ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC

NGUYỄN THỊ MỸ LINH

QUAN NIỆM VỀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 (TRONG TÁC PHẨM CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ CỦA KLAUS SCHWAB)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

QUAN NIỆM VỀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 (TRONG TÁC PHẨM CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ CỦA KLAUS SCHWAB)

Họ và tên: Nguyễn Thị Mỹ Linh

MSSV: 15034618 Lớp: QH – 2015 – X – TR Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng & CN duy vật lịch sử Giáo viên hướng dẫn: PGS.TSKH. Lương Đình Hải

Hà Nội – 2019

LỜI CẢM ƠN

Đề tài “Quan niệm về cách mạng công nghiệp 4.0 (trong tác phẩm

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của Klaus Schwab)” là nội dung tôi chọn

để nghiên cứu và làm khóa luận tốt nghiệp sau bốn năm theo học chương trình

cử nhân chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng & CN duy vật lịch sử,

khoa Triết học tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

Để hoàn thành quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận này, lời đầu

tiên tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến PGS.TSKH. Lương Đình Hải – Viện

trưởng Viện nghiên cứu Con người. Thầy đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tôi

trong suốt quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thiện khóa luận này. Ngoài ra, tôi

cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy, Cô trong Khoa Triết học đã

đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình học tập.

Tuy nhiên, vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu

nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung của báo cáo không tránh khỏi những

thiếu xót, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cố tại khoa để báo cáo

được hoàn thiện hơn.

Một lần nữa, tôi xin trân trọng cảm ơn!

Sinh viên

Nguyễn Thị Mỹ Linh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 6

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 6

2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 7

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 9

3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 9

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 9

4.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 9

4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 9

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 10

5.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................... 10

5.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 10

6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu ....................................................................... 10

7. Kết cấu của báo cáo khóa luận ...................................................................... 10

Chương I: KLAUS SCHWAB VÀ TÁC PHẨM CÁCH MẠNG

CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ....................................................................... 11

I.1. Tiểu sử và sự nghiệp của Klaus Schwab .................................................... 11

I.2. Tác phẩm“Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” ......................................... 13

Chương II: CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0, TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH

MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TRONG QUAN NIỆM CỦA KLAUS

SCHWAB VÀ MỘT SỐ NHẬN XÉT SƠ BỘ ................................................. 19

II.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 trong quan điểm của Klaus Schwab ..... 19

II.1.1. Bối cảnh lịch sử và khái niệm cách mạng công nghiệp 4.0 ............... 19

II.1.2. Thay đổi sâu sắc và hệ thống ............................................................. 24

II.1.3. Bất bình đẳng như một thách thức hệ thống ...................................... 27

II.2. Các tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ............................. 35

II.2.1. Tác động đối với kinh tế .................................................................... 35

II.2.2. Tác động đối với doanh nghiệp .......................................................... 40

II.2.3. Tác động đối với chính phủ ................................................................ 43

II.2.4. Tác động đối với xã hội ...................................................................... 44

II.2.5. Tác động đối với cá nhân ................................................................... 46

II.3. Nhận xét và đánh giá quan niệm về cách mạng công nghiệp 4.0 của

Klaus Schwab .................................................................................................. 47

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 55

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 57

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

“Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm

thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về

phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ

điều gì mà con người từng trải qua”. Đó là khẳng định của Klaus Schwab - Chủ

tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, người đã đưa ra khái niệm “cách mạng công

nghiệp lần thứ tư” và đó cũng là chủ đề chính của diễn đàn kinh tế lớn nhất thế

giới năm 2016.

Vậy thực chất cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là gì?

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1.0) với chất xúc tác là việc

xây dựng đường sắt và phát minh ra máy hơi nước, mở đường cho sản xuất cơ

khí. Cuộc cách mạng công nghiệp 2.0 sử dụng điện năng mở ra cơ hội cho sản

xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 sử dụng các thiết bị điện tử và

công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Giờ đây, nhân loại đang bước vào

cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đó là sự ra đời của một loạt các công nghệ

mới, được xây dựng trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp 3.0, là sự

hợp nhất các công nghệ làm mờ đi ranh giới giữa các các lĩnh vực vật chất, kỹ

thuật số và sinh học.

Chúng ta vẫn chưa biết làm thế nào để cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

có thể mở ra, nhưng có một điều rõ ràng là: việc ứng biến với cuôc cách mạng

này đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn diện và đồng bộ liên quan đến tất cả các tổ

chức, cá nhân, chính thể trên thế giới, từ khu vực công và tư tới giới khoa học

học và toàn xã hội. Thế giới đang bắt đầu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp

4.0, một cuộc cách mạng sản xuất mới gắn liền với những đột phá chưa từng có

về công nghệ, liên quan đến kết nối internet, điện toán đám mây, in 3D, công

nghệ cảm biến, thực tế ảo,... Cuộc cách mạng công nghiệp mới này được dự

đoán sẽ tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp và người

dân khắp toàn cầu, cũng như làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc

và sản xuất. Bản chất của cách mạng công nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng công

nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình,

phương thức sản xuất. Kỷ nguyên mới của đầu tư, năng suất và mức sống gia

tăng tất cả là nhờ vào sự sáng tạo của con người và sẽ tác động sâu sắc đối với

các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới.

Để có cái nhìn toàn diện hơn về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ quá

trình định hình, khái niệm, các động lực của cuộc cách mạng, những thách thức

và cơ hội, tới những tác động của nó đối với chính phủ, doanh nghiệp, người

dân, cũng như những nhận xét đánh giá về cuộc cách mạng này, tôi đã chọn đề

tài “Quan niệm về cách mạng công nghiệp 4.0 (trong tác phẩm Cách mạng

công nghiệp lần thứ 4 của Klaus Schwab)” làm khóa luận tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện đang là một chủ đề hot trên tất cả

các diễn đàn, hội thảo,... Cho đến nay, ở nước ta đã có hơn 700 bài viết và hơn

70 cuộc hội thảo nói về chủ đề này. Ví dụ như: Hội thảo EVN với cuộc Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư của Tập đoàn Điện lực Việt Nam; Cuộc cách mạng

công nghiệp 4.0 và dự án Luật hành chính công;... Đặc biệt, tháng 7/2018 vừa

qua, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam phối hợp với Ban Kinh tế TW, Bộ

Khoa học Công nghệ đã tổ chức Diễn đàn cấp cao và triển lãm quốc tế về công

nghiệp tại khách sạn JW Marriott, Hà Nội và đã thu hút được sự tham gia của rất

nhiều diễn giả từ các nhà quản lý, doanh nghiệp lớn, các học giả, và rất nhiều

khách quốc tế tham dự. Tại Diễn đàn và triển lãm về công nghiệp 4.0, người

máy Sophia - được xem là sản phẩm điển hình hiện nay của cách mạng công

nghiệp 4.0, đã trực tiếp trả lời các câu hỏi của những người tham dự bằng tiếng

Anh. Cũng tại diễn đàn này, các đại biểu đến từ các tổ chức quốc tế cùng các đại

biểu Việt Nam đã phân tích nội dung, thực chất, xu hướng phát triển của công

nghiệp 4.0, dự báo những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của nó đến sự phát

triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới; những giải pháp mà

Việt Nam cần phải thực hiện ngay từ bây giờ để sử dụng cách mạng công nghiệp

4.0 phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc1. Làn sóng cách mạng công

nghiệp 4.0 đang lan rộng ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Bên cạnh đó, một số tác giả đã xuất bản nhiều cuốn sách nói về cách

mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay như: Cách mạng công nghiệp 4.0 –

Vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam

(PGS.TS. Trần Thị Vân Hoa, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 2017); Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư – Cuộc cách mạng của sự hội tụ và tiết kiệm

(TSKH. Phan Xuân Dũng, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, 2018);Việt Nam với cuộc

cách mạng công nghiệp lần thứ tư (TSKH. Nguyễn Văn Bình, Nxb. Đại học

Kinh tế Quốc dân, 2017); v.v... Bên cạnh các công trình xuất bản thành sách,

còn rất nhiều công trình dưới dạng các bài báo, luận văn, luận án cũng đã được

hoàn thành. Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu có nhiều vấn đề đã

được đề cập. Từ việc xác định tính tất yếu của cách mạng công nghiệp 4.0

(CMCN 4.0), nội dung cơ bản của nó, đến việc phân tích những ảnh hưởng của

nó đến các ngành, lĩnh vực công nghiệp cụ thể (dệt, sợi, da, giày,...) v.v... Các

công trình còn chỉ ra những cơ hội mà CMCN 4.0 tạo ra cho nước ta, đồng thời

cũng chỉ ra những thách thức to lớn mà Việt Nam sẽ phải ứng phó và vượt qua

để có thể vươn lên nhanh chóng, khắc phục tình trạng tụt hậu ngày một gia tăng.

Ngoài ra, trong các cuộc hội thảo, các nghiên cứu, từ nhiều góc độ khác

nhau, các tác giả, tại các cuộc hội thảo, các diễn đàn chủ yếu đã nghiên cứu các

tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 trong nền kinh tế thị trường ở Việt

Nam hiện nay. Từ đó, đưa ra những kiến nghị, biện pháp cải cách đời sống kinh

tế, văn hóa và xã hội ở nước ta. Đây là chủ đề mới mẻ, có ý nghĩa to lớn cả về

phương diện lý luận lẫn thực tiễn, mới được nghiên cứu ở Việt Nam. Nhiều vấn

đề còn chưa được thống nhất, đầy rẫy những ý kiến khác biệt. Đi sâu nghiên cứu

đề tài này không chỉ mở ra chân trời mới về nhận thức, mà còn có thể tạo nên

1 Xem http://www.i40summit.vn

những thay đổi lớn trong tư duy và cách nhìn nhận, giải quyết những vấn đề

thực tiễn của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về CMCN 4.0

có nhiều nội dung, nhiều vấn đề cần được nghiên cứu. Nhưng để triển khai

nghiên cứu thì trước hết phải hiểu đúng khái niệm CMCN 4.0. Vì vậy, tôi đã

chọn đề tài “Quan niệm về cách mạng công nghiệp 4.0 (trong tác phẩm Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư của Klaus Schwab)” làm khóa luận tốt nghiệp.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ quan niệm về cách mạng công nghiệp 4.0 của Klaus Schwab được thể

hiện trong tác phẩm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” do Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia Sự thật phát hành cuối năm 2018. Trên cơ sở đó, chúng tôi cố gắng nêu lên

một số nhận định, nhận xét về cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, giới thiệu khái quát về tác giả Klaus Schwab và tác phẩm “Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Hai là, trình bày nội dung chủ yếu của quan niệm về cách mạng công

nghiệp 4.0 của Klaus Schwab. Trong đó có cả nội dung về những tác động của

cách mạng công nghiệp 4.0 đến đời sống kinh tế - xã hội, được nêu trong tác

phẩm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Ba là, nêu một vài nhận xét, nhận định về cách mạng công nghiệp 4.0 ở

Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là quan niệm về cách mạng công nghiệp

4.0 trong tác phẩm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của Klaus Schwab.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là cách mạng công nghiệp 4.0 trong tác

phẩm nói trên của Klaus Schwab.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận được sử dụng trong khóa luận là các quan điểm chủ nghĩa

Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về lực lượng sản

xuất, phương thức sản xuất, về công nghiệp, cách mạng công nghiệp. Ngoài ra,

khóa luận còn kế thừa và phát triển kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, đã

được công bố trong các công trình khoa học liên quan đến đề tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật và sử dụng kết

hợp nhiều phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, đặc biệt là phương pháp

lịch sử và phương pháp logic.

6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

Đây là khóa luận đầu tiên nghiên cứu quan niệm về cách mạng công

nghiệp 4.0 của Klaus Schwab trong tác phẩm của ông dưới góc độ triết học. Đây

cũng là bước nghiên cứu đầu tiên về đề tài này của tôi, với mục tiêu trước tiên là

để nâng cao nhận thức của bản thân, tiếp đến là có thể sử dụng làm tài liệu tham

khảo cho các khóa luận khác, cho những người quan tâm đến cách mạng công

nghiệp 4.0.

7. Kết cấu của báo cáo khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo khóa

luận gồm 2 chương, 5 tiết.

Chương I

KLAUS SCHWAB VÀ TÁC PHẨM CÁCH MẠNG

CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ

I.1. Tiểu sử và sự nghiệp của Klaus Schwab

Klaus Schwab sinh năm 1938 tại Ravensburg (Đức). Năm 1965, Klaus

Schwab có 5 bằng kỹ sư cơ khí và kinh tế. Năm 1969, ông trở thành giáo sư trẻ

nhất ở Thụy Sĩ lúc bấy giờ. Klaus Schwab đã thành lập Diễn đàn Kinh tế Thế

giới (WEF) - Diễn đàn có tiếng vang rất lớn hiện nay, vào năm 1971, vì ông đặc

biệt quan tâm đến tương lai của kinh tế châu Âu. Ban đầu WEF được lập ra với

mục tiêu: dạy cho người châu Âu các phương pháp quản lý của Mỹ. Nhưng hiện

nay, các hoạt động của WEF đã vượt ra khỏi mục tiêu ban đầu.

Năm 1998, Klaus Schwab cùng với vợ là bà Hilde, thành lập Quỹ Schwab

cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, tìm cách xác định, công nhận và phổ biến các

sáng kiến trong kinh doanh. Quỹ này đã cải thiện đáng kể cuộc sống của nhiều

người và có tiềm năng được nhân rộng trên quy mô toàn cầu. Quỹ hiện đang hỗ trợ

một mạng lưới rộng lớn với hơn 350 doanh nghiệp trên toàn thế giới.

Năm 2004, ông nhận được giải thưởng Dan David trong lĩnh vực “Lãnh

đạo - Thay đổi thế giới”, vì đã sáng lập và phát triển Diễn đàn Kinh tế Thế giới

(WEF) thành tổ chức quốc tế. Về sau, ông đã trích một phần của giải thưởng này

để thành lập một tổ chức mới đó là Diễn đàn Lãnh đạo trẻ toàn cầu. Giải thưởng

Dan David trao ba giải mỗi năm - mỗi giải trị giá 1 triệu USD cho thành tích

xuất sắc ở các lĩnh vực, cống hiến cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Giải

thưởng Dan David được trao cho các nghiên cứu sáng tạo liên ngành.

Klaus Schwab đứng thứ 66 trong danh sách “Những người quyền lực nhất

thế giới” theo bảng xếp hạng của Forbes năm 2009.

Năm 2011, sử dụng một phần giải thưởng Dan David nói trên, ông sáng lập

Diễn đàn Lãnh đạo toàn cầu dành cho các nhà lãnh đạo tiềm năng trong độ tuổi từ 20

đến 30. Mục đích của diễn đàn này là kết nối những người trẻ tuổi, tạo ra những

tuyên ngôn mạnh mẽ cho tương lai về các quá trình ra quyết định toàn cầu, khuyến

khích họ tham gia vào các dự án xã hội thiết thực; nhằm phát hiện, vinh danh và

khuyến khích những người trẻ tuổi có năng lực làm lãnh đạo các doanh nghiệp, các

cơ sở công nghiệp, các ngành và các địa bàn, khu vực khác nhau.

Klaus Schwab khuyến khích việc thành lập các tổ chức chuyên môn cung cấp

kiến thức toàn cầu để hỗ trợ hoạt động của các nhà lãnh đạo. Trong số đó có Mạng

lưới các Hội đồng Tương lai Toàn cầu, mạng kiến thức đa ngành, quan trọng, thúc

đẩy tư duy sáng tạo để định hình một tương lai bền vững và toàn diện cho tất cả mọi

người. Diễn đàn kết nạp hơn 700 thành viên, với trụ sở chính tại Geneva, Thụy Sĩ và

các văn phòng ở New York, San Francisco, Bắc Kinh và Tokyo.

Trong quá trình làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, Klaus Schwab đã nhận

được rất nhiều giải thưởng và vinh danh. Hiện nay, ông đã được trao tặng 17

bằng tiến sĩ và huy chương danh dự của nhiều trường đại học, ở các quốc gia

khác nhau. Ông cũng được biết đến với khả năng nhảy rất cừ, điều mà ông đã

chứng minh và được ca ngợi hết lời tại các sự kiện ở nhiều nơi khác nhau. Ông

cũng để gia đình hỗ trợ công việc của mình. Con gái của ông - Nicole - là Giám

đốc sáng lập Cộng đồng Lãnh đạo trẻ toàn cầu của WEF.

Klaus Schwab là tác giả cuốn sách “The Fourth Industrial Revolution”,

một trong những cuốn sách bán chạy nhất trên toàn thế giới, trong những năm

2016 - 2018, hiện đã được dịch sang 30 thứ tiếng. Bản dịch tiếng Việt “Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư” của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật được

phát hành vào năm 2018. Tuy nhiên cuốn sách này được mang về Việt Nam

dưới dạng tiếng Anh từ đầu năm 2016, đã được dịch sơ bộ và đưa lên mạng

Internet không chính thức. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn trong cộng đồng các

nhà quản lý, các nhà nghiên cứu và các doanh nhân, doanh nghiệp lớn. Ngoài tác

phẩm trên, ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng khác như: “Chance

Management” (Quản lý thay đổi) (1976); “Shaping The Fourth Industrial

Revolution” (Định hình cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư) (2018);... và

gần đây nhất là cuốn “Die Zukunft der Vierten Industriellen Revolution: Wie

Wirden digitalen Wandel gemeinsam gestalten” (Tương lai của cách mạng công

nghiệp lần thứ tư) xuất bản năm 2019.

