TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC

------------

TRẦN THU HÀ

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO

TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,

TỈNH QUẢNG NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: TRIẾT HỌC

HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY

KHÓA: QH-X-2014

Hà Nội, 2019

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC

------------

TRẦN THU HÀ

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO

TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,

TỈNH QUẢNG NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: TRIẾT HỌC

HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY

KHÓA: QH-X-2014

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. PHẠM HOÀNG GIANG

Hà Nội, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các thông tin

và số liệu được sử dụng là trung thực và ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả khóa luận

Trần Thu Hà

LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành bài báo cáo khóa luận tốt nghiệp về đề tài “Ảnh

hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông triều, tỉnh

Quảng Ninh” là một quá trình đòi hỏi sự dày công tìm tòi, khám phá, nghiên

cứu tài liệu và thăm hỏi khảo sát tại chùa. Ngoài sự nỗ lực của bản thân, em xin

được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy TS. PHẠM HOÀNG GIANG –

giảng viên khoa Triết học trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – người

đã hướng dẫn, tạo điều kiện cung cấp cho em những tư liệu và ý kiến đóng góp

quý báu.

Tuy nhiên do những hạn chế về cả mặt thời gian và kiến thức, bài báo cáo

của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong quý thầy cô cùng

bạn đọc đóng góp ý kiến để bài viết của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2019

Sinh viên thực hiện

Trần Thu Hà

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ NGHI LỄ

TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH .................. 6

1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và tình hình Phật giáo tại

xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .................................................................... 6

1.1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ........................................... 6

1.1.2 Tình hình Phật giáo tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .......... 12

1.2 Mối liên hệ giữa quan niệm về cái chết của Phật giáo và phong tục

tang ma của người Việt .................................................................................. 15

1.3 Nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh 18

1.3.1 Nguồn gốc và bản chất của phong tục tang ma ............................... 18

1.3.2 Một số đặc điểm nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều,

tỉnh Quảng Ninh. ........................................................................................... 23

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 27

CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT

GIÁO TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,

TỈNH QUẢNG NINH ....................................................................................... 30

2.1 Nội dung ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị

xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .................................................................. 30

2.1.1 Ảnh hưởng đến hình thức tổ chức tang lễ ........................................ 30

2.1.2 Ảnh hưởng của Tăng Ni và cư sĩ Phật tử trong đám tang ............... 34

2.1.3 Ảnh hưởng đến việc lập bàn thờ Phật trong tang lễ ........................ 39

2.1.4 Ảnh hưởng của Kinh Phật dùng trong phong tục tang ma .............. 42

2.1.5 Ảnh hưởng đến việc làm lễ cầu siêu cho người quá cố ................... 45

2.2.6 Ảnh hưởng đến nghi lễ cúng dường, bố thí, từ thiện sau tang ma ... 50

2.2 Đánh giá sự ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại

thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh từ góc độ triết học ............................ 54

2.2.1 Thế giới quan .................................................................................... 54

2.2.2 Nhân sinh quan ................................................................................. 57

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 60

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 64

PHỤ LỤC ........................................................................................................... 67

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ

nước. Qua hàng nghìn năm, tư tưởng Phật giáo đã du nhập, truyền bá và ảnh

hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân nước ta. Đông Triều

là một vùng đất cổ, xưa gọi là An Sinh, là trung tâm Phật giáo đời Lý Trần, là

cái nôi của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền mang bản sắc Phật giáo

riêng của Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Những nền tảng

Phật giáo đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn hóa tinh thần, phong tục

tập quán của người dân nơi đây, trong đó phải kể đến những ảnh hưởng của Phật

giáo trong phong tục tang ma.

Con người sinh ra, lớn lên, học hành, đỗ đạt, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ

cái rồi cũng có ngày trút hơi thở cuối cùng, xa rời cuộc đời. Có người chôn sau

mấy thước đất, có người trở thành một nắm tro tàn, cát bụi lại trở về với cát bụi.

Họ sống một cuộc sống bình thường như mọi người cho đến khi nhắm mắt xuôi

tay, để lại niềm thương tiếc cho những người còn sống. Theo thời gian, tang ma

là một trong số rất nhiều các phong tục tập quán chịu ảnh hưởng của tôn giáo,

trong đó chiếm phần lớn là Phật giáo. Khi du nhập vào nước ta, Phật giáo đã gạt

bỏ phần triết lý xa xôi, khó hiểu, trở về với cuộc sống trần thế hằng ngày. Những

quan điểm về đạo hiếu, lòng từ bi, bác ái, về linh hồn, thuyết luân hồi, nghiệp

báo… đã trở nên rất phù hợp với lối sống nông thôn, tình làng nghĩa xóm của

người Việt thông qua những nghi thức tiễn đưa một con người về nơi an nghỉ

cuối cùng.

Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần

của người dân thị xã Đông Triều ngày càng được nâng cao. Tang ma cùng

những nghi thức của nó càng được coi trọng, đó là nơi thể hiện tấm lòng, sự tận

tụy của người sống đối với người đã khuất. Nhìn dưới góc độ văn hoá, phong

tục tang ma là một hiện tượng văn hoá xã hội phản ánh đặc trưng văn hoá tộc

1

người. Xét về mặt khoa học, nghiên cứu tang ma là hướng tiếp cận để tìm hiểu

những giá trị văn hoá truyền thống tộc người, góp phần vào quá trình giữ gìn và

phát huy văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, ở thị xã Đông

Triều, tỉnh Quảng Ninh chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính

chuyên khảo riêng về sự kết nối giữa Phật giáo và phong tục tang ma của người

dân địa phương nơi đây. Nghiên cứu tang ma của người dân Đông Triều là một

hướng tiếp cận nghiên cứu nhằm làm rõ những nét độc đáo, những giá trị văn

hóa – xã hội truyền thống của người Việt và những biến đổi trong tang ma dưới

tác động của tôn giáo và quá trình giao lưu văn hóa.

Trong bối cảnh hầu hết các chùa ở Việt Nam đều theo Tịnh Độ Tông và các

tín đồ có niềm tin Phật giáo đều mong muốn có nghi lễ cầu nguyện của Phật

giáo trong lễ tang của người thân, người viết xin được đề cập về “Ảnh hưởng

Phật giáo trong phong tục tang ma của người dân thị xã Đông Triều, tỉnh

Quảng Ninh” làm đối tượng để khảo cứu, qua đó nhận định được mức độ ảnh

hưởng của Phật giáo trong đời sống tâm linh của người dân địa phương. Nghiên

cứu tang ma của người dân thị xã Đông Triều vừa góp phần bảo lưu văn hóa tộc

người truyền thống vừa góp phần giúp cho các cán bộ quản lý văn hóa, các cơ

quan chức năng tiếp tục bảo tồn những giá trị tốt đẹp của phong tục tang ma

cũng như có những biện pháp thích hợp trong việc quản lý tôn giáo, tín ngưỡng,

hoạch định các chính sách đối với cộng đồng dân cư.

2. Tình hình nghiên cứu

Phật giáo là một tôn giáo lớn nhất nước ta do vậy đã luôn được quan tâm

của nhiều nhà nghiên cứu các công trình tiêu biểu như: “Phật giáo nguyên thuỷ

đến thế kỉ XIII” của Trần Văn Giáp; “Việt Nam Phật giáo sử học” của Thích

Mật Thể; “Phật giáo Việt Nam” của nhiều tác giả do giáo sư Nguyễn Tài Thư

chủ biên, hay “Lược sử Phật giáo Việt Nam” của Thượng toạ Thích Minh

Tuệ… các công trình này đã tổng kết khái quát tiến trình lịch sử Phật giáo tại

Việt Nam. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả về Phật

2

Giáo ở Việt Nam như: “Tư tưởng Phật Giáo” của Nguyễn Duy Hinh đã đi sâu

nghiên cứu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Đặc điểm Phật giáo Việt

Nam được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa có tiếp

thu tôn giáo ngoại nhập. Còn nhiều tác giả như Thiền sư Đinh Lực và Cư sĩ Nhất

Tâm trong công trình “Phật giáo Việt Nam và Thế giới” đã mô tả Phật giáo và

những vấn đề cơ bản của Phật, Pháp, Thiền. Tôn giáo hiện hành và sự ảnh

hưởng của nó tới văn hoá, kinh tế, chính trị của các quốc gia, các dân tộc.

Tuy có các cách tiếp cận và sự cảm nhận khác nhau nhưng các tác phẩm

trên đã khám phá rất cặn kẽ và rành mạch về Phật giáo thế giới cũng như Phật

giáo Việt Nam – một thực thể tinh thần đã tồn tại hàng nghìn năm và không phải

với tư cách một tôn giáo ngoại nhập, mà đã được bản địa hóa từ rất lâu và vẫn

thường xuyên được bản địa hóa để trở thành một phần tâm linh của dân tộc Việt

Nam.

Nghiên cứu về phong tục tang ma có các công tình tiêu biểu như: Ngô

Bạch (2011) “Tục ma chay cưới hỏi”; Nguyệt Hạ (2005) “Phong tục hôn lễ

tang lễ tế lễ Việt Nam”; Hoàng Tuấn Phổ (2010)“Nguồn gốc – ý nghĩa tang lễ

người Việt”; Nhất Thanh (2016)“Đất lề quê thói”; Đào Duy Anh (2010)“Việt

Nam văn hóa sử cương”; Toan Ánh (2005) “Tín ngưỡng Việt Nam”; Hoàng

Quốc hải (2005) “Văn hóa phong tục”; Phan Kế Bính (2011) “Việt Nam phong

tục”...

Những tác phẩm này đã nghiên cứu các vấn đề phong tục, tập quán nói

chung và phong tục tang ma nói riêng. Các cuốn sách đã chỉ ra nguồn gốc, sự

hình thành các nghi lễ và ý nghĩa của chúng còn lại cho đến ngày nay, khẳng

định sự phong phú đa dạng của nền văn hóa nước ta. Ở đây, các cuốn sách đã

nhắc tới sự có mặt của Phật giáo trong tang lễ, song chỉ xuất hiện với tư cách

yếu tố tôn giáo đan xen vào phong tục tập quán và nền văn hóa bản địa, mà chưa

phải là một công trình nghiên cứu chuyên sâu.

3

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tôn giáo và phong tục tập quán, tín

ngưỡng dân gian Việt Nam có các công trình tiêu biểu như: Trần Quốc Vượng

(2003) với “Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm”; Nguyễn Đăng Duy (1999)

với cuốn sách “Phật giáo với văn hóa Việt Nam”; Nguyễn Bá Hoàn (2007) với

cuốn sách “Phật giáo và cuộc sống: Chân dung và đối thoại”…

Liên quan đến đề tài khóa luận, cho đến nay chưa có một công trình nghiên

cứu nào chuyên sâu và cụ thể về sự ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tang

ma của người Việt dưới góc độ tôn giáo, triết học. Là một người dân Đông

Triều, tôi muốn đi sâu nghiên cứu để làm rõ sự ảnh hưởng của Phật giáo tới

phong tục tang ma tại địa phương mình qua một số biểu hiện cụ thể: Hình thức

tổ chức, thực hành tang lễ; Sự xuất hiện của yếu tố Phật giáo như Tăng Ni Phật

tử, bàn thờ Phật, kinh Phật, lễ cầu siêu, nghi lễ cúng dường … Qua đó, nêu lên ý

nghĩa triết học về thế giới quan cũng như nhân sinh quan của Phật giáo với

phong tục tang ma.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Khóa luận phân tích làm rõ những ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục

tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ:

Một là, khái quát về Phật giáo ở Việt Nam và nghi lễ tang ma tại thị xã

Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

Hai là, nghiên cứu những nội dung ảnh hưởng của Phật giáo trong phong

tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

Ba là, đưa ra đánh giá ảnh hưởng của Phật giáo đối với phong tục tang ma

tại địa phương.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Những ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Khoá luận nghiên cứu sự ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tang ma

tại thị xã Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam ngày nay (cụ thể là nghiên cứu chủ yếu tại địa bàn thị xã Đông

Triều và một số chùa trên địa bàn như chùa Kỉnh, chùa Linh Ứng, chùa Tế, chùa

Chạo Hà, chùa Đồn Sơn, chùa Thiên Trúc…)

5. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng các phương pháp: phân tích – tổng hợp, phương pháp so

sánh – đối chiếu, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống – cấu trúc,

phương pháp liệt kê, phương pháp điều tra khảo sát bằng bảng hỏi, phương pháp

phỏng vấn…

Ngoài ra, khoá luận có tham khảo một số công trình nghiên cứu của các

học giả liên quan đến các vấn đề có trong đề tài này.

6. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khoá

luận gồm có 2 chương và 5 tiết.

5

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ NGHI LỄ

TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và tình hình Phật giáo

tại xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh

1.1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam

Phật giáo là một trào lưu triết học – tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế

kỷ thứ 6 TCN ở bắc Ấn Độ. Người sáng lập ra hệ thống triết học – tôn giáo này

là Tất Đạt Đa (Siddhatha) (khoảng 563 – 483 TCN), thái tử của vua Tịnh Phạn

(Suddhodana) thuộc bộ tộc Sakiya. Vị thái tử này đã từng theo học các tu sĩ Bà

La Môn từ năm lên bảy, kết hôn năm 16 tuổi, mười ba năm sau đó sống trong

cuộc đời vương giả, nhưng trong một đêm tháng Hai năm vừa tròn 29 tuổi, đã

lặng lẽ rời hoàng cung đi tìm chân lý. Trải qua sáu năm với những phương pháp

tu luyện ép xác nhưng không đạt được chánh đạo, nhưng chỉ sau 48 ngày nhập

định, Tất Đạt Đa ngộ rõ căn nguyên sinh thành, biến hóa của vũ trụ, căn nguyên

của những khổ đau, và đề ra phương pháp diệt trừ nỗi khổ đó cho chúng sinh,

bằng học thuyết “Nhân duyên sinh” và triết lý “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân

duyên”, “Bát chánh đạo”. Con người này đã đưa ông trở thành đức Phật Thích

Ca đầy uy nghiêm tinh thần trong đời sống của người phương Đông hết thế hệ

này đến thế hệ khác.

Giáo lý nhà Phật tuy có nhiều tông phái khác nhau, nhưng tựu trung những

điểm được đề cập sau đây vẫn là những nền tảng cơ bản.

Thế giới, vũ trụ, theo quan niệm Phật giáo, là luôn vận động, biến đổi, các

biến đổi diễn ra nhanh như chớp mắt, và thế giới thì không có trước, không có

sau, vô thủy, vô chung. Đó cũng chính là lẽ vô thường, tức không có gì là tồn tại

cố định, mà có đó, mất đó. Con người cũng thuộc dòng chảy không ngừng đó,

nên không gì là bản thân ta cả, tức vô ngã. Những biến đổi này, nói theo ngôn

6

ngữ hiện đại, là do tự thân vận động, không xuất phát từ bên ngoài, mà từ

lẽ nhân duyên, theo luật nhân quả, nghiệp báo. Tùy thuộc vào nghiệp báo mà

biến đổi của các sinh linh diễn ra trong cõi phàm và siêu phàm, hoán chuyển từ

cõi này sang cõi kia, đó là luân hồi.

Nhân sinh quan Phật giáo xuất phát từ quan niệm cho rằng đời là bể khổ,

và nguyên nhân của nó là sinh, lão, bệnh, tử, là những ham muốn nhục dục, xuất

phát từ sự che lấp trí tuệ bởi ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức), làm cho ta cố

chấp trong việc phân biệt cái ta và cái khác ta, dẫn đến thái độ “ngã chấp”, trọng

cái ta, khiến con người ta vô minh. Muốn thoát khỏi bể khổ thì phải diệt dục,

nhẫn nhục, từ bi, hỉ xả, hy sinh, đi theo con đường của bát chánh đạo: chánh

kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mệnh, chánh tinh tiến,

chánh niệm, chánh định. Những giáo lý mang nặng tính triết lý, đạo đức này đã

có một ảnh hưởng sâu rộng lên phong tục, tập quán, văn hóa, văn minh của

nhiều dân tộc, trong đó có Việt Nam ta.

Đạo Phật được truyền ra ngoài biên giới rất sớm theo hai hướng chính: Một

về phương Nam, hình thành nên phái Nam Tông (Phật giáo Tiểu Thừa), một về

phương Bắc hình thành nên phái Bắc Tông (Phật giáo Đại Thừa). Tiểu Thừa hay

Đại Thừa được coi như những cỗ xe đưa chúng sinh đến nơi thanh tịnh, đến giải

thoát, nhưng nếu Tiểu Thừa như “cỗ xe nhỏ”, ngụ ý chỉ chở một người thì Đại

Thừa như “cỗ xe lớn”, ngụ ý chở nhiều người. Tuy công năng của Phật giáo

Tiểu Thừa và Phật giáo Đại Thừa có sự khác nhau nhưng cả hai phái đều tôn

trọng những tư tưởng cơ bản về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích

Ca Mâu Ni.

Vào đầu công nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với

Trung Đông, và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ cần có một nguồn

cung cấp nguyên vật liệu, vật phẩm cho sự giao thương này. Họ giong buồm,

theo gió mùa tây nam mà đi về đông. Họ đến Giao Chỉ, rồi có thể từ Giao Chỉ

mà lại theo tiếp đường biển (đường gia vị) hay đường bộ (con đường Tơ lụa qua

7

thảo nguyên) vào trong nội địa Trung Hoa. Trong khi đợi gió mùa đông bắc để

quay về Ấn, sự lưu trú của số thương gia này đã lan truyền dần những nét văn

hóa Ấn Độ, trong đó có việc thờ cúng Phật, tụng kinh… Những tăng sĩ mà các

thương nhân đem theo trên thuyền buôn nhằm làm công việc cầu khấn sự phù

trợ của đức Phật, là những người đã trực tiếp truyền bá Phật học và lập nên trung

tâm Phật giáo Luy Lâu (Bắc Ninh). Du nhập vào nước ta, Phật giáo đã dung hòa

được với hệ tư tưởng, phong tục tập quán và tín ngưỡng của dân tộc, vì vậy nó

nhanh chóng tìm được chỗ đứng và có những ảnh hưởng nhất định với đời sống

văn hóa tinh thần nước ta.

Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ)

được phiên âm trực tiếp thành “Bụt” [16,27] từ đó chữ "Bụt" được dùng nhiều

trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Phật

giáo nam truyền được địa phương hóa, Bụt được dân gian hóa coi như một vị

thần cứu giúp người tốt. Sau này, vào thế kỷ thứ IV – V, do ảnh hưởng của Phật

giáo nhà Hán, Trung Quốc mà từ “Bụt” bị thay thế dần bởi từ “Phật”.

Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành “Phật đà”, “Phật đồ” rồi được

rút gọn thành “Phật”.

Vào thế kỷ II, sự thâm nhập của Phật giáo đã ở vào một giai đoạn mới, hình

thành tăng đoàn, công việc hành đạo từ đó mà cũng đi vào tổ chức, các tăng sĩ

bắt đầu dịch kinh, sáng tác, chùa chiền cũng đã được xây cất. Ở thế kỷ này, sự

hành đạo cũng gặp một ít trở ngại từ phía những người ủng hộ Khổng, Lão. Tuy

nhiên, điều đó không thể ngăn cản được ảnh hưởng của Phật giáo vì nó đã thâm

nhập vào dân gian.

Tinh thần hòa đồng giáo lý là nét nổi bật trong sự du nhập và định hình

Phật giáo Giao Châu trong thế kỷ thứ hai này. Phật giáo thâm nhập vào đây một

cách êm thấm, không có sự chống đối của tín ngưỡng dân gian. Tuy Phật giáo

cũng phải có một ít nỗ lực trước giới cai trị Hán tộc, nhưng không bằng sự phản

kháng, mà bằng sự hòa đồng. Điều này xuất phát từ tinh thần cởi mở của Phật

8

học, và Phật tử thì sẵn sàng học hỏi, đối thoại với những tư tưởng khác. Kết quả

của tinh thần này là không những đã sử dụng được từ ngữ Nho, Lão để truyền bá

Phật giáo, mà còn làm cho nghững người theo Khổng, Lão thấy được chiều sâu

của Phật học.

Sang thế kỷ V – VI, lại có thêm luồng Phật giáo đại thừa Bắc Tông từ

Trung Quốc tràn vào. Vào thế kỷ thứ VI, nước ta là một quốc gia có sự phát

triển hưng thịnh của Phật giáo. Từ Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo được

truyền vào Việt Nam: Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông. Tuy nhiên, khi

truyền vào nước ta thì không có sự tách biệt rạch ròi, mà là sự tổng hợp các tông

phái cùng với phong tục tập quán, tín ngưỡng bản địa, vì vậy không có tông phái

nào là thuần khiết.

Thiền Tông lấy thiền định làm pháp tu (tu thiền: yên lặng mà suy nghĩ) chủ

trương của Thiền Tông là không câu nệ vào sách vở mà chủ yếu dựa vào thiền

định để giác ngộ Phật tính cho mình. Thiền Tông quan niệm Phật tại tâm, Phật

có ở mọi nơi, giáo lý của Thiền Tông gần gũi với chúng sinh, làm cho con người

tin vào mình, tin vào công lao tu dưỡng để thành công trong công việc tiếp nhận

chân lý. Ngoài ra, Thiền Tông còn có một số yếu tố khác dễ thu hút nhiều người

theo như lấy việc phục vụ xã hội làm điều kiện tu hành, chấp nhận sự bần khổ và

xem lao động cũng là cách tu chân chính. Quan niệm như vậy đã làm cho Thiền

Tông dễ dàng đi sâu vào tầng lớp quần chúng lao động.

Tịnh Độ Tông do nhà sư Tuệ Viễn sáng lập ở Trung Quốc vào cuối thế kỷ

IV, Tông phái này chủ trương thờ Tam Bảo (A Di Đà, Quan Thế Âm, Đại Thế

Chí) và niệm Phật, dựa vào Phật lực để giải thoát là chủ yếu, chủ trương dựa vào

sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu chúng sinh thoát khỏi đau khổ, đó là việc hướng

họ đến một cõi niết bàn cụ thể, gọi là cõi Tịnh Độ. Đây là tông phái mang tính

phổ quát, dân giã nên thu hút đông đảo tín đồ, tông phái này có những nét gần

gũi với người dân lao động. Với trình độ tư duy có hạn, người dân không hiểu

được sự cao siêu của giáo lý Phật giáo, bằng tấm lòng thành kính, họ mong được

9

Phật chứng giám để phù hộ, che chở, giúp đỡ họ có được sức mạnh, niềm tin để

có thể chiến thắng được những trở ngại trong cuộc sống.

