SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH TÌM

HIỂU ĐỀ, TÌM Ý, CHỌN VÀ SẮP XẾP

Ý KHI LÀM MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN

I. PHẦN MỞ ĐẦU:

I.1.Lí do chọn đề tài:

Hoà chung với nhịp độ đi lên của đất nước đang trên đường tiến vào

thế kỉ XXI. Một thế kỉ công nghiệp hoá – hiện đại hoá ( CNH- HĐH).

Mục tiêu của Giáo dục hiện nay là: “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,

bồi dưỡng nhân tài”. Đó là một nhiệm vụ hết sức vinh quang nhưng cũng

không kém phần nặng nề của ngành Giáo dục. Như Nghị quyết đại hội

Đảng lần thứ VIII của Ban chấp hành TW đã khẳng định đẩy mạnh CNH-

HĐH đất nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng ,

dân chủ và văn minh, đất nước vững bước đi lên CNXH. “Giáo dục &

Đào tạo là quốc sách hàng đầu.”Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là

nền tảng. Mục tiêu giáo dục là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,

nhằm đào tạo một thế hệ trẻ vừa “ hồng” vừa “chuyên”, có đầy đủ” Đức-

Trí- Mĩ- Duc”; có kiến thức văn hoá, khoa học, có kĩ năng nghề nhiệp, lao

động tự chủ, sáng tạo, có kĩ thuật, giàu lòng yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã

hội, sống lành mạnh, đáp ứng với nhu cầu phát triển của đất nước trong

những năm 2012-2020 và trong tương lai. Mỗi một môn học ở bậc tiểu

học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ ; cung cấp

cho trẻ những trí thức cần thiết. Đặc biệt môn Tập làm văn là một phân

môn hết sức quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng nói và viết cho trẻ.

Vì vậy dạy cho học sinh biết tìm hiểu đề ,quan sát tìm ý … để hình thành

một thói quen chuẩn bị tốt trước khi làm một bài Tập làm văn là một yêu

cầu hết sức quan trọng. Muốn tìm hiểu đề tốt, học sinh cần nắm được cách

đặt các câu hỏi tìm trọng tâm của đề một cách chính xác và những yêu cầu

để làm tốt một bài Tập làm văn.

Đối với cả giáo viên và học sinh đều chưa nhận thức được hết tầm

quan trọng của giờ hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài, quan sát, tìm ý ,

chọn lọc ý và sắp xếp ý nên chất lượng giờ dạy còn hạn chế. Từ thực tế

trên, qua quá trình giảng dạy, khi thấy học sinh thường sai đề một cách

đáng tiếc.Với mong muốn có một đóng góp nhỏ bé trong việc giáo dục

học sinh phát triển toàn diện; nâng cao năng lực sư phạm cho bản thân.

Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài : “ Hướng

dẫn học sinh tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc và sắp xếp ý khi làm một bài

Tập làm văn.”

I.2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài:

Ngày nay khi đất nước phát triển môn Tiếng Việt nói chung và phân

môn Tập làm văn nói riêng được giáo dục quan tâm và đầu tư đúng mức.

Tiếng Việt không chỉ để học làm ngôn ngữ giao tiếp mà Tiếng Việt còn là

nơi cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người,

cung cấp vốn từ, tăng cường khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết

ban đầu về tác phẩm văn học và góp phần rèn luyện nhân cách con người

cho học sinh.

Đối với học sinh lớp 4+5 là giai đoạn tiếp thu kiến thức khá cao, yêu

cầu của môn Tiếng việt hết sức quan trọng, trong đó phân môn Tập làm

văn đóng vai trò chủ chốt nên giáo viên cần chú ý quan tâm đến việc rèn

luyện các kỹ năng cơ bản từ đó tiếp tục bồi dưỡng cho học sinh tình yêu

Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của

Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội

chủ nghĩa. Chính vì thế mục tiêu của đề tài là hướng dẫn học sinh cách

tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc và sắp xếp ý khi làm một bài Tập làm văn.

Dựa vào việc tìm hiểu thực trạng của việc giảng dạy và học tập giờ tìm

hiểu đề, quan sát tìm ý cho bài Tập làm văn hiện nay, tôi có một số suy

nghĩ về việc hướng dẫn học sinh biết cách tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý

một cách tích cực có hiệu quả tiến tới học sinh có khả năng nói và viết tốt

hơn.

Với những mục đích, nội dung nghiên cứu của đề tài trên và những

kiến thức thu nhặt được từ quá trình giảng dạy, kết hợp với tham khảo

qua sách báo, tài liệu, bản thân tôi đã tìm hiểu tình hình học tập phân môn

Tập làm văn lớp 4+5 ở Trường tiểu học Phú Lộc qua việc rèn luyện hình

thành các kĩ năng của học sinh. Nhằm góp phần nâng cao chất lượng học

tập phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4+5.

I.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:

Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên đối tượng nghiên cứu của đề tài

là các em học sinh lớp 4+5 Trường Tiểu Học Phú Lộc.

I.4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu:

Từ thực tế trên, qua quá trình giảng dạy, khi thấy học sinh thường sai

đề một cách đáng tiếc. Với mong muốn có một đóng góp nhỏ bé trong

việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện; nâng cao năng lực sư phạm

cho bản thân. Tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và bổ cứu trong cách dạy của

mình. Sau đây là những bước nhằm giúp học sinh làm bài một cách có

chất lượng qua “Tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc và sắp xếp ý” trước khi làm

một bài Tập làm văn hoàn chỉnh của lớp 4+5.

I.5. Phương pháp nghiên cứu:

Dùng phương pháp tổng kết kinh nghiệm, ngoài ra còn sử dụng một số

phương pháp sau:

- Phương pháp điều tra.

- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm ( Nghiên cứu bài làm của các em).

- Phương pháp trò chuyện.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc, tham khảo tài liệu qua sách

báo,...

- Khảo sát tình hình thực tế, dự giờ thăm lớp.

- Phương pháp thực hành, so sánh đối chiếu,….

