T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2017<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC VỀ SƠ CỨU TAI NẠN BỎNG<br />
CỦA MỘT SỐ NHÓM CÔNG NHÂN LÀM VIỆC TRONG<br />
ĐIỀU KIỆN CÓ NGUY CƠ CHÁY NỔ CAO<br />
Nguy n Nh Lâm*; H Th Xuân H ơng*<br />
Chu Anh Tu n*; Tr n Quang Trung**<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: đánh giá kiến thức của nhóm nguy cơ cao đối với sơ cấp cứu tai nạn bỏng. Đối tượng<br />
và phương pháp: điều tra cắt ngang 674 công nhân làm việc trong lĩnh vực cứu hỏa, dầu khí và<br />
điện lực về sơ cấp cứu sau bỏng. Nội dung điều tra bao gồm đặc điểm đối tượng, biện pháp sơ<br />
cứu sau bỏng và nguồn thông tin có được. Kết quả: chỉ có 29,54% đối tượng trả lời đúng trên<br />
75% số câu hỏi. 86,05% biết sử dụng nước sạch để làm lạnh bề mặt vết bỏng. Nhóm trẻ tuổi,<br />
nam giới và những người đã được tập huấn về sơ cứu bỏng có nhận thức cao hơn đáng kể so<br />
với nhóm còn lại (p < 0,001). Có sự khác biệt giữa nhận thức của đối tượng thuộc các ngành<br />
nghề khác nhau (p < 0,01). Nguồn thông tin chủ yếu từ phương tiện truyền thông và trường học<br />
chiếm 8%. Kết luận: kiến thức của công nhân có nguy cơ cao về sơ cứu bỏng còn nhiều hạn<br />
chế. Cần có các lớp tập huấn để nâng cao kiến thức cho nhóm đối tượng này.<br />
* Từ khóa: Bỏng; Sơ cứu; Nhóm nguy cơ cao.<br />
<br />
Evaluation of Knowledge of First-aid Treatment for Burn Wounds<br />
in Workers Working in High Risk of Fire<br />
Summary<br />
Objectives: To evaluate knowledge of first aid treatment for burn wounds of high risk groups.<br />
Subjects and methods: A cross-sectional survey was conducted on 674 workers including fire<br />
fighters, employers working in electric power and oil industry. The contents of survey focused on<br />
demographic criteria, first aid measurement for burn accidents and source of information.<br />
Results: Only 29.54% of the participants had right answer of more than 75% of total questions.<br />
86.05% of participants knew how to use cool fresh water to reduce the temperature of the burn<br />
wound. In addition, higher knowledge level was significantly seen in a sub-group of younger,<br />
male workers as well as who took part in training courses (p < 0.001). There was difference in<br />
awareness of levels among sub-groups of employers (p < 0.01). Information source mostly<br />
came from multimedia, only 8% from school. Conclusion: Knowledge of first aid treatment of<br />
high risk workers was significantly limited. It is necessary to conduct further training courses for<br />
this groups.<br />
* Key words: Burn; First-aid treatment; High risk of fire.<br />
* Viện Bỏng Lê Hữu Trác<br />
** Học viện Quân y<br />
Ng i ph n h i (Corresponding): Tr n Quang Trung (trungk10@yahoo.com.vn)<br />
Ngày nh n bài: 03/12/2016; Ngày ph n bi n đánh giá bài báo: 10/01/2017<br />
Ngày bài báo đ c đăng: 20/01/2017<br />
<br />
201<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2017<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Công tác sơ cấp cứu ngay sau bỏng<br />
bao gồm các bước đơn giản như đưa nạn<br />
nhân ra khỏi vùng nguy hiểm, loại bỏ tác<br />
nhân bỏng, đảm bảo chức năng sống, làm<br />
lạnh bề mặt vùng bỏng, bù nước điện giải,<br />
ủ ấm và gọi sự trợ giúp của nhân viên y tế.<br />
Thực tế cho thấy, mức độ nặng hay nhẹ<br />
của tổn thương bỏng cũng như thành<br />
công của điều trị bỏng không chỉ phụ<br />
