TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
------------
TRẦN THU HÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO
TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,
TỈNH QUẢNG NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: TRIẾT HỌC
HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY
KHÓA: QH-X-2014
Hà Nội, 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
------------
TRẦN THU HÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO
TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,
TỈNH QUẢNG NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: TRIẾT HỌC
HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY
KHÓA: QH-X-2014
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. PHẠM HOÀNG GIANG
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các thông tin
và số liệu được sử dụng là trung thực và ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả khóa luận
Trần Thu Hà
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành bài báo cáo khóa luận tốt nghiệp về đề tài “Ảnh
hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông triều, tỉnh
Quảng Ninh” là một quá trình đòi hỏi sự dày công tìm tòi, khám phá, nghiên
cứu tài liệu và thăm hỏi khảo sát tại chùa. Ngoài sự nỗ lực của bản thân, em xin
được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy TS. PHẠM HOÀNG GIANG –
giảng viên khoa Triết học trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – người
đã hướng dẫn, tạo điều kiện cung cấp cho em những tư liệu và ý kiến đóng góp
quý báu.
Tuy nhiên do những hạn chế về cả mặt thời gian và kiến thức, bài báo cáo
của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong quý thầy cô cùng
bạn đọc đóng góp ý kiến để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2019
Sinh viên thực hiện
Trần Thu Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ NGHI LỄ
TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH .................. 6
1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và tình hình Phật giáo tại
xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .................................................................... 6
1.1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ........................................... 6
1.1.2 Tình hình Phật giáo tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .......... 12
1.2 Mối liên hệ giữa quan niệm về cái chết của Phật giáo và phong tục
tang ma của người Việt .................................................................................. 15
1.3 Nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh 18
1.3.1 Nguồn gốc và bản chất của phong tục tang ma ............................... 18
1.3.2 Một số đặc điểm nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều,
tỉnh Quảng Ninh. ........................................................................................... 23
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 27
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT
GIÁO TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,
TỈNH QUẢNG NINH ....................................................................................... 30
2.1 Nội dung ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị
xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .................................................................. 30
2.1.1 Ảnh hưởng đến hình thức tổ chức tang lễ ........................................ 30
2.1.2 Ảnh hưởng của Tăng Ni và cư sĩ Phật tử trong đám tang ............... 34
2.1.3 Ảnh hưởng đến việc lập bàn thờ Phật trong tang lễ ........................ 39
2.1.4 Ảnh hưởng của Kinh Phật dùng trong phong tục tang ma .............. 42
2.1.5 Ảnh hưởng đến việc làm lễ cầu siêu cho người quá cố ................... 45
2.2.6 Ảnh hưởng đến nghi lễ cúng dường, bố thí, từ thiện sau tang ma ... 50
2.2 Đánh giá sự ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại
thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh từ góc độ triết học ............................ 54
2.2.1 Thế giới quan .................................................................................... 54
2.2.2 Nhân sinh quan ................................................................................. 57
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 60
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 64
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 67
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Qua hàng nghìn năm, tư tưởng Phật giáo đã du nhập, truyền bá và ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân nước ta. Đông Triều
là một vùng đất cổ, xưa gọi là An Sinh, là trung tâm Phật giáo đời Lý Trần, là
cái nôi của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền mang bản sắc Phật giáo
riêng của Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Những nền tảng
Phật giáo đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn hóa tinh thần, phong tục
tập quán của người dân nơi đây, trong đó phải kể đến những ảnh hưởng của Phật
giáo trong phong tục tang ma.
Con người sinh ra, lớn lên, học hành, đỗ đạt, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ
cái rồi cũng có ngày trút hơi thở cuối cùng, xa rời cuộc đời. Có người chôn sau
mấy thước đất, có người trở thành một nắm tro tàn, cát bụi lại trở về với cát bụi.
Họ sống một cuộc sống bình thường như mọi người cho đến khi nhắm mắt xuôi
tay, để lại niềm thương tiếc cho những người còn sống. Theo thời gian, tang ma
là một trong số rất nhiều các phong tục tập quán chịu ảnh hưởng của tôn giáo,
trong đó chiếm phần lớn là Phật giáo. Khi du nhập vào nước ta, Phật giáo đã gạt
bỏ phần triết lý xa xôi, khó hiểu, trở về với cuộc sống trần thế hằng ngày. Những
quan điểm về đạo hiếu, lòng từ bi, bác ái, về linh hồn, thuyết luân hồi, nghiệp
báo… đã trở nên rất phù hợp với lối sống nông thôn, tình làng nghĩa xóm của
người Việt thông qua những nghi thức tiễn đưa một con người về nơi an nghỉ
cuối cùng.
Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần
của người dân thị xã Đông Triều ngày càng được nâng cao. Tang ma cùng
những nghi thức của nó càng được coi trọng, đó là nơi thể hiện tấm lòng, sự tận
tụy của người sống đối với người đã khuất. Nhìn dưới góc độ văn hoá, phong
tục tang ma là một hiện tượng văn hoá xã hội phản ánh đặc trưng văn hoá tộc
1
người. Xét về mặt khoa học, nghiên cứu tang ma là hướng tiếp cận để tìm hiểu
những giá trị văn hoá truyền thống tộc người, góp phần vào quá trình giữ gìn và
phát huy văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, ở thị xã Đông
Triều, tỉnh Quảng Ninh chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính
chuyên khảo riêng về sự kết nối giữa Phật giáo và phong tục tang ma của người
dân địa phương nơi đây. Nghiên cứu tang ma của người dân Đông Triều là một
hướng tiếp cận nghiên cứu nhằm làm rõ những nét độc đáo, những giá trị văn
hóa – xã hội truyền thống của người Việt và những biến đổi trong tang ma dưới
tác động của tôn giáo và quá trình giao lưu văn hóa.
Trong bối cảnh hầu hết các chùa ở Việt Nam đều theo Tịnh Độ Tông và các
tín đồ có niềm tin Phật giáo đều mong muốn có nghi lễ cầu nguyện của Phật
giáo trong lễ tang của người thân, người viết xin được đề cập về “Ảnh hưởng
Phật giáo trong phong tục tang ma của người dân thị xã Đông Triều, tỉnh
Quảng Ninh” làm đối tượng để khảo cứu, qua đó nhận định được mức độ ảnh
hưởng của Phật giáo trong đời sống tâm linh của người dân địa phương. Nghiên
cứu tang ma của người dân thị xã Đông Triều vừa góp phần bảo lưu văn hóa tộc
người truyền thống vừa góp phần giúp cho các cán bộ quản lý văn hóa, các cơ
quan chức năng tiếp tục bảo tồn những giá trị tốt đẹp của phong tục tang ma
cũng như có những biện pháp thích hợp trong việc quản lý tôn giáo, tín ngưỡng,
hoạch định các chính sách đối với cộng đồng dân cư.
2. Tình hình nghiên cứu
Phật giáo là một tôn giáo lớn nhất nước ta do vậy đã luôn được quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu các công trình tiêu biểu như: “Phật giáo nguyên thuỷ
đến thế kỉ XIII” của Trần Văn Giáp; “Việt Nam Phật giáo sử học” của Thích
Mật Thể; “Phật giáo Việt Nam” của nhiều tác giả do giáo sư Nguyễn Tài Thư
chủ biên, hay “Lược sử Phật giáo Việt Nam” của Thượng toạ Thích Minh
Tuệ… các công trình này đã tổng kết khái quát tiến trình lịch sử Phật giáo tại
Việt Nam. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả về Phật
2
Giáo ở Việt Nam như: “Tư tưởng Phật Giáo” của Nguyễn Duy Hinh đã đi sâu
nghiên cứu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Đặc điểm Phật giáo Việt
Nam được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa có tiếp
thu tôn giáo ngoại nhập. Còn nhiều tác giả như Thiền sư Đinh Lực và Cư sĩ Nhất
Tâm trong công trình “Phật giáo Việt Nam và Thế giới” đã mô tả Phật giáo và
những vấn đề cơ bản của Phật, Pháp, Thiền. Tôn giáo hiện hành và sự ảnh
hưởng của nó tới văn hoá, kinh tế, chính trị của các quốc gia, các dân tộc.
Tuy có các cách tiếp cận và sự cảm nhận khác nhau nhưng các tác phẩm
trên đã khám phá rất cặn kẽ và rành mạch về Phật giáo thế giới cũng như Phật
giáo Việt Nam – một thực thể tinh thần đã tồn tại hàng nghìn năm và không phải
với tư cách một tôn giáo ngoại nhập, mà đã được bản địa hóa từ rất lâu và vẫn
thường xuyên được bản địa hóa để trở thành một phần tâm linh của dân tộc Việt
Nam.
Nghiên cứu về phong tục tang ma có các công tình tiêu biểu như: Ngô
Bạch (2011) “Tục ma chay cưới hỏi”; Nguyệt Hạ (2005) “Phong tục hôn lễ
tang lễ tế lễ Việt Nam”; Hoàng Tuấn Phổ (2010)“Nguồn gốc – ý nghĩa tang lễ
người Việt”; Nhất Thanh (2016)“Đất lề quê thói”; Đào Duy Anh (2010)“Việt
Nam văn hóa sử cương”; Toan Ánh (2005) “Tín ngưỡng Việt Nam”; Hoàng
Quốc hải (2005) “Văn hóa phong tục”; Phan Kế Bính (2011) “Việt Nam phong
tục”...
Những tác phẩm này đã nghiên cứu các vấn đề phong tục, tập quán nói
chung và phong tục tang ma nói riêng. Các cuốn sách đã chỉ ra nguồn gốc, sự
hình thành các nghi lễ và ý nghĩa của chúng còn lại cho đến ngày nay, khẳng
định sự phong phú đa dạng của nền văn hóa nước ta. Ở đây, các cuốn sách đã
nhắc tới sự có mặt của Phật giáo trong tang lễ, song chỉ xuất hiện với tư cách
yếu tố tôn giáo đan xen vào phong tục tập quán và nền văn hóa bản địa, mà chưa
phải là một công trình nghiên cứu chuyên sâu.
3
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tôn giáo và phong tục tập quán, tín
ngưỡng dân gian Việt Nam có các công trình tiêu biểu như: Trần Quốc Vượng
(2003) với “Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm”; Nguyễn Đăng Duy (1999)
với cuốn sách “Phật giáo với văn hóa Việt Nam”; Nguyễn Bá Hoàn (2007) với
cuốn sách “Phật giáo và cuộc sống: Chân dung và đối thoại”…
Liên quan đến đề tài khóa luận, cho đến nay chưa có một công trình nghiên
cứu nào chuyên sâu và cụ thể về sự ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tang
ma của người Việt dưới góc độ tôn giáo, triết học. Là một người dân Đông
Triều, tôi muốn đi sâu nghiên cứu để làm rõ sự ảnh hưởng của Phật giáo tới
phong tục tang ma tại địa phương mình qua một số biểu hiện cụ thể: Hình thức
tổ chức, thực hành tang lễ; Sự xuất hiện của yếu tố Phật giáo như Tăng Ni Phật
tử, bàn thờ Phật, kinh Phật, lễ cầu siêu, nghi lễ cúng dường … Qua đó, nêu lên ý
nghĩa triết học về thế giới quan cũng như nhân sinh quan của Phật giáo với
phong tục tang ma.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Khóa luận phân tích làm rõ những ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục
tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ:
Một là, khái quát về Phật giáo ở Việt Nam và nghi lễ tang ma tại thị xã
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Hai là, nghiên cứu những nội dung ảnh hưởng của Phật giáo trong phong
tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Ba là, đưa ra đánh giá ảnh hưởng của Phật giáo đối với phong tục tang ma
tại địa phương.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Những ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu sự ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tang ma
tại thị xã Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam ngày nay (cụ thể là nghiên cứu chủ yếu tại địa bàn thị xã Đông
Triều và một số chùa trên địa bàn như chùa Kỉnh, chùa Linh Ứng, chùa Tế, chùa
Chạo Hà, chùa Đồn Sơn, chùa Thiên Trúc…)
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp: phân tích – tổng hợp, phương pháp so
sánh – đối chiếu, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống – cấu trúc,
phương pháp liệt kê, phương pháp điều tra khảo sát bằng bảng hỏi, phương pháp
phỏng vấn…
Ngoài ra, khoá luận có tham khảo một số công trình nghiên cứu của các
học giả liên quan đến các vấn đề có trong đề tài này.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khoá
luận gồm có 2 chương và 5 tiết.
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ NGHI LỄ
TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH
1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và tình hình Phật giáo
tại xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh
1.1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Phật giáo là một trào lưu triết học – tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế
kỷ thứ 6 TCN ở bắc Ấn Độ. Người sáng lập ra hệ thống triết học – tôn giáo này
là Tất Đạt Đa (Siddhatha) (khoảng 563 – 483 TCN), thái tử của vua Tịnh Phạn
(Suddhodana) thuộc bộ tộc Sakiya. Vị thái tử này đã từng theo học các tu sĩ Bà
La Môn từ năm lên bảy, kết hôn năm 16 tuổi, mười ba năm sau đó sống trong
cuộc đời vương giả, nhưng trong một đêm tháng Hai năm vừa tròn 29 tuổi, đã
lặng lẽ rời hoàng cung đi tìm chân lý. Trải qua sáu năm với những phương pháp
tu luyện ép xác nhưng không đạt được chánh đạo, nhưng chỉ sau 48 ngày nhập
định, Tất Đạt Đa ngộ rõ căn nguyên sinh thành, biến hóa của vũ trụ, căn nguyên
của những khổ đau, và đề ra phương pháp diệt trừ nỗi khổ đó cho chúng sinh,
bằng học thuyết “Nhân duyên sinh” và triết lý “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân
duyên”, “Bát chánh đạo”. Con người này đã đưa ông trở thành đức Phật Thích
Ca đầy uy nghiêm tinh thần trong đời sống của người phương Đông hết thế hệ
này đến thế hệ khác.
Giáo lý nhà Phật tuy có nhiều tông phái khác nhau, nhưng tựu trung những
điểm được đề cập sau đây vẫn là những nền tảng cơ bản.
Thế giới, vũ trụ, theo quan niệm Phật giáo, là luôn vận động, biến đổi, các
biến đổi diễn ra nhanh như chớp mắt, và thế giới thì không có trước, không có
sau, vô thủy, vô chung. Đó cũng chính là lẽ vô thường, tức không có gì là tồn tại
cố định, mà có đó, mất đó. Con người cũng thuộc dòng chảy không ngừng đó,
nên không gì là bản thân ta cả, tức vô ngã. Những biến đổi này, nói theo ngôn
6
ngữ hiện đại, là do tự thân vận động, không xuất phát từ bên ngoài, mà từ
lẽ nhân duyên, theo luật nhân quả, nghiệp báo. Tùy thuộc vào nghiệp báo mà
biến đổi của các sinh linh diễn ra trong cõi phàm và siêu phàm, hoán chuyển từ
cõi này sang cõi kia, đó là luân hồi.
Nhân sinh quan Phật giáo xuất phát từ quan niệm cho rằng đời là bể khổ,
và nguyên nhân của nó là sinh, lão, bệnh, tử, là những ham muốn nhục dục, xuất
phát từ sự che lấp trí tuệ bởi ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức), làm cho ta cố
chấp trong việc phân biệt cái ta và cái khác ta, dẫn đến thái độ “ngã chấp”, trọng
cái ta, khiến con người ta vô minh. Muốn thoát khỏi bể khổ thì phải diệt dục,
nhẫn nhục, từ bi, hỉ xả, hy sinh, đi theo con đường của bát chánh đạo: chánh
kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mệnh, chánh tinh tiến,
chánh niệm, chánh định. Những giáo lý mang nặng tính triết lý, đạo đức này đã
có một ảnh hưởng sâu rộng lên phong tục, tập quán, văn hóa, văn minh của
nhiều dân tộc, trong đó có Việt Nam ta.
Đạo Phật được truyền ra ngoài biên giới rất sớm theo hai hướng chính: Một
về phương Nam, hình thành nên phái Nam Tông (Phật giáo Tiểu Thừa), một về
phương Bắc hình thành nên phái Bắc Tông (Phật giáo Đại Thừa). Tiểu Thừa hay
Đại Thừa được coi như những cỗ xe đưa chúng sinh đến nơi thanh tịnh, đến giải
thoát, nhưng nếu Tiểu Thừa như “cỗ xe nhỏ”, ngụ ý chỉ chở một người thì Đại
Thừa như “cỗ xe lớn”, ngụ ý chở nhiều người. Tuy công năng của Phật giáo
Tiểu Thừa và Phật giáo Đại Thừa có sự khác nhau nhưng cả hai phái đều tôn
trọng những tư tưởng cơ bản về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích
Ca Mâu Ni.
Vào đầu công nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với
Trung Đông, và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ cần có một nguồn
cung cấp nguyên vật liệu, vật phẩm cho sự giao thương này. Họ giong buồm,
theo gió mùa tây nam mà đi về đông. Họ đến Giao Chỉ, rồi có thể từ Giao Chỉ
mà lại theo tiếp đường biển (đường gia vị) hay đường bộ (con đường Tơ lụa qua
7
thảo nguyên) vào trong nội địa Trung Hoa. Trong khi đợi gió mùa đông bắc để
quay về Ấn, sự lưu trú của số thương gia này đã lan truyền dần những nét văn
hóa Ấn Độ, trong đó có việc thờ cúng Phật, tụng kinh… Những tăng sĩ mà các
thương nhân đem theo trên thuyền buôn nhằm làm công việc cầu khấn sự phù
trợ của đức Phật, là những người đã trực tiếp truyền bá Phật học và lập nên trung
tâm Phật giáo Luy Lâu (Bắc Ninh). Du nhập vào nước ta, Phật giáo đã dung hòa
được với hệ tư tưởng, phong tục tập quán và tín ngưỡng của dân tộc, vì vậy nó
nhanh chóng tìm được chỗ đứng và có những ảnh hưởng nhất định với đời sống
văn hóa tinh thần nước ta.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ)
được phiên âm trực tiếp thành “Bụt” [16,27] từ đó chữ "Bụt" được dùng nhiều
trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Phật
giáo nam truyền được địa phương hóa, Bụt được dân gian hóa coi như một vị
thần cứu giúp người tốt. Sau này, vào thế kỷ thứ IV – V, do ảnh hưởng của Phật
giáo nhà Hán, Trung Quốc mà từ “Bụt” bị thay thế dần bởi từ “Phật”.
Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành “Phật đà”, “Phật đồ” rồi được
rút gọn thành “Phật”.
Vào thế kỷ II, sự thâm nhập của Phật giáo đã ở vào một giai đoạn mới, hình
thành tăng đoàn, công việc hành đạo từ đó mà cũng đi vào tổ chức, các tăng sĩ
bắt đầu dịch kinh, sáng tác, chùa chiền cũng đã được xây cất. Ở thế kỷ này, sự
hành đạo cũng gặp một ít trở ngại từ phía những người ủng hộ Khổng, Lão. Tuy
nhiên, điều đó không thể ngăn cản được ảnh hưởng của Phật giáo vì nó đã thâm
nhập vào dân gian.
Tinh thần hòa đồng giáo lý là nét nổi bật trong sự du nhập và định hình
Phật giáo Giao Châu trong thế kỷ thứ hai này. Phật giáo thâm nhập vào đây một
cách êm thấm, không có sự chống đối của tín ngưỡng dân gian. Tuy Phật giáo
cũng phải có một ít nỗ lực trước giới cai trị Hán tộc, nhưng không bằng sự phản
kháng, mà bằng sự hòa đồng. Điều này xuất phát từ tinh thần cởi mở của Phật
8
học, và Phật tử thì sẵn sàng học hỏi, đối thoại với những tư tưởng khác. Kết quả
của tinh thần này là không những đã sử dụng được từ ngữ Nho, Lão để truyền bá
Phật giáo, mà còn làm cho nghững người theo Khổng, Lão thấy được chiều sâu
của Phật học.
Sang thế kỷ V – VI, lại có thêm luồng Phật giáo đại thừa Bắc Tông từ
Trung Quốc tràn vào. Vào thế kỷ thứ VI, nước ta là một quốc gia có sự phát
triển hưng thịnh của Phật giáo. Từ Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo được
truyền vào Việt Nam: Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông. Tuy nhiên, khi
truyền vào nước ta thì không có sự tách biệt rạch ròi, mà là sự tổng hợp các tông
phái cùng với phong tục tập quán, tín ngưỡng bản địa, vì vậy không có tông phái
nào là thuần khiết.
Thiền Tông lấy thiền định làm pháp tu (tu thiền: yên lặng mà suy nghĩ) chủ
trương của Thiền Tông là không câu nệ vào sách vở mà chủ yếu dựa vào thiền
định để giác ngộ Phật tính cho mình. Thiền Tông quan niệm Phật tại tâm, Phật
có ở mọi nơi, giáo lý của Thiền Tông gần gũi với chúng sinh, làm cho con người
tin vào mình, tin vào công lao tu dưỡng để thành công trong công việc tiếp nhận
chân lý. Ngoài ra, Thiền Tông còn có một số yếu tố khác dễ thu hút nhiều người
theo như lấy việc phục vụ xã hội làm điều kiện tu hành, chấp nhận sự bần khổ và
xem lao động cũng là cách tu chân chính. Quan niệm như vậy đã làm cho Thiền
Tông dễ dàng đi sâu vào tầng lớp quần chúng lao động.
Tịnh Độ Tông do nhà sư Tuệ Viễn sáng lập ở Trung Quốc vào cuối thế kỷ
IV, Tông phái này chủ trương thờ Tam Bảo (A Di Đà, Quan Thế Âm, Đại Thế
Chí) và niệm Phật, dựa vào Phật lực để giải thoát là chủ yếu, chủ trương dựa vào
sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu chúng sinh thoát khỏi đau khổ, đó là việc hướng
họ đến một cõi niết bàn cụ thể, gọi là cõi Tịnh Độ. Đây là tông phái mang tính
phổ quát, dân giã nên thu hút đông đảo tín đồ, tông phái này có những nét gần
gũi với người dân lao động. Với trình độ tư duy có hạn, người dân không hiểu
được sự cao siêu của giáo lý Phật giáo, bằng tấm lòng thành kính, họ mong được
9
Phật chứng giám để phù hộ, che chở, giúp đỡ họ có được sức mạnh, niềm tin để
có thể chiến thắng được những trở ngại trong cuộc sống.
Mật Tông (Chân Ngôn Tông) do một nhà sư Ấn Độ khai lập khoảng thế kỷ
thứ II sau Công Nguyên. Mật Tông được hình thành trên nền tảng tư tưởng của
Phật giáo Đại Thừa, nhưng cách tổ chức, tu tập lại mang màu sắc của Ấn Độ
giáo, có tính chất huyền bí, nặng về ẩn chú phù phép, lễ thức thờ phụng tương
đối phức tạp. Mật Tông đề cao vai trò của người xuất gia tu hành. Phật giáo Mật
Tông đáp ứng được nhu cầu tâm linh luôn đặt niềm tin vào sự che chở của thánh
thần, cầu mong có những bùa phép để chế ngự ma quỷ, đem lại yên bình cho
cuộc sống của người dân nước ta lúc đó. Đây là phái chủ trương sử dụng những
phép tu huyền bí để thu hút tín đồ và mau chóng hòa vào dòng tín ngưỡng dân
gian với những truyền thống cầu đồng, dùng pháp thuật…
Tới thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh.
