BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------
PHẠM THANH NGA
CHẾ ĐỘ SỞ HỮU ĐỐI VỚI TÀI NGUYÊN RỪNG
Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHẾ ĐỘ SỞ HỮU ĐỐI VỚI TÀI NGUYÊN RỪNG
Ở VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM THANH NGA
Khóa: 36
MSSV: 1155010223
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN THỊ NGỌC LAN
TS. PHẠM VĂN VÕ (hỗ trợ)
TP HỒ CHÍ MINH – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc Lan,
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2015
Tác giả
Phạm Thanh Nga
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
Bộ NNPTNN Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Luật BVPTR Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004
RĐD Rừng đặc dụng
RPH Rừng phòng hộ
RSX Rừng sản xuất
UBND Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU ĐỐI VỚI TÀI NGUYÊN
RỪNG Ở VIỆT NAM ............................................................................................... 4
1.1 Một số khái niệm ............................................................................................ 4
1.1.1 Khái niệm rừng và tài nguyên rừng .......................................................... 4
1.1.2 Khái niệm chủ rừng ................................................................................... 8
1.2 Cơ sở xác lập chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam
.............................................................................................................................. 9
1.2.1 Cơ sở lý luận ............................................................................................... 9
1.2.2 Cơ sở pháp lý ............................................................................................ 11
1.3 Đặc trưng của chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở Việt
Nam .................................................................................................................... 14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1. ....................................................................................... 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUYỀN SỞ HỮU RỪNG Ở VIỆT NAM ......... 20
2.1 Hình thức sở hữu tư nhân đối với rừng sản xuất là rừng trồng ............... 20
2.1.1. Cơ sở xác lập .......................................................................................... 20
2.1.2. Phương thức thực hiện quyền sở hữu tư nhân đối với RSX là rừng
trồng ............................................................................................................ 21
2.1.3. Thực trạng quyền sở hữu tư nhân đối với RSX là rừng trồng ............. 24
2.2 Hình thức sở hữu Nhà nước đối với rừng ................................................... 26
2.2.1 Cơ sở xác lập ............................................................................................ 26
2.2.2 Các phương thức điều phối rừng của Nhà nước ................................... 27
2.2.3 Thực trạng thực hiện quyền sử dụng rừng ở Việt Nam ........................ 35
2.3 Hướng hoàn thiện pháp luật về sở hữu rừng ở Việt Nam ......................... 40
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2. ....................................................................................... 45
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 46
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với vai trò là một bộ phận quan trọng của tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên
rừng được xem là cái nôi nuôi dưỡng sự sống trên Trái Đất đồng thời là nguồn lực
phát triển kinh tế tài chính vững mạnh, góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh tổng
hợp cho một quốc gia. Tầm ảnh hưởng của tài nguyên rừng không chỉ đối với từng
cộng đồng, từng quốc gia riêng lẻ mà nó còn có ý nghĩa trên phạm vi toàn thế giới.
Để bảo vệ tốt nguồn tài nguyên này, Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú trọng đến
việc xây dựng hệ thống pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp nhằm thiết lập hệ thống
các cơ quan quản lý chuyên ngành từ trung ương đến địa phương - một trong những
công cụ hữu hiệu thay mặt Nhà nước thực thi các quy định của pháp luật vào thực tế
quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng. Và đề thực hiện thống nhất trên toàn quốc một
cơ chế quản lý, từ Hiến pháp 1980 trở đi, Nhà nước ta chỉ công nhận duy nhất một
chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng, đó là chế độ sở hữu toàn dân. Qua một quá
trình phát triển cho đến nay, chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng vẫn
khẳng định được tính tất yếu phù hợp của nó, đương nhiên, về mặt nội hàm phải có
ít nhiều thay đổi để thích ứng với tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội điển hình của
giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Lựa chọn nghiên cứu đề tài chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam,
tác giả mong muốn khẳng định lại một lần nữa về sự cần thiết của chế độ sở hữu
toàn dân đối với tài nguyên rừng với vai trò chủ đạo của hình thức sở hữu Nhà nước
trong khâu quản lý và bảo vệ rừng, cùng với đó là đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật về
sở hữu tài nguyên rừng ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế độ sở hữu toàn dân ở Việt Nam nói chung là một vấn đề thu hút được rất
nhiều sự chú ý của các nhà học giả, các nhà khoa học. Tuy nhiên, số lượng đề tài
nghiên cứu chuyên sâu về chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng nói riêng chưa
thực sự đáng chú ý. Qua tìm hiểu, có một số bài viết và công trình có đề cập trực
tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề sở hữu tài nguyên rừng ở Việt Nam đáng quan tâm
như sau:
Trên các tạp chí khoa học:
Hoàng Huy Tuấn (2013), "Sự phân quyền và quyền sở hữu trong quản lý tài
nguyên thiên nhiên: Tiếp cận lý thuyết và bối cảnh hóa trong quản lý rừng ở Việt
Nam", Tạp chí Khoa học lâm nghiệp, số 1/2013, tr.2657-2669.
Vũ Long (2005), "Về quyền sở hữu rừng tự nhiên" đăng trên website của
1
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam.
Nguyễn Đại Anh Tuấn – Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Thừa thiên
Huế (2014), "Xã hội hóa quản lý tài nguyên rừng – bài toán dang dở" đăng trên
website của Trung tâm Con người và Thiên nhiên.
Báo cáo khoa học:
Tô Xuân Phúc & Trần Hữu Nghị (2014), Giao đất giao rừng trong bối cảnh
tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao,
Huế.
Luận văn:
Nguyễn Thị Thu Trang (2012), Phân quyền sở hữu tài sản trong giao rừng
cho cộng đồng ở Tây Nguyên, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, trường đại học Kinh tế
Tp.Hồ Chí Minh.
Sách chuyên khảo:
Nguyễn Thanh Huyền (2013), Pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Các bài viết, đề tài nghiên cứu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu một phần nội
dung của cơ chế sở hữu tài nguyên rừng ở Việt Nam, chưa khái quát cụ thể chế độ
sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng cũng như cách thức vận hành quyền sở hữu
rừng với hai hình thức sở hữu theo quy định của pháp luật hiện hành. Chính vì vậy,
tác giả đã chọn nghiên cứu làm rõ về chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt
Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam nhằm làm sáng tỏ
bản chất của chế độ sở hữu toàn dân đối với với tài nguyên rừng đồng thời nghiên
cứu nội dung cách thức thực hiện quyền sở hữu rừng ở Việt Nam theo pháp luật về
bảo vệ và phát triển rừng từ đó đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về sở hữu rừng ở
nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu mà đề tài muốn hướng đến đó chính là chế độ sở
hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam, cụ thể hơn đó là các quy định pháp lý về
chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam với hai hình thức sở
hữu: sở hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tìm hiểu cơ chế sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam thông qua
2
việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành như Hiến pháp 2013, Luật
Bảo vệ và phát triển rừng 2004, Bộ luật dân sự 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
và các văn bản pháp luật của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
các ban ngành liên quan đến lĩnh vực lâm nghiệp…
Bên cạnh đó, để phục vụ cho công tác nghiên cứu, tác giả cũng tham khảo các
văn bản, tài liệu liên quan của nhiều tác giả, nhà nghiên cứu hoặc tổ chức khác có
công trình nghiên cứu hoặc báo cáo chuyên môn trong lĩnh vực lâm nghiệp về các
hình thức sở hữu rừng, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp phân tích, tổng hợp và
phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: đây là phương pháp được sử dụng xuyên
suốt đề tài nhằm tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về chế độ sở hữu cũng
như phương thức thực hiện quyền sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam, phân
tích cách thức thực hiện mô hình sở hữu đối với tài nguyên rừng từ đó chỉ ra các ưu
điểm và nhược điểm của pháp luật Việt Nam về quản lý và bảo vệ rừng.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: tác giả thu thập nhiều tài liệu trong và
ngoài nước từ sách tham khảo, mạng điện tử, tạp chí,… để nghiên cứu nhằm đưa ra
các cơ sở lý luận vững chắc, xác thực cho đề tài.
Ngoài ra, tác giả cũng kết hợp với nhiều phương pháp khác để đạt được hiệu
quả cao cho cho đề tài nghiên cứu như phương pháp so sánh, so sánh giữa quy định
về sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam với mô hình sở hữu tài nguyên rừng
của một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm hướng tới
hoàn thiện hơn chế độ sở hữu và phương thức quản lý và bảo vệ hiệu quả nguồn tài
nguyên này ở nước ta. Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch
sử duy vật Mac – Lênin để nghiên cứu cơ sở hình thành cũng như pháp luật về chế
độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam song song với việc kết hợp các
phương pháp nghiên cứu phân tích số liệu thực tế, xây dựng giả thuyết… để rút ra
kết luận nhằm làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Bên cạnh Phần mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của đề tài được cấu trúc thành hai chương bao gồm:
Chương 1: Khái quát về chế độ sở hữu tài nguyên rừng ở Việt Nam
3
Chương 2: Thực trạng quyền sở hữu rừng ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TÀI NGUYÊN RỪNG
Ở VIỆT NAM
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm rừng và tài nguyên rừng
1.1.1.1 Khái niệm rừng
Theo tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc ( FAO):
Rừng là một khu vực đất đai có diện tích lớn hơn 0,5 ha với độ che phủ của
tán rừng trên 10%, độ cao trung bình tối thiểu của cây phải đạt 5m, rừng bao
gồm rừng tự nhiên và rừng trồng1.
Khái niệm này được kết hợp từ các yếu tố như mật độ cây, chiều cao của cây,
cách thức sử dụng đất rừng và chức năng sinh thái để đưa ra một khái niệm về rừng
thiên về liệt kê các đặc trưng của rừng để dễ dàng xác định một diện tích cây cối có
phải là rừng trên thực tế hay không.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (Luật BVPTR)
của Việt Nam thì "Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động
vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ,
tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng
từ 0,1 trở lên.". Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì rừng được xác
định dựa theo ba tiêu chí2:
(1) Là một hệ sinh thái với thành phần chính là các cây lâu năm thân gỗ, cau
dừa, tre nứa có chiều cao trung bình từ 5m trở lên (trường hợp rừng mới
trồng hoặc rừng ngập mặn ven biển độ cao của cây được quy định thấp
hơn nhưng phải đảm bảo mật độ 1000 cây/ha trở lên), đủ khả năng cung
cấp lâm sản, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học.
(2) Độ tàn che của tán cây (độ che phủ của tán rừng) là thành phần chính của
rừng phải từ 0,1 trở lên. Độ che phủ của tán rừng được hiểu là mức độ
che kín của tán cây rừng đối với đất rừng, được biểu thị bằng tỷ lệ phần
mười giữa diện tích đất rừng bị tán cây rừng che bóng và diện tích đất
rừng3.
(3) Diện tích rừng liền khoảnh tối thiểu từ 0,5 ha trở lên hoặc là dải rừng có
chiều rộng tối thiểu 20 mét và có từ 3 hàng cây trở lên. Với những hệ
1 http://www.fao.org/docrep/005/y4171e/y4171e10.htm, truy cập ngày 03/6/2015
2 Điều 3 thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ
NNPTNT) ngày 10/6/2009 quy định tiêu chí xác định và phân loại rừng (TT 34/2009/TT-BNNPTNT)
3 Khoản 2 Điều 3 Luật BVPTR
4
sinh thái nông nghiệp, diện tích nuôi trồng thủy sản có cây lâu năm là cây
thân gỗ, tre nứa, cau dừa, khu vực có cây cối nhưng không thuộc một
trong hai trường hợp kể trên không được coi là rừng mà chỉ là cây phân
tán.
Bên cạnh những điểm tương đồng giữa khái niệm rừng của Việt Nam với khái
niệm rừng của FAO về quy định độ che phủ của tán rừng đều phải từ 0.1 (10%) trở
lên, độ cao trung bình của cây rừng hay diện tích tối thiểu một khu rừng phải đạt
được, pháp luật Việt Nam quy định cụ thể hơn về các yếu tố cấu thành rừng (thành
phần thực vật chính trong rừng là gì, mật độ cây bao nhiêu, diện tích đất là đất rừng
phải liền mảnh…) và bao quát hơn khi xác định những diện tích tuy không đảm bảo
điều kiện cơ bản về độ che phủ hay diện tích tối thiểu 0,5 ha nhưng là rừng vì xét
đến sự phát triển của chúng trong tương lai (rừng mới trồng, dải cây rừng), đặc
trưng sinh học của từng loài thực vật (ví dụ như rừng ngập mặn ven biển thường chỉ
có độ cao trung bình 3m). Khái niệm về rừng theo pháp luật Việt Nam không chỉ
đưa ra định nghĩa rõ ràng về rừng mà còn là cơ sở để phân biệt rừng với những diện
tích có thực vật khác, không phải rừng.
Về phân loại rừng, Luật BVPTR căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu để chia
rừng thành 3 loại: rừng phòng hộ (RPH), rừng đặc dụng (RĐD) và rừng sản xuất
(RSX). Đồng thời, kết hợp với nguồn gốc hình thành thì ba loại rừng này có thể là
rừng tự nhiên hoặc rừng trồng. Theo đó4:
Rừng phòng hộ: là rừng được xây dựng và phát triển cho mục đích bảo vệ và
điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn đất, hạn chế thiên tai, điều hòa khí
hậu, bảo đảm cân bằng sinh thái và an ninh môi trường. RPH bao gồm 4 loại là
RPH đầu nguồn; RPH chắn gió, chắn cát bay; RPH chắn sóng, lấn biển; RPH bảo
vệ môi trường.
Rừng đặc dụng: được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ
sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ
di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, phục vụ nghỉ ngơi du lịch, kết hợp
phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường. RĐD bao gồm: vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học.
Rừng sản xuất: là rừng được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, các
lâm sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường. RSX bao gồm RSX là
rừng trồng, RSX là rừng tự nhiên và rừng giống.
Để phục vụ cho công tác điều tra, kiểm kê, thống kê rừng, quy họach bảo vệ và
phát triển rừng, quản lý tài nguyên rừng và xây dựng các chương trình, dự án lâm
4 Điều 4 Luật BVPTR
5
nghiệp ngày 10/6/2009, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông (Bộ NNPTNT)
đã ban hành Thông tư 34/2009/TT-BNNPTNT quy định tiêu chí xác định và phân
loại rừng (TT 34/2009/TT-BNNPTNT). Theo đó, ngoài tiêu chí mục đích sử dụng,
rừng còn có thể được phân loại căn cứ vào nguồn gốc hình thành, trữ lượng, loài
cây hoặc điều kiện lập địa5. Theo tiêu chí điều kiện lập địa, rừng ở nước ta bao gồm
rừng núi đất, rừng núi đá, rừng ngập nước, rừng trên đất cát. Theo tiêu chí loài cây
có rừng gỗ, rừng tre nứa, rừng cau dừa, rừng hỗn giao gỗ và tre nứa. Dựa vào trữ
lượng, phân biệt được đâu là rừng rất giàu, rừng giàu, rừng trung bình, rừng nghèo,
rừng chưa có trữ lượng. Nếu căn cứ vào nguồn gốc hình thành, rừng được chia làm
hai loại6:
Rừng tự nhiên: là rừng có sẵn trong tự nhiên hoặc phục hồi bằng tái sinh tự
nhiên.
Rừng trồng: là rừng được hình thành do con người trồng.
Theo số liệu thống kê được công bố gần đây nhất cho thấy7, tính đến hết năm
2013 Việt Nam có khoảng 13,95 triệu ha rừng. Trong đó, rừng tự nhiên chiếm
khoảng 10,4 triệu ha, còn lại là rừng trồng (3,55 triệu ha). Nếu phân theo chức năng,
khoảng 2,1 triệu ha là diện tích RĐD, khoảng 4,67 triệu ha là RPH và RSX chiếm
diện tích 7,18 triệu ha.Trong tổng số 10,4 triệu ha rừng tự nhiên, RPH và RĐD
chiếm 57,6%, còn lại (42,4%) là RSX. Đến nay, cả nước có khoảng 3,55 triệu ha
rừng trồng, trong đó diện tích rừng trồng là RSX khoảng 2,65 triệu ha (74,65%
trong tổng diện tích rừng trồng); phần còn lại (25,35%) là diện tích rừng trồng là
RPH và RĐD. Trong những năm gần đây, diện tích rừng trồng tăng tương đối
nhanh, với tốc độ khoảng 150.000 – 200.000 ha/năm8. Điều này là cơ sở để tăng trữ
lượng và chất lượng rừng trong tương lai cho nước ta.
Mặc dù có nhiều tiêu chí để phân chia rừng nhưng khi nghiên cứu về chế độ sở
hữu đối với tài nguyên rừng, chúng ta quan tâm tới các loại rừng được phân loại
căn cứ vào hai tiêu chí, đó là nguồn gốc hình thành và mục đích sử dụng. Bởi lẽ, các
hoạt động quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng của Nhà nước như xác lập các khu
rừng, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển rừng, giao rừng, cho thuê rừng đều dựa
trên kết quả phân loại rừng là RPH, RĐD hay RSX. Nhà nước quyết định giao rừng,
cho thuê rừng cho chủ thể phù hợp cũng căn cứ vào mục đích sử dụng của từng loại
rừng, hơn nữa là cơ sở để xem xét công nhận quyền sử dụng rừng và quyền sở hữu
5 Chương II TT 34/2009/TT-BNNPTNT
6 Điều 5 TT 34/2009/TT-BNNPTNT
7 Quyết định 3322/QĐ-BNN-TCLN của Bộ trưởng Bộ NNPTNT ngày 28 tháng 7 năm 2014 công bố
hiện trạng rừng toàn quốc năm 2013 (QĐ 3322/QĐ-BNN-TCLN)
8 Tô Xuân Phúc & Trần Hữu nghị (2014), Báo cáo giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành
lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao, Huế, tr.12
6
RSX là rừng trồng. Ngoài ra, phân loại rừng thành RPH, RĐD, RSX sẽ thuận tiện
cho việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của từng loại chủ rừng đối với mỗi
loại rừng nhất định. Có thể thấy nguồn gốc hình thành và mục đích sử dụng của
từng loại rừng quyết định hình thức sở hữu đối với khu rừng đó có thể là hình thức
sở hữu nào và phương thức thực hiện các quyền sở hữu của chủ sở hữu rừng.
1.1.1.2 Khái niệm tài nguyên rừng
Tài nguyên rừng là một loại tài nguyên thiên nhiên hữu hạn có khả năng tái tạo
được bao gồm thực vật rừng, động vật rừng và những yếu tố tự nhiên có liên quan
đến rừng (cảnh quan rừng, vi sinh vật, thổ nhưỡng…)9.
