LUẬN VĂN:
Vấn đề phát huy vai trũ của Công đoàn Việt Nam
trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Đảng ta
chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo điều kiện để các thành
phần kinh tế cùng phát triển nhất là các DNNQD. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
kinh tế ngoài quốc doanh là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời là
chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.
Tình hình phát triển kinh tế nhiều thành phần trong những năm qua cho thấy, khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển nhanh của các DNNQD trong thời gian qua đã
mang lại hiệu quả to lớn. Đặc biệt là huy động được nguồn lực cho đầu tư phát triển đất
nước, tiếp thu khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại tiên tiến, xây dựng kết cấu hạ tầng,
tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, có ý nghĩa then chốt trong giải quyết các vấn đề xã
hội, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, đào tạo phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả
nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tác động sâu sắc làm chuyển dịch cơ cấu
giai cấp công nhân nước ta bởi tính sở hữu hợp pháp của các thành phần kinh tế. Cơ cấu,
chất lượng đội ngũ công nhân lao động ở nước ta ngày càng phát triển phong phú, đa dạng
và thay đổi nhanh chóng. Bên cạnh sự thay đổi mang tính tích cực đã có nhiều những bất
cập xảy ra: về việc làm, đời sống, công bằng xã hội, quan hệ chủ thợ v.v.... Nhiều chủ
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã không chấp hành, không làm
đúng các quy định của pháp luật lao động, vi phạm quyền lợi của người lao động như việc
làm, tiền lương, giao kết hợp đồng lao động, BHLĐ, ký kết TƯLĐTT, điều kiện làm việc
cho người lao động. Vì vậy đã phát sinh nhiều mâu thuẫn trong quan hệ lao động, tình
trạng tranh chấp lao động và đình công của công nhân lao động trong các doanh nghiệp
ngày càng ra tăng và có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là trong các doanh nghiệp khu vực
ngoài quốc doanh.
Đi đôi với chính sách mở cửa hội nhập với nền kinh tế quốc tế là công cuộc cải cách
hành chính của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đan
xen cùng phát triển; chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, tạo thế chủ động
cho các doanh nghiệp phát triển. Trong quá trình sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước một bộ phận công nhân lao động nghỉ chế độ chính sách hoặc chuyển sang các
thành phần kinh tế khác trong các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do đó số công
nhân lao động trong doanh nghiệp Nhà nước giảm.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và
người lao động, với chức năng bảo vệ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của các DNNQD, việc thành lập công đoàn cơ sở ở các
doanh nghiệp này để bảo vệ lợi ích cho người lao động là một nhiệm vụ trọng tâm của tổ
chức Công đoàn, nhằm tập hợp đông đảo giai cấp công nhân nâng cao nhận thức cho
công nhân lao động về đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bảo vệ
lợi ích người lao động, đồng thời xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà ổn định nhằm
phát triển sản xuất kinh doanh tiến tới công bằng, dân chủ văn minh.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn mới của tổ chức Công đoàn
là phải đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, nhanh chóng mở rộng phạm vi, đối
tượng tập hợp đông đảo công nhân lao động trong các thành phần kinh tế vào tổ chức
Công đoàn. Đây là yêu cầu khách quan của tổ chức công đoàn và hoàn toàn phù hợp với
chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Xuất phát từ những điều nói trên, tác giả chọn đề tài: “Vấn đề phát huy vai trũ của
Cụng đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và hy vọng góp phần vào việc nghiên
cứu và đề ra những giải pháp để xây dựng và nâng cao vai trò của Công đoàn trong các
DNNQD.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ những năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay, trước sự chuyển biến của nền kinh tế thế
giới, trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, cơ sở xã hội - chính trị của tổ chức công
đoàn đã có những biến đổi quan trọng. Nhiều nhà lý luận công đoàn trong nước và nước
ngoài đã viết những tác phẩm về chủ đề công đoàn và các giải pháp của nó nhằm tập hợp
ngày càng đông đảo quần chúng để bảo vệ lợi ích của bản thân người lao động trước những
thách thức của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Tôn Trung Phạm một nhà nghiên
cứu về giai cấp công nhân, công đoàn ở Trung Quốc đã có tác phẩm “Kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa và công đoàn” (người dịch sang tiếng Việt: Nguyễn Tiến Chiên, do Ban đối
ngoại Tổng Liên Đoàn Việt Nam, Trường Đại học Công đoàn và nhà xuất bản lao động xuất
bản năm 1997. Hai tác giả người Nga: V.N.Kiselev và V.G Smolkov đã có tác phẩm “Quan
hệ đối tác xã hội ở Nga”, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của công đoàn trong quan hệ đối tác
ba bên: Công đoàn (đại diện cho người lao động), giới chủ và nhà nước. Các tác giả này đã
có nhiều ý kiến giá trị cho cán bộ công đoàn Việt Nam tham khảo.
Trước yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xuất phát từ tầm quan
trọng của việc nâng cao vị trí, vai trò và chức năng của Công đoàn Việt Nam để đáp ứng
đòi hỏi của thời kỳ hội nhập, nhiều nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã tập trung nghiên cứu
về Công đoàn. Có thể liệt kê một số tác giả, tác phẩm mới được công bố những năm gần
đây như:
“Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của PGS.TS Nguyễn Viết Vượng, Nxb Lao động, năm
2003.
“Nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài” của TS. Dương Văn Sao, chủ biên, Nxb Lao động, năm 2003.
“Lý luận Mác - Lênin về công đoàn và vận dụng vào hoạt động công đoàn Việt Nam
trong kinh tế thị trường” của PGS.TS Nguyễn Viết Vượng, năm 2005.
Ngoài ra, còn có một số bài nghiên cứu về vai trò của công đoàn trên các tạp chí,
"Mấy suy nghĩ về công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ Công đoàn hiện nay" của Lê Phan
Ngọc Rỉ, Tạp chí Lao động và Công đoàn, ngày 2 tháng 8 năm 1999,"Công đoàn Việt
Nam với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng" của Cù Thị Hậu, Tạp chí Cộng sản,
tháng 4 năm 2000,“Vai trò của Công đoàn Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế” của
PGS.TS Nguyễn Viết Vượng Tạp chí Cộng sản, tháng 7 năm 2007 ...
Các công trình và bài viết nêu trên phần lớn tập trung phân tích và khẳng định
những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin công đoàn, đồng thời đặt những luận điểm
này trong những điều kiện lịch sử cụ thể để phân tích, nghiên cứu. Về Công đoàn, các
công trình, bài viết đó chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng và Công đoàn, những giải
pháp để nâng cao vai trò của Công đoàn nói chung. Trong khi đó “Vấn đề phát huy vai
trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động hiện nay" đặc
biệt là trong các DNNQD chưa trình bày một cách cơ bản và có hệ thống trong bất kỳ
một công trình khoa học nào, nếu có thì cũng chỉ được trình bày lướt qua, đề cập đến một
biểu hiện nào đó của vấn đề mà thôi. Vì vậy, đề tài “Vấn đề phát huy vai trò của Công
đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh hiện nay" không trùng lặp với các công trình, bài viết đã được công bố.
Trong đề tài này, tác giả đã kế thừa có chọn lọc các kết quả của những công trình có
trước, tiếp tục bổ sung, phát triển hơn nữa, góp phần làm sáng tỏ vấn đề. Tác giả cũng hy
vọng rằng có thể vận dụng được những kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn để tổ
chức Công đoàn đạt được hiệu quả tốt hơn trong bảo vệ lợi ích của người lao động ở các
DNNQD, để công đoàn xứng đáng là tổ chức chính trị - xã hội của người lao động hiện
nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động ở các
DNNQD, luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác định những giải pháp
thực hiện tốt vai trò của Công đoàn trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn đề cập đến các nội dung cơ
bản sau:
+ Công đoàn Việt Nam và vai trò của nó.
+ Thực trạng vai trò của Công đoàn Việt Nam đặc biệt là vai trò bảo vệ lợi ích của
người lao động ở DNNQD hiện nay.
+ Quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong
việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở DNNQD hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Để hoàn thành mục tiêu đề ra, luận văn đi sâu phân tích
đánh giá Vai trò của công đoàn và phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam ở DNNQD
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và tìm hiểu vai trò của
Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các DNNQD hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để giải quyết nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của Công đoàn.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
phương pháp kết hợp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
so sánh và điều tra xã hội học trong việc nghiên cứu để thực hiện được nhiệm vụ và đạt
được mục đích mà luận văn đề ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Từ việc phân tích vị trí của Công đoàn Việt Nam, luận văn đã làm rõ vai trò của
Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các DNNQD và đề
xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của Công đoàn trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho các cán bộ công đoàn hoạt
động, phục vụ công tác giảng dạy tại các trường đào tạo cán bộ công đoàn các cấp.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- ý nghĩa lý luận:
+ Luận văn làm rõ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về công đoàn, vai trò của
Công đoàn và vận dụng những quan điểm lý luận trên vào nghiên cứu vai trò của công
đoàn trong các DNNQD.
+ Làm rõ những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của công đoàn
và vận dụng những quan điểm trên vào giải quyết vấn đề vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ
lợi ích người lao động.
+ Những quan điểm của các nhà khoa học về sự chuyển biến của hoạt động công
đoàn trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
- ý nghĩa thực tiễn:
+ Làm rõ sự chuyển biến của hoạt động Công đoàn thế giới và Việt Nam trước tác
động của hội nhập hiện nay.
+ Phân tích thực trạng hoạt động Công đoàn Việt Nam trong những DNNQD hiện
nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
Chương 1
Một Số Vấn Đề Lý Luận CHUNG
Về VAI Trò Của CÔNG Đoàn TRONG Việc Bảo Vệ
Lợi ích Của Người LAO Động
1.1. Lý luận chung về vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích của người
lao động
1.1.1. Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin về vai trò bảo vệ lợi ích
người lao động của Công đoàn
1.1.1.1. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen
Lý luận về Công đoàn của C.Mác và Ph.Ăngghen gắn liền với học thuyết về giai
cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại chúng ta.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích rất
sâu sắc quá trình phát triển của phong trào công nhân. ở tác phẩm này, hai ông xem xét
các trình độ khác nhau trong sự phát triển của giai cấp vô sản và đã đi đến kết luận rằng,
việc tổ chức những người vô sản thành một giai cấp là yêu cầu khách quan của lịch sử.
Khi nói về sự phát triển của công đoàn trong “Chỉ thị gửi các đại biểu Hội đồng Trung
ương lâm thời”, C.Mác nhận định rằng, hoạt động của công đoàn nhằm cố gắng chặn
đứng cuộc tấn công không ngừng của tư bản vào những người lao động cần được mở
rộng một cách phổ biến bằng cách lập ra những công đoàn trong tất cả các nước và liên
hiệp những trung tâm tổ chức đối với giai cấp công nhân nhằm loại trừ chế độ làm thuê
và quyền lực của tư bản.
C.Mác coi các Công đoàn là một lực lượng hùng hậu chống lại chế độ nô lệ làm thuê,
nêu rõ những nhiệm vụ của Công đoàn khi đã đặt cho mình sứ mệnh giải phóng toàn bộ
giai cấp công nhân, thì các Công đoàn phải rèn luyện năng lực hoạt động một cách tự giác,
ủng hộ mọi phong trào xã hội, phải tự coi mình là những đại biểu của giai cấp công nhân
và chiến đấu cho quyền lợi của giai cấp đó.
Đối với C.Mác, tổ chức Công đoàn xuất hiện là yêu cầu khách quan của phong trào
công nhân trên bước đường đấu tranh chống giai cấp tư sản. Trong bức thư gửi Ph.Bôn-tơ
ngày 23 tháng 1 năm 1871, C.Mác nhận định rằng, những mục tiêu quần chúng rộng lớn,
nhiệm vụ đấu tranh chính trị và kinh tế đã xác định rõ ràng, phong trào chính trị của giai
cấp công nhân có mục tiêu cuối cùng là giành chính quyền về tay mình. Muốn thế, thì
trước đó, phải có một tổ chức của giai cấp trưởng thành từ trong bản thân cuộc đấu tranh
kinh tế rời rạc của công nhân ở khắp nơi, đó là tổ chức Công đoàn.
C.Mác cổ vũ cho các Công đoàn hãy biết thống nhất lực lượng đấu tranh cho mục
tiêu giải phóng hoàn toàn giai cấp công nhân. Người viết:
Các công đoàn phải ủng hộ mọi phong trào xã hội và chính trị nhằm mục
tiêu ấy. Tự coi mình là những người đại biểu của toàn bộ giai cấp công nhân và
chiến đấu cho quyền lợi của giai cấp công nhân và chiến đấu cho quyền lợi của
giai cấp đó, các công đoàn phải thu hút vào hàng ngũ mình cả những công
nhân chưa đứng trong tổ chức. Các công đoàn cần đặc biệt quan tâm đến quyền
lợi của những người công nhân làm nghề có lương thấp nhất. Các Công đoàn
phải làm cho toàn thế giới thấy rằng mình chiến đấu không phải vì những
quyền lợi cá nhân hẹp hòi, mà là để giải phóng hàng triệu người bị áp bức [20,
tr.104-105].
Sau khi xác định vị trí của Công đoàn trong đấu tranh của giai cấp vô sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng vô sản trong cuộc đấu tranh ấy,
đồng thời cho rằng các Công đoàn đóng vai trò to lớn trong việc ngăn chặn những cuộc
chiến tranh phục vụ quyền lợi của giai cấp cầm quyền ở các nước tư bản. Hai ông đã cố
gắng cổ vũ, thu hút các công đoàn vào cuộc đấu tranh chống lại những cuộc chiến tranh
đó v.v …
Như vậy, Công đoàn ra đời dưới chế độ tư bản, bắt nguồn từ sự phản kháng của
công nhân chống lại sự áp bức bất công của giới chủ. Trong học thuyết của C. Mác và
Ph. Ăngghen, công đoàn với với chức năng bẩm sinh đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp
công nhân có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển biến giai cấp công nhân từ tự phát
lên tự giác, từ “giai cấp tự mình” đến “giai cấp vì mình”. Điều mà C.Mác khẳng định:
Các công đoàn đó trở thành những trung tâm tổ chức đối với công nhân
cũng giống như những thị xã và công xã thời trung cổ là những trung tâm tổ
chức đối với giai cấp tư sản. Nếu công đoàn cần thiết cho cuộc đấu tranh du
kích giữa tư bản và lao động, thì công đoàn lại càng quan trọng hơn với tư cách
là một lực lượng có tổ chức để tiêu diệt bản thân chế độ lao động làm thuê và
quyền lực của tư bản [20, tr.235- 236].
Trong quá trình chuyển biến về chất của phong trào công nhân, Công đoàn trở thành
trường học đấu tranh giai cấp, ở đó công nhân được tập hợp, đoàn kết thành trung tâm
phản kháng đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, chống lại quyền lực của chế độ tư bản
đương thời.
1.1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về vai trò của Công đoàn trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
Tiếp tục phát triển lý thuyết của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra vai trò
trường học của Công đoàn. Theo Lênin, bản chất Công đoàn là trường học CNCS vẫn
không thay đổi ngay trong điều kiện của chính sách kinh tế mới. Song, sự thể hiện vai trò
đó được bổ sung thêm những nội dung mới. Đồng thời cũng có những thay đổi tương ứng
về hình thức và phương pháp công tác của Công đoàn.
Cũng như trước đây, chức năng hoạt động chủ yếu của Công đoàn vẫn là những
phương hướng hoạt động có liên quan đến việc thu hút đông đảo quần chúng lao động
tham gia quản lý sản xuất và các công việc xã hội khác, bồi dưỡng cho quần chúng những
phương pháp quản lý kinh tế - xã hội chủ nghĩa, phổ biến cho công nhân viên chức những
thao tác lao động mới và phương pháp tổ chức quá trình sản xuất, giáo dục cho họ thái độ
lao động mới đối với lao động và tài sản, kỷ luật lao động mới, tinh thần làm chủ xí
nghiệp, tinh thần làm chủ đất nước. Đó chính là những chức năng trường học quản lý,
trường học kinh doanh của Công đoàn.
Điều có ý nghĩa quan trọng là Công đoàn tham gia vào việc xây dựng tất cả cơ quan
Nhà nước và kinh doanh về quản lý kinh tế. Công đoàn có quyền giới thiệu ứng cử viên
của mình vào các chức vụ quản lý hành chính - kinh tế. Có quyền xét duyệt các ứng cử
viên thuộc về tổ chức Đảng và các cơ quan chính quyền. Chức năng Công đoàn là trường
học quản lý, trường học kinh doanh cũng được thực hiện bằng cách đại diện của Công
đoàn tham gia với tư cách là thành viên của các cơ quan tối cao của Nhà nước, các ban
lãnh đạo kinh tế, ban giám đốc nhà máy, người quản lý, trợ lý của người quản lý v.v...
Nội dung chức năng của công đoàn là trường học quản lý, trường học kinh doanh
còn bao gồm cả việc Công đoàn tham gia vào việc thiết lập kế hoạch sản xuất. Với mục
đích đó, Đảng đã nêu rõ sự cần thiết phải có đại diện của Công đoàn tham gia vào tất cả
các cơ quan kế hoạch của Nhà nước vô sản. Như Lênin đã nhấn mạnh, hoạt động của
Công đoàn...
Phải lôi cuốn ngày càng sâu rộng giai cấp công nhân và quần chúng lao
động vào toàn bộ sự nghiệp xây dựng kinh tế, toàn bộ hoạt động công nghiệp,
từ việc thu mua nguyên liệu đến việc bán sản phẩm, bằng cách làm cho họ có
một ý niệm ngày càng cụ thể về kế hoạch kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất
của Nhà nước cũng như về lợi ích thực tiễn của công nhân và nông dân trong
việc thực hiện kế hoạch đó [15, tr.424-425].
Một trong những vấn đề quan trọng nhất trong lý thuyết của Lênin về Công đoàn là
bảo vệ lợi ích của người lao động.
Chính sách kinh tế mới do Lênin đề xướng đã mang lại hàng loạt những biến đổi quan
trọng về nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện một chức năng nữa của Công đoàn
là gắn liền với việc bảo vệ lợi ích kinh tế, các quyền của công nhân viên chức, việc quan
tâm đến điều kiện lao động và sinh hoạt của họ.
Lênin từng nhấn mạnh: Công đoàn có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của người lao động
theo ý nghĩa đúng đắn và trực tiếp của từ đó. Bằng cách thường xuyên và không ngừng
sửa chữa những thiếu sót và sự cường điệu vấn đề của cán bộ phụ trách, đấu tranh chống
mọi biểu hiện quan liêu trong công tác của các cơ quan kinh tế và bộ máy quản lý Nhà
nước, tuỳ khả năng cho phép, Công đoàn cần tạo mọi điều kiện để cải thiện điều kiện lao
động và sinh hoạt của công nhân viên chức, nâng cao phúc lợi vật chất của họ. Mọi tổ
chức công đoàn thực hiện chức năng bảo vệ ở các xí nghiệp nhà nước tuyệt nhiên không
mang và không thể mang tính chất đấu tranh giai cấp về mặt kinh tế.
Theo Lênin, Công đoàn dưới CNXH phải gánh vác lấy những nhiệm vụ đặc biệt và
một trách nhiệm đặc biệt trong công cuộc xây dựng CNXH. Bởi vì, giai cấp công nhân, mà
Công đoàn là người đại diện, từ địa vị bị thống trị, áp bức dưới chế độ tư bản, nay đó trở
thành giai cấp lãnh đạo, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Do đó, Công đoàn trở thành
trung tâm đoàn kết, tập hợp, giáo dục công nhân, lao động xây dựng xã hội mới - xã hội
XHCN. Theo đó, nhiều nội dung mới về nhiệm vụ, vai trò và chức năng của Công đoàn đó
được Lênin làm sáng tỏ như việc tham gia của Công đoàn vào quản lý kinh tế, văn hoá - xã
hội, quản lý nhà nước. Đặc biệt Người đó cụ thể hoá, phát triển nhiều vấn đề rất mới, chưa
có tiền lệ đặt ra đối với việc bảo vệ lợi ích của người công nhân, người lao động trong quá
trình xây dựng CNXH.
Trong khi đấu tranh với những quan điểm sai lầm về chức năng của Công đoàn
trong tình hình mới, Lênin khẳng định:
Nhà nước công nhân cũng mắc bệnh quan liêu. Và chúng ta buộc phải gắn
cho Nhà nước - biết nói như thế nào nhỉ - cái nhãn hiệu đáng buồn đó. Đó là tình
hình thực tế của bước quá độ. Trong một Nhà nước được hình thành trong những
điều kiện cụ thể như vậy, chẳng lẽ công đoàn lại không có cái gì để bảo vệ hay
sao? [15, tr.52].
Lênin còn chỉ rõ: “Các công đoàn có nhiệm vụ tuyệt đối phải bảo vệ lợi ích của
công nhân, phải góp phần vào phúc lợi vật chất của họ trong phạm vi có thể được, phải
luôn luôn uốn nắn những sai lầm và những việc làm thái quá của các cơ quan kinh tế, khi
những cái đó là do một sự lệch lạc quan liêu chủ nghĩa của bộ máy Nhà nước gây ra” [15,
tr.9]. Theo Lênin, chúng ta cần phải dùng Công đoàn để bảo vệ công nhân khỏi bị sự xâm
phạm của Nhà nước của họ và để công nhân bảo vệ Nhà nước của chúng ta. Và cả hai sự
bảo vệ đó được tiến hành bằng một sự kết hợp độc đáo những biện pháp Nhà nước của chúng ta với sự thoả thuận của chúng ta, sự “kết hợp” với các công đoàn của chúng ta
[15, tr.53].
Điều đó thể hiện sự vận dụng, phát triển sáng tạo nhiệm vụ, chức năng bảo vệ lợi
ích người lao động trong điều kiện hoàn cảnh mới. Về vấn đề bãi công trong chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, Lênin đã có những chỉ dẫn hết sức quý giá.
Người không những thừa nhận thực tế hoạt động bãi công, mà cũng làm rõ nguyên nhân
của hoạt động này:
Đảng cộng sản, cũng như chính quyền xô viết, cũng như các công đoàn,
đều tuyệt đối không được quên và không được dấu không cho công nhân và quần
chúng cần lao biết rằng việc dùng đến đấu tranh bói cụng trong một nước mà
chính quyền thuộc về tay giai cấp vô sản chỉ có thể giải thích và biện hộ duy nhất
bằng một mặt, những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa của Nhà nước vô sản và mọi
thứ tàn dư của quá khứ tư bản chủ nghĩa trong các tổ chức của Nhà nước vô sản,
và mặt khác, bằng trình độ chính trị của quần chúng cần lao cũng thấp kém và
trình độ văn hoá của họ cũng lạc hậu mà thôi [15, tr.123].
Từ đó, Lênin chỉ ra nhiệm vụ đặc biệt và trách nhiệm cũng như phương pháp đặc
biệt của Công đoàn khi bãi công xảy ra: nhiệm vụ các công đoàn là phải góp phần giải
quyết thật nhanh chóng và không đau đớn những xung đột đó, làm thế nào cho những
nhóm công nhân mà các công đoàn ấy thấy được mặt lợi nhiều nhất, nhưng với điều kiện
là có thể thực hiện được những điều lợi ấy mà không hại đến nhóm công nhân khác, cũng
không hại đến sự phát triển của Nhà nước công nhân và của nền kinh tế xét về toàn bộ
của Nhà nước đó, vì chỉ có sự phát triển đó mới có thể tạo ra một cơ sở cho phúc lợi vật
chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Phương pháp duy nhất đúng, lành mạnh và hợp
lý để giải quyết những va chạm và xung đột giữa những bộ phận nào đó của giai cấp công
nhân với những cơ quan Nhà nước công nhân, là sự trung gian của các công đoàn; với
những cơ quan đại diện riêng của mình, mỗi công đoàn hoặc là điều đình với những cơ
quan kinh tế hữu quan, trên cơ sở những yêu sách và đề nghị mà hai bên nêu ra một cách
thật rõ ràng, hoặc là nhờ đến cấp trên có thẩm quyền của Nhà nước.
Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh, nhiệm vụ của các công đoàn là phải góp phần thanh
toán cho thật nhanh những xung đột bằng những biện pháp nhằm loại bỏ những cái thật là
không bình thường và vô trật tự, nhằm giải quyết những yêu sách chính đáng và có thể
thực hiện được của quần chúng, nhằm tác động vào quần chúng về mặt chính trị ...Và
Lênin xác định:
Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để đánh
giá sự đúng đắn và thành công trong hoạt động của một công đoàn, là mức độ
mà công đoàn đó đã đạt được trong việc ngừa trước được một cách có ích
những xung đột to lớn trong những xí nghiệp Nhà nước bằng một chính sách
ngừa trước nhằm thực sự bảo vệ lợi ích quần chúng công nhân trong mọi lĩnh
vực, và loại bỏ kịp thời những lý do xung đột [15, tr.123-124].
Có thể nói những luận điểm của Lênin về Công đoàn nói chung và việc bảo vệ lợi
ích của người lao động nói riêng trong công cuộc xây dựng CNXH, đặc biệt là trong thời
kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới, rất phong phú và hàm chứa rất nhiều chỉ dẫn sâu sắc
cho hoạt động bảo vệ lợi ích người lao động của Công đoàn.
Tóm lại, vai trò bảo vệ lợi ích người lao động của tổ chức công đoàn không chỉ có ý
nghĩa về mặt tư tưởng, lý luận mà còn cả về mặt hoạt động thực tiễn. Vai trò đó là sự cụ
thể hoá chức năng của tổ chức công đoàn thông qua hoạt động của mình. Đây chính là
vấn đề khách quan nảy sinh trong quá trình phân công và hợp tác lao động của con người.
Lý luận mác xít khẳng định: “ở đâu không có sự nhất trí về lợi ích thì ở đó sẽ không có
sự nhất trí về mục đích tư tưởng chứ đừng nói gì có sự nhất trí trong hành động” [19,
tr.11].
1.1.2. Quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về bảo vệ lợi ích người
lao động
Tổ chức lao động Quốc tế (gọi tắt là ILO) được thành lập năm 1919, là cơ quan chuyên
môn phụ trách công tác xã hội và lao động của Liên hợp quốc, là tổ chức quốc tế duy nhất có cơ
chế mang tính ba bên trong hệ thống của Liên hợp quốc.
Ngay từ thế kỷ XIX, ý tưởng thành lập tổ chức này đã hình thành trong một số nước
công nghiệp hoá. Vào ngay trước khi kết thúc cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất, người
ta đã nhận thức được rằng, cần đấu tranh với ảnh hưởng có hại do công nghiệp hoá đem
lại, cần phải có những nỗ lực chung mang tính quốc tế. Nếu như người lao động không
nhận được đãi ngộ công bằng về xã hội và kinh tế, thì sẽ không thể nói đến hoà bình thế
giới thực sự.
Sau khi đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc, các nước tham chiến đã họp hội nghị
hoà bình tại Pari vào đầu năm 1919, ký kết hiệp ước hoà bình. Tại hội nghị đã thành lập hội
đồng lập pháp lao động do 15 nước cấu thành, đây là tiền thân của Tổ chức lao động quốc
tế. Hội đồng đã soạn thảo ra 9 nguyên tắc liên quan tới vấn đề lao động và “Dự thảo
chương trình Tổ chức lao động quốc tế”, được hội nghị hoà bình Pari thảo luận thông qua,
là phần thứ 13 của “Hiệp ước hoà bình Véc xây”, tức cái gọi là “Hiến chương lao động
quốc tế”, đặt nền tảng cho “Chương trình Tổ chức lao động quốc tế” sau này.
Mục đích thành lập của Tổ chức lao động quốc tế và hoạt động chủ yếu của nó là
làm công tác lập pháp lao động quốc tế, tức đề ra và thúc đẩy thực hiện công ước lao
động quốc tế và kiến nghị thư, gọi chung là tiêu chuẩn lao động quốc tế, nhằm thúc đẩy
bảo vệ quyền lợi cơ bản của người lao động trên toàn thế giới. Là cơ quan chuyên môn
lập pháp lao động quốc tế, kể từ khi thành lập năm 1919 đến nay, Tổ chức lao động quốc
tế đã có lịch sử hơn 80 năm, vào năm 1969 khi nó kỷ niệm 50 năm ngày thành lập, còn
nhận được giải thưởng hoà bình Nô ben. Tổ chức lao động quốc tế hiện có 178 nước
thành viên.
Cơ quan chủ yếu của Tổ chức Lao động quốc tế là Đại hội, hội đồng lao động quốc
tế và Cục lao động quốc tế. Đại hội lao động quốc tế là cơ quan quyền lực tối cao của Tổ
chức lao động quốc tế. Trong trường hợp bình thường, cứ cách 6 năm lại tổ chức hội nghị
tại Giơ-ne-vơ, Thuỵ Sĩ, do mỗi nước thành viên cử đoàn đại biểu ba bên (bao gồm đại
biểu chính phủ 2 người, đại biểu công nhân và chủ thuê mỗi bên 1 người, tổng cộng 4
người) tham dự. Đại biểu ba bên được hưởng địa vị bình đẳng, các bên phát biểu ý kiến
một cách độc lập, tiến hành bỏ phiếu một cách độc lập. Nhiệm vụ chủ yếu của đại hội,
ngoài nghe báo cáo của Cục trưởng Cục lao động quốc tế ra, chủ yếu là đề ra công ước
lao động quốc tế và kiến nghị thư, và thẩm tra tình hình chấp hành của các nước đối với
những công ước và kiến nghị thư này.
Đề xướng hợp tác giữa công nhân và chủ thuê nhằm thúc đẩy kinh tế và xã hội
phát triển là nền tảng tư tưởng quan trọng thực hiện nguyên tắc có tính ba bên của Tổ
chức lao động quốc tế. Những việc mà Tổ chức lao động quốc tế quan tâm và xử lý
nói chung đều liên quan tới quyền lợi và nghĩa vụ của công nhân, chủ thuê các nước.
Khi thảo luận và quyết sách đối với những công việc này, thu hút đại biểu công nhân
và đại biểu chủ thuê cùng với chính phủ nghiên cứu, bàn bạc và đưa ra quyết định với
địa vị bình đẳng, thể hiện ý nguyện sự tôn trọng đối với các bên đương sự quan hệ lao
động nhằm tìm kiếm thông qua bàn bạc thảo luận đi tới nhận thức chung. Quyết định
được đưa ra như vậy tương đối chiếu cố đến các bên liên quan, tiện cho đưa ra thực
hiện.
1.1.2.1. Tiêu chuẩn lao động quốc tế là xác lập và bảo đảm quyền lợi công nhân
trên phạm vị thế giới
Quyền lợi công nhân còn gọi là quyền lợi lao động, là quyền lợi xã hội liên quan tới
lao động mà người lao động trong quan hệ lao động hiện đại mà pháp luật quy định được
hưởng đồng thời với thực hiện nghĩa vụ lao động.
Trong “Tuyên ngôn Floriđa” đã xác định: “Toàn nhân loại không phân biệt chủng tộc,
tín ngưỡng và giới tính đều có quyền mưu cầu phúc lợi vật chất và phát triển tinh thần
trong điều kiện tự do và tôn nghiêm, bảo đảm kinh tế và bình đẳng cơ hội”. Vì vậy, Tổ
chức lao động quốc tế cần phải thông qua phương thức đề ra và thực hiện tiêu chuẩn lao
động quốc tế để xác lập và bảo đảm quyền lợi công nhân trên phạm vi thế giới, cải thiện
điều kiện lao động của công nhân các nước, nhằm đạt tới mục tiêu bảo vệ CNXH và hoà
bình thế giới.
