
183
Kết nối du lịch sinh thái dựa trên những đặc trưng về không gian
và thời gian sinh thái vùng tại Nam Tây Nguyên
Bùi Trung Hưng
Tóm tắt
Nam Tây Nguyên là vùng có nhiều tiềm năng về du lịch sinh thái. Tuy nhiên trong thời
gian qua, du lịch sinh thái tại đây chưa thật sự phát triển do chưa được quan tâm đúng mức,
chưa kết nối tốt cả nội vùng và liên vùng. Muốn kết nối du lịch sinh thái vùng cn chú ý những
đặc trưng về không gian và thời gian sinh thái của vùng. Các nhóm giải pháp để kết nối vùng
trong phát triển du lịch sinh thái ở Nam Tây Nguyên được đề xuất, gồm: Kết nối về cơ chế,
chính sách phát triển du lịch sinh thái giữa các địa phương trong và ngoài vùng; Kết nối về
không gian và thời gian sinh thái vùng, liên kết về truyền thông; Tăng cường sự chủ động, tích
cực thúc đẩy kết nối từ phía ngành du lịch.
Từ khóa: Nam Tây Nguyên, du lịch, sinh thái, không gian, thời gian.
1. Đặt vấn đề
Mươi năm gn đây, loại hình du lịch sinh thái được đu tư, phát triển ở hu khắp các
vùng miền trên cả nước. Song, trên thực tế triển khai, loại hình du lịch này cũng còn nhiều vấn
đề rất đáng quan tâm, thậm chí để lại những hệ lụy cho cả du khách lẫn các cộng đồng bản địa.
Qua khảo sát trên nhiều công trình nghiên cứu đã công bố và cả những người đã, đang làm du
lịch sinh thái, chúng tôi nhận thấy đa số chưa có được cách hiểu, cách làm đúng bản chất của
vấn đề, nhất là với cụm từ “sinh thái”. Bên cạnh đó, hiện nay ở nhiều vùng, nhiều người tham
gia làm du lịch nói chung, du lịch sinh thái nói riêng, chủ yếu vẫn theo phong trào, tự phát đu
tư, mà còn thiếu những cơ sở khoa học. Vậy du lịch sinh thái thật sự là gì, nên được tổ chức
như thế nào? kết nối để phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam nói chung, Nam Tây Nguyên
(xin gọi tắt là Vùng) nói riêng cn triển khai như thế nào? ..., là những vấn đề lớn, cn nghiên
cứu sâu hơn về mặt lý luận, có những cách thức triển khai khoa học hơn trong từng địa bàn cụ
thể. Đặc biệt, muốn tiến hành kết nối để phát triển du lịch sinh thái tại Vùng, trước hết cn
thống nhất về mặt lý luận cho hoạt động du lịch sinh thái. Trên cơ sở những nét đặc thù của
Vùng, mà đề xuất những giải pháp kết nối để phát triển du lịch sinh thái phù hợp với những đặc
trưng của từng địa phương và cả Vùng, thì mới mang lại hiệu quả thiết thực trên thực tế. Từ
yêu cu đó, dựa trên các phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp và những khảo sát thực tế tại
Vùng, chúng tôi xin bàn về chủ đề: “Kết nối hoạt động du lịch sinh thái dựa trên những đặc
trưng về không gian và thời gian sinh thái vùng tại Nam Tây Nguyên”.
2. Một số nhận thức về loại hình du lịch sinh thái
2.1. Mấy khía cạnh lý luận của loại hình du lịch sinh thái cn được thống nhất
+ Môi trường sinh thái
Khi bàn về du lịch sinh thái, trước tiên cn nói đến khái niệm môi trường sinh thái. Môi
trường sinh thái bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Khi ta nói đến môi trường
sinh thái tức là luôn gắn sự có mặt, sự tác động của con người đến giới tự nhiên. Cũng có nghĩa
là nói đến hoạt động sống của con người, mà rộng ra là nói đến văn hóa của cộng đồng, của dân
tộc. Ngày nay, trên thế giới hoàn toàn không còn những khu vực tự nhiên thun túy, chưa có sự
tác động của con người. Do vậy, khi bàn đến môi trường sinh thái, thường người ta gắn nó với

184
những hoạt động có mục đích cụ thể, mà du lịch sinh thái là một loại hình trong những hoạt
động đó.
