
295
FINTECH VÀ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM: HỢP TÁC HAY CẠNH
TRANH?
TS. Phan Thu Hiền
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
TS. Phan Thị Mỹ Hạnh
Trường Đại học Tài chính - Marketing
Tóm tắt
Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ, Fintech đã tạo nên một
cuộc cách mạng kỹ thuật số có thể thay đổi hoàn toàn phương thức kinh doanh của
ngành ngân hàng, tác động rất mạnh và có thể tái định hình ngành tài chính. Bài viết này
đi vào phân tích sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, những điểm mạnh và điểm yếu
của Fintech so với ngân hàng truyền thống, từ đó phân tích xu hướng hợp tác giữa
Fintech và ngân hàng và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển Fintech trong xu hướng
hợp tác này tại Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Fintech, công nghệ tài chính, cơ hội, thách thức
1. Sự phát triển của Fintech tại Việt Nam
Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ trong cuộc cánh mạng
công nghiệp 4.0, một làn sóng các công ty khởi nghiệp tập trung vào lĩnh vực công
nghệ trong tài chính đã nổi lên và hình thành các công ty Fintech. Đây là các công ty áp
dụng các sáng tạo công nghệ trong các hoạt động và dịch vụ tài chính nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động tài chính. Các công ty này áp dụng công nghệ, ứng dụng, sản phẩm,
quy trình và mô hình kinh doanh mới vào ngành dịch vụ tài chính, điển hình như các
công ty sử dụng internet, điện thoại di động, công nghệ điện toán đám mây và các phần
mềm mã nguồn mở nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng và đầu
tư. Đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Fintech đã tạo nên một cuộc cách
mạng kỹ thuật số có thể thay đổi hoàn toàn phương thức kinh doanh của ngành ngân
hàng, tác động rất mạnh và có thể tái định hình ngành tài chính.
Trái với thị trường tài chính truyền thống chỉ diễn ra mối tương tác giữa các định
chế tài chính (ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán…) và
khách hàng thì với Fintech toàn bộ mô thức cung ứng và vận hành các dịch vụ tài chính
đã được thay đổi theo hướng các định chế tài chính, công ty Fintech và khách hàng có
mối tương tác và tác động qua lại lẫn nhau thông qua các ứng dụng công nghệ thông tin
(Thành, 2017).
Việt Nam đang trở thành một trong những thị trường tiềm năng bậc nhất trong khu
vực cho sự phát triển của Fintech. Thị trường Fintech Việt Nam đã đạt 4,4 tỷ USD vào
năm 2017, trong đó thu hút khoảng 129 triệu USD từ các thương vụ đầu tư nước ngoài
liên quan đến các công ty Fintech giai đoạn 2016-2017, và dự đoán sẽ đạt 7,8 tỷ USD vào
năm 2020 theo nghiên cứu của công ty tư vấn Solidiance. Trong năm 2008, ngân hàng
Nhà nước đã thí điểm cho một số công ty cung ứng dịch vụ thanh toán trên thị trường.