Những người thâm thúy về đạo Phật như Từ Đạo Hạnh, Khổng Lộ, Mẫn Giá, Lư
Ân đều là những bậc danh nho. Chùa chiền được xây tại khắp trong nước, dân
chúng tô tượng, đúc chuông, sùng bái đức Phật Thích Ca.
Sang thời Hậu – Lê, nhà nước lấy Nho giáo làm chủ đạo tinh thần nên Phật
giáo dần suy giảm. Nói vậy không phải đạo Phật không còn ảnh hưởng với dân
chúng nữa, đạo Phật vẫn được dân chúng theo và tin nhưng song song với đạo
Phật là đạo Nho và đạo Lão. Trong thời kỳ này, tại miền Bắc, thuộc ảnh hưởng
của Chúa Trịnh, đạo Phật đi vào con đường suy giảm, thì ở miền Trung, thuộc
ảnh hưởng của chúa Nguyễn, Phật giáo lại bắt đầu thịnh đạt. Chính chúa
Nguyễn Hoàng đã cho xây dựng chùa Thiên Mụ vào năm 1601 tại Thuận Hóa.
Khi Pháp sang đô hộ Việt Nam, Phật giáo đi vào chỗ suy kém. Người Pháp
đã tận tình nâng đỡ Công giáo nên chèn ép đạo Phật. Đi vào chỗ suy kém, nhưng
Phật giáo không bao giờ bị diệt vong tại Việt Nam vì tín đồ đạo Phật, mặc mọi
hoàn cảnh hình thức bên ngoài, luôn luôn tin ở đạo, vì đạo càng bị chèn ép thì
lòng tin tưởng của tín đồ lại càng mạnh mẽ hơn. Vào những thập niên đầu thế kỷ
10
XX, do ảnh hưởng phong trào chấn hưng Phật giáo trên thế giới, Phật giáo Việt
Nam cũng chuyển mình phục hưng, khởi đầu từ các đô thị miền Nam rồi miền
Trung với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện
Chiếu. Cho đến năm 1964, các hội đoàn Phật giáo miền Nam Việt Nam đã thống
nhất dưới một mái nhà chung là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và
sau 17 năm hoạt động giáo hội này đã ngưng mọi sinh hoạt vào năm 1981. Sau
khi hai miền Nam Bắc thống nhất vào năm 1975, năm 1981 chín tổ chức Phật
giáo trong cả nước đã tổ chức đại hội, thống nhất làm một và lấy danh hiệu là
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Cho tới ngày nay, nhân dân một phần lớn theo đạo Phật, và bất cứ ở đâu
trong thời bình, ta cũng được nghe thấy tiếng chuông chùa văng vẳng thu không
lúc tinh sương cũng như buổi chiều tà. Mỗi làng, mỗi xóm đều có ít nhất một
ngôi chùa. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2009, có
6.802.318 tín đồ Phật giáo [37], còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình
Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm
Phật đường… [38]
Phật giáo Ấn Độ và nhiều nước khác không chủ trương nhập thế mà là một
tôn giáo xuất thế. Trong lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng có thời
kỳ như vậy, nhưng nhìn chung, Phật giáo nước ta là Phật giáo nhập thế. Phật
giáo xuất thế nhấn mạnh “đời là bể khổ” và con đường thoát khỏi bể khổ là tu
tập kiên trì để đạt tới cõi Niết bàn không còn đau khổ và bất công. Phật giáo
Việt Nam nhấn mạnh nguyên nhân của nỗi khổ là do chính con người và xã hội
nên Phật giáo Việt Nam thường coi việc đạo chính là cuộc đời. Con đường thoát
khổ là con đường đấu tranh diệt ác, tu nhân tích đức thành người lương thiện và
khuyến khích con người làm việc thiện dưới nhiều hình thức phù hợp với hoàn
cảnh của mỗi người.
11
Dù Phật giáo bị thăng trầm, truân chuyên theo vận nước, nhưng Phật
giáo đã hoà vào lòng dân tộc, tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt
Nam. Phật giáo đã đồng hành cùng dân tộc, đã đồng cam cộng khổ với dân
tộc, cùng dân tộc đi qua bao khúc quanh của lịch sử, chịu đựng bao nỗi thăng
trầm của thời cuộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Điểm này chúng
ta dễ dàng nhận thấy qua những thời đại cực thịnh của đất nước đều là những
lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh như thời nhà Đinh, Lê, Lý, Trần v.v...
Tuy quyện mình vào lòng dân tộc nhưng giáo lý chứa đựng trong ba tạng
kinh điển của Phật giáo vẫn giữ được vẻ tinh khiết vốn có của nó và dòng
thiền Trúc Lâm đã được khôi phục vào cuối thế kỷ thứ XX, tiếp nối mạng mạch
của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
1.1.2 Tình hình Phật giáo tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh
Đông Triều – Triều đình phía Đông, tên gọi địa danh này được đặt từ đời
vua Trần Dụ Tông (1341 – 1369), xưa kia gọi là An Sinh – là quê gốc của nhà
Trần – một trong những triều đại hùng mạnh nhất lịch sử Việt Nam. Nếu Kinh
đô Thăng Long và Thiên Trường Nam Định là hai trung tâm chính trị, thì Đông
Triều là một trung tâm văn hóa đặc sắc của nhà Trần với những chùa tháp nổi
tiếng, là nơi nhiều vị quốc sư tu hành đắc đạo. Đông Triều có các dấu tích chùa,
tháp độc đáo qua suốt các thời kỳ Lý – Trần – Lê, đóng góp to lớn vào việc khai
sinh, hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – tông phái Phật
giáo Việt Nam duy nhất, phát triển thành công nhất trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam.
Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (1258 – 1368) khai sáng với
ba Thiền sư kiệt xuất là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Vua Trần
Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, một Thiền sư
cư sĩ nổi tiếng đời Trần. Sau khi xuất gia, vào năm 1299, với đạo hiệu là Trúc
Lâm Đầu Đà, Ngài lên tu ở núi Yên Tử (nay thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh
Quảng Ninh) và tại đây, lập ra Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền Việt Nam
12
đầu tiên, mang tính chất độc lập Việt Nam với sự kết hợp hài hòa của Phật giáo
Ấn – Hoa. Lập ra Thiền phái Trúc Lâm này, Trần Nhân Tông đã thống nhất
được ba Thiền phái tồn tại trước đó là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và
Thảo Đường, đồng thời thu toàn bộ Giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối.
[30,16].
Nối tiếp Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa (Đồng Kiên Cương, 1284 –
1330). Qua hơn hai mươi năm lãnh đạo, Pháp Loa đã cho sang khắc bộ Đại
Tạng kinh với hơn 5.000 quyển, xây dựng hàng trăm ngôi chùa như Báo Ân,
Quỳnh Lâm, Thanh Mai và trực tiếp giảng dạy giáo lý, có tới ba nghìn đệ tử đến
cầu pháp và đắc pháp. Ông để lại các tác phẩm khuyên người xuất gia chăm lo
việc tu đạo, khuyên mọi người hiểu sâu con đường tu thiền chân chính bằng việc
học giới luật, thiền định và trí tuệ, chỉ rõ cách học cần sáng tỏ.
Người cuối cùng trong số ba vị tổ Trúc Lâm là Huyền Quang (Lý Đạo Tái,
1254 – 1334), hơn Pháp Loa tròn ba mươi tuổi nhưng lại tu hành muộn hơn,
từng làm quan trong triều đình rồi mới từ chức đi tu.
Nhìn chung Thiền Phái Trúc Lâm là một dòng Thiền tổng hợp được ba yếu
tố đặc thù của xã hội. Trần Nhân Tông đại diện cho quý tộc, Pháp Loa đại diện
cho nông dân và Huyền Quang đại diện cho Nho sĩ. Sự Tổng hợp đó đã tạo nên
nét đặc thù của Thiền phái Trúc Lâm mà các Thiền phái trước đó không có
được, kể từ đó, đạo Phật đi vào xã hội với tinh thần nhập thế cụ thể, giáo hội tổ
chức chặt chẽ, củng cố tinh thần đạo pháp và dân tộc, xây dựng đất nước phồn
vinh. Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không những mang ý nghĩa rất
lớn về tính tự chủ của dân tộc ta từ kinh tế, chính trị, văn hóa mà đến cả tôn giáo
cũng không bị lệ thuộc vào các dòng thiền trước ảnh hưởng từ Trung Hoa. Từ
mô hình tổ chức đến nội dung tu tập hành trì thể hiện bản sắc dân tộc của nước
Đại Việt.
Nằm trên địa bàn thị xã Đông Triều, gắn với sự ra đời của Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử là khu di tích lịch sử nhà Trần với quần thể khu lăng mộ, nơi thờ
13
cúng và dấu tích những ngôi chùa, tháp, am… được xem là trung tâm Phật giáo
của nước Đại Việt thời bấy giờ. Trên đất Đông Triều hiện nay có ba di tích chùa
nổi tiếng liên quan trực tiếp đến sự phát triển của tông phái Trúc Lâm là chùa
Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên và đặc biệt là am và chùa Ngoạ Vân.
Chùa Quỳnh là ngôi chùa hoàng gia to lớn, do Quốc sư Nguyễn Minh
Không xây dựng dưới thời vua Lý Thần Tông (1116 – 1138). Đến thời Trần,
dưới sự trụ trì của Pháp Loa, chùa đã trở thành một trung tâm truyền bá bậc nhất
của Thiền phái Trúc Lâm, cho xây dựng thành Quỳnh Lâm viện, làm nơi giảng
kinh, đào tạo các đệ tử, in kinh Phật truyền bá đi các nơi. Nhiều vua Trần và các
vương hầu quý tộc, danh sĩ thường đến chùa và cúng ruộng đất hay tiền của cho
chùa. Sư Pháp Loa còn cho đúc nhiều tượng, trong đó có tượng Di Lặc nổi tiếng,
là một trong “An Nam tứ đại khí”. Đầu thế kỷ XV, khi giặc Minh vào xâm
chiếm nước ta, chúng tàn phá tự viện Quỳnh Lâm, tượng Di Lặc để đúc súng.
Đó là lý do vì sao tu viện Quỳnh Lâm to lớn dưới thời Trần nay chỉ còn là
những phế tích nằm sâu dưới lòng đất. Vào thế kỷ XVI – XVIII, cùng với sự
phục hồi của Phật giáo, chùa được đại trùng tu và tiếp tục giữ vai trò là trung
tâm Phật giáo của xứ Đông. Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, thiền sư Chân
Nguyên chọn chùa Quỳnh Lâm là nơi khởi xuất việc khôi phục lại dòng Thiền
Trúc Lâm. Tiếp nối sự nghiệp đó, đệ tử của Ngài Chân Nguyên là Thiền sư Như
Hiện đã tiếp tục xây dựng, tôn tạo trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm. Năm 1730,
dưới sự hỗ trợ của triều đình Lê – Trịnh mà trực tiếp là chúa Trịnh Giang, toàn
bộ chùa đã được xây dựng lại. Triều đình đã huy động đinh tráng của các huyện
Đông Triều, Chí Linh và Thủy Đường trong nhiều năm để tham gia xây dựng.
Trong thế kỷ XX, chùa bị nhiều tai họa, nhất là vụ cháy chùa năm 1910, vụ máy
bay quân Pháp ném bom năm 1947. Từ năm 1997, huyện Đông Triều đã thường
xuyên cho trùng tu lại chùa như hiện nay. [30,34-35]
Chùa Hồ Thiên (cõi Tiên an lạc) nằm trên núi Trù Phong được Pháp Loa
cho xây dựng vào năm 1327. Theo tương truyền Hồ Thiên là nơi các vị cao tăng
14
tu luyện sau khi hoàn thành xuất sắc khóa học tại Quỳnh Lâm viện như một sự
tiếp nối và biểu trưng cho kết quả khổ luyện, tu hành, cho cõi Niết bàn đối với
những người đi theo con đường của Trúc Lâm Tam tổ. Dưới thời Lê Trung
Hưng, cùng với các chùa Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm, chùa Hồ Thiên được triều
đình nhà Lê cho đại trùng tu và tôn tạo. [29,41-42]
Chùa, am Ngọa Vân là một quần thể kiến trúc chùa tháp lớn của Thiền phái
Trúc Lâm trên dãy Yên Tử, nơi Đức vua, Phật hoàng Trần Nhân Tông tu hành
và hóa Phật. Cũng bởi thế, nơi đây là thánh địa của Phật giáo Trúc Lâm. Tháng
8 năm 1299 Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia vào núi Yên Tử tu hành
khổ hạnh. Sau một thời gian, Ngài xuống núi, đi khắp xóm làng, dậy dân chúng
phá bỏ dâm từ và thực hành thập thiện, ban thuốc chữa bệnh cho dân nghèo.
Tháng 05 năm 1307, Ngài lên tu tại một am trên Ngọa Vân. Tháng 11, năm
1308 Ngài an nhiên nhập Niết Bàn. Trong hành trình tu luyện và nhập diệt của
Phật hoàng, Yên Tử là nơi Ngài tu luyện, giảng pháp, độ tăng và Ngọa Vân là
nơi kết thức trọn vẹn quá trình tu luyện và thành Phật của Ngài. Sau khi Phật
hoàng hóa Phật, nhờ sự giúp đỡ của vua Trần Anh Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa đã
xây dựng và mở rộng thánh địa Ngọa Vân thành một quần thể chùa tháp lớn.
Công tác chăm lo cho sự hưng thịnh của Phật giáo còn được thị xã Đông Triều
quan tâm trùng tu và tôn tạo chùa cho đến ngày nay. [29,21]
Có thể nói, An Sinh – Đông Triều là một trung tâm văn hóa tín ngưỡng,
tâm linh tôn giáo, giữ vai trò bồi đắp bệ đỡ tinh thần cho xã hội và nhân dân cả
nước trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xứng đáng là kinh đô Phật giáo nước
Đại Việt đời Lý – Trần. Ngày nay song song với Công giáo, đạo Phật là tổ chức
tôn giáo có tư cách pháp nhân và được hoạt động tại thị xã Đông Triều theo quy
định của pháp luật, phân bố ở 21 xã, phường, thị trấn.
1.2 Mối liên hệ giữa quan niệm về cái chết của Phật giáo và phong
tục tang ma của người Việt
15
Trong y học, chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống. Cái chết có thể được
chia làm hai loại: chết lâm sàng và chết thật (khi các mô không còn hoạt động
được nữa và bắt đầu phân hủy). Theo quan niệm của Phật giáo, sống chết là lẽ
thường nhiên. Trong Kinh có ghi “Tử hoàn toàn không đáng sợ, vì Tử là bắt
đầu của Sanh (Nên biết sanh sanh, tử tử là Luật Nhân Quả. Cần niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ).
Người Phật Tử coi cái chết là một trong 4 khâu của định luật “thành, trụ,
hoại, diệt”. Bất cứ sự vật nào thuộc thế giới hiện tượng, nghĩa là có hình có
tướng, đều phải trải qua bốn giai đoạn của hiện hữu: Thành (từ chưa có trở nên
có), Trụ (tồn tại một thời gian), Hoại (bị hư hoại, yếu dần, suy thoái), và Diệt
(cuối cùng bị tiêu diệt, mất đi, không còn tồn tại nữa). Theo định luật này, phàm
cái gì có sinh thì phải có diệt. Chết chính là khâu cuối cùng của 4 giai đoạn hiện
hữu trên cho mọi vật sống, mọi chúng sinh, là giai đoạn từ có trở về không. Vì
thế, Phật giáo không thể chấp nhận một linh hồn đã được sinh ra mà sau đó lại
tồn tại vĩnh cửu, hay một thể xác sống lại để rồi tiếp tục sống mãi. Nếu có một
linh hồn bất tử, thì linh hồn đó ắt phải có từ trước muôn đời không do ai sinh ra
cả.
Như vậy, con người sinh ra rồi chết đi có phải là hết không? Thưa không,
vì cái chết theo quan niệm Phật giáo nó không phải sự đối nghịch với sự sống
mà chỉ là sự ngược chiều của sự sinh. Nếu như sự sống là xuôi dòng thì cái chết
là ngược dòng, nó làm thành một chu kỳ ngược xuôi bất tận. Nhưng suy cho
cùng cái chết hay của con người hay những chúng sinh khác đều phụ thuộc vào
sự xoay vòng của vũ trụ. Con người sinh ra chết đi ở kiếp này rồi lại sinh ra và
chết đi ở kiếp sau. Như vậy, trước kiếp hiện tại ta đang sống, thì ta cũng đã từng
sống hằng hà sa số kiếp, và sau kiếp sống này, ta còn sống hằng hà sa số kiếp
sống khác nữa. Đó chính là luân hồi.
Thực tế nhà Phật quan niệm rằng có 10 cảnh giới: Phật, Thanh văn, Duyên
giác, Thiên, Nhân, Atula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh… Trong 10 cảnh giới
16
đó, 4 cảnh giới trên sẽ không phải chịu luân hồi, còn 6 cảnh giới dưới bao gồm:
Thiên, Atula, Nhân, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh thì vẫn phải chịu luân hồi, nếu
hết phúc thì có thể bị đọa. Hơn thế nữa, việc vong linh được nương vào vào 4
cảnh giới trên hay 6 cảnh giới dưới còn tùy thuộc vào hạnh nguyện của người đã
mất. Người nào kiếp trước làm nhiều tội ác thì khi chết xuống Âm phủ sẽ bị tội
rồi lại phải đầu thai vào kiếp súc vật, hoặc bị đày đọa nơi cõi quỷ hay địa ngục.
Những người làm điều lành sẽ trở lại kiếp người, hoặc được lên cõi trời, cõi
Phật.
Người Việt Nam quan niệm chết không phải là cái họ nghĩ như một hiện
tượng tự nhiên mà đó là một sự chuyển khiếp từ trạng thái ý thức này sang trạng
thái ý thức khác. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ sống, chu kỳ
này được biểu hiện bằng một vòng tròn sự sống, cái chết là nhịp cầu chuyển tiếp
giữa cõi âm và cõi dương, giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình. Người
Việt luôn tin tường vào tổ tiên của mình rất linh thiêng. Dù những người thân
của họ đã qua đời nhưng họ vẫn luôn quan niệm ông bà tổ tiên vẫn đang sống
cạnh con cháu, phù hộ con cháu khi gặp khó khăn, chia vui khi thành đạt,
khuyên giải nhắc nhở con cháu khi làm điều sai trái.
Tư tưởng của Phật giáo về sự sống và cái chết đã có ảnh hưởng lớn đến đời
sống tâm linh của người Việt. Cuộc sống là bể khổ, muốn thoát khổ thì phải tích
thiện, để khi chết được đầu thai vào kiếp người. Trong cuộc sống phải từ bi bác
ái, phải hiếu kính với cha mẹ để“ở hiền rồi sẽ gặp lành”. Tư tưởng của đạo Phật
về cái chết làm cho quan niệm về cái chết của người Việt không còn nặng nề,
chết là sự chuyển hóa, để tiếp tục sinh sôi nảy nở. Chết chỉ là sự tiêu tan của thể
xác, còn linh hồn vẫn hiện hữu và trở về với gia đình. Chết chẳng qua chỉ là một
cuộc trơ về gặp ông bà tổ tiên, và Phật là người cứu độ, chỉ đường cho tổ tiên
được giải thoát về cõi “sinh tử luân hồi”. [36,65-67]
Tôn giáo, dù nhất thần, đa thần hay thậm chí vô thần, đều ít nhiều hướng
dẫn các cách thức trợ giúp người chết ra đi một cách thanh thản và gia quyến
17
của họ. Tuy nhiên, khi mới thành lập Phật giáo không dạy một nghi thức cầu
nguyện nào về lễ tang, ngoại trừ những bài kinh để giúp người sắp chết ra đi nhẹ
nhàng theo nghiệp; nhưng khi Phật giáo được truyền sang các nước có nền văn
hóa Khổng, Lão như ở Trung Quốc và Việt Nam… thì việc cầu nguyện cho
người chết trở nên không thể thiếu.
Nghi thức ma chay theo Phật giáo được rút trong quyển “Tam giáo Chánh
Độ” (có lẽ xuất phát từ nghi lễ của cung đình, không rõ tác giả), được Bách Tổ
Trượng (ở núi Qui – Trung Quốc) rút lượt và sáng chế ra. Trong quyển Bách
Trượng Thanh Quy có nói: “Tổ Bách Trượng dựng Tòng lâm, lập quy củ, chế ra
thanh quy để ổn định và chấn quy phong của thiền gia…” Trong đó có nghi thức
dành cho chư tăng khi viên tịch, bởi ngài nghĩ không lẽ chết rồi cứ bó lại đem
chôn hay hoặc có làm thì mỗi người theo mỗi cách, nên ngài mới lập ra các nghi
thức dành cho người sau khi chết như nghi nhập quan, nghi trà tỳ… Nội dung
các nghi thức này là dùng pháp niệm Phật để hóa độ. [36,68] Tồn tại cùng với
nền văn hóa bản địa ở Trung Quốc cũng như Việt Nam, các tôn giáo ngoại nhập
buộc phải thích nghi để tồn tại và một trong những thích nghi quan trọng là nghi
lễ cầu nguyện. Mặc dù vậy, nghi lễ Phật giáo lại không hoàn toàn đóng vai trò
nòng cốt trong một lễ tang của tín đồ Phật tử Việt Nam mà nó chỉ chiếm một
phần quan trọng trong nhiều yếu tố pha trộn bao gồm tôn giáo, tập tục và tín
ngưỡng dân gian.
1.3 Nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng
Ninh
1.3.1 Nguồn gốc và bản chất của phong tục tang ma
Bất cứ một xã hội nào đều có những phong tục riêng biệt, được hình thành
từ những tập quán đã trải qua hàng ngàn năm và được xã hội chấp nhận.
