
ĐA DẠNG VĂN HÓA, DU LỊCH SINH THÁI VÀ GIÁ TRỊ DI SẢN:
VẤN ĐỀ CỤ THỂ CỦA VÙNG MADAGASCAR
Gilles FERRÉOL(*)
CULTURAL DIVERSITY, ECO-TOURISM AND HERITAGE VALORISATION
THE EXAMPLE OF THE MADAGASCAR
Abstract
In the twentieth century, tourism has become a factor of development in many countries around
the world. If at the beginning, this activity relied on the theme of “triple S”sea-sand-sun, especially in
countries “starting-up” in tourism, nowadays this tends to turn from “blue” to “green”.
The article presents the example of Madagascar covering its cultural diversity, eco-tourism
and cultural heritage preservation.
*
Vào thế kỷ XX, du lịch đã trở thành một yếu tố phát triển mạnh ở nhiều nước trên thế giới. Nếu
trước đây, lĩnh vực hoạt động này thiên về các vấn đề liên quan đến biển- cát-nắng, đặc biệt là ở các
quốc gia mới bắt đầu phát triển về du lịch. Tuy nhiên, các hình thức và giới thiệu quảng cáo của họ về
vấn này đã phát triển qua thời gian và du lịch, hiện nay có xu hướng là tìm hiểu về nông thôn. Nhu cầu
của thế giới bắt đầu thích "xanh của lá cây" hơn "màu xanh của nước biển".
Hơn nữa, các chính sách kinh tế và xã hội của một quốc gia ngày càng quan tâm hơn đến các
khía cạnh môi trường trong phát triển địa phương và khu vực của mình, và đi đầu trong các mục tiêu
quốc gia của mình. Du lịch sẽ được xem như là một cách để giới thiệu những vùng xa xôi của vùng
lãnh thổ này.
Để đối phó với sự suy giảm tính đa dạng sinh thái và bảo vệ các khu vực nông thôn từ những
tác động của du lịch đại chúng ở Madagascar, trong quá trình thúc đẩy "Madagascar phát triển một
cách tự nhiên", quyết định để thực hành du lịch sinh thái. Do vậy, đất nước có tiềm năng rất lớn, tạo
thành một điểm đến ưa thích cho hoạt động du dịch này,di sản thiên nhiên, di sản văn hoá hay nông
thôn là một phần tất yếu của du lịch sinh thái. Vào thời điểm khi mà ngày càng có nói nhiều vể việc
biến đổi khí hậu, vấn đề đặt ra là vai trò của du lịch sinh thái trong bảo tồn di sản này là gì. Điều gì có
thể tác động đến sự phát triển dân số địa phương hoặc khu vực?
Đầu tiên, chúng tôi trình bày bối cảnh chung của du lịch sinh thái ở Madagascar, sau khi có
khái niệm. Phần thứ hai sẽ là nội dung của thực trạng những địa danh này. Những tác động của hoạt
động này sẽ được phân tích như một phương sách cuối cùng.
BỐI CẢNH CHUNG CỦA DU LỊCH SINH THÁI
Theo Bộ Môi trường, Lâm Ngư nghiệp và Du lịch, du lịch sinh thái chiếm 55% hoạt động du
lịch ở Madagascar, theo bảng dưới đây.
Bảng 1: Phân bố các hoạt động du lịch ở Madagascar
Du lịch sinh
thái
Nắng và bãi
biển
hoạt động văn
hóa
Thể thao và
chuyến phiêu
lưu
khác
(*)GS., Giám đốc Trung tâm Xã hội học Trường Đại học Besançon (Pháp).

Tỷ lệ
55 %
19 %
15 %
8 %
3 %
Nguồn: Bộ Môi trường, Lâm Ngư nghiệp và du lịch.
Vậy, du lịch sinh thái nói lên điều gi?
A. Khái niệm về du lịch sinh thái
Theo Bộ sách bách khoa, du lịch sinh thái hay gọi là du lịch xanh là một loại hình du lịch bền
vững, tập trung hơn vào việc khám phá thiên nhiên (hệ sinh thái, mà còn các hệ thống nông nghiệp và
du lịch nông thôn) hoặc thậm chí sinh thái đô thị (khu vườn sinh thái , khoảng xanh công viên, khu bảo
tồn thiên nhiên ...).
