88
Kết quả xét nghiệm tế bào cổ tử cung và HPV-DNA ở bệnh nhân điều trị
tổn thương cổ tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Nguyễn Văn Thắng1, Nguyễn Đức Hà1, Trần Nguyễn Chí Kiên2, Nguyễn Thanh Hải1*
1 Bệnh viện Phụ sản Trung ương
2 Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên
doi: 10.46755/vjog.2024.4.1752
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Thanh Hải, email: thanhhai97hmu@gmail.com
Nhận bài (received): 20/9/2024 - Chấp nhận đăng (accepted): 04/10/2024
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu:
Đánh giá hiệu quả sàng lọc ung thư cổ tử cung bằng tế bào học xét nghiệm HPV-DNA tại
Bệnh viện Phụ sản Trung ương.
Đối tượng và phương pháp:
Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang trên 537 bệnh nhân có tổn thương tiền ung thư
ung thư cổ tử cung từ tháng 01/2023 đến tháng 10/2023. Dữ liệu được xử lý bằng SPSS 16.0.
Kết quả:
Xét nghiệm tế bào học phát hiện 71,6% các tổn thương từ CIN 2 trở lên, trong khi xét nghiệm HPV-DNA phát
hiện 97,9%. Kết hợp cả hai phương pháp đạt độ nhạy 100%.
Kết luận:
Xét nghiệm HPV-DNA có độ nhạy cao trong phát hiện tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung. Xét
nghiệm tế bào có độ nhạy thấp hơn, chỉ đạt tối đa 71,6%. Do vậy nếu chỉ dựa vào xét nghiệm tế bào trong sàng lọc sẽ
có nguy cơ bỏ sót các tổn thương này.
Từ khóa:
ung thư cổ tử cung, tế bào học, HPV-DNA, sàng lọc.
Cervical cytology and HPV-DNA test results in patients treated for cervical
lesions at the National Hospital of Obstetrics and Gynecology
Nguyen Van Thang1, Nguyen Duc Ha1, Tran Nguyen Chi Kien2, Nguyen Thanh Hai1*
1 National Hospital of Obstetrics and Gynecology
2 HUS high school for Gifted students
Abstract
Objectives:
To evaluate the effectiveness of cervical cancer screening using cytology and HPV-DNA testing at the
National Hospital of Obstetrics and Gynecology.
Materials and Methods:
A retrospective cross-sectional study was conducted on 537 patients with precancerous
lesions and cervical cancer from January 2023 to October 2023. Data were processed using SPSS 16.0.
Results:
Cytology detected 71.6% of lesions at CIN 2 or higher, while HPV-DNA testing identified 97.9%. The
combination of both methods achieved 100% sensitivity.
Conclusion:
HPV-DNA testing exhibits high sensitivity in detecting precancerous lesions and cervical cancer. In
contrast, cytology testing has lower sensitivity, achieving a maximum of only 71.6%. Therefore, relying solely on
cytology in screening poses a risk of missing these lesions.
Keywords:
cervical cancer, cytology, HPV-DNA, screening.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh ác tính
phổ biến và gây tử vong cao ở phụ nữ trên toàn thế giới, đặc
biệt tại các nước đang phát triển. Theo Tchức Y tế Thế giới
(WHO), mỗi năm có khoảng 604.127 ca ung thư cổ tử cung
mới được chẩn đoán 341.831 trường hợp tử vong [1]. Tại
Việt Nam, ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư phổ biến thứ
tám ở phụ nữ, với khoảng 4.132 ca mắc mới và 2.223 ca tử
vong mỗi năm [2]. Đây gánh nặng lớn đối với hệ thống y tế
và xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh các phương pháp sàng
lọc và điều trị còn gặp nhiều hạn chế [3].
Phát hiện sớm thông qua các chương trình sàng lọc
là yếu tố then chốt trong việc giảm tỷ lệ mắc và tử vong
do ung thư cổ tử cung [4]. Trước đây, tế bào học cổ tử
cung (Pap smear) đã được sử dụng rộng rãi như một
phương pháp sàng lọc đầu tay. Tuy nhiên, phương pháp
này độ nhạy thấp, chỉ dao động từ 55-88%, dẫn đến
khả năng bỏ sót nhiều trường hợp tổn thương tiền ung
thư và ung thư ở giai đoạn sớm [5]. Do đó, sự ra đời của
xét nghiệm HPV-DNA đã được đánh giá cao bởi độ nhạy
cao hơn, giúp phát hiện các typ HPV nguy cao, nguyên
PHỤ KHOA - KHỐI U
Nguyễn Văn Thắng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):88-92.
doi: 10.46755/vjog.2024.4.1752
89
nhân chính gây ra ung thư cổ tử cung [6].
