TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC

-----------------------

Ngô Đức Thắng

TÊN ĐỀ TÀI

ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA KANT QUA TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2016-X

HÀ NỘI, 2020

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC

-----------------------

Ngô Đức Thắng

ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA KANT QUA TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2016-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS.Nguyễn Quang Hưng

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp “Đạo đức

học của Kant trong tác phẩm Phê phán lý tinh thực hành là trung thực và không có

bất kỳ sự sao chép hay sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tất cả những sự giúp đỡ

cho việc xây dựng cơ sở lý luận cho bài luận đều được trích dẫn đầy đủ và ghi rõ

nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố.

Hà Nội, ngày 29 tháng 05 năm 2020

Ngô Đức Thắng

LỜI CẢM ƠN

Đề có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp một cách hoàn chỉnh, bên cạnh sự

cố gắng nỗ lực của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của các quý Thầy Cô,

cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt quá trình học tập

và thực hiện luận văn này.

Xin chân thày bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Nguyễn Quang Hưng – giảng

viên hướng dẫn – đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khóa

luận này. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong khoa

Triết học, trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận

lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề

tài khóa luận.

Hà Nội, ngày 29 tháng 05 năm 2020

Ngô Đức Thắng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

1.Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1

2.Tình hình nghiên cứu ........................................................................................... 2

3.Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 5

4.Ý nghĩa của việc nghiên cứu ................................................................................ 5

5.Bố cục ................................................................................................................... 5

NỘI DUNG ................................................................................................................ 6

CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC HỌC KANT ................................................................................................. 6

1.1. Bối cảnh lịch sử............................................................................................. 6

1.2. Tổng quan về tư tưởng đạo đức trước Kant ................................................ 10

CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC KANT TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH ........................ 36

2.1.Quan niệm của Kant về hành vi đạo đức ..................................................... 36

2.2. Mệnh lệnh tuyệt đối – nguyên tắc cơ bản của đạo đức học Kant ............... 46

2.3. “Tự do” – phạm trù trung tâm trong đạo đức học Kant .............................. 49

2.4. Ý nghĩa đạo đức học Kant .......................................................................... 57

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 61

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 64

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài

Đã là con người, dù đang tồn tại như một cá thể độc lập hay trong một quần,

một tổ chức xã hội thì cũng đều có nhu cầu hạnh phúc, về cả vật chất và tinh

thần. Đó là nhu cầu chánh đáng lý tưởng mà không một ai có quyền phản đối hay

chối bỏ nó. Nhưng bản chất thật sự của hạnh phúc là gì? Và để đạt được nhu cầu ấy

con người phải làm gì? Hay nói khác hơn là dựa trên những phương pháp

hành động nào thì con người mới đạt đến mục tiêu đó?

Lịch sử loài người đã chứng kiến rất nhiều sự kiện trải nghiệm lộ trình đi tìm

hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng con người vẫn hoài khổ đau, vẫn chìm ngập trong nước

mắt. Chính vì muốn đạt mục đích này mà một số cá nhân và tổ chức đã tìm đủ mọi

thủ đoạn nhằm gieo rắc tang thương cho người khác. Kết quả, họ vẫn

không đạt được mục đích. Trái lại, giấc hoè muôn màu đã biến thành nỗi ác mộng

muôn đời. Điểm sai lầm ở đây là người ta đã ngộ nhận rằng bản thân mình được

hạnh phúc khi và chỉ khi những kẻ khác không còn hạnh phúc. Vì thế, họ đã làm

cho bao quốc gia, bao dân tộc, bao cá nhân đã vĩnh biệt đời sống dưới mưa bom

bão đạn, dưới những luận điệu đấu tranh vì ý thức hệ mà thực chất là hai chữ danh-

lợi. Họ dùng tấm vải nhung đạo đức bọc lấy mục đích bẩn thỉu của cá nhân mình để

làm mù loà kẻ khác. Đó chính là những kẻ đã đánh đồng giữa hạnh phúc và vật

chất, xem vật chất chính là chìa khoá, là điều kiện lý tưởng đưa đến hạnh phúc,

họ đã hạ thấp phẩm tính con người ngang đồng với động vật, nhưng họ đã thất bại

trong quằn quại đớn đau.

Trái lại, một số cá nhân nhìn thấy hình ảnh này nên đã tìm đến hạnh phúc

thông qua cuộc sống ẩn mình. Họ bỏ quên tiếng kêu xé lòng của đồng loại để đi tìm

1

hạnh phúc nơi sơn lâm cùng cốc. Đấy phải chăng là hạnh phúc? Đấy phải chăng

là đạo đức? Xét cho cùng, đó có thể là hạnh phúc nhưng chỉ trong phạm trù quan

niệm cá nhân. Còn về phương diện đạo đức xã hội thì đó là đậm chất ích kỉ,

cực đoan và vô đạo đức.

Nền kinh tế phát triển hơn theo thời gian nhưng đi cùng với nó nền đạo đức

lại ngày một suy đồi.Chính vì vậy,trong lúc này đây,việc nghiên cứu đạo đức học

và nhất là đạo đức học của Kant-một trong những nhà triết học vĩ đại nhất lịch sử

lại càng cấp thiết.

2.Tình hình nghiên cứu

Kant là người đầu tiên đặt nền móng và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát

triển chung của dòng chảy triết học nhân loại đó là triết học cổ điển Đức - một

trong những tiền đề lý luận ảnh hưởng đến triết học Mác. Ông là nhà đạo đức học

tư sản bởi những quan điểm về đạo đức của ông đã phản ánh những giá trị nhân bản

nhất của con người. Đã 200 năm kể từ ngày Kant mất, người ta vẫn có thể khai thác

từ hệ thống triết học Kant nhiều tư tưởng quý giá về các lĩnh vực khác nhau như

nhận thức, đạo đức, pháp quyền, lịch sử. Tuy nhiên, vì những lý do khách quan và

chủ quan mà trong một thời gian dài ở Việt Nam, những tư tưởng triết học của

Kant nhất là đạo đức học chưa được nghiên cứu đầy đủ và nó vẫn là đề tài sâu sắc,

hấp dẫn với một loạt các nhà nghiên cứu tên tuổi lớn.Ở Việt Nam, việc giảng dạy

triết học của Kant đã được đưa vào chương trình từ bậc đại học và sau đại học, do

đó, có khá nhiều nhà nghiên cứu viết về triết học của ông. Nghiên cứu di sản triết

học đồ sộ mà ông để lại cho chúng ta, đòi hỏi một sự kiện kiên nhẫn và thời gian

dài lâu. Vì triết học của Kant được trình bày và diễn đạt bằng một ngôn ngữ đặc

trưng, nghĩa là rất khó hiểu ngay cả với những người chuyên sâu vào nghiên cứu

triết học. Thêm một khó khăn nữa cho công việc nghiên cứu triết học Kant nói

chung và nhận thức luận Kant nói riêng là ở Việt Nam còn ít các tác phẩm triết học

2

của ông được dịch ra tiếng Việt và các công trình lớn về Kant không nhiều.

Về phương diện lịch sử, người đề cập đến triết học Kant sớm nhất là giáo sư

Trần Đức Thảo trong tác phẩm: “Lịch sử tư tưởng trước Mác”. Tuy nhiên sự trình

bày còn khá sơ lược và chưa được sâu sắc, song, đó là một quan điểm đánh giá khá

đúng đắn, khách quan đối với những tư tưởng triết học của Kant. Năm 1962, nhà

xuất bản Sự Thật (Hà Nội) đã cho dịch cuốn “Giáo trình lịch sử triết học – Giai

đoạn triết học cổ điển Đức” do Viện triết học thuộc Viện Hàn Lâm khoa học Liên

Xô biên soạn. Bản dịch đã đem đến cho người đọc những nét khái quát về triết học

cổ điển Đức, trong đó triết học Kant chiếm một vị trí quan trọng. Trần Thái Đỉnh,

trong cuốn “Triết học Kant” đã nêu một cách khá toàn diện các vấn đề trong triết

học Kant, đây là một tác phẩm được nhiều học giả đánh giá cao về sự chi tiết cũng

như cách đánh giá tiếp cận triết học Kant. Tác phẩm đã trình bày toàn bộ hệ thống

triết học Kant từ triết học tự nhiên đến triết học đạo đức, giải thích khá rõ ràng các

thuật ngữ, các tiền đề rồi từ đó đưa ra những nhận xét, đúc kết khá xác đáng cho

triết học Kant. Năm 1996 nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội đã xuất bản cuốn “Triết

học Immanuel Kant” của Nguyễn Văn Huyên. Trong tác phẩm này tác giả đã trình

bày những nét tổng quát về triết học nhận thức và triết học thực tiễn của Kant.

Năm 1997, Viện triết học và nhà xuất bản Khoa học xã hội đã cho xuất bản cuốn

sách “I.Kant – người sáng lập triết học cổ điển Đức”, công trình ý nghĩa này đã tập

hợp 29 bài viết của 14 tác giả nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của triết học Kant,

đặc biệt là về đạo đức học được trình bày khá chi tiết.

Hội thảo khoa học “Triết học cổ điển Đức: nhận thức luận và đạo đức học”

(do trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn thuộc Đại học Quốc Gia Hà

Nội tổ chức tháng 12 năm 2004) là một tập hợp rất nhiều các bài viết, những bài

nghiên cứu của các học giả về triết học Kant, trong đó đạo đức học là mảng nghiên

cứu chiếm đa số các bài tham luận trong hội thảo này. Nổi bật trong hội thảo khoa

học này là hàng loạt các bài tham luận về đạo đức học Kant trong đó phải kể đến

3

các bài viết sau đây:Bài tham luận của Nguyễn Trọng Chuẩn “Đạo đức học Kant và

ý nghĩa thời đại của nó” với những đánh giá xác đáng về đạo đức học Kant và tác

giả bài viết cho rằng triết học Kant thấm đượm tính nhân văn và tính nhân văn đó

được biểu hiện sâu sắc nhất trong học thuyết của ông về đạo đức. Bài tham luận

của Trần Văn Đoàn “Trả lời như là bổn phận – Suy tư và trách nhiệm” đã có những

đánh giá hết sức khách quan và sâu sắc khi nhìn nhận triết học đạo đức của Kant về

các phạm trù, quan niệm về bổn phận và trách nhiệm với tư cách là một nghĩa vụ

đạo đức. Một số bài tham luận của B.Baudot- Hoa Kỳ, PGS.TS Nguyễn Quang

Hưng, TS Vũ Thị Thu Lan.. cũng nhấn mạnh tính thời sự và giá trị nhân đạo trong

tư tưởng của Kant hướng tới một nền hòa bình vĩnh cữu, phù hợp với quan điểm về

mối quan hệ giữa bản chất con người với tự nhiên và nguồn tri thức tiên nghiệm.

Nguyễn Hữu Vui, Nguyễn Quang Hưng với tác phẩm Lịch sử triết học (1998), tập

bài giảng Triết học Đức từ I.Kant tới G.W.F.Hegel (2010), Đỗ Minh Hợp với tác

phẩm Lịch sử triết học đại cương (2010), Triết học pháp quyền của Hêghen

(2002)… đã nghiên cứu sâu về đạo đức học Kant.

Ngoài ra còn kể đến hàng loạt các nghiên cứu của Nguyễn Huy Hoàng trong

tác phẩm Chân dung triết gia Đức (2000). Lê Công Sự với tác phẩm Triết học cổ

điển Đức (2006) của Nxb Thế giới . Hàng loạt các bài viết của các nhà triết học

nghiên cứu trong kỷ yếu hội thảo quốc tế về triết học cổ điển Đức đã nhìn nhận sâu

sắc về đạo đức học của Kant. Những năm đầu thế kỷ XXI, nhiều tác phẩm về đề

tài lịch sử triết học của các tác giả phương Tây cũng gây được sự chú ý nhất định

khi bàn về triết học đặc biệt trong đó có vấn đề đạo đức. Chúng ta còn hàng loạt tác

phẩm như Nhập môn triết học phương Tây (2004) của Samuel Enoch Stumf và

Donald C.Abel, tác phẩm Lịch sử triết học và các luận đề (2002) của Samuel

Enoch Stumf , tác phẩm Hành trình cùng triết học (2002) của Ted Honderich, tác

phẩm Đạo của vật lý (1999) của Fritjof Capra.

Nhìn chung các bài viết trên đã có những nghiên cứu, đánh giá khá toàn diện

4

về triết học cổ điển Đức nói chung và đạo đức học Kant nói riêng, đạo đức học của

ông đã khơi dậy nhiều vấn đề đạo đức của đời sống cộng đồng, trong đó có Việt

Nam chúng ta. Tiếp thu những giá trị sâu sắc của đạo đức học Kant luận văn muốn

góp thêm một vài những khía cạnh nhỏ bé trong hiểu biết về đạo đức học

Kant.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài được lựa chọn nhằm làm rõ những vấn

đề đạo đức học của Immanuel Kant trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành. Đó

là những nội dung khái niệm về: hành vi đạo đức, mệnh lệnh tuyệt đối, phạm trù tự

do. Với mục đích như vậy, luận văn hướng tới việc giải quyết nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là: phân tích những tiền đề cơ bản cho sự hình thành quan niệm Kant về

những vấn đề liên quan đến đạo đức học trong tác phẩm Phê phán lý tính thực

hành.

Hai là: phân tích một cách có hệ thống, làm rõ quan niệm của Kant về các

phạm trù như phạm trù tự do, mệnh lệnh tuyệt đối, hành vi tự do…

Ba là: đưa ra nhận xét và đánh giá về những đóng góp và hạn chế của quan

niệm Kant về đạo đức học dưới góc nhìn của triết học Mác-Lênin

3.Phạm vi nghiên cứu Đây là một đề tài rộng tuy nhiên, vì điều kiện thời gian không cho phép khóa

luận chỉ tập trung nghiên cứu đạo đức học của Kant thông qua tác phẩm “Phê phán

lý tính thực hành”.

4.Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Về mặt lý luận,khóa luận góp phần vào việc tìm hiểu và làm sáng tỏ những

quan niệm về đạo đức của Kant.Về mặt thực tiễn,khóa luận có thể sử dụng làm tài

liệu tham khảo trong việc học tập nghiên cứu của sinh viên.

5.Bố cục

Khóa luận chia làm 02 chương và 06 tiết

Chương 1: Những điều kiện và tiền đề hình thành đạo đức học I.Kant trong

5

tác phẩm Phê phán lý tính thực hành

Chương 2: Những nội dung cơ bản của đạo đức học Kant trong tác phẩm Phê

phán lý tính thực hành

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC HỌC KANT

1.1. Bối cảnh lịch sử

Kant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 trong một gia đình trung lưu gốc

Scotland tại Konigsberg là người con thứ tư của Johann Georg Kant (1683–1746),

người chuyên nghề chế biến đai da, và bà Anna Regina (1697–1737), thuộc họ

Reuter. Ông có tám anh chị em, nhưng chỉ bốn người đạt tuổi thành niên. Gia đình

ông rất sùng đạo, với bà mẹ có một cái nhìn phóng khoáng về giáo dục. Thời thơ

ấu, cậu bé Kant chiu ảnh hưởng từ mẹ của mình vì bà có một đức tin mãnh liệt và

lối sống ngăn nắp nề nếp. Với truyền thống gia đình của mình nên thoạt đầu bố mẹ

muốn ông trở thành mục sư nên gửi Kant vào trường trung học Latinh. Ông nhập

học tại trường trung học Friedrichskollegium năm 1732, được đào tạo tại đây và

năm 1740 đã bắt đầu chương trình cao học tại Albertina, đại học tại Konigsberg.

Mặc dù đăng kí bộ môn Thần học nhưng Kant lại quan tâm đến Khoa học tự nhiên.

Giáo sư bộ môn Luận lí học và Siêu hình học Martin Knutzen giúp ông làm quen

với học thuyết của Leibniz và Newton. Ngay từ những năm học trong trường ông

đã rất quan tâm đến các môn học như toán học, vật lý học, cơ học và vũ trụ học. Tại

đây, Kant có nhiều dịp làm quen với cơ học, thiên văn học, toán học của Newton,

Decac, và tư tưởng chính trị của các nhà khai sáng Pháp. Ông nghiên cứu kỹ các hệ

thống triết học của các nhà triết học đi trước và đặc biệt quan tâm đến các nhà triết

học Anh như Locke và Hium. Ông tìm hiểu hệ thống triết học Leibniz, và các tác

phẩm của Voltaire. Vào mùa thu năm 1740 (lúc 16 tuổi) từ dự định học văn học cổ

6

điển Kant chuyển sang học triết học tại trường đại học Konigsberg. Năm 1745,

Kant tốt nghiệp đại học loại xuất sắc với luận văn Những suy nghĩ về sự đánh giá

đúng đắn của lực sống, trong đó chàng cử nhân 21 tuổi đã trình bày nguyên tắc

sống của mình: “Đối với chúng ta, điều đáng quý nhất không phải là đi theo lối

mòn đã có, mà phải biết đi theo con đường mà loài người cần đi” [dẫn theo 32, 16].

Suốt đời Kant đã sống theo nguyên tắc đó và ông đã khá thành công trong sự

nghiệp. Sau khi tốt nghiệp đại học, để nuôi sống bản thân mình, giúp đỡ gia đình

cũng như chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc nghiên cứu khoa học trong tương lai,

Kant đã làm gia sư cho các gia đình quý tộc gần 10 năm. Đây cũng là khoảng thời

gian rất quý giá để chàng thanh niên tích lũy tri thức cho sự nghiệp sau này.

Năm 1754, Kant trở về Konigsberg và tiếp tục chương trình đại học của

mình. Chỉ một năm sau đó, 1755, ông công bố tác phẩm quan trọng đầu tiên của

mình với nhan đề Thông sử tự nhiên và Thiên thể luận; cũng trong năm đó, ông

được bổ nhiệm phó giáo sư tại Konigsberg và bắt đầu dạy nhiều bộ môn. Ông dạy

các môn như Luận lí, Siêu hình, Nhân loại, Triết học đạo đức, Thần học tự nhiên,

Toán, Vật lí, Lực, Địa lí, Sư phạm, và Luật tự nhiên. Năm 1770, ông được bổ

nhiệm làm giáo sư logic và siêu hình học khi đã 46 tuổi ở trường Đại học Tổng

Hợp Konigsberg. Ở đây, với bầu nhiệt huyết và sự cần mẫn ông đã giảng dạy nhiều

môn khoa học khác nhau và được sinh viên hết sức yêu quý. Ông đã để lại cho

nhân loại một hệ thống triết học độc đáo và sâu sắc nhất, chính vì thế ông được giới

triết học thừa nhận và đánh giá cao. Đầu tiên là triết học gắn với khoa học tự nhiên,

rồi sau đó ông ngày càng quan tâm đến vấn đề con người. Kant biểu thị thái độ

kinh ngạc trước bầu trời đầy sao và quyền lực của quy tắc đạo đức đối với con

người.

Năm 1797, sau cái chết của vua Friedrich Wilhelm II sức khỏe của Kant đã

suy giảm , vị giáo sư già yếu cáo từ giảng đường đại học về nghỉ hưu, sống những

7

năm cuối đời ung dung tự tại. Trong sự nghiệp khoa học, Kant là người gