Hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nguyễn Mạnh Cường Tổng Công ty Thép Việt Nam
Ngày nhận: 19/09/2024 Ngày nhận bản sửa: 08/10/2024 Ngày duyệt đăng: 15/11/2024
Tóm tắt: Bài viết nhằm mục đích đánh giá hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam sau 05 năm hoạt động và đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của Ủy ban. Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã cơ bản thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. 19 Tập đoàn, Tổng công ty mà Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu vốn đã có kết quả sản xuất kinh doanh tăng trưởng tốt, tổng giá trị vốn nhà nước được bảo toàn, phát triển. Tuy nhiên, hoạt động Ủy ban vẫn gặp các vướng mắc do chưa có hệ thống thể chế, pháp luật đồng bộ cho mô hình hoạt động đặc thù. Bằng phương pháp tổng hợp tài liệu và phân tích nội dung, bài viết phân tích kinh nghiệm về mô hình đại diện chủ sở hữu vốn nhà
Commission for the Management of State Capital at Enterprises in Vietnam: Challenges and
solutions
Abstract: This article aims to evaluate the performance of the Commission for Management of State Capital at Enterprises in Vietnam after 05 years of operation and provides recommendations to enhance the role of the Commission. The Commission for Management of State Capital at Enterprises has basically performed the all functions and tasks of the representative of the ownership of the state capital. 19 Groups and Corporations at which the Committee is the representative of the state capital have experienced good business performance and growth; the value of state capital has been preserved and developed. However, the Commission's activities still face many problems because there is no synchronous institutional and legal system for this special model. Using documents and content analysis methods, this paper analyzes experiences on the model of representatives of the state capital in some other countries, proposes solutions to improve the role and the efficiency in operation of the Commission for the management of state capital at enterprises in Vietnam.
Keywords: Commission for Management of State Capital at Enterprises, State capital representatives, State capital, State capital management, State-owned enterprises Doi: 10.59276/JELB.2024.11.2816
Nguyen, Manh Cuong Email: winnd4spd@gmail.com Vietnam Steel Corporation
83
nước tại một số quốc gia, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam.
Từ khóa: Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, Vốn nhà nước, Quản lý vốn nhà nước, Doanh nghiệp nhà nước
1. Giới thiệu
phân tích nội dung từ các nghiên cứu về các mô hình đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp đang được các quốc gia áp dụng và các báo cáo đánh giá thực trạng hoạt động của CMSC từ thời điểm thành lập năm 2018 đến nay. Bài viết có các nội dung chính như sau (1) Giới thiệu; (2) Tổng quan các mô hình đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp trên thế giới; (3) Hoạt động của CMSC; (4) Một số giải pháp nâng cao vai trò hoạt động của CMSC và (5) Kết luận.
2. Tổng quan các mô hình đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp trên thế giới
Theo nghiên cứu của Đặng Thị Bồng (2018), tại các quốc gia, việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nói riêng và quản lý DNNN nói chung rất được coi trọng. Mỗi quốc gia có cách quản lý, giám sát riêng đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhưng chủ yếu vẫn thông qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền (như Bộ, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ) và có sự tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Theo đó, có 03 mô hình để các quốc gia có thể áp dụng trong công tác quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Hình 1).
Ngày 03/2/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC) và Nghị định số 131/2018/NĐ- CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của CMSC. CMSC thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước chuyên trách, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, chất lượng quản trị DNNN, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua quá trình đi vào hoạt động, CMSC đã cơ bản thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 19 Tập đoàn, Tổng công ty do CMSC làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Kết quả kinh doanh tại các doanh nghiệp do CMSC quản lý tăng trưởng tốt, tổng giá trị vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động của CMSC vẫn còn có một số vướng mắc dẫn tới những khó khăn, lúng túng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Thông qua đánh giá các mô hình đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp đang được các quốc gia áp dụng và thực trạng hoạt động của CMSC thời gian qua, bài viết đề xuất một số giải pháp để nâng cao vai trò và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của CMSC trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp tài liệu và
(1) Mô hình phi tập trung (decentralized model) Mô hình quản lý phi tập trung được áp
84
Mô hình phi tập trung (decentralized model)
Mô hình song trùng (dual model)
p ệ i h g n h n a o d i ạ t
c ớ ư n à h n n ố v ý l n ả u q h n ì h ô M
Mô hình tập trung (centralized model)
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 1. Các mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực. Bên cạnh đó, các Bộ quản lý ngành thường thiếu kinh nghiệm về tài chính, thương mại để thực hiện tốt chức năng chủ sở hữu của Nhà nước. Trên thực tế, các kỹ năng, kinh nghiệm trong công tác quản lý hoạt động của Bộ có thể không phù hợp, đầy đủ trong việc điều hành hoặc giám sát các DNNN.
dụng ở một số quốc gia như Brazil, Hàn Quốc… Áp dụng mô hình quản lý phi tập trung, các DNNN sẽ chịu sự quản lý của các Bộ chuyên ngành có liên quan (thường là Bộ chủ quản và các Bộ có liên quan). Đặng Thị Bồng (2018) đánh giá ưu điểm lớn nhất của mô hình này là DNNN chịu sự quản lý từ các Bộ quản lý ngành đã có kinh nghiệm trong công tác quản lý trong lĩnh vực. Tuy nhiên, mô hình quản lý phi tập trung có nhược điểm là không tách bạch được chức năng chủ sở hữu và chức năng quản lý Nhà nước của các Bộ. Hai chức năng này hòa lẫn với nhau sẽ dẫn tới nguy cơ xảy ra xung đột trong công tác thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. Ví dụ như việc thực hiện vai trò hoạch định chính sách (đòi hỏi DNNN cung cấp sản phẩm, dịch vụ với mức giá có thể thấp hơn chi phí sản xuất) đối lập với vai trò là chủ sở hữu (Nhà nước đặt ra mục tiêu DNNN phải kinh doanh có lợi nhuận, bảo toàn được vốn). Do đó, việc để các Bộ quản lý ngành giữ vai trò vừa là chủ sở hữu vừa là cơ quan hoạch định chính sách cho ngành phát sinh rủi ro thiên vị trong quyết định về giá cả và mua sắm trong thị trường, tạo bất lợi cho các doanh
(2) Mô hình song trùng (dual model) Trong mô hình quản lý song trùng, trách nhiệm quản lý quyền sở hữu DNNN được chia sẻ cho Bộ chuyên ngành và một Bộ chủ quản (thông thường là Bộ Tài chính hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Mô hình này được một số quốc gia áp dụng như Mexico, Pakistan, New Zealand… Ví dụ như tại New Zealand, DNNN được quản lý bởi Bộ Tài chính và Bộ Công nghiệp. Theo đó, Bộ Tài chính tập trung vào mục tiêu tài chính đối với DNNN, còn Bộ Công nghiệp tập trung vào công tác điều hành hoạt động và thương mại của DNNN. Từ đó Đặng Thị Bồng (2018) nhận định ưu điểm nổi bật của mô hình song trùng là quyền chủ sở hữu được chia sẻ giữa nhiều Bộ, do đó giảm bớt được vấn đề xung đột trong việc thực hiện
85
chức năng quản lý nhà nước và chức năng chủ sở hữu đối với cùng một Bộ. Tuy nhiên, mô hình song trùng có nhược điểm là việc có nhiều chủ sở hữu có thể dẫn đến nhiều mục tiêu, mâu thuẫn giữa các mục tiêu hoạt động của từng Bộ chuyên ngành (ví dụ như Bộ Tài chính hướng đến mục tiêu bảo toàn và phát triển vốn, Bộ Công thương hướng đến phải thực hiện chính sách điều hành giá); công tác phối hợp phức tạp hơn…).
(3) Mô hình tập trung (centralized model) Trong mô hình tập trung, DNNN sẽ do một hoặc một số cơ quan chủ sở hữu chuyên trách quản lý. Cơ quan này sẽ chuyên trách thực hiện chức năng chủ sở hữu, tách bạch các chức năng hoạch định chính sách và các chức năng quản lý, giám sát ngành sẽ do các Bộ quản lý ngành thực hiện, từ đó, hạn chế tối đa việc xảy ra các xung đột trong mục tiêu, lợi ich... Các cơ quan chủ sở hữu được thành lập theo mô hình tập trung thường hướng đến mục tiêu tái tổ chức, cơ cấu DNNN thông qua việc mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu, kiểm soát. Đặng Thị Bồng (2018) chỉ ra rằng ưu điểm lớn nhất của mô hình tập trung là tách bạch
chức năng chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước. Từ đó, mô hình tập trung được đánh giá là có tính minh bạch cao hơn, giảm thiểu vấn đề mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ sở hữu là các Bộ quản lý ngành. Ví dụ, chủ sở hữu là Bộ Năng lượng sẽ quan tâm nhiều hơn tới chất lượng dịch vụ, thúc đẩy thực hiện chính sách điều hành giá. Trong khi đó, cổ đông là Bộ Tài chính sẽ có xu hướng thúc đẩy thực hiện chính sách thu cổ tức nhằm tối đa hóa doanh thu cho ngân sách nhà nước (NSNN), kiểm soát mức vay. Khi áp dụng mô hình tập trung để giảm thiểu xung đột về lợi ích giữa các Bộ quản lý ngành, giữa cổ đông và ban điều hành tại DNNN, cơ quan thực hiện chức năng chủ sở hữu sẽ có trách nhiệm là đầu mối vạch ra một quy tắc chung trong công tác quản lý DNNN. Từ đó, cho phép thống nhất các quy định, quy tắc tài chính, kế toán, trách nhiệm của các cá nhân, tập thể trong công tác quản lý DNNN nhằm tạo thuận lợi cho DNNN chủ động ra quyết định và chịu trách nhiệm trong hoạt động. Nhược điểm của mô hình quản lý tập trung là rủi ro tiềm tàng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và cơ quan đại diện chủ sở hữu
Mô hình Bộ hoặc cơ quan cấp Bộ
Mô hình tổ chức, cơ quan nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước
Mô hình đơn vị thuộc Bộ
Mô hình tập trung
Mô hình doanh nghiệp thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 2. Phân loại hình thức đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo mô hình tập trung
86
vốn nhà nước, giữa cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và DNNN. Bên cạnh đó, đòi hỏi nhân sự có trình độ để đáp ứng yêu cầu công việc với mức tự chủ cao tại mô hình quản lý tập trung cũng là một khó khăn. Trên thực tế, mô hình tập trung thường được tổ chức dưới 02 hình thức như Hình 2.
3.1. Mô hình một tổ chức, cơ quan nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước Mô hình một tổ chức, cơ quan nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước thông thường được tổ chức dưới 02 hình thức: (1) Mô hình Bộ hoặc cơ
quan cấp Bộ; (2) Mô hình đơn vị thuộc Bộ. So với mô hình doanh nghiệp thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, Đặng Thị Bồng (2018) nhận định mô hình tổ chức, cơ quan nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước có ưu thế hơn về mặt vị thế chính trị. Bên cạnh đó, mô hình này còn được kế thừa đội ngũ nhân sự có sự am hiểu chuyên ngành, kinh nghiệm trong tham mưu chính sách tái cơ cấu và quản lý DNNN. Do đó, mô hình này về cơ bản thực hiện tốt chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, đồng thời hỗ trợ một cách hiệu quả việc triển khai các chính sách đầu tư phát triển
Bảng 1. Mô hình cơ quan chủ sở hữu vốn nhà nước tập trung tại một số quốc gia
Quốc gia Tên gọi Đơn vị quản lý
Mô hình tổ chức, cơ quan Nhà nước
Bộ (Ownership ministries)
Indonesia Ministry of State Enterprises Bộ doanh nghiệp nhà nước
Hàn Quốc Ministry of Strategy and Finance Bộ Tài chính và Chiến lược
Đơn vị trực thuộc Bộ (Ownership departments in a ministry)
Phần Lan Ownership Steering Department Văn phòng Chính phủ
Agence des Participations de l’Etat Bộ Kinh tế Tài chính Pháp
Na Uy Ownership Department Bộ Công Thương
Ba Lan Department of Ownership Supervision Bộ Tài chính
Nam Phi Department of Public Enterprises Bộ Tài chính
Anh Shareholder Executive Ủy ban Kinh tế
Cơ quan chủ sở hữu độc lập (Ownership agencies)
Trung Quốc Chính phủ State-Owned Assets Supervision and Administration Commission (SASAC) Mô hình công ty
Bhutan Druk Holding and Investments Bộ Tài chính
Kazakhstan Samruk-Kazyna Bộ Tài chính
Hungary State Holding Company Hội đồng quản trị Nhà nước quốc gia
Bộ Tài chính Malaysia Khazanah Nasional Berhad
Bộ Tài chính Peru Fondo Nacional de Financiamiento de la Actividad Empresarial del Estado Holding Bộ Tài chính Singapore Temasek Holdings
Nguồn: Đặng Thị Bồng (2018)
87
quan trọng của DNNN thì Hội đồng quản trị phải xin ý kiến cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước (đơn vị thuộc Bộ) trước khi quyết định. Hằng năm, đơn vị thuộc Bộ sẽ tiến hành đánh giá Hội đồng quản trị đối với một số chỉ tiêu chính như mức độ hoàn thành nhiệm vụ của Hội đồng quản trị, đóng góp của từng Thành viên Hội đồng quản trị; kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp… Kết quả tổng hợp sẽ được báo cáo lên Bộ trưởng làm căn cứ để đưa ra quyết định tái bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm đối với các Thành viên Hội đồng quản trị. Bên cạnh đó, Bộ trưởng thường cũng có trách nhiệm phải thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về tình hình hoạt động của DNNN theo quy định tới Chính phủ (Đặng Thị Bồng, 2018).
cũng như chính DNNN trong ngành, lĩnh vực mà Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, chế độ lương thưởng của công chức, viên chức nhà nước cùng với phương thức quản lý trong mô hình tổ chức, cơ quan nhà nước thường kém linh hoạt, tự chủ và nhạy bén với thay đổi của thị trường khiến cho động lực và trách nhiệm trong công tác quản lý vốn nhà nước ở mô hình này còn hạn chế, chưa rõ ràng, cụ thể như mô hình doanh nghiệp thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Ở mô hình Bộ hoặc cơ quan cấp Bộ, việc quản lý DNNN thường được phân chia giữa Bộ Tài chính và Bộ quản lý ngành. Mô hình này được áp dụng tại Trung Quốc (SASAC) và thí điểm tại Việt Nam với CMSC. Theo đánh giá của Ming Du (2021), những thành công của SASAC đạt được là làm rõ vai trò cổ đông của Nhà nước; một số cải cách của SASAC giúp tăng cường quản trị, giảm sát và đánh giá hiệu quả tại DNNN tốt hơn. Ở mặt khác, SASAC bộc lộ một số vấn đề như không tách bạch được chức năng giữa đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và quản lý nhà nước; giám sát và quản lý tài sản quá mức; chưa thực sự khắc phục được tình trạng thất thoát tài sản nhà nước và các vi phạm; phân bổ vốn nhà nước còn kém hiệu quả. Còn ở mô hình đơn vị thuộc Bộ, một đơn vị thuộc Bộ Tài chính hoặc thuộc Bộ quản lý ngành (thông thường là Cục Quản lý DNNN) được thành lập để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DNNN. Mô hình này được tìm thấy áp dụng ở một số nước Bắc Âu (Na uy, Thụy Điển), Đức, Nam Phi… Trên thực tế, mô hình đơn vị thuộc Bộ thường được các quốc gia áp dụng hơn là mô hình Bộ hoặc cơ quan cấp Bộ. Trước khi chuyển sang áp dụng mô hình đơn vị thuộc Bộ, phần lớn các quốc gia đều đang áp dụng mô hình phi tập trung. Đối với mô hình đơn vị thuộc Bộ, những vấn đề
(3.2) Mô hình doanh nghiệp thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước Trong các mô hình tập trung, mô hình doanh nghiệp thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước được đánh giá là phổ biến nhất. Đặng Thị Bồng (2018) đánh giá mô hình này về cơ bản đã tách bạch được chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước và chức năng quản lý nhà nước. Qua đó, giảm thiểu tác động của chính trị, mục tiêu thực hiện chính sách để công tác quản lý DNNN được độc lập hơn. Thông qua các hoạt động đầu tư mới, mua bán, sáp nhập, giám sát dưới vai trò là cổ đông tại các DNNN, doanh nghiệp thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước thực hiện kiểm soát tốt hơn nguồn lực tài chính, quản lý vốn nhà nước và DNNN hiệu quả hơn. Nếu đặt mục tiêu đầu tư để phát triển vốn nhà nước thì mô hình doanh nghiệp thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước có ưu điểm rõ ràng với động lực, cách thức hoạt động, nhạy bén hơn để bắt kịp với thị trường, chủ động trong công tác đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước.