thuộc vào hiệu quả điều trị tại các trung<br />
tâm bỏng mà còn phụ thuộc nhiều vào<br />
công tác sơ cứu ngay sau bỏng. Tuy nhiên,<br />
qua thực tế tiếp nhận điều trị bệnh nhân<br />
bỏng, đặc biệt trong các vụ bỏng có nhiều<br />
nạn nhân, các biện pháp sơ cứu thường<br />
không được thực hiện đầy đủ, bị bỏ qua,<br />
thậm chí còn áp dụng các biện pháp sai<br />
dẫn đến làm nặng thêm tổn thương bỏng,<br />
làm tăng nguy cơ tử vong. Công nhân<br />
làm việc trong các nhà xưởng, ngành<br />
nghề có nguy cơ cao đối với tai nạn bỏng<br />
như điện lực, dầu khí, nhân viên cứu hỏa,<br />
việc phổ biến kiến thức cơ bản cho các<br />
đối tượng này có vai trò quan trọng trong<br />
xử lý sơ cấp cứu tai nạn bỏng. Nghiên cứu<br />
này nhằm: Đánh giá kiến thức của các đối<br />
tượng nguy cơ cao về sơ cứu tại chỗ nạn<br />
nhân bỏng nhằm đưa ra biện pháp can<br />
thiệp nâng cao kiến thức và kỹ năng sơ<br />
cấp cứu bỏng của những đối tượng này.<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
Nghiên cứu tiên cứu trên 674 cán bộ<br />
công nhân viên của các ngành có nguy<br />
cơ cao đối với bỏng gồm điện lực, dầu<br />
khí, cứu hỏa đang công tác tại một số tỉnh<br />
thành trong cả nước từ tháng 1 - 2015<br />
đến tháng 9 - 2015. Điều tra thông qua<br />
bảng hỏi bao gồm 11 câu hỏi về kiến thức<br />
202<br />
<br />
sơ cứu tai nạn bỏng và 01 câu hỏi về<br />
nguồn thông tin. Các tiêu chí đánh giá<br />
bao gồm: tuổi, giới tính, trình độ học vấn,<br />
nghề nghiệp (dầu khí, điện lực, cứu hỏa),<br />
kiến thức về sơ cứu khi bị bỏng bao gồm:<br />
làm lạnh, thời điểm và phương pháp áp<br />
dụng, che phủ vết bỏng, ủ ấm, cách sơ<br />
cứu trong các tình huống hỏa hoạn,<br />
nguồn thông tin có được từ đâu. Số liệu<br />
thu thập sau khi được phân nhóm, lập<br />
bảng, biểu đồ, tính giá trị trung bình, χ2 để<br />
so sánh giữa các biến số xác định mối<br />
liên quan giữa đặc điểm đối tượng điều<br />
tra như tuổi, giới, nghề nghiệp đối với<br />
kiến thức về sơ cấp cứu sau bỏng. Số liệu<br />
được xử lý trên phần mềm Intercool Stata<br />
11.0. Giá trị p < 0,05 được coi có ý nghĩa<br />
thống kê.<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Bảng 1: Đặc điểm của nhóm đối tượng<br />
được khảo sát (n = 674).<br />
Đặc<br />
điểm<br />
Giới tính<br />
Học vấn<br />
<br />
Nghề<br />
nghiệp<br />
<br />
Tuổi<br />
<br />
Phân<br />
nhóm<br />
<br />
Số<br />
lượng<br />
<br />
Tỷ lệ<br />
(%)<br />
<br />
Nam<br />
<br />
558<br />
<br />
82,79<br />
<br />
Nữ<br />
<br />
116<br />
<br />
17,21<br />
<br />
Hết lớp 12<br />
<br />
663<br />
<br />
98,37<br />
<br />
Chưa hết lớp 12<br />
<br />
11<br />
<br />
1,63<br />
<br />
Dầu khí<br />
<br />
221<br />
<br />
33,00<br />
<br />
Điện lực<br />
<br />
329<br />
<br />
49,00<br />
<br />
Cứu hỏa<br />
<br />
124<br />
<br />
18,00<br />
<br />
20 - 39<br />
<br />
487<br />
<br />
72,55<br />
<br />
40 - 60<br />
<br />
187<br />
<br />
27,45<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
35,77 ± 8,50<br />
<br />
Trong số 674 người trả lời các câu hỏi<br />
điều tra, nam nhiều hơn nữ (82,79% so<br />
với 17,21%), đa số học hết lớp 12 (98,37%),<br />
công nhân điện lực chiếm 49%, công nhân<br />
lĩnh vực dầu khí 33%; còn lại là nhân viên<br />
cứu hỏa.<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2017<br />
* Kết quả trả lời đúng các nội dung<br />
điều tra (n = 674):<br />
Sử dụng nước mát sơ cứu sau bỏng:<br />
580 người (86,05%); thời điểm tối ưu áp<br />