Theo Klaus Schwab: “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ thay đổi

hoàn toàn cuộc sống của chúng ta. Nó sẽ không chỉ thay đổi cách chúng ta giao

tiếp, cách chúng ta sản xuất, cách chúng ta tiêu dùng. Mà nó còn thay đổi chính

chúng ta, cung cấp một cuộc sống hiện đại và phát triển như giao thông thông

minh, chính phủ thông minh, thành phố thông minh. Mọi thứ sẽ được tích hợp

vào một hệ sinh thái được vận hành bởi Big Data và bởi sự hợp tác của chính

phủ với: xã hội và doanh nghiệp. Cuộc cách mạng này sẽ diễn ra rất nhanh

chóng giống như sóng thần. Trên thực tế, nó không chỉ là một cuộc cách mạng

kỹ thuật số, mà còn là công nghệ nano và công nghệ sinh học. Những gì Diễn

đàn Kinh tế Thế giới đang làm là thúc đẩy sự hợp tác công - tư để dẫn dắt cuộc

cách mạng này.Chúng ta cần chuẩn bị thật kỹ lưỡng. Tôi thấy rằng châu Á đang

sở hữu một cơ cấu dân số tương đối trẻ - là lợi thế để có thể dễ dàng đương đầu

với cuộc cách mạng hơn so với các khu vực khác”2.

Theo ông, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng, điều đặc biệt quan trọng là hệ

thống giáo dục, phải thay đổi hệ thống giáo dục hiện tại. Hệ thống giáo dục mới

không những phải hướng tới việc phát triển khả năng kỹ thuật số mà còn nên bổ

sung các tiêu chuẩn đạo đức và dựa trên một hệ thống giáo dục dài hạn.

I.2. Tác phẩm“Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”

Trong Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF ASEAN 2018) diễn ra

từ 11-13/9/2018 tại Hà Nội, sáng 11/9/2018, Klaus Schwab và ông Bùi Thanh

Sơn - Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, Trưởng Ban tổ chức WEF

ASEAN 2018, đã tham dự họp báo ra mắt cuốn sách “Cách mạng công nghiệp

lần thứ tư” phiên bản tiếng Việt. Trong gần một năm từ lúc phát hành bản dịch

2 Nguyễn Thái Quỳnh Trang (2018), Chân dung người khai sinh ra khái niệm cách mạng công nghiệp 4.0, http://cafef.vn/chan-dung-nguoi-khai-sinh-ra-khai-niem-cach-mang-cong- nghiep-40-20180910215417897.chn, truy cập ngày 15/02/2019.

tiếng Việt đến nay tác phẩm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của Klaus

Schwab do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật đã trở thành một số những

cuốn sách bán chạy nhất.

Vì sao cuốn sách này lại hot đến như vậy?

Bởi vì trong sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,

lực lượng lao động để không bị đào thải khỏi guồng máy quay cuồng, để nắm bắt

được những cơ hội quý giá cuộc cách mạng mang lại, họ phải cập nhật kiến thức,

nhận diện những gì đã, đang và sắp xảy ra trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt là khi

cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có tầm ảnh hưởng to lớn đến mọi lĩnh vực, có tác

động sâu rộng với quy mô toàn cầu, nếu chúng ta không kịp thời nắm bắt thì sẽ bị

văng ra khỏi bánh xe cách mạng đang quay với tốc độ chóng mặt này.

• Cuộc cách mạng công nghiệp mới mang lại cho chúng ta những gì?

• Tác động của nó đến đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội của chúng ta

Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ trả lời cho chúng ta:

• Và con người cần làm gì để tiếp cận và tận dụng cơ hội mà cách mạng

như thế nào?

công nghiệp 4.0 mang lại để phát triển?

Cuốn sách được viết bởi Klaus Schwab - Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế

giới - Người đặt nền móng cho thuật ngữ “cách mạng công nghiệp 4.0” sẽ gợi

mở cho mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức những ý tưởng, hướng đi mới nhờ việc

tận dụng những cơ hội mà cuộc cách mạng này mang tới.

Sau gần 16 năm nghiên cứu và chiêm nghiệm, Klaus Schwab, nhà kinh tế

học nổi tiếng thế giới, người sáng lập của WEF đã công bố công trình nghiên

cứu công phu về vấn đề này trong cuốn “The Fourth Industrial Revolution” –

“Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, được xuất bản đầu năm 2016, ngay trước

thời điểm WEF họp vào ngày 20/1/2016 bàn về chủ đề “Làm chủ Cuộc cách

mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Tác phẩm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của Klaus Schwab do dịch

giả của Bộ ngoại giao dịch và hiệu đính, được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

Sự thật xuất bản vào cuối năm 2018. Tác phẩm mang đến một cái nhìn tổng

quan, sáng tỏ, thấu đáo và rành mạch về những xu thế lớn đang diễn ra, cung cấp

cho người đọc cách tư duy và phân tích những thay đổi có tính lịch sử do cách

mạng công nghiệp 4.0 tạo ra để chúng ta có thể cùng nhau bảo đảm lợi ích của

cuộc cách mạng này được chia sẻ đồng đều vì sự thịnh vượng chung của tất cả

mọi người. Cuốn sách này dành cho những ai quan tâm đến tương lai nhân loại

và muốn tận dụng những cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp này để dựng

xây một thế giới tốt đẹp hơn.

Tác phẩm này ngoài lời nói đầu, lời giới thiệu, lời cảm ơn và phụ lục thì

nội dung gồm ba chương với tổng số trang là 279. Chương đầu tiên là tổng quan

về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Chương hai trình bày về các công nghệ

biến đổi chính. Chương ba đưa ra những góc nhìn sâu về tác động của cuộc cách

mạng và một số thách thức chính sách mà nó đặt ra. Và tác giả kết luận bằng

cách đề xuất những ý tưởng thực tế và những giải pháp tốt nhất để thích ứng,

định hình và khai thác tiềm năng của sự biến đổi lớn này.

Ba mục tiêu chính của tác phẩm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đó là:

- Nâng cao nhận thức về tính toàn diện và tốc độ của cuộc cách mạng

công nghệ và tác động đa chiều của nó.

- Xác lập một khuôn khổ tư duy về cuộc cách mạng công nghệ để xác

định những vấn đề cốt lõi và nêu bật những giải pháp có thể.

- Thiết lập một nền tảng có thể thúc đẩy hợp tác và quan hệ đối tác công -

tư trong các vấn đề liên quan đến cách mạng công nghệ.

Trong phần lời giới thiệu, Klaus Schwab cho rằng: “Trong số rất nhiều

thách thức đa dạng và thú vị mà ngày nay chúng ta phải đối diện, điều cấp bách

và quan trọng nhất là phải làm sao hiểu và định hình cuộc cách mạng công nghệ

mới, điều chắc chắn sẽ thay đổi sâu sắc cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ

với nhau. Xét về quy mô, tầm vóc và độ phức tạp, hiện tượng mà tôi coi là cuộc

3 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.11, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

cách mạng công nghiệp lần thứ tư này không giống bất kỳ điều gì mà nhân loại từng trải qua.”3

Ngay từ lời mở đầu cho ta thấy Klaus Schwab đã có cái nhìn khá tổng

quát về cuộc cách mạng công nghiệp mới này, tuy nhiên, hiện nay chúng ta vẫn

chưa nắm bắt được đầy đủ tốc độ và phạm vi ảnh hưởng của cuộc cách mạng

mới này. Khả năng hàng tỷ người được kết nối thông qua các thiết bị di động

vốn sở hữu những tính năng chưa từng có trong tốc độ xử lý, dung lượng lưu trữ

và tiếp cận các kiến thức là không giới hạn. Hoặc nghĩ về sự hội tụ đáng kinh

ngạc của những đột phá công nghệ mới nổi, bao gồm các lĩnh vực trên quy mô

rộng lớn có thể kể đến như trí thông minh nhân tạo (AI), robot, mạng lưới vạn

vật kết nối internet (Internet of Things – IoT), các phương tiện không người lái,

công nghệ in 3D, công nghệ nano, sinh học,... Nhiều công nghệ trong số đó đang

ở giai đoạn “trứng nước” nhưng đã đạt được bước ngoặt trong sự phát triển bởi

chúng dựa vào nhau và tăng cường lẫn nhau bằng sự kết hợp giữa các công nghệ

của thế giới vật chất, kỹ thuật số và sinh học. Nhân loại đang chứng kiến những

thay đổi sâu sắc trên tất cả các ngành công nghiệp, đánh dấu bằng sự xuất hiện

của các mô hình kinh doanh mới, sự phá vỡ của các mô hình hiện tại và sự định

hình lại hệ thống sản xuất, tiêu thụ, vận chuyển và giao nhận.

Về mặt xã hội, một sự thay đổi hệ hình (paradigm shift) cũng diễn ra

trong cách chúng ta làm việc và giao tiếp, cũng như cách chúng ta thể hiện

mình, tiếp cận thông tin và giải trí. Tương tự như vậy, các chính phủ và các tổ

chức đang được định hình lại, một số trong đó phải kể đến như hệ thống giáo

dục, y tế, giao thông vận tải. Những cách thức mới trong việc sử dụng công nghệ

để thay đổi hành vi và các hệ thống sản xuất, tiêu thụ của chúng ta cũng thúc

đẩy tiềm năng hỗ trợ quá trình tái tạo và bảo tồn môi trường tự nhiên, chứ không

phải là tạo ra các chi phí ẩn dưới hình thức ngoại ứng. Những biến đổi này mang

tính lịch sử cả về quy mô, tốc độ và phạm vi ảnh hưởng của nó. Khi những bất

ổn sâu sắc xung quanh việc phát triển và áp dụng các công nghệ mới nổi đồng

nghĩa với việc chúng ta vẫn chưa biết những biến đổi gây ra bởi cuộc cách mạng

công nghiệp này sẽ diễn ra như thế nào, độ phức tạp và sự liên hệ lẫn nhau giữa

các khu vực ngụ ý rằng tất cả các bên liên quan của xã hội toàn cầu - chính phủ,

doanh nghiệp, giới học giả, và xã hội dân sự - có trách nhiệm làm việc cùng

nhau để hiểu rõ hơn về xu hướng mới nổi này. Chia sẻ sự hiểu biết đặc biệt quan

trọng nếu chúng ta muốn định hình một tương lai chung phản ánh những mục

tiêu và giá trị chung. Chúng ta cần phải có một góc nhìn chia sẻ toàn diện và

toàn cầu về việc công nghệ thay đổi cuộc sống của chúng ta và của những thế hệ

tương lai, tạo ra một khuôn khổ cho những tư duy về cuộc cách mạng công

nghiệp, một khuôn khổ vạch ra những vấn đề cốt lõi và làm nổi bật những giải

pháp khả thi, và chuẩn bị một nền tảng, từ đó để truyền cảm hứng cho sự hợp tác

công - tư và hợp tác trên các vấn đề liên quan đến cách mạng công nghệ.

Quan trọng hơn hết, tác phẩm này hướng đến mục đích nhấn mạnh cách

thức mà công nghệ và xã hội cùng tồn tại. Công nghệ không phải là một lực

lượng ngoại sinh mà chúng ta không thể kiểm soát. Chúng ta không bị bắt buộc

phải lựa chọn, giữa “chấp nhận, sống với nó” và “từ chối, sống mà không có

nó”. Thay vào đó, hãy xem những thay đổi công nghệ ấn tượng đó như một lời

mời phản chiếu về bản thân chúng ta và cách chúng ta nhìn thế giới. Chúng ta

càng nghĩ về cách khai thác cuộc cách mạng công nghệp thì chúng ta sẽ càng

khám phá được bản thân và các mô hình xã hội cơ bản mà những công nghệ này

đại diện và tạo ra, và chúng ta cũng sẽ càng có cơ hội để định hình cuộc cách

mạng này theo hướng cải thiện tình trạng của thế giới. Định hình cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0 để đảm bảo rằng cuộc cách mạng này sẽ trao quyền và

tập trung vào con người chứ không phải là chia rẽ và vô nhân đạo, đó không

phải là nhiệm vụ của bất kỳ một bên liên quan hay lĩnh vực hoặc cho bất cứ khu

vực, ngành công nghiệp hoặc nền văn hóa đơn lẻ nào. Tính chất căn bản và toàn

cầu của cuộc cách mạng này có nghĩa là nó sẽ tác động và bị ảnh hưởng bởi tất

cả các quốc gia, các nền kinh tế, các khu vực và người dân.

Do đó, quan trọng là chúng ta cần đầu tư sự quan tâm và sức lực vào sự

hợp tác giữa các bên liên quan trên các phương diện học thuật, xã hội, chính trị,

quốc gia và công nghiệp. Những sự tương tác và hợp tác này là cần thiết để tạo

ra những viễn cảnh chung tích cực, tràn đầy hy vọng, tạo điều kiện cho các cá

nhân và các nhóm người từ mọi nơi trên thế giới đều có thể tham gia, và hưởng

lợi, từ những chuyển biến đang diễn ra. Phần lớn thông tin và những phân tích

của tác giả trong tác phẩm này đều dựa trên những dự án đang diễn ra và những

sáng kiến của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đã được phát triển, tranh luận và thử

thách tại những kỳ họp diễn đàn gần đây. Do đó, tác phẩm này cũng tạo ra một

khuôn khổ để định hình các hoạt động tương lai của Diễn đàn Kinh tế Thế giới.

Tác giả cũng đã đưa vào tác phẩm nhiều điều từ những cuộc trò chuyện

của ông với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, chính phủ và xã hội dân sự, cũng

như những người tiên phong trong công nghệ và những người trẻ tuổi. Theo

nghĩa đó, đây là một tác phẩm “đa nguồn”, là sản phẩm của trí tuệ tập thể khai

sáng của cộng đồng WEF.

Chương II

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0, TÁC ĐỘNG

CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TRONG QUAN NIỆM

CỦA KLAUS SCHWAB VÀ MỘT SỐ NHẬN XÉT SƠ BỘ

II.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 trong quan điểm của Klaus Schwab

Nói đến cách mạng công nghiệp là nói đến sự thay đổi lớn lao mà nó

mang lại trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Cùng nhìn lại lịch sử,

nhân loại đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp lớn. Mỗi cuộc cách mạng

đều có những đặc trưng đó là sự thay đổi về bản chất của sản xuất và sự thay đổi

này được tạo ra bởi các đột phá của khoa học và công nghệ.

II.1.1. Bối cảnh lịch sử và khái niệm cách mạng công nghiệp 4.0

Theo Klaus Schwab, từ “cách mạng” có nghĩa là một sự thay đổi đột ngột

và căn bản. Các cuộc cách mạng trong lịch sử diễn ra khi những công nghệ và

cách thức mới trong việc nhận thức thế giới gây ra sự thay đổi sâu sắc trong hệ

thống kinh tế và cấu trúc xã hội. Lấy lịch sử làm khung tham chiếu, những thay

đổi đột ngột này có thể mất nhiều năm để nhìn thấy. Biến đổi sâu sắc đầu tiên

trong cách sống của chúng ta - sự chuyển đổi từ tìm kiếm thức ăn sang trồng trọt

và chăn nuôi - xảy ra vào khoảng 10.000 năm trước và được thực hiện nhờ quá

trình thuần hóa động vật. Cuộc cách mạng nông nghiệp đã kết hợp nỗ lực thuần

hoá động vật với nỗ lực của con người nhằm mục đích tạo ra sản phẩm, vận

chuyển và giao tiếp.4

Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên (1.0) kéo dài từ năm 1760 đến

khoảng năm 1840. Bắt đầu bằng việc xây dựng các tuyến đường sắt và phát

minh ra động cơ hơi nước, cuộc cách mạng này đánh dấu sự khởi đầu của kỷ

nguyên sản xuất cơ khí. Cuộc cách mạng công nghiệp 2.0, diễn ra từ cuối thế kỷ

4 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.19, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

19 đến đầu thế kỷ 20, với sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của

điện năng và dây chuyền lắp ráp. Cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 bắt đầu vào

những năm 1960. Đây là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó

được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, máy tính cỡ lớn (thập niên

1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và internet (thập niên 1990).

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên nền tảng của cuộc cách mạng

công nghiệp 3.0, dựa trên nền tảng giai đoạn phát triển mới của cách mạng khoa

học công nghệ, nó nảy sinh với các công nghệ mới và các thiết bị mới, mà trước

hết là trí tuệ nhân tạo, công nghệ in 3D, công nghệ tự hành, thiết bị đầu cuối,

internet vạn vật, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, các công nghệ sinh học liên kết

thế hệ mới, công nghệ vật liệu cao cấp, công nghệ tự động hóa robot thế hệ mới

có “trí tuệ”,...

Cùng với việc xem xét những định nghĩa khác nhau và các tranh luận

khoa học về đặc trưng của ba cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, ngày nay

chúng ta đang ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nó đã bắt

đầu vào thời điểm chuyển giao sang thế kỷ này và hình thành dựa trên cuộc cách

mạng số. Đặc trưng của cách mạng công nghiệp 4.0 là mạng internet ngày càng

trở nên phổ biến và di động.

