
Karl XII của Thụy Điển (1682–1718)
Karl XII còn được biết đến dưới tên gọi Carl XII hay Charles XII, là một vị vua nổi tiếng
trong lịch sử Thụy Điển do những chiến công hiển hách ban đầu, nhưng cũng bị oán ghét
do chiến bại về sau và làm kiệt quệ Thụy Điển. Dưới triều đại của ông, Thụy Điển từ một
nước hùng mạnh bị xuống dốc rõ rệt, mất nhiều đất đai, và tạo cơ hội cho Nga vươn lên
Thời niên thiếu
Karl XII sinh ngày 17 tháng 6 năm 1682. Cha của ông là Karl XI, lên làm vua lúc 5 tuổi.
Tất cả có bảy anh em, nhưng chỉ có Karl, người chị Hedvig Sofia lớn hơn một tuổi, và em
gái Ulrika Eleonora nhỏ hơn sáu tuổi, là sống sót cho đến lúc trưởng thành. Mặc dù Karl
có thể chất yếu đuối, tuổi thơ ấu của ông có đầy hoạt động quân sự. Sau cái chết của
người vợ, vua Karl XI dành nhiều thời giờ cho con cái. Thái tử Karl đã tiếp nhận nhiều
đức tin và cung cách của vua cha. Danh dự và thánh thiện là hai nguyên tắc chỉ đạo của
ông: Quân vương phải đặt công lý và danh dự lên trên tất cả; một khi đã nói ra, phải làm
theo lời nói.
Các thầy giáo của Karl thấy học trò của mình có trí thông minh nhạy bén và tiếp thu
nhanh. Ông quan tâm đến tiếng Thụy Điển, nhưng học tiếng Đức khá hơn và sử dụng
ngôn ngữ này như tiếng mẹ đẻ. Ông khá tiếng Latinh, cũng học tiếng Pháp nhưng thích
đọc hơn là nói. Karl thực sự quan tâm đến tôn giáo. Ông thấy hấp dẫn với việc áp dụng
toán học vào đạn đạo và xây công sự phòng thủ. Trong khi các thầy giáo ngưỡng mộ óc
nhạy bén của học trò, họ cũng lo âu về tính khí mạnh mẽ của ông, thường có vẻ như là
tính bướng bỉnh
Đăng quang
Sự giáo dục của Karl bị gián đoạn vĩnh viễn khi ông lên 14. Ngày 5 tháng 4 năm 1697,
vua Karl XI qua đời ở tuổi 42. Theo truyền thống, Thái tử Thụy Điển chỉ có thể lên ngôi
ở tuổi 18. Vì thế, vị vua khi hấp hối đã cử một hội đồng phụ chính trong đó có bà nội của
Thái tử, Hoàng hậu Hedvig Eleonora. Sau khi vua cha qua đời, Karl dự các phiên họp của
Hội đồng Phụ chính và lập tức gây ấn tượng tốt bằng cách đặt những câu hỏi thông minh
và, hơn nữa, bằng cách im lặng lắng nghe người lớn tranh luận.
Trong vòng 6 tháng, mọi người thấy hiển nhiên là Hội đồng Phụ chính không thể làm
việc. Các thành viên thường bất đồng ý kiến nên không thể đi đến quyết định. Vì vẫn còn
nhớ di chúc của vị vua quá cố rằng họ sẽ chịu trách nhiệm về hành động của họ cho đến
khi Karl XII đến tuổi trưởng thành, các Phụ chính càng sốt sắng hỏi ý kiến của Karl về
mọi chủ đề đang thảo luận. Thế nên, càng ngày những người quanh ông càng muốn chiều
lòng ông, và quyền uy của các Phụ chính càng suy giảm. Chính phủ Thụy Điển bị tê liệt.
Giải pháp duy nhất là tuyên cáo Thái tử đã đến tuổi trưởng thành, tuy lúc ấy mới được 15
tuổi, và tháng 11 năm 1697 họ đã tấn phong ông làm vua của Thụy Điển.