Theo Phan Kế Bính: “Mỗi nước có một phong tục riêng, phong tục ấy kỳ
thủy hoặc bởi một vài người mà bắt trước nhau rồi thành ra thói quen hoặc bởi
phong thổ và cách chính trị, cách giáo dục trong nước mà thành ra. Hoặc bởi cái
18
phong trào ở ngoài tràn vào mà rồi dần dần tiêm nhiễm thành tục. Nhưng đại để
tục gì cũng vậy phải trải qua lâu tháng lâu năm mới thành được, mà trong những
tục ấy, cũng có tục hay cũng có tục dở. Duy chỉ bởi tai mắt người đã quen, lòng
người đã tín dùng, thì dẫu có người biết là dở mà cũng không sao đổi ngay
được”. [12,6]
Như vậy, có thể nói phong tục chính là một quy ước đạo lý bất thành văn
mà người trong xã hội ấy phải tuân thủ, là toàn bộ những hoạt động sống của
con người được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được
cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không
mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện
như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối
bền vững và tương đối thống nhất. Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương,
tầng lớp xã hội hay thậm chỉ một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của
văn hóa và có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng
đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ,
lên lão và chết đi… Tuy nhiên, vì phong tục mỗi thời đại lại thay đổi dần theo
nền dân trí, đồng thời với nền văn minh loài người, lại tùy theo quan niệm riêng
từng người hoặc theo từng hoàn cảnh mà tăng giảm nên trở thành “tam sao thất
bản”, làm cho người đời sau muốn giữ lại nét phong hóa đặc thù của dân tộc
nhiều khi cũng băn khoăn, không biết thực hành như thế nào cho đúng và dần
dần mai một đi, thậm chí vì quá tin tưởng mà đi đến mê tín dị đoan. Cùng với lễ
cưới, lễ tết…tang ma là một trong những phong tục quan trọng của người Việt
được truyền giữ bao đời nay.
Nếu như “quan” có nghĩa là đánh dấu sự trưởng thành của người nam
(theo tục xưa), thì “tang” lại là sự kết thúc một kiếp người và thường biểu hiện
qua sự sầu đau, khổ não. Đám tang hay còn gọi tang lễ, tang ma là phong tục
tiễn đưa của người sống thực hiện với người vừa mất, từ lúc hấp hối cho đến khi
chôn cất, nhằm thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với người đã khuất. Sinh
19
hoạt xã hội Á Đông rất coi trọng tình cảm, đề cao tình thân, coi trọng huyết
thống gia đình thân tộc hơn nên những nghi thức nghi lễ trong tang ma được
thực hiện rất chu đáo, bài bản. Trong tư tưởng triết gia Á Đông, việc thực hiện
nghi lễ tang ma đối với người chết là rất quan trọng, là bổn phận của những
người sống đối với người đã khuất là cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân tộc của
mình. Cái chết đối với mỗi người không ai tránh khỏi và tang lễ là vấn đề
nghiêm trọng đối với một gia đình nào đó. Ngay từ giờ phút hấp hối của một
người, không khí gia đình đã trở nên trầm lắng xuống với vẻ thiêng liêng; con
cháu gần xa được báo tin vội vã quay về để “gặp mặt lần cuối”, tuy đông đủ
nhưng đều im lắng với một vẻ u ám, buồn bã.
Khi loài người còn ở thời sơ khai lạc hậu, việc chôn cất không được đặt ra
và thường mang vất ngoài đồng vắng hay rừng sâu. Trải qua các thời đại, nền
văn hóa mỗi ngày được nâng cao và có lẽ trước tiên việc tang lễ được áp dụng
cho bậc cha mẹ, tức là người gần gũi nhất và có công ơn dưỡng dục nhiều nhất,
sau đó mới dần dần phổ biến đến cả họ hàng thân thuộc và trở thành một lễ nghi
không thể thiếu trong cuộc sống con người.
Vào thời phong kiến, đạo lý rất được coi trọng và được các bậc thánh nhân
đặt lên hàng đầu trong các lễ nghi, điển hình là một câu chép trong sách luận
ngữ của Khổng Tử: “Thánh nhân trị thiên hạ chú trọng vào ba việc quan trọng
nhất là ăn uống, tang ma và tế lễ”, [24,127] Vì vậy, trải qua một thời gian khá
dài, việc lễ tang không thể cẩu thả, dần trở thành biểu tượng cho lòng hiếu của
con cái đối với cha hay mẹ vừa chết. Tại sao lại gọi việc tang là việc hiếu. Ấy là
bởi do tấm lòng của con, cháu muốn đền đáp công ơn cha mẹ khi sinh thành và
nuôi dạy ta nên người. Cho nên, con cái làm tất cả những gì có thể làm được khi
cha mẹ viên tịch. Tuy nhiên, đạo hiếu không chỉ răn dạy con cái đáp đền công
ơn cha mẹ khi qua đời, mà lại ở lòng biết ơn được bộc lộ qua các hành vi khi cha
mẹ còn sống.
20
Thời xưa, tang ma được tổ chức hết sức long trọng và tốn kém với quan
quách mấy lớp, tế lễ ăn uống kéo dài vài ngày, kèn trống không dứt. Thậm chí
có người còn quan niệm càng kéo dài tang lễ và càng linh đình bao nhiêu càng
tỏ rõ lòng hiếu của mình bấy nhiêu. Quan niệm này trở thành một gánh nặng với
người nghèo khó trong xã hội: Không làm linh đình thì xóm giềng cười chê, họ
hàng trách móc mà làm cho tới nơi tới trốn thì có khi con cháu trả món nợ ấy
suốt đời cũng chưa hết.
Việt Nam vốn ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc rất sâu sắc, vì vậy trước
kia tang lễ rất đúng theo sách Văn Công Gia lễ của Chu Hy đời nhà Tống,
nhưng kể từ thế kỷ XVI trở đi, vào thời nhà Lê, nhờ có sách Hồ thượng thư gia
lễ của Hồ Sĩ Dương, hoặc Gia lễ tiệp kính của Ngô Doãn hay Thanh thuận gia
lễ của Lê Quý Đôn... tang lễ của người Việt Nam giản lược đi một phần, tuy
nhiên vấn đề tang ma vốn đã phức tạp càng thêm rối loạn. Trước tình hình ấy,
một nhà nho khác, ông Hồ Sĩ Tân biên soạn Thọ Mai gia lễ chú ý tham khảo,
vận dụng trong giới hạn tư duy chủ quan đối với phong tục tập quán xã hội nước
nhà. Do có ít nhiều tiến bộ so với các tập sách trước nó, Thọ Mai gia lễ nhanh
chóng được dân gian tiếp nhận và lưu truyền. Đặc biệt dưới triều Nguyễn, Thọ
Mai gia lễ được sử dụng như một thứ luật lệ về tang ma do chế độ nhà Nguyễn
quy định.
Tuy nhiên, cuốn Thọ Mai gia lễ đương thời bị nhà nho Phạm Đình Hổ
(1768 – 1839) tác giả sách Vũ trung tùy bút nổi tiếng – đả kích kịch liệt nội dung
quê mùa, đưa ra những cách thức lạ kỳ chưa từng thấy, soạn giả thu thập, nhặt
nhạnh những điều vớ vẩn, bỏ cái này, chọn cái kia... Phạm Đình Hổ chỉ trích
đích danh Hồ Sĩ Tân soạn Thọ Mai gia lễ, khắc in phát hành nhằm thu lợi.
Nhưng chỉ dùng riêng ở thôn quê, các bậc thức giả đa phần coi thường.
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cuộc vận động xây dựng đời sống
văn hóa mới của Đảng ta, nhanh chóng được nhân dân hưởng ứng thành phong
trào rộng khắp, kiên quyết bài trừ hủ tục, chống xa hoa lãng phí, thực hành tiết
21
kiệm. Nhưng do nền kinh tế thị trường tác động, có cả mặt tích cực và tiêu cực,
“phú quý sinh lễ nghĩa” mà không phú quý cũng đua đòi “sinh lễ nghĩa”, tạo
điều kiện cho hủ tục phục hồi và Thọ mai gia lễ có cơ hội hồi sinh. Thực chất
nội dung tư tưởng Thọ Mai gia lễ về căn bản đã lạc hậu. Mặc dù ở thời kỳ rạng
rỡ nhất trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Thọ Mai gia lễ cũng đã bộc lộ sự
bất ổn bởi soạn giả với tất cả hạn chế của một nhà nho không vượt thoát nổi
vòng xiềng xích tiêu cực của Nho giáo. [2,5-6]
Trong việc biên soạn Quy ước nếp sống văn hóa mới của làng xã, tham
khảo các “gia lễ” thời xưa cũ là cần thiết để gạn đục khơi trong, đãi cát tìm
vàng, góp phần xây dựng tang chế văn minh, tiến bộ trên nền tảng thuần phong
mỹ tục cổ truyền và dưới ánh sáng văn hóa Cách mạng. Mọi sự đề cao một chiều
“gia lễ” đều sai lầm, không phải là phát huy truyền thống cha ông hay giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc.
Bộ Văn hóa thực hiện chủ trương Chỉ thị của Đảng và Chính phủ, tiến hành
nhiều cuộc tuyên truyền vận động toàn dân xây dựng Nếp sống văn hóa mới.
Nhưng thực tiễn cuộc sống vốn muôn màu ngàn vẻ, vấn đề không chỉ là câu
chuyện sách vở mà còn là phong tục, tập quán, một lĩnh vực khá nhạy cảm và
hết sức phức tạp, khiến cuộc vận động thực hành quy ước Nếp sống văn hóa
mới không dễ, đặc biệt về tang lễ [10,17-18].
Với ý thức lấy tâm thành thương tiếc người quá cố làm trọng, giảm thiểu
những nghi lễ thiên về hình thức – mặc dù những hình thức ấy được đặt chủ ý
muốn giáo dục con cháu không quên ơn nghĩa của người đã sinh thành – dần
dần sau này, với nền văn hóa phát triển, ý thức được vấn đề tinh thần tách biệt
với vật chất, việc tang ma cũng giản lược đi rất nhiều, chủ yếu là để biểu lộ lòng
thương tiếc người đã chết, nhất là tang ma cho cha mẹ vì công lao dưỡng dục
sâu nặng như trời bể không thể qua loa mà tự cho rằng đã đền đáp được trong
muôn một.
22
1.3.2 Một số đặc điểm nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều,
tỉnh Quảng Ninh.
Tại mỗi vùng miền, mỗi dân tộc sẽ có nghi thức tổ chức đám tang khác
nhau, tuy nhiên tang ma nói chung đều có một số nghi lễ và ý nghĩa chung là
tưởng nhớ người đã khuất. Ngày nay, nhiều thủ tục tổ chức đám tang đã được
lược bỏ, giản tiện để phù hợp với thực tế xã hội. Phong tục tang ma theo tại thị
xã Đông Triều có những nghi thức chính như sau:
Khi người thân vừa mất (Lễ Mộc dục)
Trong giờ phút này, người vừa mất được sửa cho ngay ngắn, không được
đụng chạm nhiều đến thi thể, vì lúc đó thần thức chưa ra khỏi thể xác. Nếu đụng
chạm mạnh có thể làm cho người chết dễ sinh bực bội, sân giận. Sau 8 tiếng trở
đi, thân nhân tắm gội cho người mất sạch sẽ bằng nước thơm, thay quần áo mới,
đặt lên giường, chân duỗi thẳng, hai tay đặt lên bụng, mặt phủ mảnh vải trắng.
Người thân buông màn rồi thắp một ngọn đèn dầu, đặt hương, hoa, quả nơi đầu
giường. Những đồ dùng tiếp xúc với người chết như: quần áo, chăn màn, giường
chiếu phải đem thả xuống sông hoặc đốt đi. Với những người chết không có
bệnh, người thân thường giữ lại quần áo còn lành, mới để mặc vì cho rằng sẽ
được người mất phù hộ cho luôn khỏe mạnh, may mắn. Đặc biệt, con cháu dù
đau đớn cũng không được khóc thành tiếng, nếu không sẽ khiến người chết
không thể ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
Lập bàn thờ vong (Lễ Thiết linh)
Bàn thờ vong được lập ở trước cửa nhà trước khi khâm liệm. Bàn thờ vong
là một cỗ linh sa được trên một chiếc bàn rộng, trên có bài vị, ảnh và tên tuổi
người mất, mâm quả bày một nải chuối và một số loại quả khác, một bát hương
và thẻ hương cho người thân, hàng xóm đến thắp hương tưởng nhớ người mất.
Theo phong tục, hai bên bàn thờ được đặt hai cây chuối non cắm trong lọ lục
bình tượng trưng cho sự an nghỉ, bình yên. Cây chuối biểu tượng của tình cảm
23
gia đình quần tụ nhiều thế hệ, đông vui, yêu thương, đùm bọc, gắn bó và chở
che. Chuối lại mọc thẳng biểu tượng cho tính thật thà, trung hiếu của con người.
Theo các nhà khoa học thì chuối cũng là loại cây có khả năng hút tử khí và do
vậy mà nó không bị héo úa trong suốt thời gian đám tang, dù là mùa hè nóng
nực.
Nghi thức khâm liệm
Nghi thức khâm liệm được tiến hành sau một hồi dài kèn trống. Lúc này
khăn phủ mặt và người mất được bỏ ra. Sau đó người mất được nâng lên hạ
xuống tiếp đất ba lần để tiếp âm dương. Người thân sẽ dùng vải trắng để gói
thân thể người mất và đặt vào trong áo quan, kèm theo đó là gương, lược, một
chút tiền lẻ, gạo, muối đút vào túi áo cho người mất. Người dân quan niệm tiền
và gạo phạn hàm đó là lương thực và lộ phí đi đường cho người chết hành trình
sang cõi âm. Quan tài đặt ở gian chính giữa ngôi nhà theo chiều dọc, song song
với bàn thờ gia tiên. Kể từ khi khâm liệm đến lúc chôn cất cần được thắp nến
liên tục trên quan tài. Giữa mặt ván đặt một bát cơm (bát cơm này sẽ được đặt
trên mộ sau khi chôn) và quả trứng gà luộc kẹp bằng đôi đũa bông. Nắp quan tài
đặt hờ lúc đưa tang mới đóng khít.
Phát tang (Lễ thành phục)
Chủ tế làm lễ phát tang. Bàn để khăn tang để ngay cạnh bàn thờ vong. Khi
thực hiện lễ phát tang con cháu quỳ ở dưới chiếu. Con gái, con trai, con dâu thắt
khăn tang trắng, đội mũ mấn, đội vòng dây chuối ngang người. Con rể không
đội mấn chỉ chít khăn, cháu quấn khăn trắng quanh đầu thành vòng tròn, chắt
quấn khăn vàng, chút đội khăn đỏ. Trước kia, dây thắt ngang lưng nhất thiết phải
là dây chuối nhưng ngày nay họ có thể dùng các loại dây khác thay thế. Sau khi
an táng, cháu, chắt không phải đội tang nữa, nhưng con cái hoặc vợ, chồng thì
vẫn phải đội khăn, hoặc dùng một mẩu vải đen đeo trước ngực. Sau giỗ đầu,
việc để tang này kết thúc. Trong vòng một năm tang trở này, người ta kiêng
24
không đi đám cưới, không chúc tết, không lam những việc đại sự như xây nhà
cưới vợ.
Tế cơm
Lễ tế cơm bao gồm: một bát cơm tẻ, một đĩa muối trắng, một quả trứng
luộc và một chén nước lã, nam 7 sắt gừng, nữ 9 sắt gừng. Lễ tế cơm có ý nghĩa
giúp người mất được ăn no trước khi sang thế giới bên kia.
Phúng viếng
Sau lễ phát tang cho đến trước khi quay cữu là khoảng thời gian để người
thân, họ hàng phúng viếng. Khi mọi người phúng viếng, con trai trưởng hoặc
cháu trai trưởng đứng cạnh bàn thờ để đáp từ. Để chia sẻ với gia đình, người đến
phúng viếng thường mang theo hương, vòng hoa, và tiền viếng. Những người
đến phúng viếng đứng thành hàng ngang trang nghiêm trước hương án, trưởng
đoàn bước ra nói lời chia buồn với tang chủ, sau đó họ giành một phút cúi đầu
mặc niệm người quá cố.
Giở mình cho vong (Động cữu)
Đúng 12 giờ đêm là thời khắc gia đình tiến hành “giở mình” cho vong. Sau
khi đánh 3 hồi 9 tiếng trống, con cháu nhấc quan tài lên và hạ xuống ba lần,
động tác này được gọi là động cữu, việc làm này như một động tác trở mình
nâng giấc cho cha mẹ khỏi mỏi và ngủ ngon hơn.
Đưa tang (Lễ phát dẫn)
Đến giờ đưa tang, nắp quan tài sẽ được sập kín và đóng đinh. Con cháu
trong nhà cúi người nối nhau tạo thành một chiếc cầu đưa quan tài ra đến xe
tang, được gọi là luồn cữu, với quan niệm con cái trả ơn cha mẹ lần cuối cùng.
Quan tài người mất được đặt vào xe tang, vòng hoa chất bên ngoài. Đoàn đưa
tang đi theo thứ tự gồm: Phật đình, long kiệu (linh sa), cờ phướn, cờ tang,
phường kèn, xe tang, con cháu và những người làng xóm. Thường người con
25
trai trưởng chống gậy tre đi song song với quan tài, và đi giật lùi. Trên suốt
chặng đường đưa tang, kèn trống được thổi để xua đuổi ma quỷ.
Lễ hạ huyệt
Huyệt mộ được đào sẵn từ trước. Khi hạ huyệt, người con trai trưởng lấp
hòn đất đầu tiên, sau đó các anh em con cháu lần lượt ném xuống nắm đất với ý
nghĩa con cái đắp mộ cho cha mẹ. Mộ được phủ cỏ, thắp hương, đặt vòng hoa
xung quanh và đặt bát cơm bông lên bên trên.
Thờ người đã mất
Ảnh, bát hương cùng mâm quả thờ trên linh sa được rước lên bàn thờ.
Người ta lập một bàn thờ ngay cạnh ban thờ gia tiên. Trên ban thờ luôn có
hương khói, đèn, nhang.
Cúng tuần đầu
Sau đám tang có lễ cúng tuần đầu. Tuần đầu không quy định là bao nhiêu
ngày mà là ngày Rằm hoặc mùng Một đầu tiên kể từ sau khi chết. Người ta sắp
lễ mặn để cúng ở nhà, không nhất thiết phải lên mộ.
Cúng 49 ngày (Lễ chung thất)
Ngày thứ 49, con cháu làm cỗ mặn cúng tại nhà, và mang đồ lễ lên chùa,
đền lễ cho vong hồn người chết được mát mẻ, siêu thoát. Dịp này các gia đình
theo đạo Phật thường nhờ các sư tăng tụng kinh sám hổi để cầu cho vong linh
được siêu sanh tịnh độ.
Cúng 100 ngày (Lễ tốt khốc)
Trong vòng 100 ngày con cháu phải cúng cơm mỗi ngày 2 bữa trưa, chiều.
Hành động này được giải thích rằng người chết khi mới xuống âm phủ cũng như
những người mới ra ở riêng, chưa có vốn làm ăn lại không quen biết ai, chưa có
lương thực nên phải cúng cơm cho họ như là nuôi những ngày đầu. Người ta xới
26
một bát cơm lồng, một đôi đũa, một quả trứng luộc đã bóc sạch vỏ và một đĩa
muối trắng, một chén nước lã, đặt lên bàn thờ rồi chắp tay khấn, gọi đầy đủ tên
tuổi, quê quán của người chết mời về ăn cơm. Cơm nấu để cúng không được ghế
cơm nguội, không được nếm hay lấy cho chó, mèo ăn trước khi cúng. Tốt khốc
có nghĩa là ngừng khóc, cúng xong tuần này thì từ đây về sau không còn phải
cúng cơm hằng ngày nữa.
Cũng trong khoảng 100 ngày này, mỗi khi có đám tang thì con cháu phải đi
nhận mộ bằng cách lên thắp hương và hờ khóc trong suốt khoảng thời gian đám
tang kia chôn cất. Quan niệm rằng khi có một đám tang mới là âm phủ có một
đám hội, hồn ma có thể mải chơi nơi đám hội này mà quên mất lối về cho nên
phải hờ khóc để gọi hồn về cho đúng nhà cửa.
Cải táng
Người chết từ ba năm trở lên mới được phép cải mộ. Người ta thường xem
ngày, chọn giờ tốt, mua sẵn một chiếc tiểu sành để chuẩn bị cho công việc quan
trọng này. Đến ngày đã định, trước khi đào mộ, con cháu làm lễ cúng tổ tiên,
trình bày việc “thay nhà mới” cho người đã chết, đồng thời cũng sắp lễ cúng ở
chùa đền và trên mộ. Khi cải táng, người ta tránh không cho ánh nắng chiếu rọi
xuống huyệt. Rượu được mang theo để rửa tay và đổ xuống ván khi vừa mới mở
nắp, mục đích là để tẩy mùi. Xương cốt được thu gom đầy đủ rồi đặt vào trong
tiểu nhưng phải sắp xếp vị trí của chúng trên cơ thể. Tiểu được đem đi chôn ở
nơi đã chọn, thường được quy tụ mồ mả của họ tộc về một khu vực để tiện trông
nom, chăm sóc. Tiểu được chôn vĩnh viễn không chuyển dịch đi đâu nữa.
[1,2,4,39]
Tiểu kết chương 1
Như vậy, Phật giáo nước ta không rập khuôn theo con đường Phật giáo của
các nước, Phật giáo nước ta không ham chuộng sự bay bổng hay thực tiễn quá
như Phật giáo của Ấn Độ và cũng không duy lý, nặng tính thần bí, mê tín như
27
Phật giáo Trung Quốc, Mông Cổ. Không có sự phân biệt giàu nghèo, giai cấp
thống trị hay bị trị, Phật giáo nước ta chung sống hòa đồng với các đạo khác như
đạo Nho, đạo Lão và các hình thức tín ngưỡng dân gian biểu hiện qua hình thức
của các phong tục. Như vậy, khi Phật giáo truyền vào nước ta, do có giáo lý phù
hợp với đời sống của người dân nên đạo Phật nhanh chóng được tiếp nhận, sự
tiếp nhận này không làm cho đời sống tinh thần của người Việt thay đổi một
cách đột ngột, người Việt thờ cúng đức Phật cũng như các vị thần bản địa.
Điều đáng tự hào hơn là Phật hoàng Trần Nhân Tông đã sáng tạo ra dòng
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – chứng tỏ khả năng dung hợp và tiếp biến văn
hóa của người Việt Nam đối với các yếu tố văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Phật
giáo Ấn Độ và Trung Quốc hay một số nước khác không chủ trương nhập thế
mà là một tôn giáo xuất thế. Trong lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam
cũng có thời kỳ như vậy, nhưng nhìn chung, Phật giáo đời Lý - Trần mang xu
hướng nhập thế. Phật giáo xuất thế nhấn mạnh “đời là bể khổ” và con đường
thoát khỏi bể khổ là tu tập kiên trì để đạt tới cõi Niết bàn không còn đau khổ và
bất công. Phật giáo Việt Nam nhấn mạnh nguyên nhân của nỗi khổ là do chính
con người và xã hội nên thường coi việc đạo chính là cuộc đời. Con đường thoát
khổ là con đường đấu tranh diệt ác, tu nhân tích đức thành người lương thiện và
khuyến khích con người làm việc thiện dưới nhiều hình thức phù hợp với hoàn
cảnh của mỗi người. Tư tưởng triết lý của Phật giáo Việt Nam là tu dưỡng thân
tâm mình để phụng sự lợi ích của dân tộc, nó luôn đồng hành với dân tộc, là
“điểm tựa tinh thần”, góp phần củng cố và nâng cao ý thức liên kết cộng đồng,
tinh thần độc lập tự chủ của Đại Việt trước mọi thử thách cam go của lịch sử.
