
354
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SIÊU THỊ DƯỚI GÓC ĐỘ CƠ
SỞ KINH DOANH HOẠT ĐỘNG PHÂN PHỐI
ThS. Nguyễn Lê Lý
Khoa Kinh tế - Trường Đại học Bạc Liêu
Email: nguyenlely@blu.edu.vn
Tóm tắt: Để thực hiện hoạt động phân phối, các chủ thể kinh doanh sử
dụng những phương thức và hình thức tổ chức kinh doanh cũng như tạo lập các
cơ sở kinh doanh khác nhau để tổ chức chuyển giao hàng hoá trong nền kinh tế.
Trong số các cơ sở kinh doanh, siêu thị là một loại hình phân phối hiện đại với
những ưu thế nổi bật trong việc đưa hàng hoá từ khu vực sản xuất đến với người
tiêu dùng. Các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh siêu thị được
ban hành trong thời gian qua đã phát huy tác dụng nhất định trong việc tạo lập
cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển các siêu thị trong hơn hai thập
niên qua, từ đó hoàn thành vai trò của một mắt xích trung gian trong hoạt động
phân phối. Tuy vậy, các quy định pháp luật này qua thực tiễn thi hành cũng bộc
lộ những vướng mắc, bất cập cần được tháo gỡ để điều chỉnh phù hợp, hiệu quả
hơn trong điều kiện hiện nay.
Từ khoá: siêu thị, kinh doanh siêu thị, cơ sở kinh doanh hiện đại, cơ sở
phân phối hiện đại.
IMPROVING LAWS ON SUPERMARKETS FROM THE VIEW OF
BUSINESS ESTABLISHMENTS OF DISTRIBUTION ACTIVITIES
Abstract: To carry out distribution activities, business owners can use
the methods and forms of business organization as well as create different
business establishments to organize the delivery of goods in the economy. Among
business establishments, supermarkets are the modern type of distribution with
outstanding priorities in bringing goods from production areas to consumers.
The legal provisions adjusting the supermarket business have been promulgated
in recent years, promoting the most specific effect in creating a legal basis for
the establishment and development of supermarkets for more than two decades,
thereby fulfilling the role of an intermediary chain in distribution. However,
these legal provisions through practical implementation also reveal questions
and inadequacies that need to be eliminated to adjust appropriately and more
effectively in the current conditions.
Keywords: supermarket, supermarket business, modern business
establishments, modern distribution facilities.

355
THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION
1. Đặt vấn đề
Siêu thị là một trong những cơ sở kinh doanh hoạt động phân phối theo phương thức
hiện đại với những đặc điểm, tính năng và hiệu quả nổi bật so với chợ truyền thống. Với ưu
thế cơ sở vật chất và phương thức kinh doanh kiểu mới, siêu thị là một mắt xích quan trọng
trong hệ thống phân phối liên kết dọc giúp tiết kiệm thời gian, chi phí giao dịch và đảm bảo
hiệu quả kinh doanh, từ đó cung cấp lượng hàng hoá đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu
và bổ sung lựa chọn cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong thực tiễn, hoạt động kinh doanh
siêu thị phát sinh những vấn đề dưới góc độ pháp lý về tiêu chuẩn, quy chế hoạt động của
siêu thị, trách nhiệm của thương nhân kinh doanh siêu thị, vấn đề đảm bảo quyền lợi người
tiêu dùng, đảm bảo chất lượng hàng hoá tại siêu thị v.v. Do đó, cần nghiên cứu những quy
định pháp luật có liên quan điều chỉnh hoạt động kinh doanh siêu thị để chỉ ra những bất cập,
vướng mắc và đề xuất các giải pháp hoàn thiện để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong
lĩnh vực này. Từ đó có thể đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về vấn đề tập trung phát triển ngành
và lực lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động phân phối, hoàn thiện cơ chế quản lý, phát
triển các phương thức và hình thức kinh doanh đa dạng đối với hoạt động phân phối trong
thời kỳ mới cũng được đặt ra mạnh mẽ.