Công nghệ kỹ thuật số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống

mạng trong cấu trúc của nó không phải là mới, nhưng sau một thời gian ngưng

trệ với cuộc cách mạng công nghiệp 3.0, nó đã trở nên ngày càng phức tạp và

được tích hợp nhiều hơn và kết quả là đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế

toàn cầu. Đây là lý do tại sao Giáo sư Erik Brynjolfsson và Andrew McAfee,

Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) lấy tên giai đoạn này làm tiêu đề của

cuốn sách năm 2014 của họ - “Kỷ nguyên máy móc thứ hai”.5 Họ tuyên bố rằng

thế giới đang ở một bước ngoặt, mà tại đó ảnh hưởng của các công nghệ kỹ

thuật số này sẽ chứng tỏ với “toàn bộ sức mạnh” thông qua sự tự động hóa và

5 Erik Brynjolfsson and Andrew McAfee: The Second Machine Age: Work, Progress, and Prosperity in a Time of Brilliant Technologies, W.W.Noton & Company, 2014.

tạo ra “những điều chưa từng có”.

Tuy vậy, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ là về máy móc và hệ

thống thông minh và được kết nối. Phạm vi của nó rộng lớn hơn nhiều. Các làn

sóng đột phá trong các lĩnh vực khác nhau xảy ra đồng thời, từ giải mã trình tự

gen cho tới công nghệ nano, từ năng lượng tái tạo đến tính toán lượng tử. Cuộc

cách mạng công nghiệp 4.0 là sự dung hợp giữa các công nghệ này và sự tương

tác của chúng trên các lĩnh vực vật chất, kỹ thuật số và sinh học khiến cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0 này về cơ bản khác với những cuộc cách mạng trước đó.

Trong cuộc cách mạng này, những công nghệ mới nổi và sự đổi mới trên

diện rộng được khuếch tán nhanh hơn và rộng rãi hơn so với những lần trước,

điều vẫn tiếp tục diễn ra ở một số nơi trên thế giới. Theo Klaus Schwab, cuộc

cách mạng công nghiệp 2.0 vẫn chưa đến được với 17% dân số của thế giới - tức

ước tính khoảng gần 1,3 tỉ người chưa tiếp cận được với điện. Điều này cũng

chính xác với cuộc cách mạng công nghiệp 3.0, với hơn một nửa dân số thế giới,

4 tỷ người mà phần lớn đang sống ở những nước đang phát triển, chưa tiếp cận

internet. Trục quay của công nghệ (dấu hiệu phân biệt cuộc cách mạng công

nghiệp 1.0) đã mất gần 120 năm để được lan tỏa ra ngoài châu Âu. Ngược lại,

internet đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới chỉ trong vòng hơn một thập kỷ.6

Bài học từ cuộc cách mạng công nghiệp 1.0 vẫn còn giá trị đến ngày nay,

đó là mức độ chấp nhận đổi mới công nghệ của một xã hội là nhân tố chính

quyết định sự tiến bộ. Chính phủ và các tổ chức công cộng, cũng như khu vực tư

nhân, cần phải thực hiện bổn phận của họ, nhưng một điều cũng quan trọng là

người dân phải thấy được những lợi ích lâu dài. Cuộc cách mạng công nghiệp

4.0 chắc chắn sẽ diễn ra một cách mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng và có tầm quan

trọng với lịch sử như ba cuộc cách mạng trước. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã chỉ

ra hai mối lo ngại về các yếu tố có thể hạn chế khả năng cuộc cách mạng công

6 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.23, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

nghiệp 4.0 được diễn ra một cách hiệu quả và có tính liên kết.

Thứ nhất, trình độ yêu cầu về năng lực lãnh đạo và sự hiểu biết về những

thay đổi đang diễn tiến trên tất cả các lĩnh vực, nhưng vẫn còn thấp khi đặt trong

sự tương phản với nhu cầu phải xem xét lại những hệ thống kinh tế, xã hội và

chính trị của chúng ta để đáp ứng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Do đó, cả ở

cấp quốc gia và toàn cầu, khung thể chế cần thiết để quản lý việc phổ biến sự đổi

mới và giảm thiểu sự xáo trộn là không đủ, tệ hơn là hoàn toàn không có.

Thứ hai, thế giới đang thiếu một lời dẫn giải nhất quán, tích cực và chung

để vạch ra những cơ hội và thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, một

dẫn giải mang tính thiết yếu nếu chúng ta muốn trao quyền cho một tập hợp đa

dạng các cá nhân và cộng đồng và tránh một phản ứng phổ biến của người dân

trước những thay đổi cơ bản đang diễn ra.

Các cuộc cách mạng công nghiệp đều được dẫn dắt bởi khoa học công nghệ.

Những cuộc cách mạng trước đều là hệ quả của tiến bộ khoa học công nghệ. Biểu

tượng của cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là robot có thể có trí tuệ nhân tạo, lấy kiến

thức của tất cả các robot để ứng xử với con người, vượt xa năng lực con người.

Thực ra, về bản chất đây là cụm từ đề cập đến những công nghệ đang phát triển

hiện nay như: IoT (Internet of Things -Vạn vật kết nối), AI (Artifical Intelligence -

Trí tuệ nhân tạo), Cloud computing (Điện toán đám mây), AR/VR (Thực tế ảo),

Big Data (Dữ liệu lớn),... và nhiều công nghệ khác, chưa có tiêu chuẩn xếp loại,

được gán ghép vào nội dung của cách mạng công nghiệp 4.0.

Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên ba xu hướng chính gồm: vật

chất, kỹ thuật số và sinh học.

Trong lĩnh vực vật chất có bốn biểu hiện chính với robot tiên tiến, in 3D,

xe tự hành, các vật liệu mới (graphene, polyhexahydrotriazines,...).

Yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số là internet vạn vật còn được gọi là “internet

kết nối vạn vật”. Dưới dạng đơn giản nhất nó có thể được mô tả như mối quan

hệ giữa các sự vật (các sản phẩm, dịch vụ, địa điểm,...) và con người, được hình

thành nhờ sự kết nối của nhiều công nghệ và nền tảng.

Cuối cùng, trên lĩnh vực sinh học, cách mạng công nghiệp 4.0 tập trung

vào nghiên cứu công nghệ gen. Nhờ những tiến bộ của sức mạnh tính toán, các

nhà khoa học không phải sử dụng phương pháp thử và sai cho đến khi tìm được

đáp án đúng nữa; thay vào đó, họ thử nghiệm cách các biến thể gen khác nhau

tạo ra các đặc tính di truyền và loại bệnh đặc thù khác nhau.

Có thể khái quát đặc điểm và ứng dụng của cách mạng công nghiệp 4.0

như sau:

Một là, phạm vi, tốc độ kết nối rộng và nhanh nhất từ trước đến nay. Những

thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 cho phép con người kết nối không giới

hạn với mọi người và vạn vật chỉ thông qua máy tính hoặc chiếc điện thoại thông

minh có kết nối internet. Hệ thống máy tính hiện nay đang có một sức mạnh xử lý

chưa từng có với dung lượng lưu trữ tăng lên đáng kể giúp con người dễ dàng truy

cập vào kho kiến thức không giới hạn. Những khả năng này được nhân lên nhờ

những công nghệ đột phá trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, robot, internet vạn

vật, xe tự lái, công nghệ in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học,...

Hai là, tạo ra những thay đổi to lớn trong các lĩnh vực sản xuất. Có thể

nhận thấy, công nghệ số đã làm thay đổi sâu sắc nên sản xuất của toàn thế giới.

Nếu như nguyên liệu chủ đạo trong sản xuất vật chất ở các cuộc cách mạng công

nghiệp trước đây phần lớn là tài nguyên thiên nhiên hoặc có nguồn gốc từ tự

nhiên như đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, biển,... thì trong cuộc cách mạng

công nghiệp 4.0, “nguyên liệu” chủ yếu và quan trọng hàng đầu là chất xám.

Các thuật ngữ như trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano, công nghệ sinh học,... đều

là những sản phẩm của cuộc cách mạng 4.0 này. Lợi thế tài nguyên mất dần và

nhường chỗ cho sự sáng tạo không giới hạn của con người.

Ba là, từ ứng dụng của công nghệ số, mọi tồn tại trong cuộc sống đều có

một bản sao trong thế giới ảo. Những giao dịch trong thế giới ảo được thực hiện

bằng việc kết nối internet. Sản xuất ảo, sản phẩm ảo và giao dịch ảo nhưng tác

động của nó mạng lại là thật. Tính chất kết nối không giới hạn của vạn vật từ thế

giới ảo tiến đến xóa bỏ rào cản về mặt địa lý giữa các quốc gia.

Bốn là, tốc độ toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng hơn bao giờ hết. Chỉ cần

“kết nối” sự đầu tư trực tiếp nước ngoài của các tập đoàn kinh tế đa quốc gia,

xuyên quốc gia ở những ngành nghề, lĩnh vực đầu tư ứng dụng trực tiếp công

nghệ 4.0 được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng. Các tập đoàn kinh tế đa quốc

gia, xuyên quốc gia tận dụng triệt để công nghệ kết nối để mở rộng thị trường

đầu tư trên toàn thế giới, tạo nên xu hướng quốc tế hóa về phương thức kinh

doanh. Những đặc trưng trong phương thức kinh doanh truyền thống của mỗi

quốc gia dần mất đi. Những cái tên như Facebook, Zalo, Instagram, Uber,

Grab,... đã trở nên rất quen thuộc đối với người dân nhiều nước trên thế giới.

Đây đều là những ứng dụng trực tiếp của cách mạng công nghiệp 4.0.

Như vậy, nhìn một cách tổng quát, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ

làm tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân toàn cầu, mà

đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất chính là người tiêu dùng. Công nghệ mới

tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới làm tăng hiệu quả và niềm vui cuộc sống

của mỗi cá nhân con người.

Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 là vô cùng sâu rộng. Không chỉ

làm thay đổi đời sống con người, các cuộc cách mạng công nghiệp còn dẫn tới

sự thay đổi toàn diện hình thái kinh tế - xã hội. Sau cuộc cách mạng công nghiệp

1.0, chủ nghĩa tư bản đã thắng thế chế độ phong kiến. Sau cuộc cách mạng công

nghiệp 2.0, chủ nghĩa tư bản độc quyền đã thay thế chủ nghĩa tư bản tự do cạnh

tranh, đồng thời chủ nghĩa xã hội đã hình thành. Cách mạng công nghiệp 3.0 dẫn

tới sự ra đời chủ nghĩa tư bản hiện đại. Và cách mạng công nghiệp 4.0 hứa hẹn

sẽ làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội của nhân loại thêm một lần nữa.

II.1.2. Thay đổi sâu sắc và hệ thống

Klaus Schwab khẳng định: “Tiền đề của cuốn sách này là công nghệ và số

hóa sẽ cách mạng hóa mọi thứ và biến câu khẩu ngữ hay bị lạm dụng và thường

7 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.24, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

không chính xác “lần này mọi chuyện sẽ khác” thành ra phù hợp”.7 Nói một

cách đơn giản, các đổi mới công nghệ chủ yếu đều đang trên bờ vực của sự thay

đổi quan trọng trên toàn thế giới.

Quy mô và phạm vi của sự thay đổi giải thích vì sao có thể cảm thấy sự

phá vỡ và đổi mới ngày nay lại xảy ra một cách dữ dội như thế. Tốc độ đổi mới

xét trên cả hai phương diện bao gồm sự phát triển và khả năng khuếch tán của

nó đều nhanh hơn bao giờ hết. Những nhân tố gây phá vỡ ngày nay như Airbnb,

Uber, Alibaba,... giờ đây là những cái tên mà ai cũng biết nhưng nó đã từng khá

vô danh chỉ cách đây vài năm. Chiếc điện thoại Iphone đầy rẫy khắp mọi nơi đã

được tung ra vào năm 2007. Song đến cuối năm 2015, ước tính có đến 2 tỷ chiếc

điện thoại thông minh được bán ra. Năm 2010, Google lần đầu tiên công bố

chiếc xe hoàn toàn tự vận hành mà không cần người lái của họ. Những chiếc xe

như vậy có thể sớm trở thành một thực tế phổ biến trên đường phố.

Điều đó có thể xảy ra nhưng nó không phải chỉ là tốc độ, hiệu suất theo

quy mô cũng gây sự đáng ngạc nhiên không kém. Số hóa có nghĩa là tự động hóa

và cũng có nghĩa là các công ty không phải gánh chịu việc lợi tức theo quy mô

giảm xuống (hoặc ít nhất là ít công ty sẽ phải chịu điều đó hơn). Để có thể hiểu

điều này ở mức độ tổng hợp, thử so sánh thành phố Detroit năm 1990 (sau đó trở

thành một trung tâm lớn của các ngành công nghiệp truyền thống) với Thung lũng

Silicon vào năm 2014. Năm 1990, ba công ty lớn nhất tại Detroit có tổng giá trị vốn

hóa thị trường là 36 tỷ đô la, doanh thu là 250 tỷ đô la, và có 1,2 triệu nhân viên.

Năm 2014, ba công ty lớn nhất của Thung lũng Silicon có giá trị vốn hóa thị trường

cao hơn đáng kể (1,09 nghìn tỷ đô la), tạo ra số doanh thu tương tự (247 tỷ đô la),

nhưng chỉ với khoảng một phần mười số lao động (137.000).8

Thực tế một đơn vị của cải vật chất được tạo ra ngày hôm nay có khả

năng sử dụng ít nhân công hơn so với 10 hay 15 năm trước đây bởi vì các doanh

nghiệp số có chi phí cận biên có xu hướng gần bằng 0. Ngoài ra, một thực tế của

8 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.25-26, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

thời đại kỹ thuật số là nhiều doanh nghiệp mới cung cấp “các hàng hóa thông

tin” với chi phí lưu trữ, vận chuyển và tái tạo gần như bằng 0. Một số công ty có

công nghệ đột phá dường như đòi hỏi ít vốn để phát triển. Ví dụ, các doanh

nghiệp như Instagram hay WhatsApp không cần nhiều kinh phí để khởi nghiệp,

đã thay đổi vai trò của vốn và quy mô kinh doanh trong bối cảnh của cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0. Nhìn chung, điều này cho thấy hiệu suất theo quy mô sẽ

tiếp tục thúc đẩy sự thay đổi quy mô và tầm ảnh hưởng trên toàn bộ hệ thống

như thế nào.

Bên cạnh tốc độ và phạm vi, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 còn có thể

được xem là độc đáo bởi sự hài hòa và khả năng tích hợp nhiều lĩnh vực và phát

minh khác nhau. Các sáng kiến hữu hình là kết quả của sự tương tác giữa các

công nghệ không còn là khoa học viễn tưởng. Ví dụ, ngày nay công nghệ chế tạo

kỹ thuật số có thể tương tác với thế giới sinh học. Một số nhà thiết kế và kiến

trúc sư đã kết hợp thiết kế trên máy tính, công nghệ sản xuất đắp dần, kỹ thuật

vật liệu và sinh học tổng hợp để tiên phong tạo ra các hệ thống cho phép sự

tương tác giữa các vi sinh vật, cơ thể của chúng ta, những sản phẩm mà chúng ta

tiêu thụ, và thậm chí cả những tòa nhà mà chúng ta đang sống. Bằng cách đó, họ

đang tạo ra (và thậm chí là “kích thích phát triển”) các đối tượng có thể liên tục

biến đổi và thích nghi (những điểm đặc trưng của giới thực vật và động vật).

Trong cuốn “Kỷ nguyên máy móc thứ hai”, Brynjolfsson và McAfee cho

rằng máy tính tinh vi đến mức hầu như không thể dự đoán được những ứng dụng

nào sẽ được sử dụng trong vài năm tới. Trí tuệ nhân tạo (AI) có mặt khắp nơi

xung quanh chúng ra, từ những chiếc xe và máy bay không người lái đến trợ lý

ảo và phần mềm dịch thuật. AI đã đạt được những tiến bộ ấn tượng, nhờ hiệu

năng máy tính tăng nhanh theo cấp số nhân và sự sẵn có của một lượng dữ liệu

đồ sộ, từ các phần mềm trước đây dùng để phát minh ra loại thuốc mới đến các

thuật toán dự đoán mối quan tâm văn hóa của chúng ta. Nhiều thuật toán trong

số đó được học hỏi từ vô số “mẩu” dữ liệu mà chúng ta đã bỏ lại trong thế giới

kỹ thuật số. Điều này dẫn đến sự ra đời của các loại “máy học” mới và phát

minh tự động cho phép những con rô bốt và máy tính “thông minh” tự lập trình

và tìm ra các giải pháp tối ưu từ những nguyên tắc đầu tiên.

