
49
mây thường duy trì ở phía bắc Hải Vân. Buổi chiều mây tích và vũ tích phát triển mạnh do
quá trình đốt nóng mạnh và không đồng đều trên mặt đất.
Hình 2.10.
Sơ đồ mặt cắt theo vĩ tuyến 16oN qua Trường Sơn và Biển Đông trong gió mùa đông bắc dầy
(Nguyễn Hữu Hậu,1971)
Vào đầu mùa đông khối không khí lạnh phía bắc front lạnh đẩy khối khí nhiệt đới
còn đang nóng và ẩm nằm ở phía nam front lạnh lên cao tạo điều kiện khởi đầu phát
triển đường tố dưới dạng dải mây tích trước front lạnh cho mưa rào và dông. Cuối mùa
đông, không khí cực đới biến tính đi qua biển đông Trung Quốc, biến tính thêm, tăng
nhiệt độ và độ ẩm khi tới Miền Bắc Việt Nam thường cho mưa nhỏ, mưa phùn. Vào
thời gian này đường tố và dông có thể xuất hiện trước front lạnh tương tự như đầu mùa
đông.
Khi gió mùa ngừng thì ở Miền Bắc có thể xuất hiện tín phong đông nam nóng ẩm.
Trong khi đó, khi có xâm nhập lạnh ở Miền Nam Việt Nam có thể có gió đông bắc từ áp
cao Siberi, nhưng đồng thời cũng có thể có tín phong đông bắc. Cần lưu ý là hai dòng khí
này xuất phát từ hai nguồn khác nhau. Gió mùa đông bắc từ cao áp Siberi là áp cao cực.
Tín phong xuất phát từ rìa phía nam của cao áp cận nhiệt Tây Thái Bình Dương nóng tầm
cao, về bản chất khác với khối khí cực đới biến tính lạnh và khô từ Siberi là cao áp lạnh chỉ
bao quát một lớp khoảng 1-2km sát mặt đất. Tín phong khi gặp gió đông bắc từ áp cao
Siberi thì bao giờ cũng nằm phía trên gió mùa đông bắc (NieWolt, 1972).
2.3.2 Thời tiết cuối mùa đông
Vào các tháng cuối mùa đông (tháng 3, tháng 4) các đợt xâm nhập lạnh từ Bắc
Cực về phía miền nhiệt đới đã giảm yếu, áp thấp hành tinh Bắc Bán Cầu đã thu hẹp
về phía cực. Xâm nhập lạnh giảm yếu làm cho đới tà áp đi kèm đới gió tây rìa xoáy
thuận hành tinh cũng giảm yếu, hoạt động sóng trong đới gió tây giảm tần suất rõ rệt,
các sóng dài giảm biên độ, thành phần vĩ hướng trong đới gió tây tăng. Hệ quả là rãnh
Đông Á trong thời gian này cũng nông dần. Dòng dẫn đưa áp cao Siberi lệch về phía
đông, sống áp cao Siberi cũng có xu thế phát triển về phía đông nam. Khi đó quỹ đạo
của không khí lạnh sẽ đi qua biển đông Trung Quốc qua vịnh Bắc Bộ vào Việt Nam.
Vào cuối đợt lạnh phía đông Bắc Bộ sống áp cao suy yếu, dòng khí lạnh xâm nhập
qua biển với độ ẩm lớn trong điều kiện vẫn tồn tại nghịch nhiệt ở phía đông Bắc Bộ
khi đó có thể xuất hiện mưa nhỏ, mưa phùn.
Ta hãy xem xét hình thế của một đợt mưa nhỏ, mưa phùn từ 15 đến 18/3/2005 ở phía
đông Bắc Bộ. Ngay từ ngày 14 đã có thể thấy một số dấu hiệu suy yếu của sống áp cao

50
Siberi ở phía đông Bắc Bộ. Khí áp ở đây tiếp tục giảm, các đường đẳng áp dãn ra, phần
sống phát triển trên Biển Đông Trung Quốc thể hiện rõ. Trên Bắc Bộ các đường đẳng áp có
dạng vĩ hướng rõ rệt (Hình 2.11) ở Bạch Long Vĩ gió lệch đông hơn nên gió đông đông
bắc có tốc độ yếu 2m/s.
Hình 2.11.
Hình thế synôp ở mặt đất với áp cao phát triển lệch đông đang suy yếu trong hình thế gây mưa nhỏ
mưa phùn
Ngày 14-3-2005 Miền Bắc nằm sâu trong sống áp cao phát triển lệch đông với phần áp
cao đang có dấu hiệu suy yếu: biến áp giảm, các đường đẳng áp ở phía đông dãn ra,
gradien khí áp ngang giảm (Hình 2.11).
Gió tây nam ở nhánh phía đông rãnh trên cao phát triển từ mực 700mb đến 500mb,
nghịch nhiệt dưới 1500m. Chính đới gió tây nam này ngăn chặn sự phát triển theo chiều
của mây Sc. Do độ ẩm khá lớn (11,4g/kg) do gió đông nam nên dưới lớp nghịch nhiệt xuất
hiện các loại mây mỏng Cufra, St cho mưa nhỏ, mưa phùn. Cần lưu ý là dòng tây nam ở
phía trước rãnh đưa không khí nóng tới cao không miền đông bắc, ngược lại với trường
hợp gió tây bắc ở cánh rãnh phía sau đưa không khí lạnh tới làm tăng độ bất ổn định và
tăng cường sự phát triển của mây như trường hợp ngày 13/3/2005 trước đợt mưa nhỏ, mưa
phùn này.