Giáo lý của Phật giáo khá gần gũi với tinh thần vị tha bao dung, yêu thương
đùm bọc, đề cao tư tưởng từ bi, bác ái, chủ trương hỷ xả, cứu khổ cứu nạn nên
rất gần gũi với văn hóa nông nghiệp, ưa sống ổn định, dân dã, thái bình, trọng
tình nghĩa của người Việt. Ở gia đình Phật tử, bàn thờ Phật được đặt cao hơn
bàn thờ tổ tiên. Trong lời khấn tổ tiên, dường như người Việt khấn “Nam mô a
28
di đà Phật” 3 lần sau đó mới đến các vị tổ tiên của mình. Dù họ không xuất gia
vào chùa tu Phật nhưng họ vẫn sống theo tinh thần Phật giáo, chùa và nhà hòa
vào một. Chính vì biết uyển chuyển nên Phật giáo đã nhanh chóng chiếm được
vị trí trong đời sống tâm linh của người Việt như thách thức với thời gian, với
lịch sử, Phật giáo Việt Nam vẫn an nhiên đứng đó. Đã có biết bao tư tưởng và
tôn giáo từ bên ngoài đưa vào nước ta nhưng Phật giáo xem ra càng lâu càng sâu
gốc bền rễ.
29
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT
GIÁO TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,
TỈNH QUẢNG NINH
2.1 Nội dung ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại
thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh
2.1.1 Ảnh hưởng đến hình thức tổ chức tang lễ
Đối với Phật giáo, nghi thức tang lễ của tín đồ Phật tử cơ bản có những
nguyên tắc sau: đơn giản để biểu thị lòng thương xót, trang nghiêm để biểu thị
lòng hiếu kính, tiết kiệm để dành tiền làm việc công có ích, không làm những
việc nhằm quảng cáo tuyên truyền lãng phí vô ích, không cần linh đình mà cần
phải giản dị chừng nào hay chừng nấy, không cậy giàu khoe của, tổ chức linh
đình hoặc không tiền mà cầu danh cố làm cho thiên hạ khen là đám ma lớn, con
cháu có hiếu.
Hiểu được những lẽ đó, người Phật tử tại thị xã Đông triều luôn tự nhắc
nhở bản thân và con cháu mình thực hành theo tinh thần của Phật giáo. Khi
trong nhà có tang sự, ai nấy đều đau lòng thương tiếc, đau thương than khóc là
lẽ thường tình. Tuy nhiên, người Phật tử chân chính lại lấy Phật – Sự để thay
cho sự khóc lóc. Khi có mặt Tăng Ni cùng sự hiện diện của tượng Phật, gia chủ
sẽ cố gắng cử hành nghi lễ đơn giản nhưng long trọng, giữ bầu không khí trang
nghiêm thanh tịnh của nhà có tang. Ngoài ra, những người trong tang quyến hay
khách đến viếng thăm phúng điếu, đều giữ cho nét mặt là quan cảnh được trầm
lặng trang nghiêm để tỏ lòng mến tiếc và chia sẻ nỗi đau buồn. Đặc biệt, trong
suốt quá trình diễn ra tang lễ, gia đình không để con cháu tụ tập cờ bạc để tránh
quấy rầy người chết. Một khi đã có sự xuất hiện của Phật giáo trong lễ tang, gia
đình sẽ được Tăng Ni khuyên bảo trước đó rằng không được cúng tế bằng sinh
vật để tránh mang tội sát sinh, làm trở ngại cho sự siêu độ vong linh. Tuy nhiên,
khi làm cơm cho người trong nhà hoặc làm cơm thiết đãi khách sau khi đưa đám
thì người dân vẫn không thể làm cơm chay hoàn toàn, họ vẫn nấu các món ăn
30
mặn như trâu, bò, gà vịt… Nhưng để tránh cảnh sát sinh ngay tại đám tang và
làm ảnh hưởng đến sự siêu độ của vong linh nhà mình, các món ăn từ động vật
thường được mua làm sẵn từ bên ngoài rồi đem về chế biến. Về điều này, các
Tăng Ni đến làm lễ cũng không trách được gia chủ bởi họ tuy có niềm tin vào
Phật giáo, nhưng không phải là những người xuất gia. Trong gia đình ai nấy đều
phải nhất luật giữ trọn trai giới. Ngoài ra các thứ ô uế khác, tang chủ đều căn
dặn con cháu, ai nấy đều phải giữ gìn cẩn thận. Có thể thấy, trong thời gian tang
lễ hay cầu an, cầu siêu, cùng với sự hộ niệm của Chư Tăng Ni, các Phật tử thì
gia chủ rất thành tâm khẩn nguyện bởi họ mong những điều tốt đẹp sẽ đến với
vong linh nhà mình.
Nhạc đám ma là điều không thể thiếu, xuất hiện như một tục lệ trong lễ
tang từ lâu đời tại Đông Triều, song có đàn kèn trống nhạc cũng không quá sầu
thảm, sẽ khiến cho vong linh mê theo âm điệu mà đi vào chốn địa ngục. Xung
quanh linh cữu không treo màn trướng, trang trí đèn đuốc. Có những người cho
rằng làm vậy có tác dụng an ủi vong linh, nhưng đối với tín đồ Phật giáo thì trái
lại, nó sẽ làm loạn động tâm thanh tịnh của người quá cố.
Sinh, lão, bệnh, tử là định luật vô thường, người đời không ai tránh khỏi,
dù có than khóc kể lễ cũng không làm cho người chết sống lại được, trái lại còn
làm cho vong linh quyến luyến nhà cửa, vợ con, quây quần nơi đó làm quỷ giữ
nhà mà không siêu độ được. Đối với Phật giáo mà nói, tiếng than khóc sẽ làm
loạn thần thức người đã chết. Dù đã được Tăng Ni khai thị cho người nhà biết
những điều đó nhưng theo tục lệ thì đám tang tại thị xã Đông Triều vẫn không
thể làm cho gia chủ thiếu đi tiếng khóc, đặc biệt là trong tang ma của các bậc
sinh thành. Tuy nhiên, không phải trong suốt quá trình diễn ra tang lễ, người
thân đều than khóc, mà họ chỉ thể hiện niềm thương tiếc với người quá cố vào
một số lễ quan trọng khi nhập quan, khi cất đám và lúc hạ huyệt. Đây là những
thời điểm họ cảm nhận được người thân của mình sắp phải rời xa thế giới này
31
thật sự và cảm xúc khiến họ không thể ngăn được những giọt nước mắt của niềm
tiếc thương.
Đám tang theo Phật giáo không làm sớ điệp, nhà kho, đốt vàng bạc, đồ
thế… Vì trong Tam Tạng Kinh Điển chánh tông không có dạy làm việc ứng phú
này. Từ sau đời nhà Hán, người Trung Quốc có tập tục đốt tiền giấy. Bác sĩ
Vương Dư đời Đường viết rằng: “Từ đời nhà Hán, có tục chôn tiền, và đời sau
lấy giấy thay tiền” [41]. Như vậy, từ đời nhà Hán về sau, có tập tục chôn tiền
cùng với người chết. Vì ở Trung Quốc, từ thời xưa, có niềm tin là người chết
biến thành quỷ. Quỷ cũng phải có tiền để sống, do đó mà chôn tiền. Về sau,
người ta thấy rằng chôn tiền thật là lãng phí, bèn lấy giấy cắt thành tiền giấy, rồi
đốt đi để cho quỷ dùng. Ở thời cận đại, tiền giấy lưu thông, có cả tiền của “ngân
hàng dưới âm phủ” được lạm phát rộng rãi. Lối mê tín này, một số bộ lạc thời
nguyên thủy và một số cộng đồng người cho đến tận ngày nay cũng có ít nhiều.
Người ta cùng chôn với người chết đồ vật, tiền tài, châu báu, vải vóc, thậm chí
cả đến người sống và súc vật sống nữa. Vì sao lại đốt tiền giấy? Điều này có liên
quan đến một loại tôn giáo gọi là Hỏa giáo. Hỏa giáo tin rằng Thần Hỏa có khả
năng đưa vật bị đốt đến cho quỷ thần dùng. Trong Ấn Độ giáo thờ Hỏa thần
Agui (A Kỳ Tu) có công năng đem đồ tế bị đốt đến cho quỷ thần. Trong dân
gian Trung Quốc, người ta không những đốt tiền giấy, bạc giấy, mà còn làm cả
nhà cửa, gia cụ bằng giấy, thậm chí làm cả tàu bay, thuyền bè bằng giấy để đốt
vàng mã, cúng người chết.
Sự thực, Phật giáo không cho rằng, người chết đều biến thành quỷ. Cõi quỷ
chỉ là một trong sáu cõi sống của chúng sinh. Phật giáo lại càng không tin quỷ
có thể dùng được tiền giấy và các dụng cụ bằng giấy bị đốt. Tại thị xã Đông
Triều, tang ma thường được tổ chức theo hai phái, một là Tịnh Độ, hai là Thiền
Tông. Tổ chức nghiêng theo hình thức của phái nào là phụ thuộc vào Tăng Ni
được mời đến để làm lễ cho gia chủ, là người tu theo Thiền hay Tịnh Độ. Phật
giáo Tịnh Độ là tông phái mang tính phổ quát, dân giã nên thu hút đông đảo tín
32
đồ, tông phái này có những nét gần gũi với người dân lao động. Do đó, hình
thức có nhiều điều thỏa hiệp và có sự kết hợp với lối sống dân dã và tín ngưỡng
lâu đời của nhân dân. Tịnh Độ Tông vẫn cho phép người dân thực hiện việc đốt
vàng mã cho vong linh ngay tại đám tang và ngay cả lễ cầu siêu 49 nếu làm trên
chùa, các Tăng Ni cũng chấp nhận điều này như một tục lệ lâu đời của người
dân nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng tâm linh, dù so với quan điểm chính
thống của Phật giáo có phần sai lệch.
Trái lại, Thiền Tông chỉ tin rằng, con cái thân thuộc của người chết có thể
làm các việc như bố thí, cúng Phật, trai tăng, rồi hồi hướng công đức ấy cho
vong linh, và siêu độ vong linh. Còn tất cả mọi việc làm khác đều chỉ là mê tín
vô ích. Tang lễ theo tinh thần của Thiền Tông tại Đông Triều không những
không chủ trương mai táng đồ vật, mà còn chủ trương không nên dùng quan tài
đắt tiền, không để cho người chết mặc quần áo đắt tiền, không lãng trí quá nhiều
công và của. Tăng Ni phái Thiền Tông sẽ khuyên bảo đến tang chủ để mặc cho
người chết quần áo bình thường, sạch sẽ, còn quần áo tốt đẹp và mới thì nên
đem bố thí cho kẻ nghèo, nếu có tiền thì nên đem cúng dường Tam Bảo và bố
thí cho người nghèo, chỉ có làm như vậy, vong linh người chết mới thật sự được
lợi ích; còn nếu đem các đồ vật quý cùng mai táng với người chết, thì đó là hành
vi ngu muội nhất, không xứng đáng là một Phật tử chính tín. Các Tăng Ni khi
tụng kinh, lễ sám, cầu đảo v.v… đều có viết sớ. Đọc sớ xong rồi đốt sớ đi. Đó là
bắt chước đạo gia đọc sớ cho quỷ thần nghe, đó là mê tín, hoàn toàn không có
căn cứ gì trong giáo lý đạo Phật cả. [17,36-37] Do đó, Thiền Tông chủ trương
lấy tâm thành kính để có cảm ứng. Đã đạt tới chỗ tâm thành và cảm ứng rồi, là
có linh nghiệm, chứ không cần phải đốt lá sớ, nếu không thì dù có đốt đến trăm
ngàn lá sớ, cũng chẳng có ích gì.
Ngày nay, khi Phật giáo hòa vào với các tín ngưỡng dân gian của người
Việt, giáo lý và những quan niệm của Phật giáo nguyên thủy vốn có thay đổi ít
nhiều. Xét thấy, tại thị xã Đông Triều, tang ma dưới sự dẫn dắt của các Tăng Ni
33
theo phái Thiền Tông còn thực hiện được các giáo lý nguyên bản về cái cốt của
việc theo Phật, một đám tang theo nghi thức Thiền Tông không phô trương,
không đốt vàng mã, không nỉ non than khóc, không mê tín dị đoan mà còn có
phần văn minh và thực hành tiết kiệm hay bố thí chúng sinh. Ngoài ra, hầu hết
người dân Đông Triều khi tổ chức một đám tang thường thấy có sự ảnh hưởng
nhiều của Phật giáo Tịnh Độ trong hình thức bởi hầu hết các chùa trên địa bàn
thị xã Đông Triều đều theo Tịnh Độ, đó là sự đan xen hòa trộn giữa yếu tố Phật
giáo với những quan niệm tín ngưỡng bản địa lâu đời. Người dân vẫn khó lòng
mà từ bỏ thói quen đốt vàng mã cho người chết, vì với quan niệm “trần sao thì
âm vậy” như một việc làm để đổi lấy sự an tâm trong lòng và khỏi áy náy với
người quá cố.
2.1.2 Ảnh hưởng của Tăng Ni và cư sĩ Phật tử trong đám tang
Trong Phật giáo, người ta dùng thuật ngữ “quy y” để chỉ tín đồ là con của
nhà Phật. Trên phương diện chữ nghĩa, “quy” có nghĩa là quay về hay hồi
chuyển, “y” là nương tựa, dựa vào. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta như đứa
con lạc cha, đã lang thang trong sinh tử luân hồi, chịu bao đau khổ, khi ở cõi
trời, cõi người, lúc đọa địa ngục, súc sinh… Do đó, Phật (Buddha), Pháp
(Dhamma) và Tăng (Sangha) được gọi là Tam Bảo (ba viên ngọc quý hay ba
ngôi báu), do có khả năng hóa giải phiền não, khổ đau, đem lại an lạc, hạnh
phúc cho chúng sinh.
Tăng nói đủ là Tăng già, dịch âm từ tiếng Phạn Samgha, có nghĩa là hòa
hợp chúng. Đây là chỉ đoàn thể những người xuất gia Phật giáo, sống thanh tịnh,
hòa hợp với nhau, từ bốn vị trở lên. Tăng là những người hiến trọn đời mình cho
mục đích giác ngộ, giải thoát, cắt đứt sự ràng buộc với cuộc sống đời thường,
chuyên tâm tu hành, có đủ tư cách đạo đức và trí tuệ, đáng để chúng ta cung
kính, tôn trọng. Họ sống vì lợi ích cho chúng sinh. Tăng có nhiều phẩm loại,
song quy nạp lại có ba: Bồ tát Tăng, Thanh văn Tăng và Phàm phu Tăng. Trên
thực tế thế gian, chỉ có Phàm phu tăng là gần gũi với chúng ta nhất, đóng vai trò
34
quyết định trong công việc truyền trì và hoằng dương Chánh Pháp. Theo thói
quen, ở Trung Quốc và Việt Nam, người ta thường gọi người xuất gia nam giới
là Tăng và nữ giới là Ni. [13,27-28]
Tại thị xã Đông Triều, thông thường khi một người sắp qua đời do bệnh tật
hay già lão, mà người thân trong gia đình có thể đoán biết được người bệnh có
thể không qua khỏi, họ thường thỉnh Tăng Ni bậc cao đức đến để khai thị cho
người sắp mất. Tuy nhiên, trường hợp không mời được Tăng Ni đến thì phần lớn
tín đồ không biết cách thức hộ niệm cho người thân của mình. Do đó, nếu không
mời được Tăng Ni thì hội Phật tử trong vùng được mời đến để làm lễ tụng sám
hối cho thần thức người đó nhẹ nhàng nghiệp chướng mà xả bỏ oán thù báo
thân. Những người tham dự buổi lễ đều cầm Kinh Phật trên tay và tụng theo vị
chủ lễ. Gia đình cũng đồng thời lập một bàn thờ Phật nho nhỏ, trên có ảnh Phật,
hương, hoa và quả. Sau vài ngày, nếu người đó cảm thấy nhẹ nhàng và dứt bỏ
được duyên nghiệp trần gian thì họ sẽ nhắm mắt xuôi tay.
Khi người thân qua đời, gia quyến thường bối rối vì một phần bị tình cảm
chi phối và một phần do không rành các tập tục quy định. Hơn nữa, sự đau buồn
thương tiếc và lòng hiếu thảo hay ân nghĩa luôn thúc giục họ làm điều gì đó hữu
ích cho người quá cố, và sự siêu độ hay vãng sanh là điều họ mong muốn. Do
đó, Tăng, Ni luôn là điểm đầu tiên họ tìm đến nương nhờ. Sự có mặt của Tăng,
Ni cùng sự hướng dẫn nhiệt tình, khôn khéo của họ sẽ giúp cho gia quyến an ủi
phần nào và tạo cho họ cũng như những người xung quanh những hình ảnh đẹp
về Phật giáo. Đó là nội dung “pháp sinh động” của đạo Phật đáng được tuyên
dương.
Đối với vấn đề giờ chết tốt, xấu là quan niệm của dân gian do ảnh hưởng
văn hóa và phong tục của người Trung Hoa. Phật giáo không chú trọng đến vấn
đề chết vào ngày giờ nào, ngày giờ tốt hay xấu. Bởi giờ khắc của sinh tử là do
nhân duyên, còn duyên thì tụ, hết duyên thì tán. Quan trọng là chết như thế nào,
có bình an và thanh thản hay không? Có được phúc duyên gặp chư Tăng cùng
35
bạn hữu niệm Phật lúc lâm chung để được theo Phật về Cực lạc hay không? Tuy
nhiên, ngày nay chỉ còn phái Thiền Tông giữ được quan niệm này và thực hành
đúng theo kinh sách của nhà Phật. Đối với Tịnh Độ hay Mật Tông vẫn thực hiện
việc xem ngày, giờ và tuổi tác kỵ, hợp do có sự kết hợp với một số tín ngưỡng
dân gian. Do đó, có nơi công việc này có trường hợp là do chính Tăng, Ni thực
hiện.
Trong tang lễ, sau khi chuẩn bị các thủ tục và vật dụng cần thiết xong,
Tăng, Ni được thỉnh đến cử hành lễ nhập liệm. Theo hướng dẫn của Phật giáo,
khi liệm thì có thể làm 3 lễ nhập vào làm một, đó là: Nhập quan, Thành Phục
(Phát tang), Tiến Linh (cúng cơm). Tuy nhiên, trước khi nhập quan, Tăng Ni sẽ
thực hiện khai thị cho vong. Lời khai thị đối với người có tu và người không tu,
xét về hình thức có khác đôi phần, song về nội dung đều giống nhau. Khai thị để
nhắc nhở cho vong linh về thân xác này là vô thường biến hoại, ai có thân rồi
cũng phải chết, cho nên còn duyên thì ở hết duyên thì ra đi thảnh thơi để có thân
khác tốt hơn, chớ nên lưu luyến cha mẹ, vợ chồng con cái và thân bằng quyến
thuộc; cũng đừng có buồn tủi, oán hờn bất kỳ ai, vì sự tham lam, luyến ái, hận
thù, sân, si… không mang lại lợi ích cho “ta” lúc này, mà ngược lại nó còn đưa
vong linh vào các đường đau khổ… Và giờ tất cả những cảnh tượng mà vong
linh đã thấy, dù tốt đẹp hài lòng hay khủng khiếp ghê sợ cũng đều là tâm thức
của vong linh biến hiện ra, chớ nên sợ hãi, hãy luôn nhất tâm nhớ Phật, cầu Phật
gia hộ che chở...
Trước khi đưa thi thể người mất nhập quan, Tăng Ni tiếp tục thực hiện
công việc gọi là sái tịnh. Sái tịnh, cũng gọi là sái thủy, có nghĩa là rưới nước
thơm để cho mọi vật được trong sạch. Nước thơm sau khi đã được gia trì ấn chú,
đem rảy quanh thân thể người mất và quan tài khiến cho tất cả đều được thanh
tịnh. Tăng Ni cầm cốc nước “dương chi” có cành hoa vào lòng bàn tay trái, còn
tay phải bắt đầu ấn cho đầu ngón cái và ngón áp út cong lại chạm vào nhau, ba
ngón tay còn lại ngay thẳng, và đọc 3 lần bài kệ:
36
“Dương chi tịnh thủy
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhân thiên
Pháp giới quảng tăng duyên
Diệt tội tiêu khiên
Hỏa diệu hỏa hồng niên
Nam mô thanh hương địa
Bồ Tát Ma Ha Bát…”
Lúc khiêng thi thể vào quan tài, Tăng Ni sẽ liên tục tụng kinh Bát Nhã cho
đến khi đậy nắp quan tài. Nhập liệm xong, một án thờ được thiết lập trước quan
tài với tấm phủ nghi phía trước có những dòng chữ nói về sự đau buồn và về đạo
hiếu, tình nghĩa vợ chồng.
Việc tẩn liệm hoàn tất, tiếp đến lễ Thành phục (phát tang) và Tiến linh
(cúng cơm). Bàn vong được thiết lập trước quan tài. Mâm khăn tang được đặt
ngay trước bàn vong. Trên bàn thờ vong, gia chủ dọn mâm cơm cúng và 3 bát
cơm trắng, bát giữa để hai chiếc đũa, 2 bát hai bên mỗi bát 1 chiếc, 1 ấm trà và 3
chén nhỏ để châm trà cúng. Nghi thức phát tang và cúng cơm cũng đồng thời do
Tăng Ni đứng ra làm chủ lễ. Tới đây, vai trò của Tăng Ni trong ngày đầu tiên
hoàn tất, sau là việc phúng viếng của con cháu và người thân, xóm giềng. Buổi
tối diễn ra lễ tang, Tăng Ni thường không xuất hiện để tụng kinh, mà thay vào
đó, các Phật tử trong cùng người thân trong gia đình sẽ thực hiện công việc này.
Sáng hôm sau, lễ di quan cũng do Tăng Ni thực hiện. Nếu gia đình đã định
trước giờ đưa tang, Tăng Ni sẽ đến sớm hơn một giờ để dâng hương Phật, tụng
kinh và cúng cơm cho vong linh với quan niệm để vong không bị đói trên đường
sang thế giới bên kia. Cũng có những trường hợp gia đình mời Tăng Ni dẫn độ
đưa vong linh ra tới huyệt. Tại đó, Tăng Ni cùng gia chủ chuẩn bị đồ cúng và
37
thực hiện lễ hạ huyệt để cho “mồ yên mả đẹp”, như một nghi thức “nhập gia”
đối với nơi chôn cất của vong linh và các vong linh xung quanh khu vực nghĩa
trang.