Mật Tông (Chân Ngôn Tông) do một nhà sư Ấn Độ khai lập khoảng thế kỷ

thứ II sau Công Nguyên. Mật Tông được hình thành trên nền tảng tư tưởng của

Phật giáo Đại Thừa, nhưng cách tổ chức, tu tập lại mang màu sắc của Ấn Độ

giáo, có tính chất huyền bí, nặng về ẩn chú phù phép, lễ thức thờ phụng tương

đối phức tạp. Mật Tông đề cao vai trò của người xuất gia tu hành. Phật giáo Mật

Tông đáp ứng được nhu cầu tâm linh luôn đặt niềm tin vào sự che chở của thánh

thần, cầu mong có những bùa phép để chế ngự ma quỷ, đem lại yên bình cho

cuộc sống của người dân nước ta lúc đó. Đây là phái chủ trương sử dụng những

phép tu huyền bí để thu hút tín đồ và mau chóng hòa vào dòng tín ngưỡng dân

gian với những truyền thống cầu đồng, dùng pháp thuật…

Tới thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh.

Những người thâm thúy về đạo Phật như Từ Đạo Hạnh, Khổng Lộ, Mẫn Giá, Lư

Ân đều là những bậc danh nho. Chùa chiền được xây tại khắp trong nước, dân

chúng tô tượng, đúc chuông, sùng bái đức Phật Thích Ca.

Sang thời Hậu – Lê, nhà nước lấy Nho giáo làm chủ đạo tinh thần nên Phật

giáo dần suy giảm. Nói vậy không phải đạo Phật không còn ảnh hưởng với dân

chúng nữa, đạo Phật vẫn được dân chúng theo và tin nhưng song song với đạo

Phật là đạo Nho và đạo Lão. Trong thời kỳ này, tại miền Bắc, thuộc ảnh hưởng

của Chúa Trịnh, đạo Phật đi vào con đường suy giảm, thì ở miền Trung, thuộc

ảnh hưởng của chúa Nguyễn, Phật giáo lại bắt đầu thịnh đạt. Chính chúa

Nguyễn Hoàng đã cho xây dựng chùa Thiên Mụ vào năm 1601 tại Thuận Hóa.

Khi Pháp sang đô hộ Việt Nam, Phật giáo đi vào chỗ suy kém. Người Pháp

đã tận tình nâng đỡ Công giáo nên chèn ép đạo Phật. Đi vào chỗ suy kém, nhưng

Phật giáo không bao giờ bị diệt vong tại Việt Nam vì tín đồ đạo Phật, mặc mọi

hoàn cảnh hình thức bên ngoài, luôn luôn tin ở đạo, vì đạo càng bị chèn ép thì

lòng tin tưởng của tín đồ lại càng mạnh mẽ hơn. Vào những thập niên đầu thế kỷ

10

XX, do ảnh hưởng phong trào chấn hưng Phật giáo trên thế giới, Phật giáo Việt

Nam cũng chuyển mình phục hưng, khởi đầu từ các đô thị miền Nam rồi miền

Trung với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện

Chiếu. Cho đến năm 1964, các hội đoàn Phật giáo miền Nam Việt Nam đã thống

nhất dưới một mái nhà chung là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và

sau 17 năm hoạt động giáo hội này đã ngưng mọi sinh hoạt vào năm 1981. Sau

khi hai miền Nam Bắc thống nhất vào năm 1975, năm 1981 chín tổ chức Phật

giáo trong cả nước đã tổ chức đại hội, thống nhất làm một và lấy danh hiệu là

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Cho tới ngày nay, nhân dân một phần lớn theo đạo Phật, và bất cứ ở đâu

trong thời bình, ta cũng được nghe thấy tiếng chuông chùa văng vẳng thu không

lúc tinh sương cũng như buổi chiều tà. Mỗi làng, mỗi xóm đều có ít nhất một

ngôi chùa. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2009, có

6.802.318 tín đồ Phật giáo [37], còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo

Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình

Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm

Phật đường… [38]

Phật giáo Ấn Độ và nhiều nước khác không chủ trương nhập thế mà là một

tôn giáo xuất thế. Trong lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng có thời

kỳ như vậy, nhưng nhìn chung, Phật giáo nước ta là Phật giáo nhập thế. Phật

giáo xuất thế nhấn mạnh “đời là bể khổ” và con đường thoát khỏi bể khổ là tu

tập kiên trì để đạt tới cõi Niết bàn không còn đau khổ và bất công. Phật giáo

Việt Nam nhấn mạnh nguyên nhân của nỗi khổ là do chính con người và xã hội

nên Phật giáo Việt Nam thường coi việc đạo chính là cuộc đời. Con đường thoát

khổ là con đường đấu tranh diệt ác, tu nhân tích đức thành người lương thiện và

khuyến khích con người làm việc thiện dưới nhiều hình thức phù hợp với hoàn

cảnh của mỗi người.

11

Dù Phật giáo bị thăng trầm, truân chuyên theo vận nước, nhưng Phật

giáo đã hoà vào lòng dân tộc, tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt

Nam. Phật giáo đã đồng hành cùng dân tộc, đã đồng cam cộng khổ với dân

tộc, cùng dân tộc đi qua bao khúc quanh của lịch sử, chịu đựng bao nỗi thăng

trầm của thời cuộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Điểm này chúng

ta dễ dàng nhận thấy qua những thời đại cực thịnh của đất nước đều là những

lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh như thời nhà Đinh, Lê, Lý, Trần v.v...

Tuy quyện mình vào lòng dân tộc nhưng giáo lý chứa đựng trong ba tạng

kinh điển của Phật giáo vẫn giữ được vẻ tinh khiết vốn có của nó và dòng

thiền Trúc Lâm đã được khôi phục vào cuối thế kỷ thứ XX, tiếp nối mạng mạch

của lịch sử Phật giáo Việt Nam.

1.1.2 Tình hình Phật giáo tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh

Đông Triều – Triều đình phía Đông, tên gọi địa danh này được đặt từ đời

vua Trần Dụ Tông (1341 – 1369), xưa kia gọi là An Sinh – là quê gốc của nhà

Trần – một trong những triều đại hùng mạnh nhất lịch sử Việt Nam. Nếu Kinh

đô Thăng Long và Thiên Trường Nam Định là hai trung tâm chính trị, thì Đông

Triều là một trung tâm văn hóa đặc sắc của nhà Trần với những chùa tháp nổi

tiếng, là nơi nhiều vị quốc sư tu hành đắc đạo. Đông Triều có các dấu tích chùa,

tháp độc đáo qua suốt các thời kỳ Lý – Trần – Lê, đóng góp to lớn vào việc khai

sinh, hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – tông phái Phật

giáo Việt Nam duy nhất, phát triển thành công nhất trong lịch sử Phật giáo Việt

Nam.

Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (1258 – 1368) khai sáng với

ba Thiền sư kiệt xuất là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Vua Trần

Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, một Thiền sư

cư sĩ nổi tiếng đời Trần. Sau khi xuất gia, vào năm 1299, với đạo hiệu là Trúc

Lâm Đầu Đà, Ngài lên tu ở núi Yên Tử (nay thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh

Quảng Ninh) và tại đây, lập ra Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền Việt Nam

12

đầu tiên, mang tính chất độc lập Việt Nam với sự kết hợp hài hòa của Phật giáo

Ấn – Hoa. Lập ra Thiền phái Trúc Lâm này, Trần Nhân Tông đã thống nhất

được ba Thiền phái tồn tại trước đó là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và

Thảo Đường, đồng thời thu toàn bộ Giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối.

[30,16].

Nối tiếp Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa (Đồng Kiên Cương, 1284 –

1330). Qua hơn hai mươi năm lãnh đạo, Pháp Loa đã cho sang khắc bộ Đại

Tạng kinh với hơn 5.000 quyển, xây dựng hàng trăm ngôi chùa như Báo Ân,

Quỳnh Lâm, Thanh Mai và trực tiếp giảng dạy giáo lý, có tới ba nghìn đệ tử đến

cầu pháp và đắc pháp. Ông để lại các tác phẩm khuyên người xuất gia chăm lo

việc tu đạo, khuyên mọi người hiểu sâu con đường tu thiền chân chính bằng việc

học giới luật, thiền định và trí tuệ, chỉ rõ cách học cần sáng tỏ.

Người cuối cùng trong số ba vị tổ Trúc Lâm là Huyền Quang (Lý Đạo Tái,

1254 – 1334), hơn Pháp Loa tròn ba mươi tuổi nhưng lại tu hành muộn hơn,

từng làm quan trong triều đình rồi mới từ chức đi tu.

Nhìn chung Thiền Phái Trúc Lâm là một dòng Thiền tổng hợp được ba yếu

tố đặc thù của xã hội. Trần Nhân Tông đại diện cho quý tộc, Pháp Loa đại diện

cho nông dân và Huyền Quang đại diện cho Nho sĩ. Sự Tổng hợp đó đã tạo nên

nét đặc thù của Thiền phái Trúc Lâm mà các Thiền phái trước đó không có

được, kể từ đó, đạo Phật đi vào xã hội với tinh thần nhập thế cụ thể, giáo hội tổ

chức chặt chẽ, củng cố tinh thần đạo pháp và dân tộc, xây dựng đất nước phồn

vinh. Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không những mang ý nghĩa rất

lớn về tính tự chủ của dân tộc ta từ kinh tế, chính trị, văn hóa mà đến cả tôn giáo

cũng không bị lệ thuộc vào các dòng thiền trước ảnh hưởng từ Trung Hoa. Từ

mô hình tổ chức đến nội dung tu tập hành trì thể hiện bản sắc dân tộc của nước

Đại Việt.

Nằm trên địa bàn thị xã Đông Triều, gắn với sự ra đời của Thiền phái Trúc

Lâm Yên Tử là khu di tích lịch sử nhà Trần với quần thể khu lăng mộ, nơi thờ

13

cúng và dấu tích những ngôi chùa, tháp, am… được xem là trung tâm Phật giáo

của nước Đại Việt thời bấy giờ. Trên đất Đông Triều hiện nay có ba di tích chùa

nổi tiếng liên quan trực tiếp đến sự phát triển của tông phái Trúc Lâm là chùa

Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên và đặc biệt là am và chùa Ngoạ Vân.

Chùa Quỳnh là ngôi chùa hoàng gia to lớn, do Quốc sư Nguyễn Minh

Không xây dựng dưới thời vua Lý Thần Tông (1116 – 1138). Đến thời Trần,

dưới sự trụ trì của Pháp Loa, chùa đã trở thành một trung tâm truyền bá bậc nhất

của Thiền phái Trúc Lâm, cho xây dựng thành Quỳnh Lâm viện, làm nơi giảng

kinh, đào tạo các đệ tử, in kinh Phật truyền bá đi các nơi. Nhiều vua Trần và các

vương hầu quý tộc, danh sĩ thường đến chùa và cúng ruộng đất hay tiền của cho

chùa. Sư Pháp Loa còn cho đúc nhiều tượng, trong đó có tượng Di Lặc nổi tiếng,

là một trong “An Nam tứ đại khí”. Đầu thế kỷ XV, khi giặc Minh vào xâm

chiếm nước ta, chúng tàn phá tự viện Quỳnh Lâm, tượng Di Lặc để đúc súng.

Đó là lý do vì sao tu viện Quỳnh Lâm to lớn dưới thời Trần nay chỉ còn là

những phế tích nằm sâu dưới lòng đất. Vào thế kỷ XVI – XVIII, cùng với sự

phục hồi của Phật giáo, chùa được đại trùng tu và tiếp tục giữ vai trò là trung

tâm Phật giáo của xứ Đông. Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, thiền sư Chân

Nguyên chọn chùa Quỳnh Lâm là nơi khởi xuất việc khôi phục lại dòng Thiền

Trúc Lâm. Tiếp nối sự nghiệp đó, đệ tử của Ngài Chân Nguyên là Thiền sư Như

Hiện đã tiếp tục xây dựng, tôn tạo trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm. Năm 1730,

dưới sự hỗ trợ của triều đình Lê – Trịnh mà trực tiếp là chúa Trịnh Giang, toàn

bộ chùa đã được xây dựng lại. Triều đình đã huy động đinh tráng của các huyện

Đông Triều, Chí Linh và Thủy Đường trong nhiều năm để tham gia xây dựng.

Trong thế kỷ XX, chùa bị nhiều tai họa, nhất là vụ cháy chùa năm 1910, vụ máy

bay quân Pháp ném bom năm 1947. Từ năm 1997, huyện Đông Triều đã thường

xuyên cho trùng tu lại chùa như hiện nay. [30,34-35]

Chùa Hồ Thiên (cõi Tiên an lạc) nằm trên núi Trù Phong được Pháp Loa

cho xây dựng vào năm 1327. Theo tương truyền Hồ Thiên là nơi các vị cao tăng

14

tu luyện sau khi hoàn thành xuất sắc khóa học tại Quỳnh Lâm viện như một sự

tiếp nối và biểu trưng cho kết quả khổ luyện, tu hành, cho cõi Niết bàn đối với

những người đi theo con đường của Trúc Lâm Tam tổ. Dưới thời Lê Trung

Hưng, cùng với các chùa Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm, chùa Hồ Thiên được triều

đình nhà Lê cho đại trùng tu và tôn tạo. [29,41-42]

Chùa, am Ngọa Vân là một quần thể kiến trúc chùa tháp lớn của Thiền phái

Trúc Lâm trên dãy Yên Tử, nơi Đức vua, Phật hoàng Trần Nhân Tông tu hành

và hóa Phật. Cũng bởi thế, nơi đây là thánh địa của Phật giáo Trúc Lâm. Tháng

8 năm 1299 Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia vào núi Yên Tử tu hành

khổ hạnh. Sau một thời gian, Ngài xuống núi, đi khắp xóm làng, dậy dân chúng

phá bỏ dâm từ và thực hành thập thiện, ban thuốc chữa bệnh cho dân nghèo.

Tháng 05 năm 1307, Ngài lên tu tại một am trên Ngọa Vân. Tháng 11, năm

1308 Ngài an nhiên nhập Niết Bàn. Trong hành trình tu luyện và nhập diệt của

Phật hoàng, Yên Tử là nơi Ngài tu luyện, giảng pháp, độ tăng và Ngọa Vân là

nơi kết thức trọn vẹn quá trình tu luyện và thành Phật của Ngài. Sau khi Phật

hoàng hóa Phật, nhờ sự giúp đỡ của vua Trần Anh Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa đã

xây dựng và mở rộng thánh địa Ngọa Vân thành một quần thể chùa tháp lớn.

Công tác chăm lo cho sự hưng thịnh của Phật giáo còn được thị xã Đông Triều

quan tâm trùng tu và tôn tạo chùa cho đến ngày nay. [29,21]

Có thể nói, An Sinh – Đông Triều là một trung tâm văn hóa tín ngưỡng,

tâm linh tôn giáo, giữ vai trò bồi đắp bệ đỡ tinh thần cho xã hội và nhân dân cả

nước trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xứng đáng là kinh đô Phật giáo nước

Đại Việt đời Lý – Trần. Ngày nay song song với Công giáo, đạo Phật là tổ chức

tôn giáo có tư cách pháp nhân và được hoạt động tại thị xã Đông Triều theo quy

định của pháp luật, phân bố ở 21 xã, phường, thị trấn.

1.2 Mối liên hệ giữa quan niệm về cái chết của Phật giáo và phong

tục tang ma của người Việt

15

Trong y học, chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống. Cái chết có thể được

chia làm hai loại: chết lâm sàng và chết thật (khi các mô không còn hoạt động

được nữa và bắt đầu phân hủy). Theo quan niệm của Phật giáo, sống chết là lẽ

thường nhiên. Trong Kinh có ghi “Tử hoàn toàn không đáng sợ, vì Tử là bắt

đầu của Sanh (Nên biết sanh sanh, tử tử là Luật Nhân Quả. Cần niệm Phật cầu

sanh Tịnh Độ).

Người Phật Tử coi cái chết là một trong 4 khâu của định luật “thành, trụ,

hoại, diệt”. Bất cứ sự vật nào thuộc thế giới hiện tượng, nghĩa là có hình có

tướng, đều phải trải qua bốn giai đoạn của hiện hữu: Thành (từ chưa có trở nên

có), Trụ (tồn tại một thời gian), Hoại (bị hư hoại, yếu dần, suy thoái), và Diệt

(cuối cùng bị tiêu diệt, mất đi, không còn tồn tại nữa). Theo định luật này, phàm

cái gì có sinh thì phải có diệt. Chết chính là khâu cuối cùng của 4 giai đoạn hiện

hữu trên cho mọi vật sống, mọi chúng sinh, là giai đoạn từ có trở về không. Vì

thế, Phật giáo không thể chấp nhận một linh hồn đã được sinh ra mà sau đó lại

tồn tại vĩnh cửu, hay một thể xác sống lại để rồi tiếp tục sống mãi. Nếu có một

linh hồn bất tử, thì linh hồn đó ắt phải có từ trước muôn đời không do ai sinh ra

cả.

Như vậy, con người sinh ra rồi chết đi có phải là hết không? Thưa không,

vì cái chết theo quan niệm Phật giáo nó không phải sự đối nghịch với sự sống

mà chỉ là sự ngược chiều của sự sinh. Nếu như sự sống là xuôi dòng thì cái chết

là ngược dòng, nó làm thành một chu kỳ ngược xuôi bất tận. Nhưng suy cho

cùng cái chết hay của con người hay những chúng sinh khác đều phụ thuộc vào

sự xoay vòng của vũ trụ. Con người sinh ra chết đi ở kiếp này rồi lại sinh ra và

chết đi ở kiếp sau. Như vậy, trước kiếp hiện tại ta đang sống, thì ta cũng đã từng

sống hằng hà sa số kiếp, và sau kiếp sống này, ta còn sống hằng hà sa số kiếp

sống khác nữa. Đó chính là luân hồi.

Thực tế nhà Phật quan niệm rằng có 10 cảnh giới: Phật, Thanh văn, Duyên

giác, Thiên, Nhân, Atula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh… Trong 10 cảnh giới

16

đó, 4 cảnh giới trên sẽ không phải chịu luân hồi, còn 6 cảnh giới dưới bao gồm:

Thiên, Atula, Nhân, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh thì vẫn phải chịu luân hồi, nếu

hết phúc thì có thể bị đọa. Hơn thế nữa, việc vong linh được nương vào vào 4

cảnh giới trên hay 6 cảnh giới dưới còn tùy thuộc vào hạnh nguyện của người đã

mất. Người nào kiếp trước làm nhiều tội ác thì khi chết xuống Âm phủ sẽ bị tội

rồi lại phải đầu thai vào kiếp súc vật, hoặc bị đày đọa nơi cõi quỷ hay địa ngục.

Những người làm điều lành sẽ trở lại kiếp người, hoặc được lên cõi trời, cõi

Phật.

Người Việt Nam quan niệm chết không phải là cái họ nghĩ như một hiện

tượng tự nhiên mà đó là một sự chuyển khiếp từ trạng thái ý thức này sang trạng

thái ý thức khác. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ sống, chu kỳ

này được biểu hiện bằng một vòng tròn sự sống, cái chết là nhịp cầu chuyển tiếp

giữa cõi âm và cõi dương, giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình. Người

Việt luôn tin tường vào tổ tiên của mình rất linh thiêng. Dù những người thân

của họ đã qua đời nhưng họ vẫn luôn quan niệm ông bà tổ tiên vẫn đang sống

cạnh con cháu, phù hộ con cháu khi gặp khó khăn, chia vui khi thành đạt,

khuyên giải nhắc nhở con cháu khi làm điều sai trái.

Tư tưởng của Phật giáo về sự sống và cái chết đã có ảnh hưởng lớn đến đời

sống tâm linh của người Việt. Cuộc sống là bể khổ, muốn thoát khổ thì phải tích

thiện, để khi chết được đầu thai vào kiếp người. Trong cuộc sống phải từ bi bác

ái, phải hiếu kính với cha mẹ để“ở hiền rồi sẽ gặp lành”. Tư tưởng của đạo Phật

về cái chết làm cho quan niệm về cái chết của người Việt không còn nặng nề,

chết là sự chuyển hóa, để tiếp tục sinh sôi nảy nở. Chết chỉ là sự tiêu tan của thể

xác, còn linh hồn vẫn hiện hữu và trở về với gia đình. Chết chẳng qua chỉ là một

cuộc trơ về gặp ông bà tổ tiên, và Phật là người cứu độ, chỉ đường cho tổ tiên

được giải thoát về cõi “sinh tử luân hồi”. [36,65-67]

Tôn giáo, dù nhất thần, đa thần hay thậm chí vô thần, đều ít nhiều hướng

dẫn các cách thức trợ giúp người chết ra đi một cách thanh thản và gia quyến

17

của họ. Tuy nhiên, khi mới thành lập Phật giáo không dạy một nghi thức cầu

nguyện nào về lễ tang, ngoại trừ những bài kinh để giúp người sắp chết ra đi nhẹ

nhàng theo nghiệp; nhưng khi Phật giáo được truyền sang các nước có nền văn

hóa Khổng, Lão như ở Trung Quốc và Việt Nam… thì việc cầu nguyện cho

người chết trở nên không thể thiếu.

Nghi thức ma chay theo Phật giáo được rút trong quyển “Tam giáo Chánh

Độ” (có lẽ xuất phát từ nghi lễ của cung đình, không rõ tác giả), được Bách Tổ

Trượng (ở núi Qui – Trung Quốc) rút lượt và sáng chế ra. Trong quyển Bách

Trượng Thanh Quy có nói: “Tổ Bách Trượng dựng Tòng lâm, lập quy củ, chế ra

thanh quy để ổn định và chấn quy phong của thiền gia…” Trong đó có nghi thức

dành cho chư tăng khi viên tịch, bởi ngài nghĩ không lẽ chết rồi cứ bó lại đem

chôn hay hoặc có làm thì mỗi người theo mỗi cách, nên ngài mới lập ra các nghi

thức dành cho người sau khi chết như nghi nhập quan, nghi trà tỳ… Nội dung

các nghi thức này là dùng pháp niệm Phật để hóa độ. [36,68] Tồn tại cùng với

nền văn hóa bản địa ở Trung Quốc cũng như Việt Nam, các tôn giáo ngoại nhập

buộc phải thích nghi để tồn tại và một trong những thích nghi quan trọng là nghi

lễ cầu nguyện. Mặc dù vậy, nghi lễ Phật giáo lại không hoàn toàn đóng vai trò

nòng cốt trong một lễ tang của tín đồ Phật tử Việt Nam mà nó chỉ chiếm một

phần quan trọng trong nhiều yếu tố pha trộn bao gồm tôn giáo, tập tục và tín

ngưỡng dân gian.

1.3 Nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng

Ninh

1.3.1 Nguồn gốc và bản chất của phong tục tang ma

Bất cứ một xã hội nào đều có những phong tục riêng biệt, được hình thành

từ những tập quán đã trải qua hàng ngàn năm và được xã hội chấp nhận.

