Đổi mi Quốc hội theo định hướng xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
1. Những đi mới của Quốc hội ớc ta
T“tập quyền” sang “phân công rành mạch” trong việc thực hiện ba quyền lập
pháp, hành pháp pháp thể xem bước tiến mới vtư duy luận xây
dựng và hoàn thin bộ máy nhà nước ta theo định hưng xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do n và dân. Dựa trên nền tảng duy lý luận đó,
Quốc hội nước ta đã có những đổi mi sau đây:
1.1. Đổi mới duy trong việc quy định một s nhiệm vụ và quyền hạn của
Quốc hội phù hợp với định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi một số điều năm 2001) tiếp tục khẳng định Quốc hội
đảm đương ba chức năng cơ bản là lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề trọng
đại của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bhoạt động của nhà nước. Với
ba chức năng đó, Hiến pháp năm 1992 tại Điều 84 đã quy định Quốc hội 14
nhiệm vụ và quyền hạn. Điểm đổi mới căn bản trong việc quy định nhim vụ và
quyền hạn của Quốc hội theo Hiến pháp m 1992 là đã bquy định: “Quốc hội
th tự mình đặt ra những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết”
của Hiến pháp năm 1980. Sự thay đổi này th hiện một tư duy pháp lý mi, tư duy
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và dân. Theo
đó, dẫu còn quy định Quốc hội là quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng
cũng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, chỉ thẩm quyền xem xét
và quyết định những vấn đề đã được Hiến pháp quy định; trả vcho nhân dân chủ
thtối cao và duy nht của quyền lực nhà nước quyền “quy định những nhiệm vụ
quyền hạn khác” ngoài Hiến pháp. Cùng với sự đổi mới bản đó, các quy định
vthẩm quyền lập pháp, thẩm quyền quyết định và thm quyn giám t tối cao
đối vi toàn bhoạt động của Nhà nước cũng những điều chỉnh, minh bạch, cụ
thn như: “Quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh” (Khoản 1 điều
84); Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - hội của đất nước; quyết
định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia phân bổ ngân sách nhà nước…”
(Khoản 3, 4 Điều 84); chuyển thẩm quyền quyết định việc trưng cầu dân ý thuộc
quan thường trực của Quốc hội thành thm quyền của Quốc hội như Hiến pháp
năm 1946 đã quy định; chuyển thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bđiều ước quốc
tế chủ yếu thuộc cơ quan thường trực của Quốc hội thành nhim vụ quyền hạn của
Quốc hội khi đề nghị của Chủ tịch nước; bổ sung quy định: Quốc hội phân bổ
ngân sách trung ương còn việc phân bổ ngân sách địa phương thì được giao cho
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Quốc hội quyết định chính sách tôn giáo, phê chuẩn
đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách Hội đồng quốc phòng an ninh; bphiếu
tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Vai
trò của Quốc hội còn được ng cường trong việc giao toàn quyền cho Quốc hội
xem xét quyết định các vấn đvề nhân s cấp cao (không giao cho Uỷ ban
thường vụ Quốc hội giữa hai kỳ họp như trước đây)… Theo đó, Quốc hội ngày
càng có thực quyền hơn trong việc thực hiện các chức năng của mình.
1.2. Đổi mới cấu tổ chức theo hướng nâng cao vai trò trách nhiệm các cơ
quan của Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội
Các cơ quan của Quốc hội bao gồm Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Hội
đồng dân tộc và các Uban của Quốc hội. c quan này cũng được Hiến pháp
năm 1992 Luật Tổ chức Quốc hội quy định nhiệm vụ và quyền hạn phù hp
hơn, minh bạch hơn với tư duy mới: Quốc hội muốn hoạt độnghiệu quả, các cơ
quan của Quốc hội phải mạnh, làm đủ, làm đúng nhiệm quyền hạn của mình.