Ra đời cách đây ba mươi năm, câu nói được trích trong tư liệu TIES (Hiệp hội quốc tế về Du
lịch sinh thái”- năm 1991 vẫn còn nhắc đến và áp dụng gần đây: "Du lịch sinh thái là du lịch có trách
nhiệm với môi trường tự nhiên nơi nguồn thiên nhiên và sung túc của người dân được bảo tồn. »
Loại du lịch này có mục tiêu chính là khám phá hoặc khám phá thiên nhiên, phong cảnh hay
các loài vật cụ thể (quan sát và / hoặc nghiên cứu các loài vượn cáo và loại cá voi khác), bằng việc tôn
trọng các hệ sinh thái, góp phần bảo tồn chúng, bằng cách tiếp cận để tìm cách khắc phục những hậu
quả, những dấu vết mà du lịch gây ra làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái
B. Mục tiêu
Theo Văn phòng Du lịch Madagascar (MTO), "Du lịch sinh thái hướng tới một mục tiêu "bền
vững" do sự gia tăng đáng báo động của khách du lịch đại chúng không có ý thức khi đi du lịch đã đe
dọa , gây ảnh hưởng đến môi trường. Sự phát triển của du lịch đã chuyển sang tiêu dùng với chiều
hướng phát triển nhanh và những chuyến du lịch "có lợi nhuận", nơi mà tất cả mọi người nghĩ rằng
mình có quyền để khám phá những vùng đất xa xôi nhất trên thế giới, làm ảnh hưởng đến sự hồi phục
và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên như nước ngọt, rừng và các rạn san hô, và gây nguy hiểm
cho sự tồn tại của nhiều loài sinh sống, tất cả đều do sự tò mò của du khách tưởng tượng như mình
đang trong vườn thú với sự thoải mái. "
Các hoạt động du lịch sinh thái thường liên quan đến giáo dục và giải thích, giảng giải và giúp
nâng cao nhận thức về sự cần thiết để bảo tồn các di sản thiên nhiên và văn hóa. Du lịch sinh thái cần
phải có một tác động môi trường tích cực và đóng góp vào sự thịnh vượng của người dân địa phương.
Du lịch là một trong những lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, du lịch sinh thái là
một cách để tăng cường sự đa dạng sinh học, kết hợp một chiều đạo đức và nhận thức về môi trường
không giống như du lịch đại chúng mà làm thoái hóa môi trường tự nhiên. Với hình thức du lịch này
được gắp liền vời là các nguyên tắc phát triển.
C. Nguyên tắc và Tiêu chí
Sự kết hợp các nguyên tắc của du lịch sinh thái với sự phát triển bền vững đáp ứng được sự ủng
hộ của nhiều tổ chức quốc tế (Liên Hiệp Quốc, các tổ chức, các chính phủ và các cơ quan liên quan);
và phải được đưa đáp ứng các tiêu chí:
- "Bảo tồn", cần thiết cho việc bảo tồn đa dạng sinh học và chức năng của mình;
- Giáo dục du khách về tầm quan trọng của việc bảo tồn này;
- Tôn trọng sự đa dạng văn hóa và mối quan hệ đối với môi trường;
- Nêu ra các nổi bật cho các nhà điều hành tour du lịch về vấn đề phải chịu trách nhiệm với môi
trường sinh thái bằng việc đánh giá dựa trên các tiêu chí rõ ràng và minh bạch;
- Xây dựng quy hoạch khu du lịch để hạn chế và / hoặc bồi thường cho các ảnh hưởng bất lợi
và thích nghi với đặc điểm của khu vực thiên nhiên và môi trường sống đã đến thăm;

- Tuân thủ các nguyên tắc và tiêu chuẩn chung cho phát triển bền vững thông qua du lịch sinh
thái, bao gồm cả việc xây dựng hoặc sử dụng các cơ sở hạ tầng (tiếp đón, đường giao thông ...) chất
lượng môi trường cao (HQE) ...
- Thúc đẩy phát triển bền vững, tạo việc làm cho người dân bản địa.
Vai trò của du lịch sinh thái ở Madagascar là gì?
D. Bối cảnh ở Madagascar
Ở Madagascar, cũng như ở Kenya, Ecuador, Nepal, Costa Rica, du lịch sinh thái đang trở thành
nguồn tài chánh chính. Thật vậy, nó không còn là một hoạt động bên lề nhằm tài trợ cho việc bảo vệ
môi trường, mà còn một lĩnh vực hàng đầu của nền kinh tế quốc gia và là một cách để tạo ra thu nhập.