Hoạt động Fintech tại Việt Nam thực sự bùng nổ vào năm 2015 với sự xuất hiện của
những ứng dụng thanh toán trên điện thoại như MoMo, Payoo hay 1Pay được sử dụng
phổ biến bởi các công ty tài chính tiêu dùng, và dịch vụ cho vay trực tuyến LoanVi (Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, 2016). Bên cạnh đó, ngân hàng VP Bank cũng đã phát triển
ứng dụng ngân hàng trực tuyến qua di động – Timo. Với những ứng dụng này, các công

296
ty Fintech đang làm thay đổi hình thức thanh toán và mở ra kỷ nguyên ứng dụng công
nghệ vào hoạt động cho vay tại Việt Nam (Thành, 2017). Đến năm 2017, có trên 40 công
ty Fintech hoạt động tại Việt Nam (cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng như thanh
toán, chuyển tiền, huy động vốn, cho vay ngang hàng, quản lý tài chính, hỗ trợ định danh
khách hàng điện tử) trong đó 27 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (chiếm
trên 60%) đã chính thức được cấp phép hoạt động. Hiện nay, số lượng công ty Fintech đã
tăng lên khoảng 80 công ty đang hoạt động tại nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các công ty Fintech Việt Nam tập trung khá nhiều cho lĩnh vực thanh toán như
MoMo, Payoo hay BankPlus… Một số công ty trong nước đã lấn sân sang mảng Fintech
khi đưa ra các ví điện tử phục vụ cho hoạt động thanh toán của khách hàng như FPT E-
wallet của FPT, VTC Pay của VTC, Vimo của MobiFone. Hơn 5,76 triệu ví điện tử đã
được phát hành và có liên kết với tài khoản ngân hàng để hỗ trợ thanh toán. Ngoài ra, một
số mảng khác cũng đã hoạt động như FundStart, Comicola, Betado hay Firststep nhằm
gây quỹ cộng đồng; LoanVi với dịch vụ cho vay trực tuyến; BankGo, MoneyLover,
Mobivi với quản lý dữ liệu tài chính cá nhân; và ngân hàng kỹ thuật số đầu tiên của Việt
Nam với Timo. hông chỉ thu hút sự quan tâm của các công ty Fintech Việt Nam, nhiều
nhà đầu tư nước ngoài cũng đã hướng đến phát triển mảng Fintech tại Việt Nam. Điển
hình như vào năm 2016 quỹ đầu tư 500 Startups đã dành 10.000 USD để đầu tư vào
khoảng 100-150 dự án startups tại Việt Nam. Các khoản đầu tư của quỹ chủ yếu vào
những lĩnh vực công nghệ tài chính, công nghệ giáo dục, thương mại điện tử, quảng cáo,
truyền thông và giải trí. Năm 2018, 500 Startups tiếp tục đánh dấu cột mốc đầu tư thứ 20
vào một startup lĩnh vực công nghệ tài chính ứng dụng nền tảng blockchain tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, WorldRemit, một startup hoạt động trong lĩnh vực chuyển tiền kiều hối tại
nh cũng hướng đến mở rộng dịch vụ tại Việt Nam vì đánh giá cao về mức độ chuyển
tiền kiều hối ở Châu Á và Việt Nam bằng cách cho phép người dùng có thể gửi tiền ra
nước ngoài từ một thiết bị di động hoặc máy tính và người nhận có thể nhận được tiền
trong các tài khoản ngân hàng của họ, nhận bằng tiền mặt, nhận bằng một chiếc ví di
động hoặc là một dịch vụ top-up qua điện thoại di động. Startup Tapp Commerce cũng
triển khai các sản phẩm liên quan đến Fintech nhằm hỗ trợ người dân có thể dễ dàng
chuyển và nhận tiền thông qua doanh nghiệp địa phương hoặc thậm chí các cửa hàng bán
lẻ trong khu họ sinh sống.
2. Điểm mạnh và điểm yếu của Fintech so với ngân hàng truyền thống
Điểm mạnh của Fintech:
Tiềm năng của sự phát triển Fintech tại Việt Nam được đánh giá rất cao khi Việt
Nam có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển Fintech như dân số trẻ, số người sử
dụng điện thoại di động và internet ngày càng nhiều, tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng cao, tỷ lệ
thất nghiệp thấp và khoảng 90% các khoản thanh toán được thực hiện bằng tiền mặt.
Hiện nay, Việt Nam có trên 128 triệu tài khoản thuê bao di động, trong đó gần 50% là
điện thoại thông minh, hơn 64 triệu người đang sử dụng Internet, 58 triệu người sử dụng
mạng xã hội và Việt Nam trở thành một trong 7 quốc gia đứng đầu về sử dụng mạng xã
hội và đứng thứ 19/50 nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương về số người dân có sử
dụng Internet và điện thoại di động thông minh. Đây được xem là điều kiện rất tốt để thúc
đẩy hoạt động thanh toán qua điện thoại di động. Theo công bố của ngân hàng thế giới,
trong năm 2017 39% người trưởng thành tại Việt Nam vẫn chưa sử dụng dịch vụ gửi tiết
kiệm tại các hệ thống chính thức và 65% người dân đang gửi hoặc nhận kiều hối ngoài hệ

297
thống chính thức hay trả học phí và chi phí dịch vụ tiện ích bằng tiền mặt. Do đó, đây là
nguồn khách hàng tiềm năng rất lớn của Fintech.