Các ứng dụng như Siri của Apple, thứ được gọi là trợ lý thông minh, mang

đến một cái nhìn thoáng qua về sức mạnh của một nhánh trong những lĩnh vực AI

đang tiến bộ nhanh. Chỉ hai năm trước, những trợ lý cá nhân thông minh mới chỉ

bắt đầu xuất hiện. Ngày nay, nhận dạng giọng nói và trí thông minh nhân tạo đang

phát triển nhanh đến nỗi việc nói chuyện với máy tính sẽ sớm trở thành một tiêu

chuẩn, tạo ra thứ mà các kỹ sư công nghệ gọi là “môi trường xung quanh máy

tính”, trong đó các trợ lý cá nhân robot luôn sẵn sàng ghi chép và trả lời các câu hỏi

của người dùng. Các thiết bị của chúng ta sẽ ngày càng trở thành một phần quan

trọng của hệ sinh thái cá nhân, lắng nghe chúng ta, dự đoán nhu cầu của chúng ta,

và giúp chúng ta khi cần thậm chí ngay cả khi không yêu cầu.

II.1.3. Bất bình đẳng như một thách thức hệ thống

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra nhiều lợi ích to lớn và cũng

chừng đó những thách thức. Một mối lo ngại đặc biệt là sự bất bình đẳng trầm

trọng. Những thách thức đặt ra bởi sự gia tăng bất bình đẳng rất khó để định

lượng bởi vì một phần lớn trong số chúng ta là những người tiêu dùng và nhà

sản xuất, do vậy, sự đổi mới và phá vỡ sẽ ảnh hưởng cả hai mặt tích cực và tiêu

cực đến mức sống và phúc lợi của chúng ta.

Những người tiêu dùng được hưởng lợi nhất. Cuộc cách mạng công nghiệp

4.0 đã giúp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới cho phép gia tăng hiệu quả cuộc

sống cá nhân của chúng ta trong vai trò là người tiêu dùng, với chi phí gần như

bằng không. Gọi một chiếc taxi, tìm kiếm một chuyến bay, mua một sản phẩm,

thực hiện thanh toán, nghe nhạc hay xem một bộ phim, bất kỳ công việc nào giờ

đây cũng có thể được thực hiện từ xa. Lợi ích của công nghệ đối với tất cả chúng

ta - những người tiêu dùng, là không thể chối cãi. Internet, điện thoại thông minh

và hàng ngàn ứng dụng đang làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên dễ dàng hơn

và nhìn chung hiệu quả hơn. Một thiết bị đơn giản như chiếc máy tính bảng mà

chúng ta dùng để đọc sách, lướt web và giao tiếp, sở hữu khả năng xử lý tương

đương 5.000 máy tính để bàn của 30 năm trước, trong khi chi phí lưu trữ thông tin

gần bằng 0 (chi phí lưu trữ 1GB hiện nay trung bình ở mức dưới 0,03 đô la mỗi

năm, so với hơn 10.000 đô la thời điểm cách đây 20 năm).9

Những thách thức đặt ra bởi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 dường như

xuất hiện chủ yếu ở phía cung trong thế giới của lao động và sản xuất. Trong vài

năm qua, đa số các nước phát triển và cả một số nền kinh tế tăng trưởng nhanh

như Trung Quốc đã trải qua một mức sụt giảm đáng kể trong tỷ trọng lao động

trên GDP. Phần nhiều lý giải cho sự suy giảm này là do giá tương đối của các

hàng thiết bị đã giảm, mà tiến trình đổi mới cũng được coi là nguyên nhân, điều

này buộc các công ty phải dùng lao động để thay thế cho vốn.

Kết quả là những người hưởng lợi lớn từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

là các nhà cung cấp vốn tri thức hoặc vốn vật chất, các nhà cải cách, nhà đầu tư,

và các bên liên quan, điều này giúp giải thích khoảng cách ngày càng gia tăng về

của cải giữa những người sở hữu vốn và những người lao động. Nó cũng giải

thích tại sao rất nhiều người lao động thất vọng và tin chắc rằng thu nhập thực tế

của họ có thể không tăng suốt cuộc đời và con cái họ có thể sẽ không có cuộc

sống tốt hơn họ.

Bất bình đẳng gia tăng và những mối lo ngại lớn dần về bất bình đằng là

một thách thức lớn (được tác giả đề cập trong chương ba của tác phẩm này). Sự

tập trung lợi ích và giá trị trong tay một số ít người càng trầm trọng hơn bởi cái

được gọi là hiệu ứng nền tảng, trong đó các tổ chức định hướng số tạo ra các

mạng kết nối những người mua và người bán các sản phẩm dịch vụ đa dạng và

do đó có được mức tăng trong hiệu suất theo quy mô.

Hiệu ứng nền tảng đã tạo nên sự tập trung của một số ít nền tảng mạnh mẽ

đang thống trị thị trường. Lợi ích là rõ ràng, đặc biệt đối với người tiêu dùng: giá

trị cao hơn, thuận tiện hơn và chi phí thấp hơn, song cũng tiềm ẩn những rủi ro

về mặt xã hội. Để ngăn chặn sự tập trung của giá trị và quyền lực trong một vài

9 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.28-29, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

bàn tay, chúng ta cần phải tìm ra cách để cân bằng lợi ích và rủi ro của các nền

tảng kỹ thuật số (bao gồm cả các nền tảng công nghiệp) bằng cách đảm bảo sự

công khai và các cơ hội đổi mới hợp tác. Đây là tất cả những thay đổi cơ bản

ảnh hưởng đến hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị của chúng ta, mà khó có thể

xóa bỏ, ngay cả khi quá trình toàn cầu hóa vì một lý do nào đó bị đảo ngược.

Câu hỏi dành cho mọi ngành công nghiệp và các công ty không còn là “Tôi sẽ bị

đổ vỡ?” mà là “Khi xảy ra sự đổ vỡ, nó sẽ diễn ra dưới hình thức nào và nó sẽ

tác động như thế nào đến tôi và tổ chức của tôi?”

Thực tế của sự đổ vỡ và những tác động mà chúng ta không thể tránh khỏi

không có nghĩa là chúng ta bất lực khi đối mặt với nó. Trách nhiệm của chúng ta

là phải đảm bảo rằng chúng ta thiết lập được tập hợp các giá trị chung để định

hướng những lựa chọn chính sách và để thực thi những thay đổi mà sẽ khiến

cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trở thành cơ hội đối với tất cả mọi người.

Những động lực chính của cách mạng công nghiệp 4.0 này là sự thay đổi

trong kỳ vọng của người dùng, cùng với sự hội tụ của các công nghệ mới như

IoT, robot tiên tiến, in 3D và điện toán đám mây, cùng với sự xuất hiện các mô

hình kinh doanh mới. Thế giới đang chứng kiến hàng loạt những đột phá khoa

học và tiến bộ công nghệ, đây là những xu hướng và động lực dẫn dắt cuộc cách

mạng công nghiệp mới này.

Trong phần chương hai tác giả tập trung phân tích những công nghệ sẽ

góp phần thúc đẩy sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0. Những công

nghệ chính này dựa trên nghiên cứu do Diễn đàn Kinh tế Thế giới thực hiện,

cũng như những kết quả của một số Hội đồng Nghị sự toàn cầu của Diễn đàn.

Klaus Schwab cho rằng: mọi sự phát triển và công nghệ mới đều có chung một

đặc điểm đó là, chúng làm tăng ảnh hưởng lan tỏa của kỹ thuật số và công nghệ

thông tin.10 Để xác định những xu hướng lớn này và tái hiện lại chúng, ông đã

10 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.33-34, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

chia thành ba nhóm chính: vật chất, kỹ thuật số và sinh học.

* Vật chất:

Do tính hữu hình của bốn đại diện chính của xu hướng lớn về phát triển

công nghệ mà chúng ta có thể dễ nhận thấy chúng là:

- Xe tự hành: Sự xuất hiện của ô tô đã biến đổi xã hội hiện đại. Nó thay đổi

nơi chúng ta sống, đồ chúng ta mua, cách chúng ta làm việc, và những người

chúng ta gọi là bạn bè. Khi ô tô trở lên phổ biến, chúng đã tạo ra các lớp công

việc hoàn toàn mới và làm các ngành nghề khác trở lên lỗi thời. Chúng ta hiện

đang ở trên đỉnh của một sự thay đổi công nghệ tương tự trong giao thông: từ

những chiếc xe do con người điều khiển đến các xe tự lái. Tác động lâu dài của xe

tự lái đối với xã hội là khó dự đoán. Nhưng một điều chắc chắn là ở bất cứ nơi

nào công nghệ này trở nên phổ biến thì cuộc sống sẽ khác so với trước rất nhiều.

Những xe ô tô này xử lý một lượng lớn dữ liệu cảm biến từ các radar, máy

ảnh, máy đo khoảng cách bằng siêu âm, GPS và bản đồ được gắn trên xe để điều

hướng các tuyến đường đi qua các tình huống giao thông phức tạp và thay đổi

nhanh chóng hơn mà không cần bất kỳ sự tham gia nào của con người. Xe hơi tự

lái đang chiếm ưu thế nhưng hiện nay còn có nhiều kiểu phương tiện tự lái khác

bao gồm xe tải, thiết bị bay không người lái, máy bay và tàu thủy. Cùng với quá

trình phát triển của cảm biến và trí tuệ nhân tạo, khả năng của các phương tiện

tự hành này cũng được cải thiện với tốc độ nhanh chóng.

- In 3D: Hay được gọi là chế tạo kiểu đắp dần, in 3D bao gồm việc tạo ra

một đối tượng vật lý bằng cách in theo các lớp từ một bản vẽ hay một mô hình

3D có trước. Công nghệ này khác hoàn toàn so với chế tạo trừ, lấy đi các vật

liệu thừa từ phôi ban đầu cho đến khi thu được hình dạng mong muốn. Ngược

lại, công nghệ in 3D bắt đầu với vật liệu mềm và sau đó tạo ra một sản phẩm ở

dạng ba chiều từ mẫu kỹ thuật số. Ngày nay, một sản phẩm có thể được thiết kế

trên máy tính và “in chụp” qua một máy in 3D, tạo nên hình hài vật thể bằng các

lớp vỏ vật liệu chuyên dụng. Dễ dàng thực hiện một thiết kế được số hóa như thế

này chỉ với vài thao tác click chuột. Máy in 3D có thể cho chạy tự do không cần

người kiểm soát và có thể biến những thiết kế tưởng chừng quá phức tạp trở nên

đơn giản và dễ xử lý cho các nhà máy truyền thống. Trong bối cảnh những hạn

chế hiện nay về kích thước, chi phí và tốc độ đang từng bước được khắc phục, in

3D sẽ càng lan tỏa sâu hơn, tiến tới bao gồm cả các linh kiện điện tử tích hợp

như bảng mạch in và thậm chí là tế bào và các bộ phận cơ thể người.

- Robot tiên tiến: Ngày nay, các robot đang được sử dụng nhiều hơn ở tất cả

các lĩnh vực từ nông nghiệp chính xác cho đến chăm sóc người bệnh. Sự phát triển

nhanh công nghệ robot làm cho sự hợp tác giữa con người và máy móc sớm trở

thành hiện thực. Hơn nữa, do các tiến bộ công nghệ khác, robot đang trở nên thích

nghi và linh hoạt hơn, với thiết kế cấu trúc và chức năng của nó được lấy cảm hứng

từ các cấu trúc sinh học phức tạp (mở rộng của quá trình mô phỏng sinh học, trong

đó mô hình và các chiến lược của tự nhiên được bắt chước lại). Siêu tự động hóa

cộng với trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ khiến việc tự động hóa phát triển mạnh hơn, thậm

chí với những kỹ năng trước đây chỉ có con người sở hữu. AI sẽ phát huy thế mạnh

tốt nhất trong việc xử lý dữ liệu lớn, có thể bao gồm việc xử lý ngôn ngữ và hình

ảnh, vốn vẫn là giới hạn của máy tính cho đến nay. Ở đây, tác giả có nêu một ví dụ

cụ thể như “việc nhà”, nếu như trước kia robot được lập trình qua một đơn vị độc

lập thì ngày nay chúng có thể truy cập thông tin từ xa bằng công nghệ đám mây và

kết nối với mạng lưới nhiều robot khác. Ông cho rằng: “Khi thế hệ robot tiếp theo

ra đời, nhiều khả năng chúng sẽ phản ánh sự chú trọng ngày càng tăng đến việc

cộng tác giữa con người với máy móc.”11

- Vật liệu mới: Với thuộc tính mà mà chỉ cách đây vài năm vẫn còn được

coi là viễn tưởng, những vật liệu mới đang được đưa ra thị trường. Về tổng thể,

chúng nhẹ hơn, bền hơn, có thể tái chế và dễ thích ứng. Hiện nay có các ứng

dụng cho các vật liệu thông minh tự phục hồi hoặc tự làm sạch, các kim loại có

khả năng khôi phục lại hình dạng ban đầu, gốm sứ và pha lê biến áp lực thành

11 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.37, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

năng lượng và nhiều vật liệu khác nữa.

* Kỹ thuật số:

Từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự hội tụ giữa ứng dụng vật chất và

kỹ thuật số là sự xuất hiện internet vạn vật (IoT). Mô tả đơn giản nhất, có thể coi

IoT là mối quan hệ giữa vạn vật (các sản phẩm, dịch vụ, địa điểm,...) và con

người thông qua các công nghệ kết nối và các nền tảng khác nhau. Cảm biến và

các phương tiện kết nối thế giới thực vào mạng không gian ảo đang phát triển

với tốc độ đáng kinh ngạc. Các cảm biến nhỏ hơn, rẻ hơn và thông minh hơn

đang được lắp đặt trong nhà, quần áo, phụ kiện, các thành phố, mạng lưới giao

thông và năng lượng cũng như các quy trình sản xuất. Ngày nay, có hàng tỷ thiết

bị trên toàn thế giới như điện thoại thông minh, máy tính bảng và máy tính được

kết nối internet. Số lượng thiết bị được dự kiến sẽ tăng đáng kể trong vài năm

tới, ước tính vài tỷ đến hơn một nghìn tỷ thiết bị. Điều này sẽ thay đổi hoàn toàn

cách thức mà chúng ta quản lý chuỗi cung ứng bằng cách cho phép chúng ta

giám sát và tối ưu hóa tài sản và các hoạt động đến một mức rất chi tiết. Trong

quá trình này, IoT sẽ tác động làm biến đổi tất cả các ngành công nghiệp, từ sản

xuất đến cơ sở hạ tầng đến chăm sóc sức khỏe.

Theo tác giả, IoT có thể tạo ra một cuộc cách mạng công nghiệp mới,

khiến cả nền kinh tế thế giới và đời sống nhân loại phải chuyển mình theo. Hiện

việc đầu tư cho IoT như là nền tảng cho cuộc cách mạng công nghiệp mới đã trở

thành làn sóng ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Không giống như các cuộc

cách mạng trước thường diễn ra theo xu hướng phát minh mới làm mờ đi phát

minh cũ, IoT được tin là sẽ tạo cơ hội cho tất cả các ngành nghề đều được hưởng

lợi. IoT gia tăng cũng có nghĩa là việc truyền tải dữ liệu và giao tiếp qua internet

tăng lên. Chính vì thế mà tất cả các công ty, ngành nghề đều có thể sử dụng các

dữ liệu đó để phân tích và quyết định chiến lược cạnh tranh giành lấy thành công

cho mình trong tương lai.

Ngoài ra, còn nhiều lĩnh vực khác cũng tăng cường đầu tư hệ sinh thái IoT

như lĩnh vực bán lẻ, dịch vụ vận tải, ngân hàng, y tế, v.v... Nói chung, trong vài

năm nữa, IoT sẽ bao trùm hầu khắp các ngành nghề trong ba khu vực chính:

Chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Với đà phát triển như hiện nay,

IoT sẽ tạo ra sự tăng trưởng đáng kể cho nền kinh tế trên toàn cầu.

Vai trò của dữ liệu lớn và phân tích: công nghệ thông tin và truyền thông

hiện đại như siêu máy tính, dữ liệu lớn hoặc điện toán đám mây sẽ giúp dự đoán

khả năng tăng năng suất, chất lượng và tính linh hoạt trong các ngành công

nghiệp sản xuất và do đó có lợi thế trong cạnh tranh. Klaus Schwab cho rằng

siêu kết nối thông qua sự phổ biến của IoT và điện toán đám mây sẽ cho phép

việc truyền thông tin và giao tiếp phổ quát, toàn cầu và gần như tức thời. Nó là

tiền đề ra đời những mô hình kinh doanh mới và mở ra những cách thức cung

cấp hàng hóa, dịch vụ mà trước đây là điều không tưởng.12 Ví dụ, ứng dụng taxi

Uber chỉ có thể xuất hiện khi việc sử dụng điện thoại di động có kết nối internet

đã bùng nổ. Các dịch vụ như Facebook, WhatsApp, Pinterest, Twitter và

Instagram đã đóng một vai trò then chốt trong sự tương tác xã hội của các công

dân trên toàn thế giới. Siêu tự động hóa cũng có thể được kết hợp với siêu kết

nối, cho phép hệ thống máy tính kiểm soát và quản lý các quá trình vật lý và

phản ứng một cách “con người” hơn bao giờ hết. Nhờ siêu tự động hóa, “hệ

thống mạng vật lý” ra đời, cho phép robot và các cỗ máy thông minh tăng khả

năng kết nối để “vượt qua vực thẳm” giữa công nghệ - kỹ thuật, thế giới tự nhiên

và thế giới con người.

Hơn nữa, khi sử dụng nền tảng kỹ thuật số, chi phí biên của việc sản xuất

thêm mỗi đơn vị sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ giảm dần đến không, điều này

có những tác động sâu sắc tới lĩnh vực kinh doanh và xã hội mà tác giả sẽ nói kỹ

hơn trong chương ba của tác phẩm.

