
83
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
Hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Ngày nhận: 19/09/2024 Ngày nhận bản sửa: 08/10/2024 Ngày duyệt đăng: 15/11/2024
Tóm tắt: Bài viết nhằm mục đích đánh giá hiệu quả hoạt động của Uỷ ban
Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam sau 05 năm hoạt động và
đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của Ủy ban. Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước
tại doanh nghiệp đã cơ bản thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước. 19 Tập đoàn, Tổng công ty mà Ủy ban làm đại diện
chủ sở hữu vốn đã có kết quả sản xuất kinh doanh tăng trưởng tốt, tổng giá
trị vốn nhà nước được bảo toàn, phát triển. Tuy nhiên, hoạt động Ủy ban vẫn
gặp các vướng mắc do chưa có hệ thống thể chế, pháp luật đồng bộ cho mô
hình hoạt động đặc thù. Bằng phương pháp tổng hợp tài liệu và phân tích nội
dung, bài viết phân tích kinh nghiệm về mô hình đại diện chủ sở hữu vốn nhà
Commission for the Management of State Capital at Enterprises in Vietnam: Challenges and
solutions
Abstract: This article aims to evaluate the performance of the Commission for Management of State
Capital at Enterprises in Vietnam after 05 years of operation and provides recommendations to enhance
the role of the Commission. The Commission for Management of State Capital at Enterprises has basically
performed the all functions and tasks of the representative of the ownership of the state capital. 19 Groups
and Corporations at which the Committee is the representative of the state capital have experienced good
business performance and growth; the value of state capital has been preserved and developed. However,
the Commission's activities still face many problems because there is no synchronous institutional and
legal system for this special model. Using documents and content analysis methods, this paper analyzes
experiences on the model of representatives of the state capital in some other countries, proposes
solutions to improve the role and the efficiency in operation of the Commission for the management of
state capital at enterprises in Vietnam.
Keywords: Commission for Management of State Capital at Enterprises, State capital representatives, State
capital, State capital management, State-owned enterprises
Doi: 10.59276/JELB.2024.11.2816
Nguyen, Manh Cuong
Email: winnd4spd@gmail.com
Vietnam Steel Corporation
Nguyễn Mạnh Cường
Tổng Công ty Thép Việt Nam

Hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp
84 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
nước tại một số quốc gia, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp ở Việt Nam.
Từ khóa: Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Đại diện chủ sở hữu vốn
nhà nước, Vốn nhà nước, Quản lý vốn nhà nước, Doanh nghiệp nhà nước
1. Giới thiệu
Ngày 03/2/2018, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 09/NQ-CP thành lập Ủy ban
Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
(CMSC) và Nghị định số 131/2018/NĐ-
CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của CMSC. CMSC
thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu
vốn nhà nước chuyên trách, tạo điều kiện
cho các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước,
chất lượng quản trị DNNN, góp phần hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Qua quá trình đi vào hoạt động, CMSC đã
cơ bản thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm
vụ đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại
19 Tập đoàn, Tổng công ty do CMSC làm
đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Kết
quả kinh doanh tại các doanh nghiệp do
CMSC quản lý tăng trưởng tốt, tổng giá trị
vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động của
CMSC vẫn còn có một số vướng mắc dẫn
tới những khó khăn, lúng túng trong thực
hiện chức năng, nhiệm vụ.
Thông qua đánh giá các mô hình đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp
đang được các quốc gia áp dụng và thực
trạng hoạt động của CMSC thời gian qua,
bài viết đề xuất một số giải pháp để nâng
cao vai trò và tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động của CMSC trong thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài viết
sử dụng phương pháp tổng hợp tài liệu và
phân tích nội dung từ các nghiên cứu về
các mô hình đại diện chủ sở hữu vốn nhà
nước tại doanh nghiệp đang được các quốc
gia áp dụng và các báo cáo đánh giá thực
trạng hoạt động của CMSC từ thời điểm
thành lập năm 2018 đến nay. Bài viết có
các nội dung chính như sau (1) Giới thiệu;
(2) Tổng quan các mô hình đại diện chủ sở
hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp trên thế
giới; (3) Hoạt động của CMSC; (4) Một số
giải pháp nâng cao vai trò hoạt động của
CMSC và (5) Kết luận.
2. Tổng quan các mô hình đại diện chủ
sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp
trên thế giới
Theo nghiên cứu của Đặng Thị Bồng
(2018), tại các quốc gia, việc quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp nói riêng và
quản lý DNNN nói chung rất được coi
trọng. Mỗi quốc gia có cách quản lý, giám
sát riêng đối với phần vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhưng chủ yếu vẫn thông
qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền
(như Bộ, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang
Bộ) và có sự tách bạch giữa chức năng
quản lý nhà nước và chức năng đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước. Theo đó, có 03
mô hình để các quốc gia có thể áp dụng
trong công tác quản lý phần vốn nhà nước
tại doanh nghiệp (Hình 1).