88
Theo Nghị định số 10/2019/NĐ-CP ngày 30/01/2019 của Chính phủ về thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước, Việt Nam hiện nay có ba cơ quan đại diện chủ sở hữu là (1) CMSC; (2) Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; và (3) SCIC. Trong đó, SCIC là 1 trong 19 Tập đoàn, Tổng công ty trực thuộc CMSC, được kỳ vọng là công cụ để CMSC đầu tư và kinh doanh vốn. SCIC theo đó thực hiện tiếp nhận và thoái vốn tại các doanh nghiệp thuộc các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cung cấp vốn mồi cho các dự án và 18 Tập đoàn, Tổng công ty. Trong khi đó, CMSC được thành lập nhằm thực hiện mục tiêu tách bạch chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và chức năng quản lý nhà nước (Duyên Duyên, 2018). Việc thành lập và đi vào hoạt động của CMSC đã cơ bản thực hiện được chủ trương trên đối với 19 Tập đoàn, Tổng công ty “sếu đầu đàn” trong khối DNNN. Các Bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể tập trung được vào thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước. Các tập đoàn, tổng công ty được quản trị theo các thông lệ quản trị tốt, có môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Qua 05 năm hoạt động, CMSC đã có kết quả hoạt động đáng ghi nhận, cụ thể:
Tuy nhiên, mô hình này có nhược điểm là có địa vị chính trị kém hơn so với mô hình tổ chức, cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, do đó thường sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện bàn giao và tiếp nhận DNNN. Bên cạnh đó, hoạt động phối hợp, tham mưu giúp Chính phủ ban hành và thực hiện các chính sách liên quan DNNN của mô hình này cũng còn hạn chế. Mô hình doanh nghiệp thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước được thành lập dưới 02 hình thức là công ty sở hữu vốn (holding company) và công ty đầu tư (investment company). Trong đó, hình thức công ty sở hữu vốn thường thực hiện vai trò quản lý danh mục tài sản của quốc gia. Một số quốc gia áp dụng hình thức này như Hungary, Mozambique, Peru…. Trong khi đó, hình thức công ty đầu tư được các nước mới nổi và một số nước phát triển có năng lực tài chính và thể chế hoàn chỉnh áp dụng thành công như Temasek Holdings (Singapore) và Khazanah Nasional Berhad (Malaysia). Tại Việt Nam, hình thức công ty đầu tư được áp dụng tại Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), đã được chuyển giao từ Bộ Tài chính về CMSC làm đại diện chủ sở hữu từ năm 2018 (Huy Thắng, 2018). Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8/2006, SCIC khẳng định sự thành công của hình thức công ty đầu tư trong việc chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, cũng như trong hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước. Vốn nhà nước đã được bảo toàn và phát triển. Ngày 10/11/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1336/QĐ-TTg định hướng SCIC trở thành “nhà đầu tư của Chính phủ” (Vũ Phương Nhi, 2023).
3. Hoạt động Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp của Việt Nam
- Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuộc Chính phủ Với tư cách một cơ quan thuộc Chính phủ, CMSC cơ bản đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Điều 3 Nghị định số 10/2016/NĐ-CP và Điều 6 Nghị định số 131/2018/NĐ-CP, bao gồm “đề xuất Chính phủ việc thành lập mới, tổ chức lại, giải thể các tổ chức, đơn vị thuộc
89
cơ cấu tổ chức của CMSC; thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, nghỉ hưu, khen thưởng, kỷ luật và các chế độ khác đối với công chức, viên chức, người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp do CMSC làm đại diện chủ sở hữu; lập dự toán NSNN hằng năm; kế hoạch tài chính- NSNN trung hạn; quyết định các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền đầu tư của CMSC và thực hiện các nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao1…”.
phát triển, việc tuyển dụng lao động, thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp…”. Trong mối quan hệ giữa CMSC với các cơ quan quản lý nhà nước, CMSC chỉ thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, còn các Bộ quản lý ngành thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực chuyên môn đối với các doanh nghiệp. Theo đó, chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và quản lý nhà nước đã được tách biệt.
- Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đại diện chủ sở hữu Căn cứ theo các quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định số 10/2019/NĐ- CP, Nghị định số 131/2018/NĐ-CP có thể thấy CMSC có các nhiệm vụ, quyền hạn với tư cách một cơ quan đại diện chủ sở hữu như “đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung điều lệ của DNNN do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; tham mưu, giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện các quyền, trách nhiệm đối với doanh nghiệp do CMSC làm đại diện chủ sở hữu2; giám sát, kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện chiến lược, kế hoạch đầu tư
1 Làm cơ quan thường trực xử lý tồn tại, yếu kém của 12 dự án ngành Công thương; Chủ trì tham mưu cho Ban cán sự đảng Chính phủ và Chính phủ báo cáo Bộ Chính trị, Quốc hội các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Tổng công ty Hàng không Việt Nam (VNA) do ảnh hưởng của dịch Covid-19.
- Quản lý vốn nhà nước tại 19 Tập đoàn, Tổng công ty Các báo cáo tài chính công ty mẹ của 19 Tập đoàn, Tổng công ty giai đoạn 2018- 2023 cho thấy 19 Tập đoàn, Tổng công ty trong giai đoạn sau khi được chuyển giao về CMSC đã hoàn thành được kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển. Tổng giá trị vốn nhà nước tại các Tập đoàn, Tổng công ty này được bảo toàn và phát triển. Tại Báo cáo 05 năm hoạt động của CMSC (2023) cho thấy “năm 2018, tổng số vốn và tài sản công ty mẹ của 19 Tập đoàn, Tổng công ty được CMSC tiếp nhận lần lượt là 922.819 tỷ đồng và 1.646.311 tỷ đồng. Đến hết năm 2023, tổng số vốn và tài sản này đã tăng lên lần lượt là 940.000 tỷ đồng và 1.616.000 tỷ đồng, doanh thu công ty mẹ của 19 Tập đoàn, Tổng công ty cũng có sự tăng trưởng ấn tượng từ 823.716 tỷ đồng lên 1.136.000 tỷ đồng”. Tại Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2024; phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2024 của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và 19 Tập đoàn, Tổng công ty của CMSC (2024) đã nêu rõ kết quả sản xuất kinh doanh đáng ghi nhận của 19 Tập đoàn, Tổng công ty “đến hết tháng 6/2024, doanh thu hợp nhất của 19 Tập đoàn, Tổng công ty ước đạt
2 Theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 131/2018/NĐ-CP bao gồm các nội dung chính như quyết định đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp; quyết định tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu, giải thể và yêu cầu phá sản doanh nghiệp; quyết định và điều chỉnh vốn điều lệ, chiến lược phát triển của doanh nghiệp; công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp.
90
1.018.920 tỷ đồng, bằng 76,28% kế hoạch năm; lợi nhuận trước thuế ước đạt 56.874 tỷ đồng, bằng 127% kế hoạch năm; giá trị nộp NSNN ước đạt 86.217 tỷ đồng, bằng 75,24% kế hoạch năm”. Bên cạnh đó, 19 Tập đoàn, Tổng công ty trong thời gian qua đã luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị- kinh tế- xã hội được giao, đóng góp tích cực vào hiệu quả phát triển và tính cạnh tranh của quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc phòng và nguồn cung các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội, tạo động lực cho các ngành, lĩnh vực, khu vực kinh tế khác trong nền kinh tế phát triển thông các hoạt động cụ thể như đảm bảo cung ứng xăng dầu trong biến động của thị trường (cung ứng 13,76 triệu m3 xăng dầu, 10,84 triệu tấn dầu thô, chiếm 50% thị phần xăng dầu bán lẻ cả nước); đảm bảo an ninh, cung ứng năng lượng bao gồm điện cho sinh hoạt và sản xuất kinh doanh (cung ứng 242,7 tỷ kWh điện, chiếm khoảng 48% điện năng cả nước), khai thác khí (cung ứng 8,08 tỷ m3 khí, chiếm 100% khí khô, 70% khí hóa lỏng cả nước), than đá (cung ứng 42,2 triệu tấn than sạch); cung ứng sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp cho nền kinh tế bao gồm hóa chất cơ bản (cung ứng 842 nghìn tấn hóa chất cơ bản), phân bón (cung ứng 4,8 triệu tấn phân bón, chiếm 70% phân bón cả nước), cây giống (cung ứng 41,6 triệu cây giống)... (CMSC, 2023). Để 19 Tập đoàn, Tổng công ty có những kết quả đáng ghi nhận như trên đòi hỏi sự nỗ lực của CMSC trong việc thực hiện nghiêm túc quyền và nghĩa vụ của cổ đông Nhà nước trong định hướng doanh nghiệp hoạt động. Mặt khác, một trong những vai trò quan trọng khác của CMSC thời gian qua là làm cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo xử lý các dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả ngành Công thương. Đến nay một số dự án, doanh nghiệp đã có nhiều chuyển
biến trong sản xuất, kinh doanh. Việc một số dự án, doanh nghiệp đi vào hoạt động ổn định hơn trước, kinh doanh có lãi, giảm lỗ lũy kế và một số dự án, doanh nghiệp vận hành trở lại sau thời gian dừng sản xuất đã đóng góp cho NSNN, giảm dư nợ trung hạn và dài hạn của các dự án/doanh nghiệp, bảo đảm duy trì việc làm, đời sống cho hàng nghìn lao động, góp phần ổn định chính trị- xã hội tại địa phương. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, theo Báo cáo 05 năm hoạt động của CMSC (2023) trong quá trình hoạt động của mô hình CMSC vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế chính như: - Hoạt động phê duyệt chiến lược phát triển doanh nghiệp mới thực hiện ở mức độ doanh nghiệp và còn chậm do 19 Tập đoàn, Tổng công ty có quy mô lớn, nội dung chiến lược phát triển doanh nghiệp rất rộng và phức tạp, liên quan đến một số quy hoạch ngành do đó phát sinh thêm thời gian khi phải xin ý kiến các Bộ, cơ quan liên quan để triển khai. - Một số quy định pháp luật trong việc thực hiện thẩm quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và trong hoạt động của DNNN còn bất cập, chưa rõ ràng, đồng bộ, thống nhất, chậm được sửa đổi bổ sung (như chưa rõ khái niệm vốn nhà nước, vốn của doanh nghiệp, vốn đầu tư của chủ sở hữu nhà nước để xác định được giới hạn thực hiện vai trò quản lý nhà nước; xác định các nội dung phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Kiểm toán nhà nước, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; lúng túng trong việc xác định là tài sản kết cấu hạ tầng quốc gia và tài sản của doanh nghiệp…) gây lúng túng trong hoạt động của CMSC và các doanh nghiệp. - Việc triển khai hoạt động đầu tư còn chậm do các quy định pháp luật chưa đồng bộ; chưa đẩy mạnh phân công, phân cấp gắn với trách nhiệm của người đứng đầu.