*Sinh học:

Những đổi mới trong lĩnh vực sinh học nói chung và công nghệ gen nói

riêng là những đột phá ngoạn mục. Trong những năm gần đây, chúng ta đã và

12 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.40-43, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

đang thành công trong việc giảm chi phí và dễ dàng hơn trong việc giải trình bộ

gen và mới đây là việc kích hoạt hay chỉnh sửa gen. Phải mất hơn 10 năm với

chi phí 2,7 tỉ USD để hoàn thành Dự án Bản đồ Gen người. Hiện nay, một gen

có thể được giải mã trong vài giờ với chi phí không tới một nghìn USD.13 Với

sức mạnh của máy tính, các nhà khoa học không còn phải dùng phương pháp

thử, sai và thử lại; thay vào đó họ thử nghiệm cách thức mà các biến dị gen gây

ra các bệnh lý đặc thù.

Bước tiếp theo sẽ là sinh học tổng hợp. Công nghệ này sẽ giúp chúng ta

có khả năng tùy biến cơ thể bằng cách sửa lại ADN. Klaus Schwab nói rằng:

“Chưa xét đến những vấn đề đạo đức nghiêm trọng được đặt ra, những tiến bộ

này không chhir có ảnh hưởng lớn lao và tức thời đối với ngành y tế mà cả với

nông nghiệp và sản xuất nhiên liệu sinh học”.14

Lĩnh vực sinh học là nơi tác giả nhìn thấy những thách thức lớn nhất cho

sự hình thành các chuẩn mực xã hội và các quy định phù hợp. Ông cho rằng

nhân loại đang phải đối mặt với những câu hỏi mới về bản chất của con người,

những dữ liệu và thông tin nào về cơ thể và sức khỏe của con người nên và cần

được chia sẻ, và con người có quyền và nghĩa vụ gì trong việc thay đổi mã gen

của các thế hệ tương lai.

Tổng quan lại, những xu thế lớn này còn khá trừu tượng. Tuy nhiên, trên

thực tế, chúng lại dẫn lối cho những ứng dụng và sự phát triển rất thực tiễn.

Theo Klaus Schwab, trong một báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới

tháng 09/2015 chỉ ra 21 điểm bùng phát - là thời điểm những dịch chuyển công

nghệ xâm nhập vào xã hội chính thống - điều sẽ định hình thế giới số và siêu

liên kết của chúng ta trong tương lai.15 Những thay đổi này được dự báo sẽ xuất

13 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.44, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018. 14 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.45, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018. 15 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.51, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

hiện trong 10 năm tới và do đó sẽ phản ánh sinh động những dịch chuyển sâu

sắc được châm ngòi bởi cách mạng công nghiệp 4.0. Những điểm bùng phát

được xác định qua một cuộc khảo sát do Hội đồng Nghị sự toàn cầu về tương lai

của phần mềm và xã hội, thuộc Diễn đàn Kinh tế Thế giới thực hiện, với sự

tham gia của hơn 800 lãnh đạo điều hành và chuyên gia trong lĩnh vực công

nghệ thông tin và truyền thông. Ông nhận thấy những điểm bùng phát này chính

là tiền đề quan trọng vì nó báo hiệu những thay đổi căn bản sắp diễn ra. Để

chứng minh điều đó, đến chương ba tác giả đã nêu và phân tích những dịch

chuyển đang diễn ra hoặc sắp diễn ra, tác động của chúng ở mọi cấp độ đối với

xã hội toàn cầu.

II.2. Các tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của

đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội. Tuy nhiên, chương cuối cùng của tác phẩm,

tác giả chỉ tập trung miêu tả và phân tích những tác động tiềm năng của cách

mạng công nghiệp mới này đối với kinh tế, doanh nghiệp, các chính phủ và các

quốc gia, với xã hội và mỗi cá nhân.

Đối với kinh tế là những thay đổi về tăng trưởng, việc làm và bản chất

công việc. Đối với doanh nghiệp là kỳ vọng của người tiêu dùng, sự cải tiến sản

phẩm bằng dự liệu, đổi mới thông qua cộng tác và các mô hình hoạt động kinh

doanh mới. Đối với chính phủ và các quốc gia, đó là những tác động tới chỉ đạo

và điều hành trong thời đại số, sự tương tác giữa chính quyền và người dân. Đối

với xã hội là sự bất bình đẳng giữa các cộng đồng, và bất lợi cho tầng lớp trung

lưu. Đối với cá nhân là vấn đề bản sắc, đạo đức và luân lý, quan hệ giữa người

với người, quản lý thông tin cá nhân, v.v,...

II.2.1. Tác động đối với kinh tế

Như Klaus Schwab đã nói trong tác phẩm, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

có ảnh hưởng lớn lao và đa chiều đối với kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, ông chỉ tập

trung phân tích hai khía cạnh quan trọng nhất đó là: tăng trưởng và việc làm.

Tăng trưởng kinh tế đang là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất trong thời

điểm hiện tại. Có hai luồng ý kiến trái chiều bàn về vấn đề này, phe bi quan

công nghệ lập luận rằng: những đóng góp lớn lao của cách mạng số đã diễn ra

và ảnh hưởng của nó với năng suất gần như đã hết; phe lạc quan công nghệ lại

cho rằng: công nghệ và sáng tạo đang ở “điểm uốn” và sẽ sớm giải phóng để tạo

ra sự bùng nổ về năng suất và tăng trường kinh tế cao hơn.16 Riêng đối với bản

thân tác giả, người theo phe lạc quan công nghệ, ông cũng nhận thức rõ được tác

động giảm phát tiềm năng của công nghệ và việc một số hiệu ứng phân bổ của

nó khuyến khích ưu tiên vốn hơn lao động và thắt chặt tiền lương. Điều quan

trọng là phải nhìn nhận những tác động tiềm năng của cách mạng công nghiệp

4.0 đến tăng trưởng trong tương quan với các xu thế kinh tế gần đây và các nhân

tố khác đóng góp vài tăng trưởng.

Năng suất là yếu tố quyết định quan trọng nhất cho tăng trưởng dài hạn và

nâng cao chất lượng cuộc sống. Do vậy, nếu năng suất trì trệ kéo dài suốt trong

cách mạng công nghiệp 4.0, đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ tăng trưởng chậm

hơn và chất lượng cuộc sống sẽ cải thiện ít hơn. Một lập luận cơ bản tập trung

vào khó khăn trong việc đo lường đầu vào đầu ra, và từ đó xác định chính xác

năng suất. Một lập luận khác là trong khi những ưu thế về năng suất có được từ

cách mạng công nghiệp 3.0 có thể đang mất đi, thế giới vẫn chưa chứng kiến sự

bùng nổ năng suất đến từ làn sóng công nghệ mới được sản sinh trong lòng cách

mạng công nghiệp 4.0. Bản thân Klaus Schwab cũng nhận thấy rất rõ rằng nhân

loại mới chỉ cảm nhận được bước đầu những tác động tích cực của cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0. Tại sao ông lại có sự lạc quan đó? Có ba nguyên nhân:

Một là, cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại cơ hội hội nhập kinh tế toàn cầu

cho hai tỷ người vẫn chưa đáp ứng nhu cầu, kích cầu các sản phẩm và dịch vụ bằng

cách trao quyền và kết nối các cá nhân, các cộng đồng trên thế giới lại với nhau.

Hai là, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ gia tăng đáng kể khả năng giải

quyết các tác động ngoại biên tiêu cực, và trong quá trình này, kích thích tiềm

16 Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.56, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

năng tăng trưởng kinh tế.

Ba là, doanh nghiệp, chính phủ và những người lãnh đạo các tổ chức

xã hội, những người tác giả từng trao đổi, đều nói rằng họ đang nỗ lực cải

cách tổ chức của họ để khai thác triệt để hiệu suất mà sức mạnh công nghệ

số mang lại. Chúng ta vẫn đang ở giai đoạn đầu của cách mạng công nghiệp

4.0 và nó đòi hỏi những cơ cấu kinh tế và tổ chức hoàn toàn mới để có thể

nắm bắt đầy đủ giá trị của nó.

Klaus Schwab tin rằng: “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tiềm năng

nâng cao tăng trưởng kinh tế, đồng thời loại bỏ một số thách thức toàn cầu lớn

mà thế giới phải đối mặt. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhận thức được và kiểm

soát được các tác động tiêu cực mà nó mang lại, đặc biệt là bất bình đẳng, việc

làm và thị trường lao động”.17

Về lịch sử cho thấy, cuộc cách mạng công nghiệp1.0 đã tạo ra nhiều việc

làm hơn số việc làm bị mất đi (lao động chân tay); cuộc cách mạng công nghiệp

2.0 - cuộc cách mạng xe hơi của những năm 1890 đã tạo ra nhiều việc làm hơn

số việc làm bị mất đi (thay thế xe ngựa thồ hàng); và cuộc cách mạng công

nghiệp 3.0 - cuộc cách mạng silicon của những năm 1960 và 1970 cũng đã tạo ra

nhiều việc làm hơn số việc làm bị mất đi (chủ yếu là trong công tác văn thư hành

chính và lao động đơn giản). Vì sao cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra

nhiều việc làm hơn là những việc làm mất đi do có cuộc cách mạng này? Các

chuyên gia đưa ra các lý do sau:

Thứ nhất, tốc độ thay đổi công nghệ nhanh hơn bao giờ hết. Nếu như

trước đây phải mất 10 năm cho Thomas Newcomen cải tiến động cơ của mình

trước khi công bố với thế giới vào năm 1712 và nó tác động vào các ngành công

nghiệp lao động chân tay trong nhiều chục năm sau đó. Ngày nay, việc cải tiến

có thể đến trong 10 tháng, 10 tuần và thậm chí 10 ngày, một điện thoại iPhone

sau 3 năm đã lỗi thời. Do vậy, nhân lực cho nghiên cứu, phát triển và các dịch

17 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.66, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

vụ liên quan sẽ gia tăng. Tốc độ thay đổi trong giáo dục cũng đang gia tăng.

Người ta ước tính rằng gần 50% kiến thức môn học trong năm đầu tiên của 4

năm học kỹ thuật của một sinh viên sẽ trở nên lỗi thời khi ra trường.

Thứ hai, thời đại của cuộc cách mạng kỹ thuật số đang bùng nổ với hàng

loạt công nghệ mới: trí tuệ nhân tạo; dữ liệu lớn; điện toán đám mây; robot tiên

tiến; IoT; xe tự hành; in 3D; công nghệ nano; thực tế ảo, phương pháp điều trị

kỹ thuật số và máy học, v.v,... Trong thời gian tới danh sách này có thể sẽ được

mở rộng hơn nữa và làn sóng công nghệ mới ra đời sẽ tạo ra những làn sóng

kinh doanh mới và việc làm mới.

Thứ ba, hàng triệu người trên khắp thế giới có thể truy cập vào những cơ

sở dữ liệu rất lớn và vì vậy, những thử nghiệm và đổi mới sáng tạo sẽ không chỉ

được thực hiện tại các trung tâm nghiên cứu, mà có thể ở mọi nơi và cơ hội khởi

nghiệp rộng mở. Những thay đổi đáng kể có thể được thực hiện bởi các cá nhân

tài năng trong nhà, văn phòng của họ và nhà máy. Khả năng của các nhóm nhỏ

khởi nghiệp với các sản phẩm và dịch vụ mới là thuận lợi chưa từng có.

Thứ tư, các khoản đầu tư rất lớn, lên tới hàng tỉ USD, đang được thực hiện

bởi các công ty ở châu Âu, châu Á và Mỹ để nghiên cứu và phát triển những

công nghệ trên. Không thiếu vốn cho cuộc cách mạng công nghiệp lần này, và

một hệ quả sẽ là giảm mạnh trong nhu cầu về lao động. Tuy nhiên, có điều chắc

chắn là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đe dọa lao động kỹ năng thấp và một số

công việc như hành chính, văn phòng. Robot tự động và trí tuệ nhân tạo có thể

thực hiện lao động chân tay cũng như các công việc có liên quan đến thuật toán

và tổ chức và chúng không yêu cầu một mức lương, trợ cấp chăm sóc sức khỏe,

và không bị bệnh hoặc mắc một số sai lầm trong làm việc.

Theo ước tính từ Chương trình Công nghệ và Việc làm Oxford

Martin,hiện chỉ 0,5% lao động Mỹ làm việc trong các ngành công nghiệp mới kể

từ đầu thế kỷ 21, thấp hơn so với con số 8% việc làm mới ở các ngành công

nghiệp mới trong thập niên 1980 và 4,5% trong thập niên 1990. Nghiên cứu này

kết luận rằng khoảng 47% công việc có nguy cơ tự động hóa trong một hoặc hai

thập kỷ tới, với đặc thù là quy mô triệt tiêu việc làm rộng hơn nhiều và tốc độ

nhanh hơn nhiều so với những lần dịch chuyển thị trường lao động trong các

cuộc cách mạng công nghiệp trước.18 Trong báo cáo “Tương lai nghề nghiệp”

(2016) được Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố, đề cập nền kinh tế với 1,86 tỷ

người lao động được nhóm lại thành 20 nhóm công việc. Các tác giả dự đoán

hơn 7,1 triệu việc làm bị mất khi thay đổi thị trường lao động trong giai đoạn

2015 - 2020, 2/3 trong số đó tập trung ở các nhóm công việc văn phòng và hành

chính. Tuy nhiên, cũng sẽ có thêm tổng số 2 triệu việc làm mới trong một số

nhóm công việc nhỏ hơn.19

Bên cạnh đó, già hóa dân số cũng là một thách thức lớn đối với nền kinh

tế. Khi dân số già đi và ít người trẻ hơn thì các khoản mua sắm lớn như nhà cửa,

ô tô, thiết bị điện tử,... cũng giảm theo. Hơn nữa, ít người dám chấp nhận rủi ro

kinh doanh vì người già thường có xu hướng bảo toàn tài sản để an hưởng tuổi

già. Thế giới già hóa sẽ làm tăng trưởng chậm hơn, trừ khi cách mạng công nghệ

mới có thể châm ngòi cho sự đột phá trong năng suất lao động, nói một cách đơn

giản là lao động thông minh hơn thay vì chăm chỉ hơn. Theo Klaus Schwab, khó

khăn mà nhiều quốc gia đang gặp phải khi cố gắng đem các vấn đề này ra bàn

thảo chỉ là dấu hiệu nữa cho thấy chúng ta vẫn chưa sẵn sàng để nhận thức một

cách chủ động và đầy đủ về sức mạnh của sự thay đổi.20

Ngày nay, đối mặt với sự kết hợp giữa tính phức tạp ngày càng tăng và

siêu chuyên môn hóa, chúng ta đang ở thời điểm mà khát khao làm các công

việc có mục đích đang trở thành vấn đề lớn. Điều nay đặc biệt đúng với thế hệ

trẻ, những người thường cảm thấy công việc kiểu doanh nghiệp hạn chế khả

năng tìm kiếm ý nghĩa và mục đích sống. Trong một thế giới mà các ranh giới

18 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.70-71, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018. 19 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.76-77, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018. 20 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.60, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

đang nhòa dần, các khát vọng đang thay đổi, con người không chỉ cần sự cân

bằng giữa công việc - cuộc sống, mà còn cả sự kết hợp hài hòa giữa công việc và

cuộc sống. Tác giả quan ngại rằng tương lai của việc làm chỉ cho phép một số ít

cá nhân đạt được mong muốn ấy.

II.2.2. Tác động đối với doanh nghiệp

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Một số

lĩnh vực tác động quan trọng nổi lên: kỳ vọng của người tiêu dùng, cải tiến sản

phẩm bằng dữ liệu, đổi mới thông qua cộng tác, các mô hình hoạt động kinh

doanh mới, độ tin cậy và năng suất liên tục, an toàn công nghệ thông tin, an toàn

trong hoạt động của cơ khí, vòng đời sản phẩm, chuỗi giá trị công nghiệp, giáo

dục và kỹ năng lao động cho công nhân. Một chủ đề cơ bản thường được các

nhà lãnh đạo doanh nghiệp toàn cầu bàn luận là sự tăng tốc của đổi mới và tốc

độ của sự đổ vỡ là khó hiểu hay khó dự đoán và các động lực này liên tục gây

bất ngờ, ngay cả đối với các hiện tượng liên kết tốt nhất và được thông báo tốt

nhất. Thật vậy, xuyên suốt tất cả các ngành công nghiệp, bằng chứng rõ ràng

rằng các công nghệ là nền tảng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang có tác

động lớn đến các doanh nghiệp.

Về phía cung, nhiều ngành công nghiệp đang thấy sự ra đời của các công

nghệ mới tạo ra những phương thức hoàn toàn mới đáp ứng các nhu cầu hiện tại

và phá vỡ đáng kể các chuỗi giá trị công nghiệp hiện có. Sự phá hủy cũng xuất

hiện từ những đối thủ cạnh tranh sáng tạo, nhanh nhạy, những người nhờ tiếp

cận với các nền tảng kỹ thuật số toàn cầu cho nghiên cứu, triển khai, tiếp thị, bán

hàng và phân phối, có thể lật đổ những người đương nhiệm nhanh hơn bao giờ

hết bằng cách cải thiện chất lượng, tốc độ, hay giá cả đối với giá trị cung cấp.