Bên cạnh vai trò của các Tăng Ni thể hiện trong tang lễ, người Đông Triều
còn coi trọng sự xuất hiện của các thầy cúng. Đây là những người có khả năng
tụng kinh và thực hiện các vấn đề liên quan đến tâm linh. Nếu không mời được
Tăng Ni, tang chủ vẫn có thể mời các thầy cúng nhưng nghi thức tụng niệm vẫn
dựa trên các nghi thức của Phật giáo, và thường thiên về Phật giáo Tịnh Độ. Qua
khảo sát cho thấy, 40 % số người được hỏi thường mời Tăng Ni, Phật tử tới tụng
niệm, còn các thầy cúng do tôn giáo kết hợp với tín ngưỡng mà người dân vẫn
tin tưởng vào khả năng của họ (chiếm 56 %). Người dân cũng đánh giá cao tinh
thần và sự tận tâm của Tăng Ni trong quá trình siêu độ cho vong linh nhà mình
trong lễ tang. [Bảng khảo sát số 1] Cô Nguyễn Thị Hường, 48 tuổi (số 34, tổ 12,
Khu Nhuệ Hổ, Phường Kim Sơn, Thị Xã Đông Triều) cho rằng: “Các Tăng Ni
là những người xuất gia tu hành, đạo lực hơn người, hơn nữa dân ta lại đa phần
theo Phật giáo, cho nên mời Tăng Ni về Hộ Niệm và cầu siêu cho người mất
trong tang lễ là hợp tình hợp lý.” [Bảng khảo sát số 1]
Như vậy, tang ma biểu hiện có sự ảnh hưởng của Phật giáo tại thị xã Đông
Triều qua nghiên cứu gồm ba yếu tố gồm: hình tượng Phật hay Bồ Tát, sự hiện
diện của chư Tăng Ni và cư sĩ Phật tử, lời kinh Phật được tán tụng. Trong ba yếu
tố trên thì sự hiện diện của chư Tăng Ni là yếu tố quan trọng nhất biểu hiện sự
ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang, kế đến là sự có mặt của cư sĩ (khi không
có Tăng Ni) và sau cùng là chỉ có hình tượng Phật hay Bồ Tát và các bài kinh.
Thông thường, hình tượng Phật chỉ được tôn trí khi có sự hiện hiện của Tăng Ni
hay cư sĩ, nên yếu tố con người hành lễ luôn quyết định. Như vậy, nếu lễ tang
không có Tăng Ni hay cư sĩ Phật tử đến tụng niệm thì yếu tố Phật giáo hầu như
vắng mặt. Tăng Ni đóng vai trò như người chủ lễ, dẫn dắt tang lễ trong vấn đề
tâm linh và đưa Phật giáo trở thành tôn giáo gắn liền với đời sống tinh thần,
38
trong cách thức tổ chức tang lễ và những quan niệm về thế giới bên kia của
người Việt. Vậy là nếu các lễ tang thiếu hình bóng họ thì cũng có nghĩa rằng
không có hay có rất ít sự ảnh hưởng của Phật giáo, dù cho gia đình ấy vẫn có
niềm tin đạo Phật. Một khi đã tin tưởng Tăng Ni thì nhất thiết phải tuân theo sự
hướng dẫn của họ để tổ chức lễ tang. Những người này sẽ trở thành cư sĩ Phật tử
tương lai nếu họ thấy được giá trị đạo Phật thông qua phẩm hạnh của Tăng Ni
trong suốt lễ tang. Do vậy, cần phải đào tạo những Tăng Ni có khả năng và có từ
tâm thay vì thực dụng, tức thời. Chưa cần phải thuyết pháp hay, những Tăng Ni
này đã và đang làm công việc hoằng pháp hữu hiệu một cách bất ngờ. Sự có mặt
của Tăng Ni trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều đã chứng tỏ sự ảnh
hưởng rộng lớn của Phật giáo tại địa phương này.
2.1.3 Ảnh hưởng đến việc lập bàn thờ Phật trong tang lễ
Đạo Phật được xem là một trong những tôn giáo phổ biến và thịnh hành ở
nước ta. Phật không chỉ được thờ ở các ngôi chùa, mà ngay trong gia đình, nhân
dân cũng lập bàn thờ phật tại gia. Bàn thờ Phật thường phải cao hơn bàn thờ gia
tiên nếu không sẽ phạm xung, vì hiểu một cách đơn giản theo dân gian Phật đã
đạt được sự giải thoát, là bậc Đại giác, không thể ở thấp hơn chúng sinh. Không
gian thờ cúng, không gian mang tính tâm linh trong nhà ở luôn cần đặt yếu tố
gần gũi và giáo dục truyền thống lên hàng đầu để kết nối các thế hệ và giữ vững
gia phong nề nếp gia đình. Với những người theo đạo Phật thì tín ngưỡng thờ
cúng luôn được coi trọng.
Vào thế kỉ XIX và đầu thế kỷ XX, triều Nguyễn độc tôn Nho học. Do đó
mặc dù các chùa trong nước rất nhiều, nhưng hoạt động riêng rẽ, không có một
tổ chức, hệ thống liên lạc chặt chẽ với nhau, sự giao lưu phát triển về Phật học
cũng suy giảm. Do vậy, trong các đám tang, nhân dân ta thường theo pháp thế
gian, nghĩa là theo các thầy cúng nên không có sự xuất hiện của bàn thờ Phật
Tam Cấp.
39
Sau công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam – một phong trào vận động
cho sự phục hưng Phật giáo nhằm tìm lại các giá trị truyền thống và phát triển
hoằng bá Phật giáo tại Việt Nam, bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, công cuộc này đã
làm thay đổi rất nhiều về nội dung và hình thức hoạt động của Phật giáo tại Việt
Nam. Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp
nhất các tổ chức Phật giáo trong nước. [44] Nhân dân ta có dịp gần gũi trở lại
với Phật giáo, chùa chiền được tu sửa và xây dựng, người dân lễ chùa nhiều hơn
và nhu cầu quy y tam bảo cũng theo đó mà gia tăng. Để đáp ứng nhu cầu tâm
linh và đời sống tinh thần của người dân, bàn thờ Phật được thiết lập trong các
đám tang như một sự hiện diện linh thiêng của Đức Phật đối với những người
mất đã quy y tam bảo hoặc do gia đình đó là tín đồ của Phật giáo.
Đối với tâm niệm của người Đông Triều, lập bàn thờ Phật trong tang lễ là
một công việc rất tốt, tạo nhiều phúc nghiệp, nhưng công việc đó không hề đơn
giản chút nào. Gia đình tang chủ lập bàn thờ Phật phải có thành tâm. Trong đám
tang của cụ Nguyễn Văn Tạc (Thôn Nội Hoàng Đông, xã Hoàng Quế, thị xã
Đông Triều), con cháu trong nhà đã bàn bạc và đưa ra quyết định lập bàn thờ
Phật trong tang lễ cho cụ. Theo ông Nguyễn Văn Khải – con trai trưởng của cụ
cho biết: “Lập bàn thờ Phật là một nghi thức lâu đời không thể thiếu trong đám
ma, ngày nay dịch vụ tang lễ rất đầy đủ và phục vụ rất nhanh, nếu như có một
đám ma nào trong vùng không lập bàn thờ Phật thì sẽ bị xóm giềng chê trách
rằng con cháu chưa làm hết trách nhiệm với người chết, trừ khi gia đình đó quá
khó khăn về mặt kinh tế. Lập ban thờ Phật cũng là cách để người dân chúng tôi
gửi gắm sự tin tưởng của mình vào Đức Phật, mong sao Phật chứng giám và
siêu độ cho vong linh của cha chúng tôi được siêu thoát.” [Bảng hỏi phỏng vấn
sâu 1]
Bàn thờ Phật có ba cấp nên gọi là bàn thờ Tam Cấp. Việc sửa soạn lễ cúng
Phật tại lễ tang của cụ Tạc, cũng như các tang lễ khác tại địa phương này thường
có các vật phẩm như sau: Tang chủ sắm các lễ chay gồm hương, hoa tươi, quả
40
chín, oản phẩm, xôi chè, nước lọc, bánh kẹo, tuyệt đối không sắm sửa lễ mặn
như cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt mồi, gà, giò, chả… vì đức Phật không hưởng
thụ những thứ đó; không sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng lên bàn
thờ Phật. Hoa tươi lễ Phật người dân thường dùng là hoa cúc vàng hoặc cúc
trắng, mang ý nghĩa thương viếng người quá cố, không dùng các loại hoa tạp,
hoa dại. Cấp trên cùng có hình tượng Phật, cấp dưới cùng có thêm mâm gạo,
trứng, muối và một chút tiền lẻ.
Đối với các Tông phái khác nhau trong Phật giáo cũng có những cách thức
thờ Phật khác nhau. Trong đám tang cụ Tạc, con cháu cụ đã thực hiện theo nghi
lễ phái Tịnh Độ, do vậy chính giữa bàn thờ Phật Tam Cấp là thờ Phật Di Đà;
Bên trái Phật Di Đà là Bồ Tát Quan Thế Âm. Quan là quan sát, lắng nghe; Thế
là thế gian; Âm là âm thanh. Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát quan sát, lắng
nghe tiếng kêu than của chúng sinh trong thế gian, kịp thời cứu giúp họ thoát
khổ. Tay phải Ngài cầm nhành dương liễu, tay trái cầm bình nước Cam Lồ để
tưới mát chúng sinh, trên đỉnh đầu có hình đức Phật A Di Đà. Ngài thương
chúng sinh như mẹ thương con nên người ta thường tạc tượng Ngài mang hình
dáng nữ; Bên phải Phật Di Đà thường là Bồ Tát Đại Thế Chí, tuy nhiên ở Đông
Triều, người dân thiên về thờ Bồ Tát Địa Tạng vào chung với bộ ba này. Địa
Tạng có nghĩa là An Nhẫn, bất động như địa tạng; tư duy sâu xa kín đáo như
kho tàng bí mật. Ngài mặc áo cà sa, đội mũ tỳ nô, tay phải cầm tích trượng có
mười hai khoen, tay trái nắm viên minh châu. Hạnh nguyện của Bồ Tát Địa
Tạng là độ hết chúng sinh trong Địa Ngục thành Phật thì Ngài mới chứng quả
Vô Thượng Bồ Đề.
Bên cạnh đó, nếu gia chủ mời vị Tăng Ni theo phái Thiền Tông đến tụng
niệm thì ở cấp trên cùng bàn thờ Phật là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế ngồi
kiết già, tay phải cầm cành hoa sen đưa lên, tay trái để ở đầu gối úp xuống, ở thế
tự nhiên thông thả. Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật, hay phát
khởi lòng nhân từ mà tâm hồn luôn luôn an tĩnh, vắng lặng. Bên phải của Đức
41
Phật Thích Ca Mâu Ni là hình của Đức Bồ Tát Văn Thù, vị Bồ Tát có trí tuệ siêu
việt. Bên trái của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là hình của Đức Phổ Hiền Bồ Tát
tượng trưng cho hạnh nguyện lớn, không thối lui.
Tuy nhiên, theo sư thầy Thích Hiền Nhu – trụ trì chùa Kỉnh (Yên Lãng 3,
xã Yên Thọ, thị trấn Đông Triều) thì cũng có những trường hợp chỉ thờ tượng
hoặc ảnh Phật Thích Ca trên bàn thờ Tam Cấp, tùy theo sự chuẩn bị của tang
chủ mà các Tăng Ni tới tụng niệm cũng không bắt buộc họ, bởi miễn sao có sự
hiện diện của Đức Phật là được.
Như vậy, sự hiện diện của bàn thờ Phật trong tang lễ của người dân thị xã
Đông Triều khiến cho không khí và tinh thần của buổi lễ diễn ra trang trọng,
linh thiêng. Thiết lập bàn Phật để thỉnh Phật chứng minh và siêu độ sự ra đi của
vong linh. Tụng kinh để hương linh làm tư lương hướng Phật. Khuyến tấn
hương linh quy y Phật, dứt nghiệp trần lao. Tăng Ni cùng gia chủ quỳ gối chắp
tay bái lạy và đọc kinh cầu siêu cho người quá cố trước sự chứng giám của Đức
Phật. Trước là cúng Phật, sau cúng gia tiên rồi cuối cùng là cúng vong. Bàn thờ
Phật là chiếc cầu nối để thế giới người trần mắt thịt đến với thế giới thanh tịnh
của Đức Phật, nơi con người gửi gắm niềm tin, sự bất an và cầu mong điều tốt
đẹp đến với vong linh người mất. Buổi lễ diễn ra tuần tự, khiến cho người nhà
và người đến phúng viếng cảm thấy yên tâm trong lòng vì đã làm hết bổn phận
đối với người mất. Đây không chỉ là công việc có ý nghĩa đối với vong linh mà
còn là cách thức cư xử của người sống đối với người mất, là giá trị nhân văn của
tôn giáo hòa vào với nền văn hóa lâu đời của người dân thị xã Đông Triều.
2.1.4 Ảnh hưởng của Kinh Phật dùng trong phong tục tang ma
Kinh, còn gọi là Khế kinh, dịch theo âm là Tu-đa-la, là tên gọi của các bài
giảng của đức Phật. Tụng kinh, đặc biệt là trong phong tục tang ma, là đọc lại
những lời Phật dạy về phương pháp tu hành nhằm chuyển tâm của người chết để
họ nhờ đó mà hướng về Phật phát nguyện vãng sinh về cõi Phật, qua đó mà tỏ
ngộ phát tâm đủ tín, nguyện, hành, thì có thể được vãng sinh, còn không thì
42
người chết cũng được chút phước đức nhân duyên do gia đình và chúng tăng
làm nhưng được nhiều hay ít thì tùy thuộc vào sự chứng đắc hay thanh tịnh của
Chư Tăng và lòng thành kính của gia đình mà được sự tương ứng.
Cùng với ý nghĩa đó, khi một gia đình có người mất, người thân của họ
thường thực hiện công việc tụng kinh để người chết sớm được siêu thoát sang
thế giới bên kia, đặc biệt là trong tang ma của bậc sinh thành, đó là công việc thể
hiện chữ hiếu cuối cùng mà các con có thể làm cho cha mẹ.
Tại thị xã Đông Triều, để cho người sắp qua đời được ra đi một cách thanh
thản và nhẹ nhàng, người thân thường bật đài tụng kinh Phật để nơi đầu giường,
với quan niệm khi con người sắp lìa xa thế gian thường lưu luyến và day dứt với
những điều nghiệp mình đã tạo ra khi sống, nghe kinh Phật khiến tâm hồn của
họ hồi hướng về những điều thiện, dứt bỏ tham, sân, si mà đến với Phật.
Trong phong tục tang ma của người dân thị xã Đông Triều, nhiều bài kinh
được sử dụng cả trong lễ tang, lễ tuần đầu, lễ cầu siêu 49 ngày, lễ 100 ngày, và
lễ giỗ đầu. Nhưng quan trọng bậc nhất vẫn là “Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm
Kinh”.
Bát Nhã Tâm kinh là kinh ngắn nhất nhưng vô cùng quan trọng trong Phật
giáo Đại thừa và Thiền Tông, chỉ có khoảng 260 chữ, đó cũng là kinh tinh yếu
của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. [45] Nghĩa chung, Bát Nhã Ba-La-Mật
Đa Tâm Kinh là Kinh quan trọng nói về Trí Tuệ Bát Nhã, nói về tâm, nhưng
không phải là tâm suy nghĩ thường tình của người đời mà nói về cái tâm “đến
bờ kia”. Nó là cái trí có thể soi thấu được cội nguồn của mọi hiện tượng, sự vật
trên thế gian này. Với người tu Phật, bài kinh đó là ngọn đuốc dẫn đường giúp
hành giả đến đích. [28,7]
Qua điều tra khảo sát tại Đông Triều, 62% số người được hỏi nói rằng họ
không biết Kinh Bát Nhã cũng như nội dung của nó là gì, họ tụng kinh theo sự
hướng dẫn của Tăng Ni đến làm chủ lễ cho đám tang. 75% trong số đó là những
43
người trẻ tuổi và đa phần là những người chưa đến chùa tụng kinh bao giờ. 38%
còn lại cho biết nội dung cốt yếu trong kinh “Bát Nhã” mang lại ý nghĩa khi nó
được cất tụng trong một đám tang là nội dung về “Tánh Không”. Trong đó hơn
85% là những người đã ngoài 60 tuổi và tất cả đều là phụ nữ. Những người này
có người đã quy y Tam Bảo, có người chưa, nhưng họ đều là những người hay
lui đến chùa tụng kinh vào các buổi tối trong tuần tại ngôi chùa gần nhà hoặc
ngôi chùa họ đang tu tập. [Bảng khảo sát số 1]
Bà Nguyễn Minh Khuê – một Phật tử đã quy y sinh sống tại thôn Yên
Dưỡng, xã Hoàng Thái Đông, thị xã Đông Triều cho hay: “Phật tử chúng tôi
thường theo chân sư thầy chùa Non Đông đi tụng kinh tại các đám ma. Trong
phần tẩn liệm thi thể hương linh nhập quan, toàn thể Chư Tăng Ni hiệp cùng các
bạn hữu và gia quyến hương linh tụng Bát Nhã Tâm Kinh để hộ niệm, trong ấy
có câu: “Khi Bồ Tát Quán Tự Tại hành sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa Ngài soi thấy
5 uẩn đều không liền qua hết thẩy khổ nạn, Này Xá Lợi Phất, sắc tức là không,
không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như thế”. Lúc này nếu hương
linh thông suốt được lời khai thị trước đây thì sẽ cảm nhận được đại ý của câu
kinh trên. Hương linh sẽ qua hết những khổ nạn, được vào cảnh giới an lạc,
được gặp chánh pháp tu hành sớm được giác ngộ và giải thoát.” [Bảng khảo sát
số 1]
Trong suốt lễ tang từ khi liệm, cúng cơm cho đến hạ huyệt, kinh Bát Nhã
được tán tụng liên tục để cầu nguyện. Có lẽ không sai khi nói rằng hiếm ai đủ
tập trung để nghe và hiểu hết ý nghĩa những lời kinh Phật được trì tụng trong
suốt thời gian lễ tang cho dù nó được dịch ra tiếng Việt. Huống chi, kinh điển trì
tụng thường là âm Hán – Việt và thường Tăng Ni không giảng giải ý nghĩa trước
khi trì tụng. Do vậy, ảnh hưởng của Phật giáo không phải là do nội dung các bài
kinh được tụng mà là “những bài pháp sống động” do chính Tăng Ni thể hiện
qua tam nghiệp của họ. Nếu tam nghiệp thanh tịnh thì họ sẽ cảm hóa được cả
người mất lẫn kẻ còn, bằng ngược lại thì hiệu quả khó đoán biết.
44
Với ý nghĩa như vậy, kinh Bát Nhã được cất tụng trong đám tang để nhắc
nhở con người về sự hữu hạn của đời người, là cái nhìn sâu sắc giúp chúng ta
vượt qua tất cả các cặp đối lập như sinh tử, bản ngã và vô ngã, phiền não và vô
minh… Điều này giúp chúng ta liên lạc với bản chất thật của sự ra đời: Không
có cái chết, không có sự tồn tại… đó là bản chất thực sự của tất cả hiện tượng.
Mỗi con người khi được sinh ra tưởng là Sắc nhưng khi chết đi lại là Không.
Nắm bắt được quy luật đó, người Phật tử Đông Triều thường có thái độ bình tĩnh
đối với cái chết, không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời, sẵn sàng chờ đón
cái chết.
Kinh được tụng thông qua niềm tin của con người với Phật giáo để thức
tỉnh, nhắc nhở và định hướng cho vong linh về cái chết của chính mình như một
sự tất yếu của vũ trụ để họ không còn vương vấn trần gian, đồng thời an ủi tới
người thân trong gia đình không quá đau buồn trước sự mất mát ấy bởi sau thế
giới trần tục là thế giới tâm linh, là cõi luân hồi mà người thân của mình sẽ được
đầu thai tới một kiếp khác.
2.1.5 Ảnh hưởng đến việc làm lễ cầu siêu cho người quá cố
Nói về làm lễ cầu siêu trên chùa cho người quá cố, thường có hai cách như
sau:
Thứ nhất, gửi vong để thờ ở chùa: Trước đây, nghi thức rước vong lên chùa
chỉ dành cho những người không có con cháu. Những người này lo sợ rằng một
khi mình chết đi, không có người thờ phụng, vong sẽ đói khát lang thang. Vì
vậy, họ cúng tài sản của mình cho nhà chùa với nguyện vọng rằng sau khi chết
đi, vong được nương nhờ chốn cửa Phật, hàng năm vào dịp cúng giỗ sẽ do nhà
chùa đứng ra tổ chức để họ được an lòng nơi chín suối, có ảnh, có bát hương (có
thể thờ chung bát hương), vong của họ sẽ được no ấm, không phải chịu cảnh đói
khát, lang thang. Ngày nay, trường hợp gửi vong ở chùa để thờ có thế do toàn bộ
người thân ở nước ngoài, không có cháu trai nối dõi hoặc đơn giản chỉ là nguyện
vọng của người mất hay người thân trong gia đình.
45
Tuy nhiên, tại Đông Triều chỉ có những chùa theo phái Tịnh độ hay Mật
Tông xây nhà thờ vong, còn Thiền Tông chỉ thuần túy cầu siêu cho vong vào
chung thất 49 ngày, chứ không có nhà thờ vong vì nhiều vấn đề liên quan đến
mê tín dị đoan. Thị xã Đông Triều có một số chùa xây nhà vong và nhận thờ
vong ở chùa điển hình như chùa Đồn Sơn (Yên Đức), chùa Chạo Hà, chùa Tế
(Đông Triều)...
Thứ hai, rước vong lên chùa để cầu siêu: Trường hợp này dành cho đa số
người dân, vong linh vẫn thờ phụng ở nhà, chỉ rước di ảnh lên chùa trong dịp 35
hoặc 49 ngày để nhờ Chư Tăng Ni và đạo tràng tụng kinh siêu độ, sau đó rước di
ảnh và bát hương về nhà thờ phụng như cũ. Đối với những gia đình là tín đồ
trung thành của Phật giáo, đã quy y Tam Bảo, hay những gia đình có điều kiện
về mặt kinh tế và thời gian, họ thường đưa vong lên chùa ngay sau lễ tang để
nhờ nhà chùa tụng kinh cầu siêu cho vong trong liên tục 6 tuần đầu, mỗi tuần
một lần cho đến tuần thứ 7 thì thực hiện lễ cầu siêu cho vong thoát khỏi Thân
Trung Ấm.