91
Quá trình thực hiện dự án đầu tư phải tham chiếu quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật có một số nội dung chưa đồng nhất hoặc tăng thêm các bước thủ tục, làm cho quá trình đầu tư kéo dài. Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thực hiện chưa được sửa đổi kịp thời theo thực tiễn, chưa tạo sự chủ động cho doanh nghiệp đưa ra những quyết định nhanh, kịp thời. - Một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn dẫn đến chậm tiến độ trong thực hiện dự án (đặc biệt là các dự án nguồn điện, các dự án phát triển dầu khí, các dự án quy mô lớn); trong khi đó, còn doanh nghiệp có vốn tài sản nhàn rỗi nhưng chưa có cơ chế để điều tiết nguồn vốn. Một số doanh nghiệp tiến hành đầu tư dự án khi năng lực tài chính chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tối ưu hóa hiệu quả nguồn vốn.
4. Kết luận và một số giải pháp nâng cao vai trò hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam
Mô hình hoạt động của CMSC có thể xem là mô hình mới tại Việt Nam, cần có điều kiện đặc thù về thể chế, pháp luật và nguồn lực để vận hành có hiệu quả. Tuy nhiên, CMSC được thành lập và đi vào hoạt động mới dựa trên hệ thống thể chế, pháp luật hiện có, chưa có sự đổi mới, sửa đổi, bổ sung cho mô hình hoạt động đặc thù của CMSC dẫn tới những khó khăn, lúng túng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Theo đó, một số giải pháp nâng cao vai trò và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của CMSC trong giai đoạn tới như sau: Trong giai đoạn hiện nay, để tháo gỡ những vướng mắc, hạn chế đối với hoạt động của mình, CMSC cần đạt được 02 mục tiêu: (1) CMSC cần tăng cường thực hiện vai trò của
mình, thực hiện tốt hơn những nhiệm vụ và quyền hạn đối với doanh nghiệp được giao; (2) Phân rõ thẩm quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu, tiến tới mô hình quản lý vốn nhà nước tập trung tại CMSC. Các Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo đó cần tập trung vào công tác quản lý nhà nước mà không thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp như quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ. Để đạt được các mục tiêu này đòi hỏi: Thứ nhất, cần rà soát, sửa đổi bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng dẫn Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp… để quy định thống nhất, tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động quản lý vốn nhà nước và tổ chức, hoạt động của DNNN trong đó có những nội dung chính sau: - Rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật còn chưa đầy đủ, rõ ràng, thống nhất và chưa hợp lý liên quan đến Tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh; Tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; Phân công, phân cấp đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong triển khai các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh... Đặc biệt là bảo đảm sự nhất quán, không chồng chéo, mâu thuẫn đối với khái niệm, đối tượng áp dụng… giữa các quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Đất đai... - Bổ sung quy định pháp luật về cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của tập đoàn, tổng công ty nhà nước và DNNN trên cơ sở tổng thể các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mức độ đóng góp cho mục tiêu chính trị- xã hội. Việc xem xét hiệu quả của từng dự án, hoạt động
92
chỉ khi có các dấu hiệu vi phạm pháp luật, lợi ích nhóm hay tham ô, tham nhũng. Từ đó, tạo động lực cho các DNNN mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; sáng tạo và đương đầu với rủi ro vì lợi ích và hiệu quả chung của doanh nghiệp. - Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện kịp thời, đầy đủ và cụ thể ngay khi có các quy định, chính sách, pháp luật mới đề làm cơ sở để các tập đoàn, tổng công ty thực hiện. Tránh tình trạng hướng dẫn chậm, không cụ thể, dẫn tới khi các tập đoàn, tổng công ty triển khai gặp vướng mắc, phải có văn bản hỏi các cơ quan nhiều lần, mất nhiều thời gian và cơ hội kinh doanh. Xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 theo hướng tăng cường phân cấp để giảm bớt những quy trình không trọng yếu, tạo điều kiện cho doanh nghiêp chủ động nắm bắt các cơ hội kinh doanh. - Giao cơ quan đại diện chủ sở hữu tại DNNN chủ động đối với các nội dung liên quan đến vốn điều lệ; tổ chức, hoạt động; chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh (sau khi đã có định hướng phát triển kinh tế- xã hội, ngành, lĩnh vực của trung ương); công tác cán bộ; hoạt động đầu tư; hoạt động giám sát, kiểm tra… tại doanh nghiệp. Thứ hai, cần củng cố năng lực hoạt động của CMSC - Cần đẩy mạnh công tác tách chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước. Kiên quyết chấm dứt tình trạng cơ quan hành chính nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; phân định rõ quyền quản lý hành chính của Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó xóa bỏ việc đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp rải rác ở các Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về các đầu mối tập trung; các cơ quan quản lý nhà nước căn