Như đã đề cập, tài nguyên rừng được cấu thành từ nhiều thành phần tự nhiên vô
cùng phong phú, đa dạng. Trong đó có hàng triệu loài động vật, thực vật và vi sinh
vật, mà đời sống của chúng đều liên quan chặt chẽ với nhau, tạo thành quần xã đa
dạng sinh học. Không giống như không khí, gió hay năng lượng mặt trời là những
nguồn tài nguyên vô hạn, tài nguyên rừng có giới hạn nhất định về trữ lượng, sẽ
giảm dần cùng với hoạt động khai thác, sử dụng của con người. Tuy nhiên, rừng lại
là loại tài nguyên có thể tái tạo, phục hồi, thậm chí nâng cao chất lượng và trữ lượng
thông qua quá trình tái sinh tự nhiên hoặc do con người gây trồng lại nếu như nhận
được sự quản lý và bảo tồn hợp lý.
Như chúng ta đã biết, tài nguyên rừng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
cuộc sống con người. Trước hết, hệ sinh thái rừng cung cấp lâm sản (gỗ và lâm sản
ngoài gỗ) phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư trong xã hội; là
nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, các ngành xây dựng cơ
bản; cung cấp dược liệu quý phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho
con người; cung cấp lương thực, nguyên liệu chế biến thực phẩm.... Tài nguyên
rừng, đặc biệt là rừng, góp phần điều hòa dòng chảy, chống xói mòn rửa trôi thoái
hóa đất, chống bồi đắp sông ngòi, hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn hán, giữ
gìn được nguồn thủy năng lớn cho các nhà máy thủy điện, làm sạch không khí, điều
hòa khí hậu. Ngoài ra, rừng còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa
học, đặc biệt là nơi dự trữ sinh quyển bảo tồn các nguồn gen quý hiếm. Như vậy, tài
nguyên rừng có giá trị to lớn với sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia, góp phần cân
bằng sinh thái và bảo vệ môi trường.
9 Nguyễn Thanh Huyền (2013), Pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, tr.14
10 Số liệu tính toán sử dụng thông tin từ The World Factbook 2011,
https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html, truy cập ngày 8/7/2015
7
So với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có diện
tích rừng lớn, xếp thứ 45 trên 192 quốc gia và vùng lãnh thổ10. Do đó, tiềm năng
khai thác và phát triển nguồn tài nguyên rừng ở nước ta là rất lớn. Sau các chiến
lược phát triển lâm nghiệp qua các giai đoạn, hiện nay độ che phủ rừng đã đạt
40%11, trữ lượng gỗ - một trong các nguồn tài nguyên rừng quan trọng hàng đầu là
813,3 triệu m3 (rừng tự nhiên chiếm 94%, rừng trồng 6%) và khoảng 8,5 tỷ cây tre,
nứa. Trữ lượng gỗ bình quân của rừng tự nhiên là 76,5 m3/ha và rừng trồng là 40,6
m3/ha. Gỗ tập trung chủ yếu ở 3 vùng là Tây Nguyên chiếm 33,8%, Bắc Trung Bộ
23% và Nam Trung Bộ 17,4% tổng trữ lượng12. Về đa dạng sinh học của rừng, Việt
Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông nam Á giàu về đa dạng
sinh học với hệ thực vật rừng phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã thống kê
được 10.484 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 800 loài rêu và 600 loài nấm.
Theo dự đoán của các nhà thực vật học số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất sẽ
lên đến 12000 loài, trong đó có khoảng 2300 loài đã được người dân dùng làm
nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh
dầu và nhiều nguyên vật liệu khác. Cũng như thực vật, giới động vật rừng Việt Nam
không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho
vùng Đông Nam Á với 275 loài thú, 828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái,
trong đó hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu có
giá trị thực tiễn cao13.
1.1.2 Khái niệm chủ rừng
Chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng, cho thuê
rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng, công nhận quyền sử
dụng rừng, công nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; nhận
chuyển nhượng rừng từ chủ rừng khác14.
Theo quy định của pháp luật, chủ rừng bao gồm 7 nhóm đối tượng, đó là15:
Ban quản lý RPH, Ban quản lý RĐD
Hộ gia đình, cá nhân trong nước
Tổ chức kinh tế
Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
Đơn vị vũ trang nhân dân
Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo, dạy nghề về
11 QĐ 3322/QĐ-BNN-TCLN
12 Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt Chiến lược
phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 (QĐ 18/2007/QĐ-TTg )
13 Phùng Mỹ Trung, "Bạn biết gì về đa dạng sinh học của rừng Việt Nam?",
http://www.vncreatures.net/event06.php, truy cập ngày 8/7/2015
14 Khoản 4 Điều 3 Luật BVPTR
15 Điều 5 Luật BVPTR
8
lâm nghiệp.
Có thể thấy Nhà nước khuyến khích các tổ chức kinh tế, hộ gia đình và cá nhân
tiếp cận khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên rừng khi quy định các nhóm chủ
rừng bao gồm nhiều thành phần trong xã hội, không hạn chế chủ rừng trong nước
hay nước ngoài và không quy định các cơ quan quản lý Nhà nước là một trong
những đối tượng chủ rừng.
Về nguyên tắc, Nhà nước (đại diện cho toàn dân) sẽ đóng vai trò là chủ sở hữu
tuyệt đối đối với rừng. Bên cạnh đó còn có các đối tượng được Nhà nước công nhận
quyền sở hữu đối với RSX là rừng trồng – chủ sở hữu tương đối đối với rừng. Theo
đó, khái niệm “chủ rừng” quy định tại Điều 3 Luật BVPRT bao gồm cả hai đối
tượng là người có quyền sở hữu tương đối đối với RSX là rừng trồng và người
không có quyền sở hữu rừng mà chỉ được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, giao
đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
rừng từ chủ rừng khác. Như vậy khái niệm “chủ rừng” và “chủ sở hữu rừng” không
đồng nhất với nhau.
Mỗi loại chủ rừng có những đặc điểm riêng, quyền lợi và nghĩa vụ riêng phụ
thuộc vào loại rừng mà họ được giao hoặc được thuê theo quy định của Luật
BVPTR. Điều kiện để trở thành chủ rừng đối với mỗi loại đối tượng chủ thể cũng
có nhiều điểm không giống nhau nhưng trước hết họ phải thuộc một trong các nhóm
đối tượng được nêu như trên (trừ Ban quản lý RPH, RĐD được thành lập sau khi
giao RPH, RĐD); tiếp theo họ phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét,
cấp quyết định giao rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho thuê đất để trồng rừng căn cứ
trên dự án đầu tư về lâm nghiệp được phê duyệt theo pháp luật về đầu tư (đối với tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài), khu vực sinh
sống tại địa phương có rừng (thường áp dụng đối với hộ gia đình, cá nhân) hoặc nhu
cầu sử dụng vào mục đích kinh doanh (đối với tổ chức kinh tế), nghiên cứu (đối với
tổ chức nghiên cứu khoa học), lí do an ninh – quốc phòng (đối với đơn vị vũ trang
nhân dân). Khi hoàn thành các thủ tục cần thiết họ sẽ trở thành chủ rừng và được
công nhận quyền sử dụng rừng hoặc quyền sở hữu RSX là rừng trồng.
1.2 Cơ sở xác lập chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam
1.2.1 Cơ sở lý luận
Rừng là tài nguyên quý báu của mỗi quốc gia nói riêng và của thế giới nói
chung, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, có giá trị to lớn, đặc biệt đối
với nền kinh tế. Rừng chứa đựng ít nhất 80% đa dạng sinh học của thế giới, đóng
góp vào đời sống của hơn 1,6 tỷ người. Rừng và các lâm sản từ rừng là một nguồn
tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm chính thức và không chính thức cho
9
khoảng 50 triệu người. Giá trị sản phẩm rừng được giao dịch trên toàn cầu đạt 270
tỷ đôla Mỹ. Trong số đó, rừng của các nước đang phát triển chiếm trên 20%16. Với
một đất nước nhiều đồi núi như Việt Nam, vai trò của rừng hiện diện không chỉ
trong lĩnh vực kinh tế (ngành lâm nghiệp đóng góp 5,9% vào cơ cấu GDP năm 2013
và có khuynh hướng ngày càng tăng17) mà còn trong cuộc sống hàng ngày, đời sống
văn hóa, tâm linh. Không giống như tài nguyên khoáng sản, rừng là nguồn tài
nguyên có khả năng tái tạo được đồng thời cũng là đối tượng thường xuyên chịu tác
động tiêu cực từ phía con người. Theo kết quả điều tra của Quỹ Quốc tế Bảo vệ
thiên nhiên (WWF), mỗi năm có khoảng 119,6 triệu ha đến 149 triệu ha rừng trên
toàn thế giới bị tàn phá18, nếu làm một phép tính nhỏ với 4 tỉ ha rừng toàn cầu hiện
nay thì chỉ trong vòng chưa đầy 40 năm nữa rừng sẽ hoàn toàn bị xóa sổ và kéo theo
đó là hàng loạt các hệ lụy biến đổi khí hậu, ô nhiễm, nghèo đói, dịch bệnh. Hơn
nữa, chúng ta đều biết, tốc độ khôi phục rừng luôn luôn chậm hơn tốc độ suy thoái
rừng, một khi khai thác cạn kiệt nguồn rừng tự nhiên thì cơ hội hồi phục hầu như
không có.
Để quản lý, bảo vệ và phát triển tốt nguồn tài nguyên rừng các quốc gia đặc biệt
quan tâm đến vấn đề sở hữu đối với rừng được thể hiện dưới các văn bản pháp luật
và Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai chế độ sở
hữu rừng: công hữu (sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể) và tư hữu (sở hữu tư nhân)
dưới nhiều mô hình sở hữu khác nhau. Mô hình phổ biến nhất là thừa nhận nhiều
hình thức sở hữu ở các quốc gia có diện tích rừng lớn hàng đầu thế giới như Mỹ,
Canada, Bazil, Argentina, Trung Quốc, Australia, Ấn độ, Việt Nam… đều quy định
rừng thuộc sở hữu Nhà nước và tư nhân. Ví dụ, Mỹ có 56,3% diện tích rừng thuộc
sở hữu tư nhân, Thụy Điển chỉ có 20,2% rừng thuộc sở hữu Nhà nước,… Bên cạnh
đó là mô hình chỉ thừa nhận hình thức sở hữu Nhà nước đối với rừng với ý nghĩa là
hình thức sở hữu duy nhất như ở Liên bang Nga, Indonesia, Myanmar, Cộng hòa
Trung Phi19.
Là một quốc gia nằm trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam công
nhận tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài nguyên rừng là nguồn tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu chung của toàn xã hội. Chủ nghĩa Mác- xít đã chỉ ra mục tiêu và bản
chất của chủ nghĩa xã hội chính là xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công
16https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/6455/446400PUB0Fore101OFFICIAL
0USE0ONLY1.pdf?sequence=1, truy cập ngày 5/6/2015
17 Đỗ Hương, "GDP ngành lâm nghiệp có thể đạt 6%", http://baodientu.chinhphu.vn/Hoat-dong-Bo-
nganh/GDP-nganh-Lam-nghiep-co-the-dat-6/214260.vgp, truy cập ngày 5/6/2015
18 https://www.worldwildlife.org/threats/deforestation, truy cập ngày 6/6/2015.
19 Phụ lục 2 - Thống kê số liệu sở hữu rừng theo hai hình thức của 24 trên 30 quốc gia có diện tích rừng
lớn nhất trên thế giới - Andy White & Alejandra Martin (2002), Who owns the world's forest?- Forest
tenure and public forests in transition, USA, pp.5 (Phụ lục 2)
10
hữu về tư liệu sản xuất, ai cũng được hưởng ngang bằng như nhau, cùng với đó là
khả năng điều khiển xã hội theo một kế hoạch chung20. Việt Nam xây dựng chủ
nghĩa xã hội dựa trên sự học tập và vận dụng sáng tạo nền tảng học thuyết của chủ
nghĩa Mác – Lênin, do đó việc xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và chế
độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng là phù hợp về phương diện lý luận. Trải
qua một quá trình phát triển lâu dài, đến giai đoạn hiện nay, chế độ sở hữu toàn dân
ở nước ta nói chung vẫn khẳng định được xu thế tất yếu của nó trong sự nghiệp
hoàn thiện một nhà nước của dân, do dân, vì dân với một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đòi hỏi phải
dựa trên nền tảng của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất bao gồm chế độ sở hữu
toàn dân đối với tài nguyên rừng.
Tài nguyên rừng cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, dưới dạng
hữu hình hoặc vô hình, như tài nguyên nước, đất đai, khoáng sản, không khí, các di
tích văn hóa, lịch sử... là sở hữu chung của toàn dân được tạo dựng qua nhiều thế
hệ. Vì vậy, xác lập chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng là khẳng định
quyền của mỗi công dân đối với việc định đoạt, khai thác, sử dụng, phát triển và bảo
vệ tài nguyên rừng theo cơ chế dân chủ; góp phần bảo đảm cho các quan hệ trong
xã hội được vận hành trên nền tảng của quyền sở hữu chung, song dưới những hình
thức sở hữu cụ thể được thể chế hóa bằng luật pháp, chính sách của Nhà nước. Chế
độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng còn tạo điều kiện để các cộng đồng dân
cư tham gia định đoạt, khai thác, sử dụng và hưởng lợi từ rừng, đồng thời bảo đảm
cho mọi người dân giám sát việc quản lý, quy hoạch, khai thác và phát triển tài
nguyên của chính quyền các cấp.
Tóm lại, xuất phát từ tầm quan trọng của tài nguyên rừng đối với các lĩnh vực
đời sống xã hội của mỗi quốc gia; xuất phát từ đặc trưng chính trị, kinh tế của một
đất nước xã hội chủ nghĩa với tôn chỉ mọi của cải đều thuộc về nhân dân, mọi cá
nhân đều có quyền tiếp cận với các tư liệu sản xuất một cách bình đẳng thì chế độ
sở hữu toàn dân là một yêu cầu bắt buộc, tất yếu phát sinh.
1.2.2 Cơ sở pháp lý
Chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng được quy định trong đạo luật
tối cao của Nhà nước Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển,
20 Đỗ Thế Tùng, "Quan điểm cơ bản của C. Mác về sở hữu và việc vận dụng vào các văn kiện Đại hội
XI của Đảng", http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-dang-
XI/Noi-dung-co-ban-van-kien/2011/12442/Quan-diem-co-ban-cua-C-Mac-ve-so-huu-va-viec.aspx, truy
cập ngày 5/6/2015.
11
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý21.
Tài nguyên rừng được xem là một trong các loại "tài nguyên thiên nhiên khác"
do vậy đương nhiên thuộc sở hữu của toàn thể nhân dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý.
Tìm hiểu lịch sử lập hiến của Việt Nam, có thể dễ dàng nhận thấy, do hoàn cảnh
chiến tranh nên trong Hiến pháp 1946 chế độ về sở hữu chưa có thay đổi gì nhiều so
với thời kỳ Pháp thuộc. Đến Hiến pháp 1959, tuy chưa có quy định về chế độ sở
hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng nhưng so với bản Hiến pháp đầu tiên của nước
ta, Hiến Pháp 1959 đã đặt nền móng công nhận quyền sở hữu các tư liệu sản xuất
của người dân là quy định Hiến định: "Các hầm mỏ, sông ngòi, và những rừng cây,
đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở
hữu của toàn dân.22". Đây cũng là bản Hiến pháp duy nhất thừa nhận sở hữu tư nhân
– "hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản
dân tộc23" trong đó có sở hữu tư nhân đối với tài nguyên rừng, mặc dù hình thức tư
hữu này chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với hình thức sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể
vào giai đoạn đó.
21 Điều 53 Hiến pháp 2013
22 Điều 12 Hiến pháp 1959
23 Điều 11 Hiến pháp 1959
24 Điều 19 Hiến pháp 1980: " Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất,
ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương
nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thống
đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê điều và công trình thuỷ lợi quan trọng;
cơ sở phục vụ quốc phòng; hệ thống thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, điện ảnh; cơ sở nghiên
cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà
nước - đều thuộc sở hữu toàn dân."
12
Chế độ sở hữu toàn dân đối với tư liệu sản xuất nói chung và tài nguyên rừng
nói riêng chính thức được công nhận từ Hiến pháp 198024, bản Hiến pháp xác định
bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản, thực hiện
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Để thực hiện mục tiêu đó, Nhà nước
tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai
thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần
kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Các bản Hiến pháp sau này, Hiến pháp 199225 hay Hiến pháp 2013 là những bản
Hiến pháp khẳng định và củng cố chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng
thì ở Việt Nam.
Chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng được cụ thể hóa trong pháp
luật chuyên ngành về quản lý và bảo vệ rừng hiện hành. Luật BVPTR 2004 quy
định Nhà nước thay mặt toàn thể nhân dân thống nhất quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng26, trên cơ sở đó Nhà nước trao quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản
xuất là rừng trồng cho các chủ rừng thông qua các hoạt động giao rừng, cho thuê
rừng, giao đất, cho thuê đất để trồng rừng…. Tính chất sở hữu toàn dân đối với tài
nguyên rừng được thể hiện qua hình thức sở hữu Nhà nước đối với rừng.
Nhà nước thống nhất quản lý và định đoạt đối với rừng tự nhiên và rừng
được phát triển bằng vốn của Nhà nước, rừng do Nhà nước nhận chuyển
quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng từ các chủ rừng; động vật rừng
sống tự nhiên, hoang dã; vi sinh vật rừng; cảnh quan, môi trường rừng27.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng công nhận quyền sở hữu RSX là rừng trồng của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân28 nhưng các chủ rừng này phải có kế hoạch đầu tư cụ thể
và cam kết thực hiện theo kế hoạch, quy hoạch phát triển rừng của Nhà nước, tuân
theo pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng. Đó cũng chính là một trong những biểu
hiện của chế độ sở hữu toàn dân, Nhà nước không phủ nhận quyền làm chủ tài sản
của từng cá nhân song đối với một loại tài nguyên quan trọng như rừng, về nguyên
tắc quyền sở hữu vẫn phải thuộc về toàn thể nhân dân trong nước, phải để nhân dân
giám sát và quản lý.
Luật BVPTR 1991 trước đó cũng thừa nhận chế độ sở hữu toàn dân với hai hình
thức sở hữu đối với tài nguyên rừng - hình thức sở hữu Nhà nước và hình thức sở
hữu tư nhân2930, chỉ khác ít nhiều về cách thức quản lý của Nhà nước. Trong Luật
BVPTR 1991 quy định Nhà nước giao rừng, giao đất trồng rừng cho tổ chức, cá
25 Điều 17 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001):“Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài
nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà
nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa
học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà
nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.”
