
106
KHAI THÁC YẾU TỐ LỊCH SỬ, VĂN HÓA TRONG VIỆC
ĐỊNH HƯỚNG TƯ DUY HỌC NGOẠI NGỮ CHO SINH VIÊN
NGÀNH NGÔN NGỮ HÀN TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KINH TẾ TÀI CHÍNH TPHCM
ThS. Phạm Phương Thảo
Trường Đại học Kinh tế Tài chính TPHCM
Khoa Ngôn ngữ Văn hóa Quốc tế
Tóm tắt
Trước thực tiễn đổi mới của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, cùng sự phát triển
không ngừng của nền kinh tế quốc gia trong xu thế hội nhập quốc tế, nhu cầu học
tiếng Hàn trong xã hội ngày càng tăng cao mà phần lớn là đề có thể đáp ứng xu
thế hội nhập của nước nhà. Đồng thời, sự tương đồng ít nhiều giữa tiếng Việt và
tiếng Hàn cũng là nguyên nhân cốt lõi khiến ngày càng nhiều bạn trẻ Việt Nam
chọn tiếng Hàn làm ngôn ngữ để theo đuổi. Tuy nhiên bên cạnh đó, người học
cũng gặp không ít vần đề khó khăn mà trong đó không thể không đề cập đến lối tư
duy ngôn ngữ bất đồng, cụ thể là trật tự từ giữa tiếng Việt và tiếng Hàn. Bằng
phương pháp nghiên cứu thu thập tư liệu và so sánh đối chiếu, phân tích, tôi đã
rút ra được kết quả về những tương đồng và khác biệt trong trật tự từ mà phần lớn
học viên thường khó tiếp thu. Từ đó, đề tài này sẽ nghiên cứu làm rõ bản chất,
nguyên nhân khiến phần lớn người học tiếng Hàn nói chung cũng các bạn sinh
viên ngành Ngôn ngữ Hàn tại UEF nói riêng thường mắc phải. Đồng thời, đề tài
nghiên cứu này sẽ cung cấp tư liệu về kiến thức và cách rèn luyện tư duy trật tự từ
để phục vụ cho việc học tập và ứng dụng trong đời sống giao tiếp hằng ngày.
Từ khóa
Viết tắt
Từ khóa
UEF
Trường Đại học Kinh tế Tài chính
TPHCM
NCKH
Nghiên cứu khoa học
NH
Ngữ hệ

107
TTT
Trật tự từ
CP
Cú pháp
1. Giới thiệu/ Đặt vấn đề (Introduction)
Đà phát triển và hội nhập của thế giới ngày càng mở rộng kéo theo đó là sự gia
tăng trong nhu cầu học tiếng Hàn của rất nhiều đối tượng, trong nước Việt Nam
nói riêng cũng như toàn thế giới nói chung. Trong quá trình dạy và học tiếng Hàn,
trật tự từ cũng như cú pháp tiếng Hàn trái ngược với tiếng Việt đã gây nhiều khó
khăn, giáo viên vất vả tìm cách giải thích, giảng dạy, còn học sinh lại lúng túng
trong việc sử dụng. Về kinh nghiệm của bản thân, khi bắt đầu học tiếng Hàn, tác
giả cũng gặp nhiều rắc rối trong việc rèn giũa và phân tích lối tư duy ngôn ngữ
khác biệt này, đặc biệt là trong giao tiếp. Cho đến khi học cao học ngành Giáo dục
tiếng Hàn, dưới sự chỉ dạy và hướng dẫn của giáo sư Hàn Quốc, tác giả mới lĩnh
hội được đầy đủ nguồn gốc và phương pháp tư duy của tiếng Hàn.
Sau khi tổng hợp tài liệu về nguồn gốc hình thành và lối tư duy của hai ngôn
ngữ Việt, Hàn từ nhiều nguồn khác nhau, tác giả đã bắt đầu kiểm chứng tính đúng
đắn của tư liệu. Đồng thời, từ những tư liệu đã chọn lọc và thống kê, tác giả đã tiến
hành phân tích, đối chiếu trật tự từ (TTT) của hai ngôn ngữ, cũng như nêu một số
dẫn chứng là những lỗi sai thường gặp của học viên.
Theo ý kiến cá nhân, bên cạnh tác giả sẽ còn rất nhiều bạn học viên tiếng Hàn
đang gặp khó khăn trong việc hiểu và tư duy theo trật tự từ và cú pháp (CP) này.
Chính vì thế tác giả chọn đây làm đề tài NCKH cho mình. Thứ nhất là để góp phần
giúp đỡ các bạn học viên còn chưa nắm rõ được trật tự từ và cú pháp. Thứ hai, đây
cũng sẽ góp phần giúp đỡ cho công tác giảng dạy của tác giả.