Theo Phan Kế Bính: “Mỗi nước có một phong tục riêng, phong tục ấy kỳ

thủy hoặc bởi một vài người mà bắt trước nhau rồi thành ra thói quen hoặc bởi

phong thổ và cách chính trị, cách giáo dục trong nước mà thành ra. Hoặc bởi cái

18

phong trào ở ngoài tràn vào mà rồi dần dần tiêm nhiễm thành tục. Nhưng đại để

tục gì cũng vậy phải trải qua lâu tháng lâu năm mới thành được, mà trong những

tục ấy, cũng có tục hay cũng có tục dở. Duy chỉ bởi tai mắt người đã quen, lòng

người đã tín dùng, thì dẫu có người biết là dở mà cũng không sao đổi ngay

được”. [12,6]

Như vậy, có thể nói phong tục chính là một quy ước đạo lý bất thành văn

mà người trong xã hội ấy phải tuân thủ, là toàn bộ những hoạt động sống của

con người được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được

cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không

mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện

như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối

bền vững và tương đối thống nhất. Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương,

tầng lớp xã hội hay thậm chỉ một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của

văn hóa và có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng

đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ,

lên lão và chết đi… Tuy nhiên, vì phong tục mỗi thời đại lại thay đổi dần theo

nền dân trí, đồng thời với nền văn minh loài người, lại tùy theo quan niệm riêng

từng người hoặc theo từng hoàn cảnh mà tăng giảm nên trở thành “tam sao thất

bản”, làm cho người đời sau muốn giữ lại nét phong hóa đặc thù của dân tộc

nhiều khi cũng băn khoăn, không biết thực hành như thế nào cho đúng và dần

dần mai một đi, thậm chí vì quá tin tưởng mà đi đến mê tín dị đoan. Cùng với lễ

cưới, lễ tết…tang ma là một trong những phong tục quan trọng của người Việt

được truyền giữ bao đời nay.

Nếu như “quan” có nghĩa là đánh dấu sự trưởng thành của người nam

(theo tục xưa), thì “tang” lại là sự kết thúc một kiếp người và thường biểu hiện

qua sự sầu đau, khổ não. Đám tang hay còn gọi tang lễ, tang ma là phong tục

tiễn đưa của người sống thực hiện với người vừa mất, từ lúc hấp hối cho đến khi

chôn cất, nhằm thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với người đã khuất. Sinh

19

hoạt xã hội Á Đông rất coi trọng tình cảm, đề cao tình thân, coi trọng huyết

thống gia đình thân tộc hơn nên những nghi thức nghi lễ trong tang ma được

thực hiện rất chu đáo, bài bản. Trong tư tưởng triết gia Á Đông, việc thực hiện

nghi lễ tang ma đối với người chết là rất quan trọng, là bổn phận của những

người sống đối với người đã khuất là cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân tộc của

mình. Cái chết đối với mỗi người không ai tránh khỏi và tang lễ là vấn đề

nghiêm trọng đối với một gia đình nào đó. Ngay từ giờ phút hấp hối của một

người, không khí gia đình đã trở nên trầm lắng xuống với vẻ thiêng liêng; con

cháu gần xa được báo tin vội vã quay về để “gặp mặt lần cuối”, tuy đông đủ

nhưng đều im lắng với một vẻ u ám, buồn bã.

Khi loài người còn ở thời sơ khai lạc hậu, việc chôn cất không được đặt ra

và thường mang vất ngoài đồng vắng hay rừng sâu. Trải qua các thời đại, nền

văn hóa mỗi ngày được nâng cao và có lẽ trước tiên việc tang lễ được áp dụng

cho bậc cha mẹ, tức là người gần gũi nhất và có công ơn dưỡng dục nhiều nhất,

sau đó mới dần dần phổ biến đến cả họ hàng thân thuộc và trở thành một lễ nghi

không thể thiếu trong cuộc sống con người.

Vào thời phong kiến, đạo lý rất được coi trọng và được các bậc thánh nhân

đặt lên hàng đầu trong các lễ nghi, điển hình là một câu chép trong sách luận

ngữ của Khổng Tử: “Thánh nhân trị thiên hạ chú trọng vào ba việc quan trọng

nhất là ăn uống, tang ma và tế lễ”, [24,127] Vì vậy, trải qua một thời gian khá

dài, việc lễ tang không thể cẩu thả, dần trở thành biểu tượng cho lòng hiếu của

con cái đối với cha hay mẹ vừa chết. Tại sao lại gọi việc tang là việc hiếu. Ấy là

bởi do tấm lòng của con, cháu muốn đền đáp công ơn cha mẹ khi sinh thành và

nuôi dạy ta nên người. Cho nên, con cái làm tất cả những gì có thể làm được khi

cha mẹ viên tịch. Tuy nhiên, đạo hiếu không chỉ răn dạy con cái đáp đền công

ơn cha mẹ khi qua đời, mà lại ở lòng biết ơn được bộc lộ qua các hành vi khi cha

mẹ còn sống.

20

Thời xưa, tang ma được tổ chức hết sức long trọng và tốn kém với quan

quách mấy lớp, tế lễ ăn uống kéo dài vài ngày, kèn trống không dứt. Thậm chí

có người còn quan niệm càng kéo dài tang lễ và càng linh đình bao nhiêu càng

tỏ rõ lòng hiếu của mình bấy nhiêu. Quan niệm này trở thành một gánh nặng với

người nghèo khó trong xã hội: Không làm linh đình thì xóm giềng cười chê, họ

hàng trách móc mà làm cho tới nơi tới trốn thì có khi con cháu trả món nợ ấy

suốt đời cũng chưa hết.

Việt Nam vốn ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc rất sâu sắc, vì vậy trước

kia tang lễ rất đúng theo sách Văn Công Gia lễ của Chu Hy đời nhà Tống,

nhưng kể từ thế kỷ XVI trở đi, vào thời nhà Lê, nhờ có sách Hồ thượng thư gia

lễ của Hồ Sĩ Dương, hoặc Gia lễ tiệp kính của Ngô Doãn hay Thanh thuận gia

lễ của Lê Quý Đôn... tang lễ của người Việt Nam giản lược đi một phần, tuy

nhiên vấn đề tang ma vốn đã phức tạp càng thêm rối loạn. Trước tình hình ấy,

một nhà nho khác, ông Hồ Sĩ Tân biên soạn Thọ Mai gia lễ chú ý tham khảo,

vận dụng trong giới hạn tư duy chủ quan đối với phong tục tập quán xã hội nước

nhà. Do có ít nhiều tiến bộ so với các tập sách trước nó, Thọ Mai gia lễ nhanh

chóng được dân gian tiếp nhận và lưu truyền. Đặc biệt dưới triều Nguyễn, Thọ

Mai gia lễ được sử dụng như một thứ luật lệ về tang ma do chế độ nhà Nguyễn

quy định.

Tuy nhiên, cuốn Thọ Mai gia lễ đương thời bị nhà nho Phạm Đình Hổ

(1768 – 1839) tác giả sách Vũ trung tùy bút nổi tiếng – đả kích kịch liệt nội dung

quê mùa, đưa ra những cách thức lạ kỳ chưa từng thấy, soạn giả thu thập, nhặt

nhạnh những điều vớ vẩn, bỏ cái này, chọn cái kia... Phạm Đình Hổ chỉ trích

đích danh Hồ Sĩ Tân soạn Thọ Mai gia lễ, khắc in phát hành nhằm thu lợi.

Nhưng chỉ dùng riêng ở thôn quê, các bậc thức giả đa phần coi thường.

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cuộc vận động xây dựng đời sống

văn hóa mới của Đảng ta, nhanh chóng được nhân dân hưởng ứng thành phong

trào rộng khắp, kiên quyết bài trừ hủ tục, chống xa hoa lãng phí, thực hành tiết

21

kiệm. Nhưng do nền kinh tế thị trường tác động, có cả mặt tích cực và tiêu cực,

“phú quý sinh lễ nghĩa” mà không phú quý cũng đua đòi “sinh lễ nghĩa”, tạo

điều kiện cho hủ tục phục hồi và Thọ mai gia lễ có cơ hội hồi sinh. Thực chất

nội dung tư tưởng Thọ Mai gia lễ về căn bản đã lạc hậu. Mặc dù ở thời kỳ rạng

rỡ nhất trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Thọ Mai gia lễ cũng đã bộc lộ sự

bất ổn bởi soạn giả với tất cả hạn chế của một nhà nho không vượt thoát nổi

vòng xiềng xích tiêu cực của Nho giáo. [2,5-6]

Trong việc biên soạn Quy ước nếp sống văn hóa mới của làng xã, tham

khảo các “gia lễ” thời xưa cũ là cần thiết để gạn đục khơi trong, đãi cát tìm

vàng, góp phần xây dựng tang chế văn minh, tiến bộ trên nền tảng thuần phong

mỹ tục cổ truyền và dưới ánh sáng văn hóa Cách mạng. Mọi sự đề cao một chiều

“gia lễ” đều sai lầm, không phải là phát huy truyền thống cha ông hay giữ gìn

bản sắc văn hóa dân tộc.

Bộ Văn hóa thực hiện chủ trương Chỉ thị của Đảng và Chính phủ, tiến hành

nhiều cuộc tuyên truyền vận động toàn dân xây dựng Nếp sống văn hóa mới.

Nhưng thực tiễn cuộc sống vốn muôn màu ngàn vẻ, vấn đề không chỉ là câu

chuyện sách vở mà còn là phong tục, tập quán, một lĩnh vực khá nhạy cảm và

hết sức phức tạp, khiến cuộc vận động thực hành quy ước Nếp sống văn hóa

mới không dễ, đặc biệt về tang lễ [10,17-18].

Với ý thức lấy tâm thành thương tiếc người quá cố làm trọng, giảm thiểu

những nghi lễ thiên về hình thức – mặc dù những hình thức ấy được đặt chủ ý

muốn giáo dục con cháu không quên ơn nghĩa của người đã sinh thành – dần

dần sau này, với nền văn hóa phát triển, ý thức được vấn đề tinh thần tách biệt

với vật chất, việc tang ma cũng giản lược đi rất nhiều, chủ yếu là để biểu lộ lòng

thương tiếc người đã chết, nhất là tang ma cho cha mẹ vì công lao dưỡng dục

sâu nặng như trời bể không thể qua loa mà tự cho rằng đã đền đáp được trong

muôn một.

22

1.3.2 Một số đặc điểm nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều,

tỉnh Quảng Ninh.

Tại mỗi vùng miền, mỗi dân tộc sẽ có nghi thức tổ chức đám tang khác

nhau, tuy nhiên tang ma nói chung đều có một số nghi lễ và ý nghĩa chung là

tưởng nhớ người đã khuất. Ngày nay, nhiều thủ tục tổ chức đám tang đã được

lược bỏ, giản tiện để phù hợp với thực tế xã hội. Phong tục tang ma theo tại thị

xã Đông Triều có những nghi thức chính như sau:

 Khi người thân vừa mất (Lễ Mộc dục)

Trong giờ phút này, người vừa mất được sửa cho ngay ngắn, không được

đụng chạm nhiều đến thi thể, vì lúc đó thần thức chưa ra khỏi thể xác. Nếu đụng

chạm mạnh có thể làm cho người chết dễ sinh bực bội, sân giận. Sau 8 tiếng trở

đi, thân nhân tắm gội cho người mất sạch sẽ bằng nước thơm, thay quần áo mới,

đặt lên giường, chân duỗi thẳng, hai tay đặt lên bụng, mặt phủ mảnh vải trắng.

Người thân buông màn rồi thắp một ngọn đèn dầu, đặt hương, hoa, quả nơi đầu

giường. Những đồ dùng tiếp xúc với người chết như: quần áo, chăn màn, giường

chiếu phải đem thả xuống sông hoặc đốt đi. Với những người chết không có

bệnh, người thân thường giữ lại quần áo còn lành, mới để mặc vì cho rằng sẽ

được người mất phù hộ cho luôn khỏe mạnh, may mắn. Đặc biệt, con cháu dù

đau đớn cũng không được khóc thành tiếng, nếu không sẽ khiến người chết

không thể ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.

 Lập bàn thờ vong (Lễ Thiết linh)

Bàn thờ vong được lập ở trước cửa nhà trước khi khâm liệm. Bàn thờ vong

là một cỗ linh sa được trên một chiếc bàn rộng, trên có bài vị, ảnh và tên tuổi

người mất, mâm quả bày một nải chuối và một số loại quả khác, một bát hương

và thẻ hương cho người thân, hàng xóm đến thắp hương tưởng nhớ người mất.

Theo phong tục, hai bên bàn thờ được đặt hai cây chuối non cắm trong lọ lục

bình tượng trưng cho sự an nghỉ, bình yên. Cây chuối biểu tượng của tình cảm

23

gia đình quần tụ nhiều thế hệ, đông vui, yêu thương, đùm bọc, gắn bó và chở

che. Chuối lại mọc thẳng biểu tượng cho tính thật thà, trung hiếu của con người.

Theo các nhà khoa học thì chuối cũng là loại cây có khả năng hút tử khí và do

vậy mà nó không bị héo úa trong suốt thời gian đám tang, dù là mùa hè nóng

nực.

 Nghi thức khâm liệm

Nghi thức khâm liệm được tiến hành sau một hồi dài kèn trống. Lúc này

khăn phủ mặt và người mất được bỏ ra. Sau đó người mất được nâng lên hạ

xuống tiếp đất ba lần để tiếp âm dương. Người thân sẽ dùng vải trắng để gói

thân thể người mất và đặt vào trong áo quan, kèm theo đó là gương, lược, một

chút tiền lẻ, gạo, muối đút vào túi áo cho người mất. Người dân quan niệm tiền

và gạo phạn hàm đó là lương thực và lộ phí đi đường cho người chết hành trình

sang cõi âm. Quan tài đặt ở gian chính giữa ngôi nhà theo chiều dọc, song song

với bàn thờ gia tiên. Kể từ khi khâm liệm đến lúc chôn cất cần được thắp nến

liên tục trên quan tài. Giữa mặt ván đặt một bát cơm (bát cơm này sẽ được đặt

trên mộ sau khi chôn) và quả trứng gà luộc kẹp bằng đôi đũa bông. Nắp quan tài

đặt hờ lúc đưa tang mới đóng khít.

 Phát tang (Lễ thành phục)

Chủ tế làm lễ phát tang. Bàn để khăn tang để ngay cạnh bàn thờ vong. Khi

thực hiện lễ phát tang con cháu quỳ ở dưới chiếu. Con gái, con trai, con dâu thắt

khăn tang trắng, đội mũ mấn, đội vòng dây chuối ngang người. Con rể không

đội mấn chỉ chít khăn, cháu quấn khăn trắng quanh đầu thành vòng tròn, chắt

quấn khăn vàng, chút đội khăn đỏ. Trước kia, dây thắt ngang lưng nhất thiết phải

là dây chuối nhưng ngày nay họ có thể dùng các loại dây khác thay thế. Sau khi

an táng, cháu, chắt không phải đội tang nữa, nhưng con cái hoặc vợ, chồng thì

vẫn phải đội khăn, hoặc dùng một mẩu vải đen đeo trước ngực. Sau giỗ đầu,

việc để tang này kết thúc. Trong vòng một năm tang trở này, người ta kiêng

24

không đi đám cưới, không chúc tết, không lam những việc đại sự như xây nhà

cưới vợ.

 Tế cơm

Lễ tế cơm bao gồm: một bát cơm tẻ, một đĩa muối trắng, một quả trứng

luộc và một chén nước lã, nam 7 sắt gừng, nữ 9 sắt gừng. Lễ tế cơm có ý nghĩa

giúp người mất được ăn no trước khi sang thế giới bên kia.

 Phúng viếng

Sau lễ phát tang cho đến trước khi quay cữu là khoảng thời gian để người

thân, họ hàng phúng viếng. Khi mọi người phúng viếng, con trai trưởng hoặc

cháu trai trưởng đứng cạnh bàn thờ để đáp từ. Để chia sẻ với gia đình, người đến

phúng viếng thường mang theo hương, vòng hoa, và tiền viếng. Những người

đến phúng viếng đứng thành hàng ngang trang nghiêm trước hương án, trưởng

đoàn bước ra nói lời chia buồn với tang chủ, sau đó họ giành một phút cúi đầu

mặc niệm người quá cố.

 Giở mình cho vong (Động cữu)

Đúng 12 giờ đêm là thời khắc gia đình tiến hành “giở mình” cho vong. Sau

khi đánh 3 hồi 9 tiếng trống, con cháu nhấc quan tài lên và hạ xuống ba lần,

động tác này được gọi là động cữu, việc làm này như một động tác trở mình

nâng giấc cho cha mẹ khỏi mỏi và ngủ ngon hơn.

 Đưa tang (Lễ phát dẫn)

Đến giờ đưa tang, nắp quan tài sẽ được sập kín và đóng đinh. Con cháu

trong nhà cúi người nối nhau tạo thành một chiếc cầu đưa quan tài ra đến xe

tang, được gọi là luồn cữu, với quan niệm con cái trả ơn cha mẹ lần cuối cùng.

Quan tài người mất được đặt vào xe tang, vòng hoa chất bên ngoài. Đoàn đưa

tang đi theo thứ tự gồm: Phật đình, long kiệu (linh sa), cờ phướn, cờ tang,

phường kèn, xe tang, con cháu và những người làng xóm. Thường người con

25

trai trưởng chống gậy tre đi song song với quan tài, và đi giật lùi. Trên suốt

chặng đường đưa tang, kèn trống được thổi để xua đuổi ma quỷ.

 Lễ hạ huyệt

Huyệt mộ được đào sẵn từ trước. Khi hạ huyệt, người con trai trưởng lấp

hòn đất đầu tiên, sau đó các anh em con cháu lần lượt ném xuống nắm đất với ý

nghĩa con cái đắp mộ cho cha mẹ. Mộ được phủ cỏ, thắp hương, đặt vòng hoa

xung quanh và đặt bát cơm bông lên bên trên.

 Thờ người đã mất

Ảnh, bát hương cùng mâm quả thờ trên linh sa được rước lên bàn thờ.

Người ta lập một bàn thờ ngay cạnh ban thờ gia tiên. Trên ban thờ luôn có

hương khói, đèn, nhang.

 Cúng tuần đầu

Sau đám tang có lễ cúng tuần đầu. Tuần đầu không quy định là bao nhiêu

ngày mà là ngày Rằm hoặc mùng Một đầu tiên kể từ sau khi chết. Người ta sắp

lễ mặn để cúng ở nhà, không nhất thiết phải lên mộ.

 Cúng 49 ngày (Lễ chung thất)

Ngày thứ 49, con cháu làm cỗ mặn cúng tại nhà, và mang đồ lễ lên chùa,

đền lễ cho vong hồn người chết được mát mẻ, siêu thoát. Dịp này các gia đình

theo đạo Phật thường nhờ các sư tăng tụng kinh sám hổi để cầu cho vong linh

được siêu sanh tịnh độ.

 Cúng 100 ngày (Lễ tốt khốc)

Trong vòng 100 ngày con cháu phải cúng cơm mỗi ngày 2 bữa trưa, chiều.

Hành động này được giải thích rằng người chết khi mới xuống âm phủ cũng như

những người mới ra ở riêng, chưa có vốn làm ăn lại không quen biết ai, chưa có

lương thực nên phải cúng cơm cho họ như là nuôi những ngày đầu. Người ta xới

26

một bát cơm lồng, một đôi đũa, một quả trứng luộc đã bóc sạch vỏ và một đĩa

muối trắng, một chén nước lã, đặt lên bàn thờ rồi chắp tay khấn, gọi đầy đủ tên

tuổi, quê quán của người chết mời về ăn cơm. Cơm nấu để cúng không được ghế

cơm nguội, không được nếm hay lấy cho chó, mèo ăn trước khi cúng. Tốt khốc

có nghĩa là ngừng khóc, cúng xong tuần này thì từ đây về sau không còn phải

cúng cơm hằng ngày nữa.

Cũng trong khoảng 100 ngày này, mỗi khi có đám tang thì con cháu phải đi

nhận mộ bằng cách lên thắp hương và hờ khóc trong suốt khoảng thời gian đám

tang kia chôn cất. Quan niệm rằng khi có một đám tang mới là âm phủ có một

đám hội, hồn ma có thể mải chơi nơi đám hội này mà quên mất lối về cho nên

phải hờ khóc để gọi hồn về cho đúng nhà cửa.

 Cải táng

Người chết từ ba năm trở lên mới được phép cải mộ. Người ta thường xem

ngày, chọn giờ tốt, mua sẵn một chiếc tiểu sành để chuẩn bị cho công việc quan

trọng này. Đến ngày đã định, trước khi đào mộ, con cháu làm lễ cúng tổ tiên,

trình bày việc “thay nhà mới” cho người đã chết, đồng thời cũng sắp lễ cúng ở

chùa đền và trên mộ. Khi cải táng, người ta tránh không cho ánh nắng chiếu rọi

xuống huyệt. Rượu được mang theo để rửa tay và đổ xuống ván khi vừa mới mở

nắp, mục đích là để tẩy mùi. Xương cốt được thu gom đầy đủ rồi đặt vào trong

tiểu nhưng phải sắp xếp vị trí của chúng trên cơ thể. Tiểu được đem đi chôn ở

nơi đã chọn, thường được quy tụ mồ mả của họ tộc về một khu vực để tiện trông

nom, chăm sóc. Tiểu được chôn vĩnh viễn không chuyển dịch đi đâu nữa.

[1,2,4,39]

Tiểu kết chương 1

Như vậy, Phật giáo nước ta không rập khuôn theo con đường Phật giáo của

các nước, Phật giáo nước ta không ham chuộng sự bay bổng hay thực tiễn quá

như Phật giáo của Ấn Độ và cũng không duy lý, nặng tính thần bí, mê tín như

27

Phật giáo Trung Quốc, Mông Cổ. Không có sự phân biệt giàu nghèo, giai cấp

thống trị hay bị trị, Phật giáo nước ta chung sống hòa đồng với các đạo khác như

đạo Nho, đạo Lão và các hình thức tín ngưỡng dân gian biểu hiện qua hình thức

của các phong tục. Như vậy, khi Phật giáo truyền vào nước ta, do có giáo lý phù

hợp với đời sống của người dân nên đạo Phật nhanh chóng được tiếp nhận, sự

tiếp nhận này không làm cho đời sống tinh thần của người Việt thay đổi một

cách đột ngột, người Việt thờ cúng đức Phật cũng như các vị thần bản địa.

Điều đáng tự hào hơn là Phật hoàng Trần Nhân Tông đã sáng tạo ra dòng

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – chứng tỏ khả năng dung hợp và tiếp biến văn

hóa của người Việt Nam đối với các yếu tố văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Phật

giáo Ấn Độ và Trung Quốc hay một số nước khác không chủ trương nhập thế

mà là một tôn giáo xuất thế. Trong lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam

cũng có thời kỳ như vậy, nhưng nhìn chung, Phật giáo đời Lý - Trần mang xu

hướng nhập thế. Phật giáo xuất thế nhấn mạnh “đời là bể khổ” và con đường

thoát khỏi bể khổ là tu tập kiên trì để đạt tới cõi Niết bàn không còn đau khổ và

bất công. Phật giáo Việt Nam nhấn mạnh nguyên nhân của nỗi khổ là do chính

con người và xã hội nên thường coi việc đạo chính là cuộc đời. Con đường thoát

khổ là con đường đấu tranh diệt ác, tu nhân tích đức thành người lương thiện và

khuyến khích con người làm việc thiện dưới nhiều hình thức phù hợp với hoàn

cảnh của mỗi người. Tư tưởng triết lý của Phật giáo Việt Nam là tu dưỡng thân

tâm mình để phụng sự lợi ích của dân tộc, nó luôn đồng hành với dân tộc, là

“điểm tựa tinh thần”, góp phần củng cố và nâng cao ý thức liên kết cộng đồng,

tinh thần độc lập tự chủ của Đại Việt trước mọi thử thách cam go của lịch sử.