Thân Trung Ấm được hiểu là sự sống sau khi chết trước khi thần thức
người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cõi nào đó (Trời, Người, A tu la, Địa
ngục, Ngạ quỷ va Súc sinh). Thân trung ấm là thân không có xác thịt mà là lấy
tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần thức thoát ra khỏi xác thì trụ lại ở
thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần lễ, rồi sau đó tìm kiếm một nơi thích
hợp với nghiệp lực của mình mà đi tái sinh. Nếu vong linh là người từng tạo
phước, tu tập tâm linh, thì luôn có những cảm giác yên bình, thanh thản và dễ
dàng để tìm đường tái sinh vào cõi lành. Còn nếu những người từng tạo ra ác
nghiệp, có đời sống tiêu cực thì luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ đau,
kinh hoàng, sợ hãi, thất vọng và chán chường. Họ lang thang một cách tuyệt
vọng trong cõi trung ấm và muốn tìm một thân xác để tái sinh tương xứng với
nghiệp lực của họ. Theo quan niệm của Phật giáo, ngày thứ 49 là ngày định
nghiệp, sẽ quyết định xem vong linh đó đi vào cảnh giới nào. Trong một số
46
trường hợp, có thể có những vong linh không phải chờ làm lễ cầu siêu thì mới
siêu thoát, mà tự vong linh ấy đã siêu thoát rồi. Nhưng với người đang sống, vì
không thể biết được những chuyện như vậy nên để giải quyết nhu cầu về mặt
tâm linh, người ta tiến hành những khóa lễ cầu siêu. Người sống thành tâm
tưởng niệm tới người chết thì vong linh sẽ yên tâm để đi tái sinh. [23]
Tiến hành khóa lễ cầu siêu là để khi ta niệm Phật, dùng kinh giảng giải cho
người ta thấy được những điều thiện, năng lượng của người đang sống và năng
lượng của vong linh cùng hòa đồng. Khi ấy, tâm đồng thanh khí tương cầu, vong
linh mới có thể siêu sinh được. Nói cách khác, đó là sự hướng dẫn để vong linh
hướng tâm theo chính đạo.
Qua tìm hiểu và thăm hỏi trụ trì tại một số ngôi chùa trên địa bàn thị xã
Đông Triều (chùa Kỉnh, chùa Linh Ứng, chùa Thiên Trúc, chùa Chạo Hà), được
biết lễ cầu siêu được tiến hành trong một số trường hợp khác nhau: 1. Dành cho
người mới mất trong vòng 49 ngày (7 tuần lễ đầu tiên); 2. Tổ chức vào mùa Vu
Lan – Báo Hiếu Báo Ân (trong tháng 7 âm lịch, thường là trung tuần tháng 7); 3.
Đại lễ cầu siêu cho vong hồn các liệt sĩ đã hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc,
hoặc tưởng niệm nạn nhân của những tai nạn đáng tiếc đã không may xảy ra.
Theo ý kiến của sư thầy Thích Hiền Nhu – trụ trì chùa Kỉnh thì làm lễ cầu siêu
dành cho các gia đình có người thân mới mất trong vòng 49 ngày là trường hợp
phổ biến, thường gặp nhất trong khóa lễ cầu siêu ở các chùa nói chung.
Ông Nghiêm Xuân Minh, 57 tuổi (số 34 Hoàng Hoa Thám, phường Mạo
Khê, thị xã Đông Triều) cho biết: “Trong các ngày cũng cho người mất như giỗ
tuần đầu, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu… thì ở địa phương mình coi trọng nhất là
ngày giỗ 49. Đây là thời khắc mà vong linh biết mình đã chết thật sự và thoát
khỏi thân trung ấm. Cầu siêu như một sự trợ giúp để vong linh không phải vào
chốn địa ngục. Đồng thời giỗ 49 ngày cũng là cơ hội để tang chủ bày tỏ sự biết
ơn đối họ hàng, hàng xóm láng giềng đã đến chia buồn với gia đình trong đám
tang.” [Bảng khảo sát số 1]
47
Tại Đông Triều, ngày nay người dân có xu hướng đưa vong linh lên chùa
để tiện cho việc làm lễ cầu siêu. Qua khảo sát, con số này là 66%. Bên cạnh đó,
cũng có những gia đình thực hiện việc cầu siêu này ngay tại nhà, song phải lập
thêm bàn thờ Phật tam cấp. 24% số người được hỏi cho rằng việc đưa vong linh
người thân của mình lên chùa trong vòng 49 ngày là phong tục mà ông cha ta
truyền lại và số ít 9% nghe theo lời khuyên của người quen biết rằng nên gửi
vong lên chùa để hương hồn vong linh “được mát mẻ” sẽ phù hộ cho gia đình
mạnh khỏe. Tuy vậy, rất nhiều người (58%) làm vậy vì niềm tin với Phật giáo.
Tức là bây giờ, khi gia đình có một người chết đi, việc đưa vong lên chùa được
coi như một việc đương nhiên cần thiết phải làm. [Bảng khảo sát số 1]
Tùy thuộc vào việc đã từng làm lễ cầu siêu ở chùa từ trước hay chưa, người
đến chùa có thể tới đăng kí trực tiếp với ban quản lý hoặc chỉ đơn giản là sau khi
thu xếp hoàn tất những công việc của đám tang, người ta tới chùa để hỏi xem
tiếp theo gia đình nên làm gì để có thể đưa vong lên chùa. Người nhà chùa sẽ
hướng dẫn sơ lược và giới thiệu họ tới gặp ban quản lý để đăng kí.
Đối với những gia đình chỉ làm lễ cầu siêu thì ngoài việc ghi tên, tuổi, địa
chỉ của các thành viên trong gia đình và tên, tuổi, ngày mất, địa chỉ phần mộ của
người mất… ban quản lý không yêu cầu thêm về số tiền cố định để nhà chùa
chuẩn bị cho khóa lễ, tất cả xuất phát từ tùy tâm và điều kiện kinh tế của gia
đình người mất. Nhưng thường, với số tiền 1,5 triệu đồng là đủ để chuẩn bị đồ
cho khóa lễ. Đồ lễ bao gồm hoa, quả, bánh kẹo và 2 mâm chay để cúng Phật và
cúng vong. Một bàn vong được lập riêng đặt bên cạnh bàn thờ Phật ở chùa.
Người nhà chỉ cần mang ảnh của người mất mà không cần mang bát hương lên
chùa, người ta dùng một chiếc cốc đựng đầy gạo để làm nơi cắm hương cho
vong.
Đối với những gia đình làm cả lễ tuần thì ghi vào sổ những thông tin như
nhóm đối tượng trên và gửi nhà chùa khoảng 200 nghìn mỗi tuần để sửa soạn lễ
cúng tuần cho 6 tuần trước khi lễ cầu siêu 49 ngày chính thức được tổ chức.
48
Tụng kinh ở chùa thường diễn ra vào các buổi tối được thực hiện bởi trụ trì và
các Tăng Ni, cư sĩ Phật tử của chùa. Khi làm lễ cúng tuần, công tác chuẩn bị
tương đối đơn giản, chỉ bao gồm hoa, quả dâng lên ban Phật, sau đó đến buổi tối
vào thời đểm tụng kinh, các Tăng, Ni sẽ đọc tên, tuổi, địa chỉ của vong để cầu
siêu, hồi hướng cho họ sớm được đầu thai vào kiếp người.
Để chuẩn bị cho một khóa lễ cầu siêu tại chùa, gia đình người mất sau khi
ghi đầy đủ và chính xác thông tin cần thiết theo yêu cầu của ban quản lý thì hầu
như không phải mua sắm bất cứ thứ gì khác cho buổi lễ. Nếu thành tâm, khi đến
tham dự khóa lễ, họ có thể mang theo một ít hương, hoa quả, quần áo, giày
dép… bằng đồ thật để dâng lên vong linh. Khi tới chùa, họ bày những lễ vật đó
lên khay, đĩa có sẵn và đặt lên bàn thờ vong hoặc bàn thờ Tam Bảo. Sau khi làm
lễ cầu siêu xong, tất cả những đồ cúng đó được ban phát, làm bố thí hay từ thiện
cho bất kỳ ai có hoàn cảnh khó khăn hay có nhu cầu sử dụng. Tuy nhiên, vì phần
lớn chùa và nhân dân theo Tịnh Độ, các đồ cúng cho vong là tiền vàng mã, đồ
thế nên cũng có nhiều trường hợp nhà chùa đó vẫn chấp nhận tín ngưỡng của
người dân thực hiện đốt vàng mã ngay tại chùa. Đây chính là điểm tích cực, văn
minh và đáng tuyên dương của Thiền Tông so với Tịnh Độ.
Ngoài ra, qua trao đổi, các nhà sư đều cho rằng, trong quan niệm của nhà
Phật, chúng sinh bình đẳng, không phân biệt ai hơn ai kém. Vì vậy, bất kì vong
linh nào cũng có thể đưa rước lên chùa nếu bản thân người chết khi còn tại thế
có nguyện vọng hoặc gia đình của người mất bày tỏ mong muốn được gửi gắm
vong hồn thân nhân của họ vào chốn Thiền môn.
Cách thức mà con người ta chết đi rất đa dạng. Có thể chết vì tuổi già, chết
vì tai nạn, chết vì bệnh tật, chết vì tự tử… Nguyên nhân của cái chết không ảnh
hưởng tới việc tiến hành lễ cầu siêu. Tất cả các nghi thức, diễn tiến của một buổi
lễ vẫn được tổ chức một cách bình thường và giống nhau.
Một điểm đáng lưu ý, một số chùa trên địa bàn đã xuất hiện hình thức lễ
cầu siêu cho thai nhi như chùa Tế, chùa Đồn Sơn, chùa Chạo Hà… Đối tượng
49
thai nhi ở đây được hiểu là: Những thai nhi ngay khi vừa mới sinh ra vì một lý
do nào đó (thường là bị bệnh từ khi còn nằm trong cơ thể người mẹ hoặc sinh
non…) không thể tiếp tục duy trì sự sống; Những trường hợp có thai mà không
thể giữ lại để chờ tới lúc sinh nở, buộc phải nạo phá ngay từ lúc người phụ nữ
biết mình mang thai. Họ quan niệm rằng thai nhi dù chưa cất tiếng khóc chào
đời vẫn được coi là một sinh linh, nên đối xử bình đẳng, coi nó như một con
người. Nhưng vì thai nhi chưa được sinh ra hoặc vừa mới sinh nhưng đã sớm lìa
đời, không có tên tuổi nên làm lễ cầu siêu tập thể, khi tuyên sớ, nếu các vong
linh người lớn được xướng đầy đủ họ tên thì các vong linh thuộc dạng này sẽ chỉ
được gọi ngắn gọn theo là thai nhi họ Nguyễn, thai nhi họ Trần, thai nhi họ Lê...
tùy vào cái họ mà người đến chùa đăng kí làm lễ cầu siêu cho thai nhi đó ghi lại.
Như vậy, lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh là một nghi lễ vô cùng quan
trọng sau đám tang, thể hiện tấm lòng của người sống đối với người quá cố qua
hình thức cầu siêu. Cách thức thực hiện của các Tăng Ni phái Thiền Tông vừa
có những điểm chung vừa có những điểm riêng so Tịnh Độ và môn phái của các
thầy cúng. Dưới góc nhìn của văn hóa và tín ngưỡng, mỗi phái có những cách
thức riêng do quan niệm mà ra, tuy nhiên xét thấy Thiền Tông có những ưu
điểm vượt hơn về giá trị nhân văn, hành xử văn minh với thế giới tâm linh và thế
giới đời thực, tránh đi nhiều yếu tố mê tín dị đoan làm mụ mị dân chúng.
2.2.6 Ảnh hưởng đến nghi lễ cúng dường, bố thí, từ thiện sau tang ma
Cúng dường là cách nói trang trọng biểu thị ý nghĩa là sự chăm sóc, nuôi
dưỡng làm cho sự vật, sự việc được tồn tại và phát triển. Cúng dường có rất
nhiều loại, mỗi một loại sẽ mang một ý nghĩa khác nhau: cúng dường Chư Tăng
(cúng dường Trai Tăng), cúng dường tượng Phật, cúng dường trường hạ, cúng
dường hoa, cúng dường ba la mật, cúng dường xây chùa, cúng dường nước,
cúng dường đèn, cúng dường đúc chuông, cúng dường gạo cho chùa, cúng
dường mandala, cúng dường trai phạn…. tất cả các loại cúng này thường được
gọi chung là cúng dường Tam Bảo. Nhưng nhìn chung, cúng dường Tam Bảo
50
bao gồm 3 loại cúng chính và quan trọng nhất: Cúng dường Phật Bảo; Cúng
dường Pháp Bảo; Cúng dường Tăng Bảo. Cúng dường Tam Bảo nhằm mục đích
đền đáp ân đức mà Tam Bảo đã ban cho, cúng dường cũng như bố thí để tâm
người Phật tử được thăng hoa, vun bồi công đức, xả ly của cải.
Con đường giải thoát trong Ðạo Phật cho thấy rằng sự hiện hữu của
mỗi hữu tình chúng ta là một sự ràng buộc trói chặt chằng chịt vào nhau, cho
nên, tâm xả bỏ là nhìn vào sự khao khát mong cầu của các người khác, để phát
khởi lên một tính chất thương xót ngay nơi chính mình, để rồi mạnh mẽ
“nhường lại” hay xả bỏ các vật sở hữu của mình để đáp ứng theo sự cầu xin của
họ, mà xả bỏ ra cho họ. Xả bỏ theo nghĩa ấy mới được gọi là “bố thí” nghĩa là
đáp ứng lại vô điều kiện và không lưỡng lự đối với sự cầu xin của bất cứ ai.
Cúng dường cũng thế, song vì đối tượng của Cúng dường là Tam Bảo nên tình
cảm ở đây không phải là tâm thương xót mà là tâm cung kính.
Ngoài thể thức cúng dường Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) nêu trên thì theo
Phật học từ điển của học giả Đoàn Trung Còn, sự cúng dường còn có những thể
thức khác nữa. Đó là: "Những người tín thí cúng dường cũng được chia ra 3
hạng”:
1 – Vì cung kính sùng mộ mà cúng dường.
2 – Vì hạnh nguyện mà cúng dường.
3 – Vì thấy có lợi ích cho ông bà, cha mẹ quá vãng, cũng như cho gia đình
trong đời sống này và đời sau mà bố thí, cúng dường.
Theo đó, ý nghĩa của việc cúng dường Tam bảo và bố thí sau đám tang
được gán với hạng thứ 3: “Vì thấy có lợi ích cho ông bà, cha mẹ quá vãng, cũng
như cho gia đình trong đời sống này và đời sau mà bố thí, cúng dường”.
Theo thầy Thích Như Minh – trụ trì chùa Linh Ứng (thôn Thọ Tràng, xã
Yên Thọ, thị xã Đông Triều) cho biết lý do khiến người dân thường làm công
đức cho vong linh sau đám tang như sau: “Kinh Ðịa tạng dạy, hành trang tư
51
lương cho người mất, không gì khác hơn là những tu tạo phước đức như là làm
phước, tu thiện, phóng sanh, bố thí, cúng dường, tụng kinh, hồi hướng công đức
từ những người thân quyến còn sống thực hiện với tất cả sự thành tâm. Tuy
nhiên, kinh Ðịa tạng cũng khẳng định rất rõ là hành trang tư lương đó có chu
đáo cỡ nào thì người mất chỉ tiếp hưởng được một phần mà thôi, còn 6 phần còn
lại người thân quyến tu tạo sẽ trọn hưởng. Ðây là một nguyên tắc nhân quả, ai
gieo nhân tốt thì người đó hưởng quả tốt, người được hồi hướng chỉ được cộng
hưởng một phần công đức mà thôi, nhưng một phần này là vô cùng quan trọng.”
[Bảng hỏi phỏng vấn sâu 2] Như vậy, thực chất phương pháp này cốt yếu nhắm
vào sự làm lợi ích cho người còn sống thông qua việc tạo hành trang cho người
mất. Bản thân người mất, trong thời gian Thân trung ấm, có được lợi ích nhiều
hay ít hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự tuỳ hỷ vào việc làm cho mình và nhất là sự hồi
tâm hướng thiện, thanh tịnh hoá mình trước khi thọ sinh.
Với quan niệm như vậy, sau khi lo liệu công việc hậu sự xong, gia đình
tang chủ sẽ tìm đến ngôi chùa gần nhà hoặc ngôi chùa nơi Tăng Ni đã hộ niệm
cho vong linh nhà mình đang tu hành, để thực hiện công việc cúng dường. Đó
cũng là những công việc hậu tạ và đáp lễ giúp hồi hướng cho người mất do lúc
sống chưa làm được. Phẩm vật tạ lễ chùa người dân mang theo là: hương, đăng,
hoa, quả và một bao thư để chút tịnh tài (tiền) cúng dường Tam Bảo. Cúng
dường Chư Tăng Ni tốt nhất các thứ như những vật thường dùng của nhà tu. Tuỳ
theo điều kiện kinh tế giàu nghèo mà các gia đình cúng dường lớn nhỏ hay rộng
hẹp. Theo lời thầy Như Minh: “Với những người nông dân, họ thường cúng gạo
và lương thực, thực phẩm cho chùa, như một vật phẩm thiết thực nhất. Còn đối
với những tầng lớp trí thức, công nhân viên chức, họ thường cúng dường Pháp
Bảo để hồi hướng cho vong linh quá cố nhà họ bằng việc in ấn Kinh sách, các
tài liệu về truyền bá Phật giáo cho nhà chùa.” Đến đây, thầy cũng lưu ý thêm:
“Việc in ấn Kinh sách cho chùa không phải muốn là làm, việc này cần thông qua
52
ý kiến của chùa, cần in Kinh gì, cần thêm sách gì, nếu tự ý làm có thể gây ra
lãng phí vô ích mà thôi.” [Bảng hỏi phỏng vấn sâu 2]
Ngoài ra, với sự giảng đạo của các Tăng Ni, người dân Đông Triều cũng
mua chim cá phóng sinh hoặc bố thí cho bệnh nhân nghèo khổ, hoạn nạn, các
gia đình khó khăn trong vùng… Như vậy, vừa có thể hành thiện cho đời, lại
cũng rất có lợi cho vong hồn người mất được siêu thoát. Hội từ thiện chùa Linh
Ứng do thầy Minh đứng ra làm đại diện cho biết hội hoạt động dựa trên nguồn
tiền từ các nhà hảo tâm, các cơ quan tổ chức doanh nghiệp thông qua các hoạt
động kêu gọi từ thiện, trong đó thầy rất bất ngờ vì 3 năm trở lại đây, hội nhận
được sự tài trợ của các gia đình khởi tâm làm từ thiện do gia đình đó vừa có
người mất, hầu hết trên địa bàn xã Yên Thọ, phường Mạo Khê và xã Hoàng
Quế. Họ mong muốn việc làm của họ sẽ giúp hồi hướng đến sự siêu thoát của
vong linh. Thầy cho biết: “Trong năm 2018, hội đã đóng góp 47 triệu đồng để
chung tay xây dựng ngôi nhà tình nghĩa cho trường hợp em Trần Quốc Khánh
(thôn Xuân Quang, xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều), mẹ bỏ đi, bố mất vì tai nạn,
chỉ có bà nội già yếu. Trong khoản từ thiện đó, phải đặc biệt nhắc đến khoản
tiền 30 triệu đồng là phần đóng góp đến từ gia đình bà Hoàng Thị Nhạn chủ
doanh nghiệp gốm sứ Mạo Khê, có chồng vừa mất do ung thư vòm họng vào
tháng 9 năm 2018.” [Bảng hỏi phỏng vấn sâu 2] Có thể thấy, đây chính là điểm
góp phần giáo dục cộng đồng đáng được tuyên dương của Phật giáo.
Ngoài ra, để đền đáp công đức của chư Tăng Ni, người nhà của người quá
cố nguyện quy y Tam Bảo, giữ gìn ngũ giới. Nhưng thường những trường hợp
này rơi vào những người đã có tuổi. Họ nguyện theo cửa Phật và tụng kinh, ăn
chay tại gia vào những ngày mồng Một, ngày Rằm để mong hồi hướng công
đức, cầu siêu độ cho vong linh nhà mình. Bà Phạm Thị Vâng (68 tuổi, Yên Lãng
I, xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều) cho hay: “Kể từ ngày ông nhà bà mất đến nay
bà đã ăn chay được 3 năm. Sau khi làm xong tang lễ cho ông, bà thường lui tới
chùa tụng kinh cho ông nhiều hơn, hoặc niệm Phật ngay tại nhà”. Bà cũng nói
53
thêm: “Các con cũng rất ủng hộ việc bà ăn chay, tuy không phải là ăn chay
trường nhưng chúng nói rằng ăn chay tốt cho sức khỏe của bà bây giờ và ăn
chay niệm Phật để vong linh ông nhà bà sớm được siêu thoát, chúng nhận thức
được như vậy nên bà cũng cảm thấy yên tâm phần nào…” [Bảng hỏi phỏng vấn
sâu 3]
Việc cúng dường và bố thí chúng sinh không chỉ được thực hiện như một
hành động tạ lễ sau đám tang mà còn được người dân Đông Triều thường xuyên
thực hiện, hễ có dịp thì cúng dường Tam bảo vì họ quan niệm việc cúng dường
không chỉ tích phước cho vong linh nhà mình mà còn có phước báo cho mình,
nó cũng là phương pháp tập cho mình xả ly tiền tài của cải, có như vậy mới mau
thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Như vậy, những quan điểm về cúng dường Tam Bảo và bố thí chúng sinh
đã được Phật giáo đề cao ngay từ thuở khai sinh. Ngày nay, trong phong tục
tang ma của người Đông Triều, công việc đó càng trở nên quan trọng hơn, nó
đòi hỏi người thực hiện không phải với tư cách đánh đổi một lượng của cải để
đổi lấy cái lợi, cái phúc về cho vong linh và gia đình nhà mình, mà cốt yếu phải
dựa trên sự thành tâm và lâu dài trong con đường tu tập.
2.2 Đánh giá sự ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma
tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh từ góc độ triết học
2.2.1 Thế giới quan
Thế giới quan là biểu hiện của cách nhìn bao quát đối với thế giới bao gồm
cả thế giới bên ngoài, cả con người và cả mối quan hệ của người với thế giới. Nó
quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ nam cho hành
động của con người, trên cơ sở đó hoạt động của con người mang tính hướng
đích và thể hiện tính tự giác. Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu
tố tôn giáo và triết học hòa quện vào nhau, làm cơ sở luận chứng cho nhau. Ở
đây, chúng ta chú ý tới yếu tố triết học. Trong thế giới quan phức hợp nhiều
54
thành phần của người Đông Triều thì Phật giáo có ảnh hưởng lớn tới phương
pháp tư duy của họ về thế giới tâm linh sau khi chết.