26 Điều 8 Luật BVPTR
27 Khoản 1 Điều 6 Luật BVPTR
28 Khoản 8 Điều 3 Luật BVPTR
29 Điều 2 Luật BVPTR 1991
30 Điều 3 Luật BVPTR 1991
31 Điều 2 Luật BVPTR 1991
13
nhân để bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng ổn định, lâu dài theo quy hoạch, kế
hoạch của Nhà nước31 còn trong Luật BVPTR 2004 quy định cụ thể thêm về hình
thức cho thuê rừng, cho thuê đất để trồng rừng.
Như vậy, cơ sở pháp lý của chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở
Việt Nam đã được ghi nhận ngay trong Hiến pháp và luật BVPTR qua các thời kỳ.
Điều này góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc áp dụng quyền sở hữu
toàn dân đối với tài nguyên rừng trên thực tế.
1.3 Đặc trưng của chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam
Thứ nhất, quyền sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng được thực hiện thông
qua cơ chế đại diện.
Tài nguyên rừng thuộc sở hữu toàn dân nhưng chủ sở hữu toàn dân là một khái
niệm trừu tượng, "toàn dân" không thể trực tiếp thực hiện quyền sở hữu của mình
đối với rừng mà phải thực hiện thông qua cơ chế đại diện với chủ thể đại diện
không ai khác ngoài Nhà nước. Theo đó, Nhà nước thay mặt nhân dân thống nhất
quản lý đối với tài nguyên rừng thông qua hệ thống các cơ quan quản lý hành chính
Nhà nước chuyên môn trong lĩnh vực lâm nghiệp được tổ chức chặt chẽ từ trung
ương tới địa phương và xây dựng các quy định pháp lý về bảo vệ và phát triển tài
nguyên rừng. Nhà nước là chủ thể đặt ra chiến lược phát triển rừng cho cả nước, lập
các quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; quyết định giao rừng cho ai, cho
đối tượng nào thuê rừng, thu hồi rừng hay chuyển mục đích sử dụng rừng khi cần
thiết; ngoài ra Nhà nước, cụ thể là Chính phủ sẽ quy định đâu là các loài thực vật
rừng, động vật rừng cần được quản lý và bảo vệ đặc biệt, các chủ thể khác không
được phép xâm hại khi chưa đáp ứng được các điều kiện bắt buộc do Nhà nước đặt
ra.
Một trong những hoạt động quan trọng thể hiện tính đại diện của Nhà nước đó
là hoạt động lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng. Bởi lẽ, việc xây
dựng quy hoạch, kế hoạch rừng và đất rừng được xem là nòng cốt, xương sống của
bảo vệ và phát triển rừng, muốn có một nền lâm nghiệp bền vững thì trước hết yêu
cầu lâm phận quốc gia phải ổn định. Hoạt động này được tiến hành trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản sau32:
Một là, quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải được xây dựng phù
hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an
ninh; phù hợp với kế hoạch sử dụng đất. Tuy có chế độ pháp lý khác nhau nhưng
rừng là loại tài nguyên gắn liền với đất, tương tự đối với sự phát triển kinh tế, xã
hội, quốc phòng an ninh, về đặc điểm vật chất chúng không giống nhau nhưng đặt
trong tổng thể tạo nên sức mạnh tổng hợp của một quốc gia thì giữa chúng có mối
liên hệ chặt chẽ không thể tách rời. Xây dựng chiến lược hay kế hoạch phát triển
32 Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Môi trường, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr.257.
14
một lĩnh vực nào dó cũng đồng nghĩa với việc chuẩn bị những bước đầu tiên để thay
đổi các lĩnh vực còn lại, do đó, khi xây dựng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát
triển rừng phải đảm bảo một số nội dung cơ bản như: tổng hợp, phân tích tình hình
điều kiện tự nhiên, hiện trạng tài nguyên rừng; đánh giá được tình hình thực hiện
quy hoạch, kế hoạch lần trước; xác định các biện pháp quản lý, bảo vệ, sử dụng và
phát triển các loại rừng; tầm ảnh hưởng đến các chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội hoặc kế hoạch sử dụng đất… các bản quy hoạch này sẽ được cơ quan quản lý
nhà nước về rừng lập và phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Ngày
09/01/2012, Thủ thướng chính phủ ra Quyết định số 57/2012/QĐ-TTg phê duyệt kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020, bên cạnh nhiệm vụ chính của
Bộ NNPTNT thì các bộ liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ
Tài nguyên và Môi trường đều phải phối hợp thực hiện như hỗ trợ về tài chính, rà
soát lại kế hoạch trong lĩnh vực của mình.... Đây là một ví dụ cụ thể và thiết thực
thể hiện mối quan hệ chiến lược giữa các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước nói
chung cũng như giữa quy hoạch, kế hoạch phát triển rừng với các lĩnh vực còn lại
nói riêng.
Hai là, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ rừng
của các cấp. Kỳ quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là mười (10) năm, kỳ kế hoạch
bảo vệ và phát triển rừng là năm (5) năm và được cụ thể hoá thành kế hoạch hàng
năm33; pháp luật Việt Nam quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục lập, điều chỉnh, phê
duyệt quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước cũng như của cấp
tỉnh, cấp huyện và cấp xã34. Theo đó, quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng
mang tính chu kỳ và được thiết kế thành một hệ thống từ trung ương đến địa
phương theo chiều dọc, mỗi địa phương (nơi có rừng) sẽ dựa trên quy hoạch, kế
hoạch chung cho cả nước đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt trước đó để xây
dựng cho địa phương mình một kế hoạch, quy hoạch chi tiết và phù hợp trong một
giai đoạn cụ thể để bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn quản lý35. Bên cạnh đó, để
đáp ứng tính dân chủ, công khai của chế độ sở hữu toàn dân, trong thời hạn không
quá 30 (ba mươi) ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản phê duyệt quy
hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; các
quy hoạch, kế hoạch đó phải được công bố công khai theo quy định của pháp luật36.
Ba là, đảm bảo khai thác, sử dụng tiết kiệm, bền vững, có hiệu quả tài nguyên
33 Khoản 2 Điều 10 Nghị định 23/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/3/2006 hướng dẫn thi hành Luật
BVPTR (NĐ 23/2006/NĐ-CP)
34 Điều 11, 12, 13 NĐ 23/2006/NĐ-CP
35 Phụ lục 3: Sơ đồ trình tự , thủ tục phê duyệt quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng ở Việt
Nam – NĐ 23/2006/NĐ-CP (Phụ lục 3)
36 Điều 14 NĐ 23/2006/NĐ-CP
15
rừng, đất rừng, bảo vệ hệ sinh thái rừng, bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh. Nhà nước đại diện cho nhân dân nắm quyền sở hữu rừng không nhằm
mục đích kinh doanh thu lợi nhuận mà hướng tới bảo vệ và phát triển nguồn tài
nguyên rừng của đất nước; đảm bảo mọi công dân đều có thể tiếp cận rừng một
cách bình đẳng, công bằng nhất – đó cũng chính là biểu hiện của cơ chế đại diện
trong chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng.
Vì là chủ thể đại diện nên Nhà nước tham gia vào quan hệ sở hữu đối với tài
nguyên rừng vừa với tư cách là chủ thể của quyền sở hữu vừa với tư cách là chủ thể
của quyền lực công .Với tư cách là đại diện cho toàn thể nhân dân thực hiện quyền
sở hữu đối với tài nguyên rừng, Nhà nước thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt đối với diện tích rừng thuộc sở hữu nhà nước như một chủ sở hữu bình
thường. Nhưng đặc biệt ở phương thức thực hiện các quyền ấy, Nhà nước không sử
dụng các kênh lưu thông dân sự mà sử dụng chính quyền lực của nhà nước để thực
hiện chúng thông qua các quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, các
quyết định hành chính như giao rừng, cho thuê rừng. Sở dĩ có đặc trưng này bởi
trách nhiệm chính của Nhà nước vẫn là quản lý xã hội nói chung, do đặc thù của
nền chính trị, kinh tế của quốc gia Nhà nước phải đứng ra làm chủ thể đặc biệt thực
hiện quyền sở hữu đối với tài nguyên rừng.
Thứ hai, chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng với hai hình thức sở
hữu: sở hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước
Sở hữu tư nhân đối với rừng là việc tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sở hữu
RSX là rừng trồng do chủ rừng tự đầu tư trong thời hạn được giao đất, được thuê
đất để trồng rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng và các
quy định khác của pháp luật có liên quan37.
Trong các loại rừng, Nhà nước chỉ công nhận quyền sở hữu của tư nhân đối với
một loại rừng duy nhất, đó là RSX là rừng trồng. Hơn nữa, vốn để trồng rừng là vốn
do chủ rừng tự đầu tư. Cũng vì nguyên nhân nguồn gốc vốn mà Nhà nước cho tư
nhân sở hữu RSX là rừng trồng như một loại tài sản thông thường, một đối tượng
kinh doanh do chính họ đầu tư nên đương nhiên họ phải là chủ sở hữu hợp pháp của
diện tích rừng đó. Mặt khác, Nhà nước đang khuyến khích phát triển thương mại và
kinh tế lâm nghiệp từ việc khai thác hợp lý tài nguyên rừng, RĐD, RPH đa phần là
các khu rừng tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc giữ cân bằng sinh thái, bảo
vệ môi trường và an ninh lâm nghiệp do đó cần đảm bảo sự quản lý, bảo vệ chặt chẽ
từ phía các cơ quan Nhà nước trong khi RSX là rừng trồng với chức năng vốn có
của mình là để phục vụ phát triển ngành lâm nghiệp đồng thời dễ dàng tái sinh,
37 Khoản 5 Điều 3 Luật BVPTR
16
phục hồi nếu được khai thác hợp lý mà không gây bất kỳ ảnh hưởng tiêu cực nào
đến môi trường. Chính vì thế, Nhà nước trao quyền sở hữu RSX là rừng trồng cho
các đối tượng phù hợp bởi nhắm tới mục đích kinh doanh, làm giàu cho chính bản
thân mình thì không chủ rừng nào có thể lơ là việc chăm sóc tài sản của chính mình
cả.
Quyền sở hữu đối với RSX là rừng trồng chỉ mang tính tương đối. Điều 4 Luật
Đất đai 2013 quy định rõ "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng
đất theo quy định của Luật này.", như vậy đất rừng luôn thuộc sở hữu Nhà nước,
chủ sở hữu RSX là rừng trồng chỉ có thể được công nhận quyền sử dụng đất đối với
diện tích RSX là rừng trồng mà mình đang đứng tên chủ sở hữu. Chủ rừng có quyền
sở hữu đối với cây trồng, vật nuôi thông thường do chính mình bỏ vốn đầu tư còn
các loại động vật - thực vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc danh mục do Chính phủ ban
hành38 sinh trưởng trong rừng (nếu có), các loài động vật – thực vật hoang dã là do
Nhà nước thống nhất quản lý, việc khai thác các giống loài này trong bất cứ loại
rừng nào đều phải đáp ứng trình tự, thủ tục luật định, có giấy phép do cơ quan có
thẩm quyền cấp để chứng minh nguồn gốc. Hơn nữa, việc lựa chọn giống cây trồng
trên đất RSX là rừng trồng hay kết hợp nuôi thêm vật nuôi khác phải tuân theo quy
hoạch, kế hoạch phát triển nông – lâm nghiệp của cả nước và địa phương nơi có
rừng, theo danh mục các giống cây trồng chủ lực cho RSX theo vùng sinh thái lâm
nghiệp39 hay theo danh mục giống vật nuôi thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Đây cũng
là cơ sở để xác định đâu là cây trồng, vật nuôi thuộc sở hữu hợp pháp của chủ sở
hữu RSX là rừng trồng.
Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà Nhà nước là người đại diện cho
nhân dân quản lý, nắm giữ tư liệu sản xuất. Theo BLDS 2005, rừng tự nhiên và
rừng trồng có vốn từ ngân sách nhà nước thì thuộc sở hữu nhà nước.40
Điều 6 Luật BVPTR cũng quy định:
Nhà nước thống nhất quản lý và định đoạt đối với rừng tự nhiên và rừng
được phát triển bằng vốn của Nhà nước, rừng do Nhà nước nhận chuyển
quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng từ các chủ rừng; động vật rừng
sống tự nhiên, hoang dã; vi sinh vật rừng; cảnh quan, môi trường rừng.
Như vậy, căn cứ vào mục đích sử dụng để phân loại rừng, các diện tích RĐD,
38 Danh mục động, thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm – Ban hành kèm Nghị định 32/2006/NĐ-CP của
chính phủ ngày 30/3/2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp quý hiếm (NĐ
32/2006/NĐ-CP)
39 Quyết định số 4961/QĐ-BNN-TCLN của Bộ trưởng Bộ NNPTNT ngày 17/11/2014 ban hành danh
mục các loài cây chủ lực cho rừng sản xuất và danh mục các loài cây chủ yếu cho trồng rừng theo các
vùng sinh thái lâm nghiệp.
40 Điều 200 Bộ luật dân sự
17
RPH, RSX là rừng tự nhiên, RSX là rừng trồng nhưng được phát triển bằng vốn
Nhà nước hoặc do Nhà nước nhận chuyển quyền sở hữu từ các chủ rừng đều thuộc
sở hữu Nhà nước. Ngoài ra, các loài thực vật- động vật nguy cấp, quý hiếm thuộc
danh mục do Chính phủ ban hành, tài nguyên vi sinh vật, cảnh quan rừng ở bất cứ
khu rừng nào, đất rừng… cũng do Nhà nước thống nhất quản lý. Đây cũng là lí do
giải thích vì sao quyền sở hữu rừng của Nhà nước mang tính chất tuyệt đối.
Việc quy định tài nguyên thuộc sở hữu toàn dân của Việt Nam có sự tương đồng
với Trung Quốc và Liên Bang Nga. Trung Quốc coi tài nguyên rừng do Nhà nước
thống nhất quản lý41 và Nhà nước Trung Quốc đã thực thi rất thành công pháp luật
lâm nghiệp trong nhiều thập niên vừa qua, diện tích rừng của Trung Quốc đều giữ
đà tăng trưởng trong khi tình hình tài nguyên rừng của thế giới tiếp tục giảm xuống,
Cơ quan môi trường Liên hợp quốc đã xếp Trung Quốc vào danh sách một trong 15
nước có diện tích rừng nhiều nhất thế giới42. Liên bang Nga là quốc gia có toàn bộ
diện tích rừng đều thuộc sở hữu Nhà nước khi quy định "các thửa rừng trên đất lâm
nghiệp thuộc sở hữu của Liên bang"43, tuy hiện nay Nga có kế hoạch hướng đến tư
nhân hóa việc khai thác tài nguyên rừng nhưng diện tích đất rừng tư nhân chiếm tỉ
lệ rất nhỏ trong tổng diện tích rừng của Liên bang Nga44.
41 Luật Lâm nghiệp của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ban hành năm 1984 ( sửa đổi năm 1988) quy
định:" rừng thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, cá nhân được quyền sử dụng đât rừng nhưng phải
đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan nhà nước này cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu rừng hoặc quyền sử dụng rừng." Đối với những vùng đất trống, đồi núi trọc thuộc sở hữu
nhà nước và sở hữu tập thể có thể được ký hợp đồng với các tập thể, cá nhân để trồng rừng - Article 3
article 26, Forestry Law of the People's Republic of China,
http://www.china.org.cn/english/environment/207457.htm, truy cập ngày 29/6/2015.
42 Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, "Trung Quốc: Kế hoạch phát triển rừng tới năm 2020",
http://www.cpv.org.vn/cpv/modules/news/newsdetail.aspx?cn_id=407826&c0_id=30480, truy cập ngày
29/6/2015
43 Article 8 Forest Code of the Russian Federation 2006
44 Nguyễn Thị Thanh Huyền, tlđd (9), tr.121
18
Tóm lại, chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng mang những đặc trưng
cơ bản của chế độ sở hữu toàn dân nói chung ở nước ta trước hết ở tính đại diện,
quyền lực công. Bên cạnh đó chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng còn
đặc trưng ở hai hình thức sở hữu đó là hình thức sở hữu Nhà nước đối với rừng và
hình thức sở hữu tư nhân đối với RSX là rừng trồng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Về nguyên tắc, mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong đó có tài nguyên rừng đều
thuộc sở hữu của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Bên cạnh các cơ sở lý
luận vững chắc khẳng định sự cần thiết, phù hợp, chế độ sở hữu toàn dân đối với tài
nguyên rừng còn được đảm bảo sự tồn tại lâu bền thông qua các quy định hiến định
và các quy phạm pháp luật có liên quan.
Đặc trưng nổi bật của chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở Việt
Nam là tính đại diện, Nhà nước thay mặt nhân dân lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ
và phát triển rừng trên cả nước và thông qua các chủ rừng để thực hiện các kế hoạch
đó trên thực tế.
Giới thiệu khái quát hai hình thức sở hữu đối với tài nguyên rừng, bao gồm:
hình thức sở hữu tư nhân đối với RSX là rừng trồng và hình thức sở hữu Nhà nước
19
đối với rừng.
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG QUYỀN SỞ HỮU RỪNG Ở VIỆT NAM
2.1 Hình thức sở hữu tư nhân đối với rừng sản xuất là rừng trồng
2.1.1 Cơ sở xác lập
Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sẽ được Nhà nước công nhận là chủ sở hữu RSX
là rừng trồng nếu như đáp ứng đồng thời các điều kiện sau:
Thứ nhất, vốn bỏ ra để trồng RSX là rừng hoặc tiền đã trả cho việc nhận chuyển
nhượng rừng hoặc tiền nộp cho Nhà nước khi được giao rừng có thu tiền sử dụng
rừng không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước. Hiểu đơn giản là vốn do tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân tự đầu tư – đây có thể là vốn tự có của họ, vốn đi vay từ các tổ
chức tín dụng, vốn liên doanh, liên kết giữa các tổ chức kinh tế với nhau mà không
có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Thứ hai, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phải đảm bảo có giấy tờ chứng minh theo
quy định của pháp luật về đất đai hoặc pháp luật về đầu tư. Quy định loại giấy tờ
nào tùy thuộc vào từng đối tượng chủ rừng45.
Đối với tổ chức kinh tế, ngoài các tổ chức kinh tế trong nước, pháp luật còn
cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam
được sở hữu RSX là rừng trồng khi có quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định
đầu tư dự án hoặc giấy chứng nhận đầu tư để trồng RSX theo quy định của pháp
luật về đầu tư.