Bài viết tập trung nghiên cứu những tồn tại, hạn chế trong các quy định hiện hành về
hoạt động kinh doanh siêu thị, từ đó đưa ra những khuyến nghị cho việc thay đổi, điều chỉnh
pháp luật đối với cơ sở kinh doanh này.
Để thực hiện mục tiêu này, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như phương
pháp phân tích để luận giải, làm rõ các vấn đề liên quan hoạt động phân phối và cơ sở kinh
doanh hoạt động phân phối hoặc để phân tích các quy định pháp luật có liên quan; phương
pháp tổng hợp để liên kết, sắp xếp các yếu tố đã phân tích nhằm đề xuất những phương
hướng hoàn thiện quy định pháp luật.
2. Cơ sở lý thuyết về hoạt động phân phối và cơ sở kinh doanh hoạt động phân
phối
Về bản chất và vị trí, phân phối dưới góc độ kinh tế chính trị Mác-Lênin là một mặt của
quan hệ sản xuất và là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội (Phạm Quang Phan, 2008).
Dưới góc độ marketing, hoạt động phân phối giải quyết vấn đề hàng hóa dịch vụ được đưa
như thế nào đến người tiêu dùng. Kênh phân phối thực hiện công việc chuyển hàng hoá từ
người sản xuất đến với người tiêu dùng thông qua việc thực hiện một số chức năng của các
thành viên kênh (Philip Kotler , 2003). Theo cách xác định của quản trị doanh nghiệp, kênh
phân phối được định nghĩa là một tổ chức hệ thống các quan hệ với các doanh nghiệp và cá
nhân bên ngoài để quản lý các hoạt động phân phối tiêu thụ sản phẩm nhằm thực hiện các
mục tiêu trên thị trường của doanh nghiệp (Trương Đình Chiến, 2008). Khi xem xét phân
phối dưới tư cách là một ngành dịch vụ dưới góc độ thương mại quốc tế, theo Hiệp định
chung về thương mại dịch vụ WTO (GATS), dịch vụ phân phối về cơ bản bao gồm việc bán
hàng hóa cho người tiêu dùng cuối cùng hoặc bán cho người bán lại khác. Trong ghi chú của
Ban thư ký Hội nghị LHQ về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) về dịch vụ phân phối,
ngành dịch vụ này được định nghĩa bao gồm các hoạt động khác nhau liên quan đến việc kết
nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng với nhau, giải quyết cả với các giao dịch giữa các
doanh nghiệp và giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng cuối cùng. Dịch vụ phân
phối thực hiện vai trò trung gian và kết nối chặt chẽ với các dịch vụ khác như vận chuyển,
đóng gói, kho bãi, dịch vụ tài chính và phát triển bất động sản thương mại (UNCTAD, 2005).
Từ những góc độ tiếp cận khác nhau có thể nhận thấy về bản chất, hoạt động phân phối là

356
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023
thuật ngữ để chỉ quá trình lưu thông hàng hóa bao gồm vận chuyển, bảo quản, lưu trữ và
chuyển giao hàng hóa từ kết quả sản xuất đến tay người tiêu dùng, từ đó giúp cho quá trình
tái sản xuất diễn ra liên tục, thông suốt và hiệu quả.
Hoạt động phân phối có chức năng đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế vì nó là sự kết
nối sống còn và mang tính quyết định giữa sản xuất và tiêu dùng. Đây là ngành kinh tế với
quy mô lớn, chiếm phần đóng góp to lớn vào GDP các nước cũng như có vai trò đáng kể đối
với thương mại trong nước và thương mại quốc tế. Hoạt động phân phối cũng có tác động
ngược trở lại đối với sản xuất vì các nhà sản xuất có thể chọn lựa thông tin được cung cấp từ
hoạt động phân phối để điều chỉnh sản xuất theo nhu cầu của người tiêu dùng. Do vậy, phân
phối trở thành động lực thúc đẩy sản xuất, từ đó nâng cao mức thụ hưởng của người tiêu
dùng trong đời sống xã hội.