Đối với đa số thần dân, lễ đăng quang của Karl XII gây cú sốc. Ông không muốn bị ai
kiểm soát, và muốn tỏ rõ điều này. Ông từ chối nghi lễ đăng quang theo truyền thống như
các vua trước: một người nào đó cầm vương miện đội lên đầu ông. Thay vào đó, ông
tuyên cáo rằng vì ông được sinh ra để lên ngôi chứ không phải được bầu, nghi lễ đăng
quang tự nó là vô nghĩa. Ông chỉ đồng ý cho phép giám mục tôn phong ông, để phù hợp
với Thánh kinh ghi rằng quân vương là người của Thượng đế được xức dầu. Cậu thiếu
niên 15 tuổi từ chối cất lời thề theo truyền thống, và tự đặt chiếc vương miện lên đầu

mình.
Nghi lễ lạ lùng như thế được tiếp nối bởi tính cách của vị vua mới. Giới quý tộc đã mong
Karl sẽ nương nhẹ chính sách của vị vua quá cố mà cho họ thêm quyền tự chủ, giờ đau
khổ mà thấy quân vương trẻ nhất quyết theo đuổi chính sách hiện hữu. Thành viên của
hội đồng chỉ biết lắc đầu khi thấy nhà vua tự tin, bưởng bỉnh, nhất quyết không đổi ý một
khi đã quyết định. Chính khách Thụy Điển hối hận vì tấn phong vị vua trẻ trước tuổi
trưởng thành, nhưng đã muộn. Bây giờ, cả đất nước hùng mạnh nhất Bắc Âu đều phải
thuần phục uy quyền tuyệt đối của một thiếu niên cứng đầu, ngang ngạnh. Cảm nhận họ
có ý thù nghịch, Karl quyết định hạ thấp hội đồng, nếu không xóa bỏ.
Dù phải dành thời giờ cho công vụ, Karl vẫn là một thiếu niên hiếu động, ham thích hoạt
động thể chất mãnh liệt, muốn thử thách thể chất và tinh thần của mình trong khó khăn.
Ông yêu thích trò chơi nguy hiểm là tập trận giả, sử dụng lựu đạn giả tuy không làm chết
người nhưng có thể gây thương tích.
Tố chất
Đối với kẻ thù của ông và quan sát viên châu Âu, dường như Karl khát khao chiến đấu
bất kỳ lúc nào và bất cứ may rủi ra sao. Ông toàn tâm toàn lực chú trọng vào việc di
chuyển chớp nhoáng và chiến thuật gây sốc. Tính bốc đồng và hăng say tấn công đã
khiến ông bị cáo buộc là cẩu thả – ngay cả cuồng tín! Nhưng đó không phải là sự tấn
công điên cuồng; mà đúng hơn, là cách tấn công kiểu Thụy Điển dựa trên chương trình
huấn luyện khắc khổ và chế độ kỷ luật thép, dựa trên tinh thần cống hiến hết mình và
niềm tin vào chiến thắng, và dựa trên hệ thống liên lạc xuất sắc. XII sẵn sàng phá lệ hành
quân theo mùa trong năm – khi băng đông cứng, xe goòng và pháo của ông di chuyển dễ
dàng hơn, và binh sĩ của ông đã quen với thời tiết lạnh – vì thế ông sẵn sàng mở chiến
dịch vào mùa đông.
Lúc lên 18 tuổi, nhà vua đang đi sâu vào rừng để săn gấu, thì nhận được tin quân Ba Lan
đã xâm lấn vùng Livonia của Thụy Điển mà không có lời tuyên chiến. Ông trầm tĩnh
mỉm cười rồi quay qua Đại sứ Pháp và nhẹ nhàng nói: "Chúng tôi sẽ đẩy Augustus (vua
August II của Ba Lan kiêm Saxony) lui về vị trí xuất phát." Chuyến săn gấu tiếp tục.
Nhưng khi trở về Stockholm, Karl phát biểu với hội đồng: "Ta quyết không bao giờ khởi
động một cuộc chiến phi nghĩa, nhưng cũng không bao giờ chấm dứt một cuộc chiến có
chính nghĩa mà không khuất phục được kẻ thù." Đây là một lời hứa mà ông sẽ mãi theo
đuổi suốt đời, vượt trên mọi chính sách bình thường, vượt trên mọi lý do. Vài tuần sau,
khi ông nghe tin vua Frederik IV của Đan Mạch (một anh họ xa của ông) đã tấn công
lãnh thổ của Công tước Fredrik IV của xứ Holstein-Gottorp (anh rể của ông), ông không
ngạc nhiên lắm, và nói: "Ta dự định xử lý một kẻ thù trước rồi sẽ nói chuyện với kẻ kia."