Câu hỏi khi chết sẽ đi về đâu cũng là một vấn đề lớn từ xưa đến nay đối với
hầu hết các dân tộc. Người Việt nói chung và người dân thị xã Đông Triều nói
riêng cũng luôn trăn trở về việc sau khi chết có cái gì, và điều này cho thấy họ
vẫn muốn có sự “viện trợ” của những thánh thần, tổ tiên, giúp đỡ cho bản thân
hưởng được một cuộc sống ở trần gian được an toàn và hạnh phúc hơn, vượt qua
những điều mà người trần không vượt qua nổi. Họ tin rằng có một thế giới bên
kia gọi là âm phủ, là thế giới dành cho người chết. Thế giới đó, không chỉ có
người chết, mà trong đó còn có thần thánh, ma quỷ. Việc đồng thời phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên cũng dẫn đến tín ngưỡng đa thần. Với
quan niệm chung của Phật giáo, con người khi qua đời sẽ về cõi Thân Trung
Ấm, chờ xét xử, tội ác của bản thân ở trần gian sẽ bị phán xử khi con người
bước qua thế giới bên kia, nếu làm điều tốt thì được lên cõi Trời, lên Niết Bàn,
nếu làm chuyện ác khi còn sống sẽ xuống cõi địa ngục, ngạ quỷ. Thuyết nhân
quả của Phật giáo phù hợp với quan niệm ông trời trừng phạt kẻ ác, cứu giúp
người lành. Thuyết luân hồi trong Phật giáo phù hợp với quan niệm về sự tồn tại
của linh hồn sau khi chết. Sự tiếp nhận này không gây ra sự thay đổi đột ngột
trong đời sống tinh thần của người dân nước ta, nó được ví như “nước ngấm vào
lòng đất”. [36,67-69]
Phật giáo đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những quan niệm biện chứng với
các khái niệm “vô thường”, “vô ngã”. Ở đó cho thấy Phật giáo nhìn nhận sự vật
trong sự vận động và biến đổi liên tục, không có gì là trụ lại mãi mãi, không có
ai là tồn tại mãi mãi. Tuy nhận thức đó chỉ thấy được cái biến đổi mà không thấy
được cái ổn định tương đối, chỉ thấy được cái vận động mà không thấy được cái
hình thức của vận động, tuy dễ đi tới chiều hướng bi quan và thái độ buông xuôi,
nhưng mặt khác phải thấy nhận thức như vậy là có chiều sâu, là thấy được một
phương diện cơ bản của phát triển sự vật.
55
Chính lẽ đó, tinh thần nhập thế của dòng Thiền Trúc Lâm khiến cho con
người khi sống thì cống hiến hết mình làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn. Nhưng
khi cận kề cái chết lại xem cuộc sống ở trần này như là cõi tạm, thân xác này
cũng là tạm bợ, bởi nó được hình thành từ tứ đại, chắc chắn là sẽ đến lúc phải
tiêu hủy. Nắm bắt được quy luật đó, con người thường có thái độ bình tĩnh đối
với cái chết, không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời, sẵn sàng chờ đón cái
chết. Nếu là một tín đồ trung thành của Thiền Tông thay vì Tịnh Độ, gia đình
tang chủ thường ít than khóc hay tỏ ra quá đau buồn, họ quan niệm rằng than
khóc, thương tiếc đối với người quá vãng là vô ích, bởi vì người đã chết thì
không thể nghe và biết sự thương tiếc ấy. Mà lúc đó, chỉ nên đọc kinh để người
chết được về với Phật.
Là tín đồ Phật giáo, người dân Đông Triều vẫn biết khi chết con người
không thể đem gì theo được, chỉ có thể đem theo tội và phước mà thôi. Thế
nhưng, người bình dân vẫn tin rằng thế giới bên kia nơi mà người chết sẽ đến
cũng là một thế giới giống như thế giới của người sống. “Dương sao, âm vậy”,
quan niệm này dẫn đến việc người thân chuẩn bị cho người chết những vật dụng
mà họ sử dụng hằng ngày như quần áo, giày dép, những kỷ vật thân thuộc của
người chết để người chết mang sang thế giới bên kia mà sử dụng. Đồng thời,
người sống tắm rửa sạch sẽ và rảy nước thơm cho thi thể để linh hồn người chết
được sạch sẽ mà đi gặp tổ tiên, gặp Đức Phật.
Với sự truyền bá rộng rãi của Phật giáo mang đậm bản sắc của người Việt,
họ đã sớm hình thành cho mình những khái niệm về hồn, linh hồn mang triết lý
Phật giáo từ phạm trù “danh” và “sắc”. Hồn và linh hồn là một khái niệm phổ
biến rộng rãi trong nhân dân. Con người được cấu tạo bởi hai yếu tố, phần xác
và phần hồn. Xác và hồn luôn đi đôi với nhau, không thể tách rời. Linh hồn, sau
khi đã rời thân xác, trở thành một thực thể độc lập, cũng có sự sống, và cũng cần
phải tìm thức ăn để sống. Chính vì thế, gia đình phải làm phước để hồi hướng
thức ăn và phước đức cho linh hồn. Người dân tin rằng những của cải đã cống
56
hiến vào chùa và dâng cho Tăng Ni sẽ nương theo khói nhang và tiếng kinh mà
đến với người thân đã quá vãng của mình. Vì thế, việc những người này có được
sung sướng hay không, không chỉ phụ thuộc vào phước họ đã có lúc sinh thời
mà còn phụ thuộc vào việc con cháu hay người thân của họ làm phước nhiều
hay ít. Lợi ích và bất hạnh sẽ tùy thuộc phần lớn vào hành vi cuộc sống thường
nhật và nhất là tâm niệm và hành vi cuộc sống lúc lâm chung hay trong thời gian
49 ngày của Thân Trung Ấm. Thời gian này là một dịp tốt để thân nhân quyến
thuộc tu tạo nhiều phước duyên hồi hướng cho người mới mất. Và chính người
mới mạng chung đó cũng còn được cơ hội hồi tâm hướng thiện để hoặc là giảm
bớt nghiệp ác đã làm khi còn sống, hoặc là tăng trưởng thêm phúc duyên nếu khi
sống mình đã sống thiện.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy của người dân là quan điểm
duy tâm thần bí. Quan điểm này khiến người ta không hướng vào hiện thực, mà
hướng vào nghiệp, vào quả báo, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì. Và
một tư duy như vậy thì không cần gì đến sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo và hành
động. [34,71]
Phật giáo là nền giáo lý nhân bản, chăm lo đến đời sống con người khi con
người còn trong thai mẹ cho đến lúc trưởng thành và cái ngày từ giã cuộc sống.
Ðối với Phật giáo, cái chết được đánh giá ngang bằng và quan trọng như cái
sống, là một tiền đề nối liền với cái sống kế tục. Chuẩn bị cho cái chết không
chu đáo, người chết sẽ gặp phải nhiều bất hạnh. Và do đó, chuẩn bị chu đáo cho
cái chết cũng tức là chuẩn bị tốt cho cái sống.
2.2.2 Nhân sinh quan
“Nhân sinh” theo “Đại từ điển Tiếng Việt” là cuộc sống của con người.
Theo “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” thì nhân sinh quan là quan niệm của con
người về cuộc đời, nó được xếp thành hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối
sống. Mỗi thời đại khác nhau, con người có một nhân sinh quan khác nhau và
nhờ có nhân sinh quan đúng đắn mà con người mới có những bước đi đúng đắn
57
và vững chắc hơn. Như vậy, nhân sinh quan Phật giáo là toàn bộ những quan
niệm của Phật giáo về con người, bản chất cuộc sống con người, về mục đích đó
là sự khổ, thái độ và phương pháp tu tập của con người nhằm thoát khổ, đạt tới
giác ngộ, giải thoát.
Các lễ thức tang ma cho chúng ta thấy rõ văn hóa ứng xử của người dân thị
xã Đông Triều, trong đó bao gồm ứng xử giữa những người sống với nhau, ứng
xử giữa người sống và người chết, ứng xử giữa người và thế giới thần linh mang
đậm tính cộng đồng và triết lý Phật giáo. Mỗi thành viên trong cộng đồng đều tự
giác tuân thủ những nguyên tắc và đều thực hiện nó như một cách để tích phước
cho ông bà, cho chính mình và cho con cháu. Điều này, đến lượt nó lại tác động
ngược trở lại, tạo thành một lối sống hướng đến người khác đặc trưng ở nông
thôn Việt Nam. Văn hóa ứng xử giữa người sống và người chết thể hiện qua
việc chuẩn bị cho người chết chu đáo để về thế giới bên kia bằng các cách như
chuẩn bị đồ dùng, tắm rửa cho thi hài, thực hiện các nghi lễ, dâng cúng các
phẩm vật… Tất cả những việc cúng lễ dành cho người chết, từ khi chôn cất đến
giỗ hết đều do người còn sống tiến hành. Mọi việc làm này xét theo nguồn gốc
đều xuất phát từ nhân sinh quan của người sống tiến hành, nhằm nâng đỡ người
đã mất về nơi an nghỉ cuối cùng. Đồng thời, việc dâng cúng phẩm vật cho người
đã qua đời cũng thể văn hóa ứng xử của người sống đối với người đã chết. Suy
cho cùng, đó là tính nhân văn cố hữu của nhân loại. Tuy nhiên, nó biểu hiện ở
mỗi tộc người, mỗi cộng đồng người đều mang những đặc trưng riêng, xuất phát
từ tín ngưỡng hoặc tôn giáo mà cộng đồng đó tôn thờ.
Tâm thức người dân Đông Triều luôn quan niệm “nghĩa tử là nghĩa tận”,
con người khi sang thế giới bên kia cần được chôn cất, tang ma cẩn thận mới có
thể yên nghỉ nơi vĩnh hằng. Cuộc đời trần gian hữu hạn, cuộc sống bên kia thế
giới mới là vĩnh hằng. Con người từ khi sinh ra cho đến lúc trở về cát bụi đều
mong muốn được yên nghỉ trong vòng tay gia đình, người thân. Sự quan tâm
này còn được thể hiện qua việc những người trong cộng đồng nhiệt tình và tận
58
tâm tham dự đám tang, bao nhiêu hờn oán đều xóa bỏ khi đối tượng đã chết, vì
họ quan niệm rằng chết là dứt nợ trần gian. Dù cho lúc sinh thời, giữa họ và láng
giềng có xảy ra mâu thuẫn gì, thậm chí ghét nhau đến nỗi không thèm nhìn mặt
nhau, thì khi người đó chết đi cũng có nghĩa là mọi lỗi lầm, mọi giận hờn, tranh
chấp đều được cởi bỏ. Những người đến viếng, những người tham dự các nghi lễ
đều thành tâm nghĩ đến người đã chết với những gì tốt đẹp nhất mà người đó đã
làm trong lúc sinh thời. Đám tang như một lời nhắc nhở về sự hữu hạn của đời
người như trong quan niệm của Phật giáo. Với những người còn sống, tổ chức
đám ma theo đúng phong tục tang ma của người địa phương vô cùng quan trọng,
không chỉ giúp người khuất được “mồ yên mả đẹp” mà còn có ý nghĩa bảo vệ
người thân được êm ấm, bình an.
Sự quan tâm của người sống đối với người đã chết còn được thể hiện qua
việc thực hiện các lễ cầu siêu. Người ta tin rằng, thông qua việc nhờ sư sãi cầu
siêu, linh hồn của người thân của họ có thể giảm bớt tội lỗi mà được lên Niết
bàn. Chính vì thế, họ chú tâm vào thực hiện việc cầu siêu cho người chết. Việc
đọc kinh cho người chết ngoài ý nghĩa là để cho linh hồn sớm được siêu thoát
còn giúp cho người đang sống suy nghĩ để làm điều thiện nhiều hơn. Có thể nói,
các lễ thức mà người dân thị xã Đông Triều thực hiện cho thân nhân đã quá
vãng của họ là nhằm để rửa sạch tội lỗi và tích thêm phước đức bởi họ tin rằng
người thân của họ sẽ được về Niết bàn hoặc được đầu thai kiếp sau an nhàn nên
họ chuẩn bị chu đáo cho việc ra đi của người thân thông qua các nghi lễ cầu
siêu, đồng thời cầu mong tích đức cho bản thân mình và con cháu sau này.
Tang lễ nhìn bề ngoài là hành vi ứng xử xã hội của người sống đối với
người chết, nó thuộc phạm trù văn hóa tang lễ (cũng có người gọi nó là văn hóa
sinh tử). Nhưng kỳ thực văn hóa tang lễ là loại văn hóa dành cho người sống
chứ không phải cho người chết. Vì một khi con người đã qua đời, thì mọi nhu
cầu từ vật chất đến tinh thần đều khép lại. Tuy nhiên, vì truyền thống “uống
nước nhớ nguồn” và tục thờ cúng tổ tiên nên tang ma và các hình thức thờ cúng
59
là nơi thể hiện của sự xót thương, lòng hiếu thuận của những người sống đối với
người quá cố. Trong ứng xử giữa người sống và người chết diễn ra hai tâm lý
giằng kéo: nuối tiếc người thân và đưa tiễn người thân qua bên kia thế giới [4,
260]. Đây cũng là giai đoạn mà người sống học cách thích ứng với hoàn cảnh
mới, một hoàn cảnh mà không còn sự hiện diện cụ thể của người thân trong cuộc
sống hằng ngày của họ nữa. Chính vì thế mà họ cảm thấy xót thương, tiếc nuối
người đã mất.
Phật giáo đề ra tư tưởng từ bi bác ái, chủ trương hỉ xả cứu khổ cứu nạn là
những tư tưởng gây được xúc động lòng người và đã trở thành một trong những
nguồn gốc của lòng thương người, chủ nghĩa nhân đạo. Do đó, ngoài hướng vào
việc đọc kinh cầu siêu cho người mất, Phật giáo còn chủ trương giáo dục tín đồ
làm công đức, cúng dường Tam Bảo và bố thí của cải cho chúng sinh. Những
vật dụng sinh hoạt hằng ngày của người đã mất, nếu còn dùng được gia chủ nên
làm từ thiện cho người nghèo, những người có hoàn cảnh khó khăn. Điều đó
không chỉ mang lại sự kết nối giữa người với người, làm cho con người gần
nhau hơn, mà còn hướng đến những giá trị tốt đẹp cho người đã khuất.
Tiểu kết chương 2
Như vậy, Phật giáo đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hành nghi lễ trong
tang ma. Nếu như trước đât khi chưa có sự du nhập của Phật giáo, trong nghi lễ
tang ma, người dân lấy đạo hiếu và quan niệm nhân gian là phần nhiều, đề cao
và phụ thuộc vào người con trai trưởng. Thì nay, với sự ảnh hưởng của Phật
giáo, trong việc thực hành nghi lễ tang ma đã có sự có mặt của các nhà sư, các
vãi, cờ phướn, có sự có mặt của những lời Kinh Phật… vận dụng và việc cầu
siêu, hướng cho vong linh người chết về với Phật. Phật được coi như người cứu
độ chúng sinh, cứu độ tổ tiên, hướng đường cho tổ tiên được giải thoát về cõi
“sinh tử luân hồi”.
60
Triết lý nhân sinh và đạo hiếu của Phật giáo đã góp phần củng cố nội dung
triết lý của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và phong tục tập quán trong lễ tang ma
tại thị xã Đông Triều. Tất cả những tư tưởng chủ yếu về thế giới quan và nhân
sinh quan Phật giáo, đặc biệt là quan niệm của Phật giáo về con người, về thế
giới… đã có ảnh hưởng lớn đến nhiều phong tục, tập quán khác nhau. Trong đó,
quan điểm về cái chết hay thuyết luân hồi nghiệp báo đã ảnh hưởng sâu sắc và
được biểu hiện trong cách tiễn đưa một con người về thế giới bên kia của người
Việt.
Có thể nói, đạo Phật vốn độ sinh chứ không phải độ tử nhưng ngày nay thì
kiêm cả hai. Tuy nhiên, cốt tủy của đạo Phật vẫn phải là độ sinh và do đó phải đi
theo hướng này. Muốn vậy, Phật giáo cần tập trung chú trọng vào người đang
khỏe mạnh để hướng dẫn họ đi đúng Chính pháp hơn là chỉ phục vụ tín ngưỡng.
Khi họ có niềm tin kiên cố vào Chính pháp thì tất yếu họ sẽ theo các nghi thức
Phật giáo để tổ chức lễ tang mà không phải lo sợ. Một nghi thức Phật giáo cần
có để tất cả cư sĩ Phật tử nương theo thực hành khi chưa hay không có Tăng Ni.
Nó cần có những nội dung hướng dẫn rõ ràng từ cách thức tổ chức đến các kinh
trì tụng, bắt đầu từ khi hấp hối cho đến an sàng. Phật giáo có đủ tầm ảnh hưởng
để làm việc này.
61
KẾT LUẬN
Phật giáo đã du nhập vào nước ta từ những năm đầu công nguyên, nó đã
thấm sâu vào máu thịt của người dân, gắn bó cùng phù hợp với lối sống, đạo đức
và phong tục tập quán người dân thị xã Đông Triều. Đối với những người dân
quê chất phác, đạo Phật đến với họ không phải cao siêu, xa lạ mà rất bình dị, gần
gũi qua những câu ca dao dân ca, tục ngữ mang đầy tính triết lý sống Phật giáo.
Được xem kinh đô Phật giáo đời Lý Trần, An Sinh – Đông Triều đã thấm đẫm
tinh thần Phật giáo và có những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn hóa tâm
linh của người dân nơi đây, trong đó phải kể đến phong tục tổ chức tang lễ tiễn
đưa một người về thế giới bên kia.
Phong tục tang ma của người Việt tại Đông Triều đã trở thành triết lý, đạo
lý làm người. Một mặt, con cháu bày tỏ sự biết ơn, thương tiếc đối với các bậc
sinh thành cả khi họ còn sống cũng như khi họ đã mất. Mặt khác, nó cũng thể
hiện trách nhiệm của con cháu đối với nhu cầu của ông bà cha mẹ người thân
khi tìm đến Phật giáo để nương nhờ thân xác và linh hồn sau khi chết. Trong
mỗi đám tang của các gia đình, dường như yếu tố Phật giáo là không thể thiếu
trong việc nâng đỡ linh hồn về thế giới bên kia.
Những quan niệm của Phật giáo về thế giới, về con người, về cái chết, về
kiếp luân hồi nghiệp báo… có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát triển bản
sắc dân tộc, phong tục tập quán của người Việt Nam nói chung và người Đông
Triều nói riêng. Phật giáo cho rằng sống chết là quy luật tất yếu của thế gian,
giống như mặt trời mọc rồi lặn. Sống và chết chỉ có ý nghĩa là thay đổi từ trạng
thái này sang trạng thái khác. Chết là bắt đầu của một chu kỳ sống mới, một kiếp
sống mới. Theo đạo Phật không có kiếp sống đầu tiên và kiếp sống cuối cùng,
sau khi tái sinh con người sẽ được tái sinh đầu thai vào một kiếp sống khác.
Kiếp đó là hạnh phúc hay khổ đau tùy thuộc vào bản thân họ đã sống thiện hay
sống ác trong quá khứ.
62
Chúng ta hay tự hào đạo Phật một thời là quốc giáo và có ảnh hưởng nhiều
nhất trong nền văn hóa dân tộc. Trong tất cả các lễ hội thì đạo Phật, như một sự
mặc định, có sự gắn kết với lễ tang nhiều nhất. Sự mặc định cao đến độ hễ thấy
Tăng Ni đi đến đâu thì người ta thường nghĩ là có người đã hoặc sắp qua đời ở
nơi đó. Vậy mà, qua lễ tang của tín đồ Phật tử, ta thấy hầu như là các phong tục
tập quán, thậm chí là mê tín, vẫn chiếm phần lớn. Đâu đó vẫn còn những gia
đình tổ chức một lễ tang có phần phô trương, cậy giàu khoe của, tổ chức linh
đình hoặc không tiền mà cầu danh cố làm cho thiên hạ khen là đám ma lớn, con
cháu có hiếu. Đó là những giá trị hư ảo vô nghĩa mà Phật giáo không nghi nhận.
Tăng Ni theo Tịnh Độ vẫn còn thỏa hiệp với tín ngưỡng đốt vàng mã trong nhân
dân gây nên sự lãng phí tốn kém, ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, tuy có một tôn
giáo đứng ra để dẫn dắt đám tang là Phật giáo, song cơm dâng cúng cho người
mất vẫn chưa hoàn toàn là đồ chay, như vậy càng tạo thêm nghiệp cho vong linh
vì sự vô tình sát sinh của tang chủ. Đây vẫn còn là những điều phải đáng suy
ngẫm!
63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Bạch (2011), Tục ma chay cưới hỏi, NXB Thời Đại.
2. Nguyệt Hạ (2005), Phong tục hôn lễ tang lễ tế lễ Việt Nam, NXB Đà Nẵng.
3. Hoàng Tuấn Phổ (2010), Nguồn gốc - ý nghĩa tang lễ người Việt, NXB
Thanh Hóa.
4. Phan Thuận Thảo (2005), Tục lệ cưới gả tang ma của người Việt xưa, NXB
Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
5. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục.
6. Nhất Thanh (2016), Đất lề quê thói, NXB Văn học.
7. Đào Duy Anh (2010), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn học.
8. Đào Duy Anh (2015) Hán Việt Từ điển, NXB Khoa học xã hội.
9. Toan Ánh (2005), Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, NXB Trẻ.
10. Toan Ánh (1991), Phong tục Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.
11. Hoàng Quốc Hải (2005), Văn hóa phong tục, NXB Phụ Nữ.
12. Phan Kế Bính (2011), Việt Nam phong tục, NXB Văn Học.
13. Thích Minh Quang (2003), Chân dung người Phật tử, NXB Hồng Đức.
14. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1,
từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV, NXB Khoa học Xã Hội.
15. Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nhà xuất bản Văn Học,
Hà Nội.
16. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản
Thuận Hóa.
17. Đoàn Trung Còn (2003), Triết lý nhà Phật, NXB Tôn giáo.
18. Minh Chi, Hà Thúc Minh (1995), Đại cương lịch sử triết học phương
Đông, NXB TPHCM.
19. Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, NXB Tôn
giáo.
20. Thích Minh Châu, Minh Chi (1991), Từ điển Phật học Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội.
64
21. Phan Dũng (2010), Thế giới bên trong con người, NXB Trẻ.
22. Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hóa tâm linh, NXB Hà Nội.
23. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, NXB Hà Nội.
24. Tứ thư (2003), Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
25. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2013), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Đại học
Quốc Gia, TPHCM.
26. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2010), Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB
Giaos dục Việt Nam.
27. Thiền sư Đinh Lực, cư sĩ Nhất Tâm (2003), Tôn giáo và lịch sử văn minh
nhân loại, Phật giáo Việt Nam và thế giới, NXB Văn Hóa Thông Tin.
28. Bát Nhã Ba – La – Mật – Đa Tâm Kinh, Đại sư Hoằng Tán giảng, Hòa
thượng Thích Phổ Tuệ dịch.
29. Kỷ yếu hội thảo khoa học, giá trị khu di tích quốc gia đặc biệt, khu di tích
lịch sử nhà Trần tại Đông Triều (Quảng Ninh), (9/1024), huyện Đông Triều,
tỉnh Quảng Ninh.
30. Nguyễn Văn Anh (2014), Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều,
NXB Văn Hóa – Thông Tin.
31. Nguyễn Thị Hằng (2015), Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của
người Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, trường đại học Khoa học xã
hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.
32. Dương Quang Điện (2010), Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân
gian Việt Nam, luận văn thạc sĩ triết học, trường đại học Khoa học xã hội và
Nhân Văn, ĐHQGHN.
