
409
Định hướng khai thác và phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tà Đùng, Tỉnh Đăk
Nông gắn với chuyển đổi số
Trần Thu Hương, Lê Quốc Hng Thi, Dương Thị Xuân Diệu
Tóm tắt:
Chuyển đổi số là một trong những mục tiêu được quan tâm hàng đu của các doanh nghiệp
du lịch Việt Nam, bởi những ưu điểm vượt trội mà nó mang lại trong quá trình phát triển, nhất
là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Tà Đùng là
một khu du lịch thuộc tỉnh Đắk Nông có nhiều tiềm năng về cảnh quan thiên nhiên, giá trị về
lịch sử, văn hóa bản địa, là cơ sở để phát triển mạnh loại hình du lịch sinh thái. Tuy nhiên, nơi
đây đang còn gặp nhiều khó khăn và thách thức về thiếu vốn, nhân lực, cơ sở vật chất-hạ tng...
Nghiên cứu này được thực hiện để phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm định
hướng khai thác và phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tà Đùng, Tỉnh Đăk Nông gắn với
chuyển đổi số một cách bền vững.
Từ khoá: Chuyển đổi số; Du lịch sinh thái; Đắk Nông; Tà Đùng.
1. Đặt vấn đề
Khu du lịch Tà Đùng là một trong những vùng đất thiên nhiên tuyệt đp và đa dạng sinh
thái tại Việt Nam. Đóng một vai trò quan trọng trong việc khai thác và bảo tồn tiềm năng du
lịch của khu vực Tây Nguyên. Hồ Tà Đùng với diện tích gn 3,632ha mặt nước và hơn 40 hòn
đảo, bán đảo, Tà Đùng được ví như "Vịnh Hạ Long trên cao nguyên" với cảnh quan thiên nhiên
độc đáo và quyến rũ. Khu du lịch Tà Đùng có vị trí địa lý chiến lược, nằm trong tỉnh Đắk Nông,
có đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa và văn hóa đa dạng của 40 dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển du lịch sinh thái. Nằm trên cao nguyên với địa hình thung lũng và cao nguyên rải
rác có rừng nguyên sinh, Tà Đùng sở hữu nhiều cảnh quan thơ mộng, hùng vĩ (Tiến Thành,
2016). Phát triển du lịch sinh thái tại Khu du lịch Tà Đùng mang đến nhiều lợi ích và vai trò
quan trọng cho cộng đồng bản địa tạo ra cơ hội phát triển kinh tế và tăng thu nhập cho địa
phương, giúp tạo ra việc làm cho hàng chục ngàn lao động, nâng cao mức sống của cộng đồng
địa phương. Bên cạnh đó, việc phát triển du lịch sinh thái còn giúp bảo vệ và giữ gìn vẻ đp
nguyên sơ của cảnh quan tự nhiên, đồng thời tăng cường nhận thức về bảo vệ môi trường của
du khách, góp phn phát triển kinh tế, giúp bảo tồn và khai thác tiềm năng du lịch của khu vực
Tây Nguyên. Bên cạnh những thuận lợi thì khó khăn lớn nhất hiện nay mà khu du lịch đang gặp
phải là những khó khăn về vốn, cơ sở hạ tng, nguồn nhân lực. Đặc biệt là dưới thách thức của
công nghệ số trong phát triển kinh tế du lịch, thì Tà Đùng cn phải có những giải pháp thích
ứng với sự thay đổi đó. Nghiên cứu này được thực hiện để phân tích, đánh giá thực trạng phát
triển du lịch sinh thái tại Tà Đùng. Dựa trên kết quả nghiên cứu, một số hàm ý chính sách được
đề xuất góp phn bảo vệ môi trường và phát triển bền vững hoạt động du lịch sinh thái tại khu
du lịch Tà Đùng, Đăk Nông gắn với chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Du lịch sinh thái
Theo luật du lịch Việt Nam 2017: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên
nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương, có sự tham gia của cộng đồng dân cư, kết hợp giáo
dục về bảo vệ môi trường”.