Vào lúc này, Karl vẫn chưa biết rằng kẻ thù thứ ba, Pyotr Đại đế của Nga, cũng đang
chuẩn bị tấn công ông. Augustus II đã đề nghị với Sa hoàng Pyotr là hai bên cùng tấn
công Thụy Điển, vì thấy vua Karl XI của Thụy Điển đã chết, để lại ngai vàng cho con trai
còn trẻ. Thời điểm dường như chín muồi để đánh chiếm các tỉnh ven bờ Baltic của Thụy
Điển, qua đó Ba Lan và Nga sẽ có lối thông ra Biển Baltic.
Không may cho họ, kẻ thù của Karl không biết về tố chất đích thực của ông: không sợ bị
thách thức; ông còn sẵn sàng đối đầu với thách thức. Ông đã được chuẩn bị không phải
cho chiến tranh đơn thuần, mà cho chiến tranh trên diện rộng, dữ dội; không phải cho một
trận chiến chóng vánh và một hòa ước cỏn con, mà cho những giải pháp cuối cùng, toàn
diện. Vua cha trước khi chết đã trăn trối nên giữ cho Thụy Điển được hòa bình "trừ khi
con bị nắm tóc lôi vào chiến tranh." Nhưng ý tưởng căm ghét "cuộc chiến phi nghĩa" đã

khơi dậy trong lòng Karl quan niệm về đạo đức. Thế là cuộc Đại chiến Bắc Âu xảy ra,
kéo dài trong 20 năm.
Chiến tranh với Đan Mạch
Khi Karl XII nói: "Ta dự định xử lý một kẻ thù trước rồi sẽ nói chuyện với kẻ kia," ông
diễn tả ngắn gọn sách lược quân sự của mình. Từ lúc này trở đi, không màng đến chuyện
gì đang xảy ra ở đâu đó trong đế quốc của Thụy Điển, nhà vua luôn tập trung tư tưởng và
lực lượng của ông vào một kẻ thù duy nhất. Sau khi đã chiến thắng và triệt hạ tận gốc kẻ
thù này, ông mới quay sang kẻ thù khác. Cú đầu tiên của Karl giáng trên kẻ thù gần nhất:
Đan Mạch. Ông phớt lờ quân Saxony đang tiến vào Livonia. Ông nghĩ có thể bỏ mặc tỉnh
này tự cầm cự cho đến khi quân Thụy Điển đến giải vây. Nếu không, cứ để quân địch
chiếm và ông sẽ rửa hận vào ngày khác. Nhưng không gì có thể ngăn cản ông dốc lực
lượng vào kẻ thù ông đã chọn lựa. Ông dẫn quân đánh thần tốc đến Đan Mạch.
Vua Frederick IV của Đan Mạch nhanh chóng nhận điều kiện đầu hàng. Ngày 18 tháng 8
năm 1700, hai bên ký Hòa ước Travendal, theo đó Đan Mạch trả lại cho Thụy Điển
Holstein-Gottorp vừa chiếm và cam kết từ bỏ cuộc chiến chống Thụy Điển. Thế là chiến
dịch đầu tiên của Karl đã thành công chớp nhoáng và gần như không bị đổ máu. Chỉ
trong vòng hai tuần chinh chiến, Karl XII đã phục hồi lãnh thổ Thụy Điển bị chiếm và
loại khỏi vòng chiến một kẻ địch.
Bây giờ, Karl chuẩn bị lao vào kẻ địch thứ hai là vua Augustus II. Nhưng tình hình đã
biến đổi. Thật ra, chiến dịch kế tiếp của Thụy Điển sẽ phủ lên Pyotr của Nga. Cuối tháng
8 ông đã nhận được thư tuyên chiến của Sa hoàng và tin báo nói rằng quân Nga đã vượt
ranh giới và xuất hiện trước pháo đài Narva của Thụy Điển.