1. 2. 1. V Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hiến pháp bổ sung nhiệm vụ quyền
hạn:
“Chđạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uban của
Quốc hội”. Đây là một điểm bổ sung mới; phù hợp với vị trí và vai trò của cơ quan
thường trực giữa hai k họp của Quốc hội, nhằm đề cao trách nhiệm của
UBTVQH trong việc đảm bảo cho Hội đồng dân tộc và các Uban hoạt động nhịp
nhàng, phục vụ đắc lực cho các khọp của Quốc hội. Với tư cách là một thiết chế
đặc thù của Quốc hội Việt Nam, UBTVQH, theo Hiến pháp năm 1992, tuy còn
quyền ra pháp lệnh nhưng chỉ được phép ra “các pháp lệnh về những vấn đề được
Quốc hội giao”. Như vậy quyền ban hành pháp lệnh của UBTVQH đã bgiới hạn
theo hướng giảm dần việc ra pháp lệnh. UBTVQH chỉ còn cơ quan chủ yếu
làm nhiệm vụ điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc (HÐDT) các
Uban nhằm chuẩn bị cho các kỳ họp của Quốc hội. Quốc hội khoá XI đã thành
lập ba quan chuyên môn trực thuộc giúp việc cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Đó là: Ban Công tác đại biểu giúp việc cho UBTVQH vcông tác đại biểu Quốc
hội từ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc đến việc xem xét tư cách đại biểu, giải quyết
chế độ chính sách cho đại biểu Quốc hội. Viện nghiên cứu Lập pháp nhiệm v
nghiên cứu khoa học và thông tin khoa học phục vụ cho UBTVQH, Hội đồng dân
tộc, các Uỷ ban của Quốc hội đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện các nhiệm
vquyền hạn của mình; Ban Dân nguyện phục vụ UBTVQH thực hiện nhiệm vụ
quyền hạn vcông tác dân nguyện.
1. 2. 2. Về Hội đồng dân tộc và các U ban:
HÐDT và các U ban là các cơ quan Hiến định, nhưng Hiến pháp 1992 kng hạn
chế số lượng các Uỷ ban. Vì vậy theo Luật Tổ chức Quốc hội, Quốc hội các khoá
IX (1992-1997); khoá X (1997-2002) khoá XI (2002-2007) 7 Uban (Uỷ
ban Pháp luật, Uỷ ban Kinh tế và ngân sách, Uban Quốc phòng an ninh, U
ban Văn hoá giáo dục, thanh niên thiếu niên nhi đồng, Uỷ ban Các vấn đề xã
hội, Uỷ ban Khoa học công nghệ môi trường và Uban Đối ngoại). Quốc hội
khoá XII có thêm 2 Uban: (Uỷ ban Pháp luật được tách thành 2 Uban: Uỷ ban
Pháp luật và Uban pháp; Uỷ ban Kinh tế ngân sách được tách thành 2 U
ban: Uban Kinh tế và Uban Tài chính - ngân sách). Hội đồng dân tộc và các
U ban ngày càng được củng cố tăng ờng cả về số lượng và chất lượng.
Ngoài Chtịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các Uỷ ban, Phó Chủ tịch HÐDT
các Phó Ch nhiệm các Uỷ ban, còn các đại biểu làm chuyên trách trung
ương và địa phương.
HÐDT các Uban của Quốc hội những nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng
như thẩm tra các dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dán khác,
trình Uban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định, kiến
nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban và Hội đồng dân tộc.
Điểm khác biệt giữa HÐDT và các Uỷ ban của Quốc hội là Chủ tịch Hội đồng dân
tộc được mi tham dự các phiên họp của UBTVQH, các phiên họp của Chính ph
bàn v việc thực hiện các chính sách dân tộc. Như vậy, HÐDT không chhoạt
động trong phạm vi thẩm quyền của Quốc hội như các Uỷ ban của Quốc hội mà
còn được tham gia vào các hoạt động của Chính phủ khi quyết định các vấn đ
liên quan đế chính sách dân tộc.
Điểm mi trong Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành đề cao vai trò và ý nghĩa của
việc tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các quan của Quốc hội trong việc
thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. dnhư Luật quy định trách nhiệm
của HÐDT các Uban tham gia hoạt động thẩm tra các vấn đề kinh tế và ngân