Về phía cầu, yêu cầu về sự minh bạch ngày càng tăng, sự tham gia của

người tiêu dùng, và các hình mẫu mới về hành vi của người tiêu dùng (ngày

càng được xây dựng dựa trên sự truy cập vào các mạng di động và dữ liệu) buộc

các công ty thích nghi với cách họ thiết kế, tiếp thị và cung cấp các sản phẩm và

dịch vụ.

Một xu hướng chính là sự phát triển của các nền tảng công nghệ tạo khả

năng, cho phép kết hợp cả cung và cầu để phá vỡ cấu trúc ngành công nghiệp

hiện có, chẳng hạn như những nền tảng mà chúng ta thấy trong nền kinh tế “chia

sẻ” hoặc “theo yêu cầu”. Những nền tảng công nghệ, dễ dàng sử dụng với các

điện thoại thông minh, tập hợp con người, tài sản, và dữ liệu, do đó tạo ra những

cách thức tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ hoàn toàn mới trong quá trình này. Ngoài

ra, chúng hạ thấp các rào cản đối với các doanh nghiệp và cá nhân để tạo ra sự

giàu có, làm thay đổi môi trường cá nhân và chuyên môn của người lao động. Các

doanh nghiệp nền tảng mới này đang nhanh chóng nhân ra nhiều dịch vụ mới, từ

giặt là đến mua sắm, từ việc nhà đến đỗ xe, từ thư giãn đến du lịch. Cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0 có bốn tác động chính đối với doanh nghiệp: 1) kỳ vọng

của người tiêu dùng đang thay đổi; 2) dự liệu giúp cải tiến sản phẩm và cải thiện

năng suất sử dụng tài sản; 3) các hình thức đối tác mới ra đời do công ty nhận

thức được tầm quan trọng của các mô hình cộng tác mới và 4) mô hình vận hành

được chuyển đổi sang các mô hình số mới. Cho dù là người tiêu dùng hay doanh

nghiệp, thì khách hàng đang ngày càng trở thành trung tâm của nền kinh tế, tất cả

đều nhằm làm thế nào cải thiện cách thức phục vụ khách hàng. Hơn nữa, các sản

phẩm vật chất và dịch vụ giờ đây có thể được tăng cường với khả năng số làm

tăng giá trị của chúng. Các công nghệ mới làm cho tài sản bền và linh hoạt hơn,

còn dữ liệu và phân tích đang thay đổi cách thức chúng được duy trì. Trong khi

đó, một thế giới những trải nghiệm của khách hàng, các dịch vụ dựa trên dữ liệu

và hiệu suất tài sản thông qua phân tích đòi hỏi phải có các hình thức hợp tác mới,

đặc biệt là với tốc độ đang diễn ra của đổi mới và phá hủy. Và cuối cùng, sự xuất

hiện của các nền tảng toàn cầu và các mô hình kinh doanh mới khác có nghĩa là

tài năng, văn hóa và hình thức tổ chức sẽ phải được xem xét lại.

Nhìn chung, sự thay đổi không tránh khỏi từ số hóa đơn giản sang đổi

mới dựa trên sự kết hợp của các công nghệ đang buộc các công ty phải xem

xét lại cách thức kinh doanh. Tuy nhiên, điểm mấu chốt là như nhau: các

nhà lãnh đạo kinh doanh và điều hành cấp cao cần phải hiểu môi trường thay

đổi của họ, thách thức các giả định của nhóm điều hành của họ, đổi mới

không ngừng và liên tục.

Klaus Schwab cho rằng, trong tương lai không xa, sản phẩm, con người

và máy móc sẽ giao tiếp với nhau như trên mạng xã hội. Để duy trì tính cạnh

tranh, các nhà máy sẽ phải cung cấp các thiết kế tùy chỉnh và có khả năng thay

đổi sản phẩm nhanh chóng; sử dụng IoT và các công nghệ khác để số hóa toàn

bộ quy trình, rút ngắn thời gian đưa sản phẩm ra thị trường; hợp nhất mạng lưới

sản xuất dùng giải pháp quản lý vòng đời sản phẩm dựa trên internet để nhân

viên có thể làm việc thông qua mạng; dùng robot bán tự động làm việc bên cạnh

con người để tăng năng suất và vẫn đảm bảo chất lượng; phân tích dữ liệu thu

thập được về khách hàng để cung cấp các dịch vụ kỹ thuật số mới. Như vậy, các

công ty có cơ hội đưa sản xuất về lại nước mình, giành lại công việc từ các nước

có giá nhân công thấp, như Trung Quốc (vốn được mệnh danh là “công xưởng

của thế giới”). Đó là lý do tại sao cách mạng công nghiệp 4.0 đang được chính

phủ các nước phương Tây quan tâm. Anh kỳ vọng việc số hóa các nhà máy có

thể khôi phục lại sản xuất. Riêng Đức đặc biệt chú trọng đến cách mạng công

nghiệp 4.0 vì ngành sản xuất là xương sống của nền kinh tế nước này.

Một đặc điểm khác của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là số vốn đầu tư

ban đầu có thể không lớn, nhưng lợi nhuận thu về cao. Ví dụ trường hợp của

WhatsApp, khởi đầu với nhóm nhỏ 21 nhà đầu tư, vốn bỏ ra cũng nhỏ nhưng

đến nay được định giá rất lớn. Tháng 2/2014, Facebook đã đồng ý chi 22 tỷ

USD cho công ty có 55 nhân viên này. Trong khi đó, hãng hàng không Hoa Kỳ

United Continental có giá thị trường cũng chỉ là 22 tỷ USD tính đến tháng

12/2015, nhưng có tới 82.300 nhân viên. Giá trị doanh nghiệp lên đến 400 triệu

USD cho mỗi nhân viên như ở WhatsApp là ví dụ về khả năng thu lợi nhuận lớn

21 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.97, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

từ các mô hình kinh doanh vốn thấp trong tương lai.21

Như vậy, với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các doanh nghiệp có thể khởi

nghiệp dễ dàng hơn, vốn ít hơn trong khi mang lại lợi nhuận lớn trong thời gian

ngắn hơn. Trong khi công nghệ mới và các doanh nghiệp sáng tạo đem lại những

sản phẩm và dịch vụ mới có thể cải thiện đời sống nhiều người, nhưng cũng chính

những công nghệ này và các hệ thống hỗ trợ chúng có thể gây ra những tác động

không mong muốn. Cụ thể, như tình trạng thất nghiệp tràn lan và gia tăng bất bình

đẳng - những vấn đề đã được tác giả nêu ra, cho đến nguy cơ từ những hệ thống vũ

khí tự động và những rủi ro trong an ninh mạng. Trong khi còn nhiều quan điểm

khác nhau về các yếu tố cấu thành một khuôn khổ thể chế hợp lý, các cuộc trao đổi

của tác giả với lãnh đạo chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức xã hội cho thấy họ

chia sẻ một mục tiêu bao trùm đó là xây dựng những hệ sinh thái luật lệ và pháp lý

linh hoạt, trách nhiệm, cho phép sáng tạo phát triển đồng thời giảm thiểu rủi ro

nhằm đảm bảo sự ổn định và thịnh vượng của xã hội.

II.2.3. Tác động đối với chính phủ

Những thay đổi mang tính đột phá từ cách mạng công nghiệp 4.0 đang

định hình lại cách hoạt động của các tổ chức và thể chế công. Khi thế giới vật

chất, kỹ thuật số và sinh học đang tiếp tục xích lại gần nhau hơn thì công nghệ

và thiết bị sẽ ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn tới chính phủ để

nêu ý kiến, cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức

mạnh về công nghệ để tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với người dân dựa

trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điểu khiển hạ tầng số.

Tuy nhiên, xét về tổng thể, các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với

áp lực phải thay đổi cách thức tiếp cận hiện nay của họ đối với sự tham gia của

công chúng và quy trình đưa ra quyết định khi vai trò trung tâm của họ trong

việc thực thi chính sách suy giảm trước sự xuất hiện của các nguồn cạnh tranh

mới, sự phân phối lại và phân bổ quyền lực dưới sự hỗ trợ đắc lực của công

nghệ. Xét cho cùng, khả năng các cơ quan chính phủ và tổ chức xã hội có thể

thích ứng sẽ quyết định sự tồn tại của họ. Nếu chứng minh được khả năng có thể

bắt kịp một thế giới với những thay đổi đột phá, cải thiện cơ cấu để đạt mức

minh bạch và hiệu quả để cho phép họ duy trì được lợi thế cạnh tranh của mình,

họ sẽ tồn tại. Ngược lại, nếu không thể cải thiện, họ sẽ phải đối mặt với ngày

càng nhiều vấn đề. Điều này đặc biệt đúng trong hệ thống điều hành. Các hệ

thống chính sách công và quy trình ra quyết định hiện nay được phát triển cùng

với cuộc cách mạng công nghiệp 2.0 khi các nhà hoạch định chính sách có thời

gian để nghiên cứu một vấn đề cụ thể và đưa ra cách ứng phó cần thiết hoặc

khuôn khổ quy định phù hợp. Toàn bộ quá trình này được vận hành trơn tru và

có hệ thống, theo mô hình chặt chẽ từ cao xuống thấp.

Tuy nhiên, một cách thức như vậy hiện nay không còn khả thi. Trước tốc

độ thay đổi nhanh chóng và tác động sâu rộng của cuộc cách mạng công nghiệp

4.0, các nhà lập pháp và điều hành đang bị thử thách ở một mức độ chưa từng có

tiền lệ và phần lớn trong số đó chưa cho thấy khả năng ứng phó tốt. Vậy làm thế

nào họ có thể vừa bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và công chúng nói chung lại

vừa tiếp tục hỗ trợ cho sáng tạo và phát triển công nghệ? Câu trả lời là: Họ có

thể xây dựng một quy trình quản lý “năng động” giống như việc khu vực tư

nhân đang ngày càng có ứng phó linh hoạt trước sự phát triển của phần mềm và

hoạt động của các doanh nghiệp nói chung. Điều này có nghĩa là các nhà lập

pháp phải không ngừng thích nghi với môi trường mới và biến đổi nhanh chóng,

đồng thời phải trau dồi bản thân để thực sự hiểu rõ họ đang điều hành cái gì. Để

làm được vậy, các chính phủ và cơ quan lập pháp cần có sự hợp tác chặt chẽ với

các doanh nghiệp và công dân của mình. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng

sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới vấn đề an ninh quốc gia và quốc tế, tác động tới cả bản

chất và khả năng xảy ra xung đột. Lịch sử chiến tranh và an ninh quốc tế là lịch

sử của sự sáng tạo về công nghệ, và ngày nay cũng không phải ngoại lệ.

II.2.4. Tác động đối với xã hội

Klaus Schwab cho rằng: “Thách thức lớn đối với hầu hết các xã hội là làm

sao để tiếp thu và thích nghi với sự hiện đại mới trong khi vẫn giữ gìn những

22 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.156-157, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 08/2018.

khía cạnh tốt đẹp của các hệ giá trị truyền thống.”22 Những trình bày trong phần

trước của tác phẩm về các tác động khác nhau của cách mạng công nghiệp 4.0 đối

với kinh tế, doanh nghiệp, địa - chính trị và an ninh quốc tế, các khu vực và thành

phố, đã làm rõ rằng cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ ảnh hưởng nhiều đến xã hội. Khi

nói các tác động tới xã hội, tác giả đã phân tích hai trong số những động lực quan

trọng nhất của thay đổi - bất bình đẳng gia tăng sẽ gây ảnh hưởng lên tầng lớp trung

lưu thế nào, và sự tích hợp các phương tiện truyền thông kỹ thuật số đang làm thay

đổi cách các cộng đồng hình thành và liên hệ với nhau ra sao.

Phần phân tích về tác động kinh tế và kinh doanh, tác giả đã nêu bật một

số chuyển dịch cơ cấu khác nhau, góp phần gia tăng bất bình đẳng cho đến nay

và có thể trầm trọng hơn khi cách mạng công nghiệp 4.0 tiếp tục mở rộng. Gia

tăng bất bình đẳng không chỉ là hiện tượng kinh tế đáng quan tâm, mà còn là

thách thức lớn của xã hội. Tác giả đã nêu ra một dẫn chứng cụ thể để chứng

minh điều đó: trong cuốn “The Spirit Level: Why Greater Equality Makes

Societies Stronger”, hai nhà dịch tễ học người Anh Richard Wilkinson và Kate

Pickett đã đưa ra dữ liệu cho thấy các xã hội bất bình đẳng thường có xu hướng

bạo lực hơn, có nhiều người ngồi tù hơn, tỷ lệ người mắc bệnh tâm thần và béo

phì cao hơn, tuổi thọ và lòng tin thấp hơn. Hệ quả là, sau khi kiểm soát được thu

nhập trung bình, các xã hội công bằng hơn có tỷ lệ trẻ em có cuộc sống ấm no

hạnh phúc cao hơn, mức độ căng thẳng và sử dụng ma túy thấp hơn, tỷ lệ tử

vong của trẻ sơ sinh thấp hơn.23 Hiện nay, trong xã hội đã lan rộng nỗi lo ngại

rằng bất bình đẳng cao hơn sẽ dẫn đến bất ổn xã hội lớn hơn.

Xét từ góc độ xã hội, một trong những tác động lớn nhất của xu thế số hóa

là sự nổi lên của xã hội “lấy cá nhân làm trung tâm”. Khác với trước đây, khái

niệm thuộc về một cộng đồng ngày nay được định nghĩa bằng những giá trị, lợi

ích của cá nhân. Các hình thức truyền thông số mới, một cấu phần cốt lõi của

cách mạng công nghiệp 4.0 đang ngày càng định hướng cách nhìn nhận của cá

23 Xem Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tr.159-160, Nxb. Chính trị Quốcgia Sự thật, 08/2018.

nhân và tập thể về xã hội và cộng đồng. Những nhân tố cho phép tương tác rộng

rãi hơn, vượt qua các ranh giới xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị, tôn giáo và ý

thức hệ là dễ tiếp cận, chi phí thấp, trung tính về địa lý của truyền thông số. Tác

giả phân tích rằng sức mạnh dân chủ của truyền thống số đồng nghĩa với việc nó

có thể được các chủ thể phi nhà nước lợi dụng, đặc biệt những cộng đồng có

động cơ xấu sử dụng để tuyên truyển, vận động người ủng hộ cho mục đích cực

đoan. Tính năng động của việc chia sẻ thông tin - đặc thù của mạng xã hội là

một nguy cơ có thể bóp méo quá trình ra quyết định và gây rủi ro cho xã hội.

Tác giả nêu ra một nhiệm vụ quan trọng mà thế giới phải đối mặt khi cách mạng

công nghiệp này diễn ra là phải làm sao tập hợp nhiều hơn và hiệu quả hơn dữ

liệu về lợi ích và thách thức đối với sự gắn kết trong cộng đồng.

II.2.5. Tác động đối với cá nhân

Cuối cùng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ thay đổi không chỉ những

gì chúng ta làm mà cả ngay chính con người chúng ta. Nó sẽ làm thay đổi bản

sắc của chúng ta và tất cả những vấn đề liên quan tới bản sắc đó, bao gồm: Sự

riêng tư, ý thức về sự sở hữu, phương thức tiêu dùng, thời gian chúng ta dành

cho công việc và giải trí, và cách thức chúng ta phát triển sự nghiệp, trau dồi kỹ

năng, gặp gỡ mọi người và củng cố các mối quan hệ. Nó đã và đang làm thay

đổi sức khỏe của chúng ta và dẫn tới một cái tôi nhất định, và có thể dẫn tới sự

gia tăng dân số nhanh hơn chúng ta nghĩ. Danh sách đó là vô tận bởi lẽ nó được

gắn bó chặt chẽ trí tưởng tượng của chúng ta.

Điều đó sẽ đặt ra câu hỏi liệu sự hội nhập tất yếu của công nghệ trong

cuộc sống có thể làm suy giảm một số bản năng tinh túy của con người, chẳng

hạn như lòng thương cảm và sự hợp tác. Mối quan hệ của chúng ta với điện

thoại di động là một trường hợp như vậy. Sự kết nối thường xuyên liên tục với

điện thoại di động có thể cô lập chúng ta khỏi một trong những tài sản quan

trọng nhất của cuộc sống, đó là thời gian để ngừng nghỉ, suy ngẫm hay đơn giản

là tham gia vào một cuộc hội thoại có ý nghĩa.

Một trong những thách thức mang tính cá nhân lớn nhất mà các công nghệ

thông tin mang lại là sự riêng tư. Thông tin về cá nhân sẽ dễ dàng để tra cứu và

tìm kiếm vì chúng ta buộc phải kết nối với các hệ thống điện tử. Tương tự, các

cuộc cách mạng diễn ra trong lĩnh vực công nghệ sinh học và trí thông minh

nhân tạo giúp định nghĩa lại con người là gì bằng cách hạ thấp những giới hạn

hiện tại về tuổi thọ, sức khỏe, nhận thức và năng lực. Chúng buộc chúng ta phải

định hình lại những ranh giới về đạo đức và phẩm hạnh.