Giáo lý của Phật giáo khá gần gũi với tinh thần vị tha bao dung, yêu thương

đùm bọc, đề cao tư tưởng từ bi, bác ái, chủ trương hỷ xả, cứu khổ cứu nạn nên

rất gần gũi với văn hóa nông nghiệp, ưa sống ổn định, dân dã, thái bình, trọng

tình nghĩa của người Việt. Ở gia đình Phật tử, bàn thờ Phật được đặt cao hơn

bàn thờ tổ tiên. Trong lời khấn tổ tiên, dường như người Việt khấn “Nam mô a

28

di đà Phật” 3 lần sau đó mới đến các vị tổ tiên của mình. Dù họ không xuất gia

vào chùa tu Phật nhưng họ vẫn sống theo tinh thần Phật giáo, chùa và nhà hòa

vào một. Chính vì biết uyển chuyển nên Phật giáo đã nhanh chóng chiếm được

vị trí trong đời sống tâm linh của người Việt như thách thức với thời gian, với

lịch sử, Phật giáo Việt Nam vẫn an nhiên đứng đó. Đã có biết bao tư tưởng và

tôn giáo từ bên ngoài đưa vào nước ta nhưng Phật giáo xem ra càng lâu càng sâu

gốc bền rễ.

29

CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT

GIÁO TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,

TỈNH QUẢNG NINH

2.1 Nội dung ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại

thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh

2.1.1 Ảnh hưởng đến hình thức tổ chức tang lễ

Đối với Phật giáo, nghi thức tang lễ của tín đồ Phật tử cơ bản có những

nguyên tắc sau: đơn giản để biểu thị lòng thương xót, trang nghiêm để biểu thị

lòng hiếu kính, tiết kiệm để dành tiền làm việc công có ích, không làm những

việc nhằm quảng cáo tuyên truyền lãng phí vô ích, không cần linh đình mà cần

phải giản dị chừng nào hay chừng nấy, không cậy giàu khoe của, tổ chức linh

đình hoặc không tiền mà cầu danh cố làm cho thiên hạ khen là đám ma lớn, con

cháu có hiếu.

Hiểu được những lẽ đó, người Phật tử tại thị xã Đông triều luôn tự nhắc

nhở bản thân và con cháu mình thực hành theo tinh thần của Phật giáo. Khi

trong nhà có tang sự, ai nấy đều đau lòng thương tiếc, đau thương than khóc là

lẽ thường tình. Tuy nhiên, người Phật tử chân chính lại lấy Phật – Sự để thay

cho sự khóc lóc. Khi có mặt Tăng Ni cùng sự hiện diện của tượng Phật, gia chủ

sẽ cố gắng cử hành nghi lễ đơn giản nhưng long trọng, giữ bầu không khí trang

nghiêm thanh tịnh của nhà có tang. Ngoài ra, những người trong tang quyến hay

khách đến viếng thăm phúng điếu, đều giữ cho nét mặt là quan cảnh được trầm

lặng trang nghiêm để tỏ lòng mến tiếc và chia sẻ nỗi đau buồn. Đặc biệt, trong

suốt quá trình diễn ra tang lễ, gia đình không để con cháu tụ tập cờ bạc để tránh

quấy rầy người chết. Một khi đã có sự xuất hiện của Phật giáo trong lễ tang, gia

đình sẽ được Tăng Ni khuyên bảo trước đó rằng không được cúng tế bằng sinh

vật để tránh mang tội sát sinh, làm trở ngại cho sự siêu độ vong linh. Tuy nhiên,

khi làm cơm cho người trong nhà hoặc làm cơm thiết đãi khách sau khi đưa đám

thì người dân vẫn không thể làm cơm chay hoàn toàn, họ vẫn nấu các món ăn

30

mặn như trâu, bò, gà vịt… Nhưng để tránh cảnh sát sinh ngay tại đám tang và

làm ảnh hưởng đến sự siêu độ của vong linh nhà mình, các món ăn từ động vật

thường được mua làm sẵn từ bên ngoài rồi đem về chế biến. Về điều này, các

Tăng Ni đến làm lễ cũng không trách được gia chủ bởi họ tuy có niềm tin vào

Phật giáo, nhưng không phải là những người xuất gia. Trong gia đình ai nấy đều

phải nhất luật giữ trọn trai giới. Ngoài ra các thứ ô uế khác, tang chủ đều căn

dặn con cháu, ai nấy đều phải giữ gìn cẩn thận. Có thể thấy, trong thời gian tang

lễ hay cầu an, cầu siêu, cùng với sự hộ niệm của Chư Tăng Ni, các Phật tử thì

gia chủ rất thành tâm khẩn nguyện bởi họ mong những điều tốt đẹp sẽ đến với

vong linh nhà mình.

Nhạc đám ma là điều không thể thiếu, xuất hiện như một tục lệ trong lễ

tang từ lâu đời tại Đông Triều, song có đàn kèn trống nhạc cũng không quá sầu

thảm, sẽ khiến cho vong linh mê theo âm điệu mà đi vào chốn địa ngục. Xung

quanh linh cữu không treo màn trướng, trang trí đèn đuốc. Có những người cho

rằng làm vậy có tác dụng an ủi vong linh, nhưng đối với tín đồ Phật giáo thì trái

lại, nó sẽ làm loạn động tâm thanh tịnh của người quá cố.

Sinh, lão, bệnh, tử là định luật vô thường, người đời không ai tránh khỏi,

dù có than khóc kể lễ cũng không làm cho người chết sống lại được, trái lại còn

làm cho vong linh quyến luyến nhà cửa, vợ con, quây quần nơi đó làm quỷ giữ

nhà mà không siêu độ được. Đối với Phật giáo mà nói, tiếng than khóc sẽ làm

loạn thần thức người đã chết. Dù đã được Tăng Ni khai thị cho người nhà biết

những điều đó nhưng theo tục lệ thì đám tang tại thị xã Đông Triều vẫn không

thể làm cho gia chủ thiếu đi tiếng khóc, đặc biệt là trong tang ma của các bậc

sinh thành. Tuy nhiên, không phải trong suốt quá trình diễn ra tang lễ, người

thân đều than khóc, mà họ chỉ thể hiện niềm thương tiếc với người quá cố vào

một số lễ quan trọng khi nhập quan, khi cất đám và lúc hạ huyệt. Đây là những

thời điểm họ cảm nhận được người thân của mình sắp phải rời xa thế giới này

31

thật sự và cảm xúc khiến họ không thể ngăn được những giọt nước mắt của niềm

tiếc thương.

Đám tang theo Phật giáo không làm sớ điệp, nhà kho, đốt vàng bạc, đồ

thế… Vì trong Tam Tạng Kinh Điển chánh tông không có dạy làm việc ứng phú

này. Từ sau đời nhà Hán, người Trung Quốc có tập tục đốt tiền giấy. Bác sĩ

Vương Dư đời Đường viết rằng: “Từ đời nhà Hán, có tục chôn tiền, và đời sau

lấy giấy thay tiền” [41]. Như vậy, từ đời nhà Hán về sau, có tập tục chôn tiền

cùng với người chết. Vì ở Trung Quốc, từ thời xưa, có niềm tin là người chết

biến thành quỷ. Quỷ cũng phải có tiền để sống, do đó mà chôn tiền. Về sau,

người ta thấy rằng chôn tiền thật là lãng phí, bèn lấy giấy cắt thành tiền giấy, rồi

đốt đi để cho quỷ dùng. Ở thời cận đại, tiền giấy lưu thông, có cả tiền của “ngân

hàng dưới âm phủ” được lạm phát rộng rãi. Lối mê tín này, một số bộ lạc thời

nguyên thủy và một số cộng đồng người cho đến tận ngày nay cũng có ít nhiều.

Người ta cùng chôn với người chết đồ vật, tiền tài, châu báu, vải vóc, thậm chí

cả đến người sống và súc vật sống nữa. Vì sao lại đốt tiền giấy? Điều này có liên

quan đến một loại tôn giáo gọi là Hỏa giáo. Hỏa giáo tin rằng Thần Hỏa có khả

năng đưa vật bị đốt đến cho quỷ thần dùng. Trong Ấn Độ giáo thờ Hỏa thần

Agui (A Kỳ Tu) có công năng đem đồ tế bị đốt đến cho quỷ thần. Trong dân

gian Trung Quốc, người ta không những đốt tiền giấy, bạc giấy, mà còn làm cả

nhà cửa, gia cụ bằng giấy, thậm chí làm cả tàu bay, thuyền bè bằng giấy để đốt

vàng mã, cúng người chết.

Sự thực, Phật giáo không cho rằng, người chết đều biến thành quỷ. Cõi quỷ

chỉ là một trong sáu cõi sống của chúng sinh. Phật giáo lại càng không tin quỷ

có thể dùng được tiền giấy và các dụng cụ bằng giấy bị đốt. Tại thị xã Đông

Triều, tang ma thường được tổ chức theo hai phái, một là Tịnh Độ, hai là Thiền

Tông. Tổ chức nghiêng theo hình thức của phái nào là phụ thuộc vào Tăng Ni

được mời đến để làm lễ cho gia chủ, là người tu theo Thiền hay Tịnh Độ. Phật

giáo Tịnh Độ là tông phái mang tính phổ quát, dân giã nên thu hút đông đảo tín

32

đồ, tông phái này có những nét gần gũi với người dân lao động. Do đó, hình

thức có nhiều điều thỏa hiệp và có sự kết hợp với lối sống dân dã và tín ngưỡng

lâu đời của nhân dân. Tịnh Độ Tông vẫn cho phép người dân thực hiện việc đốt

vàng mã cho vong linh ngay tại đám tang và ngay cả lễ cầu siêu 49 nếu làm trên

chùa, các Tăng Ni cũng chấp nhận điều này như một tục lệ lâu đời của người

dân nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng tâm linh, dù so với quan điểm chính

thống của Phật giáo có phần sai lệch.

Trái lại, Thiền Tông chỉ tin rằng, con cái thân thuộc của người chết có thể

làm các việc như bố thí, cúng Phật, trai tăng, rồi hồi hướng công đức ấy cho

vong linh, và siêu độ vong linh. Còn tất cả mọi việc làm khác đều chỉ là mê tín

vô ích. Tang lễ theo tinh thần của Thiền Tông tại Đông Triều không những

không chủ trương mai táng đồ vật, mà còn chủ trương không nên dùng quan tài

đắt tiền, không để cho người chết mặc quần áo đắt tiền, không lãng trí quá nhiều

công và của. Tăng Ni phái Thiền Tông sẽ khuyên bảo đến tang chủ để mặc cho

người chết quần áo bình thường, sạch sẽ, còn quần áo tốt đẹp và mới thì nên

đem bố thí cho kẻ nghèo, nếu có tiền thì nên đem cúng dường Tam Bảo và bố

thí cho người nghèo, chỉ có làm như vậy, vong linh người chết mới thật sự được

lợi ích; còn nếu đem các đồ vật quý cùng mai táng với người chết, thì đó là hành

vi ngu muội nhất, không xứng đáng là một Phật tử chính tín. Các Tăng Ni khi

tụng kinh, lễ sám, cầu đảo v.v… đều có viết sớ. Đọc sớ xong rồi đốt sớ đi. Đó là

bắt chước đạo gia đọc sớ cho quỷ thần nghe, đó là mê tín, hoàn toàn không có

căn cứ gì trong giáo lý đạo Phật cả. [17,36-37] Do đó, Thiền Tông chủ trương

lấy tâm thành kính để có cảm ứng. Đã đạt tới chỗ tâm thành và cảm ứng rồi, là

có linh nghiệm, chứ không cần phải đốt lá sớ, nếu không thì dù có đốt đến trăm

ngàn lá sớ, cũng chẳng có ích gì.

Ngày nay, khi Phật giáo hòa vào với các tín ngưỡng dân gian của người

Việt, giáo lý và những quan niệm của Phật giáo nguyên thủy vốn có thay đổi ít

nhiều. Xét thấy, tại thị xã Đông Triều, tang ma dưới sự dẫn dắt của các Tăng Ni

33

theo phái Thiền Tông còn thực hiện được các giáo lý nguyên bản về cái cốt của

việc theo Phật, một đám tang theo nghi thức Thiền Tông không phô trương,

không đốt vàng mã, không nỉ non than khóc, không mê tín dị đoan mà còn có

phần văn minh và thực hành tiết kiệm hay bố thí chúng sinh. Ngoài ra, hầu hết

người dân Đông Triều khi tổ chức một đám tang thường thấy có sự ảnh hưởng

nhiều của Phật giáo Tịnh Độ trong hình thức bởi hầu hết các chùa trên địa bàn

thị xã Đông Triều đều theo Tịnh Độ, đó là sự đan xen hòa trộn giữa yếu tố Phật

giáo với những quan niệm tín ngưỡng bản địa lâu đời. Người dân vẫn khó lòng

mà từ bỏ thói quen đốt vàng mã cho người chết, vì với quan niệm “trần sao thì

âm vậy” như một việc làm để đổi lấy sự an tâm trong lòng và khỏi áy náy với

người quá cố.

2.1.2 Ảnh hưởng của Tăng Ni và cư sĩ Phật tử trong đám tang

Trong Phật giáo, người ta dùng thuật ngữ “quy y” để chỉ tín đồ là con của

nhà Phật. Trên phương diện chữ nghĩa, “quy” có nghĩa là quay về hay hồi

chuyển, “y” là nương tựa, dựa vào. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta như đứa

con lạc cha, đã lang thang trong sinh tử luân hồi, chịu bao đau khổ, khi ở cõi

trời, cõi người, lúc đọa địa ngục, súc sinh… Do đó, Phật (Buddha), Pháp

(Dhamma) và Tăng (Sangha) được gọi là Tam Bảo (ba viên ngọc quý hay ba

ngôi báu), do có khả năng hóa giải phiền não, khổ đau, đem lại an lạc, hạnh

phúc cho chúng sinh.

Tăng nói đủ là Tăng già, dịch âm từ tiếng Phạn Samgha, có nghĩa là hòa

hợp chúng. Đây là chỉ đoàn thể những người xuất gia Phật giáo, sống thanh tịnh,

hòa hợp với nhau, từ bốn vị trở lên. Tăng là những người hiến trọn đời mình cho

mục đích giác ngộ, giải thoát, cắt đứt sự ràng buộc với cuộc sống đời thường,

chuyên tâm tu hành, có đủ tư cách đạo đức và trí tuệ, đáng để chúng ta cung

kính, tôn trọng. Họ sống vì lợi ích cho chúng sinh. Tăng có nhiều phẩm loại,

song quy nạp lại có ba: Bồ tát Tăng, Thanh văn Tăng và Phàm phu Tăng. Trên

thực tế thế gian, chỉ có Phàm phu tăng là gần gũi với chúng ta nhất, đóng vai trò

34

quyết định trong công việc truyền trì và hoằng dương Chánh Pháp. Theo thói

quen, ở Trung Quốc và Việt Nam, người ta thường gọi người xuất gia nam giới

là Tăng và nữ giới là Ni. [13,27-28]

Tại thị xã Đông Triều, thông thường khi một người sắp qua đời do bệnh tật

hay già lão, mà người thân trong gia đình có thể đoán biết được người bệnh có

thể không qua khỏi, họ thường thỉnh Tăng Ni bậc cao đức đến để khai thị cho

người sắp mất. Tuy nhiên, trường hợp không mời được Tăng Ni đến thì phần lớn

tín đồ không biết cách thức hộ niệm cho người thân của mình. Do đó, nếu không

mời được Tăng Ni thì hội Phật tử trong vùng được mời đến để làm lễ tụng sám

hối cho thần thức người đó nhẹ nhàng nghiệp chướng mà xả bỏ oán thù báo

thân. Những người tham dự buổi lễ đều cầm Kinh Phật trên tay và tụng theo vị

chủ lễ. Gia đình cũng đồng thời lập một bàn thờ Phật nho nhỏ, trên có ảnh Phật,

hương, hoa và quả. Sau vài ngày, nếu người đó cảm thấy nhẹ nhàng và dứt bỏ

được duyên nghiệp trần gian thì họ sẽ nhắm mắt xuôi tay.

Khi người thân qua đời, gia quyến thường bối rối vì một phần bị tình cảm

chi phối và một phần do không rành các tập tục quy định. Hơn nữa, sự đau buồn

thương tiếc và lòng hiếu thảo hay ân nghĩa luôn thúc giục họ làm điều gì đó hữu

ích cho người quá cố, và sự siêu độ hay vãng sanh là điều họ mong muốn. Do

đó, Tăng, Ni luôn là điểm đầu tiên họ tìm đến nương nhờ. Sự có mặt của Tăng,

Ni cùng sự hướng dẫn nhiệt tình, khôn khéo của họ sẽ giúp cho gia quyến an ủi

phần nào và tạo cho họ cũng như những người xung quanh những hình ảnh đẹp

về Phật giáo. Đó là nội dung “pháp sinh động” của đạo Phật đáng được tuyên

dương.

Đối với vấn đề giờ chết tốt, xấu là quan niệm của dân gian do ảnh hưởng

văn hóa và phong tục của người Trung Hoa. Phật giáo không chú trọng đến vấn

đề chết vào ngày giờ nào, ngày giờ tốt hay xấu. Bởi giờ khắc của sinh tử là do

nhân duyên, còn duyên thì tụ, hết duyên thì tán. Quan trọng là chết như thế nào,

có bình an và thanh thản hay không? Có được phúc duyên gặp chư Tăng cùng

35

bạn hữu niệm Phật lúc lâm chung để được theo Phật về Cực lạc hay không? Tuy

nhiên, ngày nay chỉ còn phái Thiền Tông giữ được quan niệm này và thực hành

đúng theo kinh sách của nhà Phật. Đối với Tịnh Độ hay Mật Tông vẫn thực hiện

việc xem ngày, giờ và tuổi tác kỵ, hợp do có sự kết hợp với một số tín ngưỡng

dân gian. Do đó, có nơi công việc này có trường hợp là do chính Tăng, Ni thực

hiện.

Trong tang lễ, sau khi chuẩn bị các thủ tục và vật dụng cần thiết xong,

Tăng, Ni được thỉnh đến cử hành lễ nhập liệm. Theo hướng dẫn của Phật giáo,

khi liệm thì có thể làm 3 lễ nhập vào làm một, đó là: Nhập quan, Thành Phục

(Phát tang), Tiến Linh (cúng cơm). Tuy nhiên, trước khi nhập quan, Tăng Ni sẽ

thực hiện khai thị cho vong. Lời khai thị đối với người có tu và người không tu,

xét về hình thức có khác đôi phần, song về nội dung đều giống nhau. Khai thị để

nhắc nhở cho vong linh về thân xác này là vô thường biến hoại, ai có thân rồi

cũng phải chết, cho nên còn duyên thì ở hết duyên thì ra đi thảnh thơi để có thân

khác tốt hơn, chớ nên lưu luyến cha mẹ, vợ chồng con cái và thân bằng quyến

thuộc; cũng đừng có buồn tủi, oán hờn bất kỳ ai, vì sự tham lam, luyến ái, hận

thù, sân, si… không mang lại lợi ích cho “ta” lúc này, mà ngược lại nó còn đưa

vong linh vào các đường đau khổ… Và giờ tất cả những cảnh tượng mà vong

linh đã thấy, dù tốt đẹp hài lòng hay khủng khiếp ghê sợ cũng đều là tâm thức

của vong linh biến hiện ra, chớ nên sợ hãi, hãy luôn nhất tâm nhớ Phật, cầu Phật

gia hộ che chở...

Trước khi đưa thi thể người mất nhập quan, Tăng Ni tiếp tục thực hiện

công việc gọi là sái tịnh. Sái tịnh, cũng gọi là sái thủy, có nghĩa là rưới nước

thơm để cho mọi vật được trong sạch. Nước thơm sau khi đã được gia trì ấn chú,

đem rảy quanh thân thể người mất và quan tài khiến cho tất cả đều được thanh

tịnh. Tăng Ni cầm cốc nước “dương chi” có cành hoa vào lòng bàn tay trái, còn

tay phải bắt đầu ấn cho đầu ngón cái và ngón áp út cong lại chạm vào nhau, ba

ngón tay còn lại ngay thẳng, và đọc 3 lần bài kệ:

36

“Dương chi tịnh thủy

Biến sái tam thiên

Tánh không bát đức lợi nhân thiên

Pháp giới quảng tăng duyên

Diệt tội tiêu khiên

Hỏa diệu hỏa hồng niên

Nam mô thanh hương địa

Bồ Tát Ma Ha Bát…”

Lúc khiêng thi thể vào quan tài, Tăng Ni sẽ liên tục tụng kinh Bát Nhã cho

đến khi đậy nắp quan tài. Nhập liệm xong, một án thờ được thiết lập trước quan

tài với tấm phủ nghi phía trước có những dòng chữ nói về sự đau buồn và về đạo

hiếu, tình nghĩa vợ chồng.

Việc tẩn liệm hoàn tất, tiếp đến lễ Thành phục (phát tang) và Tiến linh

(cúng cơm). Bàn vong được thiết lập trước quan tài. Mâm khăn tang được đặt

ngay trước bàn vong. Trên bàn thờ vong, gia chủ dọn mâm cơm cúng và 3 bát

cơm trắng, bát giữa để hai chiếc đũa, 2 bát hai bên mỗi bát 1 chiếc, 1 ấm trà và 3

chén nhỏ để châm trà cúng. Nghi thức phát tang và cúng cơm cũng đồng thời do

Tăng Ni đứng ra làm chủ lễ. Tới đây, vai trò của Tăng Ni trong ngày đầu tiên

hoàn tất, sau là việc phúng viếng của con cháu và người thân, xóm giềng. Buổi

tối diễn ra lễ tang, Tăng Ni thường không xuất hiện để tụng kinh, mà thay vào

đó, các Phật tử trong cùng người thân trong gia đình sẽ thực hiện công việc này.

Sáng hôm sau, lễ di quan cũng do Tăng Ni thực hiện. Nếu gia đình đã định

trước giờ đưa tang, Tăng Ni sẽ đến sớm hơn một giờ để dâng hương Phật, tụng

kinh và cúng cơm cho vong linh với quan niệm để vong không bị đói trên đường

sang thế giới bên kia. Cũng có những trường hợp gia đình mời Tăng Ni dẫn độ

đưa vong linh ra tới huyệt. Tại đó, Tăng Ni cùng gia chủ chuẩn bị đồ cúng và

37

thực hiện lễ hạ huyệt để cho “mồ yên mả đẹp”, như một nghi thức “nhập gia”

đối với nơi chôn cất của vong linh và các vong linh xung quanh khu vực nghĩa

trang.