Ngay những năm 1990, các biện pháp được thực hiện bởi các cơ quan chức năng nhắm mang
lại những nỗ lực của họ cho một sự phát triển trong sạch, có trật tự và hài hòa, trong khuôn khổ của
việc bảo vệ môi trường: đã thành lập Bộ Môi trường, xây dựng "điều lệ" (1990), đưa ra kế hoạch hành
động quốc gia về môi trường (PNAE), xây dựng bộ luật Du lịch (1995). Đầu những năm 2000 đã
chứng kiến việc thực hiện các biện pháp này. Kế hoạch hành động quốc gia về môi trường (PNAE) là
việc vận hành mục tiêu của chính sách này nhằm hòa giải dân Madagascar với môi trường của họ đối
với phát triển nhân lực bền vững. Tài liệu Chiến lược Xoá đói Giảm nghèo (PRSP) đã tập trung cụ thể
từ năm 2005 về chương trình liên ngành, bao gồm cả việc bảo vệ môi trường.và phát triển du lịch sinh
thái.
Sau đó, là vấn đề liên quan đến quảng bá du lịch như một công cụ để đấu tránh chống lại đói
nghèo, bảo vệ môi trường tự nhiên và bản sắc văn hóa xã hội, nhưng chủ yếu mang lại lợi ích trực tiếp
cho cộng đồng địa phương trong sự phát triển này, bao gồm cả doanh thu du lịch, công ăn việc làm, cơ
sở hạ tầng khu vực có mục tiêu. Sau những cơn khủng hoảng 1991-1992 và 2001-2002, trong đó đã tác
động mạnh đến ngành du lịch (giảm mạnh trong kinh doanh, đóng cửa chi nhánh, hủy hàng loạt đặt
chỗ, miễn nhiệm cán bộ, không thanh toán chi phí hoạt động du lịch ...) các nhà chức trách đã phục hồi
hoạt động.
Hành động đang được thực hiện để tăng cường và hỗ trợ sự phát triển cơ sở hạ tầng và tạo ra
một động lực tích cực cho các nhà đầu tư cho lĩnh vực này: việc tạo ra quỹ đất du lịch (RFT), qua việc
phân chia phù hợp các vị trí địa hình, thành lập các Cơ quan quốc gia chịu trách nhiệm quản lý quỹ
đất du lịch *RFT), giảm thủ tục hiện hành để hỗ trợ các nhà đầu tư và soạn lại các bộ luật Du lịch.
Như vậy, những bước tiến được quan sát rõ trong việc bảo tồn hệ sinh thái trên đất liền, sông
và biển bằng việc tạo ra các khu bảo tồn mới được bảo vệ, bằng việc thực hiện một chính sách giáo
dục về môi trường, hệ thống giám sát sinh thái, hội nhập lĩnh vực này với các lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, với những thách thức ngày càng tăng của vấn đề bảo vệ môi trường, nhà nước đã
tìm cách thiết lập một chính sách phù hợp hơn để có thể mang sự an toàn, an ninh cho các di sản và
phát triển kinh tế.
Kế hoạch môi trường II (PE II) tập trung vào quyền sở hữu cộng đồng về các nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Sau khi cải chính những kinh nghiệm liên tiếp trước đó, nhà nước đã quyết định giao cho
cộng đồng địa phương quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên trên lãnh thổ của mình (hệ thống
GELOSE: quản lý địa phương được an toàn). Mục tiêu là để thúc đẩy phương thức sử dụng nguồn tài
nguyên để đáp ứng các nhu cầu của người dân mà không ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai. Tài
nguyên chủ yếu là rừng, đồng cỏ, ao nước, sông suối, các loại thực phẩm tự nhiên trong các bụi cây và
động vật hoang dã. Một trong những tập quán truyền thống thích hợp với mục đích bảo tồn thiên nhiên
là Dina hay qui ước xã hội.
Trong hệ thống quản lý DELOSE, Dina nắm một danh sách các quy định cấm các hoạt động
phá hoại của các nguồn tài nguyên được giao quản lý. Việc áp dụng các quy định Dina được thực hiện
với sự chấp thuận của cộng đồng. Việc thực hiện và thực thi các thỏa thuận cộng đồng này có thể đảm
bảo quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên này.

Phương thức này được xây dựng bởi các hiệp hội không giới hạn một hoạt động bảo tồn đơn
giản nào, nhưng bao gồm nhiều lĩnh vực như các hoạt động bảo tồn và hoạt động tạo thu nhập. Hệ
thống GELOSE cũng áp dụng một hình thức kinh tế-xã hội bời vì các hoạt động sản xuất của các cộng
đồng chịu trách nhiệm trong việc quản lý nguồn dự trữ quốc gia. Tuy nhiên, người nghèo bị phụ thuộc
hoàn toàn vào bối cảnh môi trường này và là nạn nhân của sự suy thoái các điều kiện sinh thái.
