
1 2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Luận án
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) hay còn được gọi là
Công nghiệp 4.0 (CN 4.0) đã và đang làm thay đổi mạnh mẽ mọi mặt trong
đời sống của loài người hiện đại, với tốc độ ở cấp số nhân. Đó được xem là
cơ hội thay đổi vận mệnh phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam, có thể “bứt tốc” mạnh mẽ, thu hẹp khoảng
cách phát triển với các nước giàu có, các nước công nghiệp phát triển. Tuy
nhiên, đó cũng là thách thức lớn, nếu các quốc gia không sẵn sàng cho cuộc
cách mạng mới, khoảng cách phát triển chắc chắn sẽ tiếp tục gia tăng. Nhiều
quốc gia, nhất là các nước phát triển đã đi đầu trong ban hành các cơ chế,
chính sách từ tổng thể toàn nền kinh tế đến các ngành, lĩnh vực cụ thể nhằm
thích ứng, ứng phó, và tận dụng những lợi ích mà cuộc cách mạng mới có thể
đem lại. Ngành công nghiệp CBCT được xem là hạt nhân của nền sản xuất xã
hội và cũng là hạt nhân của các cuộc cách mạng công nghiệp, vì vậy, sự sẵn
sàng của ngành công nghiệp CBCT đối với CMCN 4.0 chắc chắn đóng một
quan trọng đối với các nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, tương thích với
bối cảnh mới.
Vai trò, tầm quan trọng của ngành công nghiệp CBCT đối với nền kinh
tế Việt Nam được thể hiện rõ nét qua các con số thống kê. Ngành công nghiệp
CBCT là ngành cấp 1 có tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị gia tăng (VA)
năm 2021 (gần 27,0%) và đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng VA của cả nước
thời kỳ 2011-2020 (35,0%) (tính toán từ dữ liệu của Tổng cục Thống kê 2021,
Tổng cục Thống kê 2022). Hơn thế nữa, đối với Việt Nam, ngành công nghiệp
CBCT không chỉ được xem là một ngành trụ cột quan trọng cho tăng trưởng
kinh tế suốt thời gian vừa qua kể từ khi tiến hành Đổi mới (năm 1986) mà còn
là một tiền đề quan trọng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại - mục tiêu phát triển đã được đề ra tại nhiều kỳ đại hội Đảng toàn
quốc. Nhà nước Việt Nam đã kiên trì theo đuổi con đường này và coi đây là
phương thức duy nhất để có thể thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, trở thành
một nước phát triển. Ngành công nghiệp CBCT được coi là nền tảng cho quá
trình công nghiệp hóa (CNH) của mọi quốc gia. Hiện nay, có nhiều nghiên
cứu khác nhau về CNH, tuy nhiên, ít tài liệu đo lường mức độ CNH và xác
định rõ một quốc gia là “đã công nghiệp hóa” hay chưa.
Hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu trong nước và quốc tế về mức độ sẵn
sàng của ngành công nghiệp CBCT ở Việt Nam đối với CMCN 4.0 xét trên góc
độ tổng thể vĩ mô, đặc biệt là có sự đối sánh theo thời gian và không gian (so
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới). Do đó, việc xác định liệu
ngành công nghiệp CBCT của Việt Nam đã có sự sẵn sàng thích ứng với
CMCN 4.0 hay chưa là một yêu cầu cấp thiết để có những chính sách, giải
pháp phù hợp nhằm nâng cao sự chuẩn bị của ngành nói riêng và nền kinh tế
nói chung. Vì vậy, nghiên cứu sinh (NCS) lựa chọn đề tài luận án “Đánh giá
mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam đối với
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu chung là đánh giá mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp
CBCT ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0 dựa trên một bộ chỉ số đo lường
ở cấp độ vĩ mô, có căn cứ khoa học và có khả năng áp dụng thực tiễn. Từ đó,
đề xuất những giải pháp, mang hàm ý chính sách, góp phần hạn chế những
nhược điểm và tận dụng những thế mạnh của nền kinh tế nói chung và ngành
công nghiệp CBCT nói riêng để nâng cao mức độ sẵn sàng trong bối cảnh
CMCN 4.0. Mục tiêu cụ thể là:
- Hoàn thiện khung lý thuyết đo lường mức độ sẵn sàng của ngành công
nghiệp CBCT ở Việt Nam đối với CMCN 4.0.
