“Gieo quẻ” lãi suất

Tác độngtừ CPI

Về nguyên lý, điều hành lãi suất phải thực dương, có nghĩa, lãi suất tiền vay

phải lớn hơn lãi suất tiền gửi và lớn hơn tốc độ tăng lạm phát. Cùng đó, ngân

hàng trung ương phải điều hành lãi suất theo lạm phát mục tiêu, tức là phải

xác định được lạm phát ở những thời điểm trong tương lai để điều hành lãi

suất theo hướng đó.

Nhưng lâu nay, đang có tình trạng ngược lại: lạm phát đến đâu thì lãi suất

theo đuôi đến đó và thực tế này diễn ra ở cả 2 bình diện: điều hành lãi suất

của Ngân hàng Nhà nước và lãi suất thị trường.

Quan sát hoạt động tiền gửi, tiền vay ở các tổ chức tín dụng đều thấy các

hợp đồng chốt ở một mức cụ thể nào đó lúc ký nhưng lại phân kỳ các mốc

thời gian sau đó (3,6 tháng) để “xem lạm phát diễn ra như thế nào đã”, rồi

mới chốt lãi suất ở mức mới.

Tất nhiên, bên cạnh đó vẫn có những hợp đồng lãi suất thả nổi hoặc cho

phép dao động trong biên độ nào đó nhưng tỷ lệ của loại hợp đồng như vậy

không nhiều trong tổng số các hợp đồng kinh tế tiền vay, tiền gửi.

Những biến số khó lường

Trên thực tế, lãi suất còn phụ thuộc vào những biến số khác mà trước hết là

quan hệ giữa lãi suất và tín dụng.

Tất nhiên, để có được kết quả trên, Ngân hàng Nhà nước đã 5 lần giảm lãi

suất chủ chốt: lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống 10%/năm; lãi suất tái

chiết khấu từ 13%/năm xuống 8%/năm; lãi suất nghiệp vụ thị trường mở

(OMO) từ 15% xuống 8%/năm, cộng với ép trần lãi suất tiền gửi xuống

9%/năm; cho phép tổ chức tín dụng tự do thỏa thuận lãi suất tiền gửi trên 1

năm và ép trần lãi suất tiền vay nợ cũ xuống 15%/năm.

Còn ở thị trường thì sao? Có 4 lĩnh vực tín dụng then chốt đều được các

ngân hàng thương mại cho vay ở mức rất thấp. Ngay cả cho vay bất động

sản cũng được các ngân hàng thương mại nới lỏng hầu bao và lãi suất.

Với đà này, mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm từ 8% - 10% không còn

quá khó đối với ngành ngân hàng?

Biến số thứ hai là những lình xình “bắt bớ” gần đây. Sau sự kiện “bầu

Kiên” và cựu tổng giám đốc ACB bị bắt giữ, đã xảy ra tình trạng rút tiền ở

ngân hàng này, khiến Ngân hàng Nhà nước chỉ trong vòng 1 tuần phải bơm

ra thị trường khoảng vài chục nghìn tỷ đồng. Điều đáng lo là còn có tình

trạng rút vàng và ngoại tệ, đẩy giá của hai loại tài sản này lên rất cao, gây

khó khăn cho hoạt động quản lý sau gần một năm, Ngân hàng Nhà nước mới

ổn định được.

Khi tiền bị rút thì Ngân hàng Nhà nước phải bơm ra để hỗ trợ thanh khoản

và số tiền này sẽ gây áp lực lên lạm pháp là điều khó tránh.

Mặt khác, trong vụ việc một vài ngân hàng bị rút tiền vừa qua, để giữ khách

hàng, họ buộc phải vượt trần lãi suất tiền gửi và một số tổ chức tín dụng

khác, nhân cơ hội “tranh tối tranh sáng” cũng làm theo. Khi lãi suất huy

động cao thì làm sao có thể hạ lãi suất tiền vay?

Tóm lại, nếu lấy bức ảnh chụp “cắt lớp” lãi suất ở thời điểm cuối tháng

7/2012 so với hiện tại, đã thấy có sự chuyển động theo chiều hướng đang

xấu dần. Như vậy, áp lực điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước sẽ

nặng thêm.