Là một thứ nhân quyền cơ bản, quyền tự do thành lập tổ chức chiếm vị trí quan trọng
trong lập pháp nhân quyền quốc tế. Đại hội lao động quốc tế khoá 31 năm 1948 đã thông qua
“Công ước tự do thành lập tổ chức và bảo đảm quyền lợi tổ chức” (số 87), công ước này lấy
quyền lợi công dân “tự do thành lập tổ chức” trong hiến pháp nhà nước dân chủ làm căn cứ
và xuất phát điểm, quy định cụ thể những nội dung và yêu cầu của quyền kết thành tổ chức.
Đại hội lao động quốc tế khoá 32 năm 1949 lại thông qua “Công ước quyền tổ chức và
quyền đàm phán tập thể” (số 98), nó có thể được coi là sự bổ sung đối với công ước số 87.
Hai công ước này cấu thành tiêu chuẩn lao động quốc tế hạt nhân ở các mặt quyền tự do
thành lập tổ chức và quyền đàm phán tổ chức”.
Công ước số 87 có mấy điểm quan trọng như sau: một là, về tự do thành lập tổ
chức: “Tất cả công nhân và chủ thuê, đều cần có quyền thành lập tổ chức mà bản thân họ
lựa chọn một cách không có bất kỳ sự phân biệt nào, và chỉ dựa vào chương trình của tổ
chức liên quan đưa vào tổ chức mà bản thân họ lựa chọn, chứ không cần phải được phê
chuẩn trước”. Hai là, “Tổ chức công nhân và tổ chức chủ thuê đều có quyền đề ra chương
trình và quy định của họ, bầu ra kế hoạch công tác của mình một cách tự do đầy đủ;
đương cục chính phủ không được có bất kỳ hạn chế nào đối với quyền lợi nói trên, hoặc
tiến hành ngăn trở đối với việc thực hiện hợp pháp quyền lợi nói trên”.
Công ước số 98 có các điểm quan trọng như sau: Công nhân cần được bảo vệ đầy
đủ, nhằm ngăn ngừa chịu bất cứ hành vi kỳ thị bài xích công đoàn nào về mặt việc làm.
Tổ chức công nhân và tổ chức chủ thuê đều cần được bảo vệ đầy đủ, nhằm ngăn ngừa bất
kỳ hành vi một bên trực tiếp hoặc thông qua người đại diện hoặc hội viên can thiệp bên
kia trong các mặt thành lập tổ chức, triển khai hoạt động hoặc quản lý nội bộ. Đối với cơ
chế tiến hành đàm phán tự nguyện giữa chủ thuê hoặc tổ chức chủ thuê với tổ chức công
nhân, chính phủ cần có biện pháp phù hợp với tình hình nước mình để khuyến khích.
ILO chủ trương xoá bỏ lao động cưỡng bức: Đại hội lao động quốc tế năm 1930 đã
thông qua “Công ước lao động cưỡng bức” (số 29), khi đó điểm nhấn của việc đề ra công
ước này là ở chỗ giải quyết vấn đề lao động cưỡng chế ở các thuộc địa. Đến Đại hội lao
động quốc tế năm 1957, lại thông qua “Công ước phế bỏ lao động cưỡng bức” (số 105).
Công ước này yêu cầu, phế bỏ ngay lập tức và triệt để lao động cưỡng chế hoặc lao động
nghĩa vụ dùng vào mục đích chính trị, phế bỏ lao động cưỡng bức lấy bất cứ hình thức
nào dưới đây làm mục đích: như coi đó là một biện pháp áp chế chính trị hoặc giáo dục
chính trị, hoặc làm một sự trừng phạt đối với việc có hoặc phát biểu quan điểm chính trị
hoặc quan điểm tư tưởng nào đối lập với chế độ chính trị, xã hội hoặc kinh tế có sẵn; coi
nó là một biện pháp động viên và sử dụng lao động để phát triển kinh tế; coi nó là một
biện pháp để bảo vệ kỷ luật lao động; coi nó là một sự trừng phạt đối với thành viên tham
gia bãi công; coi nó là một biện pháp để thực hiện kỳ thị chủng tộc, xã hội, dân tộc và tôn
giáo.
Bảo vệ hữu hiệu quyền lợi trẻ em, từng bước loại bỏ hiện tượng lao động trẻ em là
một vấn đề mà Tổ chức lao động quốc tế quan tâm lâu dài kể từ ngày thành lập. Trong
chương trình của ILO, tổ chức này đã coi bảo vệ lao động trẻ em và công nhân vị thành
niên là một nhiệm vụ bức thiết của mình. “Công ước độ tuổi thấp nhất” (số 138) năm
1973 và “Công ước lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất” (số 182) năm 1999 là hai công
ước trung tâm quan trọng đề cập tới nghiêm cấm vấn đề lao động trẻ em.
Công ước số 138 yêu cầu các nước thành viên đề ra chính sách quốc gia loại bỏ hữu
hiệu lao động trẻ em và từng bước nâng cao độ tuổi làm việc thấp nhất, theo quy định của
công ước, độ tuổi thấp nhất cho phép làm việc không được thấp hơn độ tuổi hoàn thành
giáo dục nghĩa vụ, và trong bất cứ trường hợp nào không được thấp hơn 15 tuổi; nhưng
nếu như cơ sở kinh tế và giáo dục của nước thành viên không đủ phát triển, thì phải bước
đầu quy định độ tuổi thấp nhất là 14 tuổi sau khi đã bàn bạc với tổ chức chủ thuê và tổ
chức công nhân hữu quan.
Tổ chức lao động quốc tế đã tính đến, hoàn toàn xoá bỏ lao động trẻ em là một
nhiệm vụ lâu dài và khó khăn, cần phải thông qua tiêu chuẩn lao động mới, nhằm bổ sung
công ước số 138 năm 1973 vẫn là tiêu chuẩn lao động cơ bản về mặt lao động trẻ em, coi
cấm và loại bỏ lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất là mục tiêu ưu tiên chính của hành
động quốc gia và quốc tế. Vì vậy, năm 1999 đã thông qua “Công ước lao động trẻ em
hình thức tồi tệ nhất”.
Công ước này quy định, đối với công ước này mà nói, từ “trẻ em” thích hợp cho tất
cả những người tuổi dưới 18. Cái gọi là lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất, chủ yếu bao
gồm mấy loại hình dưới đây: Chế độ nô lệ các loại hình thức hoặc cách làm tương tự chế
độ nô lệ, như buôn bán trẻ em, lao dịch trả nợ và nô dịch, cũng như lao động cưỡng bức
hoặc cưỡng chế, bao gồm chiêu mộ trẻ em cưỡng bức hoặc cưỡng chế dùng vào xung đột
vũ trang. Sử dụng thu nhận hoặc cung cấp trẻ em bán dâm, sản xuất các sản phẩm sex hoặc
tiến hành biểu diễn sex. Sử dụng, thu nhận hoặc cung cấp trẻ em tiến hành hoạt động bất
hợp pháp, đặc biệt là sản xuất và buôn bán các loại chất độc được xác định trong các công
ước quốc tế liên quan. Nhưng công việc mà tính chất của nó hoặc môi trường làm việc
trong đó có thể gây tổn hại tới sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức trẻ em, như: công việc khiến
cho trẻ em bị ngược đãi về thể xác, tâm lý hoặc tình dục; công việc ở dưới giếng, dưới
nước, nơi cao có nguy hiểm hoặc trong không gian hẹp; công việc sử dụng máy móc, thiết
bị và công cụ nguy hiểm, hoặc là công việc vận chuyển vật nặng; làm việc trong môi
trường không lành mạnh; làm việc trong điều kiện khó khăn đặc biệt. Công ước quy định,
các nước thành viên cần áp dụng bước đi thích hợp, thông qua tăng cường hợp tác hoặc
viện trợ quốc tế, bao gồm khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch loại bỏ nghèo
khó và phổ cập giáo dục, thực hiện chế tài cần thiết nhằm bảo đảm thực thi hữu hiệu các
điều khoản của công ước.
1.1.2.2. Về chính sách việc làm
Công ước chính sách việc làm nhấn mạnh: Một là trong phát triển cần phải đặt con
người lên vị trí hàng đầu, nếu không phát triển kinh tế sẽ không thể sản sinh ra cơ hội việc
làm; Hai là đề ra chính sách việc làm cần tính toán thích đáng tới giai đoạn và trình độ phát
triển kinh tế, hơn nữa tính toán tới mối quan hệ lẫn nhau giữa mục tiêu việc làm và các mục
tiêu kinh tế - xã hội khác, khi thúc đẩy thực hiện chính sách việc làm cần áp dụng phương
pháp thích hợp và điều kiện nước mình và thực tế nước mình; Ba là cần tiến hành hiệp
thương với đại diện giới chủ và đại diện công nhân về vấn đề chính sách việc làm liên quan,
nhằm suy xét đầy đủ tới kinh nghiệm và ý kiến của họ, khi đề ra và cố gắng giành được sự
hợp tác đầy đủ của họ về mặt ủng hộ chính sách này.
“Công ước hiệp thương ba bên (tiêu chuẩn lao động quốc tế)” là nhằm làm cho việc
đề ra tiêu chuẩn lao động quốc tế có thể sát hợp với thực tế, việc thực thi chúng có thể
tương đối thuận lợi, và yêu cầu các nước hình thành chế độ hiệp thương ba bên. Công
ước yêu cầu: các nước phê chuẩn được phép áp dụng các loại trình tự, bảo đảm việc tiến
hành hiệp thương hữu hiệu giữa chính phủ, chủ thuê và đại diện công nhân về các công
việc như đề ra, phê chuẩn, thực thi, báo cáo và xoá bỏ cam kết liên quan tới tiêu chuẩn
lao động quốc tế. Trong hiệp thương loại này, chủ thuê và công nhân cần có quyền đại
diện bình đẳng. Thời gian hiệp thương mỗi năm ít nhất tiến hành một lần.
Những việc mà công ước và kiến nghị thư quy định, trong các thời điểm khác nhau
cũng có sự khác nhau, xu thế phát triển của nó đại thể giống như lập pháp lao động của
các nước. Trước đại chiến thế giới lần thứ hai, cái mà tiêu chuẩn lao động quốc tế quan
tâm là các việc liên quan tới cải thiện điều kiện lao động, bảo vệ sức khoẻ công nhân,
thực hiện bảo hiểm xã hội, bồi thường tổn thất công nhân, cũng như quy định tiền lương
thấp nhất. Tiêu chuẩn lao động quốc tế thông qua vào sau đại chiến thế giới lần thứ hai
nhấn mạnh bảo vệ nhân quyền cơ bản, nội dung từ “kế hoạch lớn có tính lập pháp” dần
dần chuyển sang đề ra phương hướng có tính chính sách, nhấn mạnh vai trò nhất thể hoá
của cơ quan xã hội trong hình thành sự công bằng, phồn vinh và ổn định xã hội. Kể từ
thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay, Tổ chức lao động quốc tế quan tâm cao độ tới các vấn
đề ở bình diện xã hội của toàn cầu hoá kinh tế, áp dụng một loạt biện pháp ứng phó, và
lần lượt đề ra các công ước lao động quốc tế và kiến nghị thư mới. Tổ chức lao động quốc
tế cho rằng, ba trụ cột chính sách xã hội ứng phó với thách thức của toàn cầu hoá kinh tế
và bảo đảm phát triển bền vững là: giáo dục và đào tạo thích ứng với yêu cầu toàn cầu
hoá, chính sách bảo vệ xã hội và chính sách quan hệ chủ thợ hợp lý.
Theo nhận thức chung của “Lao động thể diện”, địa vị quan trọng của việc làm là không
còn nghi ngờ gì nữa. Các tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề việc làm vừa bao
gồm chính sách việc làm và khai thác nguồn nhân lực, thành lập cơ quan giới thiệu việc làm
miễn phí, tổ chức chỉ đạo nghề nghiệp và đào tạo nghề, hoàn thiện hệ thống dịch vụ việc làm;
cũng bao gồm điều kiện việc làm thông thường, như quy định tiền lương thấp nhất, bảo đảm
tiền lương, quy định thời gian làm việc, hạn chế thời gian làm việc ban đêm, thời gian nghỉ
ngơi mỗi tuần, nghỉ phép năm vẫn hưởng lương và học tập thoát ly khỏi sản xuất vẫn hưởng
lương... Năm 1997, Đại hội lao động quốc tế đó thông qua “Công ước cơ quan việc làm tư
nhân” (số 181), khẳng định vai trò mà các cơ quan dịch vụ việc làm này phát huy trong mặt
chính sách thị trường sức lao động. Năm 1998, đã thông qua “Kiến nghị thư kích thích tạo điều
kiện việc làm thông thường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ” (số 189), nhấn mạnh tầm quan
trọng của các doanh nghiệp này trong các mặt như tạo việc làm, thu hút nhóm người yếu thế
tham gia vào hoạt động kinh tế. Tháng 6 năm 2004, Đại hội lao động quốc tế lại thông qua
“Kiến nghị thư khai thác nguồn nhân lực: giáo dục, đào tạo và học tập suốt đời” (số 195). Kiến
nghị thư này đó đưa vào tư duy mới học tập suốt đời, đưa ra cần làm rõ trách nhiệm của chính
phủ, doanh nghiệp, cá nhân người lao động và các bên xã hội trong khai thác và đào tạo nguồn
nhân lực.
Tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề bảo vệ xã hội, một là an toàn và vệ
sinh của người lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp, như đề ra và thực hiện chính sách
quốc gia an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp công nhân, xây dựng cơ sở y tế nghề nghiệp
tương ứng, đề phòng các sự cố công nghiệp lớn, đề ra tiêu chuẩn chuyên nghiệp an toàn
và vệ sinh nghề nghiệp tương ứng đối với một số môi trường làm việc, bộ phận ngành
nghề dễ xảy ra sự cố an toàn lao động và có độc hại; hai là bảo đảm xã hội của người lao
động khi sinh lão bệnh tử và bị thương tật, tàn phế, như bảo hiểm y tế, bảo hiểm dưỡng
lão, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thương tật lao động cũng như bảo hiểm sinh đẻ; ba là
bảo vệ đối với nhóm lao công yếu thế, như bảo vệ đối với lao động trẻ em, lao động vị
thành niên, lao động nữ, công nhân tàn tật, công nhân di dân, công nhân tuổi tác tương
đối cao, công nhân làm việc chế độ không phải cả ngày, công nhân gia đình..., bảo đảm
cho họ cơ hội việc làm bình đẳng và đãi ngộ bình đẳng với công nhân bình thường. Năm
1994, Đại hội lao động quốc tế đã thông qua “Công ước làm việc chế độ không phải cả
ngày” (số 175), năm 1996 đã thông qua “Công ước làm việc trong gia đình” (số 177).
Năm 2000, Đại hội lao động quốc tế đã thông qua “Công ước bảo vệ sinh đẻ” (số 183),
công ước này ở nhiều mặt đã nhấn mạnh yêu cầu đối với bảo vệ sinh đẻ, và nới rộng diện
bao trùm của bảo vệ sinh đẻ. Năm 2001, Đại hội lao động quốc tế đã thông qua “Công
ước vệ sinh an toàn nông nghiệp” (số 184) và kiến nghị thư cùng tên, công ước và kiến
nghị thư này là tiêu chuẩn lao động quốc tế vệ sinh an toàn đầu tiên trong nông nghiệp,
nó đưa ra xây dựng bộ khung có tính toàn cầu, nhằm giúp các nước thành viên có thể đề
ra bộ khung pháp luật của nước mình trên cơ sở của bộ khung này.
Đối thoại xã hội là chỉ đàm phán, hiệp thương hoặc giao lưu thông tin đơn giản các
loại hình được tiến hành giữa hai bên hoặc ba bên chính phủ, tổ chức chủ thuê và tổ chức
công nhân về các vấn đề liên quan tới chính sách kinh tế và xã hội mà các bên cùng quan
tâm. Đối thoại xã hội vừa bao gồm đối thoại ba bên ở bình diện xã hội, cũng bao gồm đối
thoại hai bên chủ thợ ở cấp doanh nghiệp. Những năm gần đây, một số nước phương Tây
đã có sự mở rộng đối với chủ thể của đối thoại xã hội, cũng đưa vào phạm vi đối thoại
một số tổ chức xã hội ngoài ba bên. Tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề đối
thoại xã hội vừa bao gồm quản lý hành chính lao động và giám sát lao động, như quản lý
hành chính lao động, xây dựng chế độ giám sát lao động, quy phạm thống kê lao động,
thực hiện hiệp thương ba bên thúc đẩy thực hiện tiêu chuẩn lao động quốc tế; cũng bao
gồm điều chỉnh quan hệ ngành nghề (chủ thợ), như thực hiện đàm phán tập thể giữa công
nhân và chủ thuê, ký kết thoả ước tập thể, hoà giải, trọng tài và tố tụng tư pháp tranh chấp
lao động, hiệp thương và hợp tác ở cấp doanh nghiệp, ngành nghề và toàn quốc, giao lưu
và hiệp thương giữa công nhân và nhà quản lý trong nội bộ doanh nghiệp, cũng như quan
tâm và xem xét sự bất mãn của công nhân trong doanh nghiệp.
Việt Nam gia nhập ILO từ năm 1980. Trải qua 29 năm hợp tác, mối quan hệ Việt
Nam - ILO ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực, nhưng đến năm 1982 vì một
số lý do kỹ thuật Việt Nam đã rút khỏi ILO và đến năm 1993 Việt Nam tái gia nhập ILO.
Từ khi tham gia trở lại, Việt Nam tích cực hoạt động trong ILO, tham dự đầy đủ các
Hội nghị Lao động Quốc tế hàng năm, thực hiện các nghĩa vụ của nước thành viên. Nói
chung, đối với các công ước Lao động Quốc tế đã tham gia phê chuẩn, Việt Nam luôn
thực hiện một cách nghiêm túc, có sự phối hợp ba bên giữa Chính phủ, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam (tổ chức đại diện cho người lao động) và Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động) kiểm điểm đánh
giá việc thi hành.
Theo cơ chế ba bên, Công đoàn Việt Nam ngày càng tham gia tích cực trong hoạt
động của ILO. Điều đó được thể hiện cụ thể trong hoạt động đối nội và đối ngoại của
Công đoàn Việt Nam. Trong khuôn khổ hợp tác với ILO, Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam đã tích cực tham gia xây dựng luật pháp của Việt Nam; kiểm tra giám sát việc áp
dụng luật; thông qua việc cử cán bộ ra nước ngoài trao đổi kinh nghiệm, học tập, nghiên
cứu, tổ chức ở trong nước các lớp tập huấn, hội thảo, hội nghị, tuyên truyền, đào tạo cán
bộ công đoàn về nâng cao kỹ năng, phương pháp hoạt động, nội dung hoạt động, các tiêu
chuẩn lao động quốc tế, bộ quy tắc ứng xử liên quan đến lao động, quan hệ lao động, hoạt
động công đoàn trong cơ chế thị trường, thương lượng ký kết thảo ước lao động tập thể,
an toàn vệ sinh lao động, bình đẳng giới, chống lao động trẻ em, công tác tư vấn pháp luật
trong công đoàn, tạo mối quan hệ hài hoà giữa chủ doanh nghiệp và người lao động,
doanh nghiệp phát triển, người lao động được đảm bảo về công ăn việc làm, về quyền lợi,
nhân phẩm, hàng hoá chất lượng mang tính cạnh tranh cao hơn, nền kinh tế phát triển
lành mạnh, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hoà nhập kinh tế quốc tế và khu vực tốt
hơn.
Ngày 17/2/2003, Văn phòng ILO tại Hà Nội đã chính thức khai trương. Mục tiêu
hoạt động của ILO tại Việt Nam luôn gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
chính phủ và phù hợp với bốn mục tiêu chiến lược về chương trình việc làm của ILO.
Các hỗ trợ của ILO tập trung giúp Chính phủ hoạch định chiến lược và chính sách về lao
động, việc làm nhằm giúp cải thiện điều kiện sống và điều kiện làm việc của người lao
động.
1.2. Công đoàn việt nam với việc bảo vệ lợi ích của người lao động
1.2.1. Khái quát về Công đoàn Việt Nam
1.2.1.1. Sự ra đời và phát triển của Công đoàn Việt Nam
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) đã ghi rõ:
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của
người lao động. Cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao
động khác, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân, viên
chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [27, tr.17].
Như vậy Công đoàn Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, một bộ phận hợp
thành của hệ thống chính trị, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và những người
lao động khác, được Hiến pháp thừa nhận.
Sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam gắn liền với tên tuổi và cuộc đời hoạt động
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân Việt Nam, người anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá của thế giới.
Ngay từ những năm tháng xa Tổ quốc, bôn ba hoạt động trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý đến việc thành lập tổ chức Công
đoàn ở Việt Nam (lúc bấy giờ gọi là Công hội).
Trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" viết năm 1927, Người đã nói rõ hơn về công
hội, trình bày một cách mộc mạc, dễ hiểu về tổ chức, nhiệm vụ của tổ chức công hội mà
những tư tưởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị: "Tổ chức công hội trước hết là để
công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang
cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công
nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới" [23, tr.302]. Người khẳng định
công hội là cơ quan của công nhân để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa.
Những lý luận về việc thành lập tổ chức Công đoàn cách mạng của lãnh tụ Nguyễn
ái Quốc được các hội viên Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội - một tổ chức
tiền thân của Đảng Cộng sản, truyền bá rộng rãi trong phong trào công nhân, nhiều tổ
chức Công hội bí mật được thành lập. Đặc biệt, từ năm 1928, Thanh niên cách mạng
đồng chí Hội phát động phong trào “Vô sản hoá” thì phong trào đấu tranh của công nhân
Việt Nam càng sôi nổi, đã thúc đẩy sự phát triển của tổ chức Công hội lên một bước mới.
Để đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động công nhân và tăng cường sức mạnh cho tổ
chức Công hội. Ngay sau khi thành lập trước sự phát triển của phong trào công nhân và
nhu cầu tập hợp lực lượng, Đông Dương cộng sản đảng đã triệu tập đại hội thành lập Tổng
công hội đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28 tháng 7 năm 1929, tại số nhà 15 Hàng Nón - Hà Nội. Đại
hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 6 người do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh - uỷ viên Ban chấp
hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng, phụ trách công tác vận động công
nhân của Đảng đứng đầu. Trong Đại hội đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã trình bày báo cáo,
trong đó nhấn mạnh đặc điểm tình hình phong trào công nhân nước ta và đề ra những
nhiệm vụ thiết yếu của giai cấp công nhân, công hội trong thời gian sắp tới.
Sự ra đời của Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ là kết quả tất yếu của sự phát triển của
phong trào công nhân với sự truyền bá lý luận cách mạng của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
và các đảng viên cộng sản vào phong trào công nhân nước ta. Sự ra đời của tổ chức này
là một mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân ở nước ta. Từ đây, giai cấp
công nhân Việt Nam có tổ chức đại diện cho quyền lợi của mình, Công đoàn Việt Nam
đã thực sự bước lên vũ đài lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc.
Từ sau hội nghị này, Tổng Công hội Đỏ Bắc kỳ, một tổ chức được Đảng Cộng sản
thành lập, đã trở thành tổ chức Công đoàn cách mạng, tiêu biểu của giai cấp công nhân
Việt Nam. Nó là kết quả tất yếu của phong trào công nhân vận động với sự truyền bá lý
luận Công đoàn cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và các đảng viện cộng sản vào
phong trào Công đoàn nước ta.
Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ đã trở thành tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam.
Ngày thành lập tổ chức này ngày 28 tháng 7 năm 1929 đã trở thành ngày thành lập Công
đoàn Việt Nam.
Để phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ lịch sử, Công đoàn Việt Nam đã qua
nhiều tên gọi khác nhau: Tổng công hội đỏ Bắc kỳ, Nghiệp đoàn ái hữu, Hội công nhân
phản đế, Hội công nhân cứu quốc, Tổng Công đoàn Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam. Nhưng bản chất cách mạng và mục tiêu cơ bản, lâu dài của Công đoàn Việt
Nam là không thay đổi.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy nhanh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế,
Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006) của Đảng đã nhấn mạnh: Đối với giai cấp công
nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính
trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất
nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, BHXH, bảo hiểm
thất nghiệp, BHLĐ, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với công nhân; chính sách ưu đãi
nhà ở đối với công nhân bậc cao.
Trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, Tổ chức Công đoàn Việt Nam đã trải
qua 10 kỳ đại hội, có 63 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, 20 Công đoàn ngành Trung
ương và Công đoàn Tổng công ty trực thuộc, với hơn 6 triệu đoàn viên. Trong đó, đoàn
viên công đoàn khu vực các cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể, các đơn vị hành chính sự
nghiệp nhà nước khoảng 3.741.627 người, trong đó đoàn viên công đoàn trong các doanh
nghiệp nhà nước khoảng 1.580.026 người, đoàn viên công đoàn khu vực ngoài quốc
doanh khoảng 2.201.044 người, đoàn viên trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài khoảng 1.093.764 đoàn viên.
1.2.1.2. Về vị trí, vai trò của Công đoàn Việt Nam.
a. Vị trí của tổ chức Công đoàn.
Ngay từ khi mới thành lập, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã thực sự là một tổ chức
quần chúng rộng lớn của giai cấp công nhân, nằm trong mặt trận dân tộc thống nhất,
được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cùng các tổ chức chính trị - xã hội khác trong
mặt trận dân tộc thống nhất thực hiện đường lối chiến lược sách lược của Đảng Cộng sản
Việt Nam, quyết tâm giành độc lập tự do cho dân tộc, đưa đất nước tiến lên CNXH.
Trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc cũng như sau khi tổ quốc được thống nhất,
cả nước đi lên CNXH. Đảng ta càng xác định rõ hơn vị trí của Công đoàn trong hệ thống
chính trị XHCN.
Vị trí đó đã được xác định rõ từ Đại hội III, IV, V, VI, VII, VIII, IX và được phát
triển ở Đại hội X Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam nằm trong hệ thống chính trị của Nhà nước, là trung
tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công
nhân lao động. Công đoàn Việt Nam là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là sợi
dây nối liền Đảng với người lao động. Công đoàn Việt Nam là người cộng tác
đắc lực của nhà nước chuyên chính vô sản [18, Điều1].
Dưới chế độ XHCN, mối quan hệ giữa Công đoàn và Nhà nước XHCN là mối quan
hệ phối hợp. Nhà nước cùng Công đoàn tạo điều kiện cho nhau hoạt động có hiệu quả.
Công đoàn là cơ quan đại diện quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động để tham
gia, đề xuất với Nhà nước về những vấn đề không chỉ Công đoàn mà cả Nhà nước cũng quan
tâm. Nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện về vật chất và pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Công
đoàn vận động công nhân lao động xây dựng và bảo vệ chính quyền Nhà nước.
Như vậy, với tư cách là hình thức tổ chức của giai cấp công nhân, Công đoàn Việt
Nam trở thành thành viên của hệ thống chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Công đoàn là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng. Mối liên hệ chặt
chẽ giữa Đảng với Công đoàn - trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, còn Công đoàn dưới
sự lãnh đạo của Đảng giữ nguyên tính chất độc lập về mặt tổ chức, là quy luật chung
trong mối quan hệ qua lại giữa hai tổ chức đó trong điều kiện CNXH.
Với tư cách là một thành viên trong hệ thống chính trị, Công đoàn Việt Nam phải có
nhiệm vụ vận động, tổ chức, tập hợp, giáo dục và xây dựng giai cấp công nhân, những
người lao động thành lực lượng cách mạng thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
b. Vai trò của tổ chức Công đoàn
Hoạt động của Công đoàn Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã góp phần không nhỏ
đến tiến trình phát triển của lịch sử và cách mạng nước ta.
Khi giai cấp công nhân chưa giành được chính quyền, Công đoàn đã là trường học
đấu tranh giai cấp. Công đoàn tập hợp, tổ chức công nhân đấu tranh chống lại bọn thực
dân, phong kiến. Nhờ có tổ chức Công đoàn mà cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX được phát triển trên một quy mô rộng hơn, thể
hiện được sức mạnh của đoàn kết và thể hiện rõ hơn tính chất của một cuộc đấu tranh giai
cấp.
Từ khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, trở thành lực lượng lãnh đạo
xã hội thì vai trò của Công đoàn là trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học
CNCS.
Là trường học quản lý, Công đoàn giúp cho công nhân biết tham gia quản lý sản
xuất, quản lý xí nghiệp và quản lý xã hội.
Là trường học kinh tế, Công đoàn vận động công nhân tham gia tích cực vào việc
hoàn thiện các chính sách kinh tế, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm,
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn hiện nay Công đoàn vận động công nhân
tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH theo định hướng XHCN nhằm khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát
triển.
Là trường học CNCS, Công đoàn giáo dục công nhân thái độ lao động mới. Đây là
bước phát triển mới về vai trò của Công đoàn. Cùng với giáo dục thái độ lao động mới,
Công đoàn giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật, văn hoá, lối sống nhằm hình thành thế
giới quan và nhân sinh quan khoa học cho công nhân.
Vai trò của Công đoàn Việt Nam là trường học, song nó không giống như bất kỳ loại
trường học nào, nó là trường học đặc biệt, trường học không có thầy, không có trò, trường
học mà ở đó quần chúng tự giáo dục, tự rèn luyện, giáo dục, rèn luyện lẫn nhau thông qua
các hoạt động thực tiễn của Công đoàn.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN thì vai trò của Công
đoàn ngày càng tăng.
Đại hội VI Công đoàn Việt Nam tháng 10 năm 1988 đánh dấu bước đổi mới quan
trọng về tư duy công đoàn và về hoạt động công đoàn, đặt nền móng cho việc đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động công đoàn về sau, làm cho hoạt động công đoàn sát hơn
với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội và đáp ứng tốt hơn nguyện vọng và đòi hỏi của
công nhân, lao động đối với công đoàn, từng bước khắc phục tình trạng hình thức chủ
nghĩa xơ cứng trong tổ chức và hoạt động công đoàn.
Giao thời giữa hai thế kỷ XX - XXI, phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn
Việt Nam được đặt trước những thách thức nghiêm trọng do trực tiếp chịu tác động của
khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước và sự tan rã của Liên Xô và hệ thống XHCN
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội VIII tháng 11 năm 1998, trên cơ sở tự
nhìn lại mình “Các cấp công đoàn đã cố gắng phát huy vai trò và chức năng của mình để
bảo vệ quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao
động, song hiệu quả chưa cao, đề ra khẩu hiệu hành động “Vì sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân
và công đoàn vững mạnh”.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IX tháng 10 năm 2003 được coi là Đại hội tiến
vào thế kỷ XXI, đã đề ra mục tiêu hành động là xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức
Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công
nhân viên chức lao động, góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; đề ra chương trình phát triển một triệu đoàn viên
công đoàn mới.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ X tháng 10 năm 2008 là đại hội hoà nhập sâu
vào nền kinh tế thị trường thế giới. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, dưới khẩu
hiệu “Đổi mới, sáng tạo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, công nhân, viên chức,
lao động; vì sự ổn định bền vững của đất nước”. Mục tiêu, phương hướng hoạt động công
đoàn 5 năm 2008 - 2013 mà Đại hội đề ra là: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của công đoàn các cấp; hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ
yếu; lấy đoàn viên, công nhân viên chức, lao động làm đối tượng vận động; chuyển mạnh
hoạt động công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động; xây dựng quan hệ
lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước”.