cứ vào các quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý để ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả DNNN. - Chính phủ cần thực hiện rà soát lại kế hoạch cổ phần hóa, sắp xếp DNNN theo “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021 - 2030” và “các tiêu chí phân loại DNNN”, từ đó xác định lộ trình tiếp tục chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các DNNN cần nắm giữ về CMSC và không cần nắm giữ về SCIC (thoái vốn tại các ngành, lĩnh vực không trọng điểm để tập trung nguồn lực tài chính vào các ngành, lĩnh vực Nhà nước cần phát triển theo định hướng của Nhà nước). Mặt khác, trong giai đoạn tiếp theo, để mô hình CMSC cũng như 19 Tập đoàn, Tổng công ty có thể thực hiện tốt được định hướng phát triển kinh tế theo “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021- 2030”, Nhà nước cần phải thay đổi tư duy về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, trong đó có nguyên tắc “bảo toàn và phát triển vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp” như giai đoạn trước đây. Mục tiêu “bảo toàn” ở đây có hàm ý là tránh những thất thoát, tiêu cực trong công tác sắp xếp và cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam thời kỳ đầu (rút kinh nghiệm từ sự thất bại trong công tác cổ phần hoá ồ ạt ở Nga trong đợt cổ phần hoá lần đầu tiên những năm 1990s) (Nellis, 1999). Theo Ban chấp hành Trung ương Đảng (2017), nếu thực hiện thành công trong công tác sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp giai đoạn 2030- 2040, Việt Nam cần chuyển hướng sang việc đầu tư kinh doanh vốn một cách công khai, minh bạch, tối đa hoá giá trị vốn nhà nước theo thị trường. Đối với mục tiêu “phát triển vốn”, cần tăng vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp vì khi giá trị tài sản của DNNN tăng
93
đoạn này là giám sát, định hướng cho hoạt động của các DNNN này theo định hướng chung trong phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn sau này mà không tham gia trực tiếp vào hoạt động của DNNN. Thay vào đó, thực hiện các quyền của nhà đầu tư, thụ hưởng những lợi ích từ vốn góp tại các doanh nghiệp “sếu đầu đàn”, theo cơ chế thị trường và thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc tế. - SCIC dưới sự quản lý, giám sát của CMSC là tổ chức tài chính- đầu tư của Quốc gia, làm công cụ chủ yếu để thực hiện các mục tiêu, chương trình ưu tiên theo phân công và định hướng của Nhà nước, tập trung nguồn vốn đầu tư vào những ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu mang tính dẫn dắt, lan tỏa, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện tái cấu trúc DNNN và phát triển kinh tế- xã hội.
5. Kết luận
Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam thời gian qua đã thể hiện rõ vị trí, vai trò nòng cốt trong nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng của đất nước. Việc tiếp tục phát huy mô hình CMSC như Thông báo số 40-TB/TW của Bộ Chính trị về Đề án “Thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước tại doanh nghiệp” là cần thiết. Bài viết đã làm rõ các kết quả hoạt động trong thời gian qua, và đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm tháo gỡ những tồn tại, hạn chế và nâng cao vai trò hoạt động của CMSC trong thời gian tới. ■
lên, đồng nghĩa giá trị vốn nhà nước đầu tư cũng tăng lên, chứ không phải như hiện nay cứ thực hiện cổ phần hoá, thoái vốn là rút tiền ra, đưa vào NSNN, cuối cùng là chi tiêu hết. Để đạt được mục tiêu này cần: Thứ nhất, có sự thống nhất cao trong bộ máy Đảng và Nhà nước, chuyển đổi mục tiêu từ sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp sang đầu tư, kinh doanh vốn phát triển doanh nghiệp. Vốn nhà nước cần được đầu tư vào doanh nghiệp tập trung trong những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư, ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế. Thứ hai, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập đối với DNNN và các khu vực doanh nghiệp khác. DNNN phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động để nâng cao hiệu quả vốn và tài sản nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững của nền kinh tế, tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam. Thứ ba, để CMSC có thể thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ được giao một cách có hiệu quả nhất thì Chính phủ cân nhắc có phương án kiện toàn một thể chế riêng, mang tính đồng bộ, xuyên suốt cho CMSC, đồng thời cần có đổi mới định hướng trong mô hình và hoạt động cho giai đoạn 2040 (Hình 3). - CMSC là cơ quan quản lý và giám sát vốn nhà nước tập trung của Chính phủ với Ban lãnh đạo là Lãnh đạo Chính phủ, hội đồng các Bộ trưởng cho phép CMSC thực hiện được các nhiệm vụ một cách nhanh chóng với sự thống nhất cao trong toàn Chính phủ. Chức năng nhiệm vụ của CMSC tại giai
94
Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế với trọng tâm là SASAC và SDIC
Hình 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam đến 2040
Tài liệu tham khảo
Ban chấp hành Trung ương Đảng (2017). Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/06/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2021). Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021-2030. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Chính phủ (2010). Nghị định 25/2010/NĐ-CP về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, ban hành ngày 19/03/2010.