410
Theo tổ chức bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN): “Du lịch sinh thái là tham quan và du
lịch có trách nhiệm với môi trường tại các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên
nhiên và đặc điểm văn hóa đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích
hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra, và tạo ra lợi ích
cho những người dân địa phương tham gia tích cực”. (Ceballos – Lascurain, 1996)
Theo tác giả Trn Văn Thông: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên
và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển
bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”. (Trn Văn Thông, 2009)
2.1.2. Chuyển đổi số
Chuyển đổi số (Digital Transformation) là khái niệm ra đời trong thời đại internet bùng
nổ, đang trở nên phổ biến trong thời gian gn đây, mô tả việc ứng dụng công nghệ số (digitalize)
vào tất cả các khía cạnh của doanh nghiệp. Nếu đạt hiệu quả, hoạt động này sẽ thay đổi toàn
diện (transformation) cách thức mà một doanh nghiệp hoạt động, tăng hiệu quả hợp tác, tối ưu
hóa hiệu suất làm việc và mang lại giá trị cho khách hàng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu: Thu thập các tài liệu, đề tài, các công trình
nghiên cứu liên quan về vấn đề chuyển đổi số gắn với phát triển du lịch sinh thái trong và ngoài
nước.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát: Đối tượng là 550 khách du lich tại khu du lịch Tà
Đùng, Tỉnh Đăk Nông. Tác giả gửi phiếu khảo sát qua email, facebook, zalo và kết hợp phỏng
vấn trực tiếp bằng phiếu khảo sát. Thang đo Likert được sử dụng để thiết kế bảng khảo sát hỏi
ý kiến, làm rõ thực trạng về chất lượng cơ sở vật chất, sản phẩm du lịch, nguồn nhân lực và các
yếu tố khác của khu du lịch. Câu hỏi được thiết kế với 5 mức độ: 5 - Rất đồng ý; 4 - Đồng ý; 3
- Tương đối đồng ý; 2 - Không đồng ý; 1 - Rất không đồng ý. Sau khi làm sạch và loại bỏ các
phiếu không hợp lệ, số phiếu thu về là 500 phiếu. Qua đó, tạo cơ sở để tác giả đề xuất định
hướng khai thác và phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tà Đùng, Tỉnh Đăk Nông gắn với
chuyển đổi số một cách bền vững.
2.3. Thực trạng phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tà Đùng, Đăk Nông gắn
với chuyển đổi số
2.3.1. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tà Đùng
Khu du lịch Tà Đùng nằm tại Vườn Quốc Gia Tà Đùng, tọa lạc trên lãnh thổ hành chính
của xã Đắk Som, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông. Diện tích tự nhiên của vườn quốc gia rộng
lớn, với tổng diện tích là 20.937,7 ha. Địa hình khu vực này được hình thành bởi dãy núi Trường
Sơn Nam Trung Bộ, với đỉnh cao nhất là đỉnh Chu Yang Sin (2.442m) (Uỷ ban nhân dân tỉnh
Đăk Nông, 2017). Khu vực đất rừng tại Tà Đùng có đa dạng loại đất, bao gồm đất phyllite, đất
đá bazan, đất andosol, đất phù sa và đất đỏ. Nó được chia thành ba phân khu chức năng để đáp
ứng các mục tiêu bảo vệ, phục hồi sinh thái và cung cấp dịch vụ cho cộng đồng.
Vườn quốc gia Tà Đùng có nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên rừng và
bảo tồn các nguồn gien quý, hiếm, đồng thời duy trì tính toàn vn của hệ sinh thái rừng kín lá
rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới núi thấp và rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt

411
đới thuộc vùng sinh thái Tây Nguyên. Ngoài ra, vườn quốc gia còn đóng vai trò cung cấp các
dịch vụ môi trường rừng và đảm bảo an ninh môi trường. Nó cũng có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ đu nguồn của lưu vực sông Đồng Nai và sông Krông Nô – Sêrêpok, đảm bảo
nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất điện và phục vụ các hoạt động kinh tế trong khu vực phía
Nam. Nơi đây còn là một kho tàng động thực vật đáng kinh ngạc. Với hệ động thực vật phong
phú, khu vực này có hơn 1.800 loài thực vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm và đặc hữu. Cây
Hương (Pterocarpus macrocarpus), Cây Sưa (Dalbergia odorifera) và cây trm (Cinnamomum
cassia), cây Thông ba lálà những loài cây đáng chú ý trong khu vực này. Đồng thời, Tà Đùng
cũng là một môi trường sống quan trọng cho nhiều loài động vật quý hiếm sinh sống,…(Hoàng
Anh, 2021).