Gần đây, các hướng dẫn sàng lọc đã khuyến khích sự
kết hợp giữa xét nghiệm tế bào học HPV-DNA nhằm
nâng cao độ nhạy và hiệu quả sàng lọc.
Mục tiêu nghiên cứu: nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu
quả của phương pháp sàng lọc ung thư cổ tử cung bằng
tế bào học xét nghiệm HPV-DNA tại Bệnh viện Phụ sản
Trung ương.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 537 người bệnh
tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung được chẩn
đoán và điều trị tại Khoa Phụ Ung thư, Bệnh viện Phụ sản
Trung ương từ tháng 01/2023 đến tháng 10/2023. Đối
tượng nghiên cứu bao gồm các bệnh nhân có đầy đủ các
xét nghiệm cần thiết như tế bào học, HPV-DNA, soi cổ tử
cung và kết quả giải phẫu bệnh. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh
nhân bao gồm những người đã thực hiện cả xét nghiệm tế
bào học và HPV-DNA, đồng thời có hồ sơ y tế hoàn chỉnh.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo tả cắt ngang hồi
cứu, sử dụng dữ liệu từ hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân
được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Trung
ương. Dữ liệu bao gồm các thông tin nhân khẩu học, kết
quả xét nghiệm tế bào học, HPV-DNA và giải phẫu bệnh.
Quá trình thu thập xử lý dữ liệu được thực hiện bằng
phần mềm SPSS 16.0, tập trung vào các chỉ số độ nhạy,
độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán của các phương pháp xét
nghiệm, phân tích hiệu quả của việc kết hợp giữa tế
bào học và HPV-DNA.
2.3. Tiêu chuẩn lựa chọn
Bệnh nhân đã thực hiện cả xét nghiệm tế bào học và
HPV-DNA, đồng thời có hồ sơ y tế hoàn chỉnh .
2.4. Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không thực hiện đầy đủ các xét nghiệm cần
thiết hoặc không có hồ sơ y tế hoàn chỉnh sẽ bị loại trừ.
2.5. Cỡ mẫu: Cỡ mẫu của nghiên cứu là 537 bệnh nhân .
3. KẾT QU
3.1. Phân loại tổn thương
Biểu đồ 1. Phân loại tổn thương cổ tử cung
Phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu được điều trị ở giai đoạn sớm của tiền ung thư hoặc ung thư biểu mô vảy cổ
tử cung tại chỗ, chỉ 7,8% được điều trị ở giai đoạn ung thư xâm nhập và không có trường hợp ung thư biểu mô tuyến
cổ tử cung tại chỗ. Điều này cho thấy hiệu quả của các chương trình sàng lọc tiêm phòng HPV trong việc phát hiện
sớm và giảm tỷ lệ ung thư cổ tử cung, đặc biệt là ung thư xâm lấn. Ngoài ra, do hạn chế về cơ sở vật chất, bệnh nhân
ung thư giai đoạn muộn cần xạ trị được chuyển sang các bệnh viện khác, làm giảm tỷ lệ bệnh nhân ung thư xâm nhập
trong nghiên cứu của chúng tôi.
Biểu đồ 2. Phân bố kết quả giải phẫu bệnh theo tuổi
Nguyễn Văn Thắng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):88-92.
doi: 10.46755/vjog.2024.4.1752
54,7
18,2
19,2
7,8
Phân loại tổn thương
CIN I
CIN II
CIN III/CIS
Ung thư xâm nhập
90
Nhận xét: Hơn một nửa số bệnh nhân trong nghiên
cứu tổn thương cổ tử cung mức độ CIN 1. Thông
thường, can thiệp xâm lấn như cắt LEEP không được
khuyến cáo cho nhóm này do khả năng tự thoái triển
tự nhiên khoảng 60% trường hợp. Tuy nhiên, trong
nghiên cứu của chúng tôi, ngoài những bệnh nhân
tổn thương CIN 1 kéo dài hoặc lớn tuổi, một số trường
hợp khác được chỉ định cắt LEEP do nghi ngờ sự không
tương thích giữa kết quả giải phẫu bệnh biểu hiện
lâm sàng. Điều này bao gồm các trường hợp tổn thương
ràng trên soi cổ tử cung nhưng kết quả giải phẫu
bệnh không phù hợp, vùng chuyển tiếp cổ tử cung di
chuyển vào trong ống cổ không quan sát được, hoặc
kết quả xét nghiệm tế bào HPV-DNA dự báo nguy
cơ cao.