Tại Việt Nam, bên cạnh những chức năng và vai trò chung, trong điều kiện kinh tế xã
hội của mình, hoạt động phân phối mang những đặc trưng và xu hướng riêng, đặt ra những
vấn đề trong quản lý nhà nước và điều chỉnh pháp luật. Đó là (i) ngành phân phối là ngành
kinh tế vừa mang tính truyền thống vừa rất hiện đại với các loại hình thương mại tương ứng,
tồn tại song song, đa dạng, phong phú, có tốc độ tăng trưởng nhanh, tiếp cận công nghệ cao,
thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn; (ii) khi mở cửa thị trường đối với ngành dịch vụ liên quan
đến hoạt động phân phối, Việt Nam vẫn có khuynh hướng bảo hộ đối với ngành kinh tế phổ
biến và nhạy cảm này; (iii) cơ cấu ngành phân phối tại Việt Nam có sự thay đổi ở xu hướng
tập trung với các biểu hiện liên kết và biến chuyển trong vai trò của các nhà phân phối; (iv)
nền tảng công nghệ kỹ thuật số và chuyển đổi số đã và đang làm thay đổi phương thức kinh
doanh của ngành phân phối; cuối cùng là (v) hoạt động phân phối tại Việt Nam tồn tại dưới
rất nhiều hình thức với các phương thức kinh doanh và cơ sở kinh doanh đa dạng, phong phú
(dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, có thể là vị trí của nó trong chuỗi phân phối, hoặc những
định dạng cơ sở kinh doanh hay loại sản phẩm mà nó cung ứng) (UNCTAD, 2005).
Để thực hiện hoạt động phân phối, các chủ thể tham gia sử dụng những phương thức
và hình thức tổ chức kinh doanh cũng như tạo lập các cơ sở kinh doanh khác nhau trên cơ
sở tuân thủ những quy định của pháp luật có liên quan để tổ chức chuyển giao hàng hoá và
thực hiện các dịch vụ liên quan mang tính hỗ trợ từ khu vực sản xuất đến với người tiêu dùng
nhằm đảm bảo lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế. Nếu căn cứ theo loại hình cơ sở kinh
doanh có cơ sở kinh doanh hoạt động phân phối truyền thống (mua bán hàng rong, các chợ
truyền thống, các cửa hàng tạp hóa với phương thức bán hàng thủ công, trực tiếp) và cơ sở
kinh doanh dịch vụ phân phối hiện đại (các cửa hàng tiện lợi, siêu thị và trung tâm thương
mại sở hữu những tiện ích và cơ sở vật chất hạ tầng hiện đại). Căn cứ theo phương thức kinh
doanh, có các loại hình phân phối trực tiếp và phân phối trực tuyến để tiến hành các hoạt
động phân phối, đáng chú ý là kinh doanh hoạt động phân phối theo phương thức đa cấp và
phương thức bán lẻ trực tuyến. Sự tồn tại song song của các loại hình kinh doanh hoạt động
phân phối mang tính chất truyền thống và hiện đại đặt ra những yêu cầu hoàn thiện của pháp
luật về quản lý và phát triển chợ, siêu thị, trung tâm thương mại... phù hợp với đặc tính của
mỗi loại cơ sở kinh doanh, đáp ứng nhu cầu lưu chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến với
người tiêu dùng, đạt được mục tiêu quản lý, đảm bảo cạnh tranh và bảo vệ lợi ích của người
tiêu dùng.