Đối với hộ gia đình có nhu cầu sở hữu RSX là rừng trồng sinh sống trên địa
bàn thuộc cấp xã nơi có rừng nếu họ có giấy tờ chứng nhận hợp pháp xác định Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để trồng RSX; giấy tờ về
giao RSX là rừng trồng; hợp đồng hoặc văn bản về việc mua bán hoặc tặng cho
hoặc thừa kế đối với RSX là rừng trồng đã được công chứng hoặc chứng thực theo
quy định của pháp luật; bản án, quyết định của Tòa án nhân dân hoặc giấy tờ của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết được quyền sở hữu RSX là rừng trồng đã
có hiệu lực pháp luật thì được cấp Chứng nhận quyền sở hữu RSX là rừng trồng.
Đối với cá nhân là công dân Việt Nam muốn trở thành chủ sở hữu rừng phải
đáp ứng các điều kiện tương tự như đối với hộ gia đình. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng không hạn chế quyền được sở hữu RSX là rừng trồng của người Việt Nam
định cư tại nước ngoài, cá nhân nước ngoài có dự án trồng RSX tại Việt Nam với
những yêu cầu về thủ tục áp dụng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại
45 Điều 33 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Đất đai
20
Việt Nam.
Có thể thấy, việc quy định rõ ràng về thủ tục công nhận quyền sở hữu RSX là
rừng trồng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bỏ vốn trồng rừng là một điểm tiến
bộ của Luật BVPRT 2004, đây là cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho các chủ rừng đồng thời là chủ sở hữu rừng.
So với Luật BVPTR 1991 chỉ quy định một cách căn bản "Rừng được gây trồng
trên đất được Nhà nước giao không phải bằng vốn của Nhà nước, thì sản phẩm thực
vật rừng thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân bỏ vốn.46", Luật BVPTR hiện hành đã
có những thay đổi đáng kể cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Từ chỗ chỉ căn cứ vào nguồn gốc vốn để cho phép tư nhân được sở hữu rừng không
phân biệt đó là RPH, RĐD hay RSX thì đến Luật BVPTR hiện hành thông qua việc
phân loại rõ ràng hơn về các loại rừng, đặc biệt là ba loại RSX bao gồm RSX là
rừng tự nhiên, RSX là rừng trồng và RSX là rừng giống đã quy định cụ thể cho
phép các đối tượng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư được sở hữu
một loại rừng duy nhất là RSX là rừng trồng, quy định như vậy là hợp lý với mục
tiêu sử dụng của từng loại rừng.
Phạm vi sở hữu của chủ sở hữu rừng cũng được mở rộng không chỉ thực vật
rừng và các sản phẩm từ thực vật rừng mà còn sở hữu đối với vật nuôi, tài sản gắn
liền với đất rừng do chủ chủ rừng tự đầu tư trong thời hạn được giao, được thuê đất
để trồng rừng47. Chủ rừng đầu tư phát triển RSX là rừng trồng trên đất được Nhà
nước giao hay cho thuê để trồng rừng đều được công nhận là chủ sở hữu RSX là
rừng trồng thay vì trước đây chỉ áp dụng với hình thức giao đất để trồng rừng, sự
thay đổi này góp phần thu hút nguồn vốn của các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành
lâm nghiệp khi tạo cho họ cơ hội được sở hữu RSX là rừng trồng ở Việt Nam.
2.1.2 Phương thức thực hiện quyền sở hữu tư nhân đối với RSX là rừng trồng
Với tư cách là một chủ rừng, chủ sở hữu RSX là rừng trồng có những quyền và
nghĩa vụ chung như những chủ rừng khác được quy định tại Điều 59 và Điều 60
Luật BVPTR. Chủ sở hữu RSX là rừng trồng được hỗ trợ kỹ thuật, vốn để sử dụng
rừng ổn định, lâu dài, kết hợp sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư nghiệp,
nghiên cứu khoa học, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái - môi
trường theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Bên cạnh đó,
chủ sở hữu RSX là rừng trồng cần sử dụng rừng đúng theo quy hoạch, kế hoạch đã
được phê duyệt kèm theo các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn vốn rừng
và thực hiện các nghĩa vụ tài chính (nộp thuế, tiền sử dụng đất…) đối với Nhà nước
46 Điều 3 Luật BVPTR 1991
47 Khoản 5 Điều 3 Luật BVPTR
21
theo quy định của pháp luật.
Ngoài các quyền lợi được hưởng như các chủ rừng khác, chủ sở hữu RSX là
rừng trồng được pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng quy định thêm các quyền
của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Cụ thể48:
Chủ sở hữu RSX là rừng trồng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa
nhận quyền sở hữu RSX là rừng trồng bằng hình thức ghi trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, trong hồ sơ địa chính của địa phương49. Đây là một trong những
điểm khác biệt quan trọng dùng để phân biệt giữa chủ rừng đồng thời là chủ sở hữu
RSX là rừng trồng với các loại chủ rừng còn lại không được công nhận quyền sở
hữu rừng mà chỉ được thừa nhận quyền sử dụng rừng.
Khác với các chủ rừng được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng chỉ được sở
hữu cây trồng, vật nuôi do chủ rừng đầu tư thêm trong quá trình quản lý rừng, chủ
sở hữu RSX là rừng trồng tự bỏ vốn trồng rừng trên diện tích đất được giao, được
cho thuê hoặc nhận chuyển nhận quyền sở hữu RSX là rừng trồng nên họ được sở
hữu toàn bộ cây trồng, vật nuôi và tài sản trên đất trồng rừng. Hơn nữa, chủ sở hữu
rừng được tự quyết định tuổi khai thác rừng trồng, thủ tục khai thác, tự chủ trong
việc thực hiện tận thu lâm sản, các sản phẩm khai thác từ rừng trồng của chủ rừng
được tự do lưu thông trên thị trường trong khi các chủ rừng chỉ có quyền sử dụng
rừng phải thông qua các cơ quan có thẩm quyền thay mặt Nhà nước quyết định việc
khai thác, tận thu rừng.
Về các quyền giao dịch, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sở hữu rừng được phép
chuyển nhượng, tặng cho quyền sở hữu RSX là rừng trồng; được thế chấp, bảo lãnh
bằng giá trị RSX là rừng trồng tại tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam; được
góp vốn bằng giá trị RSX là rừng trồng với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong
nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; được hưởng giá trị tăng thêm từ rừng
khi nhận chuyển nhượng RSX là rừng trồng từ tay chủ rừng khác.
Chủ sở hữu rừng còn được cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác thuê rừng để
kết hợp sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư nghiệp, kinh doanh cảnh quan,
nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái - môi trường, đầu tư nghiên cứu khoa học theo quy
chế quản lý rừng. Trong trường hợp chủ sở hữu rừng là cá nhân (công dân Việt
Nam sinh sống trong nước hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước
ngoài) thì họ được phép để thừa kế là quyền sở hữu RSX là rừng trồng theo quy
định của pháp luật dân sự. Ngoài ra, hộ gia đình, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư để thực
48 Chương 5 Luật BVPTR
49 Khoản 8 Điều 3 Luật BVPTR
22
hiện các biện pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, tạo thành RSX trên đất không có
rừng được Nhà nước giao, cho thuê thì cũng được công nhận là chủ sở hữu rừng và
có đầy đủ các quyền lợi nêu trên50.
Trường hợp Nhà nước giao rừng, giao đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê để trồng rừng thì ngoài quyền của chủ sở hữu đối với RSX là
rừng trồng, chủ rừng còn được Nhà nước trao quyền sử dụng đất rừng lâm nghiệp.
Khi đó, chủ sở hữu RSX sẽ đồng thời là người sử dụng đất, được phép chuyển
nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Pháp luật quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu RSX là rừng trồng như sau:
Khi khác thác rừng trồng chủ sở hữu rừng phải báo trước mười (10) ngày
làm việc cho Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi có rừng biết51, trong trường hợp
rừng đó là rừng trồng cây gỗ quý, hiếm thì khi khai thác phải thực hiện theo quy
định của Chính phủ52. So với rừng trồng thuộc sở hữu tư nhân, quy định về khai
thác RSX là rừng trồng nhưng có vốn từ ngân sách Nhà nước và RSX là rừng tự
nhiên nghiêm ngặt hơn nhiều, chủ RSX là rừng trồng có vốn từ ngân sách Nhà nước
phải lập hồ sơ khai thác trình cơ quan có thẩm quyền duyệt nguồn vốn quyết định,
đối với RSX là rừng tự nhiên, tùy vào loại chủ rừng mà có những yêu cầu khác
nhau, ví dụ53:
Chủ rừng là tổ chức: phải phải có phương án điều chế rừng (hoặc phương
án quản lý rừng bền vững) và thiết kế khai thác được Sở NNPTNT phê
duyệt.
Chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn: phải có kế
hoạch quản lí, bảo vệ và sản xuất, kinh doanh rừng có phương án khai
thác rừng do UBND cấp huyện phê duyệt hoặc ủy quyền cho phòng chức
năng của cấp huyện phê duyệt phương án khai thác rừng.
Sau khi khai thác, chủ sở hữu rừng phải trồng lại rừng vào thời vụ trồng
rừng ngay sau đó hoặc thực hiện biện pháp tái sinh tự nhiên trong quá trình khai
thác54. Nếu chủ rừng muốn kết hợp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp trong khu
rừng của mình thì cần đảm bảo sử dụng không quá 40% diện tích đất không có rừng
là đất rừng ngập mặn hoặc không quá 30% diện tích đất không có rừng là đất RSX
50 Khoản 3 Điều 72 Luật BVPTR
51 Điểm b Khoản 2 Điều 40 Quy chế quản lý rừng được ban hành kèm Quyết định 186/2006/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/8/2006 về việc ban hành Quy chế quản lý rừng (được sửa đổi, bổ
sung bởi Quyết định số 34/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/6/2011 (Quy chế quản lý
rừng)
52 Điểm a Khoản 2 Điều 57 Luật BVPTR
53 Điều 39, 40 Quy chế quản lý rừng
54 Điểm a, c Khoản 2 Điều 57 Luật BVPTR
23
không phải là đất ngập mặn để sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp kết hợp; được
trồng xen cây nông nghiệp dưới tán rừng nhưng không làm ảnh hưởng tới mục đích
sử dụng chính của rừng55. Những loài động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; nguồn
gen động vật rừng quý, hiếm sinh trưởng trong rừng thuộc sở hữu tư nhân được
quản lý, bảo vệ theo quy định của Chính phủ, chủ sở hữu rừng không có quyền sở
hữu đối với những đối tượng này. Mặt khác, khi khai thác các loài loài động vật
rừng hoang dã tuy không nằm trong danh mục động vật rừng quý, hiếm nhưng việc
săn, bắt, bẫy, nuôi nhốt phải theo quy định của Bộ NNPTNT và phải thực hiện theo
đúng quy định trong giấy phép đã được cấp56.
Như vậy, chủ sở hữu RSX là rừng trồng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
một cách trực tiếp thông qua các hoạt động quản lý, sử dụng, phát triển rừng và các
quyền chiếm hữu, sử dụng định đoạt. Điều này hoàn toàn khác biệt với một chủ sở
hữu rừng khác là Nhà nước, qua việc giao rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho thuê
đất để trồng rừng để thực hiện quyền sở hữu một cách gián tiếp qua hoạt động cụ
thể của các chủ rừng thông thường.
2.1.3 Thực trạng quyền sở hữu tư nhân đối với RSX là rừng trồng
Về mặt pháp lý, Nhà nước đã trao quyền sở hữu rừng cho tư nhân, đây là điều
kiện thuận lợi để các chủ rừng tự do khai thác lợi ích và phát triển rừng theo những
kế hoạch riêng. Tuy vậy trên thực tế, việc các cá nhân, hộ gia đình hay tổ chức sở
hữu RSX là rừng trồng không nhiều khi diện tích RSX là rừng trồng chỉ có khoảng
2,65 triệu ha (chiếm khoảng 19% tổng diện tích rừng), trong đó một diện tích không
nhỏ đã thuộc sở hữu Nhà nước. Mặt khác, nhìn vào cơ cấu chủ rừng phân theo diện
tích quản lý không hề có số liệu thống kê của chủ rừng là cá nhân, chủ rừng là các
tổ chức (không bao gồm doanh nghiệp nhà nước) cũng quản lý một diện tích khá
khiêm tốn khoảng 6%57. Không chỉ ở Việt Nam, mà ở các quốc gia quy định nhiều
hình thức sở hữu rừng cũng phổ biến tình trạng chênh lệch giữa diện tích sở hữu
rừng của Nhà nước và diện tích sở hữu rừng của tư nhân. Ví dụ: tại quốc gia châu
55 Điều 42 Quy chế quản lý rừng
56 Điều 46 NĐ 23/2006/NĐ-CP
57 Phụ lục 1: Cơ cấu chủ rừng phân theo diện tích quản lý - Quyết định 3322/QĐ-BNN-TCLN của Bộ
trưởng Bộ NNPTNT ngày 28/7/2014 công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2013 (Phụ lục 1)
58 Phụ lục 2
59 Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/9/2007 quyết định một số chính
sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015 (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số
66/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/12/2011) (QĐ 147/2007/QĐ-TTg)
24
Mỹ Bazil tư nhân chỉ sở hữu 10% diện tích rừng cả nước, con số này là 6,5% tại
Canada. Ngược lại, có những quốc gia đứng đầu thế giới về trữ lượng gỗ như Mỹ
hay Trung Quốc rừng thuộc sở hữu tư nhân khá lớn, trên 50% tổng diện tích rừng58.
Sau 10 năm thực hiện Luật BVPTR 2004, với nhiều chính sách, kế hoạch
khuyến khích người dân bỏ vốn đầu tư vào RSX trong giai đoạn 2007-201559, tốc
độ tăng quy mô của RSX do tổ chức kinh tế tư nhân, hộ gia đình, cá nhân quản lý
vẫn tương đối thấp, chỉ tăng 1 triệu ha RSX60. Trong các loại RSX, Nhà nước chỉ
công nhận quyền sở hữu RSX là rừng trồng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tự bỏ
vốn đầu tư do vậy, trên thực tế, rừng thuộc sở hữu tư nhân ở Việt Nam chiếm một
diện tích rất nhỏ.
Năm 2012, UBND tỉnh Quảng Nam lên kế hoạch trồng 16,5 ha cây Sao đen với
ước tính chi phí cụ thể (Việt Nam Đồng) cho một ha rừng như sau61:
1 Vật tư (cây giống, phân bón, vận chuyển, công cụ) 4.831.000
2 Nhân công 14.381.966
3 Chăm sóc (2013-2017) 24.914.010
Tổng chi phí cho 1 ha 44.126.976
Tổng chi phí cho 16,5 ha 728.095.098
Đây là ví dụ minh họa cho một kế hoạch trồng rừng cụ thể tại một địa phương,
tuy không phải là diện tích RSX thuộc sở hữu tư nhân nhưng căn cứ vào những số
liệu trên có thể suy ra những khó khăn, bất cập mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
phải đối mặt khi có dự án đầu tư vào RSX là rừng trồng. Trước hết, để sở hữu RSX
là rừng trồng, các chủ rừng phải bỏ một số vốn rất lớn để mua vật tư, thuê nhân
công trồng, chăm sóc rừng trên diện tích đất RSX được giao, được cho thuê (trừ
những trường hợp nhận chuyển nhượng RSX là rừng trồng đã có sẵn từ chủ sở hữu
rừng khác thì vốn đầu tư bỏ ra để nhận chuyển nhượng RSX là rừng trồng) – nếu
trồng 16,5 ha Sao đen họ phải bỏ ra gần 730 triệu đồng trong suốt quá trình nuôi
trồng - đây là cản trở lớn nhất đối với các chủ rừng, đặc biệt là hộ gia đình, cá nhân
khi muốn trở thành chủ sở hữu rừng nhưng thiếu một nguồn vốn ổn định và lâu dài,
gây là tình trạng nhiều chủ rừng đã lao động, sản xuất lâu năm trên diện tích RSX là
rừng trồng song vẫn không được công nhận là chủ sở hữu rừng.
Thời gian sinh trưởng của cây rừng tương đối dài, từ lúc bắt đầu gieo trồng tới
khi đạt được tiêu chuẩn khai thác mất từ 5-10 năm cho các giống cây thông thường,
với Sao đen là 7 năm; ngoài ra chủ rừng phải đảm bảo về diện tích nuôi trồng mới
có thể thu được lợi nhuận từ rừng.
Lượng vốn bỏ ra nhiều, thời gian thu hồi vốn lâu, không thể tính toán chính xác
được hiệu quả đầu tư nếu như không xây dựng được một kế hoạch phù hợp, chưa kể
60 Xem thêm Quyết định 1970/QĐ/BNN-KL của Bộ trưởng Bộ NNPTNT ngày 06/7/2006 công bố hiện
trạng rừng toàn quốc năm 2005.
61 Quyết định số 2495/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam ngày 31/7/2012 phê duyệt dự
toán trồng 16,5 ha cây Sao đen giai đoạn 2012-2017
25
đến khâu chăm sóc theo từng giai đoạn, đảm bảo kỹ thuật lâm nghiệp, thị trường
đầu ra, nguy cơ bị thu hồi rừng phục vụ cho mục đích công cộng…là những nguyên
nhân khiến nhiều hộ gia đình, cá nhân không thể có cơ hội sở hữu RSX là rừng
trồng. Mặt khác, chủ sở hữu RSX là rừng trồng được tự do quyết định phương án
trồng và khai thác rừng nhưng đa phần các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân không
hiểu biết nhiều về kỹ thuật lâm nghiệp khiến cho hiệu quả kinh tế của rừng cũng
như chất lượng rừng chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Đối với các tổ chức kinh tế, thường là các công ty lâm nghiệp sẽ dễ dàng tiếp
cận với RSX là rừng trồng hơn so với hộ gia đình, cá nhân. Trên thực tế diện tích
rừng các công ty lâm nghiệp sở hữu cũng chiếm ưu thế hơn cả, song tình trạng các
dự án đầu tư chậm tiến độ, doanh nghiệp hủy dự án do thiếu vốn đầu tư, không
chăm sóc và bảo vệ rừng vẫn còn khá phổ biến ở các tỉnh Tây Nguyên62, miền
Trung63 nước ta.
Sự không đồng nhất giữa chế độ pháp lý đối với tài nguyên rừng và chế độ pháp
lý đối với đất rừng, đất đai luôn thuộc sở hữu Nhà nước trong khi RSX là rừng
trồng trên đất có thể thuộc sở hữu tư nhân gây khó khăn cho chủ rừng nếu họ thực
hiện các giao dịch dân sự như chuyển nhượng, chuyển đổi, góp vốn… sẽ phát sinh
nhiều trường hợp phức tạp như chủ sở hữu RSX là rừng trồng đồng thời là người sử
dụng đất có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu rừng của mình cho chủ thể khác
nhưng chỉ có thể chuyển nhượng quyền sử dụng đất rừng, việc giao dịch càng
không đơn giản khi chủ sở hữu RSX là rừng trồng không đồng thời là người có
quyền sử dụng đất.