2. Cơ sở l thuyết và phương pháp nghiên cứu
Bài NCKH này được ra đời dựa trên phương pháp thu thập tư liệu về nguồn gốc
của hai ngôn ngữ Hàn, Việt cũng như tác động của chúng tới trật tự từ, từ đó so
sánh trật tự từ, tác giả cố gắng làm nổi bật sự tương đồng và khác biệt về trật tự từ
trong cú pháp tiếng Việt và tiếng Hàn.

108
Để tiến hành so sánh, cần xác định ngôn ngữ được dùng làm cơ sở, do những yêu
cầu cụ thể của vấn đề đang được khảo sát đặt ra, dựa vào những thành tựu nghiên
cứu về trật tự từ trong hai thứ tiếng.
Qua đó, bài nghiên cứu sử dụng phối hợp phương pháp miêu tả và phương pháp
so sánh - đối chiếu để người đọc hiểu rõ hơn trật tự từ của hai ngôn ngữ Việt - Hàn.
Từ đó, góp phần vào định hướng tư duy trong quá trình học ngoại ngữ của sinh
viên ngành Ngôn ngữ Hàn tại Trường Đại học Kinh tế Tài chính TPHCM (UEF)
nói riêng và người học tiếng Hàn nói chung.
3. Kết quả và thảo luận
a. Tìm hiểu về nguồn gốc lịch sử của tiếng Hàn và Tiếng Việt, cùng
những ảnh hưởng đến từ vựng của ngôn ngữ
i. Khái quát về các ngữ hệ Đông Á
Ngữ hệ (NH) Nam Á bao gồm Tiếng Việt và Tiếng Khmer, cùng với nhiều
ngôn ngữ khác được nói tại những khu vực rải rác vươn xa đến Mã Lai và Đông
Ấn, thường là trong những khu vực bị cô lập bởi vùng nói các ngôn ngữ thuộc ngữ
hệ khác. Hầu hết các nhà ngôn ngữ học tin rằng ngữ hệ Nam Á từng trải rộng khắp
Đông Nam Á và rằng sự phân bố rải rác ngày nay của chúng là kết quả của sự di
xuất hiện của các ngữ hệ khác từ nơi khác đến.
Một trong số đó là các ngôn ngữ thuộc Ngữ hệ Tai-Kadai như Tiếng
Thái, Tiếng Lào và Tiếng Shan. Những ngôn ngữ này ban đầu được nói ở miền
Nam Trung Quốc, nơi mà ngày nay người ta vẫn thấy sự phân hóa rộng nhất trong
ngữ hệ, và thậm chí có thể xa về phía Bắc đến thung lũng sông Dương Tử. Khi nền
văn minh Trung Hoa từ bình nguyên Hoa Bắc bành trướng xuống hướng Nam,
nhiều người nói tiếng Tai-Kadai đã bị Hán hóa, tuy nhiên một số đã di cư xuống
Đông Nam Á. Ngoại trừ Tiếng Tráng, hầu hết các thứ tiếng Tai-Kadai còn lại ở
Trung Quốc đều được nói ở những vùng núi cao bị cô lập.
Các thứ tiếng Mèo-Dao và H'Mông-Miền cũng bắt nguồn từ miền Nam
Trung Quốc, nơi mà giờ đây chúng chỉ còn được sử dụng trong những vùng đồi

109
hẻo lánh. Sự đàn áp đối với một loạt cuộc nổi dậy ở Quý Châu đã làm nhiều người
nói tiếng H'Mông-Miền di cư xuống Đông Nam Á vào thế kỉ 18 và 19.
Ngữ hệ Nam Đảo được cho là đã lan từ Đài Loan sang các hòn đảo trên Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương cũng như một số khu vực ở Đông Nam Á Lục địa.
Các phương ngữ Trung Quốc thường bao gồm Ngữ hệ Hán-Tạng, ngữ hệ này
lại bao gồm Ngữ tộc Tạng-Miến được nói tại Tây Tạng, Tây Nam Trung Quốc,
Đông Bắc Ấn Độ, Miến Điện và các quốc gia lân cận.
Về phía bắc, có các ngữ hệ Turk, Mông Cổ và Tungus, được một số nhà ngôn
ngữ học xếp vào Ngữ hệ Altai, đôi khi bao gồm cả Tiếng Hàn và Ngữ hệ Nhật Bản,
nhưng giả thuyết này hiện đã bị xem là không đáng tin cậy và không còn được ủng
hộ bởi các chuyên gia về các ngôn ngữ đó. Các ngôn ngữ này thường không có
thanh điệu, đa âm tiết và là ngôn ngữ chắp dính, với trật tự từ Chủ ngữ-Bổ ngữ-
Động từ và sự hài hòa nguyên âm ở một mức độ nhất định. Những người phê phán
thuyết Altai cho rằng những điểm tương đồng này là do tiếp xúc ngôn ngữ mạnh
mẽ tại một số thời điểm vào thời tiền sử. Do vậy, tiếng Hàn vẫn được xem là ngôn
ngữ biệt lập (isolate language), không có quan hệ với bất kỳ một ngôn ngữ nào
khác hiện có trên Trái Đất và được đặt tên riêng là hệ ngữ Triều Tiên (Koreanic).