1.2.1.3. Chức năng của tổ chức Công đoàn Việt Nam
Vai trò trên của Công đoàn được thể hiện qua các chức năng của nó. Chức năng của
một tổ chức là sự phân công tất yếu, sự quy định chức trách tương đối ổn định và hợp lý
trong điều kiện lịch sử xã hội nhất định của tổ chức để phân biệt với tổ chức khác. Chức
năng của Công đoàn được biểu hiện bằng những phương hướng, những mặt hoạt động
chủ yếu để thực hiện bản chất và vai trò của Công đoàn trong xã hội. Như vậy, chức
năng của Công đoàn mang tính chất khách quan, nó tồn tại không phụ thuộc vào ý chí,
nguyện vọng của cá nhân. Nó được xác định bởi tính chất, vị trí, vai trò của Công
đoàn trong từng giai đoạn cách mạng.
ở từng thời kỳ lịch sử, chức năng của Công đoàn kế thừa, phát triển thêm nội dung
mới có ý nghĩa hơn.
Dưới CNTB, Công đoàn tập hợp công nhân đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột
của giai cấp tư sản, để bảo vệ lợi ích của công nhân lao động. Vì vậy, chức năng bảo vệ
lợi ích cho công nhân lao động là chức năng bẩm sinh của Công đoàn, nghĩa là vì nó mà
Công đoàn hình thành và khi ra đời Công đoàn sẽ làm chức năng đó. Song, muốn bảo vệ
lợi ích cho người lao động, Công đoàn không thể không tập hợp, vận động, giáo dục để
họ tiến hành đấu tranh bảo vệ lợi ích của mình. Và vì vậy giáo dục đã phát triển thành
chức năng của Công đoàn. Hai chức năng đó của Công đoàn có mối quan hệ khăng khít,
tác động qua lại thúc đẩy lẫn nhau
Dưới XHCN, vị trí của giai cấp công nhân đã thay đổi, từ người làm thuê trở thành
người làm chủ. Vì vậy chức năng của Công đoàn khắc hẳn so với chức năng của Công
đoàn dưới CNTB.
Một trong những chức năng chủ yếu của Công đoàn hiện nay là bảo vệ lợi ích. Đây
luôn là chức năng quan trọng nhất của Công đoàn. Trong xã hội cũ, Công đoàn tập hợp,
tổ chức công nhân đấu tranh chống lại bọn thực dân, phong kiến, đòi lợi ích chính đáng
của mình. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Công đoàn vẫn phải thực hiện chức năng bảo vệ
lợi ích. Tuy nhiên, bảo vệ lợi ích cho công nhân trong giai đoạn hiện nay có những hình thức
rất khác so với trong xã hội cũ. Nó không chống lại Nhà nước, không mang tính chất đối
kháng giai cấp mà chỉ chống lại các thói hư, tật xấu, sự thoái hoá biến chất của một số
người, yêu cầu họ thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, để đảm bảo quyền lợi
của công nhân. Việc bảo vệ lợi ích cho người lao động ở đây cũng chính là bảo vệ chính
quyền nhà nước, xây dựng một Nhà nước trong sạch vững mạnh, Nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân. Bởi vì lợi ích của người lao động gắn liền với lợi ích của nhà nước,
của tập thể. Sự tồn tại của nhà nước chuyên chính vô sản chính là sư đảm bảo quyền lợi
cho người lao động, hơn nữa lợi ích người lao động không chỉ ở chỗ có đủ cơm ăn, áo
mặc mà còn ở chỗ có lợi ích chính trị, kinh tế, lợi ích văn hoá tinh thần, lợi ích trước mắt
và lợi ích lâu dài. Nhà nước là người đảm bảo lợi ích còn Công đoàn là người bảo vệ lợi
ích. Đây là vấn đề quan trọng nói lên mối quan hệ khăng khít, biện chứng giữa quyền lợi
và nghĩa vụ, đồng thời nó là cơ sở nhận thức về lợi ích của người lao động trong điều
kiện mới.
Thực hiện chức năng này, Công đoàn phải tham gia một loạt các hoạt động như:
tham gia cùng chính quyền để giải quyết việc làm cho công nhân; tham gia trong lĩnh vực
tiền lương, phân phối phúc lợi, nhà ở, ký kết hợp đồng lao động, giải quyết tranh chấp lao
động...
Bên cạnh chức năng bảo vệ lợi ích Công đoàn còn có chức năng tham gia quản lý.
Đây là chức năng mới của Công đoàn so với chức năng của Công đoàn trong xã hội cũ.
Trong xã hội cũ Nhà nước là Nhà nước của giai cấp bóc lột, giai cấp công nhân phải chịu
sự thống trị, sự áp bức của Nhà nước này, không được tham gia quản lý các công việc
của Nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, giai cấp công nhân từ người làm thuê đã trở
thành người chủ của xã hội, Công đoàn từ vị trí đối lập với Nhà nước của giai cấp bóc lột
đã trở thành chỗ dựa, người cộng tác đắc lực của Nhà nước. Vì vậy, có quyền và nghĩa vụ
tham gia quản lý công việc của Nhà nước. Chức năng tham gia quản lý của Công đoàn
chính là sự phối hợp hoạt động giữa Công đoàn với các cấp quản lý của Nhà nước trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, chính trị, văn hóa - xã hội theo một mục tiêu thống nhất,
vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, vừa để công tác quản lý đạt kết quả cao. Lênin
đã nói: Sự tham gia của Công đoàn vào công tác quản lý kinh tế, và việc Công đoàn lôi
cuốn quần chúng rộng rãi tham gia vào công tác đó đồng thời cũng là biện pháp chủ yếu
để đấu tranh chống sự quan liêu hoá bộ máy kinh tế của chính quyền Xô Viết và tạo khả
năng thực sự kiểm tra thực tế của nhân dân đối với kết quả sản xuất kinh doanh. Nội dung
tham gia quản lý của Công đoàn rất đa dạng, phong phú, tùy doanhtheo tính chất của mỗi
đơn vị mà có những nội dung tham gia quản lý khác nhau. Ngoài hai chức năng trên công
đoàn còn có chức năng thứ ba đó là chức năng giáo dục. Đây là chức năng đã có từ khi tổ
chức Công đoàn mới ra đời. Trong xã hội cũ Công đoàn giáo dục để công nhân thấy rõ
bản chất và từ đó đấu tranh không khoan nhượng với giai cấp bóc lột. Trong giai đoạn
hiện nay chức năng giáo dục của Công đoàn là giúp đỡ công nhân không ngừng nâng cao
giác ngộ chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, làm cho Công đoàn thực sự trở thành
trường học CNCS của giai cấp công nhân. Nội dung giáo dục của Công đoàn rất đa dạng,
gồm cả giáo dục chính trị, tư tưởng; giáo dục pháp luật, giáo dục thẩm mỹ; giáo dục
truyền thống, giáo dục đạo đức. Tất cả những nội dung đó đều nhằm xây dựng một đội
ngũ công nhân có lý tưởng, có văn hoá, có đạo đức và có kỷ luật nhằm thực hiện thành
công sứ mệnh lịch sử của mình.
Chức năng của Công đoàn là một chỉnh thể thống nhất, đan xen tác động qua lại lẫn
nhau, chức năng này làm tiền đề cho chức năng kia. Trong ba chức năng này thì chức
năng bảo vệ lợi ích là trung tâm, thể hiện đầy đủ vai trò và mục tiêu hoạt động của Công
đoàn, chức năng tham gia quản lý là phương tiện để đạt được mục tiêu, chức năng giáo
dục là động lực tinh thần để đạt được mục tiêu. Nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, các nhà đầu tư vào nhiều, những khu công nghiệp, những khu
chế xuất phát triển, giám đốc điều hành là người nước ngoài, vì vậy việc tranh chấp lao
động ngày càng gay gắt, các cuộc đình công nổ ra liên tiếp, từ quy mô nhỏ đến quy mô
lớn. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động, Đại hội X Công
đoàn Việt Nam đã khẳng định, chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao
động trở thành chức năng trung tâm, xuyên suốt trong hoạt động của tổ chức Công đoàn
Việt Nam.
1.2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khẳng định vai trò bảo vệ lợi ích người lao động của tổ chức Công đoàn
1.2.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của Công đoàn
Trong những năm đổi mới Đảng ta đã có bước phát triển mới trong tư duy lý luận
nói chung, tư duy lý luận về Công đoàn Việt Nam nói riêng. Những đổi mới tư duy của
Đảng về Công đoàn là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh
đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt Nam. Bởi chỉ có dựa trên cơ sở nhận thức đúng
đắn, đầy đủ bản chất, vị trí của tổ chức Công đoàn trong hệ thống chính trị - xã hội và vai
trò của tổ chức Công đoàn đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội được thể hiện
trên các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội … thì mới thực sự đặt Công đoàn
vào đúng vị trí của nó. Hiểu và nhận thức được chức năng của Công đoàn Việt Nam tồn
tại khách quan, xuất phát từ bản chất, vai trò, vị trí của Công đoàn trong hệ thống chính
trị - xã hội thì Đảng mới quan tâm lãnh đạo, tạo các điều kiện cho Công đoàn hoạt động.
Mặt khác, chỉ trên cơ sở có các điều kiện thuận lợi về vật chất, về pháp lý, thì Công đoàn
Việt Nam mới phát huy được mạnh mẽ vai trò là “cầu nối”, là “dây chuyền” nối liền giữa
Đảng với quần chúng công nhân lao động, là trung tâm tập hợp, đoàn kết giáo dục công
nhân viên chức lao động, là người cộng tác đắc lực của Nhà nước, góp phần tăng cường
củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, nhằm phát huy mạnh mẽ sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Sự đổi mới tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về Công đoàn không tách rời sự
đổi mới tư duy nói chung của Đảng ta và được thể hiện ngay từ Đại hội đại biểu Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, đã khẳng định: “Đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt
động của Đảng và Nhà nước là việc cấp bách đồng thời là việc thường xuyên lâu dài” [6,
tr.126]. Tư duy về giai cấp công nhân cũng được Đảng ta khẳng định:
Đảng cần có những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao giác ngộ XHCN và
trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của
cách mạng, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và văn hoá, tạo ra những điều
kiện cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình …
Đảng cần tổng kết kinh nghiệm và ra nghị quyết về xây dựng giai cấp công
nhân, Nhà nước cần bổ sung Luật Công đoàn [6, tr.115].
Với quan điểm nhất quán trong đổi mới tư duy về vai trò, vị trí giai cấp công
nhân, tổ chức Công đoàn, về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước đối với xây dựng phát
huy vai trò giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, trong giai đoạn mới
Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng đã khẳng định cần “xoá bỏ nhận thức sai lầm,
coi công tác quần chúng chỉ là biện pháp tổ chức, động viên nhân dân thực hiện các
chủ trương, chính sách” [6, tr.111,112]. Đồng thời Đảng cộng sản Việt Nam cũng đặt ra
những yêu cầu đối với các cấp uỷ Đảng, các tổ chức quần chúng nói chung, với tổ chức
Công đoàn nói riêng:
Cấp uỷ phải tôn trọng tính độc lập về mặt tổ chức của các đoàn thể, khuyến
khích tính chủ động, sáng tạo trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Các đoàn thể
phải nhanh chóng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mình cho phù hợp
với những cuộc cải cách về kinh tế - xã hội. Hoạt động công đoàn thì phải chuyển
mạnh về cơ sở, thu hút đông đảo quần chúng vào các phong trào cách mạng [6,
tr.115-116].
“Các cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo tổ chức đại hội công nhân, viên chức trong các cơ
quan xí nghiệp tạo điều kiện cho các tập thể lao động thực hiện tốt vai trò của người làm
chủ tập thể ở cơ sở” [6, tr.111-112; 115-116].
Tư duy nói chung, tư duy về Công đoàn nói riêng của Đảng ta đã từng bước được bổ
sung, hoàn thiện và được nâng lên ở tầm cao hơn trong hoàn cảnh, điều kiện mới, thể
hiện rõ nét nhất là Đảng luôn quan tâm tới công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn. Đặc biệt qua các đại hội, hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, tư duy lý luận
của Đảng ta luôn được tổng kết, đánh giá, bổ sung và từng bước hoàn thiện. Tại Đại hội
đại biểu lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta khẳng định vấn đề mấu chốt là
phải xác định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân, đồng thời Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nêu ra yêu cầu cần phải
không ngừng đổi mới và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công
tác quần chúng và các đoàn thể nhân dân.
Trong Nghị quyết Hội nghị TW 7 khoá VII Đảng ta đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế
của mình trong lãnh đạo xây dựng, phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam:
“Công đoàn chưa phát huy tốt vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai
cấp công nhân, phương thức hoạt động còn lúng túng” Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế và
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng giai
cấp công nhân vững mạnh là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Công đoàn và của các đoàn
thể chính trị - xã hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể công nhân cần
có cơ chế đảm bảo quyền công nhân và quyền Công đoàn trong từng loại hình doanh
nghiệp”.
Tiếp tục phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng nói chung, tư duy lý luận của
Đảng ta về các tổ chức quần chúng, về Công đoàn nói riêng, tại Đại hội đại biểu lần thứ
VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của các đoàn
thể chính trị - xã hội, đặc biệt là vị trí, vai trò, trách nhiệm của Công đoàn trong tình hình
mới: “Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi
phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia với Đảng và Nhà nước thực hiện dân chủ,
chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân” [7, tr.127-128].
“Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam … cần tập hợp rộng rãi hội viên, đoàn viên
dưới nhiều hình thức tổ chức đa dạng, thực hiện tốt chức năng giáo dục quần chúng, thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ cụ thể, chăm lo thiết thực lợi ích của hội viên, đoàn viên, đại diện
cho tầng lớp mình tham gia công việc của Nhà nước” [7, tr.47]. Có thể thấy rõ trong điều
kiện hiện nay, Đảng ta đã nhận thức rõ và chính xác vai trò, vị trí hết sức quan trọng của
các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là của tổ chức Công đoàn trong việc vận động, tổ
chức quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của quần chúng. Bước
vào thế kỷ XXI, trước tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, tình hình trong
nước có nhiều biến đổi nhanh chóng, khoa học - công nghệ có tốc độ phát triển nhanh
chưa từng thấy, xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra như một tất yếu khách quan lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, cạnh tranh trong và ngoài nước ngày càng gay gắt. Trong
khi đó nước ta vẫn là nước chậm phát triển so với thế giới và khu vực, vấn đề cấp bách
đặt ra là phải đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thì tư
duy lý luận của Đảng về Công đoàn cũng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và phát
triển. Tại Đại hội đại biểu lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định:
Các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn
kết toàn dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phát huy quyền và trách nhiệm làm
chủ của nhân dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước,
thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác, đạo đức, lối sống của cán bộ
đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và cơ quan Nhà nước giải quyết những
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân [8, tr.47].
Cụ thể hoá nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị lần thứ
7 Ban Chấp hành TW Đảng khoá IX đã ra Nghị quyết về “Phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nghị
quyết nhấn mạnh phải “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để phát huy hơn nữa
vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân”. Có thể thấy rằng chính
những đổi mới tư duy của Đảng ta về vai trò, vị trí của các tổ chức chính trị - xã hội nói
chung, của tổ chức Công đoàn Việt Nam nói riêng được bổ sung, hoàn thiện trong suốt
quá trình đề ra đường lối đổi mới và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta,
đã là cơ sở, nền tảng cho bước đột phá về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với các tổ chức chính trị - xã
hội nói chung, đối với Công đoàn Việt Nam nói riêng và là cơ sở, động lực cho các tổ
chức chính trị - xã hội, đặc biệt cho Công đoàn Việt Nam chủ động, sáng tạo trong tổ
chức hoạt động, nhằm phát huy tốt vai trò trường học kinh tế, trường học quản lý, trường
học CNXH và vai trò là cầu nối giữa Đảng với quần chúng công nhân, viên chức, lao
động của Công đoàn.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng ta
cũng đã xác định:
Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp
ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp
của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở các
khu công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ
những công nhân ưu tú [9, tr.118].
Đặc biệt ngày nay chúng ta đang thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo, các thành phần kinh tế bình đẳng hoạt động trước pháp luật,
công nhân lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng tăng. Nếu tổ chức Công đoàn không lớn mạnh, thì Đảng rất khó có điều
kiện tập hợp và nắm được người lao động khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài, nơi có lực lượng công nhân, lao động ngày càng đông đảo và đang tạo ra
khối lượng sản phẩm chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng sản phẩm xã hội.
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng có Chỉ thị
30CT/TƯ về việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Ngày 12/2/1999 Chính
phủ đã ban hành Nghị định 07 về thực hiện dân chủ trong doanh nghiệp Nhà nước và
ngày 8/9/1998 ban hành Nghị định 71 quy định về thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt
động của cơ quan. Các Chỉ thị của Đảng, Nghị định của Chính phủ đã quy định rất rõ
quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ
và trong kiểm tra, giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; quy định những vấn đề
công nhân, viên chức, lao động được biết, được bàn và được quyết định. Như vậy, trong
những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng đổi mới tư duy, từng bước
nhận thức rõ về vai trò, vị trí, chức năng của Công đoàn. Những tư duy mới của Đảng ta về
Công đoàn cùng với quá trình đổi mới đất nước, đã từng bước được thể hiện trong các văn
kiện, nghị quyết của Đảng, đặc biệt được thể hiện ở sự quan tâm lãnh đạo, cụ thể hoá, thể
chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về Công đoàn trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành pháp luật, chính sách, tạo cho Công đoàn Việt
Nam có cơ sở pháp lý và điều kiện hoạt động. Vì vậy hoạt động Công đoàn Việt Nam
trong những năm qua đã có những bước phát triển mới trong tập hợp công nhân, viên chức,
lao động trong các thành phần kinh tế vào Công đoàn, trong tuyên truyền giáo dục, xây
dựng đội ngũ công nhân viên chức lao động không ngừng lớn mạnh và trong chăm lo bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của người lao động; góp phần tạo cho quan hệ lao động phát
triển, tiến bộ đã tạo động lực mạnh mẽ trong phát triển kinh tế xã hội. Theo số liệu thống
kê chưa đầy đủ đến nay Công đoàn đã phát triển được gần 80 ngàn công đoàn cơ sở, trong
đó khu vực Nhà nước khoảng trên 62 ngàn, khu vực ngoài quốc doanh khoảng gần 15
ngàn, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 1,3 ngàn. Tập hợp được đông đảo người
lao động gia nhập Công đoàn với số lượng khoảng 6 triệu đoàn viên; trong đó ở khu vực
hành chính sự nghiệp, các cơ quan Đảng, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức
xã hội khoảng gần 2 triệu đoàn viên, trong các doanh nghiệp nhà nước khoảng 1,8 triệu
đoàn viên, khu vực ngoài quốc doanh khoảng trên một triệu đoàn viên, khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài tập hợp được khoảng trên 300.000 đoàn viên.
1.2.2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tạo điều kiện cho Công đoàn phát huy vai trò của mình
Trong thời kỳ đổi mới, với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đảng ta đã quan tâm lãnh đạo việc cụ thể hoá, thể chế hoá
các quan điểm, đường lối của Đảng về Công đoàn trong điều kiện kinh tế thị trường
thành luật pháp, chính sách, lãnh đạo Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội và toàn dân sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, để giữ vững kỷ
cương phép nước. Cụ thể là năm 1990, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ban hành Luật Công đoàn, gồm 29 điều, quy định rõ vị trí, vai trò, quyền hạn,
trách nhiệm của Công đoàn, quy định những đảm bảo về vật chất, pháp lý để Công đoàn
hoạt động. Ngay sau khi Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua Luật Công
đoàn, ngày 20/4/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số
133 HĐBT hướng dẫn thi hành Luật Công đoàn. Nhằm chi tiết hoá, cụ thể hoá quyền,
trách nhiệm của tổ chức Công đoàn Việt Nam, trách nhiệm của chính quyền các cấp
trong việc phối hợp, tạo điều kiện để Công đoàn Việt Nam thực hiện tốt quyền và trách
nhiệm của mình trong tham gia quản lý kinh tế, xã hội, trong chăm lo bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động và tuyên truyền giáo dục
công nhân viên chức lao động. Đến ngày 19/8/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) lại ban hành Nghị định số 302 HĐBT quy định chi tiết, cụ thể quyền và trách nhiệm
của công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, cơ quan với 21 điều. Năm 1992 Quốc hội
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Hiến pháp mới. Vị trí, vai trò của
Công đoàn lại được khẳng định rõ tại Điều 10 chương I: “Công đoàn là tổ chức chính trị -
xã hội của giai cấp công nhân và người lao động, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, chăm lo, bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao
động khác”. Với quy định này trong hiến pháp, những vấn đề cốt lõi của Công đoàn Việt
Nam được tái khẳng định trong điều kiện mới, trong đó xác định tính chất chính trị - xã
hội của Công đoàn Việt Nam, xác định chức năng cơ bản của Công đoàn và nguyên tắc
chủ đạo của mối quan hệ hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa Nhà nước với Công đoàn.
Từ khi ban hành Hiến pháp và Luật Công đoàn, đến nay đã hơn 20 năm, tuy việc tổ
chức thực hiện Hiến pháp, pháp luật có lúc, có nơi còn nhiều vấn đề cần phải xem xét để
có thể đánh giá một cách chính xác, toàn diện, song thực tế cho thấy, những quan điểm,
tư tưởng của Đảng ta về Công đoàn đã được Nhà nước quán triệt nghiêm túc trong quá
trình thể chế hoá thành pháp luật, tạo cho Công đoàn có vị thế và cơ sở pháp lý để tổ
chức, hoạt động. Đặc biệt, năm 1995, Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam đã
thông qua Bộ luật Lao động, trong đó dành một chương XIII với 4 điều nói về quyền,
trách nhiệm của Công đoàn và còn nhiều điều khoản trong các chương khác đều nói đến
quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong quan hệ lao động. Sau khi Bộ luật Lao động
được thông qua, hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động của Chính
phủ được ban hành đã quy định rõ những quyền, trách nhiệm cụ thể của tổ chức Công đoàn
trong quan hệ lao động, như: thương lượng, ký kết TƯLĐTT, giải quyết tranh chấp lao
động, quy định rõ vai trò Công đoàn trong công tác BHLĐ, BHXH, trong kiểm tra giám sát
thực hiện các chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao
động, quy định người sử dụng lao động có trách nhiệm tạo điều kiện về thời gian, phương
tiện làm việc cho cán bộ công đoàn hoạt động, quy định người sử dụng lao động phải có
trách nhiệm thực hiện nghiêm những quy định của Bộ luật Lao động…
Sau hơn 7 năm Bộ luật Lao động có hiệu lực, đến năm 2002, Bộ luật Lao động lại
được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành sửa đổi, bổ sung cho
hoàn thiện hơn. Đến nay đã hơn 10 năm Bộ luật Lao động được ban hành và có hiệu lực
cho thấy, sự ra đời và hoàn chỉnh Bộ luật Lao động đã đánh dấu bước phát triển mới về
quyền của công nhân, lao động, quyền của Công đoàn. Pháp luật nước ta đã quy định rõ
vai trò, vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn, tổ chức duy nhất đại diện
hợp pháp, chính đáng cho người lao động trong quan hệ lao động. Những quy định trên
của hệ thống pháp luật nước ta đã tạo ra cơ sở pháp lý một cách khá đầy đủ, đồng bộ về
quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động và của tổ chức Công đoàn, tạo điều kiện để Công
đoàn hoạt động, góp phần nâng cao vị thế của Công đoàn trong đời sống xã hội, làm lành
mạnh các quan hệ lao động ở Việt Nam, góp phần quan trọng làm cho môi trường đầu tư
của nước ta từng bước được cải thiện tạo cho kinh tế, xã hội nước ta phát triển vững chắc.
Chính sự quy định khá chi tiết, đầy đủ và có hệ thống về vai trò, vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của công đoàn, quyền lợi nghĩa vụ của người lao động đã tạo điều kiện cho Công
đoàn trở thành tổ chức quần chúng duy nhất có cơ sở pháp lý để tổ chức, hoạt động trong
tất cả các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế, từ đó tổ chức hoạt động của Công đoàn
ngày càng có hiệu quả, Công đoàn Việt Nam ngày càng trở thành cầu nối chặt chẽ giữa
Đảng với quần chúng công nhân, viên chức lao động trong tất cả các thành phần kinh tế,
người phản biện và cộng tác đắc lực của Nhà nước, người đại diện chăm lo, bảo vệ
quyền, lợi ích cho người lao động.
1.3. Hoạt động công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích người lao động ở một số
nước hiện nay và bài học kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam
1.3.1. Hoạt động công đoàn bảo vệ lợi ích của người lao động ở một số nước
Thực tiễn lịch sử hiện nay cho thấy phong trào Công đoàn thế giới là một lực lượng
xã hội đông đảo, có vai trò quan trọng và ảnh hưởng đến tiến trình phát triển của xã hội
loài người.
Phong trào Công đoàn đang ở trong một thế giới chuyển động, một thế giới trải qua
nhiều biến đổi và phức tạp chưa từng có. Do đó phong trào Công đoàn phải giải quyết
nhiều vấn đề mới phải tranh thủ được thời cơ mới và khắc phục nhiều khó khăn để phát
triển.
Nhân loại đang đứng trước những thời cơ và thách thức do cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đang phát triển như vũ bão đem lại. Do sự phát triển không đều giữa các
nước nên khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia dân tộc, giai cấp tầng lớp ngày
càng lớn trong những năm đầu thế kỷ XXI. Theo tài liệu của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), hiện nay có 1/5 dân số thế giới sống trong điều kiện nghèo khổ, 35 triệu người
thất nghiệp, 200 triệu trẻ em bị bóc lột tàn tệ, 33 triệu người phải chịu hình thức lao
động cưỡng bức, 200 triệu phải rời bỏ quê hương Tổ quốc đi tìm kiếm việc làm. bên
cạnh đó sự bất công và khoảng cách giàu - nghèo đang là vấn đề nhức nhối. Năm 1960
GDP tính theo đầu người ở 20 nước giàu nhất thế giới gấp khoảng 30 lần so với các
nước nghèo nhất thì năm 1997 đã gấp 74 lần. Tình hình trên đã làm cho phong trào
Công đoàn các nước và thế giới có nhiều nội dung và mục tiêu hoạt động khác nhau để
bảo vệ lợi ích người lao động, song hoạt động Công đoàn ở mỗi nước có đặc thù riêng
không giống nhau. Dưới đây xin đưa ra một số hình mẫu hoạt động công đoàn bảo vệ
lợi ích của người lao động ở một số nước.
1.3.1.1. Hoạt động của Liên hiệp công đoàn độc lập Nga trong việc bảo vệ lợi ích
người lao động
Sau sự kiện biến động lịch sử, từ sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô cũ (1989),
phong trào Công đoàn của Liên bang Nga có những biến đổi toàn diện sâu sắc. Hiện nay
Liên hiệp Công đoàn Độc lập Liên bang Nga đã có những bước phát triển khá, đã tập hợp
được 42 Công đoàn ngành, 79 Công đoàn lãnh thổ, với trên 330,000 Công đoàn cơ sở và
khoảng 40 triệu đoàn viên. Công đoàn Độc lập Liên bang Nga không phải là tổ chức độc
lập với Nhà nước và Chính phủ, mà là một tổ chức độc lập có quan hệ hợp tác với Nhà
nước, tham gia soạn thảo luật pháp và các chế độ, chính sách liên quan tới quyền lợi của
người lao động.
Hoạt động Công đoàn coi trọng và phát huy cơ chế ba bên: Công đoàn, Chính phủ và
giới chủ, sử dụng tối đa quyền và trách nhiệm của Công đoàn theo quy định của pháp luật
trong lĩnh vực thương lượng với Chính phủ và giới chủ.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, TƯLĐTT vừa có vai trò điều tiết quan hệ
lao động giữa người lao động với giới chủ, vừa là công cụ, là phương tiện để Công đoàn
đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Các quyền lợi của người lao động về tiền
lương, tiền thưởng; đảm bảo việc làm; thời gian lao động và thời gian nghỉ ngơi; BHLĐ
và sức khoẻ; bảo đảm xã hội và đặc biệt là bảo đảm hoạt động của Công đoàn được quy
định trong TƯLĐTT. Vấn đề mấu chốt chính là phải đàm phán và ký được TƯLĐTT.
Trên thực tế nhiều xí nghiệp đã ký được TƯLĐTT với nội dung có lợi hơn so với
quy định của luật cho người lao động. Ví dụ, mức lương tối thiểu ở Nga là 132 rúp/tháng,
nhưng thực tế lương bình quân có thể lên tới 3.000 rúp/tháng. Hoặc về thời gian làm việc,
Chính phủ quy định 40 giờ/tuần song thực tế có nơi đưa vào TƯLĐTT là 34, 36, 37
giờ/tuần, vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả đàm phán và thoả thuận giữa Công
đoàn và giới chủ.
Vấn đề nhà ở cho công nhân lao động là một trong những nội dung quan trọng của
TƯLĐTT, bởi vì nhà nước đã xoá bỏ chế độ bao cấp về nhà ở. Một số xí nghiệp hoạt
động có hiệu quả, lợi nhuận cao đã mua nhà để cấp cho công nhân. Quá trình đàm phán,
thương lượng để đi đến ký kết TƯLĐTT là cả quá trình khó khăn, phức tạp, có nơi còn
phát sinh mâu thuẫn dễ dẫn đến đình công, biểu tình.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mục đích cao nhất của doanh nghiệp chính là
lợi nhuận tối đa, vì vậy chủ sử dụng lao động tìm mọi cách để giảm thiểu phần chi phí,
thậm chí xâm phạm trực tiếp tới lợi ích của người lao động như cắt xén tiền lương, trừ
tiền thưởng vô cớ. Có TƯLĐTT trong doanh nghiệp chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ
quyền lợi cho người lao động, là công cụ để điều hoà mối quan hệ lao động trong doanh
nghiệp giữa người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời là phương tiện hữu
hiệu để Công đoàn thực hiện quyền và trách nhiệm của mình.
TƯLĐTT có tầm quan trọng hết sức đặc biệt, song hiện nay ở nước Nga mới có 50% xí
nghiệp ký TƯLĐTT. ở những xí nghiệp chưa có TƯLĐTT cũng đồng nghĩa với việc Công
đoàn ở đó chưa thực hiện được nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy Công đoàn Nga đã có
hướng dẫn cho các xí nghiệp có tổ chức Công đoàn phải xúc tiến ngay việc đàm phán,
thương lượng và ký kết TƯLĐTT.