2.2 Hình thức sở hữu Nhà nước đối với rừng
2.2.1 Cơ sở xác lập
Hình thức sở hữu Nhà nước đối với rừng được xác lập thông qua cơ chế đại diện
của chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng. Theo đó, Nhà nước là đại diện
chủ sở hữu cho toàn thể nhân dân thống nhất, quản lý đối với toàn bộ diện tích rừng
tự nhiên, rừng được phát triển bằng vốn của Nhà nước, rừng do Nhà nước nhận
chuyển quyền sở hữu RSX là rừng trồng từ các chủ rừng.
Hình thức sở hữu Nhà nước đối với các loại rừng kể trên được khẳng định trong
các văn bản quy phạm pháp luật như Bộ luật dân sự, Luật BVPTR. Với tư cách một
chủ sở hữu đặc biệt, Nhà nước sẽ thực thi các quyền định đoạt đối với rừng thông
qua các phương thức điều phối rừng như giao rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho
62 "Bản tin lâm nghiệp", http://tongcuclamnghiep.gov.vn/diem-bao/diem-tin-ngay-25-03-2015-a2396,
truy cập ngày 15/7/2015
63 "Quảng Ngãi: Đất lâm nghiệp bỏ hoang, dân lại thiếu đất sản xuất", http://www.baomoi.com/Quang-
Ngai-Dat-lam-nghiep-bo-hoang-dan-lai-thieu-dat-san-xuat/147/16569027.epi, truy cập ngày 15/7/2015
26
thuê đất để trồng rừng; từ đó trao quyền sử dụng rừng cho các đối tượng phù hợp.
Như vậy, Nhà nước thực hiện quyền sở hữu một cách gián tiếp, chủ yếu thông
qua các hoạt động của chủ rừng đối với rừng. Nhà nước kiểm tra, giám sát các chủ
rừng bằng hệ thống pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của chủ rừng và hệ thống
các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương.
2.2.2 Các phương thức điều phối rừng của Nhà nước
2.2.2.1 Phương thức giao rừng64
a. Giao rừng không thu tiền sử dụng rừng
Căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được phê duyệt,
quỹ rừng của từng địa phương và nhu cầu sử dụng rừng của các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân Nhà nước tiến hành giao rừng không thu tiền sử dụng rừng cho các
đối tượng sau:
Ban quản lý RPH, RĐD: Những khu RPH đầu nguồn tập trung có diện tích
từ 5.000 ha trở lên hoặc có diện tích dưới 5.000 ha nhưng có tầm quan trọng về
chức năng phòng hộ hoặc RPH ven biển quan trọng được giao không thu tiền sử
dụng cho Ban quản lý – là tổ chức sự nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thành lập theo quy chế quản lý rừng65. Đối với vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên, khu rừng bảo vệ cảnh quan (cần thiết có Ban quản lý) sẽ được Nhà nước giao
không thu tiền sử dụng cho Ban quản lý rừng đặc dụng.
Đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ, đào tạo, dạy nghề về lâm nghiệp khi có nhu cầu cũng được UNBD cấp tỉnh
giao RPH hoặc RĐD không thu tiền sử dụng phục vụ cho yêu cầu an ninh – quốc
phòng và nghiên cứu khoa học.
Tổ chức kinh tế trong nước, hộ gia đình, cá nhân trong nước: UBND cấp
tỉnh quyết định giao RPH hoặc RSX (là rừng tự nhiên hoặc rừng trồng) cho các tổ
chức kinh tế tại địa phương. Căn cứ vào phương án giao rừng, UBND cấp huyện sẽ
giao RPH, RSX (rừng tự nhiên hoặc rừng trồng) không thu tiền sử dụng rừng cho
các hộ gia đình, cá nhân sinh sống trên địa bàn thuộc cấp xã nơi có rừng trực tiếp
lao động lâm nghiệp66 với hạn mức được giao tối đa không quá 30 ha đối với mỗi
loại rừng67. Xuất phát từ tầm quan trọng của RĐD là những khu rừng được thành
lập chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia,
nguồn gen sinh vật rừng, do đó Nhà nước chỉ giao cho Ban quản lý hoặc các đơn vị
64 Điều 24 Luật BVPTR
65 Điều 27 Quy chế quản lý rừng
66 Điều 20 NĐ 23/2006/NĐ-CP
67 Điều 22 NĐ 23/2006/NĐ-CP
27
vũ trang, tổ chức nghiên cứu khoa học do Nhà nước thành lập sử dụng vào những
mục đích không mang tính kinh doanh thương mại nhằm hạn chế tối đa sự tác động
của con người làm thay đổi cảnh quan, môi trường rừng.
Khi được giao RPH, các chủ rừng nói trên được phép khai thác lâm sản nhưng
phải đảm bảo nguyên tắc mang tính kết hợp trong khuôn khổ không làm ảnh hưởng
đến chức năng phòng hộ của rừng. Thông thường, các chủ rừng được phép khai thác
cây chết, cây sâu bệnh trong rừng phòng hộ là rừng tự nhiên; được khai thác cây
phụ trợ, chặt tỉa thưa khi rừng phòng hộ là rừng trồng có mật độ lớn hơn mật độ quy
định, khai thác cây trồng chính khi đạt tiêu chuẩn khai thác; khai thác măng, tre
nứa, các loại lâm sản khác ngoài gỗ khi đã đạt yêu cầu phòng hộ68. Tuy Nhà nước
công nhận quyền sử dụng rừng nhưng ngoại trừ trường hợp chủ rừng là hộ gia đình,
cá nhân được chuyển đổi diện tích RPH được giao cho các hộ gia đình, cá nhân trên
cùng địa bàn, cá nhân được để thừa kế quyền sử dụng rừng, còn lại các chủ rừng
không được chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng rừng.
Đối với RĐD, việc cho phép khai thác lâm sản rất hạn chế, chỉ được thực hiện
với cây gỗ đã chết, gãy đổ, thực vật rừng ngoài gỗ, trừ các loài thực vật rừng nguy
cấp, quý, hiếm bị cấm khai thác theo quy định của Chính phủ trong khu bảo vệ cảnh
quan và phân khu dịch vụ - hành chính của vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên
nhiên . Nhà nước khuyến khích các hoạt động nghiên cứu khoa học, giảng dạy, thực
tập kết hợp kinh doanh cảnh quan nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái môi trường đáp ứng
điều kiện về lập dự án cụ thể kèm theo sự phê duyệt của các cơ quan có thẩm
quyền. Riêng Ban quản lý RĐD, do phải quản lý một diện tích rừng khá lớn, vượt
quá khả năng nhân lực và vật lực nên có thể tiến hành khoán bảo vệ rừng theo kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng hoặc các tổ chức kinh tế thuê cảnh quan để kinh
doanh du lịch sinh thái - môi trường theo dự án69.
Các chủ thể được giao RSX, tùy thuộc vào từng đối tượng chủ rừng và loại RSX
sẽ có những quy định về quyền và nghĩa vụ riêng. Nhưng nhìn chung, các chủ rừng
sẽ được khai thác lâm sản theo những nguyên tắc của từng loại RSX và chỉ được
thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng tăng thêm do chủ rừng
tự đầu tư so với giá trị quyền sử dụng rừng được xác định tại thời điểm được giao.
Với diện tích RSX là rừng trồng phát triển bằng vốn Nhà nước, chủ rừng là tổ chức
kinh tế không được tự ý thực hiện các giao dịch nói trên. Hộ gia đình, cá nhân được
giao RSX là rừng trồng không thu tiền sử dụng rừng được chuyển nhượng, tặng
cho, cho thuê, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị RSX là rừng trồng, được để
68 Điều 47 Luật BVPTR
69 Mục 2 Chương 4 Luật BVPTR
28
thừa kế quyền sử dụng rừng.
Cộng đồng dân cư thôn70: Tuy không phải là chủ rừng nhưng cộng đồng dân
cư thôn vẫn được UBND cấp huyện giao những diện tích rừng (không phân biệt loại
rừng) giáp ranh giữa thôn, xã, huyện, khu rừng giữ nguồn nước phục vụ trực tiếp
cho cộng đồng hoặc gắn liền với phong tục, tập quán, văn hóa – tín ngưỡng của
cộng đồng mà không thể giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quản lý. Cộng đồng
được công nhận quyền sử dụng rừng ổn định, lâu dài để khai thác, bảo vệ và phát
triển khu rừng vì lợi ích chung của cộng đồng do đó không được phân chia rừng cho
các thành viên trong cộng đồng dân cư thôn; không được chuyển đổi, chuyển
nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn kinh doanh bằng giá trị
quyền sử dụng rừng được giao71.
b. Giao rừng có thu tiền sử dụng rừng
Hình thức giao rừng có thu tiền sử dụng áp dụng đối với RSX là rừng tự nhiên
và RSX là rừng trồng, theo đó UBND cấp tỉnh sẽ giao rừng cho các tổ chức kinh tế
(trong nước hoặc liên doanh với nước ngoài), người Việt Nam định cư tại nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư về lâm nghiệp72. Trường hợp
giao RSX là rừng tự nhiên sẽ do Chính phủ hướng dẫn cụ thể.
Nếu chủ rừng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài có dự án đầu tư tại Việt
Nam được Nhà nước giao RSX là rừng trồng có thu tiền sử dụng rừng thì sẽ được
công nhận là chủ sở hữu đối với diện tích RSX là rừng trồng đó73.
Đối với chủ rừng là tổ chức kinh tế cần tuân theo các quyền và nghĩa vụ chung
của chủ rừng, được hưởng các giá trị tăng thêm của rừng, khai thác lâm sản, cho các
đối tượng khác thuê rừng để kết hợp sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư
nghiệp, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái - môi trường, đầu tư
nghiên cứu khoa học theo quy chế quản lý rừng. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào nguồn
gốc tiền trả cho việc sử dụng vào RSX là rừng trồng có từ ngân sách Nhà nước hay
không mà chủ rừng có những quyền lợi và nghĩa vụ riêng:
Tiền sử dụng rừng có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước: chủ rừng không
được chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng rừng và chỉ được thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng tăng thêm do chủ rừng tự
đầu tư so với giá trị quyền sử dụng rừng được xác định tại thời điểm được giao
70 Khoản 13 Điều 3 Luật BVPTR:" Cộng đồng dân cư thôn toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong
cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương".
71 Điều 30 Luật BVPTR
72 Khoản 3, 4 NĐ 23/2006/NĐ-CP
73 Khoản 1 Điều 75 Luật BVPTR
29
rừng.
Tiền sử dụng rừng không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước: chủ rừng
được chuyển nhượng quyền sử dụng rừng; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng rừng74.
2.2.2.2 Phương thức cho thuê rừng75
a. Cho thuê rừng trả tiền thuê một lần cho cả thời gian thuê
Những dự án đầu tư lâm nghiệp phát triển RSX là rừng trồng của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam sẽ được
UBND cấp tỉnh xem xét cho thuê rừng trả tiền một lần cho cả thời gian thuê để thực
hiện dự án đầu tư kết hợp sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư nghiệp, kinh
doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái - môi trường.
Mặc dù là hình thức thuê rừng, nhưng nếu tiền thuê được thanh toán một lần cho
cả thời gian thuê thì pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài rất giống với quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
RSX là rừng trồng, đặc biệt trong quyền chuyển nhượng rừng, thế chấp, bảo lãnh,
góp vốn bằng giá trị RSX là rừng trồng, để thừa kế76. Sự khác biệt được thể hiện ở
quyền cho thuê lại RSX là rừng trồng và chỉ được tặng cho Nhà nước hoặc cộng
đồng dân cư thôn77.
Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài, quyền và nghĩa vụ của chủ rừng này được
quy định giống nhau trong cả hai trường hợp thuê RSX là rừng trồng (thuê trả một
lần hay thuê trả hàng năm), chủ yếu căn cứ vào giá trị tăng thêm của rừng do chủ
rừng tự đầu tư trong thời gian thuê để có các quyền giao dịch tương ứng với giá trị
tăng thêm đó, quyền khai thác lâm sản phải tuân theo quy định của pháp luật về
khai thác RSX là rừng trồng tại Khoản 2 Điều 55, Khoản 2 Điều 57 Luật BVPTR78
b. Cho thuê rừng trả tiền thuê hàng năm
74 Điều 64 Luật BVPTR
75 Điều 25 Luật BVPTR
76 Khoản 1 Điều 75 Luật BVPTR
77 Khoản 2, 3 Điều 34 NĐ 23/2006/NĐ-CP
78 Điều 76 Luật BVPTR
79 Điều 67 Luật BVPTR
80 Điều 33 NĐ 23/2006/NĐ-CP
30
Đối với tổ chức kinh tế trong nước: UBND cấp tỉnh quyết định cho thuê các loại
rừng (RPH, RĐD là khu bảo vệ cảnh quan, RSX) trả tiền thuê hàng năm. Đối với
RPH, RĐD là khu bảo vệ cảnh quan, chủ rừng được phép khai thác lâm sản trong
rừng theo quy định tại Điều 47, Điều 51 Luật BVPTR, chấp hành quy chế quản lý
rừng, quy chế quản lý RPH79 và không được thực hiện các giao dịch về tài sản như
góp vốn, thế chấp, bảo lãnh, chuyển nhượng, cho thuê lại… quyền sử dụng hai loại
rừng này80.
Đối với RSX, ngoài khai thác lâm sản đáp ứng yêu cầu của từng loại RSX, chủ
rừng còn được sở hữu đối với cây trồng, vật nuôi, tài sản gắn liền với rừng do chủ
rừng tự đầu tư do đó được phép thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng rừng tăng thêm so với giá trị quyền sử dụng rừng được xác định tại thời điểm
được thuê81.
Hộ gia đình, cá nhân: UBND cấp huyện cho hộ gia đình, cá nhân sinh sống tại
địa bàn có rừng thuê RSX trả tiền hàng năm để sản xuất lâm nghiệp, kết hợp sản
xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư nghiệp, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du
lịch sinh thái - môi trường. Quyền khai thác lâm sản và sở hữu các giá trị tăng thêm
từ rừng do hộ gia đình, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư được quy định giống với chủ rừng
là tổ chức kinh tế thuê RSX trả tiền thuê hàng năm. Ngoài ra, chủ rừng được chuyển
nhượng, cho thuê lại quyền sử dụng RSX là rừng trồng bằng vốn từ ngân sách Nhà
nước hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị RSX là rừng trồng do mình đầu
tư82.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài: chủ thể
này được lựa chọn giữa hình thức thuê rừng trả tiền thuê một lần cho cả thời gian
thuê hoặc thuê rừng trả tiền thuê hàng năm đối với RSX là rừng trồng. Đối với hình
thức thuê rừng trả tiền thuê hàng năm, quyền và nghĩa vụ của họ tương tự như
quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế thuê RSX là rừng trồng trả tiền thuê rừng
hàng năm83.
2.2.2.3 Giao đất, cho thuê đất để trồng rừng
Việt Nam có gần 15,4 triệu ha đất lâm nghiệp, trong đó trên 13 triệu ha là đất có
rừng84. Hiến pháp năm 2013 quy định đất đai sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống
nhất quản lý85 nhưng khác với hai hình thức sở hữu đối với tài nguyên rừng, đất đai
chỉ có duy nhất một hình thức sở hữu Nhà nước, người sử dụng đất chỉ được công
nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật86. Hiện nay, hoạt động giao,
cho thuê đất để trồng rừng được điều chỉnh bởi Luật Đất đai 2013 và Luật BVPRT
2004. Theo đó, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sẽ được Nhà nước giao đất
hoặc cho thuê đất lâm nghiệp để trồng RPH, RĐD, RSX. Cụ thể:
Đối với đất RPH: Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các Ban
quản lý RPH để khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng theo quy hoạch, kế hoạch sử
81 Điều 66 Luật BVPTR
82 Điều 71 Luật BVPTR
83 Điều 76 Luật BVPTR
84 Quyết định 1482/QĐ-BTNMT của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 10/9/2012 phê
duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai của cả nước năm 2011 (QĐ 1482/QĐ-BTNMT)
85 Điều 53 Hiến pháp 2013
86 Điều 4 Luật Đất đai 2013
31
dụng đất. Với những khu quy hoạch trồng RPH nhưng chưa có Ban quản lý, Nhà
nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn đang
sinh sống tại đó bảo vệ và phát triển rừng87. Ngoài ra, tổ chức kinh tế (trong nước
hoặc có vốn đầu tư nước ngoài), hộ gia đình, cá nhân còn được thuê đất để trồng
RPH88.
Đối với đất RĐD: do đặc thù sinh thái của loại rừng này nên Nhà nước chỉ giao
đất RĐD cho Ban quản lý RĐD để quản lý, bảo vệ theo quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Bên cạnh đó, tổ chức
kinh tế có thể thuê đất RĐD thuộc khu vực được kết hợp với kinh doanh cảnh quan,
du lịch sinh thái - môi trường dưới tán rừng89.
Đối với đất RSX: trừ đất RSX là rừng tự nhiên được giao cho tổ chức quản lý
rừng còn lại đất RSX là rừng trồng sẽ được giao hoặc cho tổ chức kinh tế (trong
nước hoặc nước ngoài), hộ gia đình, cá nhân (trong nước hoặc nước ngoài), người
Việt Nam định cư tại nước ngoài có dự án đầu tư vào lâm nghiệp thuê để phát triển
rừng nhằm mục đích kinh doanh90. Nếu nguồn gốc vốn để phát triển RSX là rừng
trồng không phải từ ngân sách Nhà nước thì tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân bỏ
vốn đầu tư sẽ được công nhận quyền sở hữu đối với diện tích RSX là rừng trồng đó.
Hạn mức và thẩm quyền giao đất, cho thuê đất để trồng tuân theo quy định của
pháp luật về đất đai. Chủ rừng khi phát triển rừng trên đất được giao, được cho thuê
có các quyền và nghĩa vụ đối với rừng tương tự như khi được giao rừng, cho thuê
rừng. Trong trường hợp chủ rừng là tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân trồng
RSX, RPH trên đất được giao thì họ sẽ được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Cùng với các chính sách giao rừng, cho thuê rừng, chính sách giao đất và cho
thuê đất để trồng rừng đang dần khẳng định sự cần thiết của mình, đặc biệt sau khi
Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 35/2005/CT-TTg ngày 17/10/2005 về tổ chức
thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về biến
87 Điều 136 Luật Đất đai 2013
88 Điều 68, Điều 72 Luật BVPTR
89 Điều 137 Luật Đất đai 2013
90 Điều 135 Luật Đất đai 2013
91 AR-CDM là một trong những dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch (dự án CDM) - là dự án đầu tư
sản xuất theo công nghệ mới, tiên tiến thân thiện với môi trường, có kết quả giảm phát thải khí nhà kính
được Ban chấp hành quốc tế về CDM chấp thuận đăng ký và cấp chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính,
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=detail&docu
ment_id=35676, truy cập ngày 13/7/2015
32
đổi khí hậu, trong đó có việc đẩy mạnh trồng rừng và tái trồng rừng trên những diện
tích đất mất rừng, đất trống đồi trọc trước ngày 31/12/1989 theo Cơ chế phát triển
sạch (AR-CDM)91; trồng rừng theo Chương trình hành động quốc gia về “Giảm
phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý
bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng” (Chương
trình REDD+92) là các dự án đầu tư có nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài rất lớn đang
được thực hiện ở Lào Cai, Bắc Cạn, Lâm Đồng93, dự án AR-CDM thí điểm tại Hòa
Bình, Thừa Thiên Huế94.