Về điều kiện xã hội, Khu du lịch Tà Đùng thuộc huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông, nằm
ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Với dân số trên 70.000 người, đây là một khu
vực có đặc điểm văn hóa đa dạng, nơi mà những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc Ê
Đê, M'Nông, Chơ Ro... được gìn giữ và phát triển. Du khách có thể tìm hiểu và trải nghiệm
phong tục, tập quán truyền thống của người dân bản địa thông qua các hoạt động giao lưu văn
hóa và thưởng thức ẩm thực đặc sản. Khu du lịch Tà Đùng đóng vai trò quan trọng trong việc
cung cấp các hoạt động và trải nghiệm đa dạng cho khách tham quan. Với mục tiêu tạo ra một
môi trường tự nhiên và văn hóa thu hút, Khu du lịch này đã thành công trong việc phát triển
một loạt chương trình và hoạt động phong phú.
Một trong những chức năng của Khu du lịch Tà Đùng là tạo điều kiện cho khách tham
quan khám phá và khám phá vẻ đp thiên nhiên tuyệt vời. Với hồ Tà Đùng là trung tâm, khách
tại đây có thể tham gia vào các hoạt động như dạo thuyền trên hồ, tận hưởng không gian yên
bình và tưởng tượng. Thêm vào đó, Khu du lịch cũng cung cấp các chương trình cắm trại qua
đêm, cho phép khách tham quan trải nghiệm cuộc sống ngoài trời và tận hưởng khung cảnh ban
đêm tuyệt đp của khu vực. Tuy nhiên, Khu du lịch Tà Đùng hiện tại đang gặp khá nhiều khó
khăn và cn cải thiện để đạt chuẩn. Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp hoạt
động và trải nghiệm cho du khách, nhưng Khu du lịch chưa thực sự đa dạng và chưa thể tạo ra
một môi trường tự nhiên và văn hóa thu hút. Ngoài ra, lĩnh vực hoạt động của Khu du lịch Tà
Đùng chưa đa dạng và phủ sóng rộng. Các hoạt động và trải nghiệm tại đây chưa đáp ứng đủ
nhu cu và sở thích của đa dạng khách tham quan. Cn có sự đa dạng hóa về các hoạt động tự
nhiên, văn hóa, giáo dục, giải trí và ẩm thực để thu hút và đáp ứng đa dạng đối tượng khách
hàng.
2.3.2. Thực trạng hoạt động du lịch sinh thái tại khu du lịch Tà Đùng gắn với chuyển
đổi số
Khu du lịch Tà Đùng đóng một vai trò quan trọng trong việc khai thác và bảo tồn tiềm
năng du lịch của khu vực Tây Nguyên. Là một trong những điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh
thuộc Vườn Quốc gia Tà Đùng, được Unesco công nhận là Công viên địa chất toàn cu.Khu
bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng có tổng diện tích 20.338,8ha với hơn 47 hòn đảo lớn nhỏ. Trên
các đảo chủ yếu là rừng le, lồ ô và rừng hỗn giao tre nứa - gỗ. Tà Đùng có lớp thảm thực vật
rừng rộng lớn, tỉ lệ che phủ tới 85% diện tích vùng lõi của khu bảo tồn, bao gồm rừng nguyên
sinh (chiếm 48%), rừng thứ sinh các loại (36%), (Tiến Thành, 2016).
Hiện nay, du lịch Tà Đùng vẫn còn khá mới mẻ và hoang sơ, chưa có nhiều dự án đu tư
phát triển. Các cơ sở kinh doanh du lịch tại đây chủ yếu do người dân địa phương tự phát, có
quy mô nhỏ và trang thiết bị đơn giản. Dịch vụ lưu trú chủ yếu là các phòng chòi, chòi lắp ghép,

412
lều hay homestay, sức chứa không cao. Dịch vụ ăn uống cũng khá giới hạn, chủ yếu là các món
ăn đặc sản của vùng Tây Nguyên như cơm lam, gà nướng, cá kìm… Dịch vụ du lịch lòng hồ
cũng chỉ do người dân tự cung cấp, với các loại thuyền nhỏ như thuyền máy, thuyền kayak hay
thuyền buồm. Du khách có thể trải nghiệm một cuộc sống giản dị, gn gũi với thiên nhiên và
tận hưởng không khí trong lành của núi rừng. Một số hoạt động du lịch hấp dẫn tại Tà Đùng là
cắm trại, trekking, đi thuyền trên hồ, bơi lội, khám phá hang động Chư Bluk, ngắm thác Diệu
Thanh hay check in tại các điểm chụp ảnh đp như Tà Đùng top view hay Tà Đùng Bee Farm.
