đổi tổng công ty Nhà nước,

công ty độc lập theo mô hình công ty mẹ - công ty con.

32. Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về

việc chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần.

33. Thông tư số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính

hướng dẫn thực hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của

Chính phủ về việc chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần.

34. Chỉ thị số 04/2005/CT-TTg ngày 17/3/2005 của Thủ tướng Chính

phủ về đẩy nhanh, vững chắc CPH công ty Nhà nước.

- 86 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

12. Luật doanh nghiệp

13. Thông tin kinh tế - XH (Trường ĐHKTQD) số 10 tháng 3/2005 và số

16 tháng 9/2005

14. Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới DNNN – sách tham khảo –

Chủ biên TS. Ngô Quang Minh. – Nhà Xb Ct Quốc gia.

15. CPH DNNN và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong công ty cổ

phần – sách tham khảo – Chủ biên Phí Văn Chi. - Nhà Xb Ct Quốc gia.

16. Kinh tế Việt Nam năm 2004 - Những vấn đề nổi bật - Bộ kế hoạch và

Đầu tư - Trung tâm thông tin và dự báo Kt Xh Quốc gia.

17. CPH DNNN - Thực trạng và giải pháp - Bộ kế hoạch và Đầu tư –

Trung tâm thông tin và dự báo Kt Xh quốc gia.

18. Mấy ý kiến về quản lý Nhà nước đối với Doanh nghiệp sau CPH -

Chủ nhiệm Phạm Tuấn Anh - Tạp chí quản lý Nhà nước - số 7 – 2005.

19. CPH DNNN - Kết quả và những vấn đề phát sinh - GS.TSKH Vũ Huy

Từ

20. Từng bước giải quyết lao động trong Doanh nghiệp CPH - tạp chí

Quản lý Nhà nước - số 11 – 2005.

21. Chuyển đổi DNNN - Nhận thức và thực tiễn - Theo Đảng Cộng Sản

Việt Nam.

22. Nghị định 187/2004 – CP ngày 16/11/2004 về việc chỉ đổi công ty

Nhà nước thành công ty cổ phần.

23. CPH một phương tiện quan trọng để thực hiện sự đa dạng hoá các

hình thức sở hữu - tr 21 - 26 - tạp chí Triết học – số 3 – 2005.

24. CPH ở Việt Nam khúc dạo đầu của cuộc trường trinh ý nghĩa và động

lực của CPH - tr 38-41 – tạp chí Tia sang – số 5 – 2005.

- 87 -

- Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước -

25. DNNN sau CPH những vướng mắc và kiến nghị - tr 7-8 – tạp chí

Thương mại – số 16 – 2005.

26. Giải pháp nào để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN trong hội nhập

kinh tế quốc tế - tr 22-24 – tạp chí Thị trường giá cả - số 9 – 2005.

27. Một số vấn đề về CPH DNNN hiện nay - tr 4 - 5 – tạp chí Nông

nghiệp và phát triển nông thôn - so 6 – 2005.

28. Chặng đường mới CPH DNNN - tr 48-50 – tạp chí Ngân hàng – số 7 –

2005.

29. CPH DNNN một năm nhìn lại - tr 17-19 – tạp chí Tài chính – số 12 –

2005.

30. CPH DNNN để có bình mới rượu mới - tr 23-24 – tạp chí Tài chính –

số 6 – 2005.

31. Về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp sau khi CPH - tr 23 – 27

tạp chí Quản lý Nhà nước – số 9 – 2005.

32. CPH DNNN – một số vấn đề cần giải quyết - tr 18 – 22 – tạp chí Quản

lý Nhà nước – số 9 – 2005.

33. Giải pháp đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN - tr11-15, 29 - tạp chí

Quản lý Nhà nước – số 3 – 2005.

34. CPH DNNN theo phương thức XHCN - tr 24 – 26 – tạp chí Phát triển

kinh tế – số 174 – 2005.

35. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với các DNNN đã CPH - tr 43 – 46

– tạp chí L‎ý luận chính trị – số 9 – 2005.

36. CPH DNNN - 15 năm nhìn lại - tr 28 – 30 – tạp chí Lao động xã hội –

số 273 – 2005.

37. CPH DNNN ở Việt Nam VN - tr 17-19 - Kinh tế Châu á - Thái Bình

Dương – số 48 – 2005.

- 88 -