+ Du lịch sinh thái và những nguyên tắc triển khai
Trang Wikipedia tiếng Việt định nghĩa: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào
thiên nhiên và văn hoá bản địa gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và
phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Du lịch sinh thái là
loại hình khai thác, tìm hiểu đa hệ sinh thái tự nhiên gồm: Đa hệ sinh thái động vật, thực vật,
hệ sinh thái nhân văn của núi, của rừng, của hồ”.
Ở Việt Nam hiện nay, du lịch sinh thái thường được hiểu là loại hình du lịch đến các
địa điểm mà hệ thực vật, động vật còn hoang dã, có di sản văn hóa độc đáo, mang đến cho du
khách cái nhìn sâu sắc về tác động của con người đối với môi trường và thúc đẩy sự đánh giá
cao hơn về môi trường sống tự nhiên của chúng ta. Còn theo các tổ chức quốc tế, du lịch sinh
thái là một kiểu du lịch đòi hỏi cao về trách nhiệm của người trải nghiệm. Đây là loại hình du
lịch ngày càng được nhiều người lựa chọn bởi những lợi ích gì mà nó mang lại rất đa dạng về
kinh tế, văn hóa, môi trường cho các hộ tư nhân và cộng đồng địa phương; hỗ trợ quản lý, bảo
vệ môi trường, cảnh quan, các di sản thiên nhiên và văn hóa, nếu được thực hiện đúng cách.
Muốn vậy, hoạt động du lịch sinh thái cn phải áp dụng các nguyên tắc sau: Xây dựng được ý
thức tự giác tôn trọng môi trường thiên nhiên và văn hóa; Cung cấp sự trải nghiệm tích cực cho
cả du khách và người dân địa phương; Đóng góp tài chính trực tiếp cho bảo tồn môi trường, tôn
tạo di tích; Tạo ra lợi ích kinh tế cho cả người dân và ngành dịch vụ tư nhân địa phương; Mang
lại trải nghiệm đáng nhớ cho du khách, giúp nâng cao độ nhạy cảm với chính trị, môi trường và
xã hội của địa bàn chủ nhà; Thiết kế, xây dựng, vận hành kết cấu hạ tng thấp, tận dụng những
điều kiện sẵn có, góp phn đa dạng về hoạt động kinh tế cho người dân và cộng đồng địa
phương.
2.2. Không gian và thời gian trong hoạt động du lịch sinh thái
Trên thực tế, du lịch sinh thái luôn được diễn ra trên một loại hình không gian chuyên
biệt- không gian sinh thái, gắn liền với thời gian sinh thái vùng. Do vậy, không gian sinh thái
(không gian xã hội) và thời gian sinh thái là những khái niệm quan trọng trong lĩnh vực khoa
học xã hội nói chung, trong hoạt động du lịch nói riêng, rất cn phải làm rõ.
+ Về không gian sinh thái
Chúng tôi xin dựa theo quan niệm của nhà dân tộc học người Pháp G. Condominas để
xác định nội hàm của khái niệm này. Theo G. Condominas, không gian sinh thái, ngoài những
chiều cạnh vốn có mang tính không gian vật chất theo thời gian, còn mang tính lịch sử và mang
tính tộc người. Tiếp cận dưới góc độ lịch sử, Condominas cho rằng văn hóa và sinh thái luôn
có tác động qua lại với nhau, mối quan hệ giữa chúng là biện chứng và đa dạng ở từng tộc
người. Theo Condominas có hai loại hình không gian xã hội: không gian xã hội giới hạn (chỉ là
một hệ thống quan hệ duy nhất) và không gian xã hội rộng (bao gồm nhiều hệ thống quan hệ).
Thuật ngữ này đã bổ sung một cách tiếp cận khác về một cộng đồng, ngoài cách tiếp cận thông
qua những giá trị văn hóa truyền thống trong Dân tộc học. Không gian xã hội mang cả chiều
cạnh không gian và thời gian. Biên độ của nó luôn thay đổi tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, đặc
điểm kinh tế, xã hội của một cộng đồng. Ẩn chứa trong mỗi không gian này là các mạng lưới
quan hệ đa tng.

185
+ Về thời gian sinh thái
Ở vào thời đại sản xuất nông nghiệp trình độ thấp là chủ yếu, thời gian sinh thái chính
là tính mùa vụ trong hoạt động gieo trồng, canh tác của con người trên một vùng đất nhất định.
Nó được quy định bởi các điều kiện tự nhiên từng vùng, gắn liền với sản xuất nông nghiệp
truyền thống và quyết định nhịp sống của con người ở một vùng đất cụ thể nào đó. Muốn tổ
chức các hoạt động nghiên cứu một cộng đồng xã hội cụ thể (tộc người, nhóm dân cư, .v.v.)
chúng ta phải nắm được và dựa theo các yếu tố về không gian và thời gian sinh thái đang chi
phối cộng đồng đó.
+ Kết nối hoạt động du lịch sinh thái dựa trên đặc thù về không gian và thời gian sinh
thái Vùng
Theo quan niệm về du lịch sinh thái nói trên, hoạt động này không thể tách rời những
đặc điểm của không gian và thời gian sinh thái ở nơi tổ chức. Kết nối để phát triển du lịch sinh
thái Vùng chính là sự kết nối về không gian và thời gian trong tổ chức các hoạt động du lịch
sinh thái. Sự kết nối này có thể từ các vùng trong phạm vi một tỉnh, đến kết nối giữa các tỉnh
trong Vùng và ngoài Vùng, trong khi thiết kế tour, tuyến nhằm đa dạng hóa sản phẩm, kéo dài
thời gian trên một chuyến du lịch. Đây chính là vấn đề trọng tâm, chủ yếu nhất của hoạt động
du lịch nói chung, du lịch sinh thái nói riêng, rất cn được quan tâm.
3. Tiềm năng đặc trưng và thực trạng du lịch sinh thái tại Vùng
3.1. Tiềm năng du lịch sinh thái đặc trưng của Vùng
Nam Tây Nguyên gồm 2 tỉnh: Lâm Đồng và Đắk Nông, vừa có những đặc điểm chung
của cả Tây Nguyên, lại vừa có những đặc trưng khá khác biệt và độc đáo. Ngành du lịch ở đây,
nhất là tại tỉnh Lâm Đồng, đã phát triển khá mạnh và đã có những đóng góp quan trọng vào
phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Riêng về du lịch sinh thái, Vùng có khá nhiều điều
kiện đặc trưng để đẩy mạnh phát triển và kết nối với các vùng khác trong nước để tổ chức hoạt
động này.
Có thể khái quát những tiềm năng, điều kiện đặc trưng để phát triển du lịch sinh thái
Vùng như sau:
+ Tiềm năng về sinh thái tự nhiên. Vùng đất Nam Tây Nguyên là kết quả của sự dâng
cao ở cuối dãy núi Trường Sơn, trước khi hạ thấp dn, rồi chuyển tiếp xuống vùng đồng bằng.
Trải qua hàng triệu năm biến đổi, kiến tạo về địa chất, địa mạo, đã hình thành nên một hệ thống
cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và ngoạn mục, cao nhất vùng Tây Nguyên, với nhiều núi cao,
hang động núi lửa, sông suối, thác, hồ nước tự nhiên,... Vùng hiện có diện tích rừng tự nhiên
che phủ cao nhất cả nước, với nhiều loài cây bản địa đặc hữu, trong đó đa số là rừng thông ba
lá. Toàn Vùng có 3 khu bảo tồn và dự trữ sinh quyển thiên nhiên quy mô hàng trăm nghìn héc-
ta, gồm Vườn Quốc gia (VQG) Bi-đúp- Núi bà, có đỉnh núi Lang-Biang cao hơn 2.300m và
một phn VQG Nam Cát Tiên thuộc tỉnh Lâm Đồng; một phn VQG Yok Đôn, thuộc huyện
Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.