1.3.1.2. Hoạt động của Tổng công hội Trung Quốc trong việc bảo vệ lợi ích người
lao động
Trung Quốc thực hiện nền kinh tế thị trường XHCN với “hình thức chế độ công hữu
hiện hành, đa dạng hoá về chế độ phi công hữu đang phát triển nhanh chóng” [51, tr.25]
đã làm cho quan hệ kinh tế và quan hệ lao động có nhiều thay đổi. Do đó Tổng công hội
Trung Quốc đã xác định, để thực hiện bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công nhân phải
phối hợp với cơ quan hành chính của Chính phủ để điều chỉnh quan hệ lao động.
Trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường, Trung Quốc coi trọng việc giải
quyết thoả đáng quan hệ tài sản, quan hệ lao động. Song, do Trung Quốc là nước có số
dân rất lớn, nên trong quan hệ lao động, người lao động luôn ở vào thế yếu. Tình trạng
tranh chấp lao động xảy ra ngày càng nhiều trong các doanh nghiệp; các doanh nghiệp cổ
phần thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc doanh nghiệp sở hữu Nhà nước thông thường đều
thành lập ra các uỷ ban hoà giải tranh chấp lao động. Tổ chức Công đoàn có trách nhiệm
tư vấn pháp luật cho đương sự là người lao động.
Để khắc phục tình trạng người lao động luôn ở thế yếu và xây dựng được mối quan
hệ hài hoà trong doanh nghiệp, Tổng công hội Trung Quốc đã chỉ đạo việc thực hiện chế
độ hợp đồng tổng thể và chế độ Đại hội đại biểu công nhân. Đây là hai vấn đề chủ yếu để
giải quyết quan hệ lao động trong doanh nghiệp. Vì vậy đã có trên 95% người lao động
đã thực hiện chế độ hợp đồng, ở các doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể đạt hơn 60%.
Thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi người lao động, Công hội Trung Quốc chú
trọng đẩy mạnh “công tác lập pháp lao động và lập pháp Công đoàn” [51, tr.28] như tham
gia xây dựng luật bảo hiểm xã hội, luật cứu tế xã hội, luật lao động tập thể, luật hợp đồng
lao động, luật tìm việc … Luật pháp là công cụ hữu hiệu để điều chỉnh hành vi của người
lao động, người sử dụng lao động trong doanh nghiệp.
Công hội Trung Quốc xác định bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người lao động là
nhiệm vụ trọng tâm trong công tác hiện nay. Khi gia nhập tổ chức WTO thì mâu thuẫn
giữa nhà doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp tư nhân nói riêng ngày càng nổi cộm, đồng thời việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế đã
dẫn tới sự phá sản hoặc sáp nhập của các doanh nghiệp làm cho đời sống của người lao
động bị ảnh hưởng, quyền và lợi ích của họ bị vi phạm nghiêm trọng, số công nhân xin
thôi việc, mất việc làm ngày càng tăng. Công đoàn là người có trách nhiệm số một giúp
đỡ công nhân gặp khó khăn, góp phần ổn định chính trị và phát triển xã hội, như đề xuất
kế hoạch với Nhà nước đào tạo số lượng công nhân thôi việc, công nhân không có việc
làm (có thời kỳ lên đến 13.000.000 người). Riêng Công đoàn bằng nguồn vốn của mình
đã tổ chức ra 6.000 văn phòng đào tạo, bồi dưỡng, từ năm 2000 đến 2001 đã đào tạo trên
3.000.000 lượt người.
Hoạt động của Công hội Trung Quốc hiện nay là chú trọng nhiệm vụ bảo đảm ổn
định xã hội và tìm việc làm cho công nhân, tích cực giúp đỡ lớp công nhân thôi việc,
công nhân không có việc làm, đồng thời tham gia tích cực với Nhà nước nhanh chóng
xây dựng hệ thống pháp luật có liên quan đến công nhân góp phần ổn định quan hệ lao
động trong doanh nghiệp.
1.3.1.3. Hoạt động của Công đoàn Na Uy
Công đoàn Na Uy có tên gọi là Tổng Liên đoàn Na Uy (viết tắt là LO). LO là trung
tâm Công đoàn lớn nhất Na Uy với 850.000 đoàn viên, tập hợp 28 Công đoàn ngành
nghề, ngoài LO còn có 3 trung tâm Công đoàn khác là Liên đoàn hiệp hội chức nghiệp
Na Uy, Liên hiệp Công đoàn hướng nghiệp, Liên đoàn công nhân ngành dầu khí.
Những vấn đề cơ bản mà LO quan tâm là cố gắng hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
kinh tế thị trường; không ủng hộ việc tư nhân hoá các cơ sở thuộc ngành dịch vụ công
cộng, vì sẽ ảnh hưởng đến đời sống người lao động (hiện nay vẫn do Nhà nước bảo đảm);
nâng cao vai trò, ảnh hưởng và sức mạnh của Công đoàn trong điều kiện mới, thách thức
mới.
Để bảo vệ lợi ích cho người lao động, điều quan trọng nhất là các xí nghiệp phải
thành lập được Công đoàn. Việc thành lập Công đoàn vừa là nhu cầu của người lao động,
vừa là điều kiện cần thiết để người lao động thực hiện các quyền tập thể khác như: quyền
thương lượng, quyền đình công. Hiện nay cũng còn những xí nghiệp do chủ xí nghiệp trả
lương, số lượng cán bộ Công đoàn chuyên trách nhiều hay ít phụ thuộc vào số lượng lao
động của xí nghiệp, yêu cầu công việc và phải có sự thoả thuận với chủ xí nghiệp.
- Với xí nghiệp có từ 26 đến 50 công nhân: Cử 3 đại diện.
- Với xí nghiệp có từ 51 đến 150 công nhân: Cử 4 đại diện.
- Với xí nghiệp có từ 151 đến 300 công nhân: Cử 6 đại diện.
- Với xí nghiệp có từ 750 công nhân trở lên: Cử 12 đại diện.
Quyền lợi của người lao động như tiền lương, an toàn vệ sinh lao động, đào tạo
huấn luyện, tuyển dụng, thu nộp Công đoàn phí… được quy định trong TƯLĐTT. Vì
vậy, vai trò của Công đoàn, sức mạnh của Công đoàn được thể hiện rõ nhất trong quá
trình đàm phán, thương lượng và thoả thuận với giới chủ. Trường hợp đàm phán bị bế
tắc, Công đoàn sẽ sử dụng quyền đình công theo quy định của pháp luật.
Mặc dù có TƯLĐTT, có cam kết giữa hai bên, song tranh chấp lao động và đình
công vẫn xảy ra. ở Na Uy, Công đoàn là chủ thể duy nhất có quyền tổ chức đình công vì
đình công luôn gắn với thương lượng, song phải tổ chức theo đúng quy định, nếu tổ chức
đình công trái quy định của pháp luật thì có thể bị truy tố hoặc bồi thường thiệt hại cho
phía chủ xí nghiệp.
Do các cuộc đình công để lại nhiều hậu quả nên công đoàn rất thận trọng khi sử
dụng vũ khí này. Có những cuộc đình công thắng lợi nhưng Công đoàn phải chi hết quỹ
đình công. Vì vậy, mục tiêu hoạt động của Công đoàn trong xí nghiệp là phải giữ được sự
cân bằng của quan hệ lao động, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, văn minh, trong
đó, Công đoàn, giới chủ, Chính phủ là những cộng sự xã hội biết tôn trọng nhau trên cơ
sở pháp luật.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam
Công đoàn các nước Nga, Trung Quốc, Na uy hoạt động trong những điều kiện kinh
tế - chính trị - xã hội, văn hoá, tâm lý, đạo đức hết sức khác nhau nhưng đều lấy lợi ích
người lao động làm mục đích cho mọi giải pháp hoạt động của mình. Chúng ta có thể tìm
thấy những bài học chung cho việc phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc bảo
vệ lợi ích người lao động trong nền kinh tế mở cửa thế giới đương đại là:
Thứ nhất, xúc tiến thành lập công đoàn ở các DNNQD.
Để bảo vệ lợi ích cho người lao động trong doanh nghiệp nhất thiết phải thành lập tổ
chức Công đoàn. Bởi vì tổ chức Công đoàn sẽ đại diện cho người lao động khi đàm phán,
thương lượng, giải quyết những tranh chấp lao động xảy ra ngay tại doanh nghiệp với
người sử dụng lao động, thực hiện việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động.
Bộ luật Lao động của nước cộng hoà XHCN Việt Nam đã xác định: Các doanh
nghiệp sau khi đã thành lập 6 tháng phải thành lập tổ chức Công đoàn. Song cho đến nay
mới có khoảng trên 60% DNNQD có tổ chức Công đoàn. Đây là một khó khăn, trở ngại
trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động. Bởi lẽ ở các doanh nghiệp chưa có tổ chức
công đoàn thì quyền và lợi ích chính đáng của người lao động vẫn còn bị vi phạm nghiêm
trọng mà công nhân lại chưa có người đại diện chân chính của mình đứng ra bảo vệ.
Thứ hai, coi trọng và phát huy cơ chế ba bên.
Cơ chế này nhằm tạo mối quan hệ hài hoà góp phần ổn định doanh nghiệp, ổn định
xã hội. ở tầm vĩ mô là sự tương tác giữa Chính phủ với tư cách đại diện cho Nhà nước và
tổ chức của người lao động, người sử dụng lao động nhằm giải quyết các vấn đề hoạch
định và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. ở tầm vi mô, là sự tương tác giữa người
sử dụng lao động với đại diện của tập thể lao động là Công đoàn trong việc thực hiện các
chế độ, chính sách có liên quan đến người lao động như ký TƯLĐTT, xây dựng và thực
hiện các quy chế, giám sát thực hiện các chính sách đối với người lao động.
Thứ ba, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đủ mạnh để điều chỉnh
hành vi của các chủ thể trong quan hệ lao động.
Nếu hệ thống pháp luật yếu và thiếu sẽ tạo cơ hội cho các hành vi xâm phạm lợi ích
của nhau xảy ra, từ đó mâu thuẫn xuất hiện và gây nên tình trạng tranh chấp lao động,
đình công. Đây là nguyên nhân làm xấu đi quan hệ lao động trong doanh nghiệp. Do vậy,
xây dựng hệ thống pháp luật đủ mạnh là yêu cầu cần thiết để hạn chế đến mức thấp nhất
những tiêu cực phát sinh của nền kinh tế thị trường.
Chương 2
Thực Trạng VAI Trò CÔNG Đoàn Việt NAM TRONG Việc Bảo Vệ Lợi ích Của
Người LAO Động ở DOANH Nghiệp
Ngoài Quốc DOANH Hiện NAY
2.1. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay ở Việt Nam
2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Theo Đại từ điển tiếng Việt, doanh nghiệp được xác định là “Tổ chức hoạt động
kinh doanh của những chủ sở hữu có tư cách pháp nhân nhằm mục đích kiếm lời ở một
hoặc nhiều ngành”. Dưới góc độ kinh tế, doanh nghiệp được xác định là một tổ chức kinh
tế, được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức năng sản
xuất, mua bán hàng hoá hoặc làm dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu con người và xã hội,
và thông qua hoạt động hữu ích đó mà kiếm lời. Dựa trên các quy định của Nhà nước như
Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật hợp tác xã,
các nhà kinh tế định nghĩa về doanh nghiệp:
“Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế do nhà nước hoặc các đoàn thể hoặc tư nhân
đầu tư vốn nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc
hoạt động công ích góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước”.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.
Như vậy, doanh nghiệp được xác định là một đơn vị kinh tế, tổ chức kinh tế có tư
cách pháp nhân và có mục đích hoạt động rõ ràng. Khi thực hiện phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, doanh nghiệp không chỉ giới hạn ở khu vực kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể nữa, mà doanh nghiệp được khuyến khích phát triển ở tất cả các thành
phần kinh tế. Sự khác nhau của các doanh nghiệp hiện nay chính là ở hình thức sở hữu
của doanh nghiệp, và độ lớn của vốn đầu tư. Có nhiều loại hình doanh nghiệp. Tuỳ theo
đặc điểm về hình thức sở hữu, về tổ chức sản xuất, về quy mô, về lĩnh vực sản xuất,
người ta có thể phân ra nhiều loại hình doanh nghiệp. Trong các loại hình doanh nghiệp
đó có DNNQD. Từ năm 1989, kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta đã được chính thức
thừa nhận và nhanh chóng trở thành một bộ phận trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
hiện nay. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế tương đối phong phú bao
hàm các loại hình sau: (Công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, xí nghiệp, nghiệp đoàn).
Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong đó
các thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm
chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn Điều lệ
của doanh nghiệp.
Công ty cổ phần
Theo Luật doanh nghiệp năm 1999, công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các
thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần góp
vốn vào công ty.
Công ty hợp danh.
Theo Luật doanh nghiệp năm 1999 Công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp
gồm hai hoặc nhiều thành viên tham gia với các hình thức khác nhau. Công ty hợp danh
phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành
viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín
nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của
công ty.
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp
định, do một cá nhân làm chủ tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của doanh nghiệp.
Cá nhân kinh doanh
Cá nhân kinh doanh (còn gọi là Hộ kinh doanh) do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động kinh doanh của mình, là chủ thể trong mọi hoạt động
kinh doanh (theo Nghị định 66/HĐBT ngày 02/3/1992).
Cá nhân kinh doanh phải có nghĩa vụ phải xin phép kinh doanh và khai báo đúng sự
thật theo quy định của pháp luật; kinh doanh theo đúng nội dung giấy phép; niêm yết bản
chính giấy phép kinh doanh tại nơi kinh doanh; không được cho thuê, cho mượn, mua
bán, tự sửa chữa giấy phép kinh doanh.
Hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi
chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật, để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã,
cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp tác xã
hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật (Luật Hợp tác xã năm 2003).
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là đơn vị sản xuất, kinh doanh do nhà đầu
tư nước ngoài thành lập hoặc nhà đầu tư nước ngoài hợp tác với bên Việt Nam thành lập
theo Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (1996).
Căn cứ vào các hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm các loại sau:
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hợp tác thành lập tại Việt Nam
trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam với Chính
phủ nước ngoài, hoặc do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh
nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành
lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt
Nam.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có
tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
Khu chế xuất và doanh nghiệp chế xuất
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định,
do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập.
Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu được thành lập và hoạt
động theo quy định của Chính phủ về doanh nghiệp chế xuất.
Khu công nghiệp và doanh nghiệp khu công nghiệp
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất và dịch vụ sản xuất công nghiệp do Chính
phủ thành lập hoặc cho phép thành lập.
Doanh nghiệp khu công nghiệp là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong
khu công nghiệp.
Tóm lại thời gian vừa qua, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo ra nhiều chỗ
làm việc, góp phần làm giảm sức ép về việc làm trong xã hội, giảm thất nghiệp. Một số
lượng không nhỏ doanh nghiệp tăng thêm vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh, thu hút thêm nhiều lao động mới vào làm việc. Số việc làm mới nhờ tác động trực
tiếp của Luật doanh nghiệp đã giải quyết công ăn việc làm cho rất nhiều người lao động.
Những điều tra trong thời gian gần đây đã cho thấy chính những thành công bước
đầu nhưng đáng kể của sự đổi mới đất nước đã tạo ra thế hệ người lao động mới góp
phần không nhỏ vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên mặt trái của nền kinh tế
thị trường cùng với sự biến đổi nhanh của hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội đã ảnh
hưởng lớn đến lối sống của người lao động nói chung. Đặc biệt là ảnh hưởng tới nhóm
công nhân lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
2.1.2. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh
2.1.2.1. Huy động nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển
Số lượng doanh nghiệp ngày càng phát triển, có mặt trong tất cả các ngành kinh tế,
phản ánh khả năng huy động vốn từ trong dân cư cho đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh của chủ nghĩa xã hội. Yếu tố tích cực này đặc biệt rõ nét khi Luật doanh nghiệp
được thực thi. Cụ thể, năm 1991 mới có 3.544 tỷ đồng, năm 1999 tăng lên 21.000 tỷ
đồng, đặc biệt từ khi có luật doanh nghiệp ra đời đến năm 2003, tổng vốn đăng ký của
các doanh nghiệp tư nhân đăng ký đạt 145.000 tỷ đồng, tức gần bằng tổng vốn đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước trong cùng thời kỳ, cao hơn vốn đầu tư nước ngoài, cao gấp 4 lần
so với tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân 9 năm trước đó cộng lại.
Từ năm 2005 - 2008, tỷ trọng vốn đầu tư của các DNNQD trong tổng vốn đầu tư
của toàn xã hội tăng lên nhanh chóng: từ 27% năm 2005 lên 35% năm 2006, khoảng 40%
năm 2007 và 42 % năm 2008.
Nếu so sánh đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài thì có một thực tế khá
rõ nét là, nếu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ diễn ra ở một số tỉnh thành phố
có đặc thù riêng và có vị trí thuận lợi thì đầu tư của tư nhân xuất hiện ở tất cả các tỉnh,
thành phố với nhiều hoàn cảnh khác nhau. Theo số liệu thống kê cho thấy đầu tư của tư
nhân trong nước tăng nhanh hơn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, điều này cho thấy thu
hút vốn đầu tư tư nhân trong nước dễ được thực hiện và có tính khả thi cao hơn thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã và đang
đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế
địa phương.
2.1.2.2. Đóng góp ngày càng lớn vào GDP và ngân sách của nhà nước
Kinh tế ngoài quốc doanh có mặt rộng khắp các vùng trong cả nước, hoạt động ở
hầu hết các ngành kinh tế, tạo ra lượng sản phẩm lớn, đa dạng, phong phú, đáp ứng phần
lớn cơ bản đời sống của các tầng lớp nhân dân.
Những năm qua, chính sự phát triển của các DNNQD đã góp phần quyết định trong
việc cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các vùng dân cư và toàn xã
hội, đồng thời đóng góp không nhỏ và ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách nhà nước
và GDP cả nước (chiếm 48% GDP). Một đặc điểm quan trọng nữa là tốc độ tăng trưởng
của các DNNQD là trên 10% năm 2001 là 13,22%, năm 2006 là 13,89%, năm 2007 là
14% luôn gắn với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế (tốc độ tăng trưởng GDP).
2.1.2.3. Giải quyết việc làm cho người lao động và phát triển nguồn nhân lực
ở Việt Nam, hàng năm có thêm khoảng 1,2 - 1,4 triệu người đến tuổi lao động,
ngoài ra số lao động trong lĩnh vực công nghiệp chuyển sang làm trong các ngành phi
nông nghiệp tăng đáng kể, số lao động dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do
tinh giảm biên chế, giải thể hoặc sắp xếp lại. Yêu cầu mỗi năm phải tạo thêm hàng triệu
việc làm đang là một áp lực lớn đối với nhà nước và các cấp chính quyền địa phương,
kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khắp các vùng đất nước tạo khả năng to lớn trong
việc giải quyết việc làm và đời sống của người lao động nhất là trong hoàn cảnh thiếu
việc làm gay gắt như hiện nay. Việc tạo thêm công ăn việc làm rõ ràng không chỉ giải
quyết vấn đề xã hội mà là giải quyết vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế nước ta hiện
nay.
Bên cạnh việc tạo công ăn, việc làm cho người lao động, một đóng góp mang ý
nghĩa không nhỏ của các cơ sở dân doanh là đào tạo và bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho
người lao động làm việc trong doanh nghiệp bởi phần lớn lao động làm việc trong các
doanh nghiệp thời gian qua đều là lao động giản đơn chưa qua đào tạo và để sử dụng
được số lao động này thì các chủ DNNQD phải đào tạo tay nghề và ý thức làm việc cho
họ. Nhiều cơ sở đã tổ chức xưởng học việc hoặc gửi lao động đến các trung tâm và
trường dạy nghề... Hình thức đào tạo ở đây rất đa dạng, linh hoạt mang lại hiệu quả cao.
2.1.2.4. Góp phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý,
hiệu quả, hiện đại
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một yêu cầu tất yếu trong quá trình thực hiện CNH,
HĐH đất nước. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn có sự đóng góp của khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh. ưu thế nổi trội của các doanh nghiệp trong khu vực này là:
năng động, nhạy bén, linh hoạt trong đầu tư sản xuất kinh doanh, nắm bắt và đáp ứng nhu
cầu nhanh nhạy của thị trường để tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy, họ luôn tìm kiếm, phát
hiện ngành, lĩnh vực, mặt hàng xã hội đang thiếu, đang cần đầu tư sản xuất, đồng thời
không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm để có
ưu thế trong cạnh tranh và thu được nhiều lợi nhuận, từ đó thúc đẩy sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng hợp lý, ngày càng hiện đại hơn.
Theo số liệu thống kê qua các thời kỳ, tỷ trọng tham gia của kinh tế ngoài quốc
doanh vào các lĩnh vực của nền kinh tế có sự thay đổi đáng kể qua các giai đoạn. Chính
sự thay đổi này của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong cả nước, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ. Năm 1990, tỷ trọng dịch vụ
trong cơ cấu kinh tế nước ta là 38,1%, tăng lên 39.8% năm 1995 và sau đó năm 2000 là
41%, hiện nay tỷ trọng này là 44%. Như vậy, với sự đóng góp của kinh tế ngoài quốc
doanh đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng dần tỷ trọng các ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp.
2.1.2.5. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
Kinh tế ngoài quốc doanh được tái lập sau đổi mới đã tạo điều kiện cho việc hình
thành và phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp cạnh tranh với
nhau trên cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Với sự lớn mạnh của kinh tế ngoài
quốc doanh và các thành phần kinh tế khác, hàng hoá tiêu dùng được tự do lưu thông
trong cả nước, cung cầu, giá cả được xác lập theo nguyên tắc của thị trường.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt Nam đang mở rộng hợp tác
kinh tế với tất cả các quốc gia trên thế giới theo nguyên tắc đa phương hoá và đa dạng
hoá. Trong bối cảnh đó, sự tồn tại và lớn mạnh của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh
tế này đã làm cho môi trường cạnh tranh năng động hơn. Môi trường kinh doanh thực sự
mang tính cạnh tranh cao diễn ra không chỉ giữa các DNNQD mà chính các doanh nghiệp
nhà nước cũng chịu sức ép buộc phải nâng cao hiệu quả kinh doanh hơn. Các DNNQD đã
làm thay đổi cung cách quản lý của các doanh nghiệp nhà nước buộc các doanh nghiệp
này phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình làm cho nền kinh tế hoạt động năng
động hơn và hiệu quả hơn.
Sự ra đời của kinh tế ngoài quốc doanh Việt Nam không chỉ thúc đẩy cạnh tranh
trong nước phát triển mà còn thúc đẩy cạnh tranh hội nhập tạo ra môi trường thuận lợi
cho các thành phần kinh tế khác có thể khai thác tiềm năng của đất nước, đồng thời mở
rộng cạnh tranh thương mại đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đó là sự
chuẩn bị cho nền kinh tế Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập.
Ngoài những vai trò cơ bản trên, kinh tế ngoài quốc doanh còn góp phần tạo nên sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, thực hiện dân chủ hoá nền kinh tế,
kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển...
2.1.3. Đời sống của công nhân lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Sự phát triển của các DNNQD đã giải quyết được một trong những vấn đề bức xúc
trong đời sống xã hội hiện nay. Đó là vấn đề việc làm, tạo ra những điều kiện để huy
động các tiềm năng của đất nước cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Song các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ngay từ đầu cũng bộc lộ những hạn chế của nó. Phần lớn
DNNQD là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này vốn ít, trình độ công
nghệ yếu, năng lực quản lý của chủ doanh nghiệp thấp. Nhiều chủ doanh nghiệp chưa
hiểu rõ luật pháp trong kinh doanh, vướng vào nhiều sai phạm trong quản lý, đẩy doanh
nghiệp vào tình trạng bế tắc, phá sản lại làm gay gắt và phức tạp thêm những vấn đề về
việc làm và đời sống, lợi ích của những người lao động bị vi phạm nghiêm trọng. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trình độ công nghệ cũng còn ở mức trung bình,
thậm chí đã lạc hậu, mới được tân trang lại để đưa vào Việt Nam, không phù hợp với thể
hình và sức khoẻ người Việt Nam. Điều đó xuất hiện một số bệnh tật liên quan đến nghề
nghiệp.
Công nhân lao động, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư
nước ngoài, do những khó khăn về điều kiện, giờ giấc làm việc và môi trường sinh sống
nên ít được sinh hoạt chính trị, xã hội, ít được thông tin, tuyên truyền, do đó ý thức giác
ngộ giai cấp, nhận thức chính trị, nhận thức về Đảng, về giai cấp công nhân và tổ chức
Công đoàn, hiểu biết về pháp luật, chính sách còn rất hạn chế; một số ít người lao động
còn bàng quan với chính trị, có lối sống thực dụng; kỷ luật lao động và tác phong công
nghiệp còn yếu.
Tiền lương là nguồn thu nhập chính, còn thấp so với nhu cầu tối thiểu, chưa đáp ứng
được mức sống và sự thay đổi cơ cấu tiêu dùng của người lao động.
Qua tiến hành điều tra với 285 công nhân lao động trong 23 doanh nghiệp ngoài
quốc doanh về mức thu nhập hiện nay thu được kết quả như sau:
Bảng 2.1: Thu nhập hàng tháng của người lao động
Đơn vị tính: đồng
STT Mức thu nhập Số người %
1 Dưới 500.000đ 16 5,62
2 Từ 500.000 - 750.000đ 152 53,39
3 Từ 750.000 - 1.000.000đ 98 34,39
4 Từ 1.000.000 - 1.500.000đ 11 3,86
5 Trên 1.500.000đ 8 2.80
Nguồn: Xử lý số liệu điều tra.
Nhìn vào bảng số liệu cho ta thấy phần lớn công nhân lao động làm việc trong
doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay có mức thu nhập từ 500.000- 750.000
đồng/tháng chiếm 53,33%, mức thu nhập từ 1.000.000 đồng/tháng trở lên chiếm 6,66%
những người có mức thu nhập này phần lớn là những người làm quản lý hoặc làm việc
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Mức lương nhìn chung vẫn còn thấp, chưa tương xứng với kết quả lao động và chưa
khuyến khích được công nhân, lao động hăng say làm việc. Trong nhiều doanh nghiệp, nhất
là trong các doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã, cơ sở sản xuất cá thể, tình trạng công nghệ,
thiết bị lạc hậu, lao động thủ công, nặng nhọc và độc hại vẫn chiếm tỷ lệ cao; phương tiện
bảo vệ cá nhân còn thiếu và kém chất lượng; công nhân lao động vẫn phải làm việc trong
điều kiện môi trường bị ô nhiễm, không đảm bảo các điều kiện về vệ sinh, an toàn lao động.
Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn nghiêm trọng. Hàng năm, theo báo cáo
chưa đầy đủ, có khoảng 4000 người bị tai nạn lao động, trong đó số bị chết khoảng 400
người. Trên thực tế con số này còn lớn hơn rất nhiều và có xu hướng tăng lên nhưng
chúng ta chưa thống kê được hết, nhất là ở các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, ở khu vực
sản xuất ngoài quốc doanh. Việc chăm sóc sức khoẻ, phòng chống bệnh nghề nghiệp cho
người lao động ở nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức; sức khoẻ của một số bộ phận
công nhân bị giảm sút. Các vi phạm về an toàn và vệ sinh lao động không được xử lý
nghiêm minh, kịp thời.
Tình trạng vi phạm pháp luật về lao động trong các doanh nghiệp diễn ra khá phổ
biến, nhất là vi phạm những quy định về thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, trả lương chậm
không được đền bù, vi phạm những quy định về giao kết hợp đồng lao động và việc ký
TƯLĐTT, không thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách về BHXH, BHYT, BHLĐ... Tình
trạng một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trốn tránh, chiếm dụng, nợ tiền đóng
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn phổ biến và khá nghiêm trọng, nhưng Nhà nước chưa có
biện pháp chấn chỉnh; chế tài xử lý và việc thực thi pháp luật chưa đủ mạnh, nên những
quyền lợi thiết thân của người lao động còn bị xâm phạm. Việc tổ chức cho người lao
động nghỉ ngơi, dưỡng sức nói chung chưa được quan tâm đúng mức.
Qua khảo sát ở các doanh nghiệp nói trên chúng tôi thấy BHXH, BHYT là vấn đề
người lao động hết sức quan tâm. Ai cũng mong muốn được chăm lo sức khoẻ để làm việc
và có tiền lương, khi hết tuổi lao động được hưởng các chính sách BHXH. Nhưng trong số
285 người được khảo sát chỉ có 150 người được tham gia BHXH, BHYT. Điều này được thể
hiện cụ thể hơn ở bảng số liệu sau:
Bảng 2.2: Chế độ BHXH, BHYT của người lao động
Công ty Công ty Cổ Chế độ BHXH, BHYT Hợp tác xã Tổng số TNHH phần
Số người 36 79 35 150 Có % 31,30 64,75 72,92 52,63
Số người 79 43 13 135 Không % 68,70 35,24 27,08 47,37
100 100 100 100 Tổng (%)
Nguồn: Xử lý số liệu điều tra.
Nhìn vào bảng số liệu trên chúng ta thấy là việc tham gia chế độ BHXH, BHYT của
người lao động trong các DNNQD còn hạn chế mới đạt 52,63%. Như vậy là còn 47,37%
người lao động chưa được tham gia đóng BHXH, BHYT. Nếu chia theo loại hình doanh
nghiệp thì con số này có sự khác nhau. Trong loại hình Công ty Cổ phần có 79/122 người
(chiếm 64,75%) trong mẫu điều tra được tham gia đóng BHXH, BHYT; Loại hình hợp
tác xã có 35/48 người (chiếm 72,92%) được tham gia đóng BHXH, BHYT; Loại hình
doanh nghiệp có số người được tham gia đóng BHXH, BHYT thấp nhất là ở công ty
trách nhiệm hữu hạn với 36/115 người (chiếm 31,30%).
Hiện nay, việc thực hiện giao kết hợp đồng lao động ở khu vực doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt trên 90%; doanh nghiệp tư nhân đạt
trên 60%. Đa số là hợp đồng lao động ngắn hạn và xác định thời hạn từ 1-3 năm (chiếm
trên 80%). Điều đáng quan tâm là, nhiều doanh nghiệp tư nhân mặc dù có công việc
thường xuyên, nhưng người sử dụng lao động chỉ ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng để
trốn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, gây thiệt thòi lớn cho người lao động. Tỉ lệ
doanh nghiệp ký TƯL ĐTT có tăng nhưng còn thấp: Doanh nghiệp nhà nước đạt trên
80%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 30%, doanh nghiệp tư nhân đạt trên
15%. Quyền lợi của một bộ phận người lao động bị xâm phạm dưới nhiều hình thức;
cường độ lao động cao, trong khi tiền lương được hưởng thấp; tình trạng tự đưa ra định
mức lao động cao hơn thực tế, bắt người lao động phải tăng ca, làm thêm giờ cao hơn
mức quy định của Bộ luật Lao động diễn ra khá phổ biến, nhất là ở các ngành May mặc,
Da giày, Chế biến thuỷ hải sản, trong các doanh nghiệp tư nhân, một số doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp sử dụng lao động thời vụ, lao động hợp đồng
ngắn hạn. Nhiều công nhân, lao động do phải làm thêm giờ quá nhiều đã bị ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khoẻ và hạnh phúc gia đình.
Tranh chấp lao động tập thể và đình công diễn ra phức tạp và có xu hướng tăng lên.