II. PHẦN NỘI DUNG :

II.1. Cơ sở lí luận:

Trong thực tế bài làm của học sinh thường không xuất sắc vì rơi vào

các trường hợp sau: sai đề hoàn toàn; bài làm dàn trãi, không thể hiện

được trọng tâm yêu cầu của đề ra; bài làm phiến diện, thiếu cân đối (ý

trọng tâm thì lướt qua còn ý phụ lại đi sâu hơn); bài làm đúng yêu cầu

nhưng ý nghèo, nông cạn,… Nguyên nhân chính của những sai sót này là

do học sinh không chịu tìm hiểu kỹ đề, tìm và chọn lọc ý mà chỉ đọc qua

quýt rồi làm bài trực tiếp chứ không thông qua làm nháp. Không chỉ do

học sinh lười tìm hiểu đề mà thực chất do giáo viên chúng ta không chú

trọng đến khâu này, không trực tiếp hướng dẫn và kiểm tra một cách

nghiêm túc, chặt chẽ đối với học sinh cho nên các em không có thói quen

tìm hiểu đề, tìm ý. Thậm chí, một số giáo viên có ý thức chú trọng khâu

này nhưng lại lúng túng chưa tìm ra biện pháp hướng dẫn cho học sinh

xâm nhập đề ra nên đã bỏ qua bước quan trọng bậc nhất này. Tìm hiểu

đề, tìm ý, chọn và sắp xếp ý khi làm một bài văn là khâu đầu tiên quan

trọng nhất quyết định đúng sai trong quá trình làm bài. Đặc biệt, đối với

học sinh tiểu học khâu này lại càng cần thiết vì các em còn nhỏ, ngây thơ

trong cách học, cách hiểu, cách làm bài.

II.2. Thực trạng:

a/ Thuận lợi - Khó khăn:

* Thuận lợi:

+ Về phía giáo viên:

- Trong quá trình dạy học bản thân cũng như các giáo viên khác luôn được

Nhà trường quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác dạy học. Đội ngũ

giáo viên Nhà trường có tay nghề cao là điều kiện thuận lợi để giáo viên

dự giờ học hỏi kinh nghiệm. Học sinh có đầy đủ SGK và Giáo viên có đầy

đủ sách hướng dẫn , được học về cách sử dụng các phương tiện dạy học

hiện đại. Bản thân giáo viên yêu nghề, có năng lực sư phạm.

- Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với công việc giảng dạy, hết lòng yêu

thương trẻ. Quan tâm và hiểu tâm lí của từng học sinh trong lớp, nắm

được sức học của từng em để từ đó có hướng rèn luyện đúng đắn, tạo

hứng thú học văn cho các em.

- Giáo viên nắm rõ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một cách cơ

bản, việc sử dụng đồ dùng dạy học tương đối có hiệu quả.

- Sự chỉ đạo của chuyên môn PGD, trường, tổ khối có vai trò tích cực

giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.

- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thao đã có nhiều giáo viên thành

công khi dạy Tập làm văn.

- Qua các phương tiện thông tin đại chúng, ti vi, đài, sách báo giáo viên

tiếp cận với phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn.

- Tài liệu giảng dạy của thư viện nhà trường phong phú, phù hợp với từng

đối tượng học sinh.

+ Về phía học sinh:

- Đa số học sinh được sự quan tâm chăm sóc của gia đình. Được giáo

dục trong môi trường lành mạnh, trong xã hội tiến bộ và phát triển. Các

em đều có động cơ học tập đúng đắn, luôn muốn tìm tòi, khám phá thế

giới muôn màu, muôn vẻ xung quanh. Sự quan tâm của phụ huynh học

sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng

và môn Tiếng việt nói chung.

- Học sinh lớp 4+5 phần lớn đã đọc thông viết thạo, có cố gắng trong quá

trình tiếp thu bài cũng như hình thành và rèn luyện kĩ năng cho mình. Một

số học sinh có khả năng tiếp thu nhanh kiến thức, ý thức tốt trong việc tìm

hiểu đề kĩ, quan sát, tìm và chọn lọc ý khi làm một bài văn.

- Các em rất giàu tư duy sáng tạo, mỗi em đều có những sở trường riêng.

Ở lứa tuổi các em rất thích tỏ ra mình là một người lớn, biết vâng lời, luôn

luôn lắng nghe, ham học hỏi,say mê tìm tòi,hồn nhiên, ngây thơ, trong

sáng. Các em thường thể hiện nét ngộ nghĩnh đáng yêu và cảm nhận thế

giới xung quanh theo từng cách riêng với trí tưởng tượng không giống

nhau.

- Các em học sinh đều được học 2 buổi/ngày. Buổi sáng học lý thuyết và

buổi chiều được luyện tập củng cố để khắc sâu kiến thức. Từ đó giúp các

em có khả năng sử dụng thành thạo các bài tập thực hành và áp dụng linh

hoạt vào các phân môn khác.

* Khó khăn:

- Do đặc điểm lứa tuổi học sinh giai đoạn này thường tiếp thu tốt nhưng

cũng nhanh quên; các em còn ngại khó, hễ gặp vấn đề hơi khó là muốn

dừng lại mà phân môn Tập làm văn lại là môn đòi hỏi tính cần cù, nhẫn

nại cao.

- Trong trường có học sinh của ba dân tộc khác nhau, nhìn chung khả

năng tiếp thu không đồng đều, một số học sinh vốn ngôn ngữ Tiếng việt

hạn chế nên đã ảnh hưởng nhiều đến khả năng tạo lập văn bản của các em.

- Đối với học sinh vùng sâu, vùng xa điều kiện để các em phát triển về

giao tiếp còn hạn chế không được mở rộng như thành thị, học sinh chưa

nhạy bén trong va chạm, vốn sống của các em chưa thật phong phú.

- Ý thức học tập của một số em còn hạn chế. Bên cạnh đó học sinh với lối

tư duy cụ thể, khả năng tư duy trừu tượng chưa cao, chưa có ý thức tự

giác học bài ở nhà, còn trông chờ vào sự giúp đỡ của giáo viên nên kết

quả học tập chưa cao.

- Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình khi cuộc

sống còn gặp nhiều khó khăn, vất vả, còn có quan điểm '' trăm sự nhờ nhà

trường, nhờ thầy cô'' cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập các

môn nói chung và Tập làm văn nói riêng.

b/ Thành công – Hạn chế:

* Thành công: Tất cả: Tìm hiểu đề bài, tìm, chọn, sắp xếp ý là quá trình

hoạt động của trí óc giúp cho học sinh làm bài không lạc đề, bài làm trở

nên chặt chẽ và nổi bật trọng tâm, đầy đủ và phong phú - bài viết hấp dẫn

mang phong cách riêng chứ không rập khuôn theo một khuôn mẫu. Chính

vì vậy khi áp dụng phương pháp này trong phân môn Tập làm văn thì khả

năng phát triển của học sinh đạt hiệu quả cao hơn.