Tỉnh Lâm Đồng, có thành phố Đà Lạt, với độ cao trung bình khoảng 1.500m so với mực
nước biển, ngay từ đu thế kỉ XX đã được người Pháp lựa chọn xây dựng thành trung tâm nghỉ
dưỡng nổi tiếng, được coi như một "tiểu Paris", vì có cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, khí hậu
ôn hòa quanh năm mát mẻ, một vùng ôn đới ở giữa xứ Đông Dương nhiệt đới nóng ẩm quanh
năm; hiện vẫn là trung tâm du lịch nổi tiếng cả nước và khu vực. Đây là nơi khởi nguồn của

186
dòng sông Đa Dâng, đoạn đu sông Đồng Nai, dòng sông lớn duy nhất chỉ chảy trong nội địa
Viêt Nam, có nhiều thác nước hùng vĩ vào bậc nhất nước, nhiều hồ nước rộng hàng trăm ha,
gắn với rừng cảnh quan rất nên thơ, trong đó khu du lịch hồ Tuyền Lâm được công nhận là khu
du lịch thắng cảnh cấp quốc gia. Tỉnh Đắk Nông có hơn 100 km đường biên giới giáp
Campuchia, có độ cao khá tương đồng với Lâm Đồng nên nhiều hồ, thác rất thơ mộng. Đặc biệt
là khu sinh thái hồ Tà Đùng và Công viên Địa chất toàn cu được UNESCO công nhận, với
một hệ thống hang động núi lửa trong đá bazan dài hơn 10 km, có nhiều dấu tích cư trú của các
bộ lạc thời tiền sử cách đây khoảng 6.000 - 7.000 năm, được các chuyên gia quốc tế đánh giá
là rộng lớn và hấp dẫn hơn nhiều so với hang động núi lửa Manjanggul trên đảo Jeju-biểu tượng
của du lịch Hàn Quốc. Đây chính là điều kiện thiên nhiên rất thích hợp cho việc phát triển các
loại hình du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, thám hiểm hang động và nghiên cứu đa dạng sinh học.
+ Tiềm năng về sinh thái xã hội: Vùng vốn là nơi cư trú lâu đời của các tộc người thuộc
nhóm ngữ hệ Môn-Khme (một nhóm ngôn ngữ Nam Á bản địa của Đông Dương và một phn
Đông Nam Á). Tỉnh Lâm Đồng có các tộc như: Châu Mạ, M'Nông, K'Ho; từ khoảng thế kỉ 17-
18, thêm 2 tộc Churu và Rag-lây (có chung ngữ hệ với các tộc người thuộc Bắc Tây
Nguyên). Trong đó, dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên là 249.463 người, chiếm 19,24%; toàn
bộ các dân tộc thiểu số là 333.524 người, chiếm 25,7% dân số toàn tỉnh. Tỉnh Đắk Nông có 3
tộc thiểu số tại chỗ là M’nông, Châu Mạ, và Ê đê với tổng số hơn 15.800 hộ với 71.700 người,
chiếm hơn 32% trên tổng số dân tộc thiểu số và hơn 10% so với dân số toàn tỉnh. Do định cư
lâu đời, cùng với những khả năng lao động sáng tạo cao, các tộc người bản địa tại Vùng đã tạo
dựng được nhiều giá trị văn hóa khá đặc sắc. Nhiều tài liệu khảo cổ cho thấy con người đã định
cư ở Vùng khá sớm và sớm có sự giao thoa về văn hóa giữa các cư dân bản địa với văn hóa Ốc-