Sự thành công và khả năng cạnh tranh của một điểm du lịch phục thuộc phn lớn vào sức
mạnh và sự đa dạng của các yếu tố du lịch, đặc biệt là điểm đến được trình bày cho du khách.
Khu du lịch Tà Đùng với các nguồn tài nguyên nhân văn có sẵn, là một điểm đến hấp dẫn. Mặc
dù hoạt động du lịch của Tà Đùng trong thời gian qua đã có nhiều tín hiệu tích cực song vẫn
chưa khai thác tương xứng với tiềm năng vốn có, hu như sự phát triển ở khu vực này chủ yếu
là do sự tự phát của người dân và cộng đồng địa phương. Họ đã tự tạo ra và vận hành một số
hoạt động du lịch nhỏ, nên vẫn chưa khai thác hết được tiềm năng của khu du lịch, cũng như
tạo ra các sản phẩm du lịch thiếu sự chuyên nghiệp, nhất là sự ứng dụng của công nghệ số vào
phát triển là chưa cao. Đi sâu vào thảo luận, trao đổi với cán bộ quản lý địa phương, người dân
bản địa và các doanh nghiệp.. Tác giả thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên
nhưng nổi lên có một số nguyên nhân chính sau:
Một là, cơ sở hạ tầng cho phát triển các hoạt động du lịch sinh thái gắn với công nghệ
số tại khu du lịch còn nhiều hạn chế
Phát triển du lịch sinh thái gắn với công nghệ số được phát triển trên nền tảng ứng dụng
khoa học công nghệ, công nghệ thông tin-truyền thông. Đây được coi là điều kiện mang tính
tiên quyết. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng về công nghệ để Tà Đùng phát triển chưa có. Việc ứng
dụng công nghệ thông tin mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các dữ liệu của các website, các
thông tin về điểm đến ít được cập nhật, giao dịch trực tuyến còn hạn chế, chưa liên kết được
các tập đoàn truyền thông trên thế giới để quảng bá truyền thông cho khu du lịch. Theo một cán
bộ khu bảo tồn, dịch vụ du lịch tại khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng còn hết sức thiếu thốn. “Do
thiếu chỗ ăn uống, nghỉ ngơi và dịch vụ tiện ích nên thỉnh thoảng mới có những nhóm phượt
tới đây khám phá rồi dựng lều ngủ qua đêm” - vị này nói. Cũng theo vị này, vào năm 2014
UBND tỉnh Đắk Nông đã có định hướng quy hoạch Tà Đùng thành khu du lịch sinh thái - văn
hóa nhưng đến nay vẫn chưa có nhà đu tư nào tham gia (Tiến Thành, 2016).
Mặc dù Tà Đùng đã có một số cơ sở lưu trú, ăn uống để đáp ứng nhu cu nghỉ ngơi và ăn
uống cho du khách. Tuy nhiên, thông tin cụ thể về số lượng phòng và khách, cũng như thông
tin về các nhà hàng và quán ăn cụ thể chưa được phổ biến một cách rộng rãi và không được cập
nhật trên các trang mạng thông tin điện tử, hu như chỉ có du khách đã đến Tà Đùng tham quan
mới biết và truyền lại cho bạn bè, người thân. Về các dịch vụ vui chơi giải trí, Tà Đùng hiện tại
vẫn chưa có các cơ sở có chất lượng và chuyên nghiệp. Sự hạn chế về các hoạt động vui chơi,
giải trí và thể thao đã làm giới hạn khả năng thu hút du khách ở lại lâu dài. Theo thống kê của
Sở văn hoá, thể thao và du lịch của tỉnh, số ngày lưu trú của khách chỉ rơi vào từ 1 đến 2 ngày.
Du khách có thể tận hưởng không gian tự nhiên và không khí trong lành của vùng núi, nhưng
sự thiếu hụt các hoạt động giải trí có thể khiến họ tìm kiếm những điểm đến khác.
Theo Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Nông, Tà Đùng là điểm di sản thuộc
Công viên địa chất toàn cu UNESCO Đắk Nông, thu hút rất đông du khách. Tuy nhiên các cơ
sở kinh doanh hiện nay tại Tà Đùng chủ yếu có quy mô nhỏ như tham quan, lưu trú, ăn uống…

413
Dịch vụ lưu trú chủ yếu các phòng chòi, chòi lắp ghép, lều quy mô nhỏ, sức chứa trung bình
mỗi cơ sở từ 5 – 30 khách, trang thiết bị còn hạn chế. Một số người dân tự phát đu tư kinh
doanh các hoạt động du lịch. Bên cạnh đó, Khu vực Tà Đùng chưa có quy hoạch xây dựng, quy
hoạch chi tiết. Đất đai ở đây hu hết là đất nông nghiệp và một phn đất ở nông thôn (Hoàng
Anh, 2021).