* Hạn chế:

+ Giáo viên:

- Việc vận dụng dạy học tích hợp chưa được giáo viên vận dụng triệt để

nên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho các em trong một tiết Tập làm

văn thường rất lớn so với thời gian, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải

trong tiết học.

- Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học

nhưng đôi khi cũng ngại không dám “thoát li” các gợi ý của sách giáo

khoa, sách tham khảo vì sợ sai và không đủ thời gian cho một tiết học.

+ Học sinh:

- Học sinh chưa vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học trong các

phân môn của Tiếng Việt nên các em còn gặp một số khó khăn sau:

+ Chương trình Tiếng Việt mới có rất nhiều ưu điểm trong việc phát huy

sáng tạo của học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh

trung bình, yếu.

+ Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương

pháp “làm mẫu” đối với học sinh trung bình, yếu, từ đó dẫn đến tình trạng

học sinh “coppy” nhau hoặc học thuộc bài văn mẫu.

+ Thời gian quy định đối với một tiết học cũng là một trong những

nguyên nhân ảnh hưởng đến việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu

học.

+ Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh yếu, cá biệt, có học sinh

đọc chưa thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc “tìm hiểu

đề, tìm ý, chọn lọc, sắp xếp ý” của các em.

+ Kĩ năng làm văn của các em học sinh yếu hầu như không có. Các em

chưa biết cách tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý,… thực hiện làm một bài văn

chưa đúng quy trình, chưa biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc

để đưa vào bài văn, làm cho bài văn thành “một mớ hỗn độn” của các chi

tiết hoặc là thành “một bản liệt kê” với rất nhiều chi tiết.

- Với học sinh khá, giỏi, việc dạy học Tập làm văn gặp một số tồn tại sau:

+ Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng

phương pháp làm mẫu để tạo đà giúp học sinh trung bình, yếu làm văn.

Phương pháp này giúp học sinh yếu có thể làm được bài bằng những gợi

ý. Tuy nhiên, một số học sinh học được lại thường hay bắt chước các câu,

đoạn văn mẫu nên nhiều bài làm có các câu, đoạn giống nhau.

+ Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ của học sinh khá, giỏi và học sinh

trung bình, yếu nên giáo viên rất khó sử dụng các phương pháp “hiện đại”

để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục. Nếu chú ý đến học sinh khá,

giỏi thì sẽ bỏ qua học sinh trung bình, yếu. Nhưng nếu tập trung vào học

sinh trung bình, yếu, kiên trì với đối tượng này đạt được yêu cầu bài văn

thì lại ảnh hưởng đến sự phát triển của số học sinh khá, giỏi.

+ Một khó khăn nữa là nhiều học sịnh viết chữ chưa đẹp, nếu không nói là

rất xấu, sai chính tả. Nhiều bài văn có chữ viết lem nhem, đầy vết bẩn.

Với một bài văn đầy lỗi chính tả, tẩy xoá thì việc đọc lại bài, chau chuốt

câu văn, sửa ý, sửa từ quả là khó khăn, gian khổ.

c/ Mặt mạnh- Mặt yếu

* Mặt mạnh:

Do chú trọng khâu này nên đã khắc phục được tình trạng lạc đề hoặc

làm bài dàn trãi. Đối với những em yếu, trung bình thì bài làm đã đúng

trọng tâm. Đối với những em khá, giỏi thì rất phong phú về ý, sâu sắc về

nội dung, chặt chẽ trong lập luận. Do vậy, có một phần không nhỏ cho

thành công của học sinh trong mùa thi.

* Mặt yếu:

Còn có nhiều học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo nên khi làm bài

văn không tìm hiểu sâu sát được vấn đề. Vì vậy bài làm của các em

thường sai đề một cách đáng tiếc.

d/ Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:

- Các bài Tập làm văn trong sách giáo khoa của học sinh còn hướng dẫn

một cách chung chung, thiếu cụ thể, khó hiểu, chưa gây hứng thú học tập

cho các em.

- Có một số giáo viên chuẩn bị bài chưa chu đáo nên khi lên lớp hướng

dẫn học sinh tìm hiểu đề, quan sát chưa kỹ, cho nên học sinh chưa biết

cách tìm và chọn lọc ý một cách hợp lí,…

- Học sinh chưa biết ghi chép những gì mình quan sát được một cách rõ

ràng, tỉ mỉ, chưa biết chọn lọc, sắp xếp các ý mà mình đã quan sát được

theo trình tự thời gian, không gian bằng các giác quan của mình.

- Học sinh thiếu sự tưởng tượng, ít cảm xúc về đối tượng trong đề bài.

Không quan sát theo đúng yêu cầu. Vốn ngôn ngữ còn quá ít ỏi , chưa

biết dùng từ đặt câu, viết văn còn sai lỗi ngữ pháp và lỗi chính tả quá

nhiều, ...

Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học

tập của các em. Chính vì vậy tôi đã chú trọng việc hướng dẫn học sinh

phải tìm hiểu đề kĩ, quan sát, chọn và sắp xếp ý trước khi làm một bài Tập

làm văn.

e/ Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.

Dựa vào việc tìm hiểu thực trạng của học sinh qua các bài kiểm tra khi

viết một bài văn hoàn chỉnh. Tôi có một số suy nghĩ về việc hướng dẫn

học sinh biết quan sát tìm ý một cách tích cực có hiệu quả tiến tới các em

có khả năng nói và viết tốt hơn.

Môn tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là dạy học sinh biết sử dụng

các ngôn bản khi nói và cũng như khi viết. Vốn hiểu biết của các em thể

hiện qua kết quả các bài kiểm tra viết. Qua bài viết hoặc nói của các em

thể hiện rõ sự hiểu biết về thế giới xung quanh, đời sống tinh thần, trình

độ nhận thức của các em.

Tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý, chọn lọc ý là hướng dẫn học sinh đọc kĩ

đề bài, tìm ra được yêu cầu chính của đề, để học sinh không đi lạc hướng

trong lúc viết. Tiếp đó tổ chức cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả là

một công việc hết sức quan trọng trong khi dạy môn TLV. Trên cơ sở

quan sát, các em có thể ghi nhớ các hình ảnh đặc trưng, những đặc điểm

nỗi bật của vật được quan sát đã gây ấn tượng và cảm xúc cho các em.