Về độ tuổi, bệnh nhân điều trị tổn thương tiền ung thư
ung thư cổ tử cung trong nghiên cứu này độ tuổi
trung bình tương đương với các nghiên cứu toàn cầu.
Tuy nhiên, xu hướng ngày càng nhiều bệnh nhân trẻ tuổi
mắc tổn thương HSIL trở lên đang được ghi nhận. Bệnh
nhân trẻ nhất mắc CIN 3 22 tuổi, CIS 28 tuổi,
ung thư xâm nhập 31 tuổi. Thực tế, chúng tôi đã gặp
trường hợp bệnh nhân 18 tuổi mắc CIN 3 bệnh nhân
22 tuổi mắc ung thư xâm nhập. Các yếu tố nguy cơ góp
phần vào xu hướng trẻ hóa này bao gồm nhiều bạn
tình, tăng nguy mắc tổn thương tiền ung thư cổ tử
cung lên 2,67 lần, tiền sử mắc các bệnh lây truyền qua
đường tình dục, làm tăng nguy cơ lên 6,22 lần. Phản ứng
viêm từ các bệnh y thể tạo điều kiện cho HPV tồn
tại dai dẳng, dẫn đến tổn thương tiền ung thư.
Nguyễn Văn Thắng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):88-92.
doi: 10.46755/vjog.2024.4.1752
3.2. Xét nghiệm tế bào cổ tử cung
Bảng 1. Xét nghiệm tế bào cổ tử cung phân theo kết quả giải phẫu bệnh
Xét nghiệm tế bào cổ tử cung
phân theo kết quả giải phẫu bệnh
Kết quả giải phẫu bệnh (n)
Tổng (n)
CIN 1 CIN 2 CIN 3/CIS Ung thư
xâm nhập
Xét nghiệm tế
bào cổ tử cung
(n)
Lành tính 119 29 27 13 188
ASC/AGC 63 18 13 9 103
LSIL 78 28 14 3 123
HSIL/ASC-H 32 22 39 11 104
Ung thư 2 1 10 6 19
Tổng (n) 294 98 103 42 537
Xét nghiệm tế bào cổ tử cung độ đặc hiệu rất
cao, lên tới 96,5% theo nghiên cứu của Arianis Tatiana
Ramírez cộng sự trên 30.606 bệnh nhân, nhưng độ
nhạy lại thấp, chỉ đạt 48,5%, dao động từ 32,1% đến
87,5% giữa các trung tâm [6]. các nước đang phát
triển, độ nhạy của phương pháp này thậm chí chỉ đạt
11%. Mặc xét nghiệm tế bào học đã giúp giảm tỷ
lệ mắc ung thư cổ tử cung các nước thu nhập cao,
nhưng hiệu quả chưa đồng đều các nước thu nhập
thấp. Nguyên nhân chính bao gồm độ bao phủ sàng
lọc thấp, quy trình phức tạp yêu cầu nhiều lần khám, và
kết quả phụ thuộc vào kỹ thuật lấy mẫu cũng như kinh
nghiệm của chuyên gia. Độ nhạy thấp của xét nghiệm
cũng đòi hỏi phải lặp lại nhiều lần trong nhiều năm để
đạt hiệu quả. Những yếu tố này làm cho xét nghiệm
tế bào học trở nên tốn kém khó được chấp nhận
các nước thu nhập thấp. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, xét nghiệm tế bào cổ tử cung chỉ phát hiện 71,6%
các trường hợp tổn thương từ mức CIN 2 trở lên, bỏ sót
nhiều trường hợp bệnh lý.
3.3. Xét nghiệm HPV-DNA
Bảng 2. Xét nghiệm HPV-DNA phân theo kết quả giải phẫu bệnh
Xét nghiệm HPV-DNA phân theo
kết quả giải phẫu bệnh
Kết quả giải phẫu bệnh (n)
Tổng (n)
CIN 1 CIN 2 CIN 3/CIS Ung thư
xâm nhập
HPV-DNA (n) Âm tính 25 1 4 0 30
Dương tính 169 97 99 42 507
Tổng 294 98 103 42 537
Xét nghiệm HPV độ nhạy vượt trội so với xét
nghiệm tế bào cổ tử cung khá đồng nhất trên toàn
cầu, với độ nhạy dao động từ 96,7% đến 100%. Mặc dù
độ đặc hiệu của xét nghiệm HPV thấp hơn một chút
(88,7%), nhưng vẫn khá cao. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, xét nghiệm HPV đã phát hiện 238 trong số
243 bệnh nhân có tổn thương từ mức CIN 2 trở lên, đạt
độ nhạy 97,9%.