Xu hướng chung quan sát thấy sự suy thoái của đa dạng sinh học, cả hai hệ thực vật lẫn hệ
động vật. Suy thoái này là do các sinh hoạt của con người gây ra trong môi trường sống của chính họ
(tính khoảng 0,55% mỗi năm) và việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra,
cần lưu ý những tác động tiêu cực gần đây của sự nóng lên toàn cầu đối với các hệ sinh thái biển và
ven biển.
Không thể không nói rằng sự thiếu thốn vật chất và nhu cầu cần thiết để duy trì sự sống (thực
phẩm, năng lượng ...) của một số bộ phận dân cư, thường có những hành vi đi ngược lại với quản lý
bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sự suy thoái tiếp tục quay trở lại làm ảnh hưởng đến khả
năng bảo vệ môi trường và làm trầm trọng thêm đói nghèo. Do đó các vòng tròn luẩn quẩn” môi
trường bị suy thoái nhanh hơn, dân nghèo hơn.
II. TÌNH TRẠNG Ở ĐỊA PHƯƠNG
Không thể phủ nhận rằng các đảo lục địa mà đại diện là ở Madagascar với nhiều vi khí hậu
riêng, có một loạt các nguồn tài nguôn thu hút khách du lịch. Do vậy, cần bảo vệ di sản này vì nó rất
quan trọng cho sự phát triển của cả xã hội và kinh tế..
A. Các khái niệm về di sản
Di sản là một tập hợp các đặc tính, hình ảnh và tập quán gắn liền với một biểu tượng không còn
tồn tại (công trình, tác phẩm, ý tưởng, nhân chứng, công trình xây dựng, địa danh, tập quán, phong
cảnh...)
Từ này được lan rộng từ những năm 1970 mà từ đó lan rộng. Vào năm 1972, việc soạn thảo bởi Công
ước của UNESCO cho phép sử dụng cho các địa danh tự nhiên hay văn hóa, các "giá trị thế giới nổi
bật" tình trạng di sản thế giới (văn hóa thế giới và di sản thiên nhiên).
Về nguồn gốc phương Tây, định nghĩa này xuất phát từ hai quan niệm: một gọi là "hoành
tráng, đồ sộ" (sự hợp nhất của các di tích lịch sử và thiên nhiên, thừa hưởng từ thế kỷ XIX ở châu Âu),
các khác "thẩm mỹ".
Việc xếp hạng các địa danh, gắn liền với sự xuất hiện của khái niệm "cảnh quan văn hóa", hoàn
toàn phù hợp với các hệ tư tưởng của "phát triển bền vững" xuất hiện vào những năm 1980. Điều này
là để duy trì môi trường của hành tinh, di sản của nó có thể là một trong những quá trình thích hợp
nhất cho mục đích này và sự lo lắng về sự bền vững.
Hiện nay, rất nhiều các tài liệu tham khảo như: văn hóa, xã hội, tự nhiên, kinh tế, lịch sử, nông
thôn, thế giới... Di sản là một phần tất yếu của du lịch sinh thái, do tất cả các khía cạnh: liên quan đến
lịch sử, về lãnh thổ, trí tưởng tượng, nó thường đi kèm trong các hình thức của một sản phẩm du lịch.
B. Tình hình hiện nay
Theo Báo cáo quốc gia lần thứ tư về Thỏa ước liên quan đến sự đa dạng hệ sinh thái học được
trình bày ở Antananarivo vào tháng 8 năm 2009, Madagascar là một quốc gia có sự đa dạng bậc nhất,
với mức độ tập trung cao và dày đặc. Do vậy, nhận thức của nhà nước về sự đa dạng sinh học của đất
nước mình đã tăng lên rất nhiều.
Hiện nay, các hệ sinh thái ở Madagascar phân bổ theo điều hiện cư trú khoảng 12.000 loài thực
vật, 370 loài bò sát, 244 loài động vật lưỡng cư, 283 loài chim, 154 loài cá và 99 loài vượn cáo.
Đa dạng sinh thái học này cung cấp cho sinh kế của khoảng hai mươi triệu người (80% trong số
đó sống chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên). Ngoài việc sử dụng các nguồn thiên nhiên cho
đời sống con người, tiềm năng du lịch sinh thái ở các khu tồn hiện nay là nguồn tài chính ngoại hối lớn
thứ 3 đối với Madagascar.