Tóm lại, tất cả đều quy về con người và giá trị. Chúng ta cần hình thành

nên một tương lai phục vụ cho tất cả chúng ta, trong đó, vị trí của người dân là

trên hết và họ được tăng thêm quyền lực. Trong viễn cảnh bi quan và phi nhân

đạo nhất, cuộc cách mạng công nghiệp4.0 có thể robot hóa con người và từ đó

tước bỏ tâm hồn và trái tim của chúng ta. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tốt

đẹp nhất trong bản chất của con người, đó là sự sáng tạo, lòng cảm thông và khả

năng quản lý, cuộc cách mạng công nghiệp này cũng có thể đưa con người tới

một sự nhận thức về đạo đức mang tính tập thể, dựa trên một vận mệnh chung.

Trách nhiệm của tất cả chúng ta là đảm bảo rằng điều thứ hai sẽ xảy ra.

II.3. Nhận xét và đánh giá quan niệm về cách mạng công nghiệp 4.0

của Klaus Schwab

Thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” (tiếng Đức: Industrie 4.0) được sử dụng lần

đầu tiên tại Hội chợ Công nghiệp Hannover ở Đức vào năm 2011 để chỉ các nhà

máy thông minh và việc trí tuệ hóa quá trình sản xuất và quản lý trong ngành

công nghiệp chế tạo. Sau đó, Chính phủ Đức đã thành lập một nhóm nghiên cứu

xây dựng Chiến lược Công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất công nghiệp

mà không có sự tham gia trực tiếp của con người. Nhóm nghiên cứu đó đã cho

ra đời một báo cáo về Chiến lược Công nghệ cao đó và chính thức sử dụng thuật

ngữ “Công nghiệp 4.0”. Từ đây, thuật ngữ “Cách mạng công nghiệp 4.0” bắt

đầu xuất hiện và trở thành một trong những thuật ngữ hot ở thời điểm hiện tại.

Năm 2016, ngay trước Diễn đàn Kinh tế Thế giới thì Klaus Schwab đã

cho xuất bản cuốn “The Fourth Industrial Revolution”. Từ đó, thuật ngữ “cách

mạng công nghiệp 4.0” trở thành khái niệm có mức phổ biến với tốc độ phát

triển nhanh chóng. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) với chủ đề “Cuộc cách

mạng công nghiệp lần thứ tư”, Klaus Schwab - Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế

giới đã đưa ra một định nghĩa mới, mở rộng hơn khái niệm Công nghiệp 4.0 của

Đức. Nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới, có thể

thay đổi hoàn toàn cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau. Quy mô,

phạm vi và sự phức tạp của lần chuyển đổi này không giống như bất kỳ điều gì

mà loài người đã từng trải qua.

Trong mấy năm gần đây, một số quốc gia đã bàn nhiều tới cách mạng công

nghiệp 4.0 với trí tuệ nhân tạo và các công nghệ xuyên ngành kỹ thuật số, các công

nghệ mới, hiện đại xuất hiện và được sử dụng trong đời sống xã hội, có quy mô tác

động và tốc độ phát triển theo cấp số lũy thừa, có thể làm thay đổi cách thức con

người sống, làm việc và điều hành xã hội. Biểu hiện quan trọng nhất của cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo, công nghệ số và tích

hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất;

ngoài ra, một số công nghệ đang và sẽ có tác động rất lớn là công nghệ in 3D, công

nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy, dữ liệu

lớn, internet vạn vật, truyền thông thế hệ mới, v.v...

Tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu, tầm nhìn chiến

lược về phát triển công nghệ, các quốc gia trên thế giới có cách tiếp cận khác

nhau về cách mạng công nghiệp 4.0. Các quốc gia vốn đã phát huy được lợi thế

của cách mạng công nghiệp 3.0 như Đức, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, thậm

chí cả Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á đều có đối sách riêng phù hợp.

Có thể nói, các nước phát triển và các nước đang phát triển đều có những

chương trình, kế hoạch ứng xử với công nghiệp 4.0, với mục đích vươn lên hoặc

giữ vững vị thế dẫn dắt của mình. Cách tiếp cận của các quốc gia đều tập trung

vào xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi và hiệu quả nhằm thúc đẩy doanh

nghiệp đổi mới sáng tạo, thúc đẩy số hóa, ứng dụng các công nghệ số hóa trong

công nghiệp, dịch vụ, như nâng cấp hạ tầng truyền thống bằng thông rộng,các

chương trình nghiên cứu và phát triển trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, tự

động hóa, internet vạn vật...; có chính sách bảo vệ và thúc đẩy sử dụng tài sản trí

tuệ; hỗ trợ kinh phí hoặc lãi suất vay cho doanh nghiệp triển khai chuyển đổi số.

Các nước phát triển trong vài năm qua đều có các chương trình chiến lược

về sản xuất khi những tiến bộ của khoa học và công nghệ đang diễn ra rất nhanh.

Một số các chiến lược được áp dụng đó là: Hoa Kỳ có “Chiến lược quốc gia về

sản xuất tiên tiến” cho ba thập kỷ tới; Pháp có “Bộ mặt mới của công nghiệp

nước Pháp”; Hàn Quốc có “Chương trình tăng trưởng của Hàn Quốc trong

tương lai”; Trung Quốc có “Sản xuất tại Trung Quốc năm 2025”; Nhật Bản có

“Xã hội thông minh 5.0”,...

Tác phẩm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của Klaus Schwab đã giúp

chúng ta hiểu rõ cuộc cách mạng này và cơ hội mà nó đem lại không chỉ cho

Việt Nam mà còn cả thế giới và khu vực. Trong tác phẩm của mình, Klaus

Schawb cho rằng, cách mạng công nghiệp lần thứ tư khác biệt về bản chất. Cuộc

cách mạng này được hình thành bằng loạt công nghệ mới kết nối các thế giới vật

chất, kỹ thuật số và sinh học, tác động đến tất cả mọi quy luật, nền kinh tế,

ngành công nghiệp, và thậm chí thách thức cả định nghĩa về nhân loại.

Kết quả là những thay đổi và đột phá báo hiệu chúng ta đang sống tại một

thời điểm đầy hứa hẹn và rủi ro. Thế giới có tiềm năng kết nối hàng tỷ người với

mạng lưới kỹ thuật số, cải thiện đáng kể hiệu quả hoạt động của các tổ chức,

thậm chí quản lý tài sản theo cách có thể tái tạo môi trường tự nhiên và loại bỏ

thiệt hại của những cuộc cách mạng công nghiệp trước đó.

Tuy nhiên, Klaus Schwab cũng đưa ra những lo ngại đáng chú ý: các tổ

chức có thể sẽ không thích ứng được; các chính phủ có khả năng không kịp thời

tận dụng và quản lý các công nghệ mới để gặt hái lợi ích từ chúng; chuyển dịch

quyền lực sẽ tạo ra mối lo mới về bảo mật; làm gia tăng bất bình đẳng và chia

cắt xã hội.

Klaus Schwab đặt những thay đổi gần đây nhất vào bối cảnh lịch sử, chỉ

ra những công nghệ chủ chốt đang chèo lái cuộc cách mạng này, thảo luận về

những tác động chính lên các chính phủ, doanh nghiệp, xã hội dân sự và cá

nhân; từ đó gợi ý cách thức phản hồi. Trọng tâm phần phân tích của ông đặt ra

niềm tin rằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nằm trong tầm kiểm soát

của tất cả chúng ta, miễn là chúng ta có khả năng cộng tác với nhau, vượt qua

các khoảng cách địa lý, ngành và lĩnh vực, để nắm bắt các cơ hội mà cuộc cách

mạng này mang lại.

Đặc biệt, ông kêu gọi các nhà lãnh đạo và người dân cùng nhau định hình

một tương lai tốt đẹp cho tất cả mọi người bằng cách lấy con người làm trung

tâm, trao quyền cho họ và không ngừng nhắc nhở chính mình rằng, tất cả những

công nghệ mới này, trước hết và quan trọng nhất, là công cụ do con người tạo ra

để phục vụ cho con người.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước phát triển

và đang phát triển, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Cuộc

cách mạng này giúp cho Việt Nam nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách

phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế

giới với việc hoàn tất nhiều hiệp định thương mại tự do có quy mô lớn, việc áp

dụng các thành tựu cách mạng sản xuất mới để tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn

cầu và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhu cầu cấp thiết.

Các công nghệ mới không chỉ tác động về sản xuất, mà còn ảnh hưởng

sâu rộng đến đời sống xã hội, lao động, việc làm, an ninh, chính trị,... Với lợi thế

là nguồn lực lao động dồi Việt Nam cần đầu tư cho khoa học và công nghệ, đổi

mới công nghệ, tạo môi trường kinh doanh năng động để thúc đẩy lan tỏa công

nghệ, cải các thị trường lao động, hệ thống giáo dục - đào tạo. Đảng và Nhà

nước ta cần phải có những chính sách về đào tạo, nâng cao kỹ năng và phát triển

nguồn nhân lực để thích ứng với biến đổi nhanh của công nghệ và sự phát triển

của cách mạng công nghiệp mới, đáp ứng với nhu cầu của thị trường lao động.

Bản chất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là tốc độ và quy mô. Việc

tốc độ phát triển nhanh dẫn đến nhiều diễn biến không thể xác định trước được,

chúng ta cần thay đổi để bắt kịp và không bị tụt hật so với các nước khác. Việt

Nam cần có chiến lược phát triển ngành tự động hóa và công nghệ cao với 5 nội

dung sau đây:

+ Hợp tác mạnh mẽ giữa khoa học công nghệ và sản xuất, kinh doanh.

+ Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong khu vực doanh nghiệp tư nhân.

+ Triển khai ứng dụng mạnh mẽ và rộng rãi các công nghệ mới.

+ Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.

+ Ưu tiên tài trợ cho các tổ chức, cá nhân có thành tích khoa học công

nghệ xuất sắc.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đã bắt đầu có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến

Việt Nam. Về phương diện lý luận, nó đang tạo ra một diễn đàn lý luận sôi động

với hàng loạt hội nghị, hội thảo, bài viết, chuyên mục, báo, tạp chí,... Đây là vấn

đề lý luận nóng hổi cũng là vấn đề đang được bàn luận sối nổi trong các dự thảo

văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ 13 sắp tới.

Trong thực tế, một số công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0 mà

Klaus Schwab nhắc đến trong tác phẩm đã được đưa vào sử dụng ở Việt Nam,

mặc dầu, chưa phổ biến rộng rãi những đã có những ảnh hưởng nhất định đối

với đời sống kinh tế và xã hội. Một số kịch bản ứng phó với tác động cách mạng

công nghiệp mới này trên phương diện tích cực, tiêu cực đã được soạn thảo.

Chẳng hạn: theo kịch bản của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho đến

năm 2020 thì có 76% lao động trong các ngành dệt, da, may mặc, giày sẽ chịu

ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Hàng loạt các ngành,

lĩnh vực khác, các vị trí làm việc sẽ bị thay thế bằng robot dẫn đến nhiều công

nhân sẽ mất việc. Năng suất lao động, số lượng, chất lượng của các sản phẩm sẽ

tăng nhanh chóng.

Đối với các doanh nghiệp, nhiều tiêu chí của sản xuất và quản lý đang và

sẽ bị thay đổi. Quy mô lớn của doanh nghiệp, sản lượng sản xuất không còn có ý

nghĩa quyết định như trước đây. Vòng đời công nghệ được sử dụng, hay nói

cách khác, tốc độ thay thế công nghệ mới là lĩnh vực quyết định. Bây giờ, “cá

lớn nuốt cá bé” vẫn là nguyên tắc cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường thế

giới. Nhưng, “cá nhanh nuốt cá chậm” mới là nguyên tắc nổi trội và quyết định

hơn trong nền kinh tế thị trường đang chuyển thành nền kinh tế tri thức.

Trong lịch sử, Việt Nam đã không thể thực hiện bất cứ một cuộc cách

mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ nào trong số các cuộc cách mạng khoa

học, kỹ thuật và công nghệ mà thế giới đã thực hiện. Ngay cả 3 cuộc cách mạng

công nghiệp đã diễn ra trước đây trong lịch sử thế giới, Việt Nam cũng không

thể tham gia do điều kiện lịch sử và nhiều nhân tố khác. Thực tế cho thấy, trình

độ lực lượng sản xuất và công nghiệp ở các vùng, miền, ngành, lĩnh vực là rất

không đồng đều24. Hiện vẫn có những nơi, những vùng sản xuất đang ở giai

đoạn tiền công nghiệp, có nhiều nơi mới ở giai đoạn công nghiệp 2.0. Chỉ các

doanh nghiệp ở các khu công nghiệp, các thành phố lớn, một vài ngành, lĩnh vực

là đã bước đến trình độ công nghiệp 3.0, nhưng cũng chỉ mới ở giai đoạn đầu

của công nghiệp 3.0. Tuy nhiên, những thành tựu của cách mạng khoa học -

công nghệ và của các cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 và 4.0 đang tràn vào Việt

Nam rất nhanh chóng.

Trong thực tế, các thành tựu của cả cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật

lẫn cách mạng khoa học - công nghệ đang ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Nhưng

về phương diện công nghiệp thì công nghiệp 2.0 - nền tảng là các công nghệ

điện từ, và công nghiệp 3.0 - nền tảng là các công nghệ điện tử, đang là cơ sở

của nền công nghiệp Việt Nam hiện nay. Chúng tôi muốn nhấn mạnh điều này

để lưu ý rằng, hiện có một số quan niệm sai lầm về cách mạng công nghiệp 4.0

và cách mạng công nghiệp 3.0 khi nói đến ảnh hưởng của chúng đến Việt Nam.

Ở Việt Nam hiện chưa có công nghiệp 4.0 do nền tảng công nghệ của nó là trí

tuệ nhân tạo chưa xuất hiện trong nền công nghiệp Việt Nam như là nền tảng

24 Chúng tôi cho rằng, nền tảng công nghệ chính của công nghiệp 1.0 là máy hơi nước và động cơ đốt trong; của công nghiệp 2.0 là các máy điện - từ (máy phát điện và động cơ điện; của công nghiệp 3.0 là các máy điện tử, của công nghiệp 4.0 là của trí tuệ nhân tạo. Xem thêm: Lương Đình Hải. Cách mạng khoa học - công nghệ và tác động của nó đến con người và xã hội Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 5 (92) – 2017, tr 3-14; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia tại Học viện Ngân hàng, Hà Nội, tháng 6-2018.- Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội, 2018. Bài: Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ và cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. tr.3-16; v.v..

công nghệ phổ biến. Khi xét tới ảnh hưởng của cách mạng khoa học - công nghệ

đến công bằng xã hội cần phải chú ý đến đặc điểm quan trọng này của xã hội

Việt Nam hiện đại, để tránh ảo tưởng chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn và

dẫn đến những sai lầm nguy hại khó lường. Chính vì vậy, cuốn sách Cách mạng

công nghiệp 4.0 và quan niệm về cách mạng công nghiệp 4.0 của Klaus Schwab

rất có ý nghĩa đối với nước ta trên nhiều phương diện, từ nhận thức đến hoạt

động thực tiễn công nghiệp nói chung25.

Cách mạng công nghiệp 4.0, một mặt, mở ra những cơ hội hết sức to lớn,

hiện nay chưa thể hình dung hết cho Việt Nam. Với những tác động đến đời

sống kinh tế - xã hội như Klaus Schwab đã mô tả, thì nó có thể thúc đẩy, có thể

là công cụ, phương thức hữu hiệu nhất để Việt Nam có thể phát triển nhanh, rút

ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Nó đang tạo sức ép để Việt

Nam thay đổi mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mô hình đó phải chuyển

từ việc dựa trên nền tảng công nghiệp 3.0 sang dựa trên nền tảng công nghiệp

4.0. Do vậy, có thể hình dung rằng cách mạng công nghiệp 4.0 có thể giúp Việt

Nam xây dựng một nền công nghiệp mới 4.0 hiện đại.

Mặt khác, theo quan niệm của Klaus Schwab trong cuốn “Cách mạng

công nghiệp lần thứ tư”, những tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 có thể

là những thách đố không thể vượt qua đối với Việt Nam trên con đường phát

triển. Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể làm dãn rộng khoảng cách tụt hậu xa

hơn nữa, đẩy Việt Nam ra vùng ngoại vi của sự phát triển của thế giới, biến Việt

Nam thành “vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển” của thế giới. Để tránh

được nguy cơ này, ngay từ bây giờ Việt Nam cần phải có chiến lược phát triển

công nghiệp theo hướng của công nghiệp 4.0 và phải có quyết tâm lớn, nhất

quán, nhanh nhạy và thống nhất thực hiện chiến lược đó.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 theo như mô tả của Klaus Schwab,

25 Xem: Lương Đình Hải (2018), Công bằng xã hội trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ ở Việt Nam hiện nay.- Trong sách “Tư tưởng của C.Mác về công bằng xã hội với dân chủ và ý nghĩa hiện thời của nó”, Nxb. Khoa học Xã hội, năm 2018.

không chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền công nghiệp, nền sản xuất của xã hội

hiện đại, mà còn tác động mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống xã hội và con người,

đến các tổ chức xã hội như chính phủ, nhà nước, trường học, gia đình, v.v... Cần

phải có quan điểm toàn diện, bao trùm, biện chứng duy vật khi nhìn nhận và đánh

giá cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những ảnh hưởng của nó đến sự phát

triển kinh tế, xã hội và con người. Không thể không tính đến tác động của các yếu

tố khác như lịch sử, văn hóa, truyền thống, con người Việt Nam cũng có ảnh

hưởng và chi phối cách mạng công nghiệp 4.0 và những tác động của nó ở Việt

Nam. Hiện tại cách mạng công nghiệp 4.0 mới bắt đầu trên thế giới và còn ảnh

hưởng trực tiếp rất ít đến Việt Nam. Nhưng trong vòng năm đến mười năm tới

ảnh hưởng này có thể tăng theo cấp số nhân. Nhận thức đầy đủ, đúng đắn, khoa

học về cuộc cách mạng này và chuẩn bị những điều kiện tiền đề để đón nhận và

phát triển nó là nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay của toàn bộ hệ thống xã hội. Để

làm việc đó, cuốn sách và các tư tưởng của Klaus Schwab sẽ rất có ý nghĩa.