- Xây dựng các tiêu chí cùng với các chỉ tiêu/chỉ số đo lường mức độ
sẵn sàng của ngành công nghiệp CBCT ở Việt Nam đối với CMCN 4.0.
- Phân tích, đánh giá mức độ sẵn sàng đối với CMCN 4.0 của ngành
công nghiệp CBCT ở Việt Nam (có đối sánh với quốc tế) dựa trên các tiêu chí
và các chỉ tiêu, chỉ số đã được xây dựng.
- Xác định các ngưỡng mức độ sẵn sàng của ngành CBCT ở Việt Nam

3 4
đối với CMCN 4.0.
- Từ những kết quả đánh giá và kinh nghiệm quốc tế, đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp CBCT ở Việt
Nam để đáp ứng CMCN 4.0.
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Các vấn đề lý luận cơ bản về CMCN 4.0 và về mức độ sẵn sàng của
ngành công nghiệp CBCT đối với CMCN 4.0 là gì?
- Mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp CBCT đối với CMCN 4.0 ở
Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Cần có giải pháp nào nhằm nâng cao mức độ sẵn sàng của ngành công
nghiệp CBCT ở Việt Nam đối với CMCN 4.0?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là mức độ sẵn sàng của ngành CBCT
ở Việt Nam đối với CMCN 4.0.
Phạm vi nghiên cứu về nội dung
Luận án tập trung xây dựng bộ chỉ số dựa trên các chỉ tiêu đại diện cho
các khía cạnh tiêu biểu thể hiện mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp này.
Có 5 nhóm tiêu chí (trụ cột) của ngành công nghiệp CBCT được phân tích:
(i) Mức độ đóng góp hay vai trò của ngành công nghiệp CBCT trong
nền kinh tế;
(ii) Trình độ hay chất lượng nhân lực của ngành công nghiệp CBCT;
(iii) Sự phát triển của doanh nghiệp trong ngành công nghiệp CBCT;
(iv) Trình độ công nghệ trong ngành công nghiệp CBCT; và
(v) Môi trường thể chế cho ngành công nghiệp CBCT để đáp ứng
CMCN 4.0.
Phạm vi nghiên cứu về không gian
- Ngành CBCT ở Việt Nam xét trên cấp độ vĩ mô (xem xét trên bình diện
tổng thể quốc gia), tức là bao gồm ngành công nghiệp CBCT ở khu vực nhà
nước, khu vực FDI và khu vực tư nhân;
- Luận án lựa chọn đối sánh với các nền kinh tế theo tiêu chí đa dạng
về trình độ phát triển (các nước phát triển và đang phát triển), về vị trí địa lý
(châu Á, Âu, Mỹ, Đại Dương), nhưng phần lớn ưu tiên cho các nước trong
ASEAN, các quốc gia thuộc G-20 (trong đó có nhóm nước BRIC), các quốc gia
Đông Âu đã chuyển đổi, để đối sánh về mức độ sẵn sàng, bao gồm: Hoa Kỳ, Nga,
Đức, Ba Lan, Thụy Điển, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, Australia, Nhật, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Campuchia, Indonesia, Thái Lan,
Philippines, và Ấn Độ.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian
Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển ngành công nghiệp CBCT của
Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020, riêng đối với mức độ sẵn sàng của
ngành công nghiệp CBCT đối với CMCN 4.0 được xem xét trong giai đoạn
2015-2020.
5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu và dữ liệu của luận án
Luận án s dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương php phân tch – tng hp: các đối tượng nghiên cứu được
phân tích, xem xét, đánh giá, từ đó tổng hợp thành những điểm chung và đưa ra
kết luận theo từng nội dung lớn; đối với các chương, các điểm kết luận chung
nhất được trình bày dưới dạng tiểu kết. Trong Luận án, phương pháp phân tích
– tổng hợp được thực hiện trong phần Mở đầu và toàn bộ các chương.