2.2.2.4 Thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng95
a. Thu hồi rừng
Tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có thể bị thu hồi diện tích rừng đã được giao trong
các trường hợp Nhà nước sử dụng rừng và đất để phát triển rừng vào mục đích công
cộng, chủ rừng không còn hoặc không có nhu cầu sử dụng rừng (chủ rừng là cá
nhân đã chết mà không có người thừa kế hợp pháp, chủ rừng tự nguyện trả lại
rừng…), chủ rừng vi phạm các quy định pháp luật về bảo vệ và sử dụng rừng, phát
triển rừng, rừng được giao không đúng thẩm quyền hoặc không được gia hạn khi đã
hết thời hạn. Trên thực tế, rừng bị thu hồi thường rơi vào hai nguyên nhân chính:
Thu hồi rừng vì mục đích công cộng thường kèm với hoạt động chuyển mục
đích sử dụng rừng sang xây dựng các công trình thủy điện, khai thác khoảng sản,
lập các khu công nghiệp, phát triển kinh tế theo quy hoạch hoặc để đảm bảo an ninh
– quốc phòng. Ví dụ: vào ngày 15/3/2013 UBND tỉnh Quảng Nam đã thu hồi giấy
chứng nhận đầu tư dự án 1000 ha rừng sản xuất là rừng trồng cây nguyên liệu của
Công ty Innovgreen Quảng Nam (Tập đoàn InnovGreen, Hồng Kông - Trung Quốc)
trên địa bàn 5 xã thuộc huyện Nam Trà My sau gần 6 năm cho tập đoàn nước ngoài
này thuê đất trồng rừng với lí do đất này là vùng biên giới, nằm trong khu vực ảnh
hưởng đến an ninh - quốc phòng nên buộc phải thu hồi96.
92 Quyết định số 799/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/6/2012 phê duyệt chương trình
hành động quốc gia về "Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái
rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng" giai đoạn 2011-
2020.
93 "UN-REDD Vietnam phase II progamme",
http://www.vietnam-redd.org/Web/Default.aspx?tab=project&zoneid=110&lang=vi-VN, truy cập ngày
14/7/2015
94 Vũ Tấn Phương và cộng sự (2007), "Giảm khí gây hiệu ứng nhà kính thông qua hoạt động trồng rừng
– Sử dụng cơ chế CDM trong ngành lâm nghiệp-Kinh nghiệm của Việt Nam", Hội thảo chuyên đề về
Đa dạng sinh học và Biến đổi khí hậu: Mối liên quan tới Đói nghèo và Phát triển bền vững, Hà Nội.
95 Điều 26, 27 Luật BVPTR
96 Vũ Trung , "Thu hồi 1.000 ha đất rừng cho công ty Trung Quốc thuê",
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/246511/thu-hoi-1-000-ha-dat-rung-cho-cong-ty-trung-quoc-
thue.html,truy cập ngày 25/6/2015
33
Thu hồi rừng do có vi phạm pháp luật. Tình trạng các chủ rừng vi phạm các
quy định về bảo vệ và phát triển rừng (thực hiện không đúng dự án đầu tư, tự ý
chuyển mục đích sử dụng của rừng…) hay người dân lấn chiếm đất lâm nghiệp trái
phép còn khá phổ biến ở các tỉnh Tây Nguyên97, Hà Tĩnh, Ninh Thuận…trong khi
công tác thu hồi rừng của các cơ quan chức năng còn chậm do gặp nhiều khó khăn
về nhân lực và vật lực.
Trong trường hợp nhà nước thu hồi toàn bộ hoặc một phần rừng cho các mục
đích công cộng hoặc trong trường hợp thời hạn sử dụng rừng đã hết hoặc chủ rừng
tự nguyện trả lại rừng thì chủ rừng rừng được bồi thường thành quả lao động, kết
quả đầu tư , tài sản bị thu hồi. Việc bồi thường này được thực hiện bằng hiện vật
hoặc bằng tiền tại thời điểm có quyết định thu hồi. Đây là khoản tiền mà Nhà nước
phải trả cho chủ rừng tương xứng với các khoản thu nhập chủ rừng có thể được
hưởng trong thời gian còn lại mà chủ rừng được giao, được thuê từ khai thác lâm
sản; kinh doanh cảnh quan du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học theo quy chế quản
lý và sử dụng rừng. Thẩm quyền thu hồi rừng được quy định trùng với thẩm quyền
giao rừng, nghĩa là cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao loại rừng nào thì cũng có
thẩm quyền thu hồi loại rừng đó.
b. Chuyển mục đích sử dụng rừng
Tùy vào quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được phê duyệt mà
Nhà nước sẽ quyết định chuyển các diện tích RPH, RĐD, RSX sang mục đích sử
dụng khác và việc chuyển mục đích sử dụng từ loại rừng này sang loại rừng khác
theo quy định của pháp luật98. Thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng rừng được
quy định trùng với thẩm quyền xác lập các khu rừng, theo đó Thủ tướng Chính phủ
và UBND cấp tỉnh sẽ quyết định chuyển mục đích sử dụng rừng đối với những khu
rừng so các cơ quan này xác lập trước đó99.
Đối với các dự án phải chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, các đơn vị khi trình
dự án phải đồng thời có báo cáo đánh giá tác động môi trường, có phương án đền bù
giải phóng mặt bằng khu rừng, đảm bảo trồng rừng mới thay thế diện tích rừng sẽ
chuyển sang mục đích sử dụng khác có sự phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền
hoặc phải nộp tiền về Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng100. Trước đây, Luật BVPTR
1991 chỉ dừng ở việc quy định mức đền bù, bồi hoàn giá trị của rừng trong trường
hợp thay đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác mà chưa quan tâm nhiều
đến phục hồi lại diện tích rừng bị mất101, do đó Luật BVPTR hiện hành đã bổ sung
thêm hoạt động này nhằm bảo tồn quỹ rừng cả nước.
34
97 Nguyễn Công Lý, "Gần 9.400 ha đất rừng bị lấn chiếm trái phép",
http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/moi-truong/item/25520902-gan-9-400-ha-dat-rung-bi-lan-chiem-
trai-phep.html, truy cập ngày 11/7/2015
98 Điều 27 Luật BVPTR
99 Khoản 2 Điều 28 Luật BVPTR
100 Khoản 5 Điều 29 NĐ 23/2006/NĐ-CP
101 Điều 13 Luật BVPTR 1991
2.2.3 Thực trạng thực hiện quyền sử dụng rừng ở Việt Nam
Thứ nhất, các tổ chức kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận với
rừng,
Tuy Luật BVPTR quy định tới bảy nhóm đối tượng có thể có đủ điều kiện để trở
thành chủ rừng nhưng theo thống kê thực tế về phân chia tỉ lệ các chủ rừng theo
diện tích quản lý thì các nhóm chủ rừng chính bao gồm Ban quản lý RPH, RĐD
(hiện đang nắm giữ 4,74 triệu ha rừng, tương đương với 33% trong tổng diện tích),
hộ gia đình (3,4 triệu ha, 25%), doanh nghiệp Nhà nước mà chủ yếu là các công ty
lâm nghiệp (14%), diện tích rừng được giao cho cộng đồng gần 600.000 ha. Và mặc
dù Luật BVPTR không quy định UBND xã là một đơn vị chủ rừng nhưng diện tích
rừng chưa có chủ rừng được giao cho UBND xã quản lý rất lớn, khoảng 2,3 triệu
ha. Trong khi đó, tổ chức kinh tế khác (doanh nghiệp không có vốn Nhà nước) chỉ
nắm 1% tổng diện tích rừng với khoảng hơn 200.000 ha chủ yếu là rừng trồng
(76,54%)102. Các tổ chức vẫn có nhu cầu sử dụng rừng, nhất là RSX với diện tích
lớn để đầu tư phát triển rừng nhằm mục đích kinh doanh song lại gặp vướng mắc từ
nhiều phía, thông thường do vốn đầu tư trồng rừng quá lớn khiến các doanh nghiệp
vừa và nhỏ không thể tiếp cận được rừng, nhiều doanh nghiệp đã nhận dự án cũng
đứng trước nguy cơ không hoàn thành kế hoạch hoặc tiến độ trồng rừng chậm do
thiếu vốn xoay vòng, việc vay vốn của ngân hàng thương mại để trồng RSX rất khó
khăn (lãi suất cao, thời hạn vay ngắn trong khi chu kỳ sản xuất dài). Hơn nữa, công
tác rà soát đất đai, khảo sát lập hồ sơ thiết kế, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất phức tạp, tốn thời gian, chưa kể đến khoản thuế phải trả hàng năm cho việc
sử dụng đất rừng rất cao, nếu doanh nghiệp không thể hoàn thành các nghĩa vụ tài
chính này cũng đồng nghĩa với việc không có tài sản (quyền sử dụng đất) để thế
chấp vay vốn từ các tổ chức tín dụng, không có vốn các doanh nghiệp không thể
nào tạo được bước đột phá trong phát triển sản xuất kinh doanh từ rừng.
Thứ hai, hoạt động quản lý, bảo vệ rừng của các Ban quản lý RĐD, RPH, cộng
đồng dân cư thôn được Nhà nước giao rừng không thu tiền sử dụng rừng chưa đạt
hiệu quả cao,
Hiện nay, Ban quản lý RPH, RĐD quản lý diện tích rừng tương đối lớn, chiếm
tới 33% tổng diện tích rừng của cả nước103, hầu hết là các khu rừng tự nhiên có vai
trò quan trọng trong phòng hộ và bảo tồn thiên nhiên thế nhưng thực tế tình trạng
suy thoái rừng ở nước ta cho thấy đây là những diện tích phải đối mặt với nạn phá
102 Phụ lục 1
103 Phụ lục 1
35
rừng trái phép nhiều nhất và ngày càng có chiều hướng gia tăng, riêng khu vực Tây
nguyên – Đông Nam Bộ có tới gần 10.000 ha RPH, RĐD bị tàn phá mỗi năm104.
Gần đây nhất là vụ phá RĐD nghiêm trọng Bà Nà – Núi Chúa ở Đà Nẵng, chặt phá
công khai RPH Nam Cát Tiên ở Đăk Nông, phá PRH Phú Quốc…. Nguyên nhân
mất rừng xuất phát từ nhiều lí do, trước hết xuất phát từ sự quản lý chưa hiệu quả
của các Ban quản lý. Với nguồn kinh phí hoạt động hạn chế, lực lượng mỏng lại
phải duy trì kiểm soát một diện tích rừng tương đối lớn có nguy cơ bị xâm hại cao
do có nhiều loài thực vật, động vật giá trị cao sinh trưởng trong khu rừng gây ra
nhiều khó khăn cho các lực lượng chức năng trong công tác bảo vệ rừng. Mặt khác,
Ban quản lý RPH, RĐD với tư cách là một chủ rừng nhưng lại thiên về quản lý Nhà
nước, chế độ "hưởng lợi" từ khu rừng họ đang quản lý hầu như không có (khai thác
rừng hạn chế, không được chuyển nhượng, góp vốn, bảo lãnh giá trị quyền sử dụng
rừng như các chủ rừng khác) không những khiến các Ban quản lý không thể thực
hiện tốt nghĩa vụ với rừng mà đôi khi còn lí giải vì sao là chủ rừng nhưng lại vi
phạm các quy định về bảo vệ và phát triển rừng.
Đối với cộng đồng dân cư thôn, Trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương,
nhiều quốc gia như Campuchia, Bu-tan, Indonesia, Thái Lan… cũng áp dụng
phương thức giao rừng cho cộng đồng dân cư địa phương vùng có rừng như một
biện pháp bảo tồn rừng hiệu quả105. Ở Việt Nam, tính đến hết năm 2013, đã giao
cho cộng đồng quản lý trên toàn quốc gần 600.000 ha rừng chiếm 4,3% tổng điện
tích rừng trong cả nước, trong đó, rừng tự nhiên chiếm tuyệt đại đa số lên đến 96%,
rừng trồng chỉ chiếm có 4%106. Việc Nhà nước giao rừng cho cộng đồng dân cư
thôn không những góp phần nâng cao công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng
mà còn tạo cơ hội cải thiện kinh tế, tăng thu nhập cho một cộng đồng nhất định từ
sản xuất lâm nghiệp kết hợp du lịch sinh thái, những thành quả này là không thể phủ
nhận thông qua ví dụ điển hình giao rừng cho cộng đồng ở huyện Phú Lộc – tỉnh
Thừa Thiên Huế107. Tuy nhiên qua một thời gian thực hiện chính sách giao rừng cho
cộng đồng dân cư thôn đã bộc lộ một số bất cập đáng kể trên thực tế:
Một là, một trong những căn cứ quan trọng để tiến hành giao rừng cho một
cộng đồng dân cư là dựa vào tầm ảnh hưởng của khu rừng đối với một nhóm dân cư
nhất định, đặc biệt là về văn hóa, tín ngưỡng, truyền thống lâu đời gắn liền với đời
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ScienceAndEnvironment/com-fores-way-to-conser-
104 Cao Nguyên, "Mỗi năm mất 31.000 ha rừng", http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/moi-nam-mat-
31000-ha-rung-20111022103614836.htm, truy cập ngày 13/7/2015
105 Gia Minh, "Giao rừng cho cộng đồng dân cư: Một cách bảo tồn rừng",
12152013052944.html, truy cập ngày 02/7/2015.
106 QĐ 3322/ QĐ-BNN-TCLN
107 Lê Quang Vĩnh, Ngô Thị Phương Anh và cộng sự (2012), "Đánh giá hiệu quả quản lý rừng cộng
đồng tại huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế", Tạp chí khoa học – Đại học Huế, Số 6, tr.230
36
sống tâm linh như rừng thiêng, rừng ma, rừng cung cấp lâm sản truyền thống cho
cộng đồng đa phần là của cộng đồng các dân tộc thiểu số. Vấn đề đặt ra là, các cộng
đồng dân tộc này khi quản lý rừng thường không áp dụng pháp luật về lâm nghiệp
hiện hành của Nhà nước mà thường sử dụng luật tục truyền thống từ xưa để lại gây
không ít khó khăn cho các cơ quan quản lý rừng thực hiện đồng bộ các quy hoạch,
kế hoạch quản lý và bảo vệ rừng trên địa bàn, mặt khác sự hạn chế về nhận thức
pháp luật cũng khiến nhiều mô hình giao rừng cho cộng đồng dân cư khó thành
công trên thực tế khi không thể thiết kế một kế hoạch phát triển rừng cụ thể để vận
hành các hoạt động trong khu rừng của cộng đồng sao cho phù hợp với quy định
của pháp luật hiện hành.
Hai là, điều kiện kinh tế nói chung của các cộng đồng dân cư nơi địa bàn có
rừng tương đối thấp trong khi rừng được giao cho cộng đồng lại là diện tích rừng
nghèo kiệt, trữ lượng thấp, nguồn ngân sách hỗ trợ còn nhiều hạn chế cũng gây
nhiều khó khăn cho hoạt động tái sinh rừng.
Ba là, cộng đồng dân cư thôn được Nhà nước công nhận quyền sử dụng rừng,
bảo vệ và phát triển rừng như các chủ rừng khác nhưng không được công nhận tư
cách chủ rừng, không được chuyển nhượng, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
rừng do cộng đồng đầu tư.
Thứ ba, quy định về thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển
rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng chưa đáp ứng được yêu cầu bảo tồn vốn
rừng,
Về phân loại rừng, việc quản lý và bảo vệ rừng theo 3 loại rừng là RPH,
RĐD, RSX như hiện nay tạo ra nhiều khó khăn cho việc xây dựng chiến lược, lập
quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của từng địa phương do khó xác định
được chính xác được loại rừng, nhiều khu vực có rừng nhưng diện tích rừng bị chia
nhỏ thành nhiều loại nằm xen kẽ nhau, không tập trung. Thêm vào đó, bản thân mỗi
loại rừng đều có các chức năng phòng hộ, bảo tồn thiên nhiên và có thể đưa vào sản
xuất, kinh doanh dịch vụ nhưng việc phân chia theo 3 loại rừng đã tuyệt đối hóa
chức năng của từng loại rừng, không những làm cho các chủ rừng khó phát huy
được hiệu quả quản lý, sử dụng rừng mà còn chưa thực sự phù hợp với cách phân
loại rừng của quốc tế.
Về lập quy hoạch, kế hoạch phát triển và bảo vệ rừng, các cơ quan quản lý
lâm nghiệp các cấp như Tổng cục Lâm nghiệp, Sở NNPTNT là các cơ quan chuyên
môn song lại chưa tham gia nhiều vào việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát
triển rừng ở từng địa phương hay hỗ trợ cho UBND các cấp thẩm định, phê duyệt,
điều chỉnh nội dung quy hoạch, kế hoạch; quyết định xác lập các khu rừng. Điều
37
này khiến cho các quy hoạch, kế hoạch khó đảm bảo được tính phù hợp với thực
tiễn. Bên cạnh đó, UBND cấp xã bị hạn chế rất nhiều về năng lực chuyên môn của
cán bộ, kinh phí hoạt động thấp, lực lượng mỏng lại có thẩm quyền lập quy hoach,
kế hoạch sử dụng rừng ở địa phương là chưa hợp lý.
Về chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, Luật BVPTR nước ta khá cởi mở về
việc lập quy hoạch, kế hoạch, trao quyền tự chủ cho các địa phương, trong đó có
hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sao cho phù hợp với mục tiêu phát
triển của của tỉnh đó. Hiện nay, hầu hết các tỉnh đều hướng tới mục tiêu phát triển
kinh tế, điều này đã dẫn tới hệ quả là trong năm 2013, có 37 tỉnh chuyển 9.528,48
ha rừng sang mục đích khác không phải lâm nghiệp, trong đó: khai thác khoáng sản
1.014,99 ha; thuỷ điện 332,71 ha; thuỷ lợi 451,41 ha; làm đường 461,57 ha; khu du
lịch và sân golf 13,79 ha; khu công nghiệp, cảng 37,21 ha; nông nghiệp 2.868,57
ha; an ninh - quốc phòng 136,01 ha; mục đích khác 4.212,23 ha108.