(1) Mô hình phi tập trung (decentralized
model)
Mô hình quản lý phi tập trung được áp

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG
85
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
dụng ở một số quốc gia như Brazil, Hàn
Quốc… Áp dụng mô hình quản lý phi tập
trung, các DNNN sẽ chịu sự quản lý của
các Bộ chuyên ngành có liên quan (thường
là Bộ chủ quản và các Bộ có liên quan).
Đặng Thị Bồng (2018) đánh giá ưu điểm
lớn nhất của mô hình này là DNNN chịu sự
quản lý từ các Bộ quản lý ngành đã có kinh
nghiệm trong công tác quản lý trong lĩnh
vực. Tuy nhiên, mô hình quản lý phi tập
trung có nhược điểm là không tách bạch
được chức năng chủ sở hữu và chức năng
quản lý Nhà nước của các Bộ. Hai chức
năng này hòa lẫn với nhau sẽ dẫn tới nguy
cơ xảy ra xung đột trong công tác thực hiện
các mục tiêu của Nhà nước. Ví dụ như việc
thực hiện vai trò hoạch định chính sách (đòi
hỏi DNNN cung cấp sản phẩm, dịch vụ với
mức giá có thể thấp hơn chi phí sản xuất)
đối lập với vai trò là chủ sở hữu (Nhà nước
đặt ra mục tiêu DNNN phải kinh doanh có
lợi nhuận, bảo toàn được vốn). Do đó, việc
để các Bộ quản lý ngành giữ vai trò vừa
là chủ sở hữu vừa là cơ quan hoạch định
chính sách cho ngành phát sinh rủi ro thiên
vị trong quyết định về giá cả và mua sắm
trong thị trường, tạo bất lợi cho các doanh
Mô hình quản lý vốn nhà nước
tại doanh nghiệp
Mô hình phi tập trung
(decentralized model)
Mô hình song trùng
(dual model)
Mô hình tập trung
(centralized model)
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 1. Các mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực.
Bên cạnh đó, các Bộ quản lý ngành thường
thiếu kinh nghiệm về tài chính, thương mại
để thực hiện tốt chức năng chủ sở hữu của
Nhà nước. Trên thực tế, các kỹ năng, kinh
nghiệm trong công tác quản lý hoạt động
của Bộ có thể không phù hợp, đầy đủ trong
việc điều hành hoặc giám sát các DNNN.
(2) Mô hình song trùng (dual model)
Trong mô hình quản lý song trùng, trách
nhiệm quản lý quyền sở hữu DNNN được
chia sẻ cho Bộ chuyên ngành và một Bộ
chủ quản (thông thường là Bộ Tài chính
hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Mô hình này
được một số quốc gia áp dụng như Mexico,
Pakistan, New Zealand… Ví dụ như tại
New Zealand, DNNN được quản lý bởi Bộ
Tài chính và Bộ Công nghiệp. Theo đó, Bộ
Tài chính tập trung vào mục tiêu tài chính
đối với DNNN, còn Bộ Công nghiệp tập
trung vào công tác điều hành hoạt động và
thương mại của DNNN. Từ đó Đặng Thị
Bồng (2018) nhận định ưu điểm nổi bật của
mô hình song trùng là quyền chủ sở hữu
được chia sẻ giữa nhiều Bộ, do đó giảm bớt
được vấn đề xung đột trong việc thực hiện

Hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp
86 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
chức năng quản lý nhà nước và chức năng
chủ sở hữu đối với cùng một Bộ. Tuy nhiên,
mô hình song trùng có nhược điểm là việc
có nhiều chủ sở hữu có thể dẫn đến nhiều
mục tiêu, mâu thuẫn giữa các mục tiêu hoạt
động của từng Bộ chuyên ngành (ví dụ như
Bộ Tài chính hướng đến mục tiêu bảo toàn
và phát triển vốn, Bộ Công thương hướng
đến phải thực hiện chính sách điều hành
giá); công tác phối hợp phức tạp hơn…).
(3) Mô hình tập trung (centralized model)
Trong mô hình tập trung, DNNN sẽ do một
hoặc một số cơ quan chủ sở hữu chuyên
trách quản lý. Cơ quan này sẽ chuyên trách
thực hiện chức năng chủ sở hữu, tách bạch
các chức năng hoạch định chính sách và
các chức năng quản lý, giám sát ngành sẽ
do các Bộ quản lý ngành thực hiện, từ đó,
hạn chế tối đa việc xảy ra các xung đột
trong mục tiêu, lợi ich... Các cơ quan chủ sở
hữu được thành lập theo mô hình tập trung
thường hướng đến mục tiêu tái tổ chức, cơ
cấu DNNN thông qua việc mua bán, chuyển
nhượng quyền sở hữu, kiểm soát.