- Phương php quy nạp – diễn giải: Luận án s dụng cả hai phương
pháp này cho phân tích, đánh giá và đưa ra các nhận xét đối với các nội dung
nghiên cứu nhất là trong Chương 1, 2, và 3.
- Phương php so snh: Đây là phương pháp được s dụng xuyên suốt
trong Luận án, từ nội dung về Tổng quan nghiên cứu tại phần Mở đầu, Kinh
nghiệm quốc tế trong Chương 2, và hầu hết các nội dung của Chương 3.
- Phương php phân nhóm: Đây là phương pháp để lựa chọn tiêu chí
(trụ cột) và chỉ tiêu phù hợp với mục tiêu của Luận án. Phương pháp phân
nhóm được dựa trên việc lựa chọn các chỉ tiêu, chỉ số phù hợp với các tiêu
chí/trụ cột được xác định.
- Phương php liệt kê và phương php lô-gic - lịch sử: Các phương pháp

5 6
này được s dụng phổ biến trong phần Mở đầu và Chương 2 của Luận án.
- Phương php thống kê và phương php tnh điểm: Luận án s dụng
phương pháp phân tích thống kê (thống kê mô tả, thống kê suy luận) trong thu
thập, x lý số liệu thống kê kinh tế, dữ liệu điều tra (phỏng vấn chuyên gia).
Do các chỉ tiêu có các đơn vị tính khác nhau, để có thể tính điểm và đối
sánh quốc tế, NCS chuẩn hóa, quy đổi các chỉ tiêu khác nhau về dạng tính điểm.
Cách thức tính điểm được nêu cụ thể hơn trong Chương 2 và được s dụng
trong Chương 3.
- Phương php chuyên gia: Được thực hiện bằng hình thức trao đổi trực
tiếp với một số nhà khoa học, nhà quản l về các nội dung liên quan đến đề
tài Luận án, nhằm tiếp nhận quan điểm và các kiến tuy có tính cá nhân,
nhưng là những gợi mở quan trọng trong việc đánh giá, nhận định và đề xuất
giải pháp.
6. Đóng góp chính của Luận án
Xây dựng một bộ công cụ đo lường mức độ sẵn sàng của ngành công
nghiệp CBCT đối với CMCN 4.0, đảm bảo có tính mới, có luận cứ khoa học
rõ ràng, với các chỉ tiêu, chỉ số dễ thu thập, dễ tính toán, và có khả năng đối
sánh quốc tế và theo thời gian. Từ những phát hiện về thực trạng mức độ sẵn
sàng, Luận án đã đề xuất các định hướng và giải pháp tổng thể và dựa theo
từng nhóm tiêu chí (trụ cột) để nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém và
nâng cao mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp CBCT ở Việt Namtrước
bối cảnh mới.
7. Kết cấu của Luận án
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp
CBCT đối với CMCN 4.0
Chương 3: Thực trạng phát triển ngành công nghiệp CBCT ở Việt Nam
Chương 4: Thực trạng mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp CBCT
ở Việt Nam đối với CMCN 4.0
Chương 5: Đề xuất các giải pháp nâng cao mức độ sẵn sàng của ngành
công nghiệp CBCT ở Việt Nam đối với CMCN 4.0
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Dựa trên các tài liệu tham khảo, có thể phân nhóm thành các nghiên
cứu cho cấp độ khác nhau đối với mức độ sẵn sàng nói chung và của ngành
công nghiệp CBCT nói riêng đối với CMCN 4.0, đó là cấp vĩ mô: quốc gia;
cấp trung mô: vùng/địa phương và cấp vi mô: doanh nghiệp.