Trong 30 trường hợp HPV âm tính, chỉ 1 trường
hợp CIN 2 4 trường hợp CIN 3/CIS, không trường
hợp nào ung thư xâm nhập. Nghiên cứu của Katki
cộng sự cho thấy nguy mắc CIN 3 trở lên phụ nữ
91
HPV âm tính thấp hơn nhiều so với những phụ nữ tế
bào học âm tính, với giá trị dự báo âm tính lần lượt
0,03% và 0,83%.
một số giả thuyết giải thích cho các trường hợp
tổn thương tiền ung thư ung thư cổ tử cung âm tính
với HPV. Thứ nhất, một số ung thư cổ tử cung không liên
quan đến HPV, đặc biệt là ung thư biểu mô tuyến, với tỷ
lệ âm tính với HPV từ 15% đến 38%. Thứ hai, tình trạng
nhiễm HPV tiềm ẩn, nơi virus bị ức chế bởi hệ miễn dịch
và không hoạt động, có thể dẫn đến âm tính giả. Thứ ba,
một số kỹ thuật xét nghiệm chỉ phát hiện gen HPV L1,
thể dẫn đến âm tính giả khi gen này bị mất, trong khi gen
E6/E7 vẫn hiện diện. Cuối cùng, một số loại ung thư cổ
tử cung có thể liên quan đến HPV nguy cơ thấp, mà các
xét nghiệm HPV hiện tại không phát hiện được, dẫn đến
kết quả âm tính giả.
Mặc dù kết hợp xét nghiệm HPV với tế bào học có thể
cải thiện độ nhạy lên 100% đối với các tổn thương CIN 2
trở lên, nhưng không được ủng hộ rộng rãi hiệu quả
gần như tương đương với xét nghiệm HPV đơn thuần.
Nghiên cứu của Arianis Tatiana Ramírez cho thấy chỉ 9
trường hợp CIN 3 (không ung thư) được phát hiện
những phụ nữ HPV âm tính nhờ xét nghiệm tế bào học.
WHO khuyến nghị xét nghiệm HPV đơn độc phương
pháp sàng lọc ung thư cổ tử cung ưu tiên, đặc biệt khi
xét đến chi phí và hiệu quả.
4. BÀN LUẬN
Hiệu quả của việc kết hợp xét nghiệm tế bào học và
HPV-DNA
Việc kết hợp xét nghiệm tế bào học và HPV-DNA
độ nhạy cao nhất, đạt mức 100% trong phát hiện các tổn
thương từ CIN 2 trở lên. Điều này khẳng định rằng sự kết
hợp giữa hai phương pháp này giúp tối ưu hóa khả năng
phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư ung thư
cổ tử cung. Xét nghiệm tế bào học (Pap smear) đã được
sử dụng trong nhiều thập kỷ qua như phương pháp sàng
lọc chính cho ung thư cổ tử cung, nhờ khả năng phát
hiện các biến đổi tế bào bất thường trong các giai đoạn
đầu của tổn thương. Tuy nhiên, với độ nhạy chỉ đạt 71.6%
trong nghiên cứu này, Pap smear có nguy cơ bỏ sót một
tỷ lệ lớn các trường hợp có tổn thương nguy hiểm .
Việc bổ sung xét nghiệm HPV-DNA vào quá trình
sàng lọc giúp phát hiện trực tiếp sự hiện diện của virus
HPV nguy cao nguyên nhân chính gây ra hầu hết
các trường hợp ung thư cổ tử cung. Trong khi Pap smear
tập trung vào việc phát hiện những thay đổi ở tế bào, xét
nghiệm HPV-DNA có khả năng phát hiện ngay cả khi các
tế bào chưa biểu hiện bất thường rệt, từ đó giúp
phát hiện tổn thương sớm hơn . Sự kết hợp này đặc biệt
hữu ích trong những trường hợp tế bào học không đủ
nhạy hoặc kết quả không ràng (ASC-US, LSIL)
cần sự hỗ trợ của HPV-DNA để đánh giá nguy cơ.
Vai trò nổi bật của xét nghiệm HPV-DNA
Mặc dù việc kết hợp hai phương pháp mang lại hiệu
quả cao nhất, nghiên cứu của chúng tôi cũng nêu bật vai
trò đặc biệt của xét nghiệm HPV-DNA trong sàng lọc ung
thư cổ tử cung. Với độ nhạy lên tới 97,9%, xét nghiệm
HPV-DNA đã chứng minh khả năng phát hiện sớm các
tổn thương nguy cao không cần sự hỗ trợ từ xét
nghiệm tế bào học . Điều này đặc biệt quan trọng trong
bối cảnh thực tiễn tại Việt Nam, nơi việc triển khai
các chương trình sàng lọc quy lớn đòi hỏi sự đơn
giản, hiệu quả và chi phí hợp lý.