Đánh quân Nga ở Trận Narva
Thụy Điển quyết định mở chiến dịch ở Livonia. Ba Lan và Nga đang tấn công vùng này;
hai pháo đài quan trọng của Thụy Điển – Riga và Narva – đang bị nguy khốn. Ngày 1
tháng 10, bất chấp mọi lời cảnh báo về những cơn bão mùa thu nguy hiểm trên Biển
Baltic, Karl dẫn quân đi Livonia. Dù các tàu đã chật ních, chỉ có đủ chỗ cho 5.000 quân.
Vào ngày thứ ba, một cơn bão thổi đến như dự đoán, vài tàu bị đắm, nhiều ngựa của kỵ
binh bị què. Ngày 6 tháng 10, những gì còn lại của hạm đội tiến vào cảng Pernau ở đầu
Vịnh Riga. Các tàu được sửa chữa rồi quay về Thụy Điển để chở thêm quân, ngựa và
pháo binh. Karl được tin Augustus II đã ngưng chiến dịch và rút về trú đông. Ông nhanh
chóng đi đến quyết định: chiến đấu với Nga để giải vây cho Narva.
Đối với nhiều sĩ quan của Karl, việc này là rất nguy hiểm. Họ biện luận rằng Nga chiếm
ưu thế về quân số với tỷ lệ 4 trên 1 – vài tin đồn là 8 trên 1; quân Nga sẽ bảo vệ phòng
tuyến được gia cố trong khi Thụy Điển sẽ phải tấn công từ ngoài đồng trống; phải mất
bảy ngày để hành quân đến Narva theo con đường lầy lội qua ba con đèo mà quân Nga
chắc chắn sẽ án ngữ; bệnh tật bắt đầu lây lan trong hàng ngũ quân Thụy Điển; mùa đông
đang đến và chưa chuẩn bị gì cho doanh trại trú đông.
Đối với các lý luận này, Karl trả lời đơn giản rằng mọi người đến đây để chiến đấu và kẻ
địch đang chờ đợi. Nếu Thụy Điển rút lui và Nga chiếm được Narva, họ sẽ tràn ngập
Ingria, Estonia và Livonia, rồi tất cả các tỉnh miền đông Baltic sẽ bị mất. Sự tự tin và
hăng hái của nhà vua đã thuyết phục được sĩ quan và khơi dậy tinh thần của binh sĩ. Mọi
người hiểu rằng trách nhiệm về chiến dịch, sự thành công hoặc thất bại, sẽ tùy thuộc hoàn

toàn vào vị vua 18 tuổi.
Đoàn quân lên đường với hơn 10.000 người. Bên Nga có 40.000 quân, được bố phòng
chắc chắn trong công sự vây hãm phía tây Narva, băng qua một con đường duy nhất mà
quân tiếp viện Thụy Điển có thể đi đến.
Ngày 20 tháng 10 năm 1700, quân Thụy Điển đến Narva. Karl ra lệnh xông đến tấn công
ngay mà chưa tổ chức phòng thủ hoặc thiết lập doanh trại trước. Quân Nga hoàn toàn bị
bất ngờ.
Trong cánh quân Nga phía Nam, từng đợt quân Nga thiếu kinh nghiệm chiến đấu bị tan
rã. Kỵ binh Nga, phần lớn là giới quý tộc Nga và dân Cossack thiếu kỷ luật, trở nên
hoảng hốt ngay cả trước khi bị tấn công. Nhìn thấy quân Thụy Điển hùng hổ xông đến,
họ quay đầu tẩu thoát. Hàng ngàn người ngựa bị mất tích trong những dòng thác nhỏ.
Ở cánh quân phía bắc của phòng tuyến Nga, tình hình cũng thế. Quân Nga tháo chạy
hoảng loạn, phần lớn về hướng bờ sông Narva. Chẳng bao lâu, cả một rừng người tranh
giành nhau để qua một cây cầu duy nhất bắc qua sông. Thình lình, cây cầu bị nứt và oằn
xuống dưới sức nặng của quân Nga, khiến vô số người bị rơi xuống dòng nước.