Trong khi hệ thống ngân hàng chậm thay đổi, thiếu linh hoạt trong ứng dụng công
nghệ làm gia tăng chi phí giao dịch và chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng thì
Fintech lại có thể giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng một cách
thuận tiện nhất với chi phí thấp nhất cũng như mang lại sự trải nghiệm và sự hài lòng cho
khách hàng thông qua đổi mới sáng tạo và khả năng ứng dụng công nghệ linh hoạt và
hiệu quả, từ đó thúc đẩy các dịch vụ ngân hàng hiện đại ngày một phát triển và các
chương trình tài chính toàn diện được phổ cập rộng rãi đến người dân.
Một trong những rào cản chính khiến người dân chưa tiếp cận với dịch vụ tài
chính chính thức ở Việt Nam là ở xa chi nhánh ngân hàng, chi phí lớn, thủ tục phức tạp.
Do đó, Fintech đang thu hút một số lượng lớn khách hàng trong đó có cả người dân sống
ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo khó tiếp cận với dịch vụ ngân hàng do
Fintech không cần mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch rộng khắp như ngân hàng mà
khách hàng có thể sử dụng các công nghệ và ứng dụng của Fintech bằng điện thoại thông
minh có kết nối internet. Với tính chất là các công ty khởi nghiệp, Fintech rất sáng tạo và
năng động, phân tích và đánh giá tâm lý của khách hàng đối với các sản phẩm và dịch vụ
tài chính để từ đó sử dụng công nghệ mới cung cấp các dịch vụ mang lại trải nghiệm tốt
hơn cho người dùng.
Điểm yếu của Fintech
Bên cạnh những điểm mạnh nổi bật thì FinTech lại thiếu kinh nghiệm trong hoạt
động tài chính ngân hàng, thiếu kinh nghiệm quản lý rủi ro tài chính và quản lý rủi ro an
ninh mạng; thiếu vốn, nguồn nhân lực và nền tảng khách hàng. Trong khi đó, ngân hàng
lại có ưu thế hơn về mạng lưới khách hàng, hạ tầng công nghệ thông tin, và kinh nghiệm
quản lý rủi ro. Với thương hiệu và sự uy tín của mình, các ngân hàng đã sở hữu một
lượng khách hàng truyền thống và xây dựng mạng lưới rộng khắp là một nền tảng vững
chắc khi bước vào sự cạnh tranh với các công ty Fintech. Trong khi đó, các công ty
Fintech lại là các công ty khởi nghiệp, đang dần xây dựng uy tín và thương hiệu khi cơ sở
hạ tầng pháp lý chưa được hoàn thiện đã gây khó khăn cho Fintech tạo niềm tin và tiếp
cận với khách hàng trong các hoạt động tài chính của mình. Công nghệ phát triển kéo
theo những rủi ro về an ninh mạng ngày càng gia tăng và đây cũng là một yếu điểm của
Fintech Việt Nam trong việc quản lý rủi ro này.
Mặc dù tình hình phổ cập Internet rất rộng tại Việt Nam hiện nay, số lượng người
sử dụng dịch vụ tài chính hiện đại ít hơn nhiều, một phần nguyên nhân là thói quen sử
dụng tiền mặt của người dân, đặc biệt là ở khu vực nông thôn vẫn còn phổ biến, hơn 80%
giao dịch thẻ TM là để rút tiền mặt, tâm lý e ngại tiếp cận công nghệ mới, tâm lý sợ bị
lấy cắp thông tin cũng là những rào cản khiến cho các công nghệ ngân hàng chưa phát
huy tác dụng.
huôn khổ pháp lý cho dịch vụ đại lý ngân hàng tại vùng sâu, vùng xa chưa được
xây dựng và hoàn thiện, sản phẩm chưa được thiết kế phù hợp với kiến thức và nhu cầu
của người dân ở nông thôn nên hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của họ.
Hệ sinh thái của Fintech chỉ mới từng bước được hình thành và mở rộng, mức độ cộng
sinh và sự ổn định của hệ sinh thái gồm các công ty khởi nghiệp Fintech, nhà phát triển
công nghệ, các nhà quản lý chính sách, khách hàng tài chính, các tổ chức tài chính truyền
thống vẫn chưa cao, thiếu chặt chẽ nên vẫn chưa thúc đẩy sự phát triển của Fintech trong
thời gian qua. Quy định pháp lý và sự điều chỉnh của cơ quan quản lý không theo kịp

298
công nghệ mới nên hạn chế và làm chậm phát triển ứng dụng công nghệ cao và ngân
hàng số, gây nên rủi ro pháp lý cho các ngân hàng và công ty Fintech khi triển khai các
ứng dụng công nghệ cao.