Nhũng hình ảnh đó được ghi lại theo trình tự thời gian và không gian bằng

các giác quan, từ đó tập cho các em thói quen tự giác tích cực trong việc

tìm hiểu đề, quan sát, tìm, chọn, sắp xếp ý thành một dàn bài logic. Đây là

bước đầu tiên khi thực hành làm một bài TLV.

Tuy nhiên thực trạng hiện nay cho thấy, rất ít giáo viên cũng như học

sinh có thể nhận thức được tầm quan trọng của việc đọc kỹ đề, quan sát,

tìm, chọn và sắp xếp ý trong quá trình làm một bài TLV. Do đó bài viết

của tôi nhằm nêu rõ hơn về tầm quan trọng của vấn đề trên cũng như kiến

nghị một số giải pháp để giải quyết như sau.

II.3. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP

a. Mục tiêu của các giải pháp, biện pháp:

- Hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề ra.

- Hướng dẫn và yêu cầu học sinh đặt câu hỏi tìm trọng tâm đề ra.

- Hướng dẫn, yêu cầu học sinh đặt câu hỏi tìm ý.

- Hướng dẫn, yêu cầu học sinh đặt câu hỏi chọn lọc và sắp xếp ý.

b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp biện pháp:

+ Tìm hiểu đề: Đọc kỹ đề ra (Đọc nhiều lần, đọc theo từng mức độ

khác nhau, vừa đọc vừa suy nghĩ, cân nhắc từng chữ, từng ý trong đề

ra)

- Đọc thầm: Đây là bước đầu tiên tiếp xúc với đề ra nên yêu cầu học

sinh thật tập trung chú ý. Giáo viên yêu cầu cả lớp im lặng nhìn lên đề ra

ghi trên bảng và đọc kỹ bằng mắt cho quen chữ, quen cách ngắt, nghỉ

trong từng câu, từng vế của đề ra. Tất nhiên, đây là lúc giáo viên đọc đề

cho các em nghe.

- Đọc to: Yêu cầu vài em đứng dậy đọc to đề cho cả lớp nghe, trong

lúc đó, lớp vẫn đọc thầm bằng mắt theo bạn.

- Đọc diễn cảm: Đây là khâu rất quan trọng trong quá trình đọc đề,

tìm hiểu đề. Diễn cảm ở đây không phải ngân nga lên bổng xuống trầm

mà là đọc rõ, biết ngắt, nghỉ, nhấn giọng ở những từ ngữ quan trọng (Giáo

viên đọc một lần, yêu cầu hai đến bốn em đọc). Qua đọc, ý của đề ra sẽ rõ

ràng, các trọng tâm yêu cầu rất dễ nhận rõ, giúp học sinh thâm nhập đề ra

một cách dễ dàng nhanh chóng.

Giáo viên có thể hỏi: theo em, nên ngắt, nghỉ hơi ở chổ nào? Nhấn

giọng ở những từ ngữ nào? Vì sao? (Có thể cho vài em đọc lại đúng ngữ

điệu).

Tóm lại, đọc kỹ đề là bước đầu tiên quan trọng nhất giúp các em

nghe, hiểu, thâm nhập đề ra một cách chắc chắn nhất. Nhưng mới chỉ đọc

thì chưa đủ mà trong quá trình đọc phải kết hợp vừa đọc vừa suy nghĩ, cân

nhắc từng chữ, từng từ để xác định mối quan hệ giữa các từ ngữ, các vế

trong đề ra, đặc biệt là cần đặt câu hỏi để xác định trọng tâm yêu cầu của

đề mà ta sẽ nói ở phần tiếp theo.

+ Xác định trọng tâm yêu cầu của đề ra:

Nếu không xác định trọng tâm yêu cầu của đề thì học sinh sẽ làm sai

đề hoăc bài làm của các em sẽ rơi vào dàn trãi hoặc phiến diện. Học sinh

không hiểu đề hay chỉ hiểu một cách mơ màng mà không biết yêu cầu

chính của đề ra.

Muốn xác định đúng trọng tâm của đề ra, yêu cầu các em đặt câu hỏi:

Đề yêu cầu chúng ta phải làm gì? (tả, thuật hay kể?). Đối tượng nào?

(Cảnh, vật, người hay đồ vật?...), yêu cầu: tả, thuật hay kể về cái gì là

chính? Muốn trả lời chính xác câu hỏi sau cùng, giáo viên yêu cầu các em

phải suy nghĩ, cân nhắc từng chữ, từng từ, vì có những dạng đề chỉ khác

nhau một chữ, thậm chí có khi chỉ một dấu phẩy.

Ví dụ 1:

a/ Bà em trồng rau. Hãy tả lại

b/ Bà, em trồng rau. Hãy tả lại

Nếu không tinh ý, không nhạy bén sẽ rất khó xác định. Muốn học

sinh hiểu, nắm vững cách đặt câu hỏi tìm hiểu trọng tâm của đề ra, giáo

viên phải

trực tiếp đưa ra những đề có sự khác nhau cụ thể cho học sinh xác định

trực tiếp.

Dạng đề thứ nhất: khác một dấu phẩy dẫn đến khác nội dung. Đó là

dạng như hai đề ở ví dụ 1 đã nêu trên. Đề a, yêu cầu tả một minh bà đang

trồng rau. Đề b, yêu cầu tả cả bà, tả cả cháu đang trồng rau.

Dạng đề thứ hai : Khác một chữ dẫn đến nội dung yêu cầu bài làm

hoàn toàn khác nhau.

Ví dụ 2:

a/ Tả làng em sau cơn bão.

b/ Tả làng em trong cơn bão.

Ở đây, yêu cầu học sinh đọc kỹ đề và cân nhắc từng chữ, qua sự gợi

ý của giáo viên, ở hai đề trên về số lượng từ có khác nhau không? Về đối

tượng có khác nhau không? (không khác vì cùng tả "làng em").

Vậy, khác nhau ở điều gì? (khác ở ý nghĩa qua hai chữ

"sau","trong"),"Tả làng em sau cơn bão" tức là tả làng em khi bão đã như

thế nào? (bão đã tan tức là chỉ còn lại hậu quả của bão gây nên cho làng

em). Còn "làng em trong cơn bão" thì sao? (tức là làng em đang bị bão

hoành hành…). Cả hai đề cùng tả "làng em" nhưng nội dung tả có giống

nhau không ? Vậy do đâu mà có sự khác nhau về trọng tâm yêu cầu đó?