Các vụ tranh chấp lao động tập thể và đình công đều xuất phát từ các yêu cầu bức xúc,
chính đáng của người lao động không được giải quyết, có mục đích kinh tế và thuộc
phạm vi quan hệ lao động. Các cuộc đình công đều chưa theo đúng quy định của pháp
luật như xảy ra tự phát, không có các bước hoà giải trước, không do Công đoàn cơ sở
quyết định sau khi đã lấy ý kiến của tập thể lao động. Điều này cũng có lý do là trên 70%
các cuộc đình công xảy ra ở những nơi chưa có Công đoàn cơ sở; còn những nơi tuy đã
có tổ chức Công đoàn, song Công đoàn cơ sở còn thiếu sâu sát, không nắm trước được
tình hình. Tuy vậy, khi xảy ra đình công, Công đoàn đã rất chủ động và tích cực phối hợp
với các cơ quan chức năng ở địa phương giải quyết.
Nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu của các cuộc đình công là do chủ doanh nghiệp và
người quản lý không chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật lao động, vi phạm quyền, lợi ích
của người lao động, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người. Nhiều nơi công
tác quản lý nhà nước về lao động bị buông lỏng, chính quyền và các cơ quan chức năng
thiếu sự phối hợp với Công đoàn trong việc tuyên truyền thực hiện pháp luật và giải
quyết các mâu thuẫn trong quan hệ lao động; công tác thanh tra, kiểm tra thi hành pháp
luật lao động chưa thường xuyên; chế tài và biện pháp xử lý chưa nghiêm minh, quy định
của pháp luật còn thiếu chặt chẽ và chưa đồng bộ. Cũng có một số ít trường hợp do một
bộ phận công nhân, lao động nóng vội, chưa thực hiện tốt các bước thương lượng, hoà
giải mà đã có phản ứng đình công, lãn công. Một số nơi tuy có tổ chức Công đoàn, nhưng
hoạt động kém hiệu quả, chưa sát công nhân, không nắm được những tâm tư, bức xúc của
người lao động. Cá biệt có cán bộ Công đoàn cơ sở còn bảo vệ những hành vi sai trái của
người sử dụng lao động.
Nguyện vọng thiết tha của công nhân, lao động nói chung và ở doanh nghiệp ngoài
quốc doanh nói riêng là Nhà nước có chính sách thực sự đảm bảo cho người lao động
được học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề; các quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng như về tiền lương, nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ... được bảo đảm; đời sống
văn hoá tinh thần được nâng cao, tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh, thực sự là
chỗ dựa đáng tin cậy, là người đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2.2. Thực trạng về vai trò của Công đoàn Việt nam trong việc bảo vệ lợi ích của
người lao động ở các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay
2.2.1. Khái quát
Coi trọng chăm lo đời sống, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động đã và đang trở thành chức năng trung tâm của Công đoàn Việt Nam trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước XHCN Việt Nam thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế. Quá trình cổ phần hoá, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát
triển, mở rộng hợp tác quốc tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy sự hình thành
và phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. ở loại hình doanh nghiệp đã xuất hiện
quan hệ chủ - thợ, công nhân, lao động làm việc dưới sự quản lý của chủ doanh nghiệp.
Nhưng người chủ chạy theo lợi nhuận đã tìm mọi cách thúc ép công nhân làm việc trong
những điều kiện căng thẳng, trong môi trường lao động độc hại với thời gian lao động
kéo dài làm cho sức khoẻ công nhân giảm sút, suy kiệt. Trong khi đó đồng lương thấp
kém, giá cả leo thang, thu nhập không đủ sống càng là nỗi lo âu, ám ảnh đời sống người
lao động. ở một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất hiện tình trạng người chủ
đánh đập, ức hiếp người lao động dẫn đến quan hệ chủ - thợ ngày càng căng thẳng. Vì
vậy Công đoàn phải thực sự là tổ chức quần chúng rộng lớn của công nhân, lao động, đại
diện cho công nhân lao động bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ.
Để bảo vệ lợi ích của người lao động, Công đoàn phát huy vai trò của mình trong
việc giải quyết vấn đề tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, quỹ phúc lợi… đại diện cho công
nhân, lao động thương lượng, ký kết TƯLĐTT, tham gia giải quyết tranh chấp lao động,
về đình công, bãi công theo pháp luật, về khiếu nại, tố cáo của công nhân, viên chức lao
động. Qua đó phát huy tinh thần làm chủ, bình đẳng, công bằng xã hội, phát triển các
hoạt động văn hoá, văn nghệ, du lịch, thể thao, tham gia, nghỉ mát cho người lao động.
Trong việc bảo vệ lợi ích người lao động, thời gian qua, Công đoàn đã làm rõ những
vấn đề cơ bản như: lợi ích của công nhân lao động gắn với lợi ích của tập thể, của Nhà
nước. Sự tồn tại và vững mạnh của Nhà nước XHCN là sự bảo đảm lợi ích cơ bản, lâu dài
cho người lao động. ở đây, lợi ích của công nhân lao động không chỉ thuần tuý là cơm ăn,
áo mặc mà cao hơn là lợi ích chính trị (đại diện là nhà nước của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động), lợi ích kinh tế, văn hoá, tinh thần, lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích cá
nhân, tập thể, Nhà nước … tất cả là sự thống nhất trong chế độ XHCN ở Việt Nam.
Trong việc chăm lo, bảo vệ lợi ích người lao động thì Nhà nước là người bảo đảm,
Công đoàn là người đại diện, đưa ra những giải pháp thực hiện vai trò của mình theo luật
định để bảo vệ lợi ích của đoàn viên. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa nghĩa vụ và
quyền lợi, đồng thời là cơ sở nhận thức về lợi ích công nhân, viên chức, lao động trong
điều kiện mới, thể hiện đúng tính chất giai cấp, tính chất cách mạng của Công đoàn Việt
Nam.
Thực hiện tốt vai trò bảo vệ lợi ích của người lao động, Công đoàn Việt Nam thực
sự góp phần xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2.2.2. Những mặt tích cực của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích
của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay
2.2.2.1. Công đoàn chủ động tham gia với Đảng và Nhà nước trong việc hoạch
định đường lối chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo lợi ích người lao động
Trong quá trình Nhà nước tiến hành xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách nói chung, hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến người lao động nói riêng,
Công đoàn có quyền và trách nhiệm rất lớn trong việc chủ động nghiên cứu, tập hợp ý
kiến, nguyện vọng của người lao động để tham gia với cơ quan soạn thảo, bảo đảm cho
các chế độ, chính sách, pháp luật khi ban hành được đồng bộ, thống nhất, có tính khả thi,
phù hợp với quyền, lợi ích của người lao động.
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp
nhà nước, hầu hết Công đoàn ngành Trung ương, Liên đoàn lao động địa phương đã cử
cán bộ tham gia các Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp cấp mình, đồng thời
tuyên truyền giúp cho người lao động có nhận thức đúng đắn, tích cực ủng hộ và thực
hiện quá trình tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước tại cơ sở, tham gia giải quyết
những vướng mắc ở cơ sở, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Công đoàn còn tích cực tham gia xây dựng các cơ chế thành lập các tổ chức để giải
quyết tranh chấp lao động như: Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, Hội đồng trọng tài lao
động cấp tỉnh, Hội thẩm nhân dân toà án các cấp. Đặc biệt, các cấp Công đoàn đã chủ
động tham gia giải quyết nhiều vụ tranh chấp lao động, đình công góp phần xây dựng
quan hệ lao động lành mạnh trong các doanh nghiệp, bảo vệ lợi ích của người lao động.
Các cấp công đoàn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động xã hội với nhiều nội dung, hình
thức đa dạng, phong phú. Nổi bật là việc thực hiện chương trình hành động xoá đói giảm
nghèo trong công nhân viên chức, lao động, việc hỗ trợ giải quyết việc làm thông qua
nguồn vốn vay từ quỹ quốc gia, việc xây dựng các loại quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm,
quỹ tình nghĩa, nhân đạo, từ thiện, quỹ vì nữ công nhân, lao động nghèo, Quỹ tấm lòng
vàng Lao động và nhiều hình thức phong phú khác của các Công đoàn cơ sở cũng đã góp
phần quan trọng giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, giảm hộ nghèo trong nhân
dân và công nhân, lao động, làm cho người lao động hiểu và gắn bó hơn với tổ chức
Công đoàn, nâng cao vị thế của tổ chức Công đoàn trong xã hội.
Công đoàn đã tổ chức nghiên cứu tình hình nhà ở của công nhân, lao động và kiến
nghị với Chính phủ về chính sách nhà ở cho công nhân, viên chức, lao động có thu nhập
thấp và công nhân, lao động trong các khu chế xuất, khu công nghiệp. Đồng thời Công
đoàn còn vận động công nhân lao động, các cơ quan, đơn vị đóng góp để xây dựng nhà
tình nghĩa dành cho các đối tượng chính sách, nhà tình thương cho công nhân, lao động
nghèo, nhà ở cho giáo viên vùng sâu, vùng xa.
2.2.2.2. Công đoàn tham gia kiểm tra thực hiện luật lao động, các chính sách, chế
độ liên quan đến lợi ích người lao động
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng xuất phát từ chức năng bảo vệ lợi ích
người lao động, tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Công đoàn trong điều kiện
của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Thực hiện nhiệm vụ này, Công đoàn cần chủ
động và tích cực tham gia với Nhà nước trong việc xây dựng, hướng dẫn, kiểm tra, giám
sát việc thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách về BHLĐ; củng cố và nâng cao năng lực
nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật BHLĐ của Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật
BHLĐ; nâng cao chất lượng đào tạo kỹ sư BHLĐ tại Trường đại học Công đoàn; tăng
cường bộ phận chỉ đạo công tác BHLĐ trong hệ thống Công đoàn, góp phần tích cực vào
chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, phòng chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,
bảo đảm an toàn, bảo vệ sức khoẻ cho người lao động. Tích cực tham gia phòng chống tai
nạn giao thông, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật thực hiện các chế độ, chính
sách đối với người lao động, nhất là chính sách đối với doanh nghiệp đông lao động nữ,
DNNQD. Bảo vệ có hiệu quả quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động, bảo
đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế với thực hiện tốt các chính sách xã hội, trước hết là
chính sách về việc làm, tiền lương, tiền công, BHXH, BHYT, BHLĐ, chính sách về nhà
ở nhất là nhà ở cho lao động có thu nhập thấp, các khu công nghiệp tập trung. Chẳng hạn,
đề nghị với nhà nước có quy định mỗi khi cho thành lập và xây dựng các doanh nghiệp,
các khu công nghiệp mới phải có phương án kèm theo xây dựng khu nhà ở cho công
nhân, lao động.
Dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, Công đoàn tăng cường phối hợp với các cấp
chính quyền thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức tốt đại hội công nhân viên
chức, hội nghị cán bộ công chức nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban thanh tra
nhân dân, đặc biệt chú trọng việc ký kết và nâng cao chất lượng nội dung thoả ước lao
động tập thể, coi đấy là những biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ quyền lợi người lao
động trong các DNNQD. Tham gia với các ngành chức năng phấn đấu để các DNNQD
thực hiện việc giao kết hợp đồng lao động và ký TƯLĐTT theo đúng quy định của pháp
luật, kiến nghị với Đảng nghiên cứu xây dựng quy chế dân chủ cho các cơ sở thuộc khu
vực ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
Phát triển đa dạng các hình thức và nâng cao chất lượng công tác tư vấn pháp luật
và trợ giúp pháp lý cho người lao động. Tiếp tục thành lập các văn phòng tư vấn pháp
luật và thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí cho người lao động; hỗ trợ người lao động
trong quá trình tham gia tố tụng. Nâng cao năng lực sử dụng các quyền của Công đoàn
được pháp luật quy định. Xây dựng tốt quan hệ lao động trong các loại hình doanh
nghiệp, tham gia giải quyết tốt các vụ tranh chấp lao động và đình công thông qua đối
thoại, hoà giải, giải quyết tại toà án, bảo vệ quyền lợi của người lao động và doanh
nghiệp; kiên quyết đấu tranh chống các hành vi xúc phạm nhân phẩm người lao động,
chống lạm dụng sức lao động trẻ em. Xây dựng cơ chế đối thoại giữa Tổng Liên đoàn và
các cấp Công đoàn liên quan với các nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nhân trong
nước nhằm tăng cường quan hệ hợp tác, đảm bảo lợi ích của người lao động và của
doanh nghiệp.
Đẩy mạnh các hoạt động xã hội, phát huy vai trò “tổ ấm công đoàn” trong việc quan
tâm chăm lo đời sống tinh thần, vật chất, thăm hỏi, động viên, giúp nhau giải quyết khó
khăn trong công nhân viên chức lao động. Phối hợp với các cấp chính quyền giải quyết
tốt các vấn đề xã hội; vận động người lao động tích cực tham gia xây dựng các loại quỹ
tình nghĩa, đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo, từ thiện; thực hiện xoá
đói giảm nghèo trong công nhân viên chức lao động.
2.2.2.3. Công đoàn tham gia giải quyết việc làm cho người lao động
Khi luận chứng vai trò của Công đoàn trong xã hội tư bản, C.Mác khẳng định: Hoạt
động của Công đoàn nhằm cố gắng chặn đứng cuộc tấn công không ngừng của tư bản và
những người lao động; cần làm cho những Công đoàn trở thành những trung tâm tổ chức
của giai cấp công nhân, tập hợp quần chúng đấu tranh chống lại chế độ nô lệ làm thuê và
quyền lực của tư bản để công nhân thoát khỏi cảnh thất nghiệp, bãi công, đói rách, để họ
vươn lên trở thành nhân tố cơ bản xây dựng xã hội mới. Những nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác cũng khẳng định xây dựng chủ nghĩa cộng sản về thực chất có ý nghĩa kinh tế, và
việc quan tâm đến lợi ích của người lao động, tham gia giải quyết việc làm cho họ trở
thành một trong những nhiệm vụ quan trọng và mang những giá trị nhân đạo, nhân văn
sâu sắc của tổ chức Công đoàn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay, công đoàn cần xác định rõ thêm vai trò và địa vị đại diện
người lao động của mình có biện pháp thiết thực để bảo vệ lợi ích của người lao động.
Công đoàn là người đại diện, người bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao
động, phát huy tác dụng xã hội về lĩnh vực việc làm, là công việc quan trọng và vẻ vang.
Ngày nay lao động là một trong những nhân tố tiến mạnh vào nền kinh tế thị trường,
khiến cho người sử hữu lao động - người lao động, đối mặt với cạnh tranh thị trường, đồng
thời cũng đối mặt với thất nghiệp. Bởi vậy, việc làm là vấn đề quan trọng bậc nhất của quan
hệ lao động, trực tiếp quan hệ đến đời sống và sự sinh tồn của người lao động, quan hệ đến
ổn định xã hội và phát triển liên tục, nhanh chóng của nền kinh tế. Xử lý tốt vấn đề việc làm
là nhiệm vụ không thể coi nhẹ trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam.
Khi giải quyết vấn đề này, công đoàn đã hướng vào các việc làm sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ chế làm việc ba bên:
Kinh tế thị trường phải được pháp chế hoá. Chính phủ có trách nhiệm trực tiếp đặt
ra quy định pháp luật, pháp quy có liên quan. Công đoàn là tổ chức xã hội quan trọng, đại
diện cho lợi ích của người lao động, có kiến nghị tích cực tham gia quá trình lập pháp và
đặt ra giải pháp, chính sách hữu quan, tạo căn cứ pháp luật ổn định cho Công đoàn trong
quá trình bảo vệ quyền làm việc của người lao động.
Công đoàn một mặt có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ đặt kế hoạch, cùng Chính phủ
xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; mặt khác cũng giám sát hoạt động của
Chính phủ. Tác dụng này, chủ yếu thông qua tình hình thực hiện đầy đủ chính sách hữu
quan về vấn đề việc làm, tăng cường giám sát, kịp thời, phản ánh những vấn đề tồn tại
với các bộ phận có liên quan, phản ánh ý kiến và yêu cầu của người lao động, cùng bàn
biện pháp giải quyết.
Việc tham gia giám sát của Công đoàn đã dựa trên cơ sở khoa học, điều tra phân
tích đời sống thực của người lao động. Vấn đề việc làm là một vấn đề cực kỳ phức tạp,
bao hàm nhiều lĩnh vực xã hội. Công đoàn là người đại diện và bảo vệ lợi ích của người
lao động, tận dụng ưu thế của tổ chức, quan hệ chặt chẽ với quần chúng, phản ánh với bộ
phận chính quyền hữu quan và đề ra kiến nghị hợp lý, thúc đẩy việc soạn thảo pháp luật,
pháp quy có liên quan, xúc tiến việc hình thành chính sách, giải pháp việc làm. Những
năm gần đây, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam rất coi trọng vấn đề này. Công tác điều
tra, nghiên cứu của cơ quan Tổng Liên đoàn đã có bước tiến triển rõ rệt, cung cấp cho
Chính phủ những căn cứ quan trọng để giải quyết vấn đề việc làm, đời sống của người
lao động.
Để xử lý đúng đắn mối quan hệ ba bên trong khi giải quyết vấn đề việc làm, Công
đoàn chủ yếu dựa vào việc cùng Nhà nước và cơ quan hữu quan tiến hành thương lượng.
Về lâu dài, xây dựng cơ chế ba bên nhằm hướng tới việc xây dựng ổn định cơ cấu các
bên liên quan. Có thể nghĩ tới việc thông qua phương thức hội nghị liên tịch định kỳ
trước, từ đó mà Công đoàn kịp thời tham gia soạn thảo các chính sách pháp quy về việc
làm của Nhà nước và cơ quan chính quyền địa phương, tham gia quản lý vấn đề việc làm
hữu quan, sau đó, từng bước xây dựng cơ chế hiệp thương ba bên ở tầm cao.
Trong các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lao động của người lao động trong việc xây
dựng chế độ bình đẳng thương lượng. Trong công tác này phải coi việc bảo vệ quyền lao
động của người lao động làm nội dung quan trọng của việc ký kết thoả ước tập thể. Trong
văn bản hợp đồng tập thể, vấn đề xúc tiến việc làm, bồi dưỡng nghề nghiệp phải được liệt
vào điều khoản quan trọng.
Trong bình đẳng thương lượng muốn có hiệu lực, Công đoàn phát huy đầy đủ tác
dụng bảo hộ quyền lao động của người lao động, tránh và giảm thất nghiệp xuống mức
thấp nhất. Đối với việc cắt giảm lao động có tính kinh tế của đơn vị sử dụng lao động.
Công đoàn giám sát chặt chẽ, nghiêm khắc chấm dứt tình trạng sử dụng lao động theo
kiểu tuỳ ý cắt giảm người. Bảo đảm đời sống cơ bản cho công nhân viên chức lao động
dôi dư của doanh nghiệp. Đối với người lao động bị giảm biên chế, Công đoàn phải đốc
thúc đơn vị sử dụng lao động bồi thường kinh tế theo luật định.
Hiện nay, kết cấu ba bên trong lĩnh vực quan hệ lao động đang hình thành trong
doanh nghiệp, Công đoàn đã cố gắng xây dựng cơ chế việc làm hợp tác ba bên trong các
doanh nghiệp, chủ yếu thông qua bình đẳng thương lượng, và ký kết thoả ước tập thể giữa
Công đoàn và xí nghiệp. Tuy chế độ bình đẳng thương lượng đã có cơ sở pháp luật, được
Nhà nước thừa nhận, nhưng muốn xây dựng chế độ này trong các xí nghiệp, tiến tới xây
dựng bình đẳng thương lượng ở các cơ sở sản xuất công nghiệp, làm cho chế độ hợp đồng
lao động thực hiện đồng bộ vẫn đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa của Công đoàn.
Thứ hai, sử dụng tốt các giải pháp chống thất nghiệp. Nhìn vào hiện trạng phần lớn
nhân viên thôi việc ở DNNQD, chúng ta nhận định rằng, con đường căn bản giải quyết
vấn đề này là đi sâu cải cách doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế. Do đó, một trong
những đối sách của Công đoàn là giúp đỡ lãnh đạo doanh nghiệp triển khai nhiều loại
hình kinh doanh, đổi mới kỹ thuật, động viên người lao động cùng doanh nghiệp vượt
khó khăn, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, để đạt được mục
đích giảm số công nhân không có việc làm đến mức thấp nhất.
Công đoàn phát động người lao động khai thác đầy đủ tiềm lực của doanh nghiệp,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp, tăng cường khả năng giải quyết nội bộ số người dư thừa
của doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp, xã hội và người lao động đều là việc hữu ích.
Phát triển mạnh giáo dục nghề nghiệp bằng nhiều hình thức, nhiều tầng lớp. Công
tác giáo dục phải nhằm không ngừng nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn của
người lao động. Mục đích nâng cao trình độ văn hoá kỹ thuật của người lao động là để
cho người lao động thích nghi với sự phát triển vượt bậc của sản xuất công nghiệp của
chất lượng sản phẩm và tiến bộ kỹ thuật.
Công đoàn các cấp, các địa phương sử dụng tốt các trường dạy nghề, trường kỹ
thuật, làm tốt công tác giáo dục bồi dưỡng người lao động, xây dựng chương trình giáo
dục nghề nghiệp phải thích hợp với điều chỉnh kết cấu việc làm. Phải nắm vững nguyên
tắc “học để hành”, căn cứ vào phương hướng phát triển kết cấu sản xuất công nghiệp địa
phương, kết cấu kỹ thuật và nhu cầu của đơn vị sử dụng lao động để điều chỉnh, xác định
phương hướng đào tạo bồi dưỡng không ngừng nâng cao khả năng tìm lại việc làm. Các
công đoàn cơ sở cũng căn cứ vào nhu cầu phát triển sản xuất của doanh nghiệp, tích cực
triển khai hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, tích cực triển khai hoạt động tự học qua
sách: học lý luận, học văn hoá, học kỹ thuật, học quản lý, học pháp luật, bồi dưỡng những
kỹ năng cho người thôi việc, tạo điều kiện cho họ chuyển công tác.
Thế kỷ XXI tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy
vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật. Trong đối sách việc làm của các nước
công nghiệp hoá theo kinh tế thị trường đều đặt công tác bồi dưỡng tay nghề, đào tạo
nghề ở vị trí rất quan trọng. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu phù hợp sự tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam cũng đòi hỏi người lao động phải có phẩm chất cao hơn nữa kể cả về trình
độ văn hoá và năng lực thích ứng với kỹ thuật mới. Do đó, chính sách nâng cao tay nghề
của Công đoàn nêu ra phù hợp với lợi ích của người lao động, cũng rất có ích cho việc
giải quyết vấn đề việc làm, thúc đẩy sự chuyển đổi phương thức kinh tế.
Công đoàn hướng dẫn cho người lao động thay đổi quan niệm chọn nghề. Thay đổi
quan niệm về việc làm là khâu quan trọng thúc đẩy tìm lại việc làm của người thôi việc
và người thất nghiệp. Do đó, Công đoàn các cấp cần tuyên truyền giáo dục cho người lao
động, hướng dẫn họ thay đổi quan niệm, xây dựng quan điểm việc làm thích hợp với yêu
cầu của kinh tế thị trường. Công tác này chủ yếu bao gồm:
Công đoàn phải giúp đỡ công nhân lao động xây dựng quan niệm mới về tự lập
nghiệp, tự chọn nghề. Đối với một số người lao động vẫn còn tồn tại quan niệm cũ: chỉ
vào được doanh nghiệp Nhà nước mới coi là chính thức có việc làm, Công đoàn cần phải
giúp đỡ họ xác định quan niệm mới: bất kể loại nghề nghiệp nào, nếu lao động chân
chính đều là vinh quang. Đồng thời, Công đoàn phải giáo dục người lao động không
ngừng nâng cao phẩm chất trình độ và năng lực tham gia giải quyết việc làm. Đối với
người lao động thôi việc, Công đoàn càng cần phải hết lòng giúp đỡ và khuyến khích họ
điều chỉnh tâm lý, xây dựng lòng tin, kết hợp nguyện vọng chọn nghề với khả năng thực
tế, nỗ lực nắm chắc cơ hội tìm lại việc làm.
Chúng ta đang ở trong thời kỳ chuyển đổi dần từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, vì vậy còn có những mặt chưa được hoàn thiện cần phải
có thời gian tương đối dài mới có thể thích ứng được với cơ chế thị trường. Công đoàn
cần phải giúp đỡ người lao động tìm hiểu tri thức thông thường về kinh tế thị trường, tức
là vừa thấy được tính ưu việt của kinh tế thị trường XHCN, vừa thấy được nhiệm vụ khó
khăn gian khổ mà trong thời kỳ chuyển đổi họ phải đối mặt, để mọi người có sự chuẩn bị
nhất định trong thời kỳ chuyển đổi và có thể thích ứng với thị trường.
Phát triển mạnh tổ chức kinh tế công đoàn, trực tiếp cung cấp việc làm mới cho
người thôi việc ở doanh nghiệp và người thất nghiệp. Công đoàn các cấp tranh thủ sự
giúp đỡ của chính quyền và các cơ quan hữu quan tại địa phương, tận dụng các chính
sách ưu đãi, xây dựng các tổ chức kinh tế để sắp xếp việc làm cho người thôi việc và
người thất nghiệp.
Kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển kinh tế thị trường cho thấy, tiến
bộ khoa học và quản lý hiện đại hoá có thể giúp nhanh chóng nâng cao hiệu quả sản xuất.
Tác dụng này trước hết vẫn thể hiện ở các doanh nghiệp lớn. Cùng với yêu cầu nâng cao
chất lượng lao động, là yêu cầu giảm số lượng lao động ở các doanh nghiệp lớn. Thu
nhận lao động trong xã hội chủ yếu dựa vào doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó hiện nay
các nước phương Tây đặc biệt coi trọng việc giúp đỡ các doanh nghiệp tập trung đông lao
động và doanh nghiệp nhỏ phát triển, làm đối sách quan trọng khai thông con đường việc
làm.
Thời kỳ chuyển đổi, kinh tế thị trường phát triển chưa hoàn thiện, chế độ bảo hiểm
xã hội chưa phát huy đầy đủ tác dụng, thì việc các ban ngành hữu quan của Nhà nước
đứng ra thực hiện kế hoạch tái tạo việc làm, có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc trợ cấp
xã hội, bồi dưỡng đào tạo nghề nghiệp, tìm lại việc làm cho những người thất nghiệp và
lao động dôi dư. Những vấn đề lớn như vậy không thể thiếu sự hỗ trợ của Chính phủ,
đồng thời cũng cần thiết có sự tham gia tích cực của Công đoàn và các tổ chức chính trị -
xã hội.
2.2.2.4. Công đoàn tham gia với nhà nước đẩy mạnh công tác bảo hộ lao động ở
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Chúng ta biết rằng trong quá trình lao động sản xuất, công tác, cho dù khi lao động
thủ công còn phổ biến, con người đóng vai trò lao động trực tiếp tại chỗ làm việc, hay
khi sản xuất đã phát triển đến trình độ cao, cơ khí hoá, tự động hoá là phổ biến, con
người chỉ làm nhiệm vụ điều khiển và kiểm tra quá trình sản xuất, thì con người vẫn phải
thường xuyên tiếp xúc với nhiều yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh tại chỗ làm việc,
có thể gây nên tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Để bảo đảm an
toàn, bảo vệ sức khoẻ và tính mạng cho người lao động, vấn đề tất yếu và cấp bách đặt ra
là phải áp dụng một cách đồng bộ các giải pháp, từ việc xây dựng phổ biến quán triệt và
thực hiện các văn bản pháp luật, chế độ chính sách, tiêu chuẩn, quy định về bảo hộ lao
động, tuyên truyền huấn luyện cho người sử dụng lao động và người lao động những hiểu
biết về bảo hộ lao động để họ nắm vững và tự giác thực hiện các biện pháp bảo đảm an
toàn, bảo vệ sức khoẻ cho mình và cho đồng nghiệp để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và
có hại, phòng chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
Rõ ràng ở đâu có lao động sản xuất, công tác, có con người làm việc thì ở đó phải
tiến hành công tác BHLĐ. Bởi vậy BHLĐ trước hết là phạm trù sản xuất nhằm bảo vệ
yếu tố năng động nhất của lực lượng sản xuất là người lao động. Chính vì thế BHLĐ trực
tiếp phục vụ và đẩy mạnh sản xuất phát triển và mang ý nghĩa kinh tế to lớn. Mặt khác,
nhằm chăm lo bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho người lao động, bảo đảm cho họ có việc
làm và được làm việc trong điều kiện an toàn, có thu nhập, mang lại hạnh phúc cho bản
thân và gia đình họ mà công tác BHLĐ có một hệ quả xã hội và nhân đạo sâu sắc. Vì vậy,
trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “phải chăm lo cải thiện điều kiện
làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tệ nạn và bệnh nghề nghiệp
cho người lao động”.
Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của chính sách bảo
đảm an toàn, vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường công đoàn cùng với Nhà nước tham gia
đẩy mạnh công tác BHLĐ trong các DNNQD.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao
động, Công đoàn có trách nhiệm: “tham gia với cơ quan nhà nước xây dựng chương trình
nghiên cứu khoa học và xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ về BHLĐ, an toàn, vệ
sinh lao động” [4, Điều 20].
Phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước cùng cấp tham gia
giám sát việc quản lý nhà nước, việc thi hành các quy định về an toàn lao động,
vệ sinh lao động, tham gia điều tra tai nạn lao động”, “Công đoàn cơ sở có
trách nhiệm giáo dục người lao động chấp hành nghiêm chỉnh các quy định,
nội quy về an toàn lao động, vệ sinh lao động, xây dựng phong trào bảo đảm
an toàn vệ sinh lao động trong doanh nghiệp, đơn vị, xây dựng và duy trì hoạt
động của mạng lưới an toàn vệ sinh viên [4, Điều 21].
“Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHLĐ và yêu cầu người có trách nhiệm thực
hiện ngay các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, kể cả trường hợp phải tạm ngừng
hoạt động nếu thấy cần thiết. Công đoàn cơ sở cử đại diện tham gia điều tra tai nạn lao
động, có thẩm quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc Toà án xử lý người
có trách nhiệm để xảy ra tai nạn lao động” [12, Điều 4].
+ Nội dung hoạt động của công đoàn đối với công tác BHLĐ được thể hiện ở những
nội dung sau:
Một là, công đoàn tham gia với các cấp chính quyền, cơ quan quản lý và người sử
dụng lao động xây dựng các văn bản pháp luật, các tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh
lao động, chế độ chính sách BHLĐ, kế hoạch BHLĐ, các biện pháp bảo đảm an toàn vệ
sinh lao động.
Hai là, công đoàn tham gia với các cơ quan nhà nước xây dựng chương trình BHLĐ
quốc gia, xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, đề tài Nghiên cứu Khoa học
kỹ thuật BHLĐ. Tổng Liên đoàn quản lý và chỉ đạo Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật
BHLĐ, tiến hành các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật BHLĐ. Cử
đại diện tham gia vào các đoàn điều tra tai nạn lao động; phối hợp theo dõi tình hình tai
nạn lao động, cháy nổ, bệnh nghề nghiệp.