eo ở Nam bộ và với cả các vùng khác trên thế giới; điển hình là di tích khảo cổ Thánh địa Cát
Tiên, với nhiều dấu tích của Bà-la-môn, Phật giáo, cùng tín ngưỡng bản địa rất độc đáo và kì
bí. Người Việt (Kinh) đến Vùng sớm nhất là khoảng giữa thế kỉ XIX, với các đoàn thám hiểm
theo lệnh Triều đình Nhà Nguyễn. Sau chuyến thám hiểm phát hiện ra cao nguyên Langbiang
của bác sĩ Yersin năm 1893 và các quyết định xây dựng Đà Lạt thành khu nghỉ dưỡng, cùng
với người Pháp, người Kinh bắt đu chuyển cư đến ngày càng đông hơn, trải qua 130 năm, đến
nay đã chiếm tới hơn 74% trong tổng số hơn 2 triệu dân toàn Vùng. Từ những năm 80 của thế
kỉ XX, nhiều tộc người thiểu số tại các tỉnh miền núi phía Bắc di cư đến Vùng, đông nhất là
người H'Mông, Tày, Nùng, Dao, Thổ, Mường,…, đã nâng tổng số tộc người đang sinh sống tại
Vùng lên 47 tộc. Các cộng đồng dân cư tại vùng đã tạo ra và lưu giữ nhiều giá trị, di sản văn
hóa rất đặc sắc, có sức hấp dẫn cao với du lịch sinh thái, cụ thể như:
- Các hoạt động sản xuất vật chất. Tổ chức thiết kế buôn làng, nhà dài truyền thống,
canh tác nương rẫy, cách tìm và lấy nước, cách đánh bắt cá suối, dựng nghĩa địa và nhà mồ,…,
được xem là những sinh hoạt vật chất riêng có của các cư dân bản địa tại Vùng. Đặc biệt nhất
là nhà dài của người Châu Mạ (hiện còn ở Lâm Đồng), một buôn thường chỉ có 2-3 nhà dài,
hoặc một nhà dài chỉ có một dòng theo họ m cư trú. Bên cạnh làm rẫy, nhiều nhóm người
K'Ho ở Di Linh, người ChuRu ở Đơn Dương và đa số người Châu Mạ đã canh tác lúa nước từ
rất sớm; họ cũng có tục ăn tru giống người Kinh. Ngày nay, đồng bào đã định canh định cư,
nhờ tác động của tiến bộ khoa học kĩ thuật, nên sản xuất nông nghiệp đa số đã theo hướng hiện
đại, gắn với kinh tế hàng hóa lớn. Tuy nhiên, việc phát nương, làm rẫy vẫn được duy trì trong
phạm vi nhất định, nhằm bổ sung cho nhu cu và giữ gìn bản sắc dân tộc. Việc thiết kế nhà ở,
buôn làng đã nhiều thay đổi theo hướng hiện đại và gắn với xây dựng nông thôn mới, kéo theo
sự đổi thay mạnh mẽ của nếp sống ở các dân tộc bản địa. Kinh tế trang trại được các hộ di dân

187
kinh tế mới đẩy mạnh phát triển, với đa dạng loại hình sản xuất. Các nhà vườn trồng chè, cà
phê, rau hoa đặc sản, các trang trại chăn nuôi đại gia súc, thủy sản nước lạnh, những vùng trồng
cây ăn quả có múi ven sông Đồng Nai, bên các hồ thủy điện, … của đồng bào các dân tộc trong
Vùng đang phát triển mạnh, cho thu nhập cao và là nơi trải nghiệm rất hiệu quả cho du lịch sinh
thái. Gn đây, đã có nhiều tour du lịch sinh thái được tổ chức tại các trang trại nói trên.