Qua hai đề trên, ta thấy nhiều lúc từ ngữ đóng vai trò gì trong đề văn?

(Quyết định nội dung chính trong bài làm). Bỏ sót từ ngữ hoặc không hiểu

từ, ngữ sẽ dẫn đến sai trọng tâm yêu cầu. Do đó ta phải cân nhắc từng

chữ.

Dạng đề thứ ba: đảo từ ngữ dẫn đến khác nhau về nội dung:

Ví dụ 3:

a/ Tả quê em chiều mưa.

b/ Tả chiều mưa quê em.

Sau khi giúp học sinh nhận định: cả hai đề không khác về số lượng

chữ và đều nói đến "chiều mưa", "quê em" và cùng yêu cầu miêu tả

nhưng vị trí các ngữ được đảo lại.

Qua sự đảo lại như vậy giúp em hiểu trọng tâm yêu cầu của mỗi đề.

Đề a: Yêu cầu tả "chiều mưa" là chính, hay tả "quê em" là chính? (tả

"quê em" là chính: Tức là tả cảnh, người, vật "quê em" lúc trời mưa).

Đề b: Tả cảnh nào là chính? (Cảnh "chiều mưa", tức là cảnh mưa

như thế nào? Âm thanh, màu sắc, mức độ gió ra sao? Sấm? Chớp?… Mưa

làm cho cảnh vật ra sao?...

Sau đó, giáo viên cung cấp hai đoạn văn miêu tả (Viết lên bảng).

Giáo viên hỏi học sinh : Theo em đoạn văn nào tả "quê em chiều

mưa" đoạn văn nào tả "chiều mưa quê em"? qua trả lời của học sinh, giáo

viên giúp các em nắm vững hơn về sự khác nhau trên.

Với những dạng đề trên, nếu học sinh hấp tấp thiếu bình tỉnh sẽ rất

dễ sai đề. Nhất là khi các em được làm một đề (đề a hoặc đề b). Đến khi

làm bài kiểm tra, gặp đề còn lại là các em sẽ lướt qua đề rồi viết y như đã

làm bài ở đề trước. Chính vì điều này nên giáo viên lưu ý các em phải chú

ý cân nhắc từng chữ từng từ, không ghi sai hoặc bỏ sót từ ngữ nào và phải

thận trọng khi gặp dạng đề tương tự đề mình đã làm, giúp các em cảnh

giác để tránh những sai lầm đáng tiếc.

Giữa đọc kỹ đề và đặt câu hỏi xác định đề là một yêu cầu quan trọng

phải tiến hành cùng một lúc: vừa đọc kỹ đề vừa cầm bút gạch chân các từ

ngữ quan trọng trong đề ra. Trong óc vừa hình thành câu hỏi thì câu trả lời

ghi vào giấy nháp. Hai vấn đề đó không thể tách rời nhau. Với học sinh

tiểu học, giáo viên cần hướng dẫn từng chữ, từng cách đặt câu hỏi, cách

ghi giấy nháp như thế nào, ba dạng đề trên cũng là ba dạng hướng dẫn

luyện tập tìm hiểu đề cho các em. Sau khi đã tìm hiểu, xác định được

trọng tâm yêu cầu của đề ra, tiến hành bước 2: tìm và chọn lọc, sắp xếp ý.

Đây là khâu giúp các em hình thành được trọng tâm bài văn trên dạng ý

đầy đủ nên cần hướng dẫn học sinh câu hỏi phù hợp với từng thể loại,

từng dạng đề để học sinh áp dụng cho từng đề cụ thể.

+ Tìm ý

Thông thường học sinh miêu tả hoặc kể, thuật lại một cách chung

chung đại khái mà thiếu những yếu tố riêng, cụ thể.

Ví dụ 4:

Ở lớp 4:

Tả cây bàng thì: lá bàng to, màu xanh…

Tả cây chuối tiêu: lá chuối màu xanh, rất to…

Cây tre: lá tre màu xanh rung rinh trước gió…

Thực chất, cây nào cũng có lá màu xanh hoặc rất nhiều cây lá to,

màu xanh, có thân, cành, cội rễ… phần lớn có hoa, quả…

Hoặc ở lớp 5: Tả người: ai cũng có đầu, chân, tay, mặt mũi… cho

nên, đa số học sinh làm chung chung.

Vậy, hệ thống câu hỏi tìm ý, giáo viên phải hướng dẫn làm thế nào

để các em linh hoạt sao cho phù hợp với yêu cầu đề, qua đó, phân biệt

được cây này với cây kia, con này với con kia, người này với người khác.

Trong phần này giáo viên cũng phải cho một số đề cụ thể để vừa làm

ví dụ vừa luyện tập tìm ý:

Ví dụ 5:

a/ Tả con trâu.

b/ Tả con mèo.

Giáo viên ghi 2 đề thành 2 cột trên bảng để hệ thống các ý tìm hiểu

song song nhau nhằm giúp các em nhận thấy được sự khác nhau giữa các

loài vật (giáo viên yêu cầu các em nêu câu hỏi và trả lời, lớp nhận xét bổ

sung, giáo viên chốt lại, ghi bảng).

Câu hỏi bao quát: lông mèo màu gì? Dày hay thưa? Mềm hay cứng?

Lông trâu có giống lông mèo không? Mèo thì ta có nhìn thấy da không?

Còn trâu thì sao? Da trâu màu gì? Đầu mèo như thế nào? Tai ra sao? Còn

mắt mèo? Mũi, miệng? Đầu, tai, mắt, mũi miệng của trâu khác của mèo

như thế nào?... Mỗi câu trả lời đúng của học sinh, giáo viên ghi bảng theo

2 cột để học sinh dễ phân biệt.

Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo hệ thống câu hỏi, giáo viên

có thể kết luận: "loài vật đa số có đầu, thân, lông, chân, đuôi…nhưng mỗi

loài mang những nét đặc điểm riêng biệt. Cây cối, con người cũng thế. Cho

nên chúng ta cần tìm ý tả thật cụ thể để làm toát lên những nét riêng biệt

đó".

Khi đã làm hết ý, giáo viên gợi ý tiếp: Còn ý nào nữa không? Để

buộc các em suy nghĩ và liệt kê hết các ý cần tả, cần thuật lên giấy nháp.