Đặng Thị Bồng (2018) chỉ ra rằng ưu điểm
lớn nhất của mô hình tập trung là tách bạch
chức năng chủ sở hữu và chức năng quản
lý nhà nước. Từ đó, mô hình tập trung được
đánh giá là có tính minh bạch cao hơn, giảm
thiểu vấn đề mâu thuẫn về lợi ích giữa các
chủ sở hữu là các Bộ quản lý ngành. Ví dụ,
chủ sở hữu là Bộ Năng lượng sẽ quan tâm
nhiều hơn tới chất lượng dịch vụ, thúc đẩy
thực hiện chính sách điều hành giá. Trong
khi đó, cổ đông là Bộ Tài chính sẽ có xu
hướng thúc đẩy thực hiện chính sách thu
cổ tức nhằm tối đa hóa doanh thu cho ngân
sách nhà nước (NSNN), kiểm soát mức
vay. Khi áp dụng mô hình tập trung để giảm
thiểu xung đột về lợi ích giữa các Bộ quản
lý ngành, giữa cổ đông và ban điều hành tại
DNNN, cơ quan thực hiện chức năng chủ
sở hữu sẽ có trách nhiệm là đầu mối vạch
ra một quy tắc chung trong công tác quản
lý DNNN. Từ đó, cho phép thống nhất các
quy định, quy tắc tài chính, kế toán, trách
nhiệm của các cá nhân, tập thể trong công
tác quản lý DNNN nhằm tạo thuận lợi cho
DNNN chủ động ra quyết định và chịu
trách nhiệm trong hoạt động.
Nhược điểm của mô hình quản lý tập trung
là rủi ro tiềm tàng trong mối quan hệ giữa
Nhà nước và cơ quan đại diện chủ sở hữu
Mô hình
tập trung
Mô hình tổ chức, cơ quan
nhà nước thực hiện
chức năng đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước
Mô hình Bộ hoặc
cơ quan cấp Bộ
Mô hình đơn vị
thuộc Bộ
Mô hình doanh nghiệp
thực hiện chức năng
đại diện chủ sở hữu
vốn nhà nước
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 2. Phân loại hình thức đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước
tại doanh nghiệp theo mô hình tập trung

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG
87
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
vốn nhà nước, giữa cơ quan đại diện chủ sở
hữu vốn nhà nước và DNNN. Bên cạnh đó,
đòi hỏi nhân sự có trình độ để đáp ứng yêu
cầu công việc với mức tự chủ cao tại mô
hình quản lý tập trung cũng là một khó khăn.
Trên thực tế, mô hình tập trung thường
được tổ chức dưới 02 hình thức như Hình 2.
3.1. Mô hình một tổ chức, cơ quan nhà
nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở
hữu vốn nhà nước
Mô hình một tổ chức, cơ quan nhà nước
thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu
vốn nhà nước thông thường được tổ chức
dưới 02 hình thức: (1) Mô hình Bộ hoặc cơ
quan cấp Bộ; (2) Mô hình đơn vị thuộc Bộ.
So với mô hình doanh nghiệp thực hiện
chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà
nước, Đặng Thị Bồng (2018) nhận định
mô hình tổ chức, cơ quan nhà nước thực
hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn
nhà nước có ưu thế hơn về mặt vị thế chính
trị. Bên cạnh đó, mô hình này còn được kế
thừa đội ngũ nhân sự có sự am hiểu chuyên
ngành, kinh nghiệm trong tham mưu chính
sách tái cơ cấu và quản lý DNNN. Do đó,
mô hình này về cơ bản thực hiện tốt chức
năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước,
đồng thời hỗ trợ một cách hiệu quả việc
triển khai các chính sách đầu tư phát triển
Bảng 1. Mô hình cơ quan chủ sở hữu vốn nhà nước tập trung tại một số quốc gia
Quốc gia
Tên gọi
Đơn vị quản lý
Mô hình tổ chức, cơ quan Nhà nước
Bộ (Ownership ministries)
Indonesia
Ministry of State Enterprises
Bộ doanh nghiệp nhà nước
Hàn Quốc
Ministry of Strategy and Finance
Bộ Tài chính và Chiến lược
Đơn vị trực thuộc Bộ (Ownership departments in a ministry)
Phần Lan
Ownership Steering Department
Văn phòng Chính phủ
Pháp
Agence des Participations de l’Etat
Bộ Kinh tế Tài chính
Na Uy
Ownership Department
Bộ Công Thương
Ba Lan
Department of Ownership Supervision
Bộ Tài chính
Nam Phi
Department of Public Enterprises
Bộ Tài chính
Anh
Shareholder Executive
Ủy ban Kinh tế
Cơ quan chủ sở hữu độc lập (Ownership agencies)
Trung Quốc
State-Owned Assets Supervision and
Administration Commission (SASAC)
Chính phủ
Mô hình công ty
Bhutan
Druk Holding and Investments
Bộ Tài chính
Kazakhstan
Samruk-Kazyna
Bộ Tài chính
Hungary
State Holding Company
Hội đồng quản trị Nhà nước quốc gia
Malaysia
Khazanah Nasional Berhad
Bộ Tài chính
Peru
Fondo Nacional de Financiamiento de la Actividad
Empresarial del Estado Holding
Bộ Tài chính
Singapore
Temasek Holdings
Bộ Tài chính
Nguồn: Đặng Thị Bồng (2018)