CÔNG CỤ NÀO BẢO VỆ NHÀ ĐẦU TƯ

TRONG GIAO DỊCH M&A ?

Khi thực hiện các giao dịch mua bán công ty, thông thường các nhà đầu tư

sẽ sử dụng các trung gian tài chính như công ty kiểm toán hoặc các công ty

chứng khoán để tiến hành các công việc chuẩn bị như định giá doanh

nghiệp (Valuation), rà soát tài chính (Due Diligence) hoặc các luật sư để

thương thảo hợp đồng…

Tuy vậy, vẫn có một nội dung quan trọng trong các giao dịch mua bán và

sáp nhập doanh nghiệp thường bị các nhà đầu tư bỏ sót chính là các trách

nhiệm phát sinh từ những rủi ro về vấn đề bảo hiểm tiềm ẩn nội tại trong

doanh nghiệp hoặc dự án được mua bán.

1. Rủi ro thứ nhất: có thể phát sinh chính là những chi phí về bảo hiểm hàng

năm mà bên bán ước tính thường rất nhỏ so với thực tế sẽ phát sinh. Điều

này sẽ làm cho bên mua có nguy cơ phải gánh chịu chi phí bổ sung không

lường trước được cho những rủi ro mà doanh nghiệp sẽ phải chi trả sau khi

giao dịch M&A được tiến hành. Đối với nhiều doanh nghiệp thuộc các lĩnh

vực hoạt động có chuyên môn cao như y tế, tư vấn luật, tư vấn thiết kế, tư

vấn tài chính..., chi phí bảo hiểm hàng năm có thể rất lớn, lên tới hàng trăm

nghìn, thậm chí cả triệu đô lô.

Ở Việt Nam cũng đã có quy định bảo hiểm bắt buộc đối với các ngành nghề

trên. Do vậy, doanh nghiệp không thể hoạt động nếu không được bảo hiểm

đầy đủ. Đặc biệt, những chi phí này cao hay thấp sẽ tùy thuộc vào lịch sử

hoạt động của doanh nghiệp trong những năm quá khứ. Ví dụ, một bệnh

viện hoạt động không có khiếu nại về lỗi của các bác sĩ trong quá khứ thì chi

phí bảo hiểm có thể không lớn. Nhưng ngược lại, nếu bệnh viện đó có vấn

đề về tiêu cực, chi phí bảo hiểm hàng năm sẽ rất đáng kể và chắc chắn phải

bỏ ra vì không thể lường trước rủi ro đến từ các khiếu nại của bệnh nhân...

2. Vấn đề thứ hai: là nguy cơ đến từ việc doanh nghiệp đối tượng có thể

không được bảo hiểm, hoặc được bảo hiểm không đầy đủ trước giao dịch

M&A. Do vậy, không thể bảo vệ được doanh nghiệp trước những khiếu nại

đã hoặc chưa phát sinh…Trong nhiều trường hợp, nếu “khổ chủ” mua phải

một doanh nghiệp như vậy không khác gì mua một cỗ máy trông bên ngoài

còn đẹp nhưng bên trong thì đã hở điện, chỉ chạy là sẽ gây nguy hiểm cho

người sử dụng. Về kỹ thuật trong bảo hiểm, ở đây có một vấn đề tiềm tàng,

đó là đôi khi doanh nghiệp đối tượng có thể có một chương trình bảo hiểm

đầy đủ nhưng nội dung của hợp đồng bảo hiểm lại hở và có thể đem đến

thiệt hại cho nhà đầu tư. Một minh chứng xoay quanh mức miễn thường

(deductible) trong hợp đồng bảo hiểm. Đây là mức mà doanh nghiệp mua

bảo hiểm sẽ tự chịu khi xảy ra sự cố. Công ty bảo hiểm chỉ trả bồi thường

khi xảy ra sự cố tính từ mức miễn thường này trở lên. Chính vì vậy mà mức

miễn thường càng cao, phí bảo hiểm càng thấp, vì trách nhiệm của nhà bảo

hiểm sẽ thu hẹp lại. Khi một doanh nghiệp mua bảo hiểm với mức miễn

thường cao (để được hưởng khoản giảm phí), thì cần trích lập dự phòng đủ

cho trường hợp sự cố xảy ra dưới mức miễn thường. Khi doanh nghiệp

không lập được mức dự phòng đủ lớn và nhà đầu tư không phát hiện được

khi tiến hành giao dịch M&A sẽ phải chịu nhiều rủi ro.