Sau đó giáo viên hệ thống lại bằng những câu hỏi: đối với dạng đề miêu tả

thì các câu hỏi phải nhằm vào cảnh gì? Bộ phận, đường nét gì? Màu sắc,

hương vị, âm thanh, hoạt động như thế nào?

Đối với tường thuật: Việc gì? Làm việc gì trước, làm việc gì sau?

Làm như thế nào? Các thao tác ra sao? Âm thanh? Động tác? Suy nghĩ?

Tâm trạng? Và cảnh vật xung quanh như thế nào?

Đối với kể chuyện: Diễn biến câu chuyện ra sao? Cần thể hiện các chi

tiết như thế nào? Diễn biến tâm lý nhân vật được bộc lộ qua những hành

động ra sao? Hoặc nhân vật sẽ xử lý như thế nào trước những tình huống?...

Tất nhiên, giáo viên yêu cầu học sinh phải có vở nháp để ghi lại những ý trả

lời đó.

Luyện tập: giáo viên cho 1 đề cụ thể. Yêu cầu cả lớp thầm đặt câu

hỏi trong vở nháp (một bên là câu hỏi, một bên là câu trả lời). Sau đó, gọi

vài em trình bày phần câu hỏi - trả lời; giáo viên ghi các ý lên bảng - gọi

một số học sinh bổ sung những ý còn thiếu - giữ nguyên hệ thống các ý đó

để làm ví dụ minh họa cho nội dung tiếp theo.

+ Chọn lọc ý

Sau khi đã thống kê toàn bộ ý đã tìm được lên vở nháp (giáo viên ghi

các ý lên bảng), giáo viên hướng dẫn học sinh tập chọn ý theo hệ thống

câu hỏi: theo các em, những ý kiến trên, ý nào không quan trọng cần lược

bỏ? Ý nào cần tả (hoặc thuật, kể…) lướt qua vài ba câu? Ý nào cần tập

trung tả (hoặc thuật, kể…) kỹ sâu hơn? Tại sao lại không tả (hoặc thuật,

kể…) hết toàn bộ? Tả (hoặc thuật, kể…) một số cảnh (người, vật, sự

việc…) và tả kỹ (…) như vậy nhằm mục đích gì?

Khi học sinh trả lời xong, giáo viên tổng hợp, bổ sung thêm: nếu tất

cả các cảnh (hoặc bộ phận trong 1 cây, 1 người, 1 con vật, 1 đồ vật) hoặc

việc làm, thao tác trong công việc cụ thể đều được tả (hoặc thuật, kể…)

một cách đầy đủ, kỹ càng, chi tiết thì: bài làm sẻ dàn trãi, lan man, dài

dòng gây nhàm chán và mất thời gian; nếu chỉ lướt qua tất cả thì bài làm

sẽ nông cạn, hời hợt, thiếu sâu sắc, không cô đọng. Vậy nên, cần chọn lọc

ý, xác định ý nào không quan trọng cần bỏ hoặc lướt qua vài câu, ý nào

quan trọng làm nổi bật trọng tâm yêu cầu đề thì xoáy sâu hơn để bài văn

trở nên cô đọng, hấp dẫn.

+ Sắp xếp ý

Sau khi đã chọn lọc, cần có sự sắp xếp ý xem ý nào (cảnh nào, bộ

phận nào hoặc sự việc, thao tác nào?) cần viết trước, ý nào (…) cần viết

sau sao cho hợp lý và có tính thuyết phục. Vấn đề sắp xếp ý cần có sự linh

hoạt tùy theo đề bài cụ thể, tùy theo góc độ quan sát và chú ý của từng em

đối với đối tượng của mình. Có em tả ngôi trường từ ngoài vào nên ý tả

cổng trường rồi đến sân trường, đến cột cờ… có em lại tả từ phòng học tả

ra; có em lại tả cột cờ trước… khi tả người lại tùy theo đối tượng người đó

có thể theo nghề nghiệp, công việc, hoặc tuổi trẻ… để chọn điểm nào để

tả trước. Không nên theo khuôn mẫu, công thức nhất định từ đầu đến

chân.

Ví dụ 6: Tả bạn học sinh đang đá bóng thì nên chọn tả hoạt động của

đôi chân, vì lúc này chân nổi bật nhất; hoặc tả ông em đang sửa vườn rau

thì tả đôi tay trước. Có khi tả người già thì có thể tả mái tóc bạc trắng

trước cũng có thể da nhăn nheo hay từ giọng nói phều phào, từ đôi tay run

run… tùy theo chủ đích của người tả.

Tất cả: tìm, chọn, sắp xếp ý là quá trình hoạt động của trí óc giúp cho

bài làm trở nên chặt chẽ và nổi bật trọng tâm, đầy đủ và phong phú - bài

viết hấp dẫn mang phong cách riêng chứ không rập khuôn theo một khuôn

mẫu.

+ Luyện tập tổng hợp:

Luyện tập tổng hợp là yêu cầu không thể thiếu sau khi hướng dẫn các

em theo những quy trình trên. Ngoài những đề luyện tập minh họa cho

mỗi phần, giáo viên ra 1 bài tập tổng hợp, yêu cầu các em thực hiện đầy

đủ các bước đã hướng dẫn.

Cần lưu ý các em, quá trình đặt câu hỏi là quá trình diễn ra trong óc,

không ghi vào giấy nháp mà chỉ ghi những câu trả lời vào giấy nháp thôi.

+ Giáo án thực nghiệm: Tập làm văn lớp 5

Bài: LUYỆN TẬP TẢ CẢNH

Tiết 1 Tuần 8

I. Mục tiêu:

1. Kiến thức: Biết lập dàn ý cho bài văn miêu tả một cảnh đẹp ở

địa phương - Một dàn ý với các ý riêng của mỗi học

sinh.

2. Kĩ năng: Biết chuyển một phần trong dàn ý đã lập thành đoạn

văn hoàn chỉnh (thể hiện rõ đối tượng miêu tả, trình

tự miêu tả, nét đặc sắc của cảnh; cảm xúc của người

tả đối với cảnh).

3. Thái độ: Giáo dục HS ý thức được trong việc miêu tả nét đặc

sắc của cảnh, tả chân thực, không sáo rỗng.

II. Chuẩn bị:

- Thầy: Giấy khổ to, bút dạ - Bảng phụ tóm tắt những gợi ý giúp

học sinh lập dàn ý.

- Trò: Một số tranh ảnh minh họa cảnh đẹp của đất nước.