1.1. Các cách tiếp cận đánh giá mức độ sẵn sàng
1.1.1. Đánh giá mức độ sẵn sàng ở cấp độ vĩ mô
Có khá nhiều nghiên cứu về mức độ sẵn sàng của nền kinh tế nói chung
và ngành công nghiệp CBCT nói riêng ở cấp độ vĩ mô đối với CMCN 4.0
hoặc CN 4.0, có thể liệt kê một số nghiên cứu như: Sung (2017) đối với Hàn
Quốc, Roland Berger (2014) đối với một số nước châu Âu, Faarup và Faarup
(2017), The Economist (2018) và WEF (2018), CISCO (2020), Portulans
(2016, 2019, 2020) đối với hầu hết các nền kinh tế chính trên thế giới, trong
đó có Việt Nam.
1.1.2. Đánh giá mức độ sẵn sàng cấp độ trung mô
Phân tích, đánh giá về mức độ sẵn sàng của vùng, địa phương đối với
CN 4.0 (cấp trung mô) không có nhiều; có thể kể đến nghiên cứu của Nick và
Pongrácz (2016) và Abonyi, Czvetkó, Honti (2020).
1.1.3. Đánh giá mức độ sẵn sàng ở cấp độ vi mô
Đánh giá mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp hay của một ngành (thực
chất là tập hợp các doanh nghiệp trong cùng một ngành) đối với CMCN 4.0
là chủ đề hấp dẫn đối với nhiều nhà nghiên cứu. Tất cả các nghiên cứu xây
dựng bộ chỉ số đều dựa trên kết quả của các bảng hỏi điều tra, khảo sát đối
với các doanh nghiệp khác nhau. Cũng giống như các nghiên cứu ở cấp độ vĩ
mô, tên cụ thể của từng chỉ số, trọng số của chúng và số lượng sẽ khác nhau
tùy theo cách tiếp cận nghiên cứu của các tác giả, tuy nhiên, chúng lại rất
giống nhau về các mặt cần phải thể hiện để minh chứng sự toàn diện, sự chính

7 8
xác của bộ chỉ số này khi phản ánh mức độ sẵn sàng đối với CMCN 4.0.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng CMCN 4.0
Các công trình nghiên cứu hiện nay đi theo cách tiếp cận vĩ mô và vi
mô. Dù ở cách tiếp cận nào, có thể thấy, các nghiên cứu đều cố gắng chỉ ra
các yếu tố hỗ trợ, thúc đẩy hoặc cản trở sự ứng dụng CMCN 4.0 đối với nền
kinh tế (ở cấp vĩ mô) hoặc đối với (doanh nghiệp). Tuy nhiên, do sự khác nhau
về cách tiếp cận, về mẫu lựa chọn hay về quốc gia mà các tác giả nghiên cứu
đã đưa ra kết luận khác nhau về số lượng các yếu tố và tác động của chúng
đến ứng dụng CMCN 4.0.
1.3. Khoảng trống và hướng nghiên cứu của Luận án
Để bảo đảm tính mới, tránh trùng lặp với các nghiên cứu trước đó,
hướng tiếp cận nghiên cứu của Luận án là cách tiếp cận theo hướng vĩ mô về
mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp CBCT của Việt Nam đối với CMCN
4.0. Đồng thời, do đề cập đến ngành công nghiệp CBCT, nên trong các trụ cột
có đề cập sâu về mức độ phát triển của ngành công nghiệp CBCT (cụ thể là
vai trò của ngành trong nền kinh tế và các chỉ tiêu riêng có của ngành công
nghiệp CBCT như năng suất lao động). Luận án kế thừa, kết hợp các mô hình
đã có để hình thành một mô hình mới, bao gồm các tiêu chí/trụ cột (kèm theo
các chỉ tiêu, chỉ số) đánh giá đo lường mức độ sẵn sàng cho ngành công nghiệp
CBCT. Trong đó, hầu hết các chỉ tiêu, chỉ số có khả năng đo lường được
thường xuyên (tính toán hoặc s dụng trực tiếp từ nguồn thống kê trong nước
và các thống kê hàng năm của các tổ chức quốc tế lớn như WB, UNDP,
WIPO) được s dụng để đối sánh với các quốc gia khác, nhằm có thể xác định
được vị trí hoặc thứ hạng về mức độ sẵn sàng của Việt Nam đối với CMCN
4.0 (theo không gian), đồng thời có khả năng đánh giá theo chuỗi thời gian.