Hai là, các sản phẩm và dịch vụ tại khu du lịch còn khá đơn điệu, gây sự nhàm chán cho
du khách
Sự độc đáo chỗ của các dịch vụ này cũng chưa được thể hiện một cách rõ ràng. Dịch vụ
chủ yếu tập trung vào tham quan hồ Tà Đùng bằng thuyền, cắm trại và khám phá suối và thác
nước. Mặc dù những hoạt động này mang đến trải nghiệm thú vị và gn gũi với thiên nhiên,
chưa có sự phát triển và cung cấp các dịch vụ đa dạng hơn nhằm đáp ứng nhu cu của đa số
khách du lịch hay có sự khác biệt để làm nổi nổi bật khu du lịch Tà Đùng so với các địa điểm
khác.
Sự đơn điệu, nghèo nàn của các loại hình và sản phẩm du lịch là tình trạng chung cho các
địa phương trong Tỉnh, sản phẩm tại khu du lịch chủ yếu dựa vào thiên nhiên kết hợp với dịch
vụ như ăn uống và nghỉ dưỡng. Thiếu những sản phẩm du lịch và dịch vụ cao cấp, độc đáo có
chất lượng và uy tín.. Không khai thác các thế mạnh tự nhiên, văn hóa – xã hội của khu du lịch.
Từ đó, dẫn đến bức tranh về du lịch sinh thái của Tà Đùng trở nên manh mún, rời rạc, kém hiệu
quả và phn lớn chưa đúng với bản chất của du lịch sinh thái, trong đó phổ biến là thiếu nội
dung về “giáo dục môi trường”; “có sự đóng góp cho nỗ lực bảo tồn”; và “có sự tham gia tích
cực của cộng đồng”. Vì vậy chưa xây dựng được ‘thương hiệu” du lịch sinh thái Tà Đùng của
Tỉnh
Ba là, còn sự thiếu hụt về nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao
Muốn phát triển được loại hình du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được đội ngũ nhân lực có
chất lượng cao mới có có đủ kiến thức và kỹ năng về ngoại ngữ, kinh tế, lịch sử, địa lý, văn
hóa, xã hội... để phục vụ đối tượng khách có trình độ du lịch cao. Tuy nhiên nguồn nhân lực
này còn yếu và thiếu cả về số lượng và chất lượng. Trình độ chuyên môn của lao động tại khu
du lịch Tà Đùng chủ yếu là lao động chưa qua đào tạo (49%). Điều này tạo ra một rào cản lớn
trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và tăng năng suất lao động. Mức thu nhập của
lao động nông thôn tại khu du lịch Tà Đùng hu hết ở mức thấp, với phn lớn thu nhập từ 36 -
50 triệu đồng/người/năm. Đây là một mức sống khá thấp. Tổng quan, tình trạng lao động tại
Đắk Nông nói chung và khu du lịch Tà Đùng nói riêng đang đối diện với một số thách thức và
phải sử dụng lao động không đúng tm trong một số vị trí quan trọng trong khu du lịch. Người
thợ thủ công – những hướng dẫn viên tại khu du lịch thì thiếu những kiến thức chung về văn
hóa, về nghiệp vụ du lịch, ngoại ngữ cũng như khả năng giao tiếp với khách du lịch nên không
giới thiệu, bán sản phẩm hiệu quả.
Bốn là, công tác xúc tiến quảng bá du lịch còn mang tính hình thức chưa hiệu quả
Mặc dù đã có một số nỗ lực và cải thiện trong việc xúc tiến và quảng bá du lịch Tà Đùng,
tuy nhiên, việc đu tư và sử dụng nguồn lực vẫn còn hạn chế. Chủ yếu, hoạt động du lịch tại
khu vực này vẫn phụ thuộc chủ yếu vào sự tự phát của người dân và các đơn vị kinh doanh địa
phương. Một điểm đáng chú ý là việc thành lập trang web chính thức để cung cấp thông tin
đáng tin cậy và thuận tiện cho du khách còn rất hạn chế. Đây là nút thắt lớn nhất vì Tà Đùng