III. Các hoạt động:

HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH

1.Bài cũ: - Kiểm tra việc chuẩn bị bài ở

nhà của học sinh.

2.Bài mới:

a/Giới thiệu bài mới

Các em đã quan sát một cảnh đẹp của

địa phương. Trong tiết học luyện tập tả

cảnh hôm nay, các em sẽ lập dàn ý cho

bài văn miêu tả cảnh đẹp ở địa phương

b/ Phát triển các hoạt động:

* Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh - Hoạt động lớp

Tìm hiểu nắm chắc đề bài:

Phương pháp: Đàm thoại

- Giáo viên ghi đề bài lên bảng.

Đặt câu hỏi để gợi ý học sinh tìm ra yêu - Học sinh theo dõi, trả lời.

cầu trọng tâm của đề bài. - Các bạn nhận xét, bổ sung nếu cần

thiết. - Thể loại

- Kiểu bài

- Đối tượng miêu tả

- Trọng tâm

- Cảnh đó diễn ra ở đâu? Lúc nào?

Giáo viên vừa gợi ý vừa gạch chân các

từ quan trọng của đề bài.

* Hoạt động 2: Học sinh trình bày

những điều đã quan sát được sắp xếp - Hoạt động lớp

thành ý:

Phương pháp quan sát, thực hành

Giáo viên vừa gợi ý HS vừa đặt câu hỏi - Học sinh lần lượt trả lời

- Đã quan sát tỉ mỉ chưa? - Các bạn nhận xét, bổ sung nếu cần thiết

- Đã sắp xếp theo trình tự hợp lý chưa?

- Đã có trọng tâm chưa?

- HĐ nào được tả chính?

- Đã chọn lọc nét tiêu biểu chưa?

- Đã bộc lộ được cảm xúc khi miêu tả

chưa?

- Hướng dẫn HS Tìm ý, chọn lọc ý, sắp - Hoạt động nhóm

xếp ý

* Hoạt động 3: Lập dàn ý miêu tả một - 1 học sinh đọc yêu cầu

cảnh đẹp của địa phương. - Các nhóm làm bài

Phương pháp bút đàm - Đại diện các nhóm trình bày.

- Giáo viên phát bút dạ và phiếu học tập - Các nhóm khác theo dõi nhận xét , đánh

giá. cho các nhóm làm bài

- Giáo viên gợi ý

+ Dàn ý gồm mấy phần? - 3 phần (Mở bài – Thân bài – Kết bài)

+ Dựa trên những kết quả quan sát, lập  Mở bài: Giới thiệu cảnh đẹp được chọn

dàn ý cho bài văn với đủ 3 phần. tả là cảnh nào? Ở vị trí nào trên quê

- Giáo viên có thể yêu cầu học sinh hương? Điểm quan sát, thời điểm quan

tham khảo bài. sát?

+ Vịnh Hạ Long / 81,82: xây dựng dàn  Thân bài:

ý theo đặc điểm của cảnh. a/ Miêu tả bao quát:

+ Tây nguyên / 82,83: xây dựng dàn ý - Chọn tả những đặc điểm nổi bật, gây ấn

theo từng phần, từng bộ phận của cảnh. tượng của cảnh: Rộng lớn - bát ngát -

đồng quê Việt Nam.

b/ Tả chi tiết:

- Lúc sáng sớm:

+ Bầu trời cao

+ Mây: dạo quanh, lượn lờ

+ Gió: đưa hương thoang thoảng, dịu

dàng đưa lượn sóng nhấp nhô...

+ Cây cối: lũy tre, bờ đê òa tươi trong

nắng sớm.

+ Cánh đồng: liền bờ - ánh nắng trải đều

- ô vuông - nhấp nhô lượn sóng - xanh lá

mạ.

+ Trời và đất - hoạt động con người - lúc

hoàng hôn.

+ Bầu trời: mây - gió - cây cối - cánh

đồng - trời và đất - hoạt động người.

 Giáo viên nhận xét, bổ sung  Kết bài:

* Hoạt động 3: Dựa theo dàn ý đã lập, Cảm xúc của em với cảnh đẹp quê hương

viết một đoạn văn miêu tả cảnh thiên - Học sinh lập dàn ý trên nháp - giấy khổ

nhiên ở địa phương to.

Phương pháp bút đàm + Phương pháp - Trình bày kết quả

phân tích, tổng hợp - Hoạt động lớp, cá nhân

- Giáo viên nhắc: - 1 học sinh đọc yêu cầu

+ Nên chọn 1 đoạn trong thân bài để

chuyển thành đoạn văn.

+ Phần thân bài có thể gồm nhiều đoạn

hoặc một bộ phận của cảnh. - Lớp đọc thầm, đọc lại dàn ý, xác định

+ Trong mỗi đoạn thường có 1 câu văn phần sẽ được chuyển thành đoạn văn.

nêu ý bao trùm toàn đoạn. Các câu - Học sinh viết đoạn văn

trong đoạn phải cùng làm nổi bật đặc - Một vài học sinh đọc đoạn văn

điểm của cảnh và thể hiện được cảm - Lớp nhận xét

xúc của người viết.

- Giáo viên nhận xét đánh giá cao

những bài tả chân thực, có ý riêng,

không sáo rỗng.

* Hoạt động 4: Củng cố

Phương pháp: Đàm thoại

 Giáo viên đánh giá - Hoạt động lớp

- Bình chọn đoạn văn giàu hình ảnh, cảm

xúc chân thực.

c/ Tổng kết - dặn dò: - Lớp nhận xét, phân tích

- Về nhà hoàn chỉnh đoạn văn, viết vào

vở

- Chuẩn bị: Luyện tập tả cảnh: Dựng

đoạn mở bài - Kết luận.

- Nhận xét tiết học

c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp:

Quá trình này không chỉ có tác dụng riêng đối với môn Tập làm văn

mà nếu áp dụng tốt, biết triệt để vận dụng thì ngay tất cả các môn học

khác nó đều phát huy tác dụng.

Giáo viên muốn thực hiện tốt quá trình này phải coi việc tìm hiểu đề,

tìm ý, chọn và sắp xếp ý là nguyên tắc không thể thiếu trong quá trình làm

bài của học sinh. Tất cả các bài tập làm văn của các em không thể thiếu

phần này. Và trong phần này phải vạch từng ý, có dấu hiệu nhấn mạnh ở ý

trọng tâm, có số thứ tự mà các em sắp xếp trước khi làm thế nào để rèn

luyện một thói quen tốt cho các em trong khâu làm bài.

Muốn vậy giáo viên phải thật nghiêm khắc, kiên quyết, dứt khoát và

có sự động viên kịp thời trong kiểm tra, đánh giá, cho điểm ở bài làm của

các em.

Khi chấm bài phải rà lại các ý trong bài làm xem có theo đúng trình

tự các ý các em đã chọn và sắp xếp ở phần tìm hiểu đề, tìm ý không. Nếu

đúng, đánh giá cho điểm thực chất cộng thêm điểm khuyến khích. Nếu

không, yêu cầu về làm lại - giáo viên kiểm tra chưa đạt vẫn yêu cầu làm

lại - cho đến khi làm được mới thôi.

d/ Mối quan hệ giữa giải pháp – biện pháp:

Khi lựa chọn các phương pháp dạy học người giáo viên cần biết phối

hợp nhịp nhàng và truyền đạt ngắn gọn để học sinh dễ hiểu, dễ thực

hiện.

e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:

Qua thực hiện đề tài này tôi đã triển khai giảng dạy tại Trường Tiểu

học Phú Lộc. Do chú trọng khâu này nên đã khắc phục được tình trạng lạc

đề hoặc làm bài dàn trãi. Đối với những em yếu, trung bình thì bài làm đã

đúng trọng tâm. Đối với những em khá, giỏi thì rất phong phú về ý, sâu

sắc về nội dung, chặt chẽ trong lập luận. Do vậy, có một phần không nhỏ

cho thành công của học sinh trong mùa thi.

II.4. Kết quả:

Qua kiểm tra khảo sát trong hai năm học tôi có kết quả như sau:

Tổng số học sinh : 30 em

Bảng 1.1: Kết quả học tập môn Tập làm văn qua các hai năm

của học sinh lớp 5

Đơn vị: %

Năm học Giỏi Khá Trung bình Yếu

2010-2011 10,0 16,7 53,3 20,0

2011- 2012 27,7 35,6 36,7 0,0

Thực tế qua bảng 1.1 có thể cho chúng ta thấy, thành tích học tập của các

học sinh qua 2 năm, năm 2010-2011 khi chưa áp dụng SKKN và 2011-

2012 khi đã áp dụng SKKN, có sự thay đổi rõ rệt, cụ thể là số học sinh đạt

loại giỏi tăng từ 10% lên 27,7%, tăng 17,7%. Học sinh đạt loại khá tăng từ

16,7% lên 35,6%, tăng 18,9%. Học sinh đạt loại trung bình giảm từ 53,3%

xuống 36,7%, giảm 16,6% và học sinh đạt loại yếu giảm từ 20% xuống

còn 0%. Cho thấy SKKN sau khi được áp dụng đạt được 1 số thành quả

nhất định.

III. Kết luận- Kiến nghị:

III.1. Kết luận:

Đây là một việc làm rút ra từ thực tế giảng dạy. Không phải không ai

làm mà do không có thói quen cho các giáo viên thực hiện. Vì để hướng

dẫn tạo thành thói quen cho các em, chúng ta không thể nói suông bằng lý

thuyết mà đối với học sinh ở bậc tiểu học thì phải chỉ dẫn từng bước,

nhắc từng chữ, đưa ra từng đề cụ thể giải quyết để các em nắm được yêu

cầu. Muốn làm được điều này không thể ngày một ngày hai mà phải hàng

tuần, hàng tháng, hàng năm, tất cả các bài tập đều yêu cầu học sinh dành

thời gian “Tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc, sắp xếp ý”,… các bài Tập làm

văn. Nếu chúng ta cũng kiên trì và nhiệt tình thực hiện thì sẽ giúp học

sinh hình thành cho mình thói quen, xoáy đúng trọng tâm và có như vậy

học sinh sẽ ít xảy ra trường hợp lạc đề đáng tiếc, góp phần nâng cao chất

lượng giáo dục. Hiện nay, ở Trường tiểu học có chế độ dạy 2 buổi/ ngày,

thiết nghĩ nếu chúng ta vận dụng được trong quá trình giảng dạy thì nhất

định chất lượng học sình sẽ phần nào được nâng lên.

III.2. kiến nghị:

* Đối với phụ huynh:

- Quan tâm nhiều hơn đến việc học hành của con em mình, có thời gian

biểu cho các em, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập, không nên

để cho các em thời gian rảnh quá nhiều và cũng không nên để các em phụ

giúp nhiều công việc gia đình.

- Hướng dẫn và tạo cho con cái thói quen cẩn thận trong khi làm bất cứ

một công việc gì. Biết chia sẻ tư vấn, định hướng, bồi dưỡng tâm hồn cho

con cái để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát triển cảm

xúc, tình cảm trong cuộc sống nói chung và trong việc làm văn nói riêng.

- Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm để tìm hiểu,

nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình.

* Đối với phòng giáo dục:

- Tiếp tục tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên trong từng năm để

giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu,

tích cực nâng cao chất lượng dạy học và đặc biệt là phân môn Tập làm

văn.

- Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo

viên giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém .

* Đối với địa phương:

- Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư

cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.

Trên đây là một số suy nghĩ tìm tòi của tôi trong quá trình dạy học

sinh “Tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc, sắp xếp ý khi làm một bài Tập làm

văn”. Do không có nhiều thời gian nghiên cứu và trình độ , kinh nghiệm

có hạn nên những vấn đề nêu trên không khỏi có sai sót. Tôi mong nhận

được những góp ý, phê bình của Ban giám hiệu nhà trường, của các bạn

đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học ngày

một tốt hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn

  

Danh mục tài liệu tham khảo:

- Sách Tiếng việt Lớp 4+5 ( Tập 1+ Tập 2)

- Sách Tiếng việt giáo viên Lớp 4+5 ( Tập 1+ Tập 2)

- Sách Thiết kế Bài giảng Tiếng việt Lớp 4+5 ( Tập 1+ Tập 2)

- Một số thông tin khác trên Internet.

MỤC LỤC

Trang

I. Phần mở đầu 1

I.1.Lí do chọn đề tài 1

I.2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài 1

I.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 2

I.4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu 2

I.5. Phương pháp nghiên cứu 2

II. Phần nội dung 2

II.1. Cơ sở lí luận 2

II.2. Thực trạng 3

II.3. Giải pháp, biện pháp 6

II.4. Kết quả 12

III. Kết luận, Kiến nghị 12