Dữ liệu cho các chỉ tiêu, chỉ số được tổng hợp từ các nguồn gốc đáng tin cậy,
có uy tín ở trong và ngoài nước. Kết quả của mô hình sẽ cung cấp “một cái
nhìn”, một khía cạnh đánh giá khác so với các nghiên cứu đánh giá về mức
độ sẵn sàng của ngành CBCT trước đây cho Việt Nam.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỨC ĐỘ SẴN SÀNG
CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP CBCT ĐỐI VỚI CMCN 4.0
2.1. Cơ sở lý luận về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
2.1.1. Khái niệm về CMCN 4.0 và các công nghệ của nó
- Ý niệm về CMCN 4.0 hay CN 4.0 mới chỉ được xuất hiện khoảng hơn
10 năm gần đây, do vậy đã có nhiều tác giả khác nhau đưa ra những quan
niệm, khái niệm về nó.
- Luận án quan niệm “CMCN 4.0 hay CN 4.0 là sự ứng dụng rộng rãi
của các công nghệ hiện đại được tích hợp vào trong mọi hoạt động kinh tế -
xã hội của nền kinh tế, tạo ra những sự đột phá sáng tạo khó lường chưa từng
có trong lịch s loài người”.
2.1.2. Quan niệm về mức độ sẵn sàng đối với CMCN 4.0
Luận án cho rằng (sự) sẵn sàng đối với CMCN 4.0 thể hiện trạng thái
chuẩn bị đầy đủ của đối tượng nghiên cứu (nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp
hoặc người dân) để có thể tận dụng tốt những cơ hội mà CMCN 4.0 đem lại;
trong trường hợp của Luận án, đối tượng nghiên cứu là ngành công nghiệp
CBCT.
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng/thích ứng CMCN 4.0
- Các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng/thích ứng CMCN 4.0 có thể được
phân loại thành các nhóm khác nhau dựa trên cách tiếp cận khác nhau theo
góc độ vĩ mô của nền kinh tế, theo góc độ vi mô (doanh nghiệp).
- Luận án chia các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng hoặc thích ứng
với CMCN 4.0 thành 3 dạng: Các yếu tố thúc đẩy; Các yếu tố khuyến khích,
thuận lợi cho ứng dụng CMCN 4.0; Các yếu tố cản trở.
2.2. Cơ sở lý luận về ngành CBCT và vai trò của CBCT trong các
cuộc cách mạng công nghiệp
2.2.1. Định nghĩa về công nghiệp CBCT
- Theo định nghĩa của UNSTAT (2008:85), nhóm ngành công nghiệp
CBCT trong Hệ thống tài khoản quốc gia bao gồm “các hoạt động làm biến đổi
về mặt vật lý, hoá học của vật liệu, chất liệu hoặc làm biến đổi các thành phần

9 10
cấu thành của nó, để tạo ra sản phẩm mới, mặc dù không phải là tiêu chí duy
nhất để định nghĩa chế biến (xem chế biến rác thải dưới đây). Vật liệu, chất liệu
ở đây được hiểu là các nguyên liệu thô từ sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp và khai khoáng cũng như từ các hoạt động CBCT khác”.
- Theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 06/7/2018, công nghiệp
CBCT là 1 trong 22 ngành cấp I của Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam bao
gồm 24 ngành cấp II và là ngành cấp I có nhiều phân ngành cấp II nhất, và
chiếm hơn 70% nhóm ngành cấp II của toàn bộ ngành công nghiệp (bao gồm
ngành Khai khoáng; Sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước
và điều hòa không khí; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và x lý rác thải,
chất thải; và Chế biến chế tạo). Nói một cách khác, trong một trường hợp nhất
định, có thể coi Chế biến chế tạo đại diện cho ngành/hoạt động công nghiệp
trong nền kinh tế.
2.2.2. Vai trò của ngành CBCT đối với CNH và CMCN 4.0
- CBCT chính là hạt nhân quan trọng nhất của cả quá trình CNH và
cách mạng công nghiệp.