Ba là, tham gia khen thưởng các doanh nghiệp làm tốt đồng thời xử lý các hành vi
vi phạm về BHLĐ. Thay mặt người lao động ký thoả ước với người sử dụng lao động
trong đó có các nội dung BHLĐ. Thực hiện kiểm tra, giám sát việc thi hành luật, chế độ
chính sách, tiêu chuẩn, quy định về BHLĐ, các điều khoản về BHLĐ trong thoả ước lao
động tập thể.
Bốn là, tham gia tuyên truyền phổ biến kiến thức an toàn, vệ sinh lao động; chế độ,
chính sách BHLĐ, quyền và nghĩa vụ BHLĐ; vận động người lao động và người sử dụng
lao động thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ về BHLĐ. Tham gia huấn luyện BHLĐ cho
người lao động.
Năm là, tổ chức phong trào quần chúng về BHLĐ, phát huy sáng kiến cải thiện điều
kiện làm việc, tổ chức quản lý mạng lưới an toàn vệ sinh viên và những đoàn viên hoạt
động tích cực về BHLĐ.
+ Thực trạng hoạt động công đoàn trong công tác BHLĐ:
Với chức năng bảo vệ lợi ích của người lao động, những năm qua Công đoàn đã tích
cực tham gia thực hiện công tác BHLĐ. Trong 10 năm (1994 - 2004), Tổng Liên đoàn đã
tham gia với Nhà nước xây dựng và ban hành 42 văn bản luật và dưới luật về BHLĐ như:
Đã tham gia với Nhà nước một số chương, điều về BHLĐ trong Bộ luật Lao động,
Luật Công đoàn, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Phòng
cháy chữa cháy;
Nghị định 06/CP ngày 20/1/1995 của Chính phủ quy định về an toàn lao động, vệ
sinh lao động.
Nghị định113/CP ngày 16/4/2004 quy định xử phạt hành chính và hành vi vi phạm
Luật lao động.
Nghị định 46/CP ngày 06/8/1996 quy định xử phạt hành chính trong quản lý nhà
nước về y tế.
Thông tư 14/1998/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN ngày 31/10/1998 hướng dẫn
tổ chức thực hiện công tác BHLĐ trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Thông tư liên tịch số 03/1998/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN ngày 26/3/1998
, hướng dẫn khai báo về điều tra tai nạn lao động.
Thông tư 11/2001/TT-BLĐTBXH ngày 11/6/2001 hướng dẫn thực hiện quyết định
số 37/2001/Q Đ-TTg ngày 02/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghỉ dưỡng sức,
phục hồi sức khoẻ cho người lao động tham gia BHXH.
Để đẩy mạnh công tác BHLĐ, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn có Nghị quyết số
01/TL Đ ngày 21/4/1995 về cải tiến nội dung và phương thức hoạt động Công đoàn trong
công tác BHLĐ; Chỉ thị số 20/CT ngày 20/11/1991 và Thông tri số 07/TTr ngày
06/2/1995 hướng dẫn triển khai các hoạt động về BHLĐ trong các cấp Công đoàn; Chỉ
thị số 01/CT-TL Đ ngày 16/1/1997 về việc tăng cường hoạt động của các cấp công đoàn
trong công tác BHLĐ. Gần đây, ngày 08/7/2005 Hội nghị Ban Chấp hành Tổng Liên
đoàn lần thứ 5 (khoá IX) đã ra Nghị quyết số 5b/NQ-BCH về việc đẩy mạnh công tác
BHLĐ của tổ chức công đoàn trong tình hình mới.
Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn đã chỉ đạo Viện Nghiên cứu Khoa học kỹ thuật
BHLĐ thực hiện các đề tài khoa học - công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ
đến các cơ sở nhằm góp phần cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp; chỉ đạo Trường Đại học Công đoàn đào tạo đội ngũ kỹ sư BHLĐ, bồi
dưỡng kiến thức về BHLĐ cho đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở.
Dưới sự chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn, các cấp Công đoàn đã phối hợp
với các cơ quan chức năng thực hiện công tác tuyên truyền luật pháp về BHLĐ cho người
lao động; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát về thực hiện chính sách, chế độ BHLĐ
đối với người sử dụng lao động. Bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ công đoàn về nội dung,
phương pháp tham gia công tác BHLĐ; duy trì tổ chức phong trào quần chúng làm công
tác BHLĐ hàng năm ở cơ sở, trọng tâm là tổ chức mạng lưới an toàn vệ sinh viên, tổ
chức phong trào thi đua “Xanh - sạch - đẹp”; tham gia Tuần lễ quốc gia về an toàn, vệ
sinh lao động, phòng chống cháy nổ.
Kịp thời báo cáo tai nạn lao động với Công đoàn cấp trên và kịp thời cử người tham
gia đoàn điều tra tai nạn lao động của cấp trên. Cung cấp cho đoàn điều tra những chứng
cứ có liên quan đến tai nạn; động viên những người được chứng kiến tai nạn lao động
phản ánh trung thực diễn biến tai nạn để giúp đoàn điều tra xác định đúng nguyên nhân
tai nạn và trách nhiệm của những người có liên quan, không để xảy ra tình trạng đổ hết
trách nhiệm cho người lao động.
Hàng năm tham gia với người sử dụng lao động xây dựng kế hoạch BHLĐ, kế
hoạch kiểm tra, tự kiểm tra an toàn lao động, vệ sinh lao động trên cơ sở tổ chức lấy ý
kiến của tập thể lao động tham gia vào nội quy, quy chế quản lý an toàn lao động, vệ sinh
lao động. Thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở việc thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách
Nhà nước về BHLĐ trong công nhân, lao động, làm cho mọi người thấy được ý nghĩa và
tác dụng của việc kiểm tra, nhất là hoạt động tự kiểm tra lẫn nhau việc thực hiện BHLĐ,
hình thành chế độ tự kiểm tra trong doanh nghiệp.
Tổ chức mạng lưới an toàn, vệ sinh viên của tổ công đoàn. Mạng lưới an toàn vệ
sinh viên là lực lượng quan trọng bảo đảm công tác BHLĐ của Công đoàn được tiến
hành thường xuyên liên tục và có hiệu quả, nên cần tổ chức bồi dưỡng cho những an toàn
viên, vệ sinh viên những vấn đề về an toàn lao động, vệ sinh lao động; chế độ, chính
sách, pháp luật BHLĐ; tổ chức kiểm tra sát hạch, cấp phù hiệu, băng đeo tay để đề cao
trách nhiệm và tăng hiệu quả công tác của an toàn viên, vệ sinh viên.
Phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức hội thi “An toàn, vệ sinh viên giỏi”
hàng năm. Tập hợp những đoàn viên giỏi chuyên môn và tay nghề giúp Ban Chấp hành
công đoàn cơ sở áp dụng các sáng kiến BHLĐ; thu thập ý kiến tổ chức hội thảo, hội nghị
chuyên đề, đề ra những biện pháp thích hợp chỉ đạo mạng lưới an toàn - vệ sinh viên hoạt
động tốt, kết hợp động viên vật chất và tinh thần, như có chế độ và mức thù lao hàng
tháng khích lệ họ hoạt động có hiệu quả, phát huy tác dụng trong công tác BHLĐ.
Đại diện tập thể lao động thương lượng, ký kết TƯLĐTT với người sử dụng lao
động những điều khoản đảm bảo điều kiện lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động
theo quy định của pháp luật. Vận động người lao động thực hiện tốt nghĩa vụ về BHLĐ
như đã thoả thuận trong TƯLĐTT. Hướng dẫn, giúp đỡ người lao động cụ thể hoá những
điều khoản trong thoả ước thành những thoả thuận trong hợp đồng lao động.
Tuy vậy, công tác BHLĐ trong các DNNQD hiện nay còn rất nhiều hạn chế, nên
tình trạng tai nạn lao động, cháy nổ, bệnh nghề nghiệp và ô nhiễm môi trường diễn ra khá
nghiêm trọng.
Thực tế qua 285 mẫu điều tra tại 23 DNNQD với các tiêu chí đưa ra về điều kiện vệ
sinh lao động và an toàn lao động, các trang thiết bị BHLĐ đã thu được kết quả như sau:
Bảng 2.3: Điều kiện vệ sinh lao động và an toàn lao động
Chỉ tiêu vệ Công ty Công ty cổ Hợp tác xã Tổng TNHH phần sinh, an
toàn lao 1 % Người % Người % Người % động Người
1. Rất tốt 1,73 4 3,28 0 0 6 2,11 2
11,31 15 12,29 9 18,75 37 12,98 2. Tốt 13
3. Bình 48 41,74 78 63,93 17 35,42 143 50,17 thường
37 4. Chưa tốt 32,17 114 11,48 22 45,83 3 25,61
15 5. Kém 13,04 11 9,02 0 0 26 9,13
Nguồn: Xử lý số liệu điều tra.
Nhìn vào bảng số liệu trên cho ta thấy rằng số đông người lao động cho rằng điều
kiện vệ sinh lao động, an toàn lao động nơi họ làm việc là bình thường với 50,17% tổng
số công nhân lao động được điều tra, 25,61 % người cho rằng là chưa tốt, 9,13% công
nhân lao động cho rằng điều kiện môi trường lao động nơi họ làm việc là kém. Trong khi
đó chỉ có 2,11% công nhân lao động cho rằng là rất tốt và 12,98% công nhân lao động
cho rằng là tốt. Công tác khai báo, điều tra, thống kê tai nạn lao động, huấn luyện BHLĐ
thực hiện rất tuỳ tiện và kém hiệu quả.
- Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
Thứ nhất, người sử dụng lao động thiếu hiểu biết về pháp luật và khoa học kỹ thuật
BHLĐ, vì mục đích lợi nhuận nên họ chưa đầu tư hoặc đầu tư ở mức tối thiểu về BHLĐ.
Thứ hai, phần lớn các DNNQD có công nghệ sản xuất còn thô sơ, lạc hậu do sự hạn
chế về vốn đầu tư nên ít thiết bị hiện đại, công nghệ không đồng bộ, tình trạng công nghệ
cũ, thiết bị lạc hậu là một trong những yếu tố dẫn đến nguy cơ cao về tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp. Số doanh nghiệp thuộc nhóm công nghệ cao chỉ chiếm 20,6%, nhóm
công nghệ trung bình chiếm 20,7%, nhóm công nghệ lạc hậu chiếm 58,7%, tỷ lệ cơ khí
hoá, tự động hoá dưới 10% [25, tr.18].
Thứ ba, cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất còn nhiều hạn chế, mặt bằng sản xuất
thường chật hẹp, chắp vá, phân tán, khu sản xuất và khu gia đình đan xen nhau, kết cấu
nhà xưởng chưa đáp ứng yêu cầu về an toàn lao động, vệ sinh lao động; do đó điều kiện
lao động không bảo đảm, mức độ an toàn của thiết bị còn thấp, việc kiểm tra, giám sát bị
buông lỏng, nguy cơ gây tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn cao.
Thứ tư, người lao động chủ yếu là làm thuê chịu nhiều sức ép về tâm lý, nhất là tâm lý
sợ mất việc làm hoặc không được ký hợp đồng lao động nên họ phải cam chịu làm việc trong
những điều kiện không đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động. Bên cạnh đó, đa số không được
đào tạo chính quy, hiểu biết về BHLĐ còn ít, có nhiều người chưa có ý thức chấp hành quy
trình an toàn lao động.
Thứ năm, sự quan tâm của các cấp chính quyền, tổ chức đoàn thể, tổ chức đoàn thể,
tổ chức xã hội nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về BHLĐ còn nhiều hạn chế, thiếu chế
tài cần thiết để ràng buộc và nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng lao động
trong việc thực hiện pháp luật lao động và chế độ, chính sách về an toàn lao động, vệ sinh
lao động. Có nơi công tác quản lý nhà nước về BHLĐ còn bị buông lỏng. Các văn bản
pháp lý về BHLĐ chưa được phổ biến rộng rãi, quán triệt và triển khai đầy đủ với sự
kiểm tra, đôn đốc của các cơ quan quản lý nhà nước về BHLĐ.
2.2.3. Vấn đề phát huy vai trò Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích
của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay - những hạn chế
và nguyên nhân của những hạn chế đó
2.2.3.1. Hạn chế
+ Thứ nhất, Chất lượng tham gia của Công đoàn vào việc xây dựng, sửa đổi, bổ
sung chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến đời sống người lao động ở
các DNNQD chưa cao.
Công đoàn chưa tập trung được trí tuệ của đông đảo người lao động và đội ngũ cán
bộ khoa học, cán bộ quản lý trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, nên chất
lượng tham gia một số chính sách chưa cao, ở một số DNNQD vai trò của Công đoàn
trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động còn mờ nhạt, hiệu quả thấp. Đại hội công
nhân viên chức, hội nghị cán bộ công chức, hoạt động của ban thanh tra nhân dân ở nhiều
doanh nghiệp còn mang tính hình thức.
Công tác kiểm tra, giám sát và phối hợp kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ,
chính sách đối với người lao động trong một số DNNQD thực hiện chưa thường xuyên,
chất lượng công tác kiểm tra còn mặt hạn chế. Một số cán bộ công đoàn còn thiếu bản
lĩnh, ngại va chạm, sợ bị trù dập, mất việc làm, nên chưa mạnh dạn đấu tranh bảo vệ
quyền và lợi ích của người lao động.
+ Thứ hai, Công đoàn chưa bảo vệ tốt được lợi ích của người lao động trong
DNNQD.
Mặc dù trong thời gian qua, hoạt động công đoàn trong các DNNQD đã được các
cấp công đoàn quan tâm, công đoàn cơ sở đã có những hoạt động tích cực đem lại hiệu
quả thiết thực, song trên thực tế hoạt động công đoàn khu vực này nhiều lúc, nhiều nơi
còn bị lúng túng, vai trò công đoàn còn mờ nhạt chưa trở thành chỗ dựa vững chắc cho
người lao động. Nhiều ban chấp hành công đoàn chưa phối hợp được với chủ doanh
nghiệp xây dựng quy chế hoạt động để tạo cơ sở pháp lý trong việc thương lượng và bảo
vệ lợi ích của người lao động. Một số chủ tịch công đoàn cơ sở ngại va chạm, không dám
đấu tranh nên những bức xúc của công nhân kéo dài mà không được công đoàn đứng ra
bảo vệ, dẫn đến người lao động thiếu tin tưởng vào tổ chức công đoàn. ở nhiều doanh
nghiệp, công đoàn cơ sở hoạt động còn hạn chế, chưa có TƯLĐTT, chưa xây dựng được
quy chế trả lương, thường dẫn đến tình trạng người lao động có thể bị khấu trừ lương một
cách tuỳ tiện. Một số vi phạm của chủ doanh nghiệp, cán bộ công đoàn ở trong doanh
nghiệp đều biết và tỏ ra hết sức bất bình nhưng chưa có biện pháp nào để đấu tranh bảo
vệ. Sự bất lực của tổ chức công đoàn cơ sở đã làm cho người lao động giảm lòng tin vào
tổ chức công đoàn. Nhiều cuộc đình công tập thể đã nổ ra nhưng đều do công nhân, lao
động tự phát, không có sự lãnh đạo của tổ chức công đoàn.
Nội dung và hình thức hoạt động công đoàn ở một số cơ sở còn sơ cứng, chưa thực
sự xuất phát từ đặc điểm của loại hình doanh nghiệp và trình độ cũng như nguyện vọng
chính đáng của công nhân, lao động, chưa có nhiều hình thức đa dạng, phong phú hấp
dẫn và thiết thực nên công đoàn chưa thực sự hấp dẫn đối với người lao động, chưa thu
hút được đông đảo người lao động tham gia hoạt động công đoàn, chưa có tính thuyết
phục cao đối với người sử dụng lao động.
Do hoạt động sản xuất trong các DNNQD diễn ra với nhịp độ rất khẩn trương,
người sử dụng lao động luôn có ý thức khai thác tối đa thời gian làm việc của công nhân,
mọi hoạt động làm ảnh hưởng đến sản xuất đều không được sử dụng lao động chấp nhận.
Vì vậy, việc tập trung đoàn viên, công nhân, lao động để sinh hoạt hoàn toàn không đơn
giản. Do đó công đoàn ở những đơn vị này hoạt động gặp nhiều khó khăn, việc đấu tranh
bảo vệ lợi ích cho người lao động không phải lúc nào cũng được chủ doanh nghiệp chấp
nhận. Trong khi đó, công đoàn cấp trên và các cơ quan chức năng cũng không dễ xuống
được doanh nghiệp làm việc với người sử dụng lao động.
Nhìn chung chất lượng tham gia của Công đoàn vào việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung
một số chính sách, pháp luật của nhà nước chưa cao. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt
động đối với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế của Công đoàn còn yếu; chưa bảo vệ tốt
được quyền lợi người lao động, nhất là ở nhiều công đoàn cơ sở khu vực ngoài quốc
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm và
công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý chưa đáp ứng được nhu cầu của công nhân,
lao động.
+ Thứ ba, đời sống vật chất, tinh thần của người lao động ở các DNNQD còn nhiều
khó khăn.
Mặc dù thời gian qua, hoạt động công đoàn trong các DNNQD đã được các cấp
công đoàn quan tâm, công đoàn cơ sở đã có những hoạt động tích cực đem lại hiệu quả
thiết thực, song trên thực tế thì đời sống của người lao động ở khu vực này còn gặp nhiều
khó khăn.
Như chúng ta biết hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao, tham quan du lịch là một
hoạt động không thể thiếu đối với tổ chức Công đoàn vì nó có tác dụng to lớn đối với
người lao động, tạo cho họ những ngày, giờ nghỉ ngơi vui vẻ, thoải mái về tinh thần,
phục hồi và tái tạo sức lao động sau những ngày làm việc căng thẳng và áp lực. Động
viên người lao động hoàn thành tốt các mục tiêu, kế hoạch lao động sản xuất tiếp theo.
Tuy nhiên, còn rất ít tổ chức công đoàn ở các DNNQD thực hiện được những hoạt động
này.
Trong khi đó công nhân lao động, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và có
vốn đầu tư nước ngoài, do những khó khăn về điều kiện, giờ giấc làm việc và môi trường
sinh sống nên ít được sinh hoạt chính trị, xã hội, ít được thông tin, tuyên truyền, do đó ý
thức giác ngộ giai cấp, nhận thức chính trị, nhận thức về Đảng, về giai cấp công nhân và
tổ chức Công đoàn, hiểu biết về pháp luật, chính sách còn rất hạn chế; một số ít người lao
động còn bàng quan với chính trị, có lối sống thực dụng; kỷ luật lao động và tác phong
công nghiệp còn yếu.
Tiền lương là nguồn thu nhập chính, còn thấp so với nhu cầu tối thiểu, chưa đáp ứng
được mức sống và sự thay đổi cơ cấu tiêu dùng của người lao động.
2.2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
+ Thứ nhất, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế.
Phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, các thành phần kinh tế hoạt
động đan xen, tạo nên tính đa dạng của cơ cấu kinh tế và sự đa dạng, phức tạp trong cơ
cấu giai cấp công nhân làm cho việc tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, xây
dựng tổ chức và hoạt động công đoàn rất khó khăn. Trong các DNNQD điều kiện để tuyên
truyền vận động và tổ chức hoạt động công đoàn lại càng nhiều khó khăn hơn. Sự phân hoá
giàu nghèo trong công nhân lao động ngày càng tăng, cường độ và thời gian làm việc của
công nhân, lao động lớn, thời gian nhàn rỗi rất ít, cơ sở vật chất cho tổ chức hoạt động công
đoàn eo hẹp, tình trạng việc làm của công nhân lao động không ổn định, nên người lao động
cũng chưa mặn mà với công đoàn. Nhiều người sử dụng lao động chưa hiểu đầy đủ về Công
đoàn Việt Nam do đó chưa ủng hộ và tạo điều kiện để công đoàn hoạt động, thậm chí còn
không muốn có công đoàn, muốn dựng nên một tổ chức thuộc phạm vi ảnh hưởng của mình,
nên việc tập hợp, đoàn kết, tuyên truyền, vận động công nhân lao động vào công đoàn và tổ
chức hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp này là một thách thức lớn.
Sự phát triển nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tính đa
dạng của các loại hình doanh nghiệp đã tạo ra tính đa dạng trong tổ chức quản lý sản
xuất. Bên cạnh đó, cường độ làm việc của người lao động tăng lên, đời sống văn hoá, tinh
thần, vật chất không được quan tâm đầy đủ, cá biệt chủ doanh nghiệp còn xúc phạm nhân
phẩm người lao động. Việc thực hiện pháp luật, nhất là pháp luật lao động chưa nghiêm,
làm cho quan hệ lao động trở nên phức tạp, tranh chấp lao động và đình công có xu
hướng tăng, một số vụ đình công có quy mô lớn, tính chất ngày càng phức tạp vượt ra
ngoài doanh nghiệp. Như vậy, hội nhập kinh tế làm cho quan hệ lao động có xu hướng
gay gắt và hàm chứa nhiều yếu tố phức tạp tạo ra nhiều trở ngại cho việc tổ chức và hoạt
động công đoàn.
Theo số liệu thống kê năm 1995 cả nước xảy ra 60 cuộc đình công, đến năm 2003
số cuộc đình công đã tăng lên gấp đôi (139 cuộc) và đến năm 2005 là 147 cuộc. Đình
công chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm tới trên 60%
tổng số vụ đình công).
Cán bộ công đoàn ở các cơ sở ngoài quốc doanh chủ yếu là kiêm nhiệm lại thường
xuyên biến động, kiến thức về chính sách pháp luật và kỹ năng hoạt động công đoàn còn
hạn chế, do vậy hiệu quả hoạt động công đoàn chưa cao, công đoàn chưa thực sự hấp dẫn
với người lao động. Đặc biệt kinh phí cho hoạt động Công đoàn ngày càng hạn chế, cơ
chế chính sách chưa đồng bộ và chưa tạo điều kiện thuận lợi để Công đoàn hoạt động,
nhất là Công đoàn khu vực ngoài quốc doanh. Chưa có cơ chế chính sách bảo vệ, động
viên khuyến khích cán bộ công đoàn. Cán bộ hoạt động kiêm chức vừa không có chế độ
đãi ngộ, vừa dễ bị giới chủ mặc cảm, dẫn đến chấm dứt hợp đồng lao động nên ngại đấu
tranh, không thiết tha với công tác công đoàn.
+ Thứ hai, hoạt động công đoàn chưa theo kịp sự chuyển biến của đời sống kinh tế -
xã hội nói chung và của người lao động nói riêng.
Các chức năng của Công đoàn còn chậm được cụ thể hoá và vận dụng linh hoạt
cho phù hợp với tổ chức Công đoàn trong từng thành phần kinh tế. Trình độ, năng lực
của một số bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ công đoàn cơ sở còn yếu, không theo kịp
với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và thực tiễn đất nước.
Tính năng động, sáng tạo của một số cán bộ công đoàn chưa cao, khả năng nhạy
bén, nắm bắt tình hình, kinh nghiệm thực tiễn còn yếu. Một số nội dung hoạt động được
đặt ra còn mang tính hình thức, chưa phù hợp với thực tiễn, hiệu quả thấp.
Nội dung, phương thức hoạt động công đoàn chưa được cụ thể hoá cho phù hợp với
từng loại hình cơ sở; việc kiểm tra thực hiện kế hoạch công tác của cấp trên đối với cấp dưới
chưa được coi trọng. Việc chấp hành chế độ thông tin, báo cáo chưa nghiêm. Bệnh hành
chính, quan liêu, kinh nghiệm chủ nghĩa còn khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ công
đoàn. Công tác kiện toàn tổ chức, xác định chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp chỉ
đạo đối với công đoàn cấp trên cơ sở, công đoàn ngành Trung ương và Liên đoàn lao động
địa phương còn những vướng mắc. Công tác chỉ đạo hoạt động kinh tế công đoàn của Tổng
Liên đoàn còn bị buông lỏng, để một thời gian dài không hướng dẫn, chỉ đạo.
+ Thứ ba, một số cán bộ Đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của
công đoàn ngoài quốc doanh.
Một số cấp uỷ Đảng chưa nhận thức hết tầm quan trọng về việc thành lập tổ chức Công
đoàn khối ngoài quốc doanh nên chưa thật quan tâm chỉ đạo công tác này mà gần như khoán
trắng cho tổ chức Công đoàn các cấp thực hiện.
Sự phối hợp giữa tổ chức Công đoàn với chính quyền các cấp có lúc có nơi còn
chưa chặt chẽ đã ảnh hưởng không ít đến kết quả kinh tế và hoạt động Công đoàn khối
ngoài quốc doanh.
Sự quản lý Nhà nước đối với các DNNQD chưa thống nhất, chặt chẽ. Vì vậy một số
doanh nghiệp trong một thời gian thành lập làm ăn thua lỗ dẫn tới phá sản hoặc chuyển
địa điểm mà cơ quan quản lý Nhà nước và Công đoàn các cấp đều không nắm được.
Chưa nắm được các DNNQD để phân loại và hoạt động phát triển Công đoàn do số
lượng các DNNQD phát triển nhanh. Sự quan tâm chỉ đạo cân đối kiểm tra của Ban
Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh, Ban chấp hành chưa thường xuyên, nhất là Ban vận
động xây dựng Công đoàn ngoài quốc doanh của Liên đoàn Lao động tỉnh cũng chưa có
biện pháp chỉ đạo cụ thể, sát sao với các Công đoàn Ngành, Liên đoàn Lao động các huyện,
thị, thành phố. Một số ít Công đoàn Ngành, Liên đoàn Lao động các huyện, thị, thành phố
chưa thật sự quan tâm, tập trung tổ chức vận động phát triển đoàn viên ở các đơn vị kinh tế
ngoài quốc doanh. Hiện nay mới coi trọng việc thành lập Công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh
để hoàn thành chỉ tiêu cấp trên giao mà chưa quan tâm đến hoạt động của các Công đoàn cơ
sở sau khi thành lập. Cán bộ chỉ đạo còn thiếu kinh nghiệm, năng lực và trình độ chưa tương
xứng với nhiệm vụ được giao.
+ Thứ tư, nhiều chủ doanh nghiệp trong khu vực ngoài quốc doanh chưa tạo điều
kiện cho công đoàn hoạt động.
Không ít chủ doanh nghiệp chưa nắm bắt đầy đủ Luật Lao động, Luật Công đoàn và
các văn bản quy định của Nhà nước đối với người lao động, đối với công đoàn nên chưa
ủng hộ việc thành lập công đoàn, hoặc chưa tạo điều kiện cho công đoàn hoạt động. Một
số chủ doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về tổ chức Công đoàn cơ sở. Họ cho rằng tổ
chức công đoàn chỉ đòi hỏi quyền lợi, bênh vực người lao động chứ không bênh vực bảo
vệ quyền lợi cho giới chủ doanh nghiệp, do đó không tạo điều kiện cần thiết về thời gian,
kinh phí, cơ sở vật chất... cho tổ chức Công đoàn hoạt động. Một số khác hiểu rõ những
văn bản quy định của pháp luật nhưng lại tìm cách trốn tránh để trục lợi cho bản thân. Đó
là rào cản làm hạn chế hiệu quả hoạt động công đoàn.
Bên cạnh đó Nhà nước chưa có những biện pháp đối với những đơn vị, chủ doanh
nghiệp không chịu thực hiện nghiêm túc pháp luật nhất là bộ luật Lao động, BHXH ...
+ Thứ năm, trình độ cán bộ công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh còn yếu.
Cán bộ công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh chủ yếu hoạt động không chuyên trách,
họ là người làm thuê hưởng lương từ doanh nghiệp, phải hoàn thành nghĩa vụ lao động theo
hợp đồng lao động, nên thời gian dành cho hoạt động công đoàn không nhiều. Đội ngũ cán
bộ này lại thường xuyên biến động, năng lực và trình độ về nghiệp vụ hoạt động công đoàn,
am hiểu về pháp luật và các chế độ chính sách liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công
nhân, lao động còn hạn chế do đó gặp nhiều khó khăn khi thuyết phục chủ doanh nghiệp ủng
hộ tạo điều kiện cho hoạt động công đoàn. Mặt khác, cán bộ công đoàn thường là người lao
động trực tiếp trong doanh nghiệp nên ở một số doanh nghiệp họ còn e dè, nể nang, sợ mất
việc làm mà không dám đấu tranh với chủ doanh nghiệp khi quyền lợi chính đáng của người
lao động bị vi phạm.
Chương 3
QUAN Điểm Và Giải Pháp Phát HUY VAI Trò
Của CÔNG Đoàn Việt NAM TRONG Việc Bảo Vệ
Lợi ích Người LAO Động ở Các DOANH Nghiệp
Ngoài Quốc DOANH Hiện NAY
3.1. Quan điểm cơ bản để phát huy vai trò của Công đoàn Việt nam trong việc
bảo vệ lợi ích người lao động hiện nay
3.1.1. Công đoàn chăm lo lợi ích của người lao động ngoài quốc doanh là góp
phần xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh
Sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay đòi hỏi phải xây dựng giai cấp công nhân
không ngừng lớn mạnh; Hội nghị Trung ương lần thứ VI khoá X của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã ra nghị quyết “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước” Đảng ta đã cho rằng sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là
một điều kiện bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Chúng
ta phải phấn đấu để đến năm 2020 đạt được mục tiêu: Xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hoá của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn
biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh
thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước; là nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng giai cấp công nhân phải sử dụng tổng thể các giải pháp: kinh tế, chính trị,
văn hoá, tư tưởng, pháp quyền và đạo đức … Đây cũng là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống
chính trị XHCN và toàn thể nhân dân Việt Nam. Nhưng vai trò của Công đoàn có ý nghĩa
đặc thù, bởi lẽ Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân, lao động.
Giai cấp công nhân, lao động là cơ sở xã hội của Công đoàn. mối quan hệ giữa công nhân
lao động và Công đoàn được thể hiện rõ nét trong đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân và của cách mạng Việt Nam. Giai cấp công nhân mạnh thì Công đoàn mạnh và
ngược lại, hoạt động của Công đoàn có hiệu quả thì vị trí, vai trò của giai cấp công nhân
trước nhân dân và dân tộc càng được nâng cao.
Cơ chế thị trường đang làm chuyển biến sâu sắc cơ cấu xã hội nói chung và cơ cấu
giai cấp công nhân nói riêng. Mặt khác, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi
phải có một giai cấp công nhân vững mạnh về mọi mặt: phát triển nhanh về số lượng và
chất lượng, đủ bản lĩnh chính trị dìu dắt nhân dân tiến tới mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Do đó, Công đoàn tham gia xây dựng giai
cấp công nhân là một yêu cầu khách quan của cuộc sống.
Xây dựng giai cấp công nhân bắt đầu từ việc tạo động lực cho giai cấp công nhân
vươn lên đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển lực lượng sản xuất, từng bước
xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN. Song trước hết cần tạo điều kiện để
công nhân có cuộc sống vật chất, tinh thần ổn định, bảo vệ, chăm lo đến lợi ích hợp pháp
của người lao động. Bởi lẽ, có thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, họ mới có điều kiện vươn
lên, phát triển vững mạnh và làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình.