Tài nguyên thiên nhiên và môi trường hình thành các cơ sở du lịch sinh thái. Madagascar cung
cấp vô số các địa danh và cảnh quan du lịch hấp dẫn lối cuốn khách du lịch về hệ sinh thái vá đa dạng
sinh thái học và đó chính là lý do vì sao cần thiết phải bảo tồn di sản là phù hợp hơn bao giờ hết.
Gần đây nhất, chúng ta bỏ qua các trải nghiệm của các công viên lớn của Mỹ, các nước đã từng
bước được giao nhiệm vụ bảo vệ không gian nhất định, danh lam thắng cảnh, các địa danh, di tích và
địa điểm nổi tiếng mà đang bị xuống cấp khó khắc phục. Thậm chím, các công ty có tầm cỡ quốc tế
(khái niệm "di sản thế giới", được phát triển bởi UNESCO) và dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc,
cũng luôn đồng ý kiến bảo vệ mở rộng đến cả bầu sinh quyển (chống hiệu ứng nhà kính, vv) (Ciattoni
và Veyret dưới eds., 2003, tr. 77-78). Ngay từ thể kỷ thế kỷ XIX , việc bảo vệ di sản cũng đóng vài trò
quan trọng trong quản lý đất đai hiện đại, sự xuất hiện của khái niệm "phát triển bền vững" cần nhấn
mạnh sự cần thiết phải bảo tồn các nguồn tài nguyên của hành tinh đối với các thế hệ tương lai.
Madagascar là một trong 21 nước thành viên của Ủy ban Di sản Thế giới. Về nguyên tắc, mỗi
sáu năm, Chính phủ đã báo cáo cam kết về tình trạng bảo tồn của các địa danh. Báo cáo này được gửi
đến Ủy ban Di sản Thế giới - UNESCO trước khi được gửi sang Liên minh bảo tồn thế giới vì thiên
nhiên.
Madagascar phải tuân thủ các nguyên tắc đề ra trong bối cảnh du lịch sinh thái để cho phép khu
vực "phát triển bền vững", bằng việc bảo vệ các di sản đa dạng và cụ thể. Tài nguyên thiên nhiên bị
suy thoái bởi cả hai trận cháy rừng do đốt nương rẫy. Mà kết quả của hậu quả này là đã hủy diệt nhiều
thảm thực vật (80%) (Giám đốc Kế hoạch du lịch, 2004). Để ngăn chặn sự tuyệt chủng và thậm chí cả
sự biến mất của một số loài đặc hữu do việc lạm dụng các nguồn tài nguyên rừng, các khu vực khác
nhau đã được chuyển đổi thành các khu vực bảo vệ thiên nhiên.
Ba loại công việc đã được ANGAP (Hiệp hội quốc gia vì sự quản lý của các khu bảo tồn) công
nhận :
- Quỹ dự trữ thiên nhiên nghiêm ngặt thành lập để bảo vệ thực vật và động vật đang bị đe dọa
và các hệ sinh thái hiếm hoi;
- Công viên quốc gia được thiết kế để bảo vệ tất cả các nguồn lực sẵn có (du khách có thể tiếp
cận và đưa ra ý kiến đề xuất) (Kế hoạch quản lý cho các mạng lưới quốc gia của các khu bảo tồn của
Madagascar, tháng 5 năm 2001);
- Những khu bảo tồn đặc biệt được tạo ra để bảo vệ toàn bộ hệ sinh thái (rừng nguyên sinh).
Đối với việc phát triển bền vững du lịch sinh thái, theo sự tuân thủ nghiêm ngặt về môi trường,
Hiệp hội sau đó đã thiết lập các nguyên tắc. Trên 17 trang địa danh, ANGAP đã tạo ra bốn cấp độ
khác nhau, theo tầm quan trọng tương đối của chúng.
Bảng 2: Phân loại các khu bảo tồn
Mức độ 1
Tiềm năng
Đặc tính
Mức 1 (9 điểm)
Cao
Điểm đến chính của một khu vực
Từ 2000 hơn 25 000 du khách mỗi năm.
Tiềm năng cao nhưng khó tiếp cận
Mức 2(3 điểm)
Trung bình / thỏa đáng
Thăm thường xuyên; lên đến 2000 khách mỗi năm
; không có điểm đến chính
Mức 3 (3 điểm)
Hạn chế
Điểm thăm quan du lịch đặc biệt. Ít hơn 100
du khách mỗi năm. Hạn chế cho khách tham quan.
Mức 4
Bảo vệ các loài / sinh cảnh quý hiếm.
Du khách khó có thể vào thăm ; Các địa danh không liệt
kê ở mức 1,2,3