Chính phủ (2016). Nghị định 10/2016/NĐ-CP quy định về cơ quan thuộc Chính phủ, ban hành ngày 01/02/2016. Chính phủ (2018). Nghị quyết số 09/NQ-CP về thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, ban hành ngày 03/02/2018. Chính phủ (2018). Nghị định số 131/2018/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, ban hành ngày 29/09/2018. Chính phủ (2019). Nghị định số 10/2019/NĐ-CP về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước, ban hành ngày 30/01/2019.
Chính phủ (2023). Quyết định số 1336/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035; Kế hoạch kinh doanh và kế hoạch đầu tư phát triển đến năm 2025 của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước, ban hành ngày 10/11/2023.
Duyên Duyên (2018). SCIC về siêu Ủy ban: Có tạo nên “nhà nước nhỏ trong một nhà nước lớn”?, Tạp chí điện tử VnEconomy, https://vneconomy.vn/scic-ve-sieu-uy-ban-co-tao-nen-nha-nuoc-nho-trong-mot-nha-nuoc-lon.htm. Truy cập ngày 19/9/2018.
95
Đặng Thị Bồng (2018). Kinh nghiệm quốc tế về thể chế quản lý vốn nhà nước đầu tư và kinh doanh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, https://ciem.org.vn/tin-tuc/6329/kinh-nghiem-quoc-te-ve-the-che-quan-ly-von-nha-nuoc- dau-tu-va-kinh-doanh?newsgroup=Th%C3%B4ng%20tin%20chuy%C3%AAn%20%C4%91%E1%BB%81. Truy cập ngày 30/05/2018. Huy Thắng (2018). Bàn giao SCIC sang Ủy ban Quản lý vốn nhà nước. Báo Điện tử Chính phủ. https://baochinhphu.vn/
ban-giao-scic-sang-uy-ban-quan-ly-von-nha-nuoc-102247706.htm. Truy cập ngày 12/11/2018. Nellis, J. R. (1999). Time to rethink privatization in transition economies? World Bank Publications, 38. Quốc hội (2014). Luật số 69/2014/QH13, Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, ban hành ngày 26/11/2014
Quốc hội (2015). Luật số 76/2015/QH13, Luật Tổ chức Chính phủ, ban hành ngày 19/06/2015. Quốc hội (2017). Luật số 15/2017/QH14, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, ban hành ngày 21/06/2017. Quốc hội (2019). Luật số 39/2019/QH14, Luật Đầu tư công, ban hành ngày 13/06/2019. Quốc hội (2020). Luật số 59/2020/QH14, Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 17/06/2020. Quốc hội (2020). Luật số 61/2020/QH14, Luật Đầu tư, ban hành ngày 17/06/2020. Quốc hội (2024). Luật số 31/2024/QH15, Luật Đất đai, ban hành ngày 18/01/2024. Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (2023). Báo cáo 05 năm hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Hội nghị chào mừng 5 năm thành lập Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ngày 29/9/2023.
Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (2024). Báo cáo về thực hiện nhiệm vụ năm 2023 và phương hướng hoạt động năm 2024 của Ủy ban và 19 Tập đoàn, Tổng công ty do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu nhằm góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Hội nghị Thủ tướng Chính phủ làm việc với Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và 19 tập đoàn, tổng công ty trực thuộc về triển khai sản xuất, kinh doanh năm 2024 và thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ngày 05/02/2024.
Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (2024). Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2024; phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2024 của Uỷ ban Quản lý vồn nhà nước tại doanh nghiệp và 19 Tập đoàn, Tổng công ty. Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2024 của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ngày 16/7/2024.
Du, M. (2021). The status of Chinese State-owned enterprises in international investment arbitration: much ado about nothing?. Chinese Journal of International Law, 20(4), 785-815. https://doi.org/10.1093/chinesejil/jmab040 Vũ Phương Nhi (2023). Chiến lược phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035 của SCIC. Báo Điện tử https://baochinhphu.vn/chien-luoc-phat-trien-den-nam-2030-va-tam-nhin-den-nam-2035-cua- phủ, Chính scic-10223111317323659.htm. Truy cập ngày 13/11/2023.