Công đoàn giáo dục cho công nhân, lao động hiểu đúng về lợi ích của mình, thấy
được lợi ích thiết thân của mình là việc làm, thu nhập, cùng nhu cầu ngày càng tăng về
văn hoá, xã hội, đồng thời thấy được động lực sâu xa của sự phát triển của giai cấp công
nhân với tư cách giai cấp tiên phong ở chỗ lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới,
trong đó nhân dân lao động làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh, xoá bỏ áp bức bất
công, mọi người đều được ấm no, tự do, hạnh phúc.
Xây dựng giai cấp công nhân đòi hỏi Công đoàn tích cực tham gia xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, xây dựng nhà nước XHCN, tăng cường khối liên minh công - nông -
trí thức, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; thống nhất ý chí và hành động, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp đổi mới đất nước.
3.1.2. Công đoàn chăm lo lợi ích của người lao động là tạo động lực phát triển
kinh tế - xã hội
Khi cách mạng tháng Tám thành công và nhất là sau khi nước nhà thống nhất, cả
nước cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, nhưng do trình độ và kinh nghiệm quản
lý còn kém, còn tàn dư của xã hội cũ, bệnh quan liêu, hành chính dẫn đến một số người,
một số bộ phận thờ ơ đến quyền lợi của người lao động. Hiện tượng độc đoán, chuyên
quyền, trù dập, ức hiếp quần chúng, tham ô, lãng phí của công … làm ảnh hưởng đến lợi
ích của người lao động. Vì vậy Công đoàn Việt Nam coi trọng công tác chăm lo, bảo vệ
lợi ích cho người lao động, chống lại các hiện tượng tiêu cực. Tuy nhiên việc đấu tranh,
bảo vệ của Công đoàn là dựa vào Hiếp pháp, pháp luật của nhà nước XHCN. Công đoàn bảo
vệ lợi ích của người lao động không phải bằng cách chống lại nhà nước, mà ngược lại càng
làm tăng thêm giá trị của Nhà nước XHCN, nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Thông qua việc bảo vệ lợi ích của người lao động, công đoàn Việt Nam cũng bảo
vệ lợi ích của chính Nhà nước, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đấu tranh chống thói hư
tật xấu của một số người trong bộ máy công quyền bị tha hoá, biến chất cũng là góp phần
làm trong sạch bộ máy nhà nước và xây dựng nhà nước XHCN ngày càng vững mạnh.
Hiện nay, ở nước ta trong điều kiện phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, thì các xí nghiệp tư nhân, liên doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, công nhân lao động làm việc trong sự quản lý của chủ xí nghiệp đã xuất hiện quan hệ
chủ - thợ, tình trạng bóc lột, ức hiếp người lao động đang diễn ra và có xu hướng ngày càng
tăng. vì vậy nhiệm vụ bảo vệ lợi ích cho người lao động của Công đoàn Việt Nam có ý nghĩa
rất quan trọng, Công đoàn Việt Nam coi trọng nhiệm vụ này trong các đơn vị kinh tế ngoài
quốc doanh.
Để bảo vệ lợi ích của người lao động trước hết Công đoàn cùng chính quyền tìm
việc làm và tạo điều kiện làm việc tốt cho người lao động. Công đoàn thể hiện vai trò của
mình trong các lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, quỹ phúc lợi… đại diện cho người
lao động thương lượng, ký kết TƯLĐTT. Tham gia giải quyết các vấn đề về tranh chấp lao
động, về đình công, bãi công theo luật pháp, về khiếu nại tố cáo của người lao động. Qua đó
phát huy tinh thần làm chủ, bình đẳng, công bằng xã hội, phát triển các hoạt động văn hoá,
văn nghệ, du lịch, thể thao, tham quan, nghỉ mát cho người lao động.
Trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động, công đoàn cần nhận thức đầy đủ và
sâu sắc các vấn đề cơ bản như lợi ích của người lao động gắn liền với lợi ích của nhà
nước, của tập thể. Sự tồn tại và vững mạnh của nhà nước XHCN là sự đảm bảo lợi ích cơ
bản, lâu dài cho người lao động. ở đây lợi ích của người lao động không chỉ thuần tuý là
cơm ăn, áo mặc mà cao hơn là lợi ích chính trị, lợi ích kinh tế, lợi ích văn hoá - tinh thần,
lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của cá nhân - tập thể - nhà nước … như là một
sự thống nhất trong chế độ XHCN ở Việt Nam.
Trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động thì Nhà nước là người bảo đảm, Công
đoàn là người bảo vệ lợi ích người lao động. Đây là mối quan hệ khăng khít biện chứng
giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Đồng thời là cơ sở nhận thức về lợi ích người lao động trong
điều kiện mới, thể hiện đúng tính chất giai cấp và tính chất cách mạng của Công đoàn
Việt Nam.
Coi trọng việc bảo vệ lợi ích của người lao động đang được các cấp Công đoàn xác
định là nhiệm vụ trọng tâm. Thông qua nhiệm vụ đó Công đoàn Việt Nam góp phần xây
dựng giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
3.1.3. Công đoàn chăm lo lợi ích của người lao động là góp phần phát triển giá
trị dân chủ trong sự nghiệp đổi mới
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, doanh nghiệp trở thành thực
thể pháp nhân, trở thành người sản xuất hàng hoá và người kinh doanh độc lập tự chủ, tự
chịu lỗ lãi, lợi nhuận trở thành mục đích quan trọng trước hết của doanh nghiệp. Thị
trường là lực đẩy bên ngoài doanh nghiệp, còn tính tích cực của người kinh doanh, người
lao động là nguồn sức sống nội tại doanh nghiệp, hai thứ bổ sung lẫn nhau, không thể
thiếu một trong hai thứ đó. Thoát ly khỏi tính tích cực, sức sáng tạo của người lao động,
rời khỏi quan hệ hợp tác hài hoà giữa người lao động và người kinh doanh, chế độ doanh
nghiệp hiện đại sẽ trở thành sông không có nguồn, cây không có gốc. Do đó, ở doanh
nghiệp hiện đại, đồng thời với việc xây dựng chế độ quản lý nghiêm khắc, khoa học cũng
cần phải xây dựng bên trong doanh nghiệp quan hệ lao động hài hoà ổn định, khiến cho
doanh nghiệp thực sự trở thành khối lợi ích chung của người sở hữu, người kinh doanh,
người lao động. Phải thực hiện bằng được điểm này, người lao động tham gia quản lý tức
là người lao động dân chủ tham gia quản lý. Có thể nói, coi trọng địa vị và tác dụng của
người lao động là dấu hiệu quan trọng của quản lý doanh nghiệp hiện đại.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, người lao động doanh nghiệp có lợi ích tự chủ và
ý thức tự chủ, đó là nguồn động lực thúc đẩy người lao động tham gia quản lý. Nội bộ xí
nghiệp chia thành hai chủ thể lợi ích rõ ràng, tức là chủ thể pháp nhân xí nghiệp (người
sở hữu tư bản, người quản lý kinh doanh chủ yếu là đại diện) và chủ thể người lao động,
sự xác lập chủ thể người lao động tức là xác lập quan hệ lao động, lấy lợi ích kinh tế làm
đòn bẩy. Lợi ích hợp pháp của người lao động như tiền lương, phúc lợi, bảo hiểm, đều
thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp (không giống trước kia phải qua Nhà nước mới thực
hiện được). Như vậy, bị nguyên tắc lợi ích kinh tế chi phối, người lao động không chỉ
quan tâm đến lợi ích kinh tế của mình mà họ còn quan tâm đến kế hoạch doanh nghiệp,
kinh doanh doanh nghiệp có liên quan đến thu lợi nhuận, quan tâm đến việc tham gia
quản lý của mình nữa. Chỉ cần người lao động thu được lợi ích kinh tế ở đơn vị sử dụng
lao động, thì sẽ luôn luôn nảy sinh nguyện vọng và hành vi tham gia quản lý.
Ngoài ra việc xây dựng kinh tế thị trường XHCN, phải lấy một số nguyên tắc cơ bản
để vận hành, như: nguyên tắc bình đẳng, tự do, công bằng sẽ đi sâu vào lòng người. Khi
quảng đại quần chúng được hưởng quyền tự do bình đẳng nhất định, họ sẽ không cam
chịu kiểu quản lý đơn thuần từ trên xuống dưới, mà đòi hỏi phải là một chủ thể, có thể
biểu đạt ý chí độc lập của mình và nảy sinh ảnh hưởng đối với người khác, nảy sinh yêu
cầu tham gia ý kiến, tham gia quản lý hay những gì có liên quan đến lợi ích của mình.
Cùng với sự phát triển không ngừng của cuộc cải cách doanh nghiệp, nhiều doanh
nghiệp cổ phần, ngày càng nhiều người lao động doanh nghiệp sẽ có quyền sở hữu tài sản
(vốn) ở doanh nghiệp mình hoặc xí nghiệp khác. Nếu nói rằng, vai trò làm chủ tài sản
doanh nghiệp quốc doanh của người lao động mờ nhạt vì phần chiếm hữu quá nhỏ bé, thì
khi người lao động có quyền tài sản doanh nghiệp của mình, địa vị làm chủ của họ sẽ
càng sáng sủa. Cùng với việc phổ cập cho người lao động nắm cổ phần, người lao động
sẽ càng quan tâm đến sản xuất kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp, từ đó khiến
cho việc người lao động phát huy quyền dân chủ tham gia quản lý càng có cơ sở thực tế
phong phú.
Công đoàn là tổ chức của quần chúng công nhân viên chức, tranh thủ và giữ gìn lợi
ích hợp pháp của người lao động là mục tiêu trước sau như một của công đoàn. Mục tiêu
này thống nhất với mục tiêu người lao động phát huy quyền dân chủ tham gia quản lý.
Ngoài ra trong doanh nghiệp, tổ chức công đoàn có đủ tư cách pháp nhân, thuộc về pháp
nhân tập thể. Về pháp luật bình đẳng với địa vị pháp nhân doanh nghiệp. Đặc tính này
của tổ chức Công đoàn đã quyết định nó có tư cách đại diện cho tổ chức quần chúng
người lao động tham gia quản lý.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của Công đoàn đại diện và bảo vệ lợi ích
người lao động càng ngày càng quan trọng. Đương nhiên, tổ chức Công đoàn ở các cấp
khác nhau thì biện pháp đại diện và bảo vệ lợi ích người lao động không hoàn toàn giống
nhau. Tổ chức Công đoàn toàn quốc, ở các tỉnh, thành phố, phương thức và biện pháp
chủ yếu là tham gia lập pháp Nhà nước hoặc địa phương. Khi các cấp chính quyền đặt ra
phương án cải cách quan trọng có liên quan tới lợi ích thiết thân của người lao động, như
tiền lương, bảo hiểm xã hội, thì tổ chức Công đoàn ở đó phản ánh ý kiến và yêu cầu của
đông đảo quần chúng lao động, khiến cho việc cải cách suy xét đầy đủ tới sức chịu đựng
của người lao động, bảo đảm nhu cầu cơ bản đời sống của họ, được sự giúp đỡ của đại đa
số người lao động. Đó chính là công tác bảo vệ từ “đầu nguồn”. Làm tốt công tác này, sẽ
có lợi cho toàn thể người lao động. Tổ chức Công đoàn cơ sở do trực tiếp đối diện với
đoàn viên, với quần chúng người lao động, công tác của Công đoàn trực tiếp liên quan tới
lợi ích thiết thân của người lao động, nên phương thức công tác, biện pháp và nội dung
hoạt động của công đoàn ở đó cần phải có tính trực tiếp và thực tế. Thực tiễn đã chứng
minh, làm tốt công tác người lao động dân chủ tham gia quản lý là bảo vệ lợi ích lớn nhất
của người lao động, cũng là làm tốt công tác công để mặt trận, các đoàn thể, các tầng lớp
nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị”. Mục đích của
thực hiện dân chủ trong cơ sở là:
Tạo điều kiện để người lao động được biết, được tham gia ý kiến, được quyền quyết
định và giám sát những vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích của người lao động.
Nâng cao trách nhiệm của người quản lý công ty đối với người lao động, tạo điều
kiện để các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội của công ty hoạt động theo quy định của
pháp luật về việc thực hiện dân chủ cho người lao động.
Thiết lập mối quan hệ trong lao động hài hoà, ổn định, góp phần ngăn ngừa và hạn
chế tranh chấp lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ tầm quan trọng của quyền làm chủ của quần chúng lao động tại đơn vị
cơ sở, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “Thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở để mặt trận, các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền và hệ thống chính trị”.
Mục đích của thực hiện dân chủ trong cơ sở là:
Tạo điều kiện để người lao động được biết, được tham gia ý kiến, được quyết định
và giám sát những vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của
người lao động.
Nâng cao trách nhiệm của người quản lý công ty đối với người lao động, tạo điều
kiện để các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội của công ty hoạt động theo quy định của
pháp luật việc thực hiện dân chủ cho người lao động.
Thiêt lập mối quan hệ trong lao động hài hoà, ổn định, góp phần ngăn ngừa và hạn
chế tranh chấp lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Muốn cho người lao động phát huy đầy đủ quyền dân chủ tham gia quản lý, đồng
thời với việc giữ vững và hoàn thiện chế độ Đại hội công nhân viên chức lao động, doanh
nghiệp cần phải tích cực tìm tòi và sáng tạo một số hình thức dân chủ quản lý mới bổ
sung cho chế độ Đại hội công nhân viên chức lao động. Hiện nay, các doanh nghiệp dùng
một số hình thức khác như:
Một là, thống nhất và nâng cao chất lượng kiến nghị đối với chính quyền và Nhà
nước.
Hai là, dân chủ đối thoại. Dân chủ đối thoại tức là người lao động doanh nghiệp trao
đổi bàn bạc trực tiếp với người lãnh đạo chính quyền doanh nghiệp về những vấn đề
mình quan tâm, người lãnh đạo chính quyền trả lời tại chỗ những vấn đề người lao động
đưa ra. Nó không giống chế độ thương lượng tập thể, cũng không giống chế độ thương
lượng định kỳ giữa Công đoàn và chính quyền, nó là hình thức hội nghị toạ đàm với số
người không cố định, bản thân nó có đặc điểm bình đẳng, trực tiếp và linh hoạt. Dân chủ
và đối thoại nói chung do Công đoàn phụ trách tổ chức.
Ba là, người lao động nắm cổ phần. Hình thức người lao động nắm cổ phần thích
hợp với các doanh nghiệp cổ phần hoá. Trong những doanh nghiệp này, người lao động
mua cổ phiếu của công ty lại tăng thêm một tầng quan hệ quyền tài sản. Họ là cổ đông có
quyền tham gia đại hội cổ đông, tham gia quản lý quyền tài sản. Do đó, cần phải tổ chức
người lao động có cổ phần doanh nghiệp lại, xây dựng hội công nhân viên chức lao động
nắm cổ phần do Công đoàn chủ trì. Công tác chủ yếu của hội công nhân viên chức lao
động nắm cổ phần là: theo quy định pháp luật của nhà nước và Điều lệ công ty, cử đại
biểu tham gia hội nghị cổ đông, tập trung ý kiến và yêu cầu của người lao động nắm cổ
phần lại biểu đạt đầy đủ trong hội nghị cổ đông. Tổ chức hội công nhân viên chức lao động
nắm cổ phần, có lợi cho việc bảo vệ lợi ích chung của người lao động vào sự phát triển
chung của doanh nghiệp, có lợi cho việc phát huy đầy đủ vai trò của Công đoàn, bảo vệ lợi
ích của người lao động.
3.1.4. Công đoàn dựa vào luật pháp để bảo vệ lợi ích của người lao động
Trong nền kinh tế thị trường, tồn tại nhiều thành phần kinh tế với quan hệ ba bên:
Chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động, Công Đoàn là người đại diện cho
người lao động tham gia với Nhà nước, Chính quyền các cấp xây dựng các văn bản pháp
luật, chế độ, chính sách có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là tiền đề về mặt tổ chức và tư tưởng cho
hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Tổ chức Công Đoàn cũng như các tổ chức
chính trị, xã hội khác lấy chủ trương, chính sách của Đảng là định hướng cho mọi hoạt
động của mình. Bởi vậy, xuất phát từ những tiền đề khách quan, từ vị trí, vai trò, chức
năng của tổ chức Công Đoàn, hệ thống chính trị xã hội Việt Nam, Nhà nước Việt Nam
thừa nhận và bảo đảm quyền tham gia mọi hoạt động của Công Đoàn thông qua hệ thống
pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật lao động, Luật Công Đoàn cùng một số luật khác.
Điều 10 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam xác định: “Công Đoàn là tổ chức
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, cùng với cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ CNVC và
những người lao động khác tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân,
viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong Bộ luật lao động Việt Nam năm 2002, tại điều 7 khoản 2 đã quy định:
“Những người lao động có quyền thành lập, gia nhập hoạt động Công Đoàn để được bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, được hưởng phúc lợi tập thể, tham gia quản lý
doanh nghiệp theo nội quy của doanh nghiệp và theo quy định của pháp luật”. Tại Điều 12
Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002 có nêu: “Công Đoàn tham gia với
cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của người lao
động; tham gia kiểm tra giám sát việc thi hành các quy định pháp luật lao động”.
Tại Điều 5 Luật Công Đoàn Việt Nam năm 1990 có nêu: “Công Đoàn tham gia với
cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ về lao động, tiền lương, BHLĐ
và các chính sách xã hội khác liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ lợi ích của người
lao động”.
Trong Luật Công Đoàn Việt Nam năm 2002 tại Điều 2 quy định: “Công Đoàn đại
diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, được hưởng phúc lợi tập thể, tham gia
quản lý doanh nghiệp theo nội quy của doanh nghiệp và theo quy định của pháp luật”.
Tại Điều 41, 42 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 có quy định rõ về quyền
của tập thể lao động trong doanh nghiệp nhà nước.
Ngoài ra, trong một số văn bản pháp luật, các quy định, quyết định của Nhà nước
cũng nêu rõ quyền tham gia xây dựng chế độ, chính sách của tổ chức Công Đoàn và
CNVCLĐ. Trong Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy chế thực
hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, Nghị định số 07/1999/NĐ-CP về thực hiện
Quy chế dân chủ trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đều quy định rõ quyền hạn,
trách nhiệm của Công Đoàn, của CNVC - LĐ. Đây là cơ sở pháp lý để Công đoàn thực
hiện tốt chức năng của mình.
Công đoàn tham gia xây dựng và có quyền trình dự án luật, pháp lệnh ra trước Quốc
hội, Hội đồng nhà nước trong phạm vi các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa
vụ, lợi ích của người lao động. Tham gia với cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật, chính
sách, chế độ về lao động, tiền lương, BHLĐ và chính sách xã hội khác liên quan trực tiếp
đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động. Phối hợp với các Bộ chức năng thuộc
chính phủ soạn thảo các dự án kinh tế xã hội, pháp luật, chính sách về lao động, việc làm,
phân phối thu nhập, chính sách lao động nữ, nhà ở, giáo dục, đào tạo v..v
Tham gia định hướng, chỉ đạo triển khai thực hiện các chương trình quốc gia giải
quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gia đình, kế hoạch dân số, phòng
chống tệ nạn xã hội, phòng chống HIV/AIDS
3.1.5. Nâng cao chất lượng bảo vệ lợi ích người lao động của công đoàn là trách
nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhân tố quyết định vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn là mối quan hệ của nó trong
hệ thống chính trị XHCN. Trong hệ thống chính trị đó Công đoàn chiếm vị trí quan trọng.
Công đoàn đứng giữa Đảng và Nhà nước, có mối liên hệ chặt chẽ với Đảng và Nhà nước;
Công đoàn là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng. Thông qua tổ chức Công đoàn, Đảng
nắm được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để hoạch định đường lối phát triển kinh
tế - xã hội đúng đắn. Đảng lãnh đạo Công đoàn bằng chính trị, tư tưởng, tổ chức, đây là
điều kiện thiết yếu đảm bảo cho Công đoàn hoạt động đúng hướng. Công đoàn tập hợp
quần chúng, giáo dục nâng cao giác ngộ cho quần chúng, động viên công nhân, viên
chức, lao động, tham gia xây dựng Nhà nước, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (chương I - điều 10) quy định Công đoàn là “tổ chức chính trị
- xã hội của giai cấp công nhân và người lao động. Cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội chăm lo, bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và những
người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân viên chức và những người
lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Luật Công đoàn đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua (tại kỳ họp thứ 7 khoá VIII ngày 30/6/1990) khẳng định: “Công đoàn là tổ chức
chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam tự
nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ
thống chính trị của xã hội Việt Nam, là trường học CNXH của người lao động”.
Vai trò của Công đoàn còn được tiếp tục nâng cao theo xu hướng phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong cơ chế thị trường, Công đoàn là yếu tố cơ
bản không thể thiếu trong quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ lao động - xã hội. Bởi nếu
không có sự tồn tại và phát huy tác dụng của Công đoàn thì không thể có sự vận hành của
kinh tế thị trường. Không có sự tham gia của Công đoàn, quan hệ lao động sẽ mất thăng
bằng, lệch lạc…
Vị trí của Công đoàn trong những năm tới còn được nâng cao hơn bởi vì: Công đoàn
có khả năng tham gia giải quyết tranh chấp lao động. Trong trường hợp này, Công đoàn
không chỉ đại diện cho mỗi bên - người lao động, mà còn là tổ chức trực tiếp tham gia
giải quyết những tranh chấp khi lợi ích giữa lao động và giới chủ nảy sinh. Vai trò của
Công đoàn trong lĩnh vực này ngày càng nổi bật, vị trí, vai trò Công đoàn ngày một nâng
cao.
Tuy nhiên, xu thế nâng cao vị trí, vai trò Công đoàn là một quá trình lâu dài. Con
đường ngoạn mục hay gập ghềnh, trắc trở còn tuỳ thuộc vào hiệu quả chung của cuộc đổi
mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ XHCN và năng lực nội sinh của tổ chức Công
đoàn trong sự vận động của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
3.2. Những Giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của công đoàn trong việc bảo
vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay
3.2.1. Thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của công đoàn trong hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nói về vai trò của Công đoàn, trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong
trào cộng sản” Lênin chỉ rõ: “Giai cấp vô sản bất cứ nơi nào trên thế giới cũng chỉ phát
triển và phát triển bằng con đường Công đoàn, bằng sự tác động qua lại giữa Công đoàn
và Đảng của giai cấp công nhân chứ không thể bằng con đường nào khác”. Trong quá
trình xây dựng CNXH, Lênin còn khẳng định: Đảng dựa vào bộ máy nhà nước chuyên
chính vô sản và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có công đoàn. Xét tổng quát, bộ
máy tổ chức này theo cách nói của Lênin: tạo thành “hệ thống bánh xe răng cưa”, “sợi
dây chuyền” nối liền đội tiền phong với quần chúng của giai cấp công nhân và nối liền
giai cấp ấy với quần chúng lao động. Đánh giá vai trò công đoàn trong CNXH, Lênin còn
khẳng định:
Nếu không có sự liên hệ chặt chẽ với công đoàn, không được công đoàn
nhiệt liệt ủng hộ, không có công tác đầy hy sinh, tận tuỵ của công đoàn không
những trong công cuộc kiến thiết kinh tế mà cả trong công cuộc tổ chức quân
sự thì dĩ nhiên thì chúng ta không thể quản lý được nhà nước và thực hiện được
chuyên chính, tôi không nói trong hai năm rưỡi mà ngay cả trong hai tháng
rưỡi cũng không được [14, tr.230].
Vai trò to lớn của công đoàn Việt Nam đã được thực tế cách mạng Việt Nam chứng
minh, được Đảng ta khẳng định và được hiến pháp nước cộng hoà XHCN Việt Nam thừa
nhận. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vị trí, vai trò của công đoàn, tạo điều
kiện cho công đoàn phát huy tính tích cực của mình. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
dành thời gian gặp gỡ, dặn dò các đồng chí lãnh đạo Tổng công đoàn (nay là Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam) phát huy vai trò của mình hơn nữa, để chăm lo đến đời sống công nhân
lao động, nêu cao vai trò tiên tiến của giai cấp công nhân trong công cuộc xây dựng CNXH
ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tổ chức công đoàn Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đang không ngừng đổi
mới nội dung và phương pháp hoạt động trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng giai cấp
công nhân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo động lực cho sự phát triển đất nước.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều cán bộ, Đảng viên, cán bộ quản lý xem nhẹ vai trò của
Công đoàn, không tạo điều kiện cho công đoàn hoạt động, thậm chí cản trở các hoạt động
công đoàn vì sợ rằng nếu công đoàn phát huy vai trò đối với quần chúng sẽ làm ảnh
hưởng uy tín và quyền lực của mình. Lại cũng có những cán bộ công đoàn tự ti, mặc cảm,
không tự chủ trong công việc, lệ thuộc vào chủ doanh nghiệp hay chính quyền nhà nước.
Thực trạng đó đòi hỏi phải có sự thống nhất nhận thức về vai trò của công đoàn trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay không những trên lĩnh vực lý luận mà còn trong thực tiễn.
Ngay từ khi mới ra đời, Công đoàn Việt Nam đã xác định rõ vị trí, vai trò của mình
đó là:
+ Vị trí của Công đoàn Việt Nam trong hệ thống chính trị.
Điều 1 Luật Công đoàn Việt Nam: Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn
của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam, tự nguyện lập ra dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt
Nam; là trường học CNXH của người lao động.
Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, là trung tâm tập hợp,
đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng giai cấp công nhân, đội ngũ công nhân, viên
chức, lao động; là chỗ dựa vững chắc của Đảng; là sợi dây chuyền nối liền giữa Đảng với
công nhân, viên chức, lao động; là người cộng tác đắc lực của Nhà nước; là nguồn cung
cấp cán bộ cho Đảng và Nhà nước; Công đoàn thu hút cả những người tiên tiến, chậm
tiến vào tổ chức, để tổ chức giáo dục và giác ngộ.
Trong mối quan hệ với Đảng: Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng, là chỗ dựa
vững chắc của Đảng. Đảng lãnh đạo Công đoàn bằng đường lối, nghị quyết, phương
hướng và thông qua các Đảng viên của Đảng; đồng thời Đảng tôn trọng tính độc lập
tương đối về mặt tổ chức của Công đoàn. Công đoàn là người tuyên truyền, phổ biến
đường lối, nghị quyết của Đảng đến công nhân viên chức lao động. Có trách nhiệm vận
động công nhân viên chức lao động thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng.
Trong quan hệ với Nhà nước: Công đoàn là người cộng tác đắc lực của Nhà nước.
Công đoàn với Nhà nước là quan hệ thống nhất, cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau. Nhà nước
không can thiệp công việc nội bộ của tổ chức Công đoàn, luôn tạo điều kiện vật chất và
ban hành các văn bản pháp quy đảm bảo về mặt pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn góp phần tham gia xây dựng Nhà nước, Công đoàn và
Nhà nước có cùng mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong quan hệ với các tổ chức chính trị - xã hội khác: Công đoàn là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng với các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp
khác hợp tác, đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng phối hợp thực hiện nhiệm vụ
chung dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong quan hệ với giới chủ: là mối quan hệ giữa đại diện của người lao động với
người sử dụng lao động, hai bên bình đẳng và tôn trọng nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh
nhằm giải quyết hài hoà quyền lợi ích của mỗi bên trong quan hệ lao động. Mục đích, nội
dung hoạt động trong mối quan hệ giữa Công đoàn với người sử dụng lao động là nhằm
làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người lao động.
+ Vai trò của Công đoàn Việt Nam.
Vai trò của Công đoàn Việt Nam là sự tác động của tổ chức Công đoàn đến các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hoá tư tưởng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Ngày
nay trong nền kinh tế thị trường Công đoàn có vai trò:
Trong lĩnh vực kinh tế, Công đoàn vận động công nhân viên chức lao động tham gia
tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; hoàn thiện cơ cấu và các chính sách
kinh tế. Vận động công nhân viên chức, lao động nâng cao năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh, giữ vững thương hiệu sản phẩm trên thị
trường; tham gia thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả và phát
triển bền vững của nền kinh tế - xã hội.
Trong lĩnh vực chính trị, công đoàn góp phần xây dựng và nâng cao năng lực của hệ
thống chính trị XHCN, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, xây dựng Nhà nước thật sự là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân, góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị.
Trong lĩnh vực xã hội, Công đoàn tích cực xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh,
không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ học vấn, tay nghề,
khoa học công nghệ, trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; góp
phần củng cố khối liên minh công - nông - trí trở thành nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân
và là cơ sở xã hội vững chắc, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh
của Nhà nước.
Trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng, Công đoàn giáo dục công nhân, lao động nâng cao
lập trường giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Phát huy những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, giai cấp công nhân, và tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, giáo dục lối
sống mới, phòng chống các tệ nạn xã hội, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, học
vấn, tham gia chăm lo nhà ở cho công nhân, lao động.
Trong cơ chế thị trường, do cạnh tranh về kinh tế, người sử dụng lao động dù vô
tình hay cố tình, còn vi phạm lợi ích chính đáng của người lao động. Công đoàn với tư
cách là người đại diện của người lao động có trách nhiệm tham gia xây dựng quan hệ lao
động tiến bộ, ổn định, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động. Khi quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động được bảo vệ, người lao động sẽ tự nguyện, nhiệt tình, hăng hái
hoạt động công đoàn, làm cho vai trò của Công đoàn ngày càng có ảnh hưởng tích cực
hơn đối với doanh nghiệp nói riêng và trong đời sống xã hội nói chung.
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung luật công đoàn và luật lao động trong đó có những vấn
đề về quyền của công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động
Công đoàn chủ động tham gia xây dựng và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến người lao động. Trước mắt là chính sách về nhà ở,
đặc biệt là nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp và công nhân viên chức, lao động
có thu nhập thấp; chính sách đảm bảo việc làm, tiền lương, thu nhập, BHXH, BHYT, xây
dựng nhà trẻ, mẫu giáo và các thiết chế văn hoá phục vụ công nhân, lao động. Nghiên
cứu kiến nghị và tham gia sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật bảo
hiểm xã hội; quy định pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ trong các DNNQD; chính
sách pháp luật về BHLĐ, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường; chính
sách đối với lao động nữ; chính sách đào tạo, đào tạo lại nghề cho công nhân; chính sách
khuyến khích công nhân tự học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, chuyên môn
nghiệp vụ, ngoại ngữ; chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với công nhân có sáng kiến, có tay
nghề cao.
3.2.3. Đổi mới phương pháp hoạt động của Công đoàn
Đổi mới phương thức hoạt động của Công đoàn được thể hiện ở hình thức,
phương pháp hoạt động, lề lối làm việc, mô hình tổ chức và bố trí cán bộ theo hướng
chuyển từ lối chỉ đạo theo kiểu hành chính sang lối hoạt động sát cơ sở, sát quần
chúng, coi trọng điều tra, khảo sát tìm hiểu tâm lý, nguyện vọng của từng đoàn viên,
gắn với quần chúng, với thực tế ở cơ sở, lấy hiệu quả phục vụ quần chúng làm mục
tiêu phấn đấu; lấy việc phục vụ đoàn viên và tổ chức cơ sở làm điểm xuất phát cho
mọi chủ trương, chương trình công tác.
Thứ nhất, về mô hình tổ chức bộ máy: việc thay đổi mô hình tổ chức bộ máy theo
hướng giao quyền tự chủ cho Công đoàn cơ sở, coi trọng lợi ích đoàn viên, đa dạng hoá
mô hình Công đoàn cơ sở và các hình thức tập hợp quần chúng giảm nhẹ cấp trên, giảm
nhẹ bộ máy là điều kiện cơ bản để thực hiện phương thức sát cơ sở, sát đoàn viên.