- Các di tích lịch sử-văn hóa và cách mạng. Tỉnh Lâm Ðồng có 36 di tích đã được xếp
hạng các cấp, trong đó có 2 di tích quốc gia đặc biệt ( Khu di chỉ khảo cổ Cát Tiên và vườn
Quốc gia Cát Tiên), 18 di tích cấp quốc gia, 16 di tích cấp tỉnh, với đy đủ các loại hình: nghệ
thuật kiến trúc, lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh. Về di tích văn hóa, có Bộ Mộc bản triều
Nguyễn đã được công nhận là Di sản tư liệu Thế giới. Tỉnh Ðắk Nông có 10 di tích lịch sử cấp
tỉnh và quốc gia. Trong đó có một di tích lịch sử quốc gia đặc biệt, 06 di tích lịch sử quốc gia,
03 di tích lịch sử cấp tỉnh. Bên cạnh đó, Vùng vốn là cái nôi của phong trào cách mạng trong
các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhất là kháng chiến chống Pháp, Mỹ, nên đã để lại rất
nhiều di tích lịch sử-cách mạng. Trong đó, nhiều di tích lịch sử được công nhận cấp quốc gia
đặc biệt gồm: Tỉnh Lâm Đồng có ba di tích lịch sử cách mạng, gồm: Nhà lao thiếu nhi Ðà Lạt,
Khu ủy Khu VI và Căn cứ kháng chiến Núi Voi. Ở Đắk Nông, những địa chỉ nổi tiếng trên
vùng đất này là di tích lịch sử về phong trào chống Pháp của đồng bào M'Nông do thủ lĩnh
N'Trang Lơng lãnh đạo; đường Trường Sơn-Hồ Chí Minh; Ngục Ðắk Mil và Căn cứ kháng
chiến B4-Liên tỉnh IV,… Đây là những địa điểm có nhiều nét đặc trưng về sinh thái tự nhiên,
thường gắn với núi, rừng, khu bảo tồn đa dạng sinh học, nên rất có tiềm năng khi kết hợp với
các tour du lịch sinh thái.
- Lễ hội văn hóa dân gian. Các tộc người bản địa Vùng có nhiều lễ hội truyền thống rất
đặc sắc, phản ánh đời sống tâm linh, sản xuất gắn với núi rừng, nương rẫy. Các lễ cúng cơm
mới, lễ cúng thn đập nước, lễ cu mưa, lễ bỏ mả,…, gắn với cồng chiêng và các nhạc cụ làm
từ quả bu khô, từ tre nứa, nói lên sự phong phú trong đời sống tinh thn của cư dân bản địa.
Đặc biệt, không gian văn hóa công chiêng, vốn là đặc sắc của cư dân Tây Nguyên, đã được
UNESCO công nhận là di sản phi vật thể truyền khẩu của nhân loại. Các tộc người thiểu số
phía Bắc di cư đến Vùng cũng mang theo nhiều giá trị văn hóa tinh thn và lễ hội khá đặc sắc.
Nhiều lễ hội văn hóa dân gian như liên hoan cồng chiêng, lễ đâm trâu, lễ cúng Giàng của các
tộc người gốc Tây Nguyên; lễ lồng tồng, liên hoan các điệu hát then, hát lượn,… của người
Tày, Thái, thường xuyên được tổ chức nhằm tôn vinh và bảo vệ bản sắc của đồng bào dân tộc
thiểu số trên vùng quê mới.
Gn đây, nhiều loại hình âm nhạc, lễ hội truyền thống ở từng địa phương riêng lẻ được
khai thác, nâng cấp thành các lễ hội du lịch cấp tỉnh để phục vụ du khách trong các hoạt động
du lịch văn hóa đa sắc màu, thu hút số lượng lớn khách từ các vùng miền trong nước và quốc
tế. Nhiều lễ hội hiện đại được tổ chức rất quy mô, như: Festival cồng chiêng Tây Nguyên,
festival hoa Đà Lạt, festival trà-tơ lụa Bảo Lộc, được tổ chức định kì 2 năm một ln. Tại các
festival này, chính quyền và ngành du lịch địa phương đã kết hợp hài hòa các nội dung mới với
nhiều tập quán truyền thống tiêu biểu của đồng bào bản địa (đua voi, cúng bến nước, cúng cơm
mới, diễn tấu cồng chiêng,…), giúp các cộng đồng dân tộc thiểu số tại chỗ giao lưu với du
khách, tạo ra những nét độc đáo riêng có, góp phn phát huy giá trị di sản văn hóa của các dân
tộc thiểu số ở Vùng.
- Văn hóa ẩm thực và nghề thủ công. Ẩm thực độc đáo của Vùng được thể hiện qua các
món ăn truyền thống như: Rượu cn, cơm lam, cá suối trộn rau rừng nấu trong ống tre, các món