Đối với các cơ sở kinh doanh hoạt động phân phối, thông thường đây là nơi để thực
hiện, xác lập các giao dịch bán buôn, bán lẻ bán hàng trực tiếp. Cơ sở bán lẻ vì thế trở thành
mối quan tâm hàng đầu của cả doanh nghiệp Việt Nam cũng như doanh nghiệp nước ngoài

357
THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION
khi tham gia thị trường kinh doanh hoạt động phân phối vì đây là điểm cuối của quá trình lưu
thông, bao gồm tất cả những hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ đi kèm trực tiếp cho người
tiêu thụ cuối cùng. Do vậy, việc thiết lập các cơ sở bán lẻ là vấn đề pháp lý quan trọng khi các
chủ thể kinh doanh hoạt động phân phối tham gia lĩnh vực này. Căn cứ các văn bản pháp luật
hiện hành [1], cơ sở bán lẻ là địa điểm thực hiện hoạt động bán lẻ với một số loại như sau:
- Trung tâm thương mại: là địa điểm bao gồm nhiều cơ sở bán lẻ và cung cấp dịch vụ
được bố trí tập trung, liên hoàn trong một hoặc một số công trình kiến trúc liền kề.
- Siêu thị: là loại hình cửa hàng hiện đại; kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh; có
cơ cấu chủng loại hàng hóa phong phú, đa dạng, bảo đảm chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn
về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có các
phương thức phục vụ văn minh, thuận tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng hóa của
khách hàng. Siêu thị mini là cơ sở bán lẻ có diện tích dưới 500m2 và thuộc loại hình siêu thị
tổng hợp theo quy định pháp luật.
- Cửa hàng tiện lợi: là cơ sở bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng nhanh, bao gồm thực phẩm,
đồ uống, dược phẩm không kê đơn, thực phẩm chức năng và các sản phẩm bổ dưỡng sức
khỏe, hóa mỹ phẩm và các sản phẩm khác phục vụ tiêu dùng hàng ngày.
- Chợ (truyền thống): loại chợ mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm
theo quy hoạch, đáp ứng các nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa và nhu cầu tiêu dùng của
khu vực dân cư.
- Sở giao dịch hàng hoá: Là nơi các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng
nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hoá theo những tiêu chuẩn
của Sở giao dịch hàng hoá với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời
gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai. Tuy nhiên về bản chất, hoạt
động mua bán hàng hoá trên sở giao dịch hàng hoá có thể không dẫn đến việc giao hàng hoá
trên thực tế vì đây có thể được coi là một công cụ đầu tư tài chính, thực hiện hoạt động đầu
tư vào giá của một loại hàng hoá nhất định (Trường ĐH Luật TP.HCM, 2019).
3. Kinh doanh siêu thị - những vấn đề pháp lý đặt ra
3.1 Những quy định chung về siêu thị
Siêu thị được dịch từ thuật ngữ nước ngoài; trong tiếng Anh, siêu thị là “supermarket”
với “super” là siêu, “market” mang nghĩa “chợ”; trong tiếng Pháp là “Supermarché”, cũng
có cấu trúc tương tự như trên, “super” nghĩa là “siêu” và “marché” nghĩa là chợ (Lê Ngọc
Phương Lan, 2002). Trong từ điển kinh tế thị trường, siêu thị được định nghĩa “là cửa hàng tự
phục vụ, bày bán nhiều mặt hàng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng
như thực phẩm, đồ uống, dụng cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác” (Nguyễn Hữu
Quỳnh, 1998). Theo Kotler P. and G. Armstrong (Kotler, P. & Armstrong G., 2011), “siêu
thị là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao
và khối lượng hàng hóa bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng
về thực phẩm, bột giặt, các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa”. Nhìn chung,
đây là loại hình cửa hàng bán lẻ áp dụng phương thức tự phục vụ từ hàng hoá được trưng
bày với phương thức thanh toán linh hoạt. Siêu thị mang đến những tiện ích to lớn trong mua
sắm, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng mà một số loại hình cơ sở bán lẻ truyền thống không
có được.