3. Xu hướng hợp tác hay cạnh tranh giữa FINTECH và ngân hàng tại Việt Nam
Với những lợi thế của Fintech, Fintech đang trở thành một đối thủ đối với hệ
thống ngân hàng và ảnh hưởng lớn tới hoạt động của hệ thống này. Fintech đã làm thay
đổi căn bản mô hình kinh doanh, quản trị ở các ngân hàng theo xu hướng ngân hàng số,
ứng dụng công nghệ mới vào các sản phẩm phục vụ khách hàng. Tuy nhiên, các công ty
Fintech và ngân hàng đều có những ưu điểm và hạn chế riêng biệt, đặc biệt trong giai
đoạn đầu khi khuôn khổ pháp lý quản lý của Việt Nam chỉ mới đáp ứng được một phần
cho lĩnh vực công nghệ tài chính trong thanh toán mà chưa có khuôn khổ pháp lý đầy đủ,
đồng bộ cho các lĩnh vực tài chính khác; nguồn vốn, nguồn nhân sự, kinh nghiệm quản lý
rủi ro tài chính và rủi ro an ninh mạng vẫn còn nhiều hạn chế thì việc các fintech hướng
đến hợp tác với ngân hàng đang trở thành xu hướng được cả Fintech và ngân hàng lựa
chọn nhằm bổ trợ cho nhau để cung cấp dịch vụ ngân hàng tài chính có chất lượng cao và
là tiền đề cho việc nâng cao tiếp cận dịch vụ tài chính - ngân hàng (Vũ & Thanh, 2016).
u hướng hợp tác theo hướng trở thành đối tác của nhau đang được các ngân hàng
và công ty Fintech tiến hành. Theo đó, các ngân hàng sẽ được hưởng lợi ích từ việc ứng
dụng, cập nhật ngay các công nghệ hiện đại được cung cấp từ Fintech, áp dụng các giải
pháp công nghệ trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của thị trường
cả về chất lượng, giá cả và độ tin cậy trong khi đó các Fintech có thể khai thác được
mạng lưới khách hàng, dữ liệu và nguồn vốn của ngân hàng.
Theo khảo sát của Ngân hàng Nhà nước năm 2018, 72% công ty Fintech lựa chọn
hợp tác với các ngân hàng thay vì cạnh tranh, trong khi 14% quyết định chọn cạnh tranh
với ngân hàng và 14% còn lại chọn phát triển sản phẩm hoàn toàn mới. Một trong những
lí do thúc đẩy sự hợp tác này là nhằm xây dựng hệ thống chia sẻ dữ liệu, xây dựng pháp
lý theo tiêu chuẩn, hướng đến phục vụ nhu cầu khách hàng. Theo kết quả khảo sát toàn
cảnh ngành ngân hàng năm 2018 của Ernst & Young, 85% các ngân hàng đều xây dựng
mục tiêu quan trọng nhất trong năm là thực hiện chiến lược chuyển đổi ngân hàng số và
hướng tới hoàn thiện công nghệ vào năm 2020.
Bên cạnh những thuận lợi thì việc hợp tác này cũng gặp nhiều khó khăn, thách
thức cần phải giải quyết.
Trước tiên là vấn đề bảo mật thông tin, đòi hỏi ngân hàng và các công ty Fintech
phải chấp nhận việc chia sẻ thuật toán với nhau và có biện pháp bảo vệ được thông tin dữ
liệu ngân hàng được ngân hàng thu thập trong những năm qua cũng như bảo mật thông
tin khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng và Fintech.