51
Hình 2.12.
Các hình thế synôp mặt đất gây sương mù trên vịnh Bắc Bộ và vùng phụ cận khi không khí cực đới biến
tính tăng độ ẩm và nhiệt độ trong thời kỳ gió mùa đông bắc suy yếu.
C: cao áp; T: thấp áp
Một hình thế thời tiết khác cũng đặc trưng cho các tháng mùa đông đó là hình thế
gây sương mù. Vào giữa mùa đông khi những đợt xâm nhập lạnh mạnh vào Bắc Bộ,
không khí lạnh sau front lạnh đưa lại thời tiết trời quang mây tạo điều kiện cho mặt đất
phát xạ rất mạnh. Phía dưới nghịch nhiệt front hình thành sương mù bức xạ ở miền núi
và vùng ven, kéo dài cho tới phía bắc dãy Bạch Mã. Vào cuối mùa đông sương mù bình
lưu hình thành trong khu vực sống áp cao đang suy yếu, có thể tạo hình thế yên khí áp
trên vịnh Bắc Bộ (Hình 2.12a, b). Đặc biệt là khi các đường đẳng áp của bộ phận áp
cao lệch đông (có nguồn gốc từ áp cao Siberi) tạo nên các đường đẳng áp kinh hướng
trên vịnh Bắc Bộ (Hình 2.12c), dòng khí nóng ẩm có nhiệt độ 24 - 25oC từ phía đông
nam thổi vào miền ven biển Bắc Bộ xáo trộn với không khí lạnh ở đây có nhiệt độ thấp
(chỉ 14 - 15oC). Sự xáo trộn giữa hai khối không khí này tạo điều kiện hình thành
sương mù bình lưu. Sương mù cũng có thể hình thành trên vịnh Bắc Bộ khi mây Sc bị
nghịch nhiệt nén xuống dưới thấp tạo sương mù trên biển. Một điều đặc biệt trong loại
sương mù này là nó vẫn tồn tại trong tốc độ gió khá lớn (gió ở Bạch Long Vĩ có thể tới
10m/s) gió càng mạnh sương mù càng lan toả và mở rộng phạm vi bao phủ.
2.4 HÌNH THẾ SYNÔP TRONG MÙA GIÓ MÙA MÙA HÈ
2.4.1 Hình thế đầu mùa hè
Hình thế bắt đầu gió mùa mùa hè ở Nam Bộ và Tây Nguyên là hệ quả của sự thay đổi
cấu trúc hoàn lưu quy mô lớn ở Đông Nam Á.

52
Hình 2.13.
Trường dòng mặt đất tháng 4 với áp cao trên vịnh Bengal, sống áp cao cận nhiệt khống chế
trên Đông Dương và dải áp thấp xích đạo nằm ở rìa phía namsống cao áp này và áp thấp trên
Ấn Độ phát triển yếu (Harris, 1970).
Tháng 3, tháng 4 trong khi Miền Bắc đang nằm trong thời tiết sương mù mưa phùn
ẩm ướt khi có những đợt xâm nhập lạnh cuối mùa đông thì ở Nam Bộ và Tây Nguyên
lại chịu những ngày nắng nóng, khô hạn. Tháng 3 và gần hết tháng 4 ở Tây Nguyên là
thời gian nhiệt độ không khí đạt cực đại trong năm. Nguyên nhân của tình trạng này là
dòng giáng quy mô synôp gây nên bởi hệ thống áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương
lấn sâu về phía tây tới lục địa Đông Nam Á và áp cao trên vịnh Bengal (Hình 2.13).
Phía nam áp cao Tây Thái Bình Dương là dải áp thấp xích đạo kéo dài sát phía bắc
xích đạo và lan tới mực 700mb. Tháng 4 trên Ấn Độ bắt đầu hình thành và phát triển một
áp thấp nóng chỉ giới hạn trong khu vực Ấn Độ. Tình trạng Nam Bộ và Tây Nguyên không
có dòng cung cấp ẩm từ biển vào và chịu sự khống chế của dòng giáng quy mô lớn của
sống áp cao, ngăn chặn sự hình thành mây và mưa sẽ được giải toả nếu có sự thay đổi một
cách cơ bản trong cấu trúc hoàn lưu ở Nam Á. Và điều đó xảy ra vào khoảng cuối tháng 4,
đầu tháng 5, quá trình đó thể hiện ở sự phát triển và mở rộng của áp thấp Nam Á từ Ấn Độ
sang phía đông tạo nên rãnh gió mùa bao trùm Đông Nam Á đẩy áp cao cận nhiệt Tây Thái
Bình Dương ra phía Biển Đông Việt Nam (Hình 2.14).

53
Hình 2.14.
Trường dòng mặt đất tháng 5 (Harris, 1970)
Dải áp thấp xích đạo thu hẹp trong khu vực nhỏ trên vùng biển phía nam Nam Bộ. Dải
đệm đã tiến lên phía bắc xích đạo trở thành sống áp cao đưa tín phong Nam Bán Cầu từ áp
cao châu Úc chuyển hướng và nhập với đới gió tây nam ở phần nam áp thấp Nam Á trở
thành đới gió mùa tây nam ở mặt đất và đới gió tây biểu hiện rõ từ mực 850mb lên tới mực
700mb.
Trên Tây Nguyên và Nam Bộ thịnh hành đới gió tây nam, mùa gió mùa mùa hè bắt
đầu. Tuy nhiên, ở Miền Nam Trung Quốc vẫn tồn tại chuỗi áp thấp và vẫn tồn tại bộ phận
không khí lạnh dưới dạng áp cao. Từ mực 700 và 500mb, rãnh gió tây ôn đới vẫn lan tới vĩ
độ 20oN gây ảnh hưởng đến thời tiết Bắc Bộ.