Đối với các dự án phải chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, các đơn vị khi trình
dự án phải đồng thời có báo cáo đánh giá tác động môi trường, có phương án đền bù
giải phóng mặt bằng khu rừng, đảm bảo trồng rừng mới thay thế diện tích rừng sẽ
chuyển sang mục đích sử dụng khác có sự phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền
hoặc phải nộp tiền về Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng109. Tuy nhiên, tính riêng với
các dự án thủy điện, đến tháng 10/2013, diện tích rừng trồng thay thế khi chuyển
mục đích sử dụng rừng chỉ đạt 13% (2.571 ha/19.805,3 ha)110 và chưa có một chủ
đầu tư dự án thủy điện nào nộp tiền về Quỹ111. Bên cạnh đó, các vị trí các công trình
thủy điện hầu hết ở vùng núi cao, khu vực đầu nguồn nên diện tích rừng bị chuyển
đổi đa phần là rừng tự nhiên; tính bình quân, một nhà máy thủy điện cần 59 ha rừng
mà Việt Nam có gần 834 công trình thủy điện lớn nhỏ112, như vậy có tới gần 20.000
ha rừng trong đó bao gồm 3.060 ha RPH, 4.411 ha RĐD phải nhường đất cho thủy
điện113 (số liệu thống kê tới năm 2013).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện các biện pháp khôi phục rừng sau
khi chuyển mục đích sử dụng khó triển khai trên thực tế, theo Thông tư Số
24/2013/TT-BNNPTNT của Bộ NNPTNT ban hành ngày 06/5/2015 quy định về
trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích sử dụng khác
108 Bộ NNPTNT (2013), Báo cáo phát triển ngành lâm nghiệp 2013, Hà Nội, tr.12
109 Khoản 5 Điều 29 NĐ 23/2006/NĐ-CP
110 Bộ NNPTNT (2013), tlđd (108), tr.12
111 Hiếu Lam, "Chưa có đồng nào về quỹ phát triển rừng sau thủy điện", http://baodatviet.vn/kinh-
te/doanh-nghiep/chua-co-dong-nao-ve-quy-phat-trien-rung-sau-thuy-dien-2358982/,
truy cập ngày
12/7/2015.
112 Duy Quốc, "Một thủy điện mất 59 ha rừng", http://baodatviet.vn/kinh-te/doanh-nghiep/chua-co-
dong-nao-ve-quy-phat-trien-rung-sau-thuy-dien-2358982/., truy cập ngày 12/7/2015.
113 Thu Sương, "20.000 ha rừng bị thủy điện "ngốn"", http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/20000-ha-
rung-bi-thuy-dien-ngon-20121031100457303.htm, truy cập ngày 12/7/2015.
38
tại khoản 1 Điều 3: "Tổ chức, cá nhân là chủ dự án có chuyển mục đích sử dụng
rừng sang mục đích khác chịu trách nhiệm tổ chức lập phương án trồng rừng thay
thế" trong khi các chủ dự án này không hề có chức năng hay chuyên môn nghiệp vụ
về lâm nghiệp, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của phương án, thời
gian chờ thẩm định, phê duyệt từ phía các cơ quan có thẩm quyền; việc tìm quỹ đất
phù hợp để trồng rừng mới thay thế cho diện tích rừng trước đó cũng không dễ dàng
bởi vướng mắc quy hoạch, kế hoạch đất lâm nghiệp; để khắc phục những khó khăn
đã nêu Nhà nước cho phép các chủ dự án lựa chọn nộp tiền về Quỹ Bảo vệ và phát
triển rừng song do thiếu các quy định thời hạn nộp, cơ chế phạt nộp trễ hạn nên các
chủ dự án thường trì hoãn mặc dù đã nhận rừng.
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích sử dụng khác mà không
có phương án tái sinh các diện tích rừng đã mất một cách hiệu quả đang làm suy
thoái nguồn tài nguyên rừng một cách nhanh chóng, đặc biệt đối với những khu
rừng tự nhiên một khi bị khai thác triệt để trên diện tích lớn sẽ không có cơ hội phục
hồi, gây ảnh hưởng xấu tới môi trường trong tương lai. Mặt khác, lợi ích đạt được
từ những dự án chuyển đổi rừng cũng chưa thực sự bù đắp được những thiệt hại do
mất rừng gây ra. Nhà nước cần xây dựng những phương án cụ thể, thiết thực hơn để
vừa đảm bảo quỹ đất cho xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế vừa bảo tồn tốt
nguồn tài nguyên rừng ở nước ta.
Thứ tư, một số bất cập trong quy định của pháp luật về giao rừng, cho thuê
rừng
Hiện nay, các tổ chức kinh tế được giao RSX là rừng tự nhiên có thu tiền sử
dụng rừng đối nhưng phần lớn rừng giao cho chủ rừng này là rừng nghèo, rừng
phục hồi, chưa thể đưa vào khai thác trong một thời gian dài và cần một số vốn rất
lớn để phát triển rừng. Hơn nữa khi khai thác rừng, chủ rừng đã phải đóng thuế tài
nguyên do vậy nếu vẫn quy định tổ chức kinh tế phải nộp tiền sử dụng rừng cho loại
rừng này khi lợi ích thu được từ rừng chưa có là không phù hợp.
Nội dung pháp lý về quyền sử dụng, quyền hưởng lợi từ rừng tự nhiên cũng
chưa được quy định rõ ràng, minh bạch trong các văn bản pháp lý, đặc biệt là mối
quan hệ về lợi ích giữa nhà nước - với tư cách là đại diện chủ sở hữu rừng tự nhiên
và chủ rừng với tư cách là người được nhà nước giao quyền sử dụng rừng thông qua
hình thức giao rừng, cho thuê rừng. Các chính sách giao, cho thuê rừng thường
hướng vào bảo vệ tài nguyên thiên nhiên hơn là bảo hộ tài sản và lợi ích chính đáng
của các chủ rừng.
Luật BVPTR quy định tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước được Nhà
nước cho thuê rừng thu tiền thuê rừng hàng năm, trong khi đó, tổ chức, cá nhân
39
nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài lại được chọn trả tiền thuê rừng
hàng năm hoặc trả tiền một lần cho cả thời gian thuê. Điều này dẫn đến sự không
bình đẳng giữa tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước với tổ chức, cá nhân nước
ngoài.
2.3 Hướng hoàn thiện pháp luật về sở hữu rừng ở Việt Nam
Thứ nhất, xây dựng cơ chế hỗ trợ cho các chủ sở hữu RSX là rừng trồng.
Quan điểm chỉ đạo của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là "khuyến khích các
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng và chế
biến lâm sản theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng" để đến hết
năm 2015 cả nước có 5 triệu ha RSX, bình quân mỗi năm 250 nghìn ha114. Để đạt
được mục tiêu này Nhà nước cần quan tâm khắc phục khó khăn cho các chủ sở hữu
RSX là rừng và tạo cơ hội công nhận quyền sở hữu RSX là rừng trồng cho các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng rừng nhưng còn thiếu một số điều
kiện nhất định. Cụ thể:
Về vấn đề tài chính, thay vì thực hiện cơ chế hỗ trợ vốn115 (hỗ trợ sau đầu tư và
hỗ trợ đầu tư) như hiện nay Nhà nước nên đẩy mạnh việc thành lập các nguồn vay
ưu tiên, cho vay với lãi suất ưu đãi trong thời gian dài, chủ rừng có thể hoàn trả
khoản vay sau khi rừng đã đi vào khai thác, tìm kiếm các nguồn hỗ trợ từ nước
ngoài như ODA, vốn cho các dự án phát triển theo Cơ chế AR-CDM, REDD+… rồi
chuyển giao lại cho các đối tượng trong nước còn thiếu hụt vốn phát triển rừng.
Nhân rộng các mô hình cho vay lại đã đạt những thành công nhất định như mô hình
Dự án phát triển Lâm nghiệp do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ đã mang lại hiệu quả
mạnh mẽ về kinh tế, tác động tích cực về xã hội và môi trường cho các cộng đồng
dân cư. Triển khai từ năm 2005 đến năm 2015 tại các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi,
Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Nghệ An và Thanh Hóa, hơn 43.000 hộ dân đã được
tiếp cận với các khoản vay lãi suất thấp và hỗ trợ kỹ thuật để trồng hơn 76.500 héc
ta rừng bằng chính vốn vay từ thế chấp quyền sử dụng đất rừng116. Cần chú ý rằng
các biện pháp này không phải là Nhà nước trợ cấp cho chủ rừng trồng rừng thuộc sở
hữu Nhà nước mà hướng tới chuyển giao quyền sở hữu RSX là rừng trồng cho các
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoặc hỗ trợ các chủ sở hữu RSX là rừng trồng an tâm
114 Điều 1, 2 QĐ 147/2007/QĐ-TTg
115 Điều 4 QĐ 147/2007/QĐ-TTg: "1. Hỗ trợ sau đầu tư: là hình thức hỗ trợ mà tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân và cộng đồng có đất quy hoạch là rừng sản xuất tự tổ chức trồng rừng, sau khi rừng trồng được
nghiệm thu, Nhà nước sẽ thanh toán cho người trồng rừng phần vốn hỗ trợ theo quy định tại Quyết định
này.
2. Hỗ trợ đầu tư: là hình thức hỗ trợ một phần vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân và cộng đồng để trồng rừng."
116 "Hỗ trợ trồng rừng bền vững tại Việt Nam",
http://www.worldbank.org/vi/news/press-release/2015/03/27/supporting-sustainable-forest-plantations-
in-vietnam, truy cập ngày 15/7/2015
40
phát triển khu rừng của mình. Bởi so với các chủ rừng chỉ có quyền sử dụng rừng,
chủ sở hữu RSX là rừng trồng luôn đầu tư và bảo vệ cho diện tích rừng mình đang
quản lý tốt hơn khi lợi ích của họ gắn liền với RSX là rừng trồng.
Về kỹ thuật nuôi trồng, hiện nay, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh các địa phương
đều có tổ chức các cơ sở khuyến lâm, cơ sở hướng dẫn về lâm nghiệp tuy nhiên đa
phần hoạt động mang tính hình thức, hoạt động không thường xuyên do vậy chưa
thể hiện được vai trò quan trọng trong việc đồng hành cùng các chủ rừng phát triển
rừng. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm từ Phần Lan -
một trong những quốc gia thực thi thành công nhất việc bảo vệ và quản lý rừng bền
vững với hơn 74% diện tích rừng thuộc sở hữu tư nhân117. Quốc gia này xây dựng
các dịch vụ lâm nghiệp trên cả nước được chia thành hai phần, một phần là hỗ trợ
các khu rừng nhà nước và một phần có trách nhiệm giám sát và hỗ trợ hoạt động
lâm nghiệp tư nhân trong đó có hỗ trợ chủ rừng lập kế hoạch phát triển rừng, dạy kỹ
thuật nuôi trồng và chăm sóc rừng đạt tiêu chuẩn để lấy được Chứng chỉ rừng theo
tiêu chuẩn chung của EU118. Mô hình vừa cho vay vốn vừa hỗ trợ kỹ thuật của Dự
án phát triển Lâm nghiệp do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ tại các tỉnh miền Trung
cũng đáng để học hỏi, khi những người chủ sở hữu RSX là rừng trồng có thể thu
được lợi nhuận cao từ chính khu rừng mình bỏ vốn đầu tư, thậm chí là đạt tiêu
chuẩn lấy chứng chỉ rừng quốc tế.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt
động điều phối rừng của Nhà nước
Thay đổi quy định về phân loại rừng, vẫn căn cứ vào mục tiêu sử dụng song
chỉ chia làm hai loại (1) RSX hay rừng kinh tế, gồm toàn bộ diện tích RSX, RPH
xung yếu và ít xung yếu119 hiện nay và (2) Rừng bảo vệ, bảo tồn, bao gồm toàn bộ
diện tích RĐD và RPH rất xung yếu hiện nay. Cách thức phân loại mới tương đối
117 Ministry of Agriculture and Forestry (2006), Forests and Forestry in Finland, Filand, pp.1-2
118 Sofia Hirakuri, "How Finland made forest owners follow the law",
www.cifor.org/online-library/polex-cifors-blog-for-and-by-forest-policy-
experts/english/detail/article/1222/how-finland-made-forest-owners-follow-the-law-1/browse.html.,
truy cập ngày 01/7/2015.
119 Vùng rất xung yếu: Bao gồm những nơi đầu nguồn nước, có độ dốc lớn, gần sông, gần hồ có nguy
cơ bị xói mòn mạnh, có yêu cầu cao nhất về điều tiết nước.
Vùng xung yếu: Bao gồm những nơi có độ dốc, mức độ xói mòn và điều tiết nguồn nước trung bình,
nơi có điều kiện kết hợp phát triển sản xuất lâm nghiệp, có yêu cầu cao về bảo vệ đất và sử dụng đất
Vùng ít xung yếu: Bao gồm những nơi có độ dốc thấp, ít nguy cơ xảy ra xói mòn, dòng chảy và các sự
cố khác về môi trường. – Theo Quyết định 61/2005/QĐ-BNN của Bộ trưởng BNNPTNT ngày
12/10/2005 về ban hành bản quy định về tiêu chí phân cấp rừng phòng hộ.
120 Bộ NNPTNT (2013), tlđd (108), tr.75
41
phù hợp với quy định của quốc tế, thuận lợi cho tổ chức quản lý một cách thống
nhất, thống nhất, tạo điều kiện mở rộng rừng RSX chuyên canh. Để từng bước thực
hiện phân loại lại rừng Nhà nước nên chuyển đổi những diện tích RPH ít xung yếu
sang RSX nhưng vẫn đảm bảo chức năng phòng hộ của chúng120.
Nâng cao vai trò của các cơ quan chuyên môn về lâm nghiệp trong các hoạt
động lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, giao rừng, cho thuê rừng…
Cần bãi bỏ thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch của UBND cấp xã.
Yêu cầu xây dựng thống nhất giữa chế độ pháp lý của tài nguyên rừng và chế
độ pháp lý đối với đất rừng bằng cách xây dựng khung pháp lý quy định về việc
phối hợp cũng như trách nhiệm của ngành NNPTNT và ngành Tài nguyên môi
trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng gắn với quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất lâm nghiệp, đảm bảo việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất kịp thời với việc giao rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân121.
Nhà nước nên cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước khi thuê rừng
được lựa chọn giữa hai hình thức thuê rừng trả tiền thuê một lần và thuê trả hàng
năm để ưu tiên tối đa hóa cơ hội tiếp cận rừng của các chủ rừng trong nước trước
cũng như thu hút vốn đầu tư vào rừng.
Để tránh tình trạng suy thoái tài nguyên rừng do rừng bị chuyển đổi mục
đích sử dụng sang mục đích khác như hiện nay cần quy định chặt chẽ hơn về thẩm
quyền cho chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đặc biệt với những dự án sử dụng
đến đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng
nghiên cứu, thực nghiệm khoa học từ 50 ha trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50
ha trở lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, dự án, công trình có ảnh hưởng
lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng chắn sóng lấn
biển, bảo vệ môi trường từ 200 ha trở lên; RSX từ 500 ha trở lên phải trình Quốc
Hội quyết định chủ trương đầu tư.
Bên cạnh đó, các dự án đầu tư trên diện tích rừng chuyển đổi bắt buộc phải làm
báo cáo đánh giá tác động môi trường phải và có ý kiến bằng văn bản của cơ quan
chuyên ngành cấp trên; có sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành lâm nghiệp và
cơ quan thẩm định độc lập; có phương án đền bù giải phóng mặt bằng khu rừng có
sự đồng thuận của cộng đồng dân cư địa phương nơi bị chuyển đổi và phối hợp với
các cấp chính quyền địa phương lên phương án trồng rừng mới thay thế diện tích bị
chuyển đổi mục đích sử dụng. Chỉ khi các chủ dự án hoàn thành phương án trồng
rừng thay thế hoặc đã nộp tiền về Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng họ mới được Nhà
nước giao rừng để thực hiện các dự án theo hồ sơ đã đăng ký.
Thứ ba, xã hội hóa nghề rừng, góp phần nâng hiệu quả của các hình thức sở
121 Bộ NNPTNT (2013), tlđd (108), tr.76
42
hữu đối với rừng
Trong quá trình tái cơ cấu ngành lâm nghiệp ở Việt Nam, chủ trương xã hội hóa
nghề rừng luôn được đặt lên hàng đầu nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư cho bảo
vệ và phát triển rừng bền vững.
Xã hội hóa trong ngành lâm nghiệp Việt Nam được hiểu là sự tham gia rộng rãi
của các chủ thể trong xã hội như hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng và các tổ chức vào
thực hiện các hoạt động gây trồng rừng, bảo vệ rừng, khai thác, chế biến lâm sản và
các dịch vụ môi trường, mang lại lợi ích thiết thực cho các thủ thể tham gia, mà
trước đó các hoạt động này do các cơ quan Nhà nước, các thành phần kinh tế Nhà
nước và tập thể quản lý và thực hiện là chủ yếu122. Hiểu đơn giản, xã hội hóa lâm
nghiệp tức là tạo cơ hội tiếp cận rừng bình đẳng cho mọi cá nhân trong xã hội, trao
quyền định đoạt nhiều hơn cho các chủ rừng đang trực tiếp quản lý rừng, chủ rừng
được hưởng lợi ích nhiều hơn từ chính khu rừng họ đầu tư sản xuất thay vì chủ yếu
thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước như trước đây.
Để từng bước hoàn thiện xã hội hóa lâm nghiệp ở Việt Nam cần thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp trong đó ưu tiên hàng đầu là đẩy mạnh giao, cho thuê những diện
tích rừng chưa có chủ rừng do UBND quản lý tới các đối tượng chủ rừng trong xã
hội, Nhà nước nên chỉ đóng vai trò quản lý hoạt động của các chủ rừng bởi rừng là
nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng của quốc gia đồng thời là nguồn tư liệu sản
xuất có thể đem lại những lợi ích kinh tế rất cao nếu được quản lý và sử dụng hiệu
quả.
Khuyến khích tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng đầu tư sản xuất
lâm nghiệp bằng các hoạt động khuyến lâm, hỗ trợ các hộ nông dân, cộng đồng về
giống, kỹ thuật, vốn và đầu ra để họ chủ động đầu tư vào sản xuất trên các diện tích
rừng và đất rừng đã nhận. Tăng tính tự chủ cho các chủ rừng trong công tác lập kế
hoạch phát triển phù hợp cho khu rừng của mình không quan trọng nguồn gốc vốn
đầu tư là của Nhà nước hay tư nhân.