Bên cạnh vai trò của các Tăng Ni thể hiện trong tang lễ, người Đông Triều

còn coi trọng sự xuất hiện của các thầy cúng. Đây là những người có khả năng

tụng kinh và thực hiện các vấn đề liên quan đến tâm linh. Nếu không mời được

Tăng Ni, tang chủ vẫn có thể mời các thầy cúng nhưng nghi thức tụng niệm vẫn

dựa trên các nghi thức của Phật giáo, và thường thiên về Phật giáo Tịnh Độ. Qua

khảo sát cho thấy, 40 % số người được hỏi thường mời Tăng Ni, Phật tử tới tụng

niệm, còn các thầy cúng do tôn giáo kết hợp với tín ngưỡng mà người dân vẫn

tin tưởng vào khả năng của họ (chiếm 56 %). Người dân cũng đánh giá cao tinh

thần và sự tận tâm của Tăng Ni trong quá trình siêu độ cho vong linh nhà mình

trong lễ tang. [Bảng khảo sát số 1] Cô Nguyễn Thị Hường, 48 tuổi (số 34, tổ 12,

Khu Nhuệ Hổ, Phường Kim Sơn, Thị Xã Đông Triều) cho rằng: “Các Tăng Ni

là những người xuất gia tu hành, đạo lực hơn người, hơn nữa dân ta lại đa phần

theo Phật giáo, cho nên mời Tăng Ni về Hộ Niệm và cầu siêu cho người mất

trong tang lễ là hợp tình hợp lý.” [Bảng khảo sát số 1]

Như vậy, tang ma biểu hiện có sự ảnh hưởng của Phật giáo tại thị xã Đông

Triều qua nghiên cứu gồm ba yếu tố gồm: hình tượng Phật hay Bồ Tát, sự hiện

diện của chư Tăng Ni và cư sĩ Phật tử, lời kinh Phật được tán tụng. Trong ba yếu

tố trên thì sự hiện diện của chư Tăng Ni là yếu tố quan trọng nhất biểu hiện sự

ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang, kế đến là sự có mặt của cư sĩ (khi không

có Tăng Ni) và sau cùng là chỉ có hình tượng Phật hay Bồ Tát và các bài kinh.

Thông thường, hình tượng Phật chỉ được tôn trí khi có sự hiện hiện của Tăng Ni

hay cư sĩ, nên yếu tố con người hành lễ luôn quyết định. Như vậy, nếu lễ tang

không có Tăng Ni hay cư sĩ Phật tử đến tụng niệm thì yếu tố Phật giáo hầu như

vắng mặt. Tăng Ni đóng vai trò như người chủ lễ, dẫn dắt tang lễ trong vấn đề

tâm linh và đưa Phật giáo trở thành tôn giáo gắn liền với đời sống tinh thần,

38

trong cách thức tổ chức tang lễ và những quan niệm về thế giới bên kia của

người Việt. Vậy là nếu các lễ tang thiếu hình bóng họ thì cũng có nghĩa rằng

không có hay có rất ít sự ảnh hưởng của Phật giáo, dù cho gia đình ấy vẫn có

niềm tin đạo Phật. Một khi đã tin tưởng Tăng Ni thì nhất thiết phải tuân theo sự

hướng dẫn của họ để tổ chức lễ tang. Những người này sẽ trở thành cư sĩ Phật tử

tương lai nếu họ thấy được giá trị đạo Phật thông qua phẩm hạnh của Tăng Ni

trong suốt lễ tang. Do vậy, cần phải đào tạo những Tăng Ni có khả năng và có từ

tâm thay vì thực dụng, tức thời. Chưa cần phải thuyết pháp hay, những Tăng Ni

này đã và đang làm công việc hoằng pháp hữu hiệu một cách bất ngờ. Sự có mặt

của Tăng Ni trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều đã chứng tỏ sự ảnh

hưởng rộng lớn của Phật giáo tại địa phương này.

2.1.3 Ảnh hưởng đến việc lập bàn thờ Phật trong tang lễ

Đạo Phật được xem là một trong những tôn giáo phổ biến và thịnh hành ở

nước ta. Phật không chỉ được thờ ở các ngôi chùa, mà ngay trong gia đình, nhân

dân cũng lập bàn thờ phật tại gia. Bàn thờ Phật thường phải cao hơn bàn thờ gia

tiên nếu không sẽ phạm xung, vì hiểu một cách đơn giản theo dân gian Phật đã

đạt được sự giải thoát, là bậc Đại giác, không thể ở thấp hơn chúng sinh. Không

gian thờ cúng, không gian mang tính tâm linh trong nhà ở luôn cần đặt yếu tố

gần gũi và giáo dục truyền thống lên hàng đầu để kết nối các thế hệ và giữ vững

gia phong nề nếp gia đình. Với những người theo đạo Phật thì tín ngưỡng thờ

cúng luôn được coi trọng.

Vào thế kỉ XIX và đầu thế kỷ XX, triều Nguyễn độc tôn Nho học. Do đó

mặc dù các chùa trong nước rất nhiều, nhưng hoạt động riêng rẽ, không có một

tổ chức, hệ thống liên lạc chặt chẽ với nhau, sự giao lưu phát triển về Phật học

cũng suy giảm. Do vậy, trong các đám tang, nhân dân ta thường theo pháp thế

gian, nghĩa là theo các thầy cúng nên không có sự xuất hiện của bàn thờ Phật

Tam Cấp.

39

Sau công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam – một phong trào vận động

cho sự phục hưng Phật giáo nhằm tìm lại các giá trị truyền thống và phát triển

hoằng bá Phật giáo tại Việt Nam, bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, công cuộc này đã

làm thay đổi rất nhiều về nội dung và hình thức hoạt động của Phật giáo tại Việt

Nam. Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp

nhất các tổ chức Phật giáo trong nước. [44] Nhân dân ta có dịp gần gũi trở lại

với Phật giáo, chùa chiền được tu sửa và xây dựng, người dân lễ chùa nhiều hơn

và nhu cầu quy y tam bảo cũng theo đó mà gia tăng. Để đáp ứng nhu cầu tâm

linh và đời sống tinh thần của người dân, bàn thờ Phật được thiết lập trong các

đám tang như một sự hiện diện linh thiêng của Đức Phật đối với những người

mất đã quy y tam bảo hoặc do gia đình đó là tín đồ của Phật giáo.

Đối với tâm niệm của người Đông Triều, lập bàn thờ Phật trong tang lễ là

một công việc rất tốt, tạo nhiều phúc nghiệp, nhưng công việc đó không hề đơn

giản chút nào. Gia đình tang chủ lập bàn thờ Phật phải có thành tâm. Trong đám

tang của cụ Nguyễn Văn Tạc (Thôn Nội Hoàng Đông, xã Hoàng Quế, thị xã

Đông Triều), con cháu trong nhà đã bàn bạc và đưa ra quyết định lập bàn thờ

Phật trong tang lễ cho cụ. Theo ông Nguyễn Văn Khải – con trai trưởng của cụ

cho biết: “Lập bàn thờ Phật là một nghi thức lâu đời không thể thiếu trong đám

ma, ngày nay dịch vụ tang lễ rất đầy đủ và phục vụ rất nhanh, nếu như có một

đám ma nào trong vùng không lập bàn thờ Phật thì sẽ bị xóm giềng chê trách

rằng con cháu chưa làm hết trách nhiệm với người chết, trừ khi gia đình đó quá

khó khăn về mặt kinh tế. Lập ban thờ Phật cũng là cách để người dân chúng tôi

gửi gắm sự tin tưởng của mình vào Đức Phật, mong sao Phật chứng giám và

siêu độ cho vong linh của cha chúng tôi được siêu thoát.” [Bảng hỏi phỏng vấn

sâu 1]

Bàn thờ Phật có ba cấp nên gọi là bàn thờ Tam Cấp. Việc sửa soạn lễ cúng

Phật tại lễ tang của cụ Tạc, cũng như các tang lễ khác tại địa phương này thường

có các vật phẩm như sau: Tang chủ sắm các lễ chay gồm hương, hoa tươi, quả

40

chín, oản phẩm, xôi chè, nước lọc, bánh kẹo, tuyệt đối không sắm sửa lễ mặn

như cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt mồi, gà, giò, chả… vì đức Phật không hưởng

thụ những thứ đó; không sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng lên bàn

thờ Phật. Hoa tươi lễ Phật người dân thường dùng là hoa cúc vàng hoặc cúc

trắng, mang ý nghĩa thương viếng người quá cố, không dùng các loại hoa tạp,

hoa dại. Cấp trên cùng có hình tượng Phật, cấp dưới cùng có thêm mâm gạo,

trứng, muối và một chút tiền lẻ.

Đối với các Tông phái khác nhau trong Phật giáo cũng có những cách thức

thờ Phật khác nhau. Trong đám tang cụ Tạc, con cháu cụ đã thực hiện theo nghi

lễ phái Tịnh Độ, do vậy chính giữa bàn thờ Phật Tam Cấp là thờ Phật Di Đà;

Bên trái Phật Di Đà là Bồ Tát Quan Thế Âm. Quan là quan sát, lắng nghe; Thế

là thế gian; Âm là âm thanh. Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát quan sát, lắng

nghe tiếng kêu than của chúng sinh trong thế gian, kịp thời cứu giúp họ thoát

khổ. Tay phải Ngài cầm nhành dương liễu, tay trái cầm bình nước Cam Lồ để

tưới mát chúng sinh, trên đỉnh đầu có hình đức Phật A Di Đà. Ngài thương

chúng sinh như mẹ thương con nên người ta thường tạc tượng Ngài mang hình

dáng nữ; Bên phải Phật Di Đà thường là Bồ Tát Đại Thế Chí, tuy nhiên ở Đông

Triều, người dân thiên về thờ Bồ Tát Địa Tạng vào chung với bộ ba này. Địa

Tạng có nghĩa là An Nhẫn, bất động như địa tạng; tư duy sâu xa kín đáo như

kho tàng bí mật. Ngài mặc áo cà sa, đội mũ tỳ nô, tay phải cầm tích trượng có

mười hai khoen, tay trái nắm viên minh châu. Hạnh nguyện của Bồ Tát Địa

Tạng là độ hết chúng sinh trong Địa Ngục thành Phật thì Ngài mới chứng quả

Vô Thượng Bồ Đề.

Bên cạnh đó, nếu gia chủ mời vị Tăng Ni theo phái Thiền Tông đến tụng

niệm thì ở cấp trên cùng bàn thờ Phật là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế ngồi

kiết già, tay phải cầm cành hoa sen đưa lên, tay trái để ở đầu gối úp xuống, ở thế

tự nhiên thông thả. Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật, hay phát

khởi lòng nhân từ mà tâm hồn luôn luôn an tĩnh, vắng lặng. Bên phải của Đức

41

Phật Thích Ca Mâu Ni là hình của Đức Bồ Tát Văn Thù, vị Bồ Tát có trí tuệ siêu

việt. Bên trái của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là hình của Đức Phổ Hiền Bồ Tát

tượng trưng cho hạnh nguyện lớn, không thối lui.

Tuy nhiên, theo sư thầy Thích Hiền Nhu – trụ trì chùa Kỉnh (Yên Lãng 3,

xã Yên Thọ, thị trấn Đông Triều) thì cũng có những trường hợp chỉ thờ tượng

hoặc ảnh Phật Thích Ca trên bàn thờ Tam Cấp, tùy theo sự chuẩn bị của tang

chủ mà các Tăng Ni tới tụng niệm cũng không bắt buộc họ, bởi miễn sao có sự

hiện diện của Đức Phật là được.

Như vậy, sự hiện diện của bàn thờ Phật trong tang lễ của người dân thị xã

Đông Triều khiến cho không khí và tinh thần của buổi lễ diễn ra trang trọng,

linh thiêng. Thiết lập bàn Phật để thỉnh Phật chứng minh và siêu độ sự ra đi của

vong linh. Tụng kinh để hương linh làm tư lương hướng Phật. Khuyến tấn

hương linh quy y Phật, dứt nghiệp trần lao. Tăng Ni cùng gia chủ quỳ gối chắp

tay bái lạy và đọc kinh cầu siêu cho người quá cố trước sự chứng giám của Đức

Phật. Trước là cúng Phật, sau cúng gia tiên rồi cuối cùng là cúng vong. Bàn thờ

Phật là chiếc cầu nối để thế giới người trần mắt thịt đến với thế giới thanh tịnh

của Đức Phật, nơi con người gửi gắm niềm tin, sự bất an và cầu mong điều tốt

đẹp đến với vong linh người mất. Buổi lễ diễn ra tuần tự, khiến cho người nhà

và người đến phúng viếng cảm thấy yên tâm trong lòng vì đã làm hết bổn phận

đối với người mất. Đây không chỉ là công việc có ý nghĩa đối với vong linh mà

còn là cách thức cư xử của người sống đối với người mất, là giá trị nhân văn của

tôn giáo hòa vào với nền văn hóa lâu đời của người dân thị xã Đông Triều.

2.1.4 Ảnh hưởng của Kinh Phật dùng trong phong tục tang ma

Kinh, còn gọi là Khế kinh, dịch theo âm là Tu-đa-la, là tên gọi của các bài

giảng của đức Phật. Tụng kinh, đặc biệt là trong phong tục tang ma, là đọc lại

những lời Phật dạy về phương pháp tu hành nhằm chuyển tâm của người chết để

họ nhờ đó mà hướng về Phật phát nguyện vãng sinh về cõi Phật, qua đó mà tỏ

ngộ phát tâm đủ tín, nguyện, hành, thì có thể được vãng sinh, còn không thì

42

người chết cũng được chút phước đức nhân duyên do gia đình và chúng tăng

làm nhưng được nhiều hay ít thì tùy thuộc vào sự chứng đắc hay thanh tịnh của

Chư Tăng và lòng thành kính của gia đình mà được sự tương ứng.

Cùng với ý nghĩa đó, khi một gia đình có người mất, người thân của họ

thường thực hiện công việc tụng kinh để người chết sớm được siêu thoát sang

thế giới bên kia, đặc biệt là trong tang ma của bậc sinh thành, đó là công việc thể

hiện chữ hiếu cuối cùng mà các con có thể làm cho cha mẹ.

Tại thị xã Đông Triều, để cho người sắp qua đời được ra đi một cách thanh

thản và nhẹ nhàng, người thân thường bật đài tụng kinh Phật để nơi đầu giường,

với quan niệm khi con người sắp lìa xa thế gian thường lưu luyến và day dứt với

những điều nghiệp mình đã tạo ra khi sống, nghe kinh Phật khiến tâm hồn của

họ hồi hướng về những điều thiện, dứt bỏ tham, sân, si mà đến với Phật.

Trong phong tục tang ma của người dân thị xã Đông Triều, nhiều bài kinh

được sử dụng cả trong lễ tang, lễ tuần đầu, lễ cầu siêu 49 ngày, lễ 100 ngày, và

lễ giỗ đầu. Nhưng quan trọng bậc nhất vẫn là “Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm

Kinh”.

Bát Nhã Tâm kinh là kinh ngắn nhất nhưng vô cùng quan trọng trong Phật

giáo Đại thừa và Thiền Tông, chỉ có khoảng 260 chữ, đó cũng là kinh tinh yếu

của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. [45] Nghĩa chung, Bát Nhã Ba-La-Mật

Đa Tâm Kinh là Kinh quan trọng nói về Trí Tuệ Bát Nhã, nói về tâm, nhưng

không phải là tâm suy nghĩ thường tình của người đời mà nói về cái tâm “đến

bờ kia”. Nó là cái trí có thể soi thấu được cội nguồn của mọi hiện tượng, sự vật

trên thế gian này. Với người tu Phật, bài kinh đó là ngọn đuốc dẫn đường giúp

hành giả đến đích. [28,7]

Qua điều tra khảo sát tại Đông Triều, 62% số người được hỏi nói rằng họ

không biết Kinh Bát Nhã cũng như nội dung của nó là gì, họ tụng kinh theo sự

hướng dẫn của Tăng Ni đến làm chủ lễ cho đám tang. 75% trong số đó là những

43

người trẻ tuổi và đa phần là những người chưa đến chùa tụng kinh bao giờ. 38%

còn lại cho biết nội dung cốt yếu trong kinh “Bát Nhã” mang lại ý nghĩa khi nó

được cất tụng trong một đám tang là nội dung về “Tánh Không”. Trong đó hơn

85% là những người đã ngoài 60 tuổi và tất cả đều là phụ nữ. Những người này

có người đã quy y Tam Bảo, có người chưa, nhưng họ đều là những người hay

lui đến chùa tụng kinh vào các buổi tối trong tuần tại ngôi chùa gần nhà hoặc

ngôi chùa họ đang tu tập. [Bảng khảo sát số 1]

Bà Nguyễn Minh Khuê – một Phật tử đã quy y sinh sống tại thôn Yên

Dưỡng, xã Hoàng Thái Đông, thị xã Đông Triều cho hay: “Phật tử chúng tôi

thường theo chân sư thầy chùa Non Đông đi tụng kinh tại các đám ma. Trong

phần tẩn liệm thi thể hương linh nhập quan, toàn thể Chư Tăng Ni hiệp cùng các

bạn hữu và gia quyến hương linh tụng Bát Nhã Tâm Kinh để hộ niệm, trong ấy

có câu: “Khi Bồ Tát Quán Tự Tại hành sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa Ngài soi thấy

5 uẩn đều không liền qua hết thẩy khổ nạn, Này Xá Lợi Phất, sắc tức là không,

không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như thế”. Lúc này nếu hương

linh thông suốt được lời khai thị trước đây thì sẽ cảm nhận được đại ý của câu

kinh trên. Hương linh sẽ qua hết những khổ nạn, được vào cảnh giới an lạc,

được gặp chánh pháp tu hành sớm được giác ngộ và giải thoát.” [Bảng khảo sát

số 1]

Trong suốt lễ tang từ khi liệm, cúng cơm cho đến hạ huyệt, kinh Bát Nhã

được tán tụng liên tục để cầu nguyện. Có lẽ không sai khi nói rằng hiếm ai đủ

tập trung để nghe và hiểu hết ý nghĩa những lời kinh Phật được trì tụng trong

suốt thời gian lễ tang cho dù nó được dịch ra tiếng Việt. Huống chi, kinh điển trì

tụng thường là âm Hán – Việt và thường Tăng Ni không giảng giải ý nghĩa trước

khi trì tụng. Do vậy, ảnh hưởng của Phật giáo không phải là do nội dung các bài

kinh được tụng mà là “những bài pháp sống động” do chính Tăng Ni thể hiện

qua tam nghiệp của họ. Nếu tam nghiệp thanh tịnh thì họ sẽ cảm hóa được cả

người mất lẫn kẻ còn, bằng ngược lại thì hiệu quả khó đoán biết.

44

Với ý nghĩa như vậy, kinh Bát Nhã được cất tụng trong đám tang để nhắc

nhở con người về sự hữu hạn của đời người, là cái nhìn sâu sắc giúp chúng ta

vượt qua tất cả các cặp đối lập như sinh tử, bản ngã và vô ngã, phiền não và vô

minh… Điều này giúp chúng ta liên lạc với bản chất thật của sự ra đời: Không

có cái chết, không có sự tồn tại… đó là bản chất thực sự của tất cả hiện tượng.

Mỗi con người khi được sinh ra tưởng là Sắc nhưng khi chết đi lại là Không.

Nắm bắt được quy luật đó, người Phật tử Đông Triều thường có thái độ bình tĩnh

đối với cái chết, không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời, sẵn sàng chờ đón

cái chết.

Kinh được tụng thông qua niềm tin của con người với Phật giáo để thức

tỉnh, nhắc nhở và định hướng cho vong linh về cái chết của chính mình như một

sự tất yếu của vũ trụ để họ không còn vương vấn trần gian, đồng thời an ủi tới

người thân trong gia đình không quá đau buồn trước sự mất mát ấy bởi sau thế

giới trần tục là thế giới tâm linh, là cõi luân hồi mà người thân của mình sẽ được

đầu thai tới một kiếp khác.

2.1.5 Ảnh hưởng đến việc làm lễ cầu siêu cho người quá cố

Nói về làm lễ cầu siêu trên chùa cho người quá cố, thường có hai cách như

sau:

Thứ nhất, gửi vong để thờ ở chùa: Trước đây, nghi thức rước vong lên chùa

chỉ dành cho những người không có con cháu. Những người này lo sợ rằng một

khi mình chết đi, không có người thờ phụng, vong sẽ đói khát lang thang. Vì

vậy, họ cúng tài sản của mình cho nhà chùa với nguyện vọng rằng sau khi chết

đi, vong được nương nhờ chốn cửa Phật, hàng năm vào dịp cúng giỗ sẽ do nhà

chùa đứng ra tổ chức để họ được an lòng nơi chín suối, có ảnh, có bát hương (có

thể thờ chung bát hương), vong của họ sẽ được no ấm, không phải chịu cảnh đói

khát, lang thang. Ngày nay, trường hợp gửi vong ở chùa để thờ có thế do toàn bộ

người thân ở nước ngoài, không có cháu trai nối dõi hoặc đơn giản chỉ là nguyện

vọng của người mất hay người thân trong gia đình.

45

Tuy nhiên, tại Đông Triều chỉ có những chùa theo phái Tịnh độ hay Mật

Tông xây nhà thờ vong, còn Thiền Tông chỉ thuần túy cầu siêu cho vong vào

chung thất 49 ngày, chứ không có nhà thờ vong vì nhiều vấn đề liên quan đến

mê tín dị đoan. Thị xã Đông Triều có một số chùa xây nhà vong và nhận thờ

vong ở chùa điển hình như chùa Đồn Sơn (Yên Đức), chùa Chạo Hà, chùa Tế

(Đông Triều)...

Thứ hai, rước vong lên chùa để cầu siêu: Trường hợp này dành cho đa số

người dân, vong linh vẫn thờ phụng ở nhà, chỉ rước di ảnh lên chùa trong dịp 35

hoặc 49 ngày để nhờ Chư Tăng Ni và đạo tràng tụng kinh siêu độ, sau đó rước di

ảnh và bát hương về nhà thờ phụng như cũ. Đối với những gia đình là tín đồ

trung thành của Phật giáo, đã quy y Tam Bảo, hay những gia đình có điều kiện

về mặt kinh tế và thời gian, họ thường đưa vong lên chùa ngay sau lễ tang để

nhờ nhà chùa tụng kinh cầu siêu cho vong trong liên tục 6 tuần đầu, mỗi tuần

một lần cho đến tuần thứ 7 thì thực hiện lễ cầu siêu cho vong thoát khỏi Thân

Trung Ấm.