Tại Việt Nam, trong giai đoạn từ 1998 đến 2006 (từ sau khi Luật thương mại đầu tiên
được ban hành cho đến trước khi gia nhập WTO, đối với các cơ sở kinh doanh hoạt động

358
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023
phân phối, đặc biệt là cơ sở bán lẻ, Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm
2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ áp dụng đối với tổ chức, cá nhân tham gia
các hoạt động về chợ truyền thống [2] phục vụ nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa và nhu
cầu tiêu dùng. Đối với siêu thị, Quyết định 1371/2004/QĐ-BTM ngày 24 tháng 09 năm
2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại về quy chế siêu thị, trung tâm thương mại (sau đây gọi
là Quyết định 1371/2004/QĐ-BTM) ) được ban hành nhằm tiêu chuẩn hóa các loại hình tổ
chức thương mại hiện đại phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển cũng như quản lý xây
dựng và hoạt động kinh doanh. Hai văn bản này đã phát huy những tác động tích cực của
nó trong thời kỳ này khi xây dựng tiêu chí phân loại các loại hình cơ sở bán lẻ và hoạt động
của nó nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng cũng như phục vụ cho việc phát triển và
quản lý trong điều kiện mới. Đây có thể nói là sự chuẩn bị mang tính đối trọng cho cả hoạt
động bán buôn, bán lẻ truyền thống và hiện đại khi bắt đầu có sự xâm nhập của các nhà đầu
tư nước ngoài trong lĩnh vực này ngay cả trước khi gia nhập WTO [3]. Từ sau 2007 đến
nay, văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của chợ được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
114/2009/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2009; riêng đối với siêu thị, quy định pháp luật điều
chỉnh về cơ sở kinh doanh hoạt động phân phối là siêu thị, trung tâm thương mại về cơ bản
không có gì thay đổi so với thời kỳ trước khi gia nhập WTO bởi vẫn thực hiện theo Quyết
định 1371/2004/QĐ-BTM nói trên.
Theo văn bản này, siêu thị được xác định là loại hình cửa hàng hiện đại; kinh doanh
tổng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hóa phong phú, đa dạng, bảo đảm
chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản
lý, tổ chức kinh doanh; có các phương thức phục vụ văn minh, thuận tiện nhằm thỏa mãn nhu
cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng. Cơ sở kinh doanh được gọi là siêu thị và phân hạng
siêu thị nếu nó có địa điểm kinh đoanh phù hợp với quy hoạch phát triển mạng lưới thương
mại của tỉnh, thành phố và có quy mô, trình độ tổ chức kinh doanh đáp ứng các tiêu chuẩn cơ
bản của một trong ba hạng siêu thị theo quy định đối với siêu thị kinh doanh tổng hợp hoặc
siêu thị chuyên doanh, cụ thể:
(1) Điều kiện đối với siêu thị kinh doanh tổng hợp:
- Siêu thị hạng I: Có diện tích kinh doanh từ 5.000 m2 trở lên; Danh mục hàng hóa kinh
doanh từ 20.000 tên hàng trở lên; Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính
thẩm mỹ cao, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, đảm bảo các yêu cầu
phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho mọi đối tượng khách
hàng; có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh
doanh của Siêu thị; Có hệ thống kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, sơ chế, đóng gói, bán
hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh tiên tiến, hiện đại; Tổ chức, bố trí hàng hóa theo
ngành hàng, nhóm hàng một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua
sắm, thanh tóan thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân; có các dịch vụ ăn
uống, giải trí, phục vụ người khuyết tật, phục vụ trẻ em, giao hàng tận nhà, bán hàng mạng,
qua bưu điện, điện thoại.
- Siêu thị hạng II: Có diện tích kinh doanh từ 2.000 m2 trở lên; có danh mục hàng hóa
kinh doanh từ 10.000 tên hàng trở lên; công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính
thẩm mỹ, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa
cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho khách hàng; có bố trí nơi trông giữ xe
và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh của Siêu thị; có kho và các
thiết bị kỹ thuật bảo quản, đóng gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh hiện đại; Tổ