3. Một vấn đề nữa: có thể phát sinh, đó là các trách nhiệm bảo hiểm đã phát

sinh từ trước khi giao dịch, nay sẽ chuyển sang cho nhà đầu tư. Thông

thường, một giao dịch M&A đã được thực hiện thì toàn bộ tài sản, quyền lợi

cũng như các khoản nợ, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối tượng sẽ chuyển

sang doanh nghiệp đi mua (nhà đầu tư). Rủi ro này có thể phát sinh khi điều

kiện, điều khoản của hợp đồng mua bán không được rõ ràng, hoặc được

soạn có lợi cho bên bán. Đối với một công ty tư vấn, nếu sự cố về trách

nhiệm nghề nghiệp xảy ra, trong một môi trường hội nhập quốc tế và sự

tham gia đáng kể của Việt Nam vào các công ước quốc tế, các khoản đền bù

có thể vượt qua con số nhiều triệu USD, gấp hàng chục lần mức vốn điều lệ

của công ty đó. Đây là thực tế mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã phải

gánh chịu trong thời gian qua.

Để xử lý các vấn đề này, hiện nay trên thế giới, các nhà đầu tư thường phải

thực hiện việc rà soát về rủi ro và bảo hiểm (Insurance Due Diligence) song

song với các rà soát về tài chính và pháp luật khác. Đơn vị thực hiện việc rà

soát này thông thường có thể là các công ty tư vấn bảo hiểm, các hãng luật

hoặc các trung gian tài chính khác. Đồng thời, các nhà đầu tư và các doanh

nghiệp muốn thực hiện việc mua bán và sáp nhập công ty sử dụng hình thức

bảo vệ thông qua các hợp đồng bảo hiểm chuyên biệt dành cho giao dịch

M&A. Các bảo lãnh này sẽ giúp nhà đầu tư an tâm bỏ vốn thực hiện các

giao dịch mua bán doanh nghiệp trước những bất ngờ không lường trước nói

trên. Việc bảo lãnh này đồng thời hỗ trợ cho các giao dịch M&A phát triển,

vượt qua những rủi ro tiềm ẩn mà cả hai bên đối tác nhiều khi không ngờ để

hiện thực hóa dự án kinh tế của mình.

Một số loại bảo lãnh này là:

Bảo hiểm cho các cam kết và bồi thường (Warranty & Indemnity

Insurance): Đây là hình thức bảo lãnh cho hai bên giao dịch bảo đảm cho

những cam kết (toàn bộ hoặc chỉ một số cam kết đích danh) mà bên bán đưa

ra với bên mua (cho những vấn đề chưa phát sinh). Đối với những vấn đề đã

phát sinh do việc gian lận của bên bán, chỉ bên mua mới có thể có được loại

hình bảo hiểm này.

Bảo hiểm cho các vấn đề pháp lý dở dang (Litigation Buy Out Insurance):

Loại hình hợp đồng bảo lãnh này sẽ bảo vệ cho nhà đầu tư (bên mua) về mặt

tài chính trước những thiệt hại phát sinh khi vụ việc được phán quyết thiệt

hại cho doanh nghiệp được mua bán.

Một loại hình hợp đồng bảo lãnh nữa là bảo hiểm trách nhiệm cáo bạch:

(Prospectus Liability/ I.P.O Insurance). Hợp đồng này sẽ giúp bảo vệ doanh

nghiệp, các giám đốc và quan chức điều hành của doanh nghiệp, các cổ

đông lớn của công ty phát hành và thậm chí cả tổ chức bảo lãnh phát hành

trước những khiếu nại của nhà đầu tư về những sai sót và lỗi nhầm lẫn trong

bản cáo bạch khi chào giá mở rộng ra công chúng lần đầu (IPO).

NGÔ THANH NAM

Giám đốc Dịch vụ Mua bán và Sáp nhập doanh nghiệp (M&A)