dụng nước mát: 466 người (69,14%);<br />
thời gian sử dụng nước mát: 294 người<br />
(43,62%); sử dụng nước trong thời tiết<br />
lạnh: 342 người (50,74%); sự cần thiết<br />
phải che phủ vết bỏng: 574 người (85,16%);<br />
<br />
sự cần thiết của ủ ấm nạn nhân: 528 người<br />
(78,34%); phương pháp thoát khỏi nhà<br />
tầng cháy: 482 người (71,51%); tránh<br />
ngạt khói khi cháy nhà tầng: 550 người<br />
(81,60%); sử dụng cầu thang khi cháy<br />
nhà tầng: 447 người (66,32%); xử trí tình<br />
huống bỏng lửa: 245 người (36,35%);<br />
khả năng tự khỏi của vết bỏng: 506 người<br />
(75,07%).<br />
<br />
Biểu đồ 1: Tỷ lệ trả lời đúng trung bình theo nghề nghiệp.<br />
Kiến thức của nhóm công nhân dầu khí tốt nhất trong số 3 nhóm nghề nghiệp (74,36%<br />
số câu hỏi được trả lời đúng), tiếp đến nhóm công nhân ngành điện lực (67,58%).<br />
Lực lượng cứu hỏa chỉ đạt 56% số câu hỏi trả lời đúng.<br />
Bảng 3: Tỷ lệ trung bình số câu hỏi trả lời đúng theo giới, tuổi, tập huấn (%).<br />
Chỉ tiêu đánh giá<br />
Giới tính<br />
Lứa tuổi<br />
Tập huấn<br />
<br />
Phân nhóm<br />
<br />
X ± SD<br />
<br />
95%CI<br />
<br />
p<br />
<br />
Nam (n = 558)<br />
<br />
68,60 ± 15,70<br />
<br />
67,31 - 69,84<br />
<br />
0,009<br />
<br />
Nữ (n = 116)<br />
<br />
60,01 ± 18,40<br />
<br />
59,69 - 66,47<br />
<br />
20 - 39 (n = 487)<br />
<br />
69,30 ± 16,60<br />
<br />
67,82 - 70,78<br />
<br />
40 - 60 (n = 187)<br />
<br />
60,40 ± 15,00<br />
<br />
61,26 - 65,60<br />
<br />
Đã qua tập huấn<br />
<br />
83,64 ± 8,54<br />
<br />
82,52 - 84,76<br />
<br />
Chưa qua tập huấn<br />
<br />
59,51 ± 13,07<br />
<br />
58,29 - 60,73<br />
<br />
0,001<br />
0,001<br />
<br />
Tỷ lệ trung bình của số câu hỏi được trả lời đúng của đối tượng nam cao hơn nữ<br />
(68,60 ± 15,70% so với 60,01 ± 18,42%; p < 0,01). Lứa tuổi từ 20 - 39 có nhận thức tốt<br />
hơn nhóm còn lại (tỷ lệ các câu hỏi được trả lời đúng là 69,30 ± 16,6% so với 60,40 ±<br />
15,00%; p < 0,01). Tỷ lệ trả các câu hỏi được trả lời đúng ở nhóm đối tượng đã qua<br />
tập huấn sơ cấp cứu bỏng trước đó cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm còn lại<br />
(83,64 ± 8,54% so với 59,51 ± 13,07%, p < 0,01).<br />
203<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2017<br />
<br />
Biểu đồ 2: Kết quả tổng hợp điều tra kiến thức.<br />
Kết quả tổng hợp điều tra cho thấy 199 đối tượng (29,54%) điều tra trả lời đúng trên<br />
75% số câu hỏi, 94 người được hỏi (13,94%) trả lời đúng chưa đạt một nửa số câu hỏi<br />
điều tra.<br />
<br />
Biểu đồ 3: Nguồn gốc thông tin có được (n = 674).<br />
Nguồn cung cấp nhiều nhất là truyền thông (42%) và các hình thức kết hợp (47%),<br />
chỉ có 8% từ trường học.<br />
BÀN LUẬN<br />
Kiến thức của cộng đồng nói chung và<br />
của nhóm đối tượng nguy cơ cao có vai<br />
trò quan trọng, thậm chí quyết định hiệu quả<br />
của việc tự cứu, cứu lẫn nhau, góp phần<br />
giảm thiểu mức độ nặng của tổn thương<br />
204<br />
<br />
cũng như nguy cơ tử vong sau bỏng.<br />
Theo các thông báo, kiến thức của cộng<br />
đồng về sơ cứu tai nạn bỏng còn nhiều<br />
hạn chế [2, 8]. Wallace H.J và CS (2013)<br />
điều tra trên 2.602 người lớn tại một câu<br />
lạc bộ thể thao về sơ cấp cứu bỏng thấy<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2017<br />
tỷ lệ có kiến thức đầy đủ 30 - 50% tùy<br />
theo tác nhân bỏng [9]. Nghiên cứu của<br />
Graham H.E (2011) đánh giá kiến thức về<br />