Thân Trung Ấm được hiểu là sự sống sau khi chết trước khi thần thức

người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cõi nào đó (Trời, Người, A tu la, Địa

ngục, Ngạ quỷ va Súc sinh). Thân trung ấm là thân không có xác thịt mà là lấy

tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần thức thoát ra khỏi xác thì trụ lại ở

thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần lễ, rồi sau đó tìm kiếm một nơi thích

hợp với nghiệp lực của mình mà đi tái sinh. Nếu vong linh là người từng tạo

phước, tu tập tâm linh, thì luôn có những cảm giác yên bình, thanh thản và dễ

dàng để tìm đường tái sinh vào cõi lành. Còn nếu những người từng tạo ra ác

nghiệp, có đời sống tiêu cực thì luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ đau,

kinh hoàng, sợ hãi, thất vọng và chán chường. Họ lang thang một cách tuyệt

vọng trong cõi trung ấm và muốn tìm một thân xác để tái sinh tương xứng với

nghiệp lực của họ. Theo quan niệm của Phật giáo, ngày thứ 49 là ngày định

nghiệp, sẽ quyết định xem vong linh đó đi vào cảnh giới nào. Trong một số

46

trường hợp, có thể có những vong linh không phải chờ làm lễ cầu siêu thì mới

siêu thoát, mà tự vong linh ấy đã siêu thoát rồi. Nhưng với người đang sống, vì

không thể biết được những chuyện như vậy nên để giải quyết nhu cầu về mặt

tâm linh, người ta tiến hành những khóa lễ cầu siêu. Người sống thành tâm

tưởng niệm tới người chết thì vong linh sẽ yên tâm để đi tái sinh. [23]

Tiến hành khóa lễ cầu siêu là để khi ta niệm Phật, dùng kinh giảng giải cho

người ta thấy được những điều thiện, năng lượng của người đang sống và năng

lượng của vong linh cùng hòa đồng. Khi ấy, tâm đồng thanh khí tương cầu, vong

linh mới có thể siêu sinh được. Nói cách khác, đó là sự hướng dẫn để vong linh

hướng tâm theo chính đạo.

Qua tìm hiểu và thăm hỏi trụ trì tại một số ngôi chùa trên địa bàn thị xã

Đông Triều (chùa Kỉnh, chùa Linh Ứng, chùa Thiên Trúc, chùa Chạo Hà), được

biết lễ cầu siêu được tiến hành trong một số trường hợp khác nhau: 1. Dành cho

người mới mất trong vòng 49 ngày (7 tuần lễ đầu tiên); 2. Tổ chức vào mùa Vu

Lan – Báo Hiếu Báo Ân (trong tháng 7 âm lịch, thường là trung tuần tháng 7); 3.

Đại lễ cầu siêu cho vong hồn các liệt sĩ đã hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc,

hoặc tưởng niệm nạn nhân của những tai nạn đáng tiếc đã không may xảy ra.

Theo ý kiến của sư thầy Thích Hiền Nhu – trụ trì chùa Kỉnh thì làm lễ cầu siêu

dành cho các gia đình có người thân mới mất trong vòng 49 ngày là trường hợp

phổ biến, thường gặp nhất trong khóa lễ cầu siêu ở các chùa nói chung.

Ông Nghiêm Xuân Minh, 57 tuổi (số 34 Hoàng Hoa Thám, phường Mạo

Khê, thị xã Đông Triều) cho biết: “Trong các ngày cũng cho người mất như giỗ

tuần đầu, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu… thì ở địa phương mình coi trọng nhất là

ngày giỗ 49. Đây là thời khắc mà vong linh biết mình đã chết thật sự và thoát

khỏi thân trung ấm. Cầu siêu như một sự trợ giúp để vong linh không phải vào

chốn địa ngục. Đồng thời giỗ 49 ngày cũng là cơ hội để tang chủ bày tỏ sự biết

ơn đối họ hàng, hàng xóm láng giềng đã đến chia buồn với gia đình trong đám

tang.” [Bảng khảo sát số 1]

47

Tại Đông Triều, ngày nay người dân có xu hướng đưa vong linh lên chùa

để tiện cho việc làm lễ cầu siêu. Qua khảo sát, con số này là 66%. Bên cạnh đó,

cũng có những gia đình thực hiện việc cầu siêu này ngay tại nhà, song phải lập

thêm bàn thờ Phật tam cấp. 24% số người được hỏi cho rằng việc đưa vong linh

người thân của mình lên chùa trong vòng 49 ngày là phong tục mà ông cha ta

truyền lại và số ít 9% nghe theo lời khuyên của người quen biết rằng nên gửi

vong lên chùa để hương hồn vong linh “được mát mẻ” sẽ phù hộ cho gia đình

mạnh khỏe. Tuy vậy, rất nhiều người (58%) làm vậy vì niềm tin với Phật giáo.

Tức là bây giờ, khi gia đình có một người chết đi, việc đưa vong lên chùa được

coi như một việc đương nhiên cần thiết phải làm. [Bảng khảo sát số 1]

Tùy thuộc vào việc đã từng làm lễ cầu siêu ở chùa từ trước hay chưa, người

đến chùa có thể tới đăng kí trực tiếp với ban quản lý hoặc chỉ đơn giản là sau khi

thu xếp hoàn tất những công việc của đám tang, người ta tới chùa để hỏi xem

tiếp theo gia đình nên làm gì để có thể đưa vong lên chùa. Người nhà chùa sẽ

hướng dẫn sơ lược và giới thiệu họ tới gặp ban quản lý để đăng kí.

Đối với những gia đình chỉ làm lễ cầu siêu thì ngoài việc ghi tên, tuổi, địa

chỉ của các thành viên trong gia đình và tên, tuổi, ngày mất, địa chỉ phần mộ của

người mất… ban quản lý không yêu cầu thêm về số tiền cố định để nhà chùa

chuẩn bị cho khóa lễ, tất cả xuất phát từ tùy tâm và điều kiện kinh tế của gia

đình người mất. Nhưng thường, với số tiền 1,5 triệu đồng là đủ để chuẩn bị đồ

cho khóa lễ. Đồ lễ bao gồm hoa, quả, bánh kẹo và 2 mâm chay để cúng Phật và

cúng vong. Một bàn vong được lập riêng đặt bên cạnh bàn thờ Phật ở chùa.

Người nhà chỉ cần mang ảnh của người mất mà không cần mang bát hương lên

chùa, người ta dùng một chiếc cốc đựng đầy gạo để làm nơi cắm hương cho

vong.

Đối với những gia đình làm cả lễ tuần thì ghi vào sổ những thông tin như

nhóm đối tượng trên và gửi nhà chùa khoảng 200 nghìn mỗi tuần để sửa soạn lễ

cúng tuần cho 6 tuần trước khi lễ cầu siêu 49 ngày chính thức được tổ chức.

48

Tụng kinh ở chùa thường diễn ra vào các buổi tối được thực hiện bởi trụ trì và

các Tăng Ni, cư sĩ Phật tử của chùa. Khi làm lễ cúng tuần, công tác chuẩn bị

tương đối đơn giản, chỉ bao gồm hoa, quả dâng lên ban Phật, sau đó đến buổi tối

vào thời đểm tụng kinh, các Tăng, Ni sẽ đọc tên, tuổi, địa chỉ của vong để cầu

siêu, hồi hướng cho họ sớm được đầu thai vào kiếp người.

Để chuẩn bị cho một khóa lễ cầu siêu tại chùa, gia đình người mất sau khi

ghi đầy đủ và chính xác thông tin cần thiết theo yêu cầu của ban quản lý thì hầu

như không phải mua sắm bất cứ thứ gì khác cho buổi lễ. Nếu thành tâm, khi đến

tham dự khóa lễ, họ có thể mang theo một ít hương, hoa quả, quần áo, giày

dép… bằng đồ thật để dâng lên vong linh. Khi tới chùa, họ bày những lễ vật đó

lên khay, đĩa có sẵn và đặt lên bàn thờ vong hoặc bàn thờ Tam Bảo. Sau khi làm

lễ cầu siêu xong, tất cả những đồ cúng đó được ban phát, làm bố thí hay từ thiện

cho bất kỳ ai có hoàn cảnh khó khăn hay có nhu cầu sử dụng. Tuy nhiên, vì phần

lớn chùa và nhân dân theo Tịnh Độ, các đồ cúng cho vong là tiền vàng mã, đồ

thế nên cũng có nhiều trường hợp nhà chùa đó vẫn chấp nhận tín ngưỡng của

người dân thực hiện đốt vàng mã ngay tại chùa. Đây chính là điểm tích cực, văn

minh và đáng tuyên dương của Thiền Tông so với Tịnh Độ.

Ngoài ra, qua trao đổi, các nhà sư đều cho rằng, trong quan niệm của nhà

Phật, chúng sinh bình đẳng, không phân biệt ai hơn ai kém. Vì vậy, bất kì vong

linh nào cũng có thể đưa rước lên chùa nếu bản thân người chết khi còn tại thế

có nguyện vọng hoặc gia đình của người mất bày tỏ mong muốn được gửi gắm

vong hồn thân nhân của họ vào chốn Thiền môn.

Cách thức mà con người ta chết đi rất đa dạng. Có thể chết vì tuổi già, chết

vì tai nạn, chết vì bệnh tật, chết vì tự tử… Nguyên nhân của cái chết không ảnh

hưởng tới việc tiến hành lễ cầu siêu. Tất cả các nghi thức, diễn tiến của một buổi

lễ vẫn được tổ chức một cách bình thường và giống nhau.

Một điểm đáng lưu ý, một số chùa trên địa bàn đã xuất hiện hình thức lễ

cầu siêu cho thai nhi như chùa Tế, chùa Đồn Sơn, chùa Chạo Hà… Đối tượng

49

thai nhi ở đây được hiểu là: Những thai nhi ngay khi vừa mới sinh ra vì một lý

do nào đó (thường là bị bệnh từ khi còn nằm trong cơ thể người mẹ hoặc sinh

non…) không thể tiếp tục duy trì sự sống; Những trường hợp có thai mà không

thể giữ lại để chờ tới lúc sinh nở, buộc phải nạo phá ngay từ lúc người phụ nữ

biết mình mang thai. Họ quan niệm rằng thai nhi dù chưa cất tiếng khóc chào

đời vẫn được coi là một sinh linh, nên đối xử bình đẳng, coi nó như một con

người. Nhưng vì thai nhi chưa được sinh ra hoặc vừa mới sinh nhưng đã sớm lìa

đời, không có tên tuổi nên làm lễ cầu siêu tập thể, khi tuyên sớ, nếu các vong

linh người lớn được xướng đầy đủ họ tên thì các vong linh thuộc dạng này sẽ chỉ

được gọi ngắn gọn theo là thai nhi họ Nguyễn, thai nhi họ Trần, thai nhi họ Lê...

tùy vào cái họ mà người đến chùa đăng kí làm lễ cầu siêu cho thai nhi đó ghi lại.

Như vậy, lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh là một nghi lễ vô cùng quan

trọng sau đám tang, thể hiện tấm lòng của người sống đối với người quá cố qua

hình thức cầu siêu. Cách thức thực hiện của các Tăng Ni phái Thiền Tông vừa

có những điểm chung vừa có những điểm riêng so Tịnh Độ và môn phái của các

thầy cúng. Dưới góc nhìn của văn hóa và tín ngưỡng, mỗi phái có những cách

thức riêng do quan niệm mà ra, tuy nhiên xét thấy Thiền Tông có những ưu

điểm vượt hơn về giá trị nhân văn, hành xử văn minh với thế giới tâm linh và thế

giới đời thực, tránh đi nhiều yếu tố mê tín dị đoan làm mụ mị dân chúng.

2.2.6 Ảnh hưởng đến nghi lễ cúng dường, bố thí, từ thiện sau tang ma

Cúng dường là cách nói trang trọng biểu thị ý nghĩa là sự chăm sóc, nuôi

dưỡng làm cho sự vật, sự việc được tồn tại và phát triển. Cúng dường có rất

nhiều loại, mỗi một loại sẽ mang một ý nghĩa khác nhau: cúng dường Chư Tăng

(cúng dường Trai Tăng), cúng dường tượng Phật, cúng dường trường hạ, cúng

dường hoa, cúng dường ba la mật, cúng dường xây chùa, cúng dường nước,

cúng dường đèn, cúng dường đúc chuông, cúng dường gạo cho chùa, cúng

dường mandala, cúng dường trai phạn…. tất cả các loại cúng này thường được

gọi chung là cúng dường Tam Bảo. Nhưng nhìn chung, cúng dường Tam Bảo

50

bao gồm 3 loại cúng chính và quan trọng nhất: Cúng dường Phật Bảo; Cúng

dường Pháp Bảo; Cúng dường Tăng Bảo. Cúng dường Tam Bảo nhằm mục đích

đền đáp ân đức mà Tam Bảo đã ban cho, cúng dường cũng như bố thí để tâm

người Phật tử được thăng hoa, vun bồi công đức, xả ly của cải.

Con đường giải thoát trong Ðạo Phật cho thấy rằng sự hiện hữu của

mỗi hữu tình chúng ta là một sự ràng buộc trói chặt chằng chịt vào nhau, cho

nên, tâm xả bỏ là nhìn vào sự khao khát mong cầu của các người khác, để phát

khởi lên một tính chất thương xót ngay nơi chính mình, để rồi mạnh mẽ

“nhường lại” hay xả bỏ các vật sở hữu của mình để đáp ứng theo sự cầu xin của

họ, mà xả bỏ ra cho họ. Xả bỏ theo nghĩa ấy mới được gọi là “bố thí” nghĩa là

đáp ứng lại vô điều kiện và không lưỡng lự đối với sự cầu xin của bất cứ ai.

Cúng dường cũng thế, song vì đối tượng của Cúng dường là Tam Bảo nên tình

cảm ở đây không phải là tâm thương xót mà là tâm cung kính.

Ngoài thể thức cúng dường Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) nêu trên thì theo

Phật học từ điển của học giả Đoàn Trung Còn, sự cúng dường còn có những thể

thức khác nữa. Đó là: "Những người tín thí cúng dường cũng được chia ra 3

hạng”:

1 – Vì cung kính sùng mộ mà cúng dường.

2 – Vì hạnh nguyện mà cúng dường.

3 – Vì thấy có lợi ích cho ông bà, cha mẹ quá vãng, cũng như cho gia đình

trong đời sống này và đời sau mà bố thí, cúng dường.

Theo đó, ý nghĩa của việc cúng dường Tam bảo và bố thí sau đám tang

được gán với hạng thứ 3: “Vì thấy có lợi ích cho ông bà, cha mẹ quá vãng, cũng

như cho gia đình trong đời sống này và đời sau mà bố thí, cúng dường”.

Theo thầy Thích Như Minh – trụ trì chùa Linh Ứng (thôn Thọ Tràng, xã

Yên Thọ, thị xã Đông Triều) cho biết lý do khiến người dân thường làm công

đức cho vong linh sau đám tang như sau: “Kinh Ðịa tạng dạy, hành trang tư

51

lương cho người mất, không gì khác hơn là những tu tạo phước đức như là làm

phước, tu thiện, phóng sanh, bố thí, cúng dường, tụng kinh, hồi hướng công đức

từ những người thân quyến còn sống thực hiện với tất cả sự thành tâm. Tuy

nhiên, kinh Ðịa tạng cũng khẳng định rất rõ là hành trang tư lương đó có chu

đáo cỡ nào thì người mất chỉ tiếp hưởng được một phần mà thôi, còn 6 phần còn

lại người thân quyến tu tạo sẽ trọn hưởng. Ðây là một nguyên tắc nhân quả, ai

gieo nhân tốt thì người đó hưởng quả tốt, người được hồi hướng chỉ được cộng

hưởng một phần công đức mà thôi, nhưng một phần này là vô cùng quan trọng.”

[Bảng hỏi phỏng vấn sâu 2] Như vậy, thực chất phương pháp này cốt yếu nhắm

vào sự làm lợi ích cho người còn sống thông qua việc tạo hành trang cho người

mất. Bản thân người mất, trong thời gian Thân trung ấm, có được lợi ích nhiều

hay ít hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự tuỳ hỷ vào việc làm cho mình và nhất là sự hồi

tâm hướng thiện, thanh tịnh hoá mình trước khi thọ sinh.

Với quan niệm như vậy, sau khi lo liệu công việc hậu sự xong, gia đình

tang chủ sẽ tìm đến ngôi chùa gần nhà hoặc ngôi chùa nơi Tăng Ni đã hộ niệm

cho vong linh nhà mình đang tu hành, để thực hiện công việc cúng dường. Đó

cũng là những công việc hậu tạ và đáp lễ giúp hồi hướng cho người mất do lúc

sống chưa làm được. Phẩm vật tạ lễ chùa người dân mang theo là: hương, đăng,

hoa, quả và một bao thư để chút tịnh tài (tiền) cúng dường Tam Bảo. Cúng

dường Chư Tăng Ni tốt nhất các thứ như những vật thường dùng của nhà tu. Tuỳ

theo điều kiện kinh tế giàu nghèo mà các gia đình cúng dường lớn nhỏ hay rộng

hẹp. Theo lời thầy Như Minh: “Với những người nông dân, họ thường cúng gạo

và lương thực, thực phẩm cho chùa, như một vật phẩm thiết thực nhất. Còn đối

với những tầng lớp trí thức, công nhân viên chức, họ thường cúng dường Pháp

Bảo để hồi hướng cho vong linh quá cố nhà họ bằng việc in ấn Kinh sách, các

tài liệu về truyền bá Phật giáo cho nhà chùa.” Đến đây, thầy cũng lưu ý thêm:

“Việc in ấn Kinh sách cho chùa không phải muốn là làm, việc này cần thông qua

52

ý kiến của chùa, cần in Kinh gì, cần thêm sách gì, nếu tự ý làm có thể gây ra

lãng phí vô ích mà thôi.” [Bảng hỏi phỏng vấn sâu 2]

Ngoài ra, với sự giảng đạo của các Tăng Ni, người dân Đông Triều cũng

mua chim cá phóng sinh hoặc bố thí cho bệnh nhân nghèo khổ, hoạn nạn, các

gia đình khó khăn trong vùng… Như vậy, vừa có thể hành thiện cho đời, lại

cũng rất có lợi cho vong hồn người mất được siêu thoát. Hội từ thiện chùa Linh

Ứng do thầy Minh đứng ra làm đại diện cho biết hội hoạt động dựa trên nguồn

tiền từ các nhà hảo tâm, các cơ quan tổ chức doanh nghiệp thông qua các hoạt

động kêu gọi từ thiện, trong đó thầy rất bất ngờ vì 3 năm trở lại đây, hội nhận

được sự tài trợ của các gia đình khởi tâm làm từ thiện do gia đình đó vừa có

người mất, hầu hết trên địa bàn xã Yên Thọ, phường Mạo Khê và xã Hoàng

Quế. Họ mong muốn việc làm của họ sẽ giúp hồi hướng đến sự siêu thoát của

vong linh. Thầy cho biết: “Trong năm 2018, hội đã đóng góp 47 triệu đồng để

chung tay xây dựng ngôi nhà tình nghĩa cho trường hợp em Trần Quốc Khánh

(thôn Xuân Quang, xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều), mẹ bỏ đi, bố mất vì tai nạn,

chỉ có bà nội già yếu. Trong khoản từ thiện đó, phải đặc biệt nhắc đến khoản

tiền 30 triệu đồng là phần đóng góp đến từ gia đình bà Hoàng Thị Nhạn chủ

doanh nghiệp gốm sứ Mạo Khê, có chồng vừa mất do ung thư vòm họng vào

tháng 9 năm 2018.” [Bảng hỏi phỏng vấn sâu 2] Có thể thấy, đây chính là điểm

góp phần giáo dục cộng đồng đáng được tuyên dương của Phật giáo.

Ngoài ra, để đền đáp công đức của chư Tăng Ni, người nhà của người quá

cố nguyện quy y Tam Bảo, giữ gìn ngũ giới. Nhưng thường những trường hợp

này rơi vào những người đã có tuổi. Họ nguyện theo cửa Phật và tụng kinh, ăn

chay tại gia vào những ngày mồng Một, ngày Rằm để mong hồi hướng công

đức, cầu siêu độ cho vong linh nhà mình. Bà Phạm Thị Vâng (68 tuổi, Yên Lãng

I, xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều) cho hay: “Kể từ ngày ông nhà bà mất đến nay

bà đã ăn chay được 3 năm. Sau khi làm xong tang lễ cho ông, bà thường lui tới

chùa tụng kinh cho ông nhiều hơn, hoặc niệm Phật ngay tại nhà”. Bà cũng nói

53

thêm: “Các con cũng rất ủng hộ việc bà ăn chay, tuy không phải là ăn chay

trường nhưng chúng nói rằng ăn chay tốt cho sức khỏe của bà bây giờ và ăn

chay niệm Phật để vong linh ông nhà bà sớm được siêu thoát, chúng nhận thức

được như vậy nên bà cũng cảm thấy yên tâm phần nào…” [Bảng hỏi phỏng vấn

sâu 3]

Việc cúng dường và bố thí chúng sinh không chỉ được thực hiện như một

hành động tạ lễ sau đám tang mà còn được người dân Đông Triều thường xuyên

thực hiện, hễ có dịp thì cúng dường Tam bảo vì họ quan niệm việc cúng dường

không chỉ tích phước cho vong linh nhà mình mà còn có phước báo cho mình,

nó cũng là phương pháp tập cho mình xả ly tiền tài của cải, có như vậy mới mau

thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

Như vậy, những quan điểm về cúng dường Tam Bảo và bố thí chúng sinh

đã được Phật giáo đề cao ngay từ thuở khai sinh. Ngày nay, trong phong tục

tang ma của người Đông Triều, công việc đó càng trở nên quan trọng hơn, nó

đòi hỏi người thực hiện không phải với tư cách đánh đổi một lượng của cải để

đổi lấy cái lợi, cái phúc về cho vong linh và gia đình nhà mình, mà cốt yếu phải

dựa trên sự thành tâm và lâu dài trong con đường tu tập.

2.2 Đánh giá sự ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma

tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh từ góc độ triết học

2.2.1 Thế giới quan

Thế giới quan là biểu hiện của cách nhìn bao quát đối với thế giới bao gồm

cả thế giới bên ngoài, cả con người và cả mối quan hệ của người với thế giới. Nó

quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ nam cho hành

động của con người, trên cơ sở đó hoạt động của con người mang tính hướng

đích và thể hiện tính tự giác. Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu

tố tôn giáo và triết học hòa quện vào nhau, làm cơ sở luận chứng cho nhau. Ở

đây, chúng ta chú ý tới yếu tố triết học. Trong thế giới quan phức hợp nhiều

54

thành phần của người Đông Triều thì Phật giáo có ảnh hưởng lớn tới phương

pháp tư duy của họ về thế giới tâm linh sau khi chết.