Thứ hai, trình độ và khả năng hấp thụ công nghệ của nền kinh tế, ngành ngân hàng
và cả người dân cũng đang là thách thức lớn cần phải từng bước tháo gỡ.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng công nghệ của Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát
triển công nghệ tiên tiến. Rủi ro về an ninh mạng ngày càng gia tăng trong khi khả năng
bảo mật thông tin của khách hàng sử dụng công nghệ và các ứng dụng vẫn chưa được
đảm bảo ở mức an toàn cao, do đó vẫn khiến các khách hàng còn e ngại sử dụng các sản
phẩm và ứng dụng của các công ty Fintech

299
Thứ tư, nhiều ngân hàng hiện nay vẫn còn dè dặt trong quyết định hợp tác với các
công ty Fintech. Lý do là vì hầu hết công ty fintech tại Việt Nam còn non trẻ, kinh
nghiệm chưa nhiều và khả năng duy trì hoạt động của các công ty này không cao.
Thứ năm, hành lang pháp lý chưa thực sự đầy đủ và đang trong thời gian hoàn
thiện cho các tổ chức phi ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Các chính sách,
quy định dành cho những công ty Fintech quy mô nhỏ vẫn còn hạn chế, và cần cập nhật,
sửa đổi, bổ sung cho kịp với tốc độ phát triển của công nghệ. Quy định pháp lý và sự điều
chỉnh của cơ quan quản lý không theo kịp công nghệ mới dẫn đến việc hạn chế và làm
chậm phát triển ứng dụng công nghệ cao và ngân hàng số, tạo nên rủi ro pháp lý cho các
ngân hàng và công ty Fintech khi triển khai các ứng dụng công nghệ cao.
Thứ sáu, các công ty Fintech Việt Nam gặp phải tình trạng thiếu hụt nguồn nhân
lực chất lượng cao, đòi hỏi có kiến thức sâu rộng cả về chuyên môn nghiệp vụ tài chính
và công nghệ thông tin (Thành, 2017).
4. Giải pháp phát triển Fintech trong xu hướng hợp tác với ngân hàng trong thời
gian tới
Để Fintech có thể phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, tạo nên một sự hợp tác
hiệu quả với các ngân hàng, từ đó tạo nên sức mạnh tổng hợp cho thị trường dịch vụ ngân
hàng, một số giải pháp được đề xuất như sau:
Một là, Chính phủ và ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các quy định pháp lý,
chính sách cho việc cung cấp dịch vụ/sản phẩm Fintech cũng như các hoạt động của
Fintech như hoạt động thanh toán, cho vay, chuyển tiền, gọi vốn cộng đồng, cho vay
ngang cấp, tư vấn tài chính cá nhân, công nghệ bảo hiểm, tiền tệ số, quản trị dữ liệu. Tiếp
tục nghiên cứu xây dựng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với một số vấn đề như mô
hình đại lý ngân hàng, định danh khách hàng điện tử, tài chính số, thanh toán qua di
động…
Hai là, ngân hàng Nhà nước cần liên tục đầu tư, nâng cấp hệ thống hạ tầng tài
chính, công nghệ bảo mật để chống lại các rủi ro an ning mạng, tăng cường khả năng bảo
mật thông tin khách hàng, hoàn thiện chính sách về an toàn thông tin. Các quy định pháp
lý cần được cập nhật, sửa đổi, bổ sung theo kịp với tốc độ phát triển của công nghệ.
Ba là, các công ty Fintech cũng cần tăng cường hợp tác với các ngân hàng và các
doanh nghiệp cung cấp internet, thông tin để nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính
- ngân hàng của khách hàng, nâng cao chất lượng và sự đa dạng hóa sản phẩm cũng như
học hỏi kinh nghiệm của ngân hàng trong quản lý rủi ro, đảm bảo cho các bên phát huy
được lợi thế của mình, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển Fintech trong thời gian tới,
từ đó tạo nên một hệ sinh thái Fintech ổn định và cộng sinh, khuyến khích sự sáng tạo và
cạnh tranh lành mạnh.
Bốn là, nâng cao trình độ nguồn nhân lực cả về chuyên môn tài chính – ngân hàng
lẫn công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về khả năng nghiên cứu những
công nghệ mới, có tính sáng tạo và tăng tính ưu việt, khả năng ứng dụng công nghệ vào
trong hoạt động đầu tư và tài chính cũng như khả năng quản lý Fintech thông qua việc tập
trung vào công tác đào tạo nhân lực đồng thời có cơ chế thu hút, lương thưởng đáp ứng
được yêu cầu của nguồn nhân lực này.