Tuy nhiên, do có nhiều sự nhiều tương đồng nên tác giả giới thiệu tiếng Hàn cùng
với ngữ hệ Altai.
Các học giả Trung Quốc thường phân loại Tai-Kadai và H'Mông-Miền chung
với Hán-Tạng, nhưng giới học giả phương Tây kể từ sau Thế chiến thứ 2 đã xem
chúng là những ngữ hệ riêng biệt. Một vài nhóm lớn hơn đã được đề xuất, nhưng
không được ủng hộ rộng rãi. Thuyết Nam phương đại ngữ hệ, dựa vào Hình thái
học và các sự tương đồng khác, là các nhóm Nam Á, Nam Đảo, một số Tai-Kadai
và vài H'Mông-Miền tạo thành một họ di truyền. Các nhóm giả thuyết khác bao
gồm ngữ hệ Hán-Nam Đảo và ngữ hệ Úc-Tai. Các nhà ngôn ngữ học trải qua các
so sánh tầm xa đã đưa ra giả thuyết về những siêu ngữ hệ như Dené-Caucasian,
bao gồm Hán-Tạng và tiếng Ket.

110
ii. Khái quát về ngữ hệ Altai
Ngữ hệ Altai (Altaic /ælˈteɪ.ɪk/, được đặt theo tên của dãy núi Altai ở trung
tâm châu Á; có khi còn được gọi là Transeurasian, tức là hệ Liên Á-Âu) là
một Sprachbund (tức một vùng địa lý trong đó các ngôn ngữ ảnh hưởng lẫn nhau
nhưng không có quan hệ họ hàng), từng được khẳng định là một ngữ hệ bao gồm
các ngữ hệ con Turk, Mông Cổ và Tungus, đôi khi gộp cả hệ Nhật Bản lẫn Triều
Tiên. Hệ này phân bố rải rác khắp Châu Á về phía bắc 35°N và một số vùng phía
đông của Châu Âu, kéo dài theo kinh độ từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Nhật Bản. Giả thuyết
này đã và đang bị hầu hết các nhà ngôn học so sánh (comparative linguists) bác bỏ,
nhưng vẫn còn một số ít cố bám níu lấy.
Hệ Altai lần đầu tiên được đề xuất vào thế kỷ 18. Nó được chấp nhận rộng rãi
cho đến những năm 1960 và vẫn được liệt kê như một ngữ hệ chính thức trong
nhiều bách khoa toàn thư lẫn sách chuyên ngành. Kể từ những năm 1950, nhiều
nhà ngôn học so sánh bác bỏ ý tưởng này sau khi nhận thấy nhiều từ cùng
gốc (cognate) không ăn khớp, các thay đổi ngữ âm lệch lạc so với dự đoán và hai
ngữ hệ Turk-Mông Cổ dường như hội tụ thay vì phân kì qua nhiều thế kỷ. Phe
phản đối học thuyết Altai cho rằng những điểm tương đồng giữa các ngôn ngữ này
là do ảnh hưởng lẫn nhau chứ không có quan hệ họ hàng. Phe ủng hộ giả thuyết
Altai hiện nay cũng đã phải thừa nhận rằng nhiều đặc điểm tương đồng trong các
ngôn ngữ Altai là kết quả của sự tiếp xúc và hội tụ ngôn ngữ, chính vì lẽ đó nên
không thể coi Altai là một ngữ hệ trên lý thuyết; nhưng họ vẫn cho rằng cốt lõi các
tương đồng hiện tại đó bắt nguồn từ một tổ tiên chung.
Giả thuyết Altai ban đầu chỉ thống nhất ngữ hệ Turk, ngữ hệ Mông Cổ và ngữ
hệ Tungus, đôi khi được gọi là "Tiểu-Altai". Các đề xuất quá trớn sau này gộp
cả hệ Triều Tiên và hệ Nhật Bản vào họ "Đại-Altai" (Macro-Altaic) gây rất nhiều
tranh cãi. Hầu hết người ủng hộ hệ Altai tiếp tục gộp hệ Triều Tiên vào. Tiếng
Proto-Altai là thứ tiếng tổ tiên chung của họ "Macro", đã được nhà ngôn học Sergei
Starostin và các cộng sự đổ công sức vào phục nguyên. Một số đề xuất cũng bao
gồm cả tiếng Ainu nhưng giả thuyết này không được chấp nhận rộng rãi, ngay cả
trong chính những người theo thuyết Altai.