- Ngành CBCT có một vị trí đặc biệt trong các cuộc cách mạng công
nghiệp nói chung (Olson, Kenny 2015; Nghiên cứu quốc tế 2014; Stearns
2013; Fisher 1992) và CMCN 4.0 nói riêng (UN 2022; Faarup và Faarup
2017; WEF 2017; Roland Berger 2104, Naude và các cộng sự 2019).
- Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, CBCT có vai
trò hạt nhân trong quá trình CNH và Công nghiệp 4.0.
2.3. Các trụ cột và chỉ tiêu, chỉ số đo lường mức độ sẵn sàng của
ngành công nghiệp CBCT của Việt Nam đối với CMCN 4.0
2.3.1. Các trụ cột
Các tiêu chí (trụ cột) được lựa chọn phải thỏa mãn các nguyên tắc sau:
(1) Tính kế thừa, tức là các tiêu chí (cùng với các chỉ tiêu, chỉ số) được
đề xuất đã từng được các tài liệu, công trình nghiên cứu có uy tín công bố.
(2) Tính hội tụ, tức là các tiêu chí (cùng với các chỉ tiêu, chỉ số) được đề
xuất được xuất hiện tại nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu có uy tín s dụng.
(3) Trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến cả CMCN 4.0 và ngành CBCT
Từ nguyên tắc này, Luận án đã đề xuất 5 nhóm tiêu chí (trụ cột) như
sau khi đo lường mức độ sẵn sàng của ngành CBCT đối với CMCN 4.0:
(1) Vị trí của ngành công nghiệp CBCT trong nền kinh tế;
(2) Sự sẵn sàng về nhân lực;
(3) Sự sẵn sàng về công nghệ;
(4) Sự sẵn sàng của doanh nghiệp (nhìn ở góc độ vĩ mô);
(5) Sự sẵn sàng về thể chế.
Các chỉ tiêu, chỉ số đo lường mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp
CBCT đối với CMCN 4.0
Nhóm chỉ tiêu thứ nhất (trụ cột 1): Vị trí của ngành công nghiệp CBCT
trong nền kinh tế: Tỷ trọng ngành CBCT trong GDP; Đóng góp của ngành
CBCT trong tăng trưởng kinh tế; Tỷ trọng ngành CBCT trong xuất khẩu; Tỷ
trọng lao động của ngành công nghiệp trong nền kinh tế; Giá trị gia tăng ngành
công nghiệp CBCT bình quân đầu người.
Nhóm chỉ tiêu thứ hai (trụ cột 2): Sự sẵn sàng về nhân lực: Số năm đi
học bình quân; Tỷ lệ đăng k học đại học đúng độ tuổi; Tỷ lệ sinh viên tốt
nghiệp ngành khoa kỹ; Tổng chi cho R&D, % GDP; Tổng chi tiêu cho giáo
dục, % GDP; Xếp hạng Đại học theo QS (tốp 3); Chỉ số lao động tri thức.
Nhóm chỉ tiêu thứ ba (trụ cột 3): Sự sẵn sàng của doanh nghiệp: Năng
suất lao động trong ngành công nghiệp; Doanh nghiệp có trang web; Mật độ
doanh nghiệp mới trên 1000 dân trong độ tuổi 15-64; Thực trạng phát triển
cluster; Doanh nghiệp trong Forbes Global 2000 trên 1 triệu dân.
Nhóm chỉ tiêu thứ tư (trụ cột 4): Sự sẵn sàng về công nghệ: Số đăng k
thuê bao điện thoại di động (trên 100 người); Tỷ lệ cá nhân dùng internet (%
dân số); Đăng k băng thông rộng cố định; Mật độ s dụng rô-bốt; Tỷ trọng
công nghiệp CBCT công nghệ trung bình và cao; Tỷ trọng xuất khẩu hàng
hóa công nghiệp CBCT công nghệ cao; Bằng sáng chế, cư dân (trên 1000
dân); Ứng dụng thiết kế công nghiệp (trên 1000 dân); Bài báo khoa học – kỹ
thuật đăng tạp chí quốc tế (trên 1000 dân); Máy chủ bảo mật internet (trên 1