Câu hỏi khi chết sẽ đi về đâu cũng là một vấn đề lớn từ xưa đến nay đối với

hầu hết các dân tộc. Người Việt nói chung và người dân thị xã Đông Triều nói

riêng cũng luôn trăn trở về việc sau khi chết có cái gì, và điều này cho thấy họ

vẫn muốn có sự “viện trợ” của những thánh thần, tổ tiên, giúp đỡ cho bản thân

hưởng được một cuộc sống ở trần gian được an toàn và hạnh phúc hơn, vượt qua

những điều mà người trần không vượt qua nổi. Họ tin rằng có một thế giới bên

kia gọi là âm phủ, là thế giới dành cho người chết. Thế giới đó, không chỉ có

người chết, mà trong đó còn có thần thánh, ma quỷ. Việc đồng thời phụ thuộc

vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên cũng dẫn đến tín ngưỡng đa thần. Với

quan niệm chung của Phật giáo, con người khi qua đời sẽ về cõi Thân Trung

Ấm, chờ xét xử, tội ác của bản thân ở trần gian sẽ bị phán xử khi con người

bước qua thế giới bên kia, nếu làm điều tốt thì được lên cõi Trời, lên Niết Bàn,

nếu làm chuyện ác khi còn sống sẽ xuống cõi địa ngục, ngạ quỷ. Thuyết nhân

quả của Phật giáo phù hợp với quan niệm ông trời trừng phạt kẻ ác, cứu giúp

người lành. Thuyết luân hồi trong Phật giáo phù hợp với quan niệm về sự tồn tại

của linh hồn sau khi chết. Sự tiếp nhận này không gây ra sự thay đổi đột ngột

trong đời sống tinh thần của người dân nước ta, nó được ví như “nước ngấm vào

lòng đất”. [36,67-69]

Phật giáo đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những quan niệm biện chứng với

các khái niệm “vô thường”, “vô ngã”. Ở đó cho thấy Phật giáo nhìn nhận sự vật

trong sự vận động và biến đổi liên tục, không có gì là trụ lại mãi mãi, không có

ai là tồn tại mãi mãi. Tuy nhận thức đó chỉ thấy được cái biến đổi mà không thấy

được cái ổn định tương đối, chỉ thấy được cái vận động mà không thấy được cái

hình thức của vận động, tuy dễ đi tới chiều hướng bi quan và thái độ buông xuôi,

nhưng mặt khác phải thấy nhận thức như vậy là có chiều sâu, là thấy được một

phương diện cơ bản của phát triển sự vật.

55

Chính lẽ đó, tinh thần nhập thế của dòng Thiền Trúc Lâm khiến cho con

người khi sống thì cống hiến hết mình làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn. Nhưng

khi cận kề cái chết lại xem cuộc sống ở trần này như là cõi tạm, thân xác này

cũng là tạm bợ, bởi nó được hình thành từ tứ đại, chắc chắn là sẽ đến lúc phải

tiêu hủy. Nắm bắt được quy luật đó, con người thường có thái độ bình tĩnh đối

với cái chết, không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời, sẵn sàng chờ đón cái

chết. Nếu là một tín đồ trung thành của Thiền Tông thay vì Tịnh Độ, gia đình

tang chủ thường ít than khóc hay tỏ ra quá đau buồn, họ quan niệm rằng than

khóc, thương tiếc đối với người quá vãng là vô ích, bởi vì người đã chết thì

không thể nghe và biết sự thương tiếc ấy. Mà lúc đó, chỉ nên đọc kinh để người

chết được về với Phật.

Là tín đồ Phật giáo, người dân Đông Triều vẫn biết khi chết con người

không thể đem gì theo được, chỉ có thể đem theo tội và phước mà thôi. Thế

nhưng, người bình dân vẫn tin rằng thế giới bên kia nơi mà người chết sẽ đến

cũng là một thế giới giống như thế giới của người sống. “Dương sao, âm vậy”,

quan niệm này dẫn đến việc người thân chuẩn bị cho người chết những vật dụng

mà họ sử dụng hằng ngày như quần áo, giày dép, những kỷ vật thân thuộc của

người chết để người chết mang sang thế giới bên kia mà sử dụng. Đồng thời,

người sống tắm rửa sạch sẽ và rảy nước thơm cho thi thể để linh hồn người chết

được sạch sẽ mà đi gặp tổ tiên, gặp Đức Phật.

Với sự truyền bá rộng rãi của Phật giáo mang đậm bản sắc của người Việt,

họ đã sớm hình thành cho mình những khái niệm về hồn, linh hồn mang triết lý

Phật giáo từ phạm trù “danh” và “sắc”. Hồn và linh hồn là một khái niệm phổ

biến rộng rãi trong nhân dân. Con người được cấu tạo bởi hai yếu tố, phần xác

và phần hồn. Xác và hồn luôn đi đôi với nhau, không thể tách rời. Linh hồn, sau

khi đã rời thân xác, trở thành một thực thể độc lập, cũng có sự sống, và cũng cần

phải tìm thức ăn để sống. Chính vì thế, gia đình phải làm phước để hồi hướng

thức ăn và phước đức cho linh hồn. Người dân tin rằng những của cải đã cống

56

hiến vào chùa và dâng cho Tăng Ni sẽ nương theo khói nhang và tiếng kinh mà

đến với người thân đã quá vãng của mình. Vì thế, việc những người này có được

sung sướng hay không, không chỉ phụ thuộc vào phước họ đã có lúc sinh thời

mà còn phụ thuộc vào việc con cháu hay người thân của họ làm phước nhiều

hay ít. Lợi ích và bất hạnh sẽ tùy thuộc phần lớn vào hành vi cuộc sống thường

nhật và nhất là tâm niệm và hành vi cuộc sống lúc lâm chung hay trong thời gian

49 ngày của Thân Trung Ấm. Thời gian này là một dịp tốt để thân nhân quyến

thuộc tu tạo nhiều phước duyên hồi hướng cho người mới mất. Và chính người

mới mạng chung đó cũng còn được cơ hội hồi tâm hướng thiện để hoặc là giảm

bớt nghiệp ác đã làm khi còn sống, hoặc là tăng trưởng thêm phúc duyên nếu khi

sống mình đã sống thiện.

Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy của người dân là quan điểm

duy tâm thần bí. Quan điểm này khiến người ta không hướng vào hiện thực, mà

hướng vào nghiệp, vào quả báo, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì. Và

một tư duy như vậy thì không cần gì đến sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo và hành

động. [34,71]

Phật giáo là nền giáo lý nhân bản, chăm lo đến đời sống con người khi con

người còn trong thai mẹ cho đến lúc trưởng thành và cái ngày từ giã cuộc sống.

Ðối với Phật giáo, cái chết được đánh giá ngang bằng và quan trọng như cái

sống, là một tiền đề nối liền với cái sống kế tục. Chuẩn bị cho cái chết không

chu đáo, người chết sẽ gặp phải nhiều bất hạnh. Và do đó, chuẩn bị chu đáo cho

cái chết cũng tức là chuẩn bị tốt cho cái sống.

2.2.2 Nhân sinh quan

“Nhân sinh” theo “Đại từ điển Tiếng Việt” là cuộc sống của con người.

Theo “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” thì nhân sinh quan là quan niệm của con

người về cuộc đời, nó được xếp thành hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối

sống. Mỗi thời đại khác nhau, con người có một nhân sinh quan khác nhau và

nhờ có nhân sinh quan đúng đắn mà con người mới có những bước đi đúng đắn

57

và vững chắc hơn. Như vậy, nhân sinh quan Phật giáo là toàn bộ những quan

niệm của Phật giáo về con người, bản chất cuộc sống con người, về mục đích đó

là sự khổ, thái độ và phương pháp tu tập của con người nhằm thoát khổ, đạt tới

giác ngộ, giải thoát.

Các lễ thức tang ma cho chúng ta thấy rõ văn hóa ứng xử của người dân thị

xã Đông Triều, trong đó bao gồm ứng xử giữa những người sống với nhau, ứng

xử giữa người sống và người chết, ứng xử giữa người và thế giới thần linh mang

đậm tính cộng đồng và triết lý Phật giáo. Mỗi thành viên trong cộng đồng đều tự

giác tuân thủ những nguyên tắc và đều thực hiện nó như một cách để tích phước

cho ông bà, cho chính mình và cho con cháu. Điều này, đến lượt nó lại tác động

ngược trở lại, tạo thành một lối sống hướng đến người khác đặc trưng ở nông

thôn Việt Nam. Văn hóa ứng xử giữa người sống và người chết thể hiện qua

việc chuẩn bị cho người chết chu đáo để về thế giới bên kia bằng các cách như

chuẩn bị đồ dùng, tắm rửa cho thi hài, thực hiện các nghi lễ, dâng cúng các

phẩm vật… Tất cả những việc cúng lễ dành cho người chết, từ khi chôn cất đến

giỗ hết đều do người còn sống tiến hành. Mọi việc làm này xét theo nguồn gốc

đều xuất phát từ nhân sinh quan của người sống tiến hành, nhằm nâng đỡ người

đã mất về nơi an nghỉ cuối cùng. Đồng thời, việc dâng cúng phẩm vật cho người

đã qua đời cũng thể văn hóa ứng xử của người sống đối với người đã chết. Suy

cho cùng, đó là tính nhân văn cố hữu của nhân loại. Tuy nhiên, nó biểu hiện ở

mỗi tộc người, mỗi cộng đồng người đều mang những đặc trưng riêng, xuất phát

từ tín ngưỡng hoặc tôn giáo mà cộng đồng đó tôn thờ.

Tâm thức người dân Đông Triều luôn quan niệm “nghĩa tử là nghĩa tận”,

con người khi sang thế giới bên kia cần được chôn cất, tang ma cẩn thận mới có

thể yên nghỉ nơi vĩnh hằng. Cuộc đời trần gian hữu hạn, cuộc sống bên kia thế

giới mới là vĩnh hằng. Con người từ khi sinh ra cho đến lúc trở về cát bụi đều

mong muốn được yên nghỉ trong vòng tay gia đình, người thân. Sự quan tâm

này còn được thể hiện qua việc những người trong cộng đồng nhiệt tình và tận

58

tâm tham dự đám tang, bao nhiêu hờn oán đều xóa bỏ khi đối tượng đã chết, vì

họ quan niệm rằng chết là dứt nợ trần gian. Dù cho lúc sinh thời, giữa họ và láng

giềng có xảy ra mâu thuẫn gì, thậm chí ghét nhau đến nỗi không thèm nhìn mặt

nhau, thì khi người đó chết đi cũng có nghĩa là mọi lỗi lầm, mọi giận hờn, tranh

chấp đều được cởi bỏ. Những người đến viếng, những người tham dự các nghi lễ

đều thành tâm nghĩ đến người đã chết với những gì tốt đẹp nhất mà người đó đã

làm trong lúc sinh thời. Đám tang như một lời nhắc nhở về sự hữu hạn của đời

người như trong quan niệm của Phật giáo. Với những người còn sống, tổ chức

đám ma theo đúng phong tục tang ma của người địa phương vô cùng quan trọng,

không chỉ giúp người khuất được “mồ yên mả đẹp” mà còn có ý nghĩa bảo vệ

người thân được êm ấm, bình an.

Sự quan tâm của người sống đối với người đã chết còn được thể hiện qua

việc thực hiện các lễ cầu siêu. Người ta tin rằng, thông qua việc nhờ sư sãi cầu

siêu, linh hồn của người thân của họ có thể giảm bớt tội lỗi mà được lên Niết

bàn. Chính vì thế, họ chú tâm vào thực hiện việc cầu siêu cho người chết. Việc

đọc kinh cho người chết ngoài ý nghĩa là để cho linh hồn sớm được siêu thoát

còn giúp cho người đang sống suy nghĩ để làm điều thiện nhiều hơn. Có thể nói,

các lễ thức mà người dân thị xã Đông Triều thực hiện cho thân nhân đã quá

vãng của họ là nhằm để rửa sạch tội lỗi và tích thêm phước đức bởi họ tin rằng

người thân của họ sẽ được về Niết bàn hoặc được đầu thai kiếp sau an nhàn nên

họ chuẩn bị chu đáo cho việc ra đi của người thân thông qua các nghi lễ cầu

siêu, đồng thời cầu mong tích đức cho bản thân mình và con cháu sau này.

Tang lễ nhìn bề ngoài là hành vi ứng xử xã hội của người sống đối với

người chết, nó thuộc phạm trù văn hóa tang lễ (cũng có người gọi nó là văn hóa

sinh tử). Nhưng kỳ thực văn hóa tang lễ là loại văn hóa dành cho người sống

chứ không phải cho người chết. Vì một khi con người đã qua đời, thì mọi nhu

cầu từ vật chất đến tinh thần đều khép lại. Tuy nhiên, vì truyền thống “uống

nước nhớ nguồn” và tục thờ cúng tổ tiên nên tang ma và các hình thức thờ cúng

59

là nơi thể hiện của sự xót thương, lòng hiếu thuận của những người sống đối với

người quá cố. Trong ứng xử giữa người sống và người chết diễn ra hai tâm lý

giằng kéo: nuối tiếc người thân và đưa tiễn người thân qua bên kia thế giới [4,

260]. Đây cũng là giai đoạn mà người sống học cách thích ứng với hoàn cảnh

mới, một hoàn cảnh mà không còn sự hiện diện cụ thể của người thân trong cuộc

sống hằng ngày của họ nữa. Chính vì thế mà họ cảm thấy xót thương, tiếc nuối

người đã mất.

Phật giáo đề ra tư tưởng từ bi bác ái, chủ trương hỉ xả cứu khổ cứu nạn là

những tư tưởng gây được xúc động lòng người và đã trở thành một trong những

nguồn gốc của lòng thương người, chủ nghĩa nhân đạo. Do đó, ngoài hướng vào

việc đọc kinh cầu siêu cho người mất, Phật giáo còn chủ trương giáo dục tín đồ

làm công đức, cúng dường Tam Bảo và bố thí của cải cho chúng sinh. Những

vật dụng sinh hoạt hằng ngày của người đã mất, nếu còn dùng được gia chủ nên

làm từ thiện cho người nghèo, những người có hoàn cảnh khó khăn. Điều đó

không chỉ mang lại sự kết nối giữa người với người, làm cho con người gần

nhau hơn, mà còn hướng đến những giá trị tốt đẹp cho người đã khuất.

Tiểu kết chương 2

Như vậy, Phật giáo đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hành nghi lễ trong

tang ma. Nếu như trước đât khi chưa có sự du nhập của Phật giáo, trong nghi lễ

tang ma, người dân lấy đạo hiếu và quan niệm nhân gian là phần nhiều, đề cao

và phụ thuộc vào người con trai trưởng. Thì nay, với sự ảnh hưởng của Phật

giáo, trong việc thực hành nghi lễ tang ma đã có sự có mặt của các nhà sư, các

vãi, cờ phướn, có sự có mặt của những lời Kinh Phật… vận dụng và việc cầu

siêu, hướng cho vong linh người chết về với Phật. Phật được coi như người cứu

độ chúng sinh, cứu độ tổ tiên, hướng đường cho tổ tiên được giải thoát về cõi

“sinh tử luân hồi”.

60

Triết lý nhân sinh và đạo hiếu của Phật giáo đã góp phần củng cố nội dung

triết lý của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và phong tục tập quán trong lễ tang ma

tại thị xã Đông Triều. Tất cả những tư tưởng chủ yếu về thế giới quan và nhân

sinh quan Phật giáo, đặc biệt là quan niệm của Phật giáo về con người, về thế

giới… đã có ảnh hưởng lớn đến nhiều phong tục, tập quán khác nhau. Trong đó,

quan điểm về cái chết hay thuyết luân hồi nghiệp báo đã ảnh hưởng sâu sắc và

được biểu hiện trong cách tiễn đưa một con người về thế giới bên kia của người

Việt.

Có thể nói, đạo Phật vốn độ sinh chứ không phải độ tử nhưng ngày nay thì

kiêm cả hai. Tuy nhiên, cốt tủy của đạo Phật vẫn phải là độ sinh và do đó phải đi

theo hướng này. Muốn vậy, Phật giáo cần tập trung chú trọng vào người đang

khỏe mạnh để hướng dẫn họ đi đúng Chính pháp hơn là chỉ phục vụ tín ngưỡng.

Khi họ có niềm tin kiên cố vào Chính pháp thì tất yếu họ sẽ theo các nghi thức

Phật giáo để tổ chức lễ tang mà không phải lo sợ. Một nghi thức Phật giáo cần

có để tất cả cư sĩ Phật tử nương theo thực hành khi chưa hay không có Tăng Ni.

Nó cần có những nội dung hướng dẫn rõ ràng từ cách thức tổ chức đến các kinh

trì tụng, bắt đầu từ khi hấp hối cho đến an sàng. Phật giáo có đủ tầm ảnh hưởng

để làm việc này.

61

KẾT LUẬN

Phật giáo đã du nhập vào nước ta từ những năm đầu công nguyên, nó đã

thấm sâu vào máu thịt của người dân, gắn bó cùng phù hợp với lối sống, đạo đức

và phong tục tập quán người dân thị xã Đông Triều. Đối với những người dân

quê chất phác, đạo Phật đến với họ không phải cao siêu, xa lạ mà rất bình dị, gần

gũi qua những câu ca dao dân ca, tục ngữ mang đầy tính triết lý sống Phật giáo.

Được xem kinh đô Phật giáo đời Lý Trần, An Sinh – Đông Triều đã thấm đẫm

tinh thần Phật giáo và có những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn hóa tâm

linh của người dân nơi đây, trong đó phải kể đến phong tục tổ chức tang lễ tiễn

đưa một người về thế giới bên kia.

Phong tục tang ma của người Việt tại Đông Triều đã trở thành triết lý, đạo

lý làm người. Một mặt, con cháu bày tỏ sự biết ơn, thương tiếc đối với các bậc

sinh thành cả khi họ còn sống cũng như khi họ đã mất. Mặt khác, nó cũng thể

hiện trách nhiệm của con cháu đối với nhu cầu của ông bà cha mẹ người thân

khi tìm đến Phật giáo để nương nhờ thân xác và linh hồn sau khi chết. Trong

mỗi đám tang của các gia đình, dường như yếu tố Phật giáo là không thể thiếu

trong việc nâng đỡ linh hồn về thế giới bên kia.

Những quan niệm của Phật giáo về thế giới, về con người, về cái chết, về

kiếp luân hồi nghiệp báo… có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát triển bản

sắc dân tộc, phong tục tập quán của người Việt Nam nói chung và người Đông

Triều nói riêng. Phật giáo cho rằng sống chết là quy luật tất yếu của thế gian,

giống như mặt trời mọc rồi lặn. Sống và chết chỉ có ý nghĩa là thay đổi từ trạng

thái này sang trạng thái khác. Chết là bắt đầu của một chu kỳ sống mới, một kiếp

sống mới. Theo đạo Phật không có kiếp sống đầu tiên và kiếp sống cuối cùng,

sau khi tái sinh con người sẽ được tái sinh đầu thai vào một kiếp sống khác.

Kiếp đó là hạnh phúc hay khổ đau tùy thuộc vào bản thân họ đã sống thiện hay

sống ác trong quá khứ.

62

Chúng ta hay tự hào đạo Phật một thời là quốc giáo và có ảnh hưởng nhiều

nhất trong nền văn hóa dân tộc. Trong tất cả các lễ hội thì đạo Phật, như một sự

mặc định, có sự gắn kết với lễ tang nhiều nhất. Sự mặc định cao đến độ hễ thấy

Tăng Ni đi đến đâu thì người ta thường nghĩ là có người đã hoặc sắp qua đời ở

nơi đó. Vậy mà, qua lễ tang của tín đồ Phật tử, ta thấy hầu như là các phong tục

tập quán, thậm chí là mê tín, vẫn chiếm phần lớn. Đâu đó vẫn còn những gia

đình tổ chức một lễ tang có phần phô trương, cậy giàu khoe của, tổ chức linh

đình hoặc không tiền mà cầu danh cố làm cho thiên hạ khen là đám ma lớn, con

cháu có hiếu. Đó là những giá trị hư ảo vô nghĩa mà Phật giáo không nghi nhận.

Tăng Ni theo Tịnh Độ vẫn còn thỏa hiệp với tín ngưỡng đốt vàng mã trong nhân

dân gây nên sự lãng phí tốn kém, ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, tuy có một tôn

giáo đứng ra để dẫn dắt đám tang là Phật giáo, song cơm dâng cúng cho người

mất vẫn chưa hoàn toàn là đồ chay, như vậy càng tạo thêm nghiệp cho vong linh

vì sự vô tình sát sinh của tang chủ. Đây vẫn còn là những điều phải đáng suy

ngẫm!

63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngô Bạch (2011), Tục ma chay cưới hỏi, NXB Thời Đại.

2. Nguyệt Hạ (2005), Phong tục hôn lễ tang lễ tế lễ Việt Nam, NXB Đà Nẵng.

3. Hoàng Tuấn Phổ (2010), Nguồn gốc - ý nghĩa tang lễ người Việt, NXB

Thanh Hóa.

4. Phan Thuận Thảo (2005), Tục lệ cưới gả tang ma của người Việt xưa, NXB

Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.

5. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục.

6. Nhất Thanh (2016), Đất lề quê thói, NXB Văn học.

7. Đào Duy Anh (2010), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn học.

8. Đào Duy Anh (2015) Hán Việt Từ điển, NXB Khoa học xã hội.

9. Toan Ánh (2005), Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, NXB Trẻ.

10. Toan Ánh (1991), Phong tục Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.

11. Hoàng Quốc Hải (2005), Văn hóa phong tục, NXB Phụ Nữ.

12. Phan Kế Bính (2011), Việt Nam phong tục, NXB Văn Học.

13. Thích Minh Quang (2003), Chân dung người Phật tử, NXB Hồng Đức.

14. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1,

từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV, NXB Khoa học Xã Hội.

15. Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nhà xuất bản Văn Học,

Hà Nội.

16. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản

Thuận Hóa.

17. Đoàn Trung Còn (2003), Triết lý nhà Phật, NXB Tôn giáo.

18. Minh Chi, Hà Thúc Minh (1995), Đại cương lịch sử triết học phương

Đông, NXB TPHCM.

19. Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, NXB Tôn

giáo.

20. Thích Minh Châu, Minh Chi (1991), Từ điển Phật học Việt Nam, NXB

Khoa học xã hội.

64

21. Phan Dũng (2010), Thế giới bên trong con người, NXB Trẻ.

22. Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hóa tâm linh, NXB Hà Nội.

23. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, NXB Hà Nội.

24. Tứ thư (2003), Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

25. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2013), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Đại học

Quốc Gia, TPHCM.

26. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2010), Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB

Giaos dục Việt Nam.

27. Thiền sư Đinh Lực, cư sĩ Nhất Tâm (2003), Tôn giáo và lịch sử văn minh

nhân loại, Phật giáo Việt Nam và thế giới, NXB Văn Hóa Thông Tin.

28. Bát Nhã Ba – La – Mật – Đa Tâm Kinh, Đại sư Hoằng Tán giảng, Hòa

thượng Thích Phổ Tuệ dịch.

29. Kỷ yếu hội thảo khoa học, giá trị khu di tích quốc gia đặc biệt, khu di tích

lịch sử nhà Trần tại Đông Triều (Quảng Ninh), (9/1024), huyện Đông Triều,

tỉnh Quảng Ninh.

30. Nguyễn Văn Anh (2014), Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều,

NXB Văn Hóa – Thông Tin.

31. Nguyễn Thị Hằng (2015), Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của

người Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, trường đại học Khoa học xã

hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.

32. Dương Quang Điện (2010), Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân

gian Việt Nam, luận văn thạc sĩ triết học, trường đại học Khoa học xã hội và

Nhân Văn, ĐHQGHN.