Xét nghiệm HPV-DNA những ưu điểm vượt trội,
nhất khi xét về độ nhạy và khả năng phát hiện những
tổn thương giai đoạn tiền ung thư sớm. Các nghiên
cứu quốc tế cũng đã khẳng định rằng việc sử dụng xét
nghiệm HPV-DNA đơn lẻ có thể giảm thiểu rủi ro bỏ sót
các tổn thương, đồng thời giúp giảm tần suất phải thực
hiện xét nghiệm so với Pap smear. Ví dụ, WHO đã khuyến
cáo rằng sàng lọc bằng HPV-DNA mỗi 5 - 10 năm hiệu
quả tương đương hoặc thậm chí cao hơn so với việc thực
hiện Pap smear hàng năm hoặc 3 năm một lần . Điều này
giúp giảm gánh nặng chi phí nguồn lực cho hệ thống y
tế, đồng thời giảm thiểu sự bất tiện cho bệnh nhân.
Tính khả thi của HPV-DNA tại Việt Nam
Tại Việt Nam, nơi ung thư cổ tử cung vẫn là một trong
những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong phụ nữ, việc
triển khai xét nghiệm HPV-DNA trong các chương trình
sàng lọc đại trà mang lại nhiều lợi ích. Xét nghiệm HPV-
DNA không chỉ độ nhạy cao mà còn dễ dàng thực hiện
hơn so với xét nghiệm tế bào học, vốn đòi hỏi quy trình phức
tạp hơn và phụ thuộc vào kinh nghiệm của chuyên gia .
Thêm vào đó, xét nghiệm HPV-DNA có thể giúp giảm
tần suất sàng lọc, điều này phù hợp với điều kiện kinh tế
và nguồn lực y tế hạn chế tại nhiều khu vực ở Việt Nam.
Việc thực hiện xét nghiệm này mỗi 5-10 năm, thay phải
lặp lại Pap smear thường xuyên, sẽ giúp tiết kiệm chi phí
và tài nguyên y tế, đồng thời đảm bảo tính bền vững cho
chương trình sàng lọc ung thư cổ tử cung .
5. KẾT LUẬN
Xét nghiệm HPV-DNA độ nhạy cao rất cao trong
sàng lọc ung thư cổ tử cung, đạt giá trị gần tuyệt đối với
các tổn thương ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm tế bào
âm đạo đạt giá trị độ nhạy thấp hơn, chỉ đạt tới 71%, do
vậy có thể bỏ sót tổn thương.
6. KIẾN NGHỊ
Xét nghiệm HPV-DNA nên được ứng dụng xét
nghiệm sàng lọc đầu tay đơn lẻ trong sàng lọc ung thư
cổ tử cung.
Xét nghiệm tế bào âm đạo nếu phối hợp với xét
nghiệm HPV-DNA sẽ giúp tránh bỏ sót các tổn thương
ở cổ tử cung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. World Health Organization. Global cancer statistics
2018: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality
Nguyễn Văn Thắng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):88-92.
doi: 10.46755/vjog.2024.4.1752
92
worldwide for 36 cancers in 185 countries. CA: A Cancer
Journal for Clinicians. 2018;68(6):394-424.
2. ICO/IARC HPV Information Centre. Human
Papillomavirus and Related Diseases Report. Viet Nam;
2023.
3. Bray F, Ferlay J, Soerjomataram I, et al. Global cancer
statistics 2018: GLOBOCAN estimates of incidence and
mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries. CA
Cancer J Clin. 2018;68(6):394-424.
4. Mello V, Sundstrom RK. Cervical Intraepithelial
Neoplasia. In: StatPearls. StatPearls Publishing; 2023.
5. Tsehay B, Afework M. Precancerous lesions of the
cervix and its determinants among Ethiopian women:
Systematic review and meta-analysis. PLoS One.
2020;15(10)
6. Ramírez AT, Valls J, Baena A, et al. Performance of
cervical cytology and HPV testing for primary cervical
cancer screening in Latin America: an analysis within the
ESTAMPA study. The Lancet Regional Health - Americas.
2023;26:100593.
Nguyễn Văn Thắng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):88-92.
doi: 10.46755/vjog.2024.4.1752