Về phương thức hoạt động Công đoàn cần chống quan liêu, mệnh lệnh, hành chính
bằng cách xác định rõ:
Mọi nhiệm vụ của Công đoàn phải xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của đông
đảo người lao động.
Công đoàn cấp trên chỉ là cấp đại diện, giúp đỡ, hướng dẫn cho cấp dưới, chủ yếu là
theo nhu cầu nguyện vọng của cấp dưới.
Mỗi cấp làm việc theo chương trình mục tiêu, đúng chức trách bớt hội họp không
cần thiết, khi triển khai kế hoạch hoạt động có thể thông qua hệ thống thông tin nội bộ.
Tăng cường mối quan hệ thông tin nhiều chiều.
Các kỳ họp của Ban Chấp hành Công đoàn các cấp nên giành thời gian đi sâu thảo
luận ra các chuyên đề cụ thể liên quan đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn.
Tăng cường động viên các hoạt động của cộng tác viên, mạng lưới quần chúng của
Công đoàn.
Từng bước sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại trong các tổ chức Công đoàn
các cấp.
Thứ hai, về lề lối làm việc của cán bộ Công đoàn các cấp.
Cán bộ lãnh đạo do bầu kể cả chuyên trách và bán chuyên trách cần tăng cường tiếp
xúc, đối thoại với quần chúng lao động để nắm bắt được nguyện vọng của quần chúng.
Có chủ trương đúng đắn, có phương pháp công tác khoa học để điều hành bộ máy (chọn
mục tiêu chương trình, cách thức hội họp, bố trí thời gian làm việc hợp lý …).
Đội ngũ chuyên gia trong các cơ quan Công đoàn phải có phương pháp công tác
khoa học để thực hiện nhiệm vụ chuyên sâu của mình.
Thực hiện xã hội hoá nội dung hoạt động và đa dạng hoá hình thức tổ chức vận
động quần chúng. Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống công cụ tác động đến đông
đảo quần chúng (câu lạc bộ, nhà văn hoá, các trung tâm và hoá chính trị, các nhóm hội
chuyên đề, các tuyên truyền viên, báo cáo viên, cộng tác viên …) nâng cao chất lượng
của hệ thống báo chí, xuất bản thông tin đại chúng của Công đoàn. Căn bản nhất là đổi
mới tổ chức và hoạt động ở tổ, ca kíp, buồng máy, khu dân cư và gia đình.
Tạo dựng cho được phong trào hoạt động tích cực, tự nguyện của quần chúng từ
việc tìm tòi xác định các mục tiêu nội dung vừa đáp ứng yêu cầu của quần chúng vừa
thống nhất với mục tiêu các chương trình dự án của Nhà nước, bồi dưỡng và nhận những
điển hình tiên tiến, nhân tố mới. Kết hợp tác động vào các tập thể với việc tác động đến
từng gia đình, từng nhóm và từng người.
Phát triển các trung tâm nghiên cứu khoa học, tổ chức điều tra khảo sát thăm dò
nắm bắt được thực trạng tâm lý, nguyện vọng, dư luận quần chúng một cách khách quan
làm cơ sở cho việc xây dựng nội dung biện pháp vận động quần chúng và đề xuất với
Nhà nước điều chỉnh bổ sung chế độ, chính sách cần thiết.
Giảm bớt các cuộc họp dài ngày, giảm dần việc ra các Nghị quyết chung chung
không rõ việc, không rõ trách nhiệm và không có khả năng thực hiện. Mở rộng việc tổ
chức chỉ đạo hoạt động theo các chương trình dự án với những mục tiêu yêu cầu và các
giải pháp cụ thể.
Một vấn đề hết sức quan trọng hiện nay là phải tăng cường tính pháp lý trong hoạt
động công đoàn vì sự hình thành và hoàn thiện dần thể chế kinh tế thị trường yêu cầu
hoạt động công đoàn cần phải thực hiện pháp chế hóa.
Bảo vệ lợi ích người lao động đòi hỏi thực hiện pháp chế hoá Công đoàn. Trong
điều kiện thể chế kinh tế thị trường Việt Nam, quan hệ lao động do Nhà nước quản lý
từng bước biến thành hành vi doanh nghiệp và phát triển theo phương hướng thị trường
hoá, thoả ước hoá. Quan hệ lợi ích ba bên: Nhà nước, doanh nghiệp và công nhân, viên
chức, lao động dần dần rõ ràng, vai trò và địa vị Công đoàn đại diện bảo vệ lợi ích công
nhân lao động càng nổi bật. Công đoàn phải dựa vào luật, sử dụng biện pháp pháp luật,
dựa vào pháp luật, pháp quy để bảo vệ lợi ích hợp pháp của công nhân lao động. .
Căn cứ của việc pháp chế hoá hoạt động công đoàn dựa trên hệ thống pháp luật.
Trong đó bao gồm: Hiến pháp, Luật Công đoàn, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp và
những quyết định pháp luật hành chính, quy định pháp luật mang tính địa phương.
Đi sâu quán triệt Bộ Luật Lao động, kiên trì bảo vệ theo luật, trước tiên cần phải xây
dựng chế độ bình đẳng thương lượng và thoả ước tập thể, đây là quyền lợi và chức trách
quan trọng mà Bộ luật Lao động dành cho Công đoàn; là cơ chế có hiệu lực bảo vệ lợi ích
hợp pháp của người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hoà ổn định. Bên cạnh đó, cần
phải theo luật bảo vệ quyền lợi về việc làm, quyền hưởng công lao động và quyền bảo hiểm
xã hội cho người lao động. Công đoàn chỉ đạo và giúp đỡ người lao động ký kết TƯLĐTT
với doanh nghiệp, dựa vào luật quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên, đồng thời phải
tăng cường kiểm tra đôn đốc tình hình thực hiện thoả ước lao động.
Chú trọng kiểm tra đôn đốc chấp hành pháp luật:
Trước hết cần phải tăng cường xây dựng tổ chức giám sát. Phải kiện toàn xây dựng
tổ chức giám sát ở các doanh nghiệp, hình thành màng lưới công tác giám sát từ trên xuống
dưới, bảo đảm tổ chức giám sát pháp luật của Công đoàn.
Hai là, cần phải từng bước xây dựng kiện toàn các quy tắc, chế độ để đẩy mạnh việc
giám sát pháp luật của Công đoàn. Xây dựng quy tắc, chế độ phải căn cứ vào tình hình thực tế,
quy định cụ thể thiết thực những vấn đề mấu chốt như: Nguyên tắc giám sát kiểm tra, cơ cấu tổ
chức, điều kiện quyền lợi và nghĩa vụ giám sát viên. Nội dung, hình thức giám sát kiểm tra và
yêu cầu có liên quan.
3.2.4. Nâng cao vai trò của công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
Sự chuyển biến của kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi phải nâng cao chất
lượng của công đoàn cơ sở. Bởi vì công đoàn cơ sở là nền tảng của tổ chức công đoàn, nơi
trực tiếp thực hiện các chức năng của Công đoàn, nơi mà đường lối của Đảng, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của Công đoàn cấp trên được thực hiện
ngay tại cơ sở, là nơi trực tiếp làm công tác phát triển đoàn viên, góp phần xây dựng đội ngũ
giai cấp công nhân lớn mạnh. Cần nâng cao vai trò hoạt động Công đoàn trong các DNNQD.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có một phạm vi khá rộng, phát triển ngày càng nhiều
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Hiện nay ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tổ chức Công đoàn còn phát triển
chậm do nhiều nguyên nhân, như giới chủ gây trở ngại, trình độ công nhân, lao động ở
đây chưa nhận thức được tầm quan trọng của tổ chức Công đoàn và cũng do chính tổ
chức Công đoàn chưa có những biện pháp thật mạnh mẽ, tích cực để bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người lao động. Có DNNQD đã có tổ chức Công đoàn nhưng còn là hình thức,
cán bộ công đoàn còn lúng túng về nội dung, phương pháp hoạt động chưa thu hút được
nhiều công nhân, lao động vào tổ chức Công đoàn. Cho nên Công đoàn trong các
DNNQD cần nâng cao vai trò hoạt động của mình nhằm thực hiện tốt các chức năng
công đoàn, chú trọng vào các nội dung, biện pháp bảo vệ lợi ích của người lao động;
tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến
tận người lao động; vận động công nhân, lao động tích cực thi đua lao động sản xuất,
nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Phương
pháp hoạt động công đoàn trong các DNNQD rất phong phú, đa dạng như phương pháp
thuyết phục, đối thoại, thương lượng, vừa hợp tác vừa đấu tranh. Giữ vững bản chất giai
cấp công nhân của tổ chức Công đoàn Việt Nam, kiên trì bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
cho người lao động, giữ vững mối quan hệ hài hoà với chủ doanh nghiệp, người sử dụng
lao động có ý nghĩa quyết định hiệu quả hoạt động công đoàn trong các DNNQD.
3.2.5. Công đoàn tích cực triển khai thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở
Công đoàn phối hợp với chuyên môn thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, muốn
phát huy hiệu quả trong doanh nghiệp thì phải có sự lãnh đạo chỉ đạo chặt chẽ thường
xuyên từ các cấp công đoàn, các cấp uỷ Đảng phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, phải đặt
việc phát huy quyền dân chủ cho cán bộ, công nhân viên chức lao động trong cơ chế
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Mặt khác phải xác định rõ quyền
và trách nhiệm lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, trách nhiệm của các thành viên khác trong ban
chỉ đạo.
Tổ chức tốt công tác tuyên truyền giáo dục nhằm quán triệt sâu rộng đến toàn thể
cán bộ, công nhân lao động trong doanh nghiệp với ý nghĩa, mục đích yêu cầu những nội
dung cơ bản của quy chế, quyền hạn, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao
động và phương pháp triển khai thực hiện quyền dân chủ cơ sở. Cùng với việc tuyên
truyền triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thì việc tuyên truyền phổ biến pháp
luật, làm cho người lao động nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình. Công
đoàn cơ sở và người sử dụng lao động chỉ đạo sâu sát các công đoàn bộ phận trong việc
nâng cao chất lượng nội dung của các hoạt động dân chủ cho người lao động.
Công đoàn triển khai việc kiện toàn Ban thanh tra nhân dân ở các đơn vị, theo quy
định của pháp luật là nhiệm vụ cơ bản của các cấp công đoàn trong thời gian tới để Ban
thanh tra nhân dân thực sự là một trong những công cụ của công đoàn cơ sở trong việc
đại diện người lao động kiểm tra, giám sát, thực hiện quyền dân chủ cho người lao động,
triển khai mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn về các lĩnh vực liên quan
tới quyền và lợi ích của người lao động.
Tiếp tục phát huy mạnh mẽ phong trào hoạt động cán bộ công nhân viên chức lao
động ở cơ sở, nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, góp phần nâng cao hiệu quả
trong công tác, sản xuất kinh doanh cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người lao
động.
Thực hiện quyền dân chủ cơ sở nhằm mang lại lợi ích cụ thể, thiết thực đó là phát
huy trí tuệ tập thể, tháo gỡ khó khăn trong công tác hoạt động của Công đoàn, cũng như
trong sản xuất kinh doanh nhằm làm nâng cao hiệu quả công việc, giải quyết những vấn
đề mà người lao động đang thực sự quan tâm như: việc làm, đời sống, dân chủ, công
bằng, như vậy mới tạo được động lực cho việc thực hiện quyền dân chủ cơ sở.
Công đoàn thường xuyên tổ chức chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị bộ phận của
mình, kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm hay để nhân rộng ra các đơn vị thực hiện tốt quy
chế dân chủ cơ sở, phê bình xử lý nghiêm những người sai phạm, nắm tâm tư nguyện
vọng của quần chúng, phải chú ý nghe thông tin nhiều chiều và phân tích xử lý khách
quan các thông tin, phê phán và khắc phục thái độ chủ quan, duy ý chí, phiến diện dân
chủ hình thức.
Trong thời gian tới công đoàn cần phải tiếp tục phối hợp với ban lãnh đạo với các
phòng ban chức năng tham gia thảo luận xây dựng sửa đổi bổ sung những chính sách cho
phù hợp với tình hình hiện nay trong việc xây dựng phối hợp thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở.
3.2.6. Nâng cao trình độ và bản lĩnh cán bộ công đoàn
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cũng như
công cuộc cách mạng khoa học ngày càng phát triển, lực lượng sản xuất tăng nhanh thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các thành phần kinh tế, tính tất yếu khách
quan là hoạt động công đoàn ngày càng đổi mới. Trước hết phải đổi mới phương pháp tư
duy nhằm nâng cao nhận thức, trong mỗi cán bộ Công đoàn để đáp ứng được nhu cầu của
tổ chức, các cấp công đoàn cần quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, người cán bộ công đoàn trước hết phải
là tiêu biểu cho lý tưởng cách mạng, cho lẽ sống, là người có tri thức hiểu rõ, hiểu sâu
những vấn đề đặt ra cho tổ chức Công đoàn nói chung.
Muốn vậy, người cán bộ không ngừng học tập, nâng cao trình độ kiến thức cả về
chuyên môn và nghiệp vụ để làm cho người cán bộ Công đoàn là người quyết định thành
công hay thất bại trong mọi hoạt động và để người cán bộ hiểu rằng công tác công đoàn
cần coi như một nghề " nghề cán bộ Công đoàn" từ đó mỗi cán bộ Công đoàn nhận thức
được trách nhiệm của mình để tự phấn đấu, hăng say, tâm huyết với nghề của mình có
như vậy mới có thể đáp ứng được nhu cầu của thời đại mới.
Mở rộng và củng cố các cơ sở đào tạo cán bộ công đoàn các cấp, coi trọng bồi
dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ tổ công đoàn, đảm bảo cho 100% cán bộ công đoàn
cơ sở, công đoàn bộ phận và tổ công đoàn được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về lý luận,
nghiệp vụ công đoàn, nhất là những kỹ năng cần thiết cho cán bộ công đoàn hoạt động
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Mở rộng địa bàn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cán bộ công đoàn không chỉ được đào tạo
tại trường, lớp, tại các cơ quan, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng mà còn được đào tạo, bồi
dưỡng ở những nơi có nhu cầu, tại cơ sở. Nâng cấp đào tạo cán bộ công đoàn, phấn đấu đào
tạo sau đại học và trên đại học cho cán bộ công đoàn. Chú trọng đào tạo cán bộ công đoàn từ
nguồn công nhân ưu tú, từ cán bộ hoạt động trực tiếp trong phong trào công nhân và hoạt
động công đoàn cơ sở.
Củng cố hệ thống trường lớp, thành lập các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công đoàn của khu vực, tỉnh, thành phố lớn. Đầu tư kinh phí thoả đáng cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn.
Nghiên cứu cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn ngoài quốc doanh. Thực hiện tốt các
chế độ, chính sách đối với cán bộ công đoàn ngoài quốc doanh, nhất là các quy định về
chế độ phụ cấp hoạt động cho cán bộ công đoàn ngoài quốc doanh từ nguồn kinh phí do
Nhà nước hỗ trợ. Gắn đào tạo với quy hoạch, sử dụng cán bộ; tránh tình trạng đào tạo
không đúng đối tượng quy hoạch, cũng như đào tạo xong không được sử dụng hợp lý,
làm lãng phí các khoản đầu tư cho đào tạo và lãng phí cả cán bộ được đào tạo.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Đảng và Nhà nước
- Đối với Đảng:
Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức Đảng cơ sở trong các doanh nghiệp, đẩy
mạnh công tác phát triển Đảng trong các thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh. Trong tương lai, công nhân, lao động khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh ngày càng phát triển, họ sẽ là một trong những lực lượng quan trọng trực tiếp thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng cần tập hợp, bồi dưỡng và phát
triển lực lượng ở khu vực này để đảm bảo lãnh đạo toàn diện, đúng hướng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của Đất nước.
Công tác phát triển đoàn viên và xây dựng công đoàn ở khu vực ngoài quốc doanh
có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động, xây dựng giai cấp
công nhân, tổ chức công đoàn vững mạnh, đẩy mạnh sự phát triển và ổn định chính trị -
xã hội. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cấp uỷ Đảng. Bộ Chính
trị cần có chỉ thị cho các cấp uỷ Đảng thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chỉ
thị phát triển đoàn viên, xây dựng Công đoàn cơ sở trong thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh.
Đảng cần nghiên cứu để có hướng dẫn hoặc có quy định cho đại diện tổ chức công
đoàn các cấp là những đoàn viên ưu tú, có phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ có thể
tham gia vào thường vụ Đảng uỷ cấp đó để nâng cao vị thế công đoàn, tạo điều kiện cho
công đoàn hoạt động, nhất là DNNQD thì đại diện công đoàn có đủ tư cách như một đảng
viên giới thiệu công nhân, lao động ưu tú để Đảng xem xét kết nạp.
- Đối với Nhà nước:
Đẩy mạnh chỉ đạo các cấp, các ngành kiểm tra việc thực hiện Bộ luật Lao động,
Luật Công đoàn. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm luật như cản trở thành lập
Công đoàn cơ sở, cản trở hoạt động Công đoàn. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm
thoả ước lao động, tranh chấp lao động, nợ lương, trả lương sai quy định, không đóng
bảo hiểm cho người lao động …
Nghiên cứu ban hành quy định bảo vệ cán bộ Công đoàn, tạo điều kiện để cán bộ
Công đoàn hoạt động. Coi cán bộ Công đoàn là một nghề đặc biệt được pháp luật bảo vệ.
Trong chương trình đào tạo cán bộ công đoàn mà đặc biệt là cán bộ công đoàn khu vực
ngoài quốc doanh để đáp ứng yêu cầu hoạt động công đoàn trong kinh tế thị trường.
Nghiên cứu chỉ đạo triển khai thực hiện cơ chế ba bên: Nhà nước, Công đoàn, giới
chủ. Cần thể chế hoá những quy định hoạt động của cơ chế ba bên.
Đề nghị Chính phủ xem xét nên có quy định để các DNNQD trích nộp kinh phí
công đoàn, bảo đảm sự bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phấn kinh tế và
tạo điều kiện cho công đoàn cơ sở có kinh phí hoạt động. Thực chất hoạt động công đoàn
là vì lợi ích của doanh nghiệp, của tập thể lao động và người lao động.
3.3.2. Kiến nghị với Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Đề nghị Tổng Liên đoàn có những biện pháp tích cực cụ thể hơn nữa nhằm đẩy
mạnh việc phát triển đoàn viên, xây dựng công đoàn cơ sở khu vực ngoài quốc doanh.
Bởi hiện nay khu vực này còn nhiều cơ sở chưa có tổ chức công đoàn, công nhân, lao
động chưa thiết tha vào công đoàn. Mặt khác, hoạt động công đoàn khu vực này còn
nhiều hạn chế.
Đề nghị Tổng Liên đoàn cần có biện pháp tích cực, xây dựng hệ thống tổ chức nhằm
phát huy hiệu quả cao nhất cho hoạt động Công đoàn, tránh trùng chéo về chỉ đạo giữa
Liên đoàn Lao động địa phương và Công đoàn ngành. Công đoàn ngành địa phương nên
để Công đoàn ngành Trung ương chỉ đạo trực tiếp, Liên đoàn Lao động địa phương phối
hợp chỉ đạo.
Công đoàn cần có biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ công
đoàn, cần thường xuyên phối hợp với chính quyền định kỳ mở các lớp bồi dưỡng về pháp
luật, về các thể chế chính sách không chỉ cho cán bộ công đoàn mà cho cả chủ doanh
nghiệp, cần có chính sách, chế độ đối với cán bộ công đoàn kiêm nhiệm để thu hút,
khuyến khích người có năng lực, trình độ tham gia hoạt động công đoàn.
Nghiên cứu các biện pháp nhằm đa dạng hoá hình thức tập hợp các đối tượng tham
gia hoạt động Công đoàn dựa trên cơ sở nhiệm vụ chuyên môn. Thực hiện hài hoà, linh
hoạt nguyên tắc tổ chức theo ngành, nghề và vùng, lãnh thổ, không cứng nhắc, rập khuôn
như hiện nay.
Chủ động đề xuất với nhà Nhà nước và nghiên cứu những quy định về cơ chế phối hợp
ba bên: (Nhà nước, Công đoàn (đại diện cho người lao động), giới chủ) để sớm triển khai
thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn.
Đề nghị Tổng Liên đoàn khi quyết định số lượng cán bộ chuyên trách Công đoàn ở
các ngành, các cấp cần căn cứ vào số lượng đoàn viên thực tế. đối với cấp công đoàn cơ
sở nên lấy mốc 500 đoàn viên trở lên để quy định số lượng cán bộ chuyên trách Công
đoàn, có như vậy Công đoàn cơ sở mới có điều kiện để hoạt động và làm cho Công đoàn
cơ sở bớt lệ thuộc vào chủ doanh nghiệp về mặt kinh tế nhằm phát huy tính độc lập tương
đối của tổ chức Công đoàn.
Chính sách tiền lương đối với cán bộ Công đoàn hiện nay chưa đủ sức giữ cán bộ
Công đoàn cũng như thu hút cán bộ giỏi chuyển sang làm công tác Công đoàn. Trong khi
chờ Nhà nước có những quy định cụ thể thì Tổng Liên đoàn giải quyết chính sách đãi ngộ
cho cán bộ Công đoàn bằng khả năng tài chính hiện có của mình. Trong công tác tập
huấn cán bộ Công đoàn cơ sở, nội dung và phương pháp chưa phù hợp với tình hình thực
tế cho nên đề nghị Tổng Liên đoàn giao cho Trường Đại học Công đoàn biên soạn tài liệu
chuyên bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ Công đoàn cơ sở, nhất là cơ sở DNNQD, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đề nghị Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tăng cường hơn nữa việc thâm nhập
thực tế, cử cán bộ hướng dẫn, giúp đỡ cấp dưới một cách thiết thực.
Việc quy định định suất lương cho cán bộ Công đoàn khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh từ nguồn kinh phí hỗ trợ của Chính phủ theo “Quy định tạm thời trả lương cho cán
bộ Công đoàn chuyên trách đang làm việc tại các DNNQD” ban hành theo Quyết định số
1724/QĐ/TLĐ, ngày 02/12/2001 của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn có nhiều điểm
không còn phù hợp. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam nên căn cứ vào số lượng đoàn
viên, số Công đoàn cơ sở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của từng ngành, từng địa
phương để phân bổ kinh phí, giao cho Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở chủ động tính
toán thực hiện trợ cấp định suất này cho cán bộ Công đoàn khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực thuộc, sau đó quyết toán với Công
đoàn cấp trên và Tổng Liên đoàn.
Trước khi tham gia với Nhà nước về các chủ trương chính sách có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động, đề nghị Tổng Liên đoàn cần tham khảo ý kiến
của cơ sở, của các ngành, địa phương để tính khả thi của việc tham gia được cao hơn.
Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn vững về lý luận giỏi về
thực hành nghiệp vụ. Có chính sách đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ Công đoàn,
có chính sách ưu đãi những người có tâm huyết, có năng lực thực sự. Có biện pháp hữu
hiệu để bảo vệ cán bộ Công đoàn, tạo điều kiện cho cán bộ Công đoàn yên tâm làm việc.
Kết luận
Trong những năm vừa qua, Nhà nước và người sử dụng lao động đã có nhiều cố
gắng đầu tư tài chính, công nghệ để cải thiện điều làm việc cho người lao động. Nhìn
chung điều kiện làm việc, môi trường làm việc của người lao động ở một số doanh
nghiệp ngoài quốc doanh đã được cải thiện một bước. Đầu tư nước ngoài và chuyển giao
công nghệ mới cùng với đổi mới thiết bị, dây chuyền sản xuất đã làm thay đổi về chất
điều kiện lao động của người lao động, giảm bớt lao động thủ công nặng nhọc, giảm bớt
tiếp xúc với nhiều yếu tố nguy hiểm độc hại, giảm bớt được sự ô nhiễm. Đó là kết quả tác
động ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới từ các chính sách của Đảng và Nhà nước được
thể hiện trong các luật Đầu tư nước ngoài, luật Lao động, luật Công đoàn. Hiệu quả cao
của sản xuất thuộc khu vực ngoài quốc doanh cũng thúc đẩy nhiều hơn việc cải thiện môi
trường làm việc, điều kiện làm việc, cải thiện tốt hơn tình trạng sức khoẻ và thu nhập của
người công nhân. Điều đó cũng phản ánh sự quan tâm của doanh nghiệp đối với người
lao động.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có một số doanh nghiệp chưa thực sự thực
hiện tốt nội dung này. Xét ở góc độ các chủ doanh nghiệp, do những yếu tố khách quan
có thể dẫn đến người lao động thất nghiệp, ngoài ra việc trả lương cho người lao động,
quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho người lao động, cũng là những vấn đề nóng bỏng.
Môi trường lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thường có hiện tượng
các doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ chế độ chính sách cho người lao động và đây là
một trong những hạn chế chung đối với các doanh nghiệp trong quá trình thực thi các
chính sách đối với người lao động và cũng là yếu tố có nhiều nguy cơ dẫn đến đình công.
Hơn nữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, đang tác
động sâu sắc tới sự chuyển biến đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và đời
sống công nhân lao động nói riêng. Tình trạng thất nghiệp gia tăng, giá cả leo thang, tiền
lương thực tế giảm mạnh, ô nhiễm môi trường, điều kiện lao động xuống cấp ở nhiều
doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng đang là nỗi ám
ảnh đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay. Giải quyết khó khăn này là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung và của tổ chức công đoàn nói riêng. Công
đoàn xuất phát từ vai trò, vị trí của mình phải tích cực đổi mới tổ chức, nội dung và
phương pháp hoạt động để bảo vệ lợi ích của người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu của sự nghiệp đổi mới do Đại hội lần thứ
X của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Hoàng Chí Bảo (2000), "Xây dựng giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước - từ lý luận đến thực tiễn", Lao động và Công đoàn, (2).
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1997), Đề cương bài giảng môn triết học Mác - Lênin,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Đặng Ngọc Chiến (2000), "Công nhân, viên chức, lao động và Công đoàn Việt Nam
với phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Cộng sản,
(20).
4. Chính phủ (1995), Nghị định 06/CP ngày 20/1/1995.
5. Hoàng Minh Chúc (1998), "Phong trào Công đoàn Việt Nam trong hơn mười năm
đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (14).
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Sự thật Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đinh Đăng Định (2002), Giá trị bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
11. Cù Thị Hậu (2001), "Giai cấp công nhân Việt Nam đi đầu thực hiện đường lối đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo", Lao động và Công đoàn, (243).
12. Hội đồng Bộ trưởng (1992), Nghị định số 302/HĐBT ngày 19/8/1992 về quyền và
trách nhiệm của công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, cơ quan.
13. Nguyễn Văn Khởi (2000), "Về vai trò của cán bộ công đoàn cơ sở trong các doanh
nghiệp", Lao động và Công đoàn, (243).
14. V.I.Lênin (1971), Công đoàn trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nxb Lao
động, Hà Nội
15. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
16. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
17. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
18. Luật Công đoàn (1990), Nxb Lao động, Hà Nội.
19. C.Mác và Ph. Ăngghen (1983), Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. C.Mác và Ph.Ăngghen (1980), Bàn về công đoàn, tập 1, Nxb Lao động, Hà Nội.
21. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Hồ Chí Minh (1981), Đường Cách mệnh, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. Đỗ Đức Ngọ (2000), "Công cụ và phương pháp công tác tư tưởng của Công đoàn
Việt Nam", Lao động và Công đoàn, (215).
25. Văn Nhân (1999), "Bàn về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn", Lao
động và Công đoàn, (8).
26. Tôn Trung Phạm (1995), Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và công đoàn, Nxb
Lao động, Hà Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Dương Văn Sao (2005), Thực trạng và những giải pháp đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước với Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
29. Dương Văn Sao (2007), Tác động tới việc làm, đời sống của người lao động khi
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới và các giải pháp hoạt động
công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
30. Văn Tạo (1997), Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đan Tâm (2002), Công đoàn Việt Nam thế kỷ 21 phát triển trong thách thức, Nxb
Lao động, Hà Nội.
32. Hoàng Ngọc Thanh (1998), "Phác thảo chân dung đội ngũ cán bộ công đoàn nước ta
hiện nay", Lao động và Công đoàn, (211).
33. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1996), 50 năm hoạt động quốc tế của công
đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
34. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (1998), Điều lệ Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao
động, Hà Nội.
35. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Trường đại học Công đoàn (1999), Giáo trình lý
luận và nghiệp vụ công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
36. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1999), Các tổ chức công đoàn trên thế giới,
Nxb Lao động, Hà Nội.
37. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1999), Văn kiện Đại hội lần thứ IX, Nxb Lao
động, Hà Nội.
38. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện công nhân và công đoàn (1999), Xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Nxb
Lao động, Hà Nội.
39. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Báo cáo tóm tắt kết quả khảo sát xã hội học
về vai trò của Công đoàn và thái độ của công nhân, viên chức và lao động với một số
vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách hiện nay.
40. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và công đoàn (2001), Xu
hướng biến động của giai cấp công nhân Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI,
Nxb Lao động, Hà Nội.
41. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Trường Đại học Công đoàn (2002), Giáo
trình Lý luận và nghiệp vụ công đoàn, Tập 1, 2, 3, Nxb Lao động, Hà Nội.
42. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt động công
đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nxb Lao động, Hà
Nội.
43. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Toàn cầu hoá và phong trào công đoàn
quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội.
44. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Trường Đại học Công đoàn (2004), Một số
vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước, Nxb Lao động, Hà Nội.
45. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (7/2005), Thông tin hoạt động công đoàn, số
160.
46. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Những tác động tới việc làm đời sống
của người lao động và các giải pháp hoạt động công đoàn khi Việt Nam gia
nhập tổ chức thương mại thế giới, Nxb Lao động, Hà Nội.
47. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Tài liệu đào tạo cán bộ công đoàn Việt
Nam, Hà Nội.
48. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội.
49. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Công đoàn Việt Nam
lần thứ X, Nxb Lao động, Hà Nội.
50. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội lần thứ X, Nxb Lao
động, Hà Nội.
51. Trường Đại học Công đoàn (2002), Giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam trong
sự nghiệp CNH, HĐH , Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
52. Trương Đình Tuyển (1998), "Công đoàn giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị, chuyện môn", Thương mại, (12).
53. Nguyễn Văn Tư (1998), "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn", Lao
động và Công đoàn, (210).
54. Nguyễn Viết Vượng (2003), Công đoàn tham gia quản lý doanh nghiệp, Nxb Lao
động, Hà Nội.
55. Nguyễn Viết Vượng (2003), Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Lao động, Hà
Nội.
56. Nguyễn Viết Vượng (2005), Lý luận Mác-Lênin về công đoàn và vận dụng vào hoạt
động công đoàn Việt Nam trong kinh tế thị trường, Nxb Lao động, Hà Nội.
57. Nguyễn Viết Vượng (2007), Giáo trình lịch sử phong trào công nhân, công đoàn
thế giới và Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
58. Nguyễn Viết Vượng (2007), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
59. Nguyễn Viết Vượng (2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong sự
nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà
Nội.