33. Trịnh Thị Hương (2014), Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến

đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, trường

đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.

34. Nguyễn Thu Hương (2013), Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống và một

số phong tục tập quán của người dân Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ triết

học, trường đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.

65

35. Nguyễn Thị Toan (2006), Quan niệm về giải thoát trong Phật giáo và ảnh

hưởng của nó đối với đời sống của người Việt Nam, luận án tiến sĩ triết học,

trường đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.

36. Tạ Thị Thảo (2012), Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tín ngưỡng thờ cúng

tổ tiên của người Việt (qua khảo sát ở tỉnh Bắc Giang), luận văn thạc sĩ triết học,

trường đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN.

37. Theo Báo điện tử Giác Ngộ.

38. Theo số liệu thống kê của Ban Hướng dẫn Phật tử, Giáo hội Phật giáo Việt

Nam trong bài phát biểu của HT Thích Thiện Nhơn Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư

ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đọc trong ngày kỷ niệm 27

năm ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (07/11/1981 – 07/11/2008)

được đăng trên báo Giác Ngộ cơ quan ngôn luận của Thành hội Phật giáo Thành

phố Hồ Chí Minh.

39. https://hoavienbinhanvinhnghiem.com/phong-tuc-tang-ma-cua-nguoi-viet/

40. https://nguoiphattu.com/nghi-le/nghi-le-tong-hop/6034-tang-le-theo-nghi-

thuc-phat-giao.html

41. https://vanhoaphatgiaovietnam.net/thu-vien/sing/cau-sieu-rat-can-thiet-cho-

nguoi-mat-nhat-la-trong-49-ngay-350

42. https://www.youtube.com/watch?v=Wr3d2IGvD84

43. https://phatgiao.org.vn/ten-goi-va-hinh-tuong-phat-bo-tat-thuong-gap-

d11092.html

44. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5n_h%C6%B0ng_Ph%E1%

BA%ADt_gi%C3%A1o

45. https://hoasenphat.com/kien-thuc-phat-giao/nguon-goc-va-y-nghia-cua-bat-

nha-tam-kinh.html

66

PHỤ LỤC

BẢNG KHẢO SÁT SỐ 1

Để phục vụ cho việc làm khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Ảnh hưởng của

Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh”,

tôi đã tiến hành điều tra xã hội học bằng bảng hỏi bằng cách phát ra 50 phiếu

khảo sát ngẫu nhiên với nội dung sau đây:

Bạn hãy đánh dấu vào ô “” với phương án mà bạn thấy phù hợp nhất với

ý kiến của mình và điền thông tin vào những câu hỏi mở dưới đây:

Họ và tên, tuổi, địa chỉ sinh sống hiện nay?

…………………………………………………………………………………….

Giới tính? Nam  Nữ 

NỘI DUNG 1

Câu 1: Trong tang lễ, gia đình bạn thường mời ai về để Hộ Niệm cho vong linh

quá cố?

Chư Tăng Ni, Phật tử  Thầy cúng  Gia đình tự làm 

Câu 2: Thái độ của Chư Tăng Ni, Phật tử tới Hộ Niệm trong tang lễ như thế

nào?

Rất thành tâm và tận tụy  Làm để cho xong nhiệm vụ 

Câu 3: Đánh giá của bạn về vai trò của Tăng Ni và tầm ảnh hưởng của Phật

giáo trong tang lễ?

……………………………………………………………………….....................

NỘI DUNG 2

Câu 4: Bạn có phải là Phật tử đã quy y Tam Bảo không?

Có  Không 

67

Câu 5: Bạn có thường xuyên tới chùa tụng kinh, nghe kinh không?

Có  Không 

Câu 6: Bạn có biết Kinh Bát Nhã không?

Có  Không 

Câu 7: Đánh giá của bạn về sự hiện diện của Kinh Bát Nhã trong tang lễ?

…………………………………………………………………………………….

NỘI DUNG 3

Câu 8: Gia đình thường làm lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh ở đâu?

Tại chùa  Tại nhà 

Câu 9: Lý do gia đình đến chùa làm lễ cầu siêu cho người thân?

Theo phong tục mà ông cha truyền lại 

Theo lời khuyên của người quen biết 

Dựa vào niềm tin của bản thân với Phật giáo 

Câu 10: Qua lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh, gia đình mong muốn điều gì?

Hồi hướng công đức cho vong linh được siêu thoát, không bị đọa địa ngục 

Tích đức cho chính gia đình và con cháu mình sau này 

Cả hai phương án 

Câu 11: Đánh giá của bạn về vai trò của việc làm lễ cầu siêu 49 ngày cho người

quá cố?

…………………………………………………………………………….............

68

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA BẢNG KHẢO SÁT SỐ 1

Câu 1: Trong tang lễ, gia đình bạn thường mời ai về để Hộ Niệm cho vong

linh quá cố?

Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)

Chư Tăng Ni, Phật tử 20 40

Thầy cúng 28 56

Gia đình tự làm 2 4

Câu 2: Thái độ của Chư Tăng Ni, Phật tử tới Hộ Niệm trong tang lễ như

thế nào?

Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)

Rất thành tâm và tận tụy 41 82

Làm để cho xong nhiệm vụ 9 18

Câu 3: Đánh giá của bạn về vai trò của Tăng Ni và tầm ảnh hưởng của

Phật giáo trong tang lễ?

Cô Nguyễn Thị Hường, 48 tuổi, Số 34, tổ 12, khu Nhuệ Hổ, phường Kim

Sơn, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh: “Các Tăng Ni là những người xuất gia

tu hành, đạo lực hơn người, hơn nữa dân ta lại đa phần theo Phật giáo, cho nên

mời Tăng Ni về Hộ Niệm và cầu siêu cho người mất trong tang lễ là hợp tình

hợp lý.”

Câu 4: Bạn có phải là Phật tử đã quy y Tam Bảo không?

Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)

24 48 Có

26 52 Không

69

Câu 5: Bạn có thường xuyên tới chùa tụng kinh, nghe kinh không?

Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)

17 34 Có

33 66 Không

Câu 6: Bạn có biết Kinh Bát Nhã không?

Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)

31 62 Có

19 38 Không

Câu 7: Đánh giá của bạn về sự hiện diện của Kinh Bát Nhã trong tang lễ?

Bà Nguyễn Minh Khuê, 51 tuổi, sinh sống tại thôn Yên Dưỡng, xã Hoàng

Thái Đông, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh: “Phật tử chúng tôi thường theo

chân sư thầy chùa Non Đông đi tụng kinh tại các đám ma. Trong phần tẩn liệm

thi thể hương linh nhập quan, toàn thể Chư Tăng Ni hiệp cùng các bạn hữu và

gia quyến hương linh tụng Bát Nhã Tâm Kinh để hộ niệm, trong ấy có câu: “Khi

Bồ Tát Quán Tự Tại hành sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa Ngài soi thấy 5 uẩn đều

không liền qua hết thẩy khổ nạn, Này Xá Lợi Phất, sắc tức là không, không tức

là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như thế”. Lúc này nếu hương linh thông

suốt được lời khai thị trước đây thì sẽ cảm nhận được đại ý của câu kinh trên.

Hương linh sẽ qua hết những khổ nạn, được vào cảnh giới an lạc, được gặp

chánh pháp tu hành sớm được giác ngộ và giải thoát.”

Câu 8: Gia đình thường làm lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh ở đâu?

Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)

Tại chùa 33 66

Tại nhà 17 34

70

Câu 9: Lý do gia đình đến chùa làm lễ cầu siêu cho người thân?

Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)

Theo phong tục mà ông cha truyền lại 24 12

Theo lời khuyên của người quen biết 18 9

Dựa vào niềm tin của bản thân với Phật giáo 58 29

Câu 10: Qua lễ cầu siêu 49 ngày cho vong linh, gia đình mong muốn điều

gì?

Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%)

Hồi hướng công đức cho vong linh được siêu 7 14

thoát, không bị đọa địa ngục

6 12 Tích đức cho chính gia đình và con cháu mình

sau này

Cả hai phương án 74 37

Câu 11: Đánh giá của bạn về vai trò của việc làm lễ cầu siêu 49 ngày cho

người quá cố?

Ông Nghiêm Xuân Minh, 57 tuổi, địa chỉ 34 Hoàng Hoa Thám, Phường

Mạo Khê, thị xã Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh: “Trong các ngày cũng cho

người mất như giỗ tuần đầu, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu… thì ở địa phương

mình coi trọng nhất là ngày giỗ 49. Đây là thời khắc mà vong linh biết mình đã

chết thật sự và thoát khỏi thân trung ấm. Cầu siêu như một sự trợ giúp để vong

linh không phải vào chốn địa ngục. Đồng thời giỗ 49 ngày cũng là cơ hội để

tang chủ bày tỏ sự biết ơn đối họ hàng, hàng xóm láng giềng đã đến chia buồn

với gia đình trong đám tang.”

71

BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU 1

I. Thông tin chung

Người thực hiện phỏng vấn: Trần Thu Hà, lớp K59 Triết Học CLC, trường

Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn.

Người được phỏng vấn: Ông Nguyễn Văn Khải, thôn Nội Hoàng Đông, xã

Hoàng Quế, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh

Chủ đề phỏng vấn: Cách bày trí và ý nghĩa của việc lập bàn thờ Phật trong

tang lễ.

Địa điểm: tại tư gia ông Nguyễn Văn Khải.

Thời gian: Ngày 05 tháng 04 năm 2019.

Giới thiệu đôi nét về người được phỏng vấn: Ông Nguyễn Văn Khải, 63

tuổi, làm nghề nuôi trồng thủy sản, là con trai trưởng của Nguyễn Văn Tạc – cụ

vừa qua đời do tuổi già vào ngày 02 tháng 04 năm 2019.

II. Nội dung

Ngày 05/04/2019 dương lịch tức ngày 01 tháng 03 năm Kỷ Hợi, vào ngày

giỗ tuần đầu của cụ Nguyễn Văn Tạc, tác giả có dịp đến thăm gia đình ông

Nguyễn Văn Khải, trước hết là để thắp nén hương kính viếng hương hồn cụ, sau

để hỏi thăm ông Khải về cách bày trí những vấn đề liên quan đến việc lập bàn

thờ Phật trong tang lễ cho cụ Tạc vừa qua.

Tác giả: Thưa ông, hiện tại cháu đang theo học tại trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân Văn, cháu đang thực hiện một đề tài nghiên cứu về ảnh

hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng

Ninh. Trong đó, có mục liên quan đến việc thiết lập bàn thờ Phật tam cấp. Ông

có thể cho cháu hỏi một số câu để phục vụ cho bài viết không ạ?

Ông Khải: Được, cháu hỏi đi. Tôi sẽ trả lời cho cháu những gì tôi biết.

72

Tác giả: Vâng, cháu cảm ơn ạ. Cháu được biết Phật giáo là tôn giáo phổ

biến trong đời sống tâm linh của nhân dân ta, nhưng không biết từ bao giờ bàn

thờ Phật được thiết lập trong tang lễ thưa ông?

Ông Khải: Bàn thờ Phật xuất hiện trong tang lễ có từ rất lâu, cũng được

khoảng 30 đến 40 năm trở lại đây rồi.

Tác giả: Vậy ban thờ Phật trong đám tang tại địa phương mình được bày trí

như thế nào ạ?

Ông Khải: Bàn thờ Phật này sau khi được dịch vụ tang lễ lắp đặt xong xuôi

và phủ lên trên lớp khăn trải màu vàng, con cháu trong nhà sẽ bày trí lên ban thờ

gồm có hoa, thường là hoa cúc trắng hoặc vàng để cân xứng 2 bên, 1 đĩa xôi, 3

bát chè, bánh kẹo, oản phẩm, nước lọc. Ngoài ra còn có thêm đĩa hoa quả mà bắt

buộc trong đó phải có chuối vì đó là truyền thống, những loại quả khác tùy theo

mùa. Dùng cốc thủy tinh đựng gạo để cắm hương. Ba cấp đều phải có những vật

phẩm đó, ngoài ra cấp trên cùng có ba bức tượng Phật, cấp dưới cùng làm thêm

một mâm gạo trên có 3 hoặc 5 quả trứng luộc và một chút tiền lẻ, một túi muối.

Tác giả: Theo ông lập ban thờ Phật trong đám tang đối với người trong gia

đình và những người tới dự đám tang có ý nghĩa như thế nào ạ?

Ông Khải: Lập bàn thờ Phật là một nghi thức lâu đời không thể thiếu trong

đám ma, ngày nay dịch vụ tang lễ rất đầy đủ và phục vụ rất nhanh, nếu như có

một đám ma nào trong vùng không lập bàn thờ Phật thì sẽ bị xóm giềng chê

trách rằng con cháu chưa làm hết trách nhiệm với người chết, trừ khi gia đình đó

quá khó khăn về mặt kinh tế. Lập ban thờ Phật cũng là cách để người dân chúng

tôi gửi gắm sự tin tưởng của mình vào Đức Phật, mong sao Phật chứng giám và

siêu độ cho vong linh của cha chúng tôi được siêu thoát.

73

Cuộc trò chuyện của ông Khải và tôi sau một khoảng thời gian khá dài

cũng kết thúc. Với khoảng thời gian đó bản thân tác giả đã tiếp nhận và thu thập

được nhiều thông tin liên quan đến đề tài đã được ông cung cấp.

Xin chân thành cảm ơn ông!

74

BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU 2

I. Thông tin chung

Người thực hiện phỏng vấn: Trần Thu Hà, lớp K59 Triết Học CLC, trường

Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn.

Người được phỏng vấn: Sư thầy Thích Như Minh, trụ trì chùa Linh Ứng,

thôn Thọ Tràng, xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

Chủ đề phỏng vấn: Tìm hiểu về việc cúng dường Tam bảo, bố thí, từ thiện

sau đám tang.

Địa điểm: tại chùa Linh Ứng.

Thời gian: Ngày 18 tháng 3 năm 2019.

Giới thiệu đôi nét về người được phỏng vấn: Thầy Thích Như Minh là trụ

trì của chùa Linh Ứng, nằm ở trong làng Thọ Tràng, xã Yên Thọ, thị xã Đông

Triều, tỉnh Quảng Ninh. Gia đình của Thầy có mấy anh chị em thì đều theo

nghiệp tu hành. Thầy về trụ trì ở chùa Linh Ứng, thành lập nên hội từ thiện chùa

Linh Ứng hoạt động từ tháng 01 năm 2015.

II. Nội dung

Vào 15h chiều ngày 18/03/2019 dương lịch, tác giả đã hẹn gặp trước với

thầy Thích Như Minh tại chùa Linh Ứng để thực hiện cuộc phỏng vấn với thầy

về những vấn đề liên quan đến việc cúng dường Tam Bảo, làm từ thiện của

những gia đình có người thân vừa mất.

Tác giả: Dạ thưa thầy, hiện tại con đang theo học tại trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân Văn, con đang thực hiện một đề tài nghiên cứu về ảnh

hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng

Ninh. Con có thực hiện khảo sát một số ngôi chùa trong địa bàn để làm tài liệu

hoàn thành khóa luận. Vậy nên con mong thầy có thể giúp con hiểu thêm một số

vấn đề về cách thức làm từ thiện và công đức cho chùa sau đám tang ạ.

75

Thầy: Được, con hỏi đi. Thầy sẽ trả lời trong phạm vi cho phép.

Tác giả: Vâng, con cảm ơn thầy ạ. Thầy có thể cho con biết từ đâu mà sau

mỗi đám tang, các gia chủ lại tìm đến chùa để làm công đức hay hoạt động từ

thiện không ạ?

Thầy: Trong Kinh Ðịa tạng có dạy, hành trang tư lương cho người mất,

không gì khác hơn là những tu tạo phước đức như là làm phước, tu thiện, phóng

sanh, bố thí, cúng dường, tụng kinh, hồi hướng công đức từ những người thân

quyến còn sống thực hiện với tất cả sự thành tâm. Tuy nhiên, kinh Ðịa tạng cũng

khẳng định rất rõ là hành trang tư lương đó có chu đáo cỡ nào thì người mất chỉ

tiếp hưởng được một phần mà thôi, còn 6 phần còn lại người thân quyến tu tạo

sẽ trọn hưởng. Ðây là một nguyên tắc nhân quả, ai gieo nhân tốt thì người đó

hưởng quả tốt, người được hồi hướng chỉ được cộng hưởng một phần công đức

mà thôi, nhưng một phần này là vô cùng quan trọng. Cho nên thầy nghĩ, hiểu

được những điều đó, người dân thường có xu hướng làm những điều lành, điều

thiện để hồi hướng cho vong linh thân nhân được siêu thoát.

Tác giả: Vậy thì cách thức mà người dân địa phương cúng dường cho chùa

sau khi thầy đến tụng niệm cho vong linh nhà họ sau đám tang là gì ạ?

Thầy: Với những người nông dân, họ thường cúng gạo và lương thực, thực

phẩm cho chùa, như một vật phẩm thiết thực nhất. Còn đối với những tầng lớp

trí thức, công nhân viên chức, họ thường cúng dường Pháp Bảo để hồi hướng

cho vong linh quá cố nhà họ bằng việc in ấn Kinh sách, các tài liệu về truyền bá

Phật giáo cho nhà chùa. Tuy nhiên, việc in ấn Kinh sách cho chùa không phải

muốn là làm, việc này cần thông qua ý kiến của chùa, cần in Kinh gì, cần thêm

sách gì, nếu tự ý làm có thể gây ra lãng phí vô ích mà thôi.

Tác giả: Con được biết, trong quá trình về làm trụ trì của chùa, thầy đã khởi

xướng thành lập hội từ thiện chùa Linh Ứng. Vậy có trường hợp nào thông qua

76

việc từ thiện của hội để hồi hướng cho vong linh người thân nhà mình không

thưa thầy?

Thầy: Có đấy. Trong năm 2018, hội đã đóng góp 47 triệu đồng để chung

tay xây dựng ngôi nhà tình nghĩa cho trường hợp em Trần Quốc Khánh (thôn

Xuân Quang, xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), mẹ bỏ đi, bố

mất vì tai nạn, chỉ có bà nội già yếu. Trong khoản từ thiện đó, phải đặc biệt nhắc

đến khoản tiền 30 triệu đồng là phần đóng góp đến từ gia đình bà Hoàng Thị

Nhạn chủ doanh nghiệp gốm sứ Mạo Khê, có chồng vừa mất do ung thư vòm

họng vào tháng 9 năm 2018. Phật tử Nhạn rất thành tâm, Phật giáo có thể đóng

góp cho việc giáo dục cộng đồng khiến thầy rất vui.

Cuộc trò chuyện của Thầy Minh và tôi sau một khoảng thời gian khá dài

cũng kết thúc. Với khoảng thời gian đó bản thân tác giả đã tiếp nhận và thu thập

được nhiều thông tin cũng như nguồn tài liệu liên quan đến đề tài đã được Thầy

cung cấp.

Xin chân thành cảm ơn Thầy!

77

BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU 3

I. Thông tin chung

Người thực hiện phỏng vấn: Trần Thu Hà, lớp K59 Triết Học CLC, trường

Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn.

Người được phỏng vấn: Bà Phạm Thị Vâng, Yên Lãng I, xã Yên Thọ, thị

xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

Chủ đề phỏng vấn: Việc ăn chay niệm Phật để hồi hướng công đức cho

vong linh quá cố.

Địa điểm: tại tư gia bà Phạm Thị Vâng.

Thời gian: Ngày 20 tháng 3 năm 2019.

Giới thiệu đôi nét về người được phỏng vấn: Bà Phạm Thị Vâng, 68 tuổi,

hiện đang sống cùng gia đình con trai tại Thôn Yên Lãng I, xã Yên Thọ, thị xã

Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chồng bà đã mất được 3 năm và bà đang thực

hiện ăn chay kỳ vào các ngày Rằm và Mồng Một hằng tháng.

II. Nội dung

Ngày 20/03/2019 tác giả đã có dịp đến thăm nhà bà Phạm Thị Vâng. Nhân

dịp này, tác giả đã thực hiện cuộc phỏng về vấn đề làm tu tập của bà để hồi

hướng công đức cho vong linh chồng bà.

Tác giả: Thưa bà, hiện tại cháu đang theo học tại trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân Văn, cháu đang thực hiện một đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng

của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .

Cháu có khảo sát ý kiến của người dân địa phương để làm tài liệu hoàn thành

khóa luận. Vậy cháu rất mong nhận được sự giúp đỡ của bà để có thể hoàn thành

bài nghiên cứu của mình.

Bà Vâng: Cháu hỏi đi, bà sẽ trả lời cháu những gì bà biết.

78

Tác giả: Dạ vâng, bà có thể cho cháu biết lý do gì khiến bà ăn chay niệm

Phật và bà đã ăn chay niệm Phật tại gia được bao nhiêu năm không ạ?

Bà Vâng: Kể từ ngày ông nhà bà mất đến nay bà đã ăn chay được 3 năm.

Sau khi làm xong tang lễ cho ông, bà thường lui tới chùa tụng kinh cho ông

nhiều hơn, hoặc niệm Phật ngay tại nhà. Bà già rồi nên cảm nhận được việc gần

đất xa trời, ăn chay và tụng kinh thờ Phật trước là để cầu cho ông nhà bà sớm

được siêu thoát và sau cũng là để tâm hồn bà được nhẹ nhàng hơn.

Tác giả: Ngoài việc ăn chay và tụng Kinh niệm Phật, bà còn làm gì khác để

hồi hướng cho sự siêu độ của ông không thưa bà?

Bà Vâng: Sau khi làm xong đám tang cho ông, bà tới chùa để cúng dường

cho sư thầy đã Hộ Niệm cho ông nhà bà trong đám tang. Bà cũng đã quy y nơi

cửa Phật và khuyên bảo con cháu cùng quy y như bà. Thỉnh thoảng bà cũng ra

chùa để làm công quả cho chùa như nhỏ cỏ, quét dọn, nấu cơm… bà già rồi

cũng chỉ làm được những việc đó. Thời gian đầu là để mong tích thiện cho vong

linh của ông, sau nữa thấy đó cũng là những điều tạo phúc cho chính bản thân và

con cháu nên bà làm thường xuyên hơn.

Tác giả: Đối với việc bà thường xuyên đi chùa và ăn chay niệm Phật, các

con của bà có thái độ như thế nào ạ?

Bà Vâng: Các con cũng rất ủng hộ việc bà ăn chay, tuy không phải là ăn

chay trường nhưng chúng nói rằng ăn chay tốt cho sức khỏe của bà bây giờ và

ăn chay niệm Phật để vong linh ông nhà bà sớm được siêu thoát, chúng nhận

thức được như vậy nên bà cũng cảm thấy yên tâm phần nào.

Cuộc trò chuyện của hai bà cháu chúng tôi kết thúc sau một khoảng thời

gian không dài do bà có việc phải đi. Nhưng với khoảng thời gian đó bản thân

tác giả đã tiếp nhận và thu thập được nhiều thông tin cũng như nguồn tài liệu

liên quan đến đề tài đã được bà cung cấp.

Xin chân thành cảm ơn bà!

79