Tuy nhiên, cần tránh khuynh hướng tuyệt đối hóa cách mạng công nghiệp

4.0 hoặc rơi vào chủ nghĩa kĩ trị cực đoan, chỉ nhìn thấy tác động của cách mạng

công nghiệp lần thứ tư, tuyệt đối hóa nó, mà không thấy vai trò, ý nghĩa và giá

trị của các nhân tố khác như thể chế, con người, văn hóa, truyền thống, lịch sử,

v.v... Chúng ta đón nhận tác phẩm và các tư tưởng của Klaus Schwab về cách

mạng công nghiệp 4.0, nhưng việc vận dụng các tư tưởng đó cần phải sát hợp

với những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam. Điều

đó chính là điều kiện cần và đủ để nhận thức và vận dụng đúng đắn, xây dựng và

phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ, công nghiệp, phát triển nhanh và bền

vững đất nước.

Nói tóm lại, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là một vấn đề mới nhưng

đang thu hút sự quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt

Nam. Chúng ta đã bỏ lỡ ba cuộc cách mạng công nghiệp trước đó, đây có thể coi

là một cơ hội đặt ra cho Việt Nam một thách thức lớn. Vì vậy, ngay từ bây giờ,

chúng ta hãy chuẩn bị cho mình những gì tốt nhất để đón nhận làn sóng công

nghệ mới này.

KẾT LUẬN

Các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây không xảy ra “chỉ trong một

đêm”, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng vậy. Nhưng nó đang xảy ra và là bước

đi tất yếu của việc tự động hóa hơn nữa môi trường sản xuất. Giống như các

cuộc cách mạng trước đây, nó cũng sẽ tạo nên các sản phẩm phong phú hơn với

giá thành thấp hơn, đem lại lợi ích cho các bên liên quan.

Công nghệ kỹ thuật số đã và sẽ tiếp tục tác động đến ngành công nghiệp

sản xuất. Cácquốc gia trên thế giới đứng trước cơ hội có một không hai để

chuyển đổi hoặc bị bỏ lại phía sau. Những quốc gia bỏ qua cơ hội này có thể sẽ

bị loại khỏi thị trường. Những công ty biết tận dụng lợi thế của cuộc cách mạng

kỹ thuật số và chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp công nghiệp 4.0 nhiều khả

năng sẽ gặt hái quả ngọt.

Có ba lý do giải thích tại sao thời đại ngày nay không chỉ là cuộc cách

mạng công nghiệp 3.0 kéo dài mà còn chứng kiến sự xuất hiện của một cuộc

cách mạng công nghiệp 4.0 ưu việt, đó là tốc độ, phạm vi và sự tác động hệ

thống. Tốc độ của những đột phá ngày nay là chưa hề có tiền lệ. So sánh với các

cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cách mạng công nghiệp 4.0 này đang

phát triển với tốc độ ở cấp số nhân chứ không phải cấp số cộng. Hơn nữa, nó

đang làm biến đổi mọi nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu

của những thay đổi này tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất,

quản lý và quản trị.

Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 chúng ta sẽ đến với sự kết hợp

giữa thế giới thực, thế giới ảo và thế giới sinh vật. Những công nghệ mới này sẽ

gây ảnh hưởng to lớn đến mọi luật lệ, mọi nền kinh tế, mọi ngành công nghiệp,

đồng thời cũng thách thức ý niệm của chúng ta về vai trò thực sự của con người.

Những công nghệ này có tiềm năng kết nối hàng tỷ người trên thế giới, gia tăng

đáng kể hiệu quả hoạt động cho các tổ chức, doanh nghiệp, tái tạo các nguồn tài

nguyên thiên nhiên hay thậm chí là khôi phục lại những tổn thất mà các cuộc

cách mạng công nghiệp trước gây ra.

Tuy nhiên, cái gì cũng đi kèm với những rủi ro, Klaus Schwab đã chỉ ra

những mối lo ngại của ông về khả năng các tổ chức, doanh nghiệp có thể sẽ

chưa sẵn sàng đón nhận các công nghệ tối tân hay các chính phủ sẽ gặp khó

trong việc tuyển dụng người cũng như quản lý các công nghệ này một cách toàn

diện. Trong tác phẩm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, ông cũng đề cập đến

việc công nghệ mới sẽ dẫn đến những thay đổi về quyền lực, gây ra những lo

ngại về an ninh cũng như về khoảng cách giàu nghèo. Khoảng cách này có lẽ sẽ

chỉ bị nới rộng thêm nếu không được kiểm soát tốt. Chẳng hạn, khi robot và tự

động hóa lên ngôi, hàng triệu người sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp, đặc biệt là

những nhân công trong ngành vận tải, kế toán, môi giới bất động sản hay bảo

hiểm. Nhiều chuyên gia cho rằng cuộc cách mạng này sẽ có lợi cho tầng lớp

giàu hơn là người nghèo.

Có thể nói ở thời điểm hiện tại, các hệ thống chính trị, xã hội hay kinh

doanh của chúng ta chưa thực sự sẵn sàng đón nhận làn sóng chuyển đổi mà

cuộc cách mạng này sẽ mang lại, nhưng trong tương lai, những biến đổi sâu sắc

trong cơ cấu xã hội sẽ là điều tất yếu xảy ra. Klaus Schwab nhận định rằng:

“Những thay đổi này sẽ sâu sắc đến mức chưa bao giờ trong lịch sử lại có một

thời điểm con người đứng trước cùng lúc nhiều cơ hội lẫn rủi ro như thế. Mối

quan ngại của tôi là các lãnh đạo chính trị và kinh doanh có thể sẽ giữ lối tư duy

quá cổ hủ hoặc quá ám ảnh với việc các đột phá công nghệ sẽ thay đổi tương lai

loài người như thế nào.”

Để phát triển, lãnh đạo các tổ chức kinh doanh sẽ phải chủ động đưa tư

duy của mình thoát khỏi lối mòn với những ý tưởng, những hệ thống họ thậm

chí chưa bao giờ nghĩ tới. Họ cũng sẽ phải đặt câu hỏi về mọi thứ, từ việc suy

nghĩ lại các chiến lược, các mô hình kinh doanh cho đến các quyết định đầu tư

vào đào tạo nhân lực hay các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Tương lai đang

dần hình thành ngay trước mắt chúng ta, và con người sẽ phải học cách đón

nhận, thích ứng với những bước tiến đang đến gần như vũ bão này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chu Ngọc Anh (2017), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và

thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam, Tạp chí

Cộng sản, http://www.tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 18/02/2019.

2. Nguyễn Tuấn Anh (2018), Đào tạo nhân lực chất lượng cao để phục vụ

công nghiệp 4.0, Tạp chí Nhân quyền, số 02/2018, tr.54-57.

3. Erik Brynjolfsson and Andrew McAfee (2014): The Second Machine Age:

Work, Progress, and Prosperity in a Time of Brilliant Technologies,

W.W.Noton & Company, 2014.

4. Đặng Quốc Bảo - Lê Thị Phương Hồng (2017), Xây dựng xã hội học tập

trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Tạp chí Giáo dục, số

412, tr.1-3.

5. Nguyễn Văn Bình (chủ biên) (2017), Việt Nam với cuộc cách mạng công

nghiệp lần thứ tư, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, 435tr.

6. Phan Xuân Dũng (2018), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư – Cách mạng

của sự hội tụ và tiết kiệm, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, 248tr.

7. Trọng Đạt (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ giúp Việt Nam phát

triển nhảy vọt, Báo Vietnamnet, https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/tin-

cong-nghe/cach-mang-cong-nghiep-4-0-se-giup-viet-nam-phat-trien-

nhay-vot-462803.html?fbclid=IwAR2fgjkB-

XRXxcXd33fgrIVb7UwzbSiY5r YG3jNsK1exy AYI0i8 OmB_BTRM,

truy cập ngày 16/03/2019.

8. Lương Đình Hải (2017), Tác động của cách mạng khoa học - công nghệ

đến nền sản xuất xã hội trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu

Con người, số 6, năm 2017.

9. Lương Đình Hải (2017), Cách mạng khoa học - công nghệ và tác động

của nó đến con người và xã hội Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Con người,

số 5, năm 2017.

10. Lương Đình Hải (2018), Các lý luận hiện đại về sự phát triển xã hội trong

thời đại cách mạng khoa học - công nghệ, Kỷ yếu Đại hội Triết học Thế

giới lần thứ 24, 08/2018, Bắc Kinh - Trung Quốc.

11. Lương Đình Hải (2018), Cách mạng khoa học công nghệ và sự phát triển

con người Việt Nam nhìn từ góc độ sức khỏe, Tạp chí Nghiên cứu Con

người, số 5-2018.

12. Lương Đình Hải (2018), Công bằng xã hội trong bối cảnh cách mạng

khoa học - công nghệ ở Việt Nam hiện nay. - Trong sách “Tư tưởng của

C.Mác về công bằng xã hội với dân chủ và ý nghĩa hiện thời của nó”,

Nxb. Khoa học Xã hội, năm 2018.

13. Lương Đình Hải (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự phát triển kinh tế -

xã hội, con người Việt Nam hiện nay , http://webcache.googleusercon tent.

com/search?q=cache:lagdsvf1nnAJ:www.haiphong.gov.vn/PortalFolders/

ImageUploads/SKHCN/12/Cong%2520nghiep%25204.0/CMCN%25204.

0%2520PTKTXH%2520v%25C3%25A0%2520con%2520ng%25C6%25

B0%25E1%25BB%259Di%2520VN.pdf+&cd=1&hl=vi&ct=clnk&gl=vn

, truy cập ngày 18/04/2019.

14. Lương Đình Hải (2018), Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong bối

cảnh cách mạng KHCN và cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. - Trong

sách “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia tại Học viện

Ngân hàng, 06/2018, Nxb. Lao động - Xã hội, 2018.

15. Lương Đình Hải (2018), Cách mạng khoa học công nghệ với giáo dục,

đào tạo và phát triển nhân lực ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu

Con người, số 6-2018.

16. Minh Hạnh (2018), Cuộc cách mạng công nghệ tác động ngày càng rõ

tớikinh tế Việt Nam, Báo Lao động, https://laodong.vn/cong-nghe/cuoc-

cach-mang-cong-nghe-tac-dong-ngay-cang-ro-toi-kinh-te-viet-nam-

619770.ldo?fbclid=IwA R0

fkyH06w1XjFnSMkZtMs2h5HGroeU4JJRtxcCHxjgATUQ-2o3-

ccqqG74, truy cập ngày 20/03/2019.

17. Văn Hào (2018), Nội dung cuốn sách “Cách mạng công nghiệp lần thứ

tư” của tác giả Klaus Schwab, Tạp chí Thể thao và văn hóa,

https://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/noi-dung-cuon-sach-cuoc-cach-mang-

cong-nghiep-lan-thu-tu-cua-tac-gia-klaus-schwab-

n20180920124203254.htm, truy cập ngày 18/02/2019.

18. Đỗ Thu Hằng (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0 – cơ hội và thách thức

cho phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam, Tạp chí Nhân lực Khoa học

xã hội, số 09 (64)/2018, tr.66-75.

19. Trần Thị Vân Hoa (2017), Cách mạng công nghiệp 4.0 – Vấn đề đặt ra

cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập của Việt Nam, Nxb. Chính trị

Quốc gia Sự thật, 360tr.

20. Nguyễn Hữu Hồi (2019), Đào tạo nguồn nhân lực thông tin trong cách mạng

công nghiệp 4.0, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 416, 02/2019, tr.15-18.

21. Thúy Hiền (2018), Ứng dụng cách mạng công nghiệp 4.0 vào sản xuất nông

nghiệp, Báo BNEWS, https://bnews.vn/ung-dung-cach-mang-cong-nghiep-4-

0-vao-san-xuat-nong-nghiep/101689.html, truy cập ngày 16/03 /2019.

22. Nguyễn Việt Hùng (2018), Một số chuyển dịch trong giáo dục trực tuyến thời

đại công nghệ 4.0, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 274 (11/2018), tr.93-97.

23. Amir Husain (2019), Cỗ máy tri giác – Kỷ nguyên của trí tuệ thông minh

nhân tạo, Nxb. Công thương, 330tr.

24. Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Đào tạo trực tuyến trong thời kì cách

mạng công nghiệp 4.0, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2017.

25. Kỷ yếu Diễn đàn Cấp cao: Cách mạng công nghiệp 4.0, http://www.i40summit.vn.

26. Nguyễn Trung Kiên (2018), Cách mạng 4.0 ở Việt Nam là một cuộc cách

mạng chạy theo các yếu tố tích cực trên thế giới, Báo Viettimes,

https://viet times.vn/cach-mang-40-o-viet-nam-la-mot-cuoc-cach-mang-

chay-theo-cac-yeu-to-tich-cuc-tren-the-gioi-303645.html, truy cậpngày

20/03/2019.

27. Tiểu Liên, Đại học ảo – “cuộc cách mạng” mới bắt đầu, Tạp chí Cộng

sản, số 243, 22/11/2012, tr.35-37.

28. Nguyễn Mại (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0 với Việt Nam, Báo Đầu

Tư, https://baodautu.vn/cach-mang-cong-nghiep-40-voi-viet-nam-

d77369.h

tml?fbclid=IwAR3dGf3uITGiKJKj14fZgfLLJjyxuSc5Y1L3sYT23rxGE2

CJ6S0JYOXUdBE, truy cập ngày 20/03/2019.

29. Nhật Minh (2018), Đưa Việt Nam bắt kịp cuộc cách mạng công

nghiệp4.0, Báo Nhân dân Điện tử,

http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/iem/3 7416802-dua-viet-nam-bat-

kip-cuoc-cach-mang-cong-nghiep4.0.html?fbclid\=Iw

AR17d4f4IXW4M83MHjBFksFq8ECpqZxBcsO5I773BhTGqqYHMxQ

YzhiMzA, truy cập ngày 20/03/2019.

30. Nhật Minh (2018), Ứng dụng công nghệ rô-bốt trong cách mạng công

nghiệp 4.0, Báo điện tử Nhân dân, http:// www.nhandan.com.vn

/congnghe/ item/3 7619802-ung-dung-cong-nghe-ro-bot-trong-cach-

mang-cong-nghiep-4-0.html?fbc

lid=IwAR0svP1oB6u7cT6EeEer22hGHTBf-

iesOycDX5PZ5FCKDt4LMl5q9wq Tc1I, truy cập ngày 15/02/2019.

31. Nguyễn Danh Ngà – Quách Ngọc Dũng, Đầu tư cho văn hóa trong thời kỳ

cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 416, 02/2019,

tr.11-15.

32. Hà Minh Quang, Để không bị “đồng hóa” trước tác động của cách mạng

công nghiệp 4.0, Tạp chí Nhân quyền, số 2/2018, tr.21-24.

33. Anh Quyền (2018), Ứng dụng tốt thành tựu của CMCN 4.0, Việt Nam sẽ

trở thành một cường quốc về nông nghiệp, Báo Kinh tế và Dự báo,

http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/91-12235-ung-dung-tot-thanh-tuu-cua-

cmcn-4-0-viet-nam-se-tro-thanh-1-cuong-quoc-ve-nong-nghiep.html?fbcli

d=IwAR02QyU-

qaKzyNmLREozyQChcz2pteJO7EV345II7oL4cRrsMc126ab2vs, truy

cập ngày 20/03/2019.

34. Klaus Schwab (2018), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb. Chính trị

Quốc gia Sự thật, 279tr.

35. Phan Chí Thành (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0 - xu thế phát triển

của giáo dục trực tuyến, Tạp chí Giáo dục, số 421, tr.43-46.

36. Nguyễn Thị Thanh Tùng - Ngô Văn Tuấn (2018),Đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng

công nghiệp 4.0, Tạp chí Giáo dục, số 426, tr.1-4.

37. Nguyễn Văn Trung – Phan Thị Kim Phương (2018), Chất lượng nguồn

nhân lực trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Quản lý nhà

nước, Học Viện Hành Chính Quốc Gia, số 273 (10/2018), tr.44-48.

38. Trịnh Anh Tuấn, Các Mác và thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp

chí Văn hóa nghệ thuật, số 407, 05/2018, tr.110-113.

39. Nguyễn Thị Vân (2017), Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư

đến phát triển kinh tế, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 399, tr.3-7.