sơ cứu ban đầu khi bị bỏng giữa các bậc<br />
cha mẹ ở Nam Yorkshire (Anh) cho thấy:<br />
73% biết cần rửa vết bỏng dưới nước<br />
mát và 92% che phủ vết thương bằng<br />
băng gạc thích hợp, chỉ < 40% cha mẹ<br />
được hỏi sẽ loại bỏ quần áo và đồ trang<br />
sức nóng và 35% làm mát vết bỏng đủ<br />
thời gian yêu cầu [4].<br />
Bazargani H.S và CS (2013) điều tra<br />
trên bệnh nhân bỏng thấy: phần lớn cho<br />
rằng việc đến được cơ sở y tế là tốt nhất,<br />
đồng thời sử dụng nước làm lạnh vết<br />
bỏng sẽ gây hại cho tổn thương bỏng, sử<br />
dụng các thuốc dân gian có tác dụng<br />
giảm đau nhanh, dự phòng nhiễm khuẩn,<br />
nhanh liền vết bỏng và dự phòng sẹo<br />
bỏng. Rất ít người biết cách dập lửa và<br />
thoát khỏi đám cháy cho bản thân và<br />
người khác, đa phần cho rằng bỏng vùng<br />
ngực, bỏng điện là nặng nhất và nguy<br />
hiểm nhất. Trong nghiên cứu của Hsiao M<br />
và CS (2007) điều tra kiến thức của học<br />
sinh, sinh viên tại Campuchia về sơ cấp<br />
cứu bỏng: 36% có kiến thức về dự phòng<br />
và sơ cấp cứu bỏng, 13% trả lời dùng<br />
nước để làm lạnh vết bỏng, 7% biết cách<br />
dập lửa trên người bằng lăn trên mặt đất.<br />
Nhiều trường hợp sử dụng kem đánh<br />
răng (18%), băng vết bỏng ngay (8%)<br />
hoặc gọi trợ giúp (7%) mà không dùng<br />
nước [6]. Harvey L.A và CS (2011) thông<br />
báo kết quả điều tra về kiến thức sơ cứu<br />
bỏng tại Úc cho thấy 82% sử dụng nước<br />
mát làm lạnh vết bỏng, tuy nhiên chỉ 9%<br />
sử dụng trong 20 phút, rất ít người trả lời<br />
cần giữ ấm cho nạn nhân và các thông tin<br />
có được là từ sách báo (42%) và internet<br />
<br />
(33%) [5]. Đánh giá kiến thức của người<br />
nhà bệnh nhân bỏng tại bệnh viện của Anh,<br />
nhóm nghiên cứu của Davies M và CS<br />
(2013) thông báo chỉ có 32% số người<br />
được hỏi có kiến thức đầy đủ về sơ cấp<br />
cứu bỏng, mức độ hiểu biết không liên<br />
quan chặt chẽ đến thành phần xã hội,<br />
thu nhập và tuổi [3].<br />
Tại Việt Nam, nghiên cứu trên 118<br />
bệnh nhân bỏng tại Bệnh viện Đa khoa<br />
Nam Định, Vũ Mạnh Độ và CS báo cáo<br />
chỉ có 21,9% số trường hợp sơ cứu đúng,<br />
18,6% bệnh nhân không được sơ cứu [1].<br />
Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và CS (2013),<br />
khảo sát 200 đối tượng tham gia điều tra<br />
kiến thức sơ cứu bỏng cho thấy 40,5%<br />
người dân có kiến thức đạt về sơ cứu<br />
bỏng nhiệt. 38,7% người dân có kiến thức<br />
đúng về làm lạnh vết thương. 15% người<br />
dân biết cần băng bó/che phủ tạm thời<br />
vết thương [2]. Trong nghiên cứu này,<br />
chúng tôi tập trung điều tra kiến thức về<br />
sơ cấp cứu bỏng của nhóm đối tượng<br />
nguy cơ cao gồm điện lực, cứu hỏa, dầu<br />
khí. Kết quả phản ánh tình trạng chung là<br />
kiến thức sơ cứu còn hạn chế, đặc biệt<br />
trong các tình huống kết hợp.<br />
Một điều đáng chú ý là kiến thức có<br />
được đa phần từ phương tiện thông tin<br />
đại chúng, không phải từ trường học, đây<br />
là thông tin hữu ích cho các trường phổ<br />
thông để bổ sung chương trình đào tạo kỹ<br />
năng sống cho học sinh. Nghiên cứu của<br />
Nguyễn Thúy Quỳnh và CS cho thấy kiến<br />
thức sơ cứu khi bị bỏng của người dân<br />
biết nhiều nhất thông qua bạn bè/người<br />
thân/những người xung quanh (46%), sau<br />
đó đến đài/báo/tivi (36%) [2]. Nghiên cứu<br />
của Nguyễn Mạnh Độ và CS cũng cho<br />
thấy chỉ có 10,8% nguồn thông tin từ<br />
trường học [1].<br />
205<br />
<br />