33. Trịnh Thị Hương (2014), Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến
đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, trường
đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.
34. Nguyễn Thu Hương (2013), Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống và một
số phong tục tập quán của người dân Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ triết
học, trường đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.
65
35. Nguyễn Thị Toan (2006), Quan niệm về giải thoát trong Phật giáo và ảnh
hưởng của nó đối với đời sống của người Việt Nam, luận án tiến sĩ triết học,
trường đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.
36. Tạ Thị Thảo (2012), Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt (qua khảo sát ở tỉnh Bắc Giang), luận văn thạc sĩ triết học,
trường đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.
37. Theo Báo điện tử Giác Ngộ.
38. Theo số liệu thống kê của Ban Hướng dẫn Phật tử, Giáo hội Phật giáo Việt
Nam trong bài phát biểu của HT Thích Thiện Nhơn Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư
ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đọc trong ngày kỷ niệm 27
năm ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (07/11/1981 – 07/11/2008)
được đăng trên báo Giác Ngộ cơ quan ngôn luận của Thành hội Phật giáo Thành
phố Hồ Chí Minh.
39. https://hoavienbinhanvinhnghiem.com/phong-tuc-tang-ma-cua-nguoi-viet/
40. https://nguoiphattu.com/nghi-le/nghi-le-tong-hop/6034-tang-le-theo-nghi-
thuc-phat-giao.html
41. https://vanhoaphatgiaovietnam.net/thu-vien/sing/cau-sieu-rat-can-thiet-cho-
nguoi-mat-nhat-la-trong-49-ngay-350
42. https://www.youtube.com/watch?v=Wr3d2IGvD84
43. https://phatgiao.org.vn/ten-goi-va-hinh-tuong-phat-bo-tat-thuong-gap-
d11092.html
44. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5n_h%C6%B0ng_Ph%E1%
BA%ADt_gi%C3%A1o
45. https://hoasenphat.com/kien-thuc-phat-giao/nguon-goc-va-y-nghia-cua-bat-
nha-tam-kinh.html
66
PHỤ LỤC
BẢNG KHẢO SÁT SỐ 1
Để phục vụ cho việc làm khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Ảnh hưởng của
Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh”,
tôi đã tiến hành điều tra xã hội học bằng bảng hỏi bằng cách phát ra 50 phiếu
khảo sát ngẫu nhiên với nội dung sau đây:
Bạn hãy đánh dấu vào ô “” với phương án mà bạn thấy phù hợp nhất với
ý kiến của mình và điền thông tin vào những câu hỏi mở dưới đây:
Họ và tên, tuổi, địa chỉ sinh sống hiện nay?
…………………………………………………………………………………….
Giới tính? Nam Nữ
NỘI DUNG 1
Câu 1: Trong tang lễ, gia đình bạn thường mời ai về để Hộ Niệm cho vong linh
quá cố?
Chư Tăng Ni, Phật tử Thầy cúng Gia đình tự làm
Câu 2: Thái độ của Chư Tăng Ni, Phật tử tới Hộ Niệm trong tang lễ như thế
nào?
Rất thành tâm và tận tụy Làm để cho xong nhiệm vụ
Câu 3: Đánh giá của bạn về vai trò của Tăng Ni và tầm ảnh hưởng của Phật
giáo trong tang lễ?
……………………………………………………………………….....................
NỘI DUNG 2
Câu 4: Bạn có phải là Phật tử đã quy y Tam Bảo không?
Có Không
67
Câu 5: Bạn có thường xuyên tới chùa tụng kinh, nghe kinh không?
Có Không
Câu 6: Bạn có biết Kinh Bát Nhã không?
Có Không
Câu 7: Đánh giá của bạn về sự hiện diện của Kinh Bát Nhã trong tang lễ?
…………………………………………………………………………………….
NỘI DUNG 3
Câu 8: Gia đình thường làm lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh ở đâu?
Tại chùa Tại nhà
Câu 9: Lý do gia đình đến chùa làm lễ cầu siêu cho người thân?
Theo phong tục mà ông cha truyền lại
Theo lời khuyên của người quen biết
Dựa vào niềm tin của bản thân với Phật giáo
Câu 10: Qua lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh, gia đình mong muốn điều gì?
Hồi hướng công đức cho vong linh được siêu thoát, không bị đọa địa ngục
Tích đức cho chính gia đình và con cháu mình sau này
Cả hai phương án
Câu 11: Đánh giá của bạn về vai trò của việc làm lễ cầu siêu 49 ngày cho người
quá cố?
…………………………………………………………………………….............
68
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA BẢNG KHẢO SÁT SỐ 1
Câu 1: Trong tang lễ, gia đình bạn thường mời ai về để Hộ Niệm cho vong
linh quá cố?
Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)
Chư Tăng Ni, Phật tử 20 40
Thầy cúng 28 56
Gia đình tự làm 2 4
Câu 2: Thái độ của Chư Tăng Ni, Phật tử tới Hộ Niệm trong tang lễ như
thế nào?
Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)
Rất thành tâm và tận tụy 41 82
Làm để cho xong nhiệm vụ 9 18
Câu 3: Đánh giá của bạn về vai trò của Tăng Ni và tầm ảnh hưởng của
Phật giáo trong tang lễ?
Cô Nguyễn Thị Hường, 48 tuổi, Số 34, tổ 12, khu Nhuệ Hổ, phường Kim
Sơn, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh: “Các Tăng Ni là những người xuất gia
tu hành, đạo lực hơn người, hơn nữa dân ta lại đa phần theo Phật giáo, cho nên
mời Tăng Ni về Hộ Niệm và cầu siêu cho người mất trong tang lễ là hợp tình
hợp lý.”
Câu 4: Bạn có phải là Phật tử đã quy y Tam Bảo không?
Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)
24 48 Có
26 52 Không
69
Câu 5: Bạn có thường xuyên tới chùa tụng kinh, nghe kinh không?
Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)
17 34 Có
33 66 Không
Câu 6: Bạn có biết Kinh Bát Nhã không?
Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)
31 62 Có
19 38 Không
Câu 7: Đánh giá của bạn về sự hiện diện của Kinh Bát Nhã trong tang lễ?
Bà Nguyễn Minh Khuê, 51 tuổi, sinh sống tại thôn Yên Dưỡng, xã Hoàng
Thái Đông, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh: “Phật tử chúng tôi thường theo
chân sư thầy chùa Non Đông đi tụng kinh tại các đám ma. Trong phần tẩn liệm
thi thể hương linh nhập quan, toàn thể Chư Tăng Ni hiệp cùng các bạn hữu và
gia quyến hương linh tụng Bát Nhã Tâm Kinh để hộ niệm, trong ấy có câu: “Khi
Bồ Tát Quán Tự Tại hành sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa Ngài soi thấy 5 uẩn đều
không liền qua hết thẩy khổ nạn, Này Xá Lợi Phất, sắc tức là không, không tức
là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như thế”. Lúc này nếu hương linh thông
suốt được lời khai thị trước đây thì sẽ cảm nhận được đại ý của câu kinh trên.
Hương linh sẽ qua hết những khổ nạn, được vào cảnh giới an lạc, được gặp
chánh pháp tu hành sớm được giác ngộ và giải thoát.”
Câu 8: Gia đình thường làm lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh ở đâu?
Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)
Tại chùa 33 66
Tại nhà 17 34
70
Câu 9: Lý do gia đình đến chùa làm lễ cầu siêu cho người thân?
Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)
Theo phong tục mà ông cha truyền lại 24 12
Theo lời khuyên của người quen biết 18 9
Dựa vào niềm tin của bản thân với Phật giáo 58 29
Câu 10: Qua lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh, gia đình mong muốn điều
gì?
Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)
Hồi hướng công đức cho vong linh được siêu 7 14
thoát, không bị đọa địa ngục
6 12 Tích đức cho chính gia đình và con cháu mình
sau này
Cả hai phương án 74 37
Câu 11: Đánh giá của bạn về vai trò của việc làm lễ cầu siêu 49 ngày cho
người quá cố?
Ông Nghiêm Xuân Minh, 57 tuổi, địa chỉ 34 Hoàng Hoa Thám, Phường
Mạo Khê, thị xã Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh: “Trong các ngày cũng cho
người mất như giỗ tuần đầu, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu… thì ở địa phương
mình coi trọng nhất là ngày giỗ 49. Đây là thời khắc mà vong linh biết mình đã
chết thật sự và thoát khỏi thân trung ấm. Cầu siêu như một sự trợ giúp để vong
linh không phải vào chốn địa ngục. Đồng thời giỗ 49 ngày cũng là cơ hội để
tang chủ bày tỏ sự biết ơn đối họ hàng, hàng xóm láng giềng đã đến chia buồn
với gia đình trong đám tang.”
71
BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU 1
I. Thông tin chung
Người thực hiện phỏng vấn: Trần Thu Hà, lớp K59 Triết Học CLC, trường
Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn.
Người được phỏng vấn: Ông Nguyễn Văn Khải, thôn Nội Hoàng Đông, xã
Hoàng Quế, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh
Chủ đề phỏng vấn: Cách bày trí và ý nghĩa của việc lập bàn thờ Phật trong
tang lễ.
Địa điểm: tại tư gia ông Nguyễn Văn Khải.
Thời gian: Ngày 05 tháng 04 năm 2019.
Giới thiệu đôi nét về người được phỏng vấn: Ông Nguyễn Văn Khải, 63
tuổi, làm nghề nuôi trồng thủy sản, là con trai trưởng của Nguyễn Văn Tạc – cụ
vừa qua đời do tuổi già vào ngày 02 tháng 04 năm 2019.
II. Nội dung
Ngày 05/04/2019 dương lịch tức ngày 01 tháng 03 năm Kỷ Hợi, vào ngày
giỗ tuần đầu của cụ Nguyễn Văn Tạc, tác giả có dịp đến thăm gia đình ông
Nguyễn Văn Khải, trước hết là để thắp nén hương kính viếng hương hồn cụ, sau
để hỏi thăm ông Khải về cách bày trí những vấn đề liên quan đến việc lập bàn
thờ Phật trong tang lễ cho cụ Tạc vừa qua.
Tác giả: Thưa ông, hiện tại cháu đang theo học tại trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân Văn, cháu đang thực hiện một đề tài nghiên cứu về ảnh
hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng
Ninh. Trong đó, có mục liên quan đến việc thiết lập bàn thờ Phật tam cấp. Ông
có thể cho cháu hỏi một số câu để phục vụ cho bài viết không ạ?
Ông Khải: Được, cháu hỏi đi. Tôi sẽ trả lời cho cháu những gì tôi biết.
72
Tác giả: Vâng, cháu cảm ơn ạ. Cháu được biết Phật giáo là tôn giáo phổ
biến trong đời sống tâm linh của nhân dân ta, nhưng không biết từ bao giờ bàn
thờ Phật được thiết lập trong tang lễ thưa ông?
Ông Khải: Bàn thờ Phật xuất hiện trong tang lễ có từ rất lâu, cũng được
khoảng 30 đến 40 năm trở lại đây rồi.
Tác giả: Vậy ban thờ Phật trong đám tang tại địa phương mình được bày trí
như thế nào ạ?
Ông Khải: Bàn thờ Phật này sau khi được dịch vụ tang lễ lắp đặt xong xuôi
và phủ lên trên lớp khăn trải màu vàng, con cháu trong nhà sẽ bày trí lên ban thờ
gồm có hoa, thường là hoa cúc trắng hoặc vàng để cân xứng 2 bên, 1 đĩa xôi, 3
bát chè, bánh kẹo, oản phẩm, nước lọc. Ngoài ra còn có thêm đĩa hoa quả mà bắt
buộc trong đó phải có chuối vì đó là truyền thống, những loại quả khác tùy theo
mùa. Dùng cốc thủy tinh đựng gạo để cắm hương. Ba cấp đều phải có những vật
phẩm đó, ngoài ra cấp trên cùng có ba bức tượng Phật, cấp dưới cùng làm thêm
một mâm gạo trên có 3 hoặc 5 quả trứng luộc và một chút tiền lẻ, một túi muối.
Tác giả: Theo ông lập ban thờ Phật trong đám tang đối với người trong gia
đình và những người tới dự đám tang có ý nghĩa như thế nào ạ?
Ông Khải: Lập bàn thờ Phật là một nghi thức lâu đời không thể thiếu trong
đám ma, ngày nay dịch vụ tang lễ rất đầy đủ và phục vụ rất nhanh, nếu như có
một đám ma nào trong vùng không lập bàn thờ Phật thì sẽ bị xóm giềng chê
trách rằng con cháu chưa làm hết trách nhiệm với người chết, trừ khi gia đình đó
quá khó khăn về mặt kinh tế. Lập ban thờ Phật cũng là cách để người dân chúng
tôi gửi gắm sự tin tưởng của mình vào Đức Phật, mong sao Phật chứng giám và
siêu độ cho vong linh của cha chúng tôi được siêu thoát.
73
Cuộc trò chuyện của ông Khải và tôi sau một khoảng thời gian khá dài
cũng kết thúc. Với khoảng thời gian đó bản thân tác giả đã tiếp nhận và thu thập
được nhiều thông tin liên quan đến đề tài đã được ông cung cấp.
Xin chân thành cảm ơn ông!
74
BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU 2
I. Thông tin chung
Người thực hiện phỏng vấn: Trần Thu Hà, lớp K59 Triết Học CLC, trường
Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn.
Người được phỏng vấn: Sư thầy Thích Như Minh, trụ trì chùa Linh Ứng,
thôn Thọ Tràng, xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Chủ đề phỏng vấn: Tìm hiểu về việc cúng dường Tam bảo, bố thí, từ thiện
sau đám tang.
Địa điểm: tại chùa Linh Ứng.
Thời gian: Ngày 18 tháng 3 năm 2019.
Giới thiệu đôi nét về người được phỏng vấn: Thầy Thích Như Minh là trụ
trì của chùa Linh Ứng, nằm ở trong làng Thọ Tràng, xã Yên Thọ, thị xã Đông
Triều, tỉnh Quảng Ninh. Gia đình của Thầy có mấy anh chị em thì đều theo
nghiệp tu hành. Thầy về trụ trì ở chùa Linh Ứng, thành lập nên hội từ thiện chùa
Linh Ứng hoạt động từ tháng 01 năm 2015.
II. Nội dung
Vào 15h chiều ngày 18/03/2019 dương lịch, tác giả đã hẹn gặp trước với
thầy Thích Như Minh tại chùa Linh Ứng để thực hiện cuộc phỏng vấn với thầy
về những vấn đề liên quan đến việc cúng dường Tam Bảo, làm từ thiện của
những gia đình có người thân vừa mất.
Tác giả: Dạ thưa thầy, hiện tại con đang theo học tại trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân Văn, con đang thực hiện một đề tài nghiên cứu về ảnh
hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng
Ninh. Con có thực hiện khảo sát một số ngôi chùa trong địa bàn để làm tài liệu
hoàn thành khóa luận. Vậy nên con mong thầy có thể giúp con hiểu thêm một số
vấn đề về cách thức làm từ thiện và công đức cho chùa sau đám tang ạ.
75
Thầy: Được, con hỏi đi. Thầy sẽ trả lời trong phạm vi cho phép.
Tác giả: Vâng, con cảm ơn thầy ạ. Thầy có thể cho con biết từ đâu mà sau
mỗi đám tang, các gia chủ lại tìm đến chùa để làm công đức hay hoạt động từ
thiện không ạ?
Thầy: Trong Kinh Ðịa tạng có dạy, hành trang tư lương cho người mất,
không gì khác hơn là những tu tạo phước đức như là làm phước, tu thiện, phóng
sanh, bố thí, cúng dường, tụng kinh, hồi hướng công đức từ những người thân
quyến còn sống thực hiện với tất cả sự thành tâm. Tuy nhiên, kinh Ðịa tạng cũng
khẳng định rất rõ là hành trang tư lương đó có chu đáo cỡ nào thì người mất chỉ
tiếp hưởng được một phần mà thôi, còn 6 phần còn lại người thân quyến tu tạo
sẽ trọn hưởng. Ðây là một nguyên tắc nhân quả, ai gieo nhân tốt thì người đó
hưởng quả tốt, người được hồi hướng chỉ được cộng hưởng một phần công đức
mà thôi, nhưng một phần này là vô cùng quan trọng. Cho nên thầy nghĩ, hiểu
được những điều đó, người dân thường có xu hướng làm những điều lành, điều
thiện để hồi hướng cho vong linh thân nhân được siêu thoát.
Tác giả: Vậy thì cách thức mà người dân địa phương cúng dường cho chùa
sau khi thầy đến tụng niệm cho vong linh nhà họ sau đám tang là gì ạ?
Thầy: Với những người nông dân, họ thường cúng gạo và lương thực, thực
phẩm cho chùa, như một vật phẩm thiết thực nhất. Còn đối với những tầng lớp
trí thức, công nhân viên chức, họ thường cúng dường Pháp Bảo để hồi hướng
cho vong linh quá cố nhà họ bằng việc in ấn Kinh sách, các tài liệu về truyền bá
Phật giáo cho nhà chùa. Tuy nhiên, việc in ấn Kinh sách cho chùa không phải
muốn là làm, việc này cần thông qua ý kiến của chùa, cần in Kinh gì, cần thêm
sách gì, nếu tự ý làm có thể gây ra lãng phí vô ích mà thôi.
Tác giả: Con được biết, trong quá trình về làm trụ trì của chùa, thầy đã khởi
xướng thành lập hội từ thiện chùa Linh Ứng. Vậy có trường hợp nào thông qua
76
việc từ thiện của hội để hồi hướng cho vong linh người thân nhà mình không
thưa thầy?
Thầy: Có đấy. Trong năm 2018, hội đã đóng góp 47 triệu đồng để chung
tay xây dựng ngôi nhà tình nghĩa cho trường hợp em Trần Quốc Khánh (thôn
Xuân Quang, xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), mẹ bỏ đi, bố
mất vì tai nạn, chỉ có bà nội già yếu. Trong khoản từ thiện đó, phải đặc biệt nhắc
đến khoản tiền 30 triệu đồng là phần đóng góp đến từ gia đình bà Hoàng Thị
Nhạn chủ doanh nghiệp gốm sứ Mạo Khê, có chồng vừa mất do ung thư vòm
họng vào tháng 9 năm 2018. Phật tử Nhạn rất thành tâm, Phật giáo có thể đóng
góp cho việc giáo dục cộng đồng khiến thầy rất vui.
Cuộc trò chuyện của Thầy Minh và tôi sau một khoảng thời gian khá dài
cũng kết thúc. Với khoảng thời gian đó bản thân tác giả đã tiếp nhận và thu thập
được nhiều thông tin cũng như nguồn tài liệu liên quan đến đề tài đã được Thầy
cung cấp.
Xin chân thành cảm ơn Thầy!
77
BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU 3
I. Thông tin chung
Người thực hiện phỏng vấn: Trần Thu Hà, lớp K59 Triết Học CLC, trường
Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn.
Người được phỏng vấn: Bà Phạm Thị Vâng, Yên Lãng I, xã Yên Thọ, thị
xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Chủ đề phỏng vấn: Việc ăn chay niệm Phật để hồi hướng công đức cho
vong linh quá cố.
Địa điểm: tại tư gia bà Phạm Thị Vâng.
Thời gian: Ngày 20 tháng 3 năm 2019.
Giới thiệu đôi nét về người được phỏng vấn: Bà Phạm Thị Vâng, 68 tuổi,
hiện đang sống cùng gia đình con trai tại Thôn Yên Lãng I, xã Yên Thọ, thị xã
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chồng bà đã mất được 3 năm và bà đang thực
hiện ăn chay kỳ vào các ngày Rằm và Mồng Một hằng tháng.
II. Nội dung
Ngày 20/03/2019 tác giả đã có dịp đến thăm nhà bà Phạm Thị Vâng. Nhân
dịp này, tác giả đã thực hiện cuộc phỏng về vấn đề làm tu tập của bà để hồi
hướng công đức cho vong linh chồng bà.
Tác giả: Thưa bà, hiện tại cháu đang theo học tại trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân Văn, cháu đang thực hiện một đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng
của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .
Cháu có khảo sát ý kiến của người dân địa phương để làm tài liệu hoàn thành
khóa luận. Vậy cháu rất mong nhận được sự giúp đỡ của bà để có thể hoàn thành
bài nghiên cứu của mình.
Bà Vâng: Cháu hỏi đi, bà sẽ trả lời cháu những gì bà biết.
78
Tác giả: Dạ vâng, bà có thể cho cháu biết lý do gì khiến bà ăn chay niệm
Phật và bà đã ăn chay niệm Phật tại gia được bao nhiêu năm không ạ?
Bà Vâng: Kể từ ngày ông nhà bà mất đến nay bà đã ăn chay được 3 năm.
Sau khi làm xong tang lễ cho ông, bà thường lui tới chùa tụng kinh cho ông
nhiều hơn, hoặc niệm Phật ngay tại nhà. Bà già rồi nên cảm nhận được việc gần
đất xa trời, ăn chay và tụng kinh thờ Phật trước là để cầu cho ông nhà bà sớm
được siêu thoát và sau cũng là để tâm hồn bà được nhẹ nhàng hơn.
Tác giả: Ngoài việc ăn chay và tụng Kinh niệm Phật, bà còn làm gì khác để
hồi hướng cho sự siêu độ của ông không thưa bà?
Bà Vâng: Sau khi làm xong đám tang cho ông, bà tới chùa để cúng dường
cho sư thầy đã Hộ Niệm cho ông nhà bà trong đám tang. Bà cũng đã quy y nơi
cửa Phật và khuyên bảo con cháu cùng quy y như bà. Thỉnh thoảng bà cũng ra
chùa để làm công quả cho chùa như nhỏ cỏ, quét dọn, nấu cơm… bà già rồi
cũng chỉ làm được những việc đó. Thời gian đầu là để mong tích thiện cho vong
linh của ông, sau nữa thấy đó cũng là những điều tạo phúc cho chính bản thân và
con cháu nên bà làm thường xuyên hơn.
Tác giả: Đối với việc bà thường xuyên đi chùa và ăn chay niệm Phật, các
con của bà có thái độ như thế nào ạ?
Bà Vâng: Các con cũng rất ủng hộ việc bà ăn chay, tuy không phải là ăn
chay trường nhưng chúng nói rằng ăn chay tốt cho sức khỏe của bà bây giờ và
ăn chay niệm Phật để vong linh ông nhà bà sớm được siêu thoát, chúng nhận
thức được như vậy nên bà cũng cảm thấy yên tâm phần nào.
Cuộc trò chuyện của hai bà cháu chúng tôi kết thúc sau một khoảng thời
gian không dài do bà có việc phải đi. Nhưng với khoảng thời gian đó bản thân
tác giả đã tiếp nhận và thu thập được nhiều thông tin cũng như nguồn tài liệu
liên quan đến đề tài đã được bà cung cấp.
Xin chân thành cảm ơn bà!