Đối với Ban quản lý RPH, RĐD: Được khai thác rừng theo phương án quản
lý rừng bền vững, được ngân sách nhà nước đầu tư cho các công trình trong khu
rừng phòng hộ; được Nhà nước cấp kinh phí sự nghiệp thường xuyên và được cấp
kinh phí quản lý, bảo vệ rừng ổn định để tổ chức thuê, khoán, hợp đồng cộng đồng
dân cư tại chỗ, mua sắm trang thiết bị để quản lý, bảo vệ rừng; Ngân sách nhà nước
hỗ trợ đầu tư cho cộng đồng dân cư thôn bản để đồng quản lý RPH, RĐD; khuyến
khích ban quản lý tổ chức du lịch sinh thái trong rừng phòng hộ hoặc liên kết với
các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch sinh thái; được thực hiện các dịch
122 Nguyễn Bá Ngãi, "Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa trong ngành lâm
nghiệp",www.isgmard.org.vn, truy cập ngày 19/7/2015.
43
vụ môi trường rừng để tạo nguồn thu cho quản lý bảo vệ rừng
Đối với tổ chức kinh tế: cần xóa bỏ được những khó khăn, vướng mắc khiến
các doanh nghiệp khó tiếp cận được với rừng như hiện nay bằng cách thực hiện giao
rừng không thu tiền sử dụng rừng đối với các công ty lâm nghiệp đang quản lý RSX
là rừng tự nhiên nghèo và mới phục hồi; bổ sung quy định RSX là rừng tự nhiên
giao cho công ty lâm nghiệp là tài sản của công ty và được góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng rừng để liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp và hộ gia đình trên
nguyên tắc phải bảo toàn vốn rừng; được vay vốn ưu đãi, lãi suất thấp, giảm thuế sử
dụng đất đối với diện tích đất để phát triển rừng.
Đối với cộng đồng dân cư thôn: Ưu tiên giao các khu RSX là rừng tự nhiên
và RPH quy mô nhỏ cho các cộng đồng dân cư thôn quản lý và sử dụng lâu dài, đặc
biệt là các diện tích do UBND cấp xã đang tạm thời quản lý và các diện tích rừng
mà các chủ rừng khác quản lý bảo vệ chưa có hiệu quả đồng thời quan tâm xây
dựng xây dựng quy chế quản lý rừng cộng đồng và chính sách hỗ trợ quản lý rừng
cộng đồng để nâng cao chất lượng các mô hình giao rừng cho cộng đồng dân cư
thôn hoạt động chưa hiệu quả hiện nay bởi so với các chủ rừng là hộ gia đình, cá
nhân cộng đồng dân cư thôn có những thuận lợi nhất định khi sinh sống trong khu
vực có rừng, phụ thuộc vào rừng, có khả năng về nhân lực do đó nếu nhận được sự
quan tâm, hỗ trợ kịp thời từ phía các cơ quan Nhà nước về tổ chức quản lý, hỗ trợ
một phần vốn, kỹ thuật thì họ có thể trở thành một trong các chủ rừng bảo vệ và
phát triển rừng hiệu quả nhất, quản lý tốt những diện tích RSX là rừng tự nhiên và
44
RPH quy mô nhỏ một cách ổn định, lâu dài.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Quyền sở hữu tư nhân đối với RSX là rừng trồng được thể hiện qua nội dung
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu RSX là rừng trồng. Chủ sở hữu RSX là rừng
trồng được công nhận quyền sở hữu đối với RSX là rừng trồng do họ tự bỏ vốn đầu
tư và có toàn quyền định đoạt đối với cây trồng, vật nuôi trên đất - quyền sở hữu
này chỉ mang tính chất tương đối. Diện tích RSX là rừng trồng ở Việt Nam hiện nay
tương đối ít và các chủ sở hữu rừng còn gặp khó khăn về nhiều mặt.
Nhà nước thực hiện quyền sở hữu của mình đối với tài nguyên rừng thông qua
hoạt động điều phối rừng bao gồm các phương thức giao rừng, cho thuê rừng, giao
đất, cho thuê đất để trồng rừng, thu hồi rừng và chuyển mục đích sử dụng rừng. Bên
cạnh những thành tích đạt được góp phần phát triển kinh tế lâm nghiệp cả nước, vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế trong công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ và phát triển
rừng gây ra tình trạng suy thoái tài nguyên rừng.
Đề xuất một số hướng hoàn thiện pháp luật về sở hữu tài nguyên rừng ở Việt
45
Nam hiện nay.
KẾT LUẬN
Trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020123 và Kế
hoạch phát triển rừng giai đoạn 2011-2020124 đều khẳng định rõ mục tiêu phát triển
lâm nghiệp Việt Nam hiệu quả và bền vững theo hướng bảo vệ tốt diện tích rừng
hiện có kết hợp với các phương án nâng độ che phủ của rừng; giữ sản xuất lâm
nghiệp tăng trưởng nhanh, lâm sản hàng hóa ngày càng thích ứng với biến đổi của
thị trường thế giới và góp phần nâng cao đời sống người làm nghề rừng; chủ trương
xã hội hóa nghề rừng. Để đạt được những mục tiêu đã đề ra cần thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp trong đó có tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, mà ưu tiên hàng đầu là
hoàn thiện chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở nước ta.
Đề tài nghiên cứu "Chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam" đưa ra
cái nhìn khái quát về chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng với hai hình
thức sở hữu, đó là: hình thức sở hữu tư nhân đối với RSX là rừng trồng và hình thức
sở hữu Nhà nước đối với tài nguyên rừng. Bên cạnh đó, tác giả phân tích thực trạng
quyền sở hữu rừng ở Việt Nam qua hai hình thức sở hữu đối với rừng, từ đó làm rõ
một số điểm chưa phù hợp trong các quy định pháp lý về quản lý, bảo vệ tài nguyên
rừng, những bất cập, khó khăn trên thực tế khi áp dụng các quy định liên quan đến
sở hữu rừng.
Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ và phát triển rừng
cũng như hoàn thiện chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam:
Xây dựng kế hoạch khuyến khích, hỗ trợ chủ sở hữu RSX là rừng trồng về
vốn, kỹ thuật, thị trường…;
Hoàn thiện hoạt động điều phối rừng của Nhà nước qua cơ chế giao rừng,
cho thuê rừng; giao đất, cho thuê đất để trồng rừng; thu hồi rừng, chuyển mục đích
sử dụng rừng;
Xã hội hóa nghề rừng, góp phần nâng hiệu quả của các hình thức sở hữu đối
123 QĐ 18/2007/QĐ-TTg
124 Quyết định số 57/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/01/2012 phê duyệt Kế hoạch bảo
vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020
46
với tài nguyên rừng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1.1. Văn bản quy phạm pháp luật bằng Tiếng Việt
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1946;
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1959;
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1980;
4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992;
5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013;
6. Bộ luật dân sự 2005 (Bộ Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/6/2005;
7. Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 (Luật số 58-LCT/HĐNN8) ngày
12/8/1991;
8. Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004 (Luật số 29/2004/QH11) ngày
03/12/2004;
9. Luật Đất đai 2013- (Luật số 45/2013/QH13) ngày 29/11/2013;
10. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/5/2014 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;
11. Nghị định 23/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/3/2006 hướng dẫn thi
hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004;
12. Nghị định 32/2006/NĐ-CP của chính phủ ngày 30/3/2006 về quản lý thực vật
rừng, động vật rừng nguy cấp quý hiếm;
13. Quyết định 186/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/8/2006 về
việc ban hành Quy chế quản lý rừng;
14. Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính phủ
về phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020;
15. Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/9/2007
quyết định một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015;
16. Quyết định số 34/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/6/2011
sửa đổi, bổ sung một số điều Quy chế quản lý rừng được ban hành kèm Quyết
định 186/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/8/2006 về việc ban
hành Quy chế quản lý rừng;
17. Quyết định số 66/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/12/2011
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 147/2007/QĐ-TTg;
18. Quyết định số 57/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/01/2012
phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020;
19. Quyết định số 799/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/6/2012
phê duyệt chương trình hành động quốc gia về "Giảm phát thải khí nhà kính
thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài
nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng" giai đoạn 2011-
2020;
20. Thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn ngày 10/6/2009 quy định tiêu chí xác định và phân loại rừng;
21. Thông tư Số 24/2013/TT-BNNPTNT của Bộ NNPTNT ban hành ngày
06/5/2015 quy định về trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng
sang mục đích sử dụng khác.
1.2. Văn bản quy phạm pháp luật bằng Tiếng Anh
1. Forest Code of the Russian Federation 2006;
2. Forestry Law of the People's Republic of China (Luật Lâm nghiệp của Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa ban hành năm 1984 ( sửa đổi năm 1988));
B. Tài liệu tham khảo
1.1. Tài liệu tham khảo bằng Tiếng Việt
1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, "Trung Quốc: Kế hoạch phát triển rừng
tới năm 2020",
http://www.cpv.org.vn/cpv/modules/news/newsdetail.aspx?cn_id=407826&c0_
id=30480;
2. "Bản tin lâm nghiệp", http://tongcuclamnghiep.gov.vn/diem-bao/diem-tin-
ngay-25-03-2015-a2396;
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Báo cáo phát triển ngành lâm
nghiệp 2013, Hà Nội;
4. Cao Nguyên, "Mỗi năm mất 31.000 ha rừng", http://nld.com.vn/thoi-su-trong-
nuoc/moi-nam-mat-31000-ha-rung-20111022103614836.htm;
5. Duy Quốc, "Một thủy điện mất 59 ha rừng", http://baodatviet.vn/kinh-
te/doanh-nghiep/chua-co-dong-nao-ve-quy-phat-trien-rung-sau-thuy-dien-
2358982/;
6. Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Môi trường, Nhà xuất bản Công
an nhân dân;
7. Đỗ Hương, "GDP ngành lâm nghiệp có thể đạt 6%",
http://baodientu.chinhphu.vn/Hoat-dong-Bo-nganh/GDP-nganh-Lam-nghiep-
co-the-dat-6/214260.vgp;
8. Đỗ Thế Tùng, "Quan điểm cơ bản của C. Mác về sở hữu và việc vận dụng vào
các văn kiện Đại hội XI của Đảng",
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet-dai-
hoi-dang-XI/Noi-dung-co-ban-van-kien/2011/12442/Quan-diem-co-ban-cua-
C-Mac-ve-so-huu-va-viec.aspx;
9. Gia Minh, "Giao rừng cho cộng đồng dân cư: Một cách bảo tồn rừng",
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ScienceAndEnvironment/com-fores-
way-to-conser-12152013052944.html;
10. Hiếu Lam, "Chưa có đồng nào về quỹ phát triển rừng sau thủy điện",
http://baodatviet.vn/kinh-te/doanh-nghiep/chua-co-dong-nao-ve-quy-phat-
trien-rung-sau-thuy-dien-2358982/;
11. "Hỗ trợ trồng rừng bền vững tại Việt Nam",
http://www.worldbank.org/vi/news/press-release/2015/03/27/supporting-
sustainable-forest-plantations-in-vietnam;
12. http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_
id=1&mode=detail&document_id=35676, truy cập ngày 13/7/2015;
13. Lê Quang Vĩnh, Ngô Thị Phương Anh và cộng sự sự (2012), "Đánh giá hiệu
quả quản lý rừng cộng đồng tại huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế", Tạp
chí khoa học – Đại học Huế, Số 6, tr.230-239;
14. Nguyễn Bá Ngãi, "Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa trong
ngành lâm nghiệp",www.isgmard.org.vn;
15. Nguyễn Công Lý, "Gần 9.400 ha đất rừng bị lấn chiếm trái phép",
http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/moi-truong/item/25520902-gan-9-400-
ha-dat-rung-bi-lan-chiem-trai-phep.html;
16. Nguyễn Thanh Huyền (2013), Pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia;
17. Phùng Mỹ Trung, "Bạn biết gì về đa dạng sinh học của rừng Việt Nam?",
http://www.vncreatures.net/event06.php;
18. "Quảng Ngãi: Đất lâm nghiệp bỏ hoang, dân lại thiếu đất sản xuất",
http://www.baomoi.com/Quang-Ngai-Dat-lam-nghiep-bo-hoang-dan-lai-thieu-
dat-san-xuat/147/16569027.epi;
19. Quyết định 40/2005/QĐ-BNN của Bộ trưởng Bộ NNPTNT ngày 07/7/2005
về việc ban hành quy chế về khai thác gỗ và lâm sản khác;
20. Quyết định 61/2005/QĐ-BNN của Bộ trưởng BNNPTNT ngày 12/10/2005
về ban hành bản quy định về tiêu chí phân cấp rừng phòng hộ;
21. Quyết định 1970/QĐ/BNN-KL của Bộ trưởng BNNPTNT ngày 06/7/2006
công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2005;
22. Quyết định 3322/QĐ-BNN-TCLN của Bộ trưởng Bộ NNPTNN ngày 28
tháng 7 năm 2014 công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2013;
23. Quyết định 1482/QĐ-BTNMT của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
ngày 10/9/2012 phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai của cả
nước năm 2011;
24. Quyết định số 2495/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam ngày
31/7/2012 phê duyệt dự toán trồng 16,5 ha cây Sao đen giai đoạn 2012-2017
25. Thu Sương, "20.000 ha rừng bị thủy điện "ngốn"", http://nld.com.vn/thoi-su-
trong-nuoc/20000-ha-rung-bi-thuy-dien-ngon-20121031100457303.htm;
26. Tô Xuân Phúc & Trần Hữu nghị (2014), Báo cáo giao đất giao rừng trong
bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện
sinh kế vùng cao, Huế;
27. "UN-REDD Vietnam phase II progamme", http://www.vietnam-
redd.org/Web/Default.aspx?tab=project&zoneid=110&lang=vi-VN;
28. Vũ Tấn Phương và cộng sự (2007), "Giảm khí gây hiệu ứng nhà kính thông
qua hoạt động trồng rừng – Sử dụng cơ chế CDM trong ngành lâm nghiệp-
Kinh nghiệm của Việt Nam", Hội thảo chuyên đề về Đa dạng sinh học và Biến
đổi khí hậu: Mối liên quan tới Đói nghèo và Phát triển bền vững, Hà Nội;
29. Vũ Trung, "Thu hồi 1.000 ha đất rừng cho công ty Trung Quốc thuê",
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/246511/thu-hoi-1-000-ha-dat-rung-cho-cong-
ty-trung-quoc-thue.html;
2.1. Tài liệu tham khảo bằng Tiếng Anh
1. Andy White & Alejandra Martin (2002), Who owns the world's forest?- Forest
tenure and public forests in transition, USA;
2. http://www.fao.org/docrep/005/y4171e/y4171e10.htm;
3. https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html;
4. https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/6455/446400P
UB0Fore101OFFICIAL0USE0ONLY1.pdf?sequence=1;
5. https://www.worldwildlife.org/threats/deforestation;
6. Ministry of Agriculture and Forestry (2006), Forests and Forestry in Finland,
Filand, pp.1-7.
PHỤ LỤC 1.
CƠ CẤU CÁC CHỦ RỪNG THEO DIỆN TÍCH ĐANG QUẢN LÝ
Nguồn: Quyết định 3322/QĐ-BNN-TCLN của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (BNNPTNN) ngày 28/7/2014 công bố hiện trạng rừng toàn
quốc năm 2013.
PHỤ LỤC 2:
Bảng thống kê số liệu số liệu sở hữu rừng theo hai hình thức sở hữu của 24 trên
tổng số 30 quốc gia có diện tích rừng lớn nhất thế giới
DIỆN TÍCH TÍCH THEO TRIỆU HECTA (%)
Công hữu
Tư hữu
QUỐC GIA
Sờ hữu Nhà
nước
Cộng đồng và
dân bản địa
Cộng đồng và
dân bản địa
Tổ chức/cá
nhân
0
(0)
0
(0)
LB Nga
886,5
(100)
0
(0)
0
(0)
57,3
(10)
Brazil
423,7
(77)
74,5
(13)
0
(0)
27,2
(6,5)
Canada
388,9
(93,2)
1,4
(0,3)
0
(0)
164,1
(56,3)
Mỹ
(37,8)
17,1
110
(5,9)
70,3
(55)
0
(0)
Trung Quốc
(45)
58,2
0
(0)
53,5
(9,3)
114,6
(19,8)
Australia
410,3
(70,9)
0
(0)
22,5
(33)
n.d
(n.d)
Peru
n.d
(n.d)
8,4
(1,2)
0
(0)
0
(0)
109,2
(100)
0
(0)
Cộng Hòa
Công-gô
0
(0)
0
(0)
104
(99,4)
0,6
(0,6)
Indonesia
0
(0)
5,2
(7,4)
53,6
(76,1)
11,6
(16,5)
Ấn Độ
0
(0)
0
(0)
40,6
(98)
0,8
(2)
Xu-đăng
44
(80)
8,3
(15)
2,75
(5)
0
(0)
Mexico
2,8
(5,3)
5,4
(10,2)
28,29
(53,2)
16,6
(31,3)
Bolivia
24,5
(46)
n.d
(n.d)
Colombia
n.d
(n.d)
n.d
(n.d)
0
(0)
0
(0)
Tanzania
38,5
(99,1)
0,4
(0,9)
0
(0)
22,2
(79,5)
Argentina
5,7
(20,5)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
Mi-an-ma
27,1
(100)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0,8
(3)
25,9
(97)
Papua New
Guinea
0
(0)
24,1
(79,8)
0
(0)
Thụy Điển
6,1
(20,2)
0
(0)
14,6
(58,2)
0
(0)
Nhật Bản
10,5
(41,8)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
Cameroon
22,8
(100)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
22,9
(100)
CH Trung
Phi
0
(0)
0
(0)
0
(0)
Gabon
21
(100)
0
(0)
0
(0)
Guyana
30,9
(91,7)
2,8
(8,3)
Tổng
2803,2
131,4
246,3
443
Nguồn: Andy White & Alejandra Martin (2002), Who owns the world's forest?-
Forest tenure and public forests in transition, USA, pp.5
PHỤ LỤC 3.
SƠ ĐỒ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH BẢO
VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG (QH&KH) Ở VIỆT NAM
Thủ tướng chính phủ
(
2
)
(
1
)
QH&KH cả nước
QH&KH cấp tỉnh
QH&KH cấp huyện
(
4
)
(
3
)
QH&KH cấp xã BNNPTNT
(5)
UBND cấp tỉnh Hội đồng nhân dân
(
2
)
(
1
)
(2)
(4)
UBND cấp huyện Sở NNPTNT
(
2
)
(
1
)
(3)
(4)
UBND cấp xã Phòng chức năng
(3)
(1) Trình QH&KH
(2) Phê duyệt QH&KH (3) Gửi hồ sơ QH&KH
(4) Thầm định QH&KH (5) Thông qua QH&KH
Nguồn: Nghị định 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ hướng dẫn
thi hành LBVPTR