Quân Thụy Điển bị mất 31 sĩ quan và 646 binh sĩ, 1.205 bị thương. Bên Nga, ít nhất
8.000 tử trận hoặc bị thương, và người bị thương không có mấy hy vọng đi về đến quê
nhà qua quãng đường dài đã đóng băng. Mười tướng lĩnh của Nga, 10 đại tá và 34 sĩ quan
cấp thấp hơn bị bắt.
Tin tức về trận chiến Narva gây ấn tượng mạnh toàn Tây Âu. Chi tiết về chiến thắng lẫy
lừng và lời ca tụng sôi nổi về vị quân vương trẻ của Thụy Điển lan rộng. Mặc dù tài chỉ
huy đầy kinh nghiệm của tướng lĩnh Thụy Điển đã góp phần quan trọng, sự thực là nếu
không có tính quyết đoán không gì lay chuyển nổi của Karl XII, sẽ không có chiến thắng
ở Narva.
Từ lúc đó, chiến tranh trở thành mục tiêu lớn lao trong đời của Karl XII. Theo ý nghĩa đó,
Narva vừa là chiến thắng vĩ đại đầu tiên của ông mà cũng là bước đầu tiên dẫn ông đến
diệt vong. Một chiến thắng dễ dàng như thế khiến cho ông nghĩ mình là vô địch. Narva,
cộng với chiến công kịch tính ở Đan Mạch, đã phát sinh huyền thoại về Karl XII – mà
ông chấp nhận – rằng chỉ với một dúm quân ông có thể đánh tan tác cả đoàn quân địch
đông đúc. Narva cũng mang đến cho Karl XII tư tưởng nguy hiểm là xem nhẹ Pyotr Đại
đế và khinh thường nước Nga.
Chiến tranh với Ba Lan
Theo sau trận Narva, vài cố vấn của Karl đã tham mưu rằng ông có thể đánh chiếm
Moskva một cách dễ dàng, hạ bệ Pyotr, và ký một hòa ước để thêm lãnh thổ mới vào đế
quốc của Thụy Điển ở vùng Baltic. Karl thấy viễn tượng này là hấp dẫn, nhưng quân
Thụy Điển bị thiếu ăn và bệnh tật. Quân Nga đã tàn phá Livonia; số lương thực còn lại đã
được binh sĩ của Pyotr Đại đế tiêu thụ hết. Không thể nhận hàng hậu cần từ Thụy Điển
trong mùa đông, và ngựa của kỵ binh Thụy Điển chẳng bao lâu đã phải nhai vỏ cây. Bị
yếu vì kém ăn, quân Thụy Điển còn bị bệnh tật hoành hành. Bệnh sốt và kiết lỵ lây lan,
hàng trăm binh sĩ ngã ra chết. Đến mùa xuân, không đầy phân nửa binh lính là còn đủ sức
chiến đấu. Karl đành phải cho quân vào trú đông.
Khi mùa xuân 1701 đến, Karl vẫn xem xét ý tưởng xâm lăng nước Nga nhưng không còn
hào hứng mấy. Ông nghĩ có đánh thắng Pyotr thêm một trận nữa chỉ làm cho châu Âu

phá lên cười, trong khi đánh thắng đạo quân Saxony có kỷ luật của Augustus II sẽ làm
cho cả lục địa phải thán phục. Lý do thực tế nữa là Karl nghĩ không nên tiến quân vào
Nga trong khi quân đội Saxony còn nguyên vẹn đang hoạt động phía sau ông.
Tháng 6 năm 1701, Karl dẫn 18.000 quân tiến về hướng nam, dự định vượt sông Dvina
gần Riga để tiêu diệt 9.000 quân Saxony và 4.000 quân Nga dưới quyền chỉ huy của
tướng Steinau của Saxony. Không may cho Karl, kỵ binh Thụy Điển không thể vượt
sông, và quân Saxony rút lui được tuy chịu nhiều thiệt hại. Bốn trung đoàn Nga hoảng
hốt tháo chạy mà không tham chiến. Karl càng thêm khinh thường quân đội của Pyotr.
Không bao lâu sau chiến thắng nhỏ nhoi này, vào tháng 7 năm 1701, Karl, bấy giờ được
19 tuổi, đi đến một quyết định chiến lược khiến thay đổi một cách sâu xa cuộc đời của
ông và của Pyotr: tập trung lực lượng để tận diệt Augustus II trước khi tiến công nước
Nga. Không thể nào tấn công cả hai kẻ thù cùng một lúc, và trong số này, Saxony đang
hoạt động trong khi Nga đang nằm lì. Hơn nữa, Saxony và ngay cả Ba Lan là những mục
tiêu rõ ràng, trong khi đất Nga quá bao la đến nỗi Thụy Điển có thế đánh sâu vào mà vẫn
không thể tìm thấy đầu não của một cơ thể khổng lồ.
Năm này sang năm khác, Thụy Điển tiếp tục thắng trên vũng lầy Ba Lan, nhưng chiến
thắng cuối cùng vẫn chưa đến. Trong khi ấy, Nga được dễ thở cũng đi từ chiến thắng này
đến chiến thắng khác dọc bờ Biển Baltic: tàn phá vùng sản xuất nông nghiệp của Livonia,
chiếm pháo đài Nöteborg rồi đổi tên thành Schlüsselburg (năm 1702), tiêu diệt hạm đội
Thụy Điển trên Hồ Ladoga và Hồ Peipus (1702-1704), kiểm soát toàn chiều dài sông
Neva, nhờ đó xây lên thành phố Sankt-Peterburg cùng cảng biển ở cửa sông, chiếm các
thị trấn Dorpat và Narva (năm 1704). Chuỗi thành công của Nga đi kèm với chuỗi van
nài khẩn thiết từ thần dân của Karl: tiếng kêu cứu khẩn cấp của dân các tỉnh ven bờ Biển
Baltic, lời khuyên và van nài của Nghị viện Thụy Điển, lời yêu cầu nhất trí của các tướng
lĩnh, ngay cả lời kêu gọi của người chị. Tất cả đều van xin nhà vua bãi bỏ chiến dịch ở Ba
Lan và đi giải cứu các tỉnh ven bờ Biển Baltic. Phản ứng của Karlđối với mọi người đều
như nhau: "Ngay cả nếu ta có phải lưu lại đây 50 năm, ta sẽ không rời khỏi nước này nếu
chưa lật đổ được Augustus."
Cuối cùng, Karl đạt thêm chiến thắng, tạo thêm sức ép cho Ba Lan. Nghị viện Ba Lan
chấp nhận quyết tâm của Karl là ngày nào mà Augustus II còn ngự trên ngai vàng Ba
Lan, ngày đó Karl vẫn còn lưu lại, nên vào tháng 2 năm 1704 họ quyết định truất phế vua
của họ. Karl chọn ứng viên lên ngai vàng là Stanisław Leszczyński, nhà quý tộc 27 tuổi,
có trí thông minh khiêm tốn và trung thành kiên định với Karl XII.
Chuẩn bị chiến tranh với Nga
Việc truất phế Augustus II của Ba Lan đã loại ra bên thứ hai trong số liên minh ba bên
chống Thụy Điển. Bây giờ, bị đơn độc phải đối mặt với Karl, Pyotr tăng cường nỗ lực để
dàn hòa với Karl, hoặc nếu việc này thất bại, tìm kiếm đồng minh khác hầu giúp tránh
cho nước Nga một chiến bại thảm hại mà Tây Âu đều nghĩ sẽ không tránh khỏi.
Trong việc kiếm tìm một trung gian hoặc một đồng minh, Pyotr tiếp xúc cả Hà Lan, Phổ,
Đan Mạch, Pháp, Anh, để nhờ làm trung gian giúp thuyết phục Thụy Điển chấp nhận hòa
hoãn với Nga, nhưng đều thất bại: không nước nào muốn can dự vào.
Karl nhất quyết từ chối xem xét việc đàm phán với Nga. Khi có đề nghị rằng Pyotr có thể
trả tiền bồi thường cho Thụy Điển nhằm giữ lại một phần lãnh thổ nhỏ ven bờ Baltic đã
chiếm được, Karl trả lời rằng ông không muốn bán thần dân của ông ở Baltic để lấy tiền
Nga. Khi Nga đề nghị trả lại tất cả Livonia, Estonia và Ingria ngoại trừ Sankt-Peterburg,
Schlüsselburg/Nöteborg và sông Neva nối hai nơi này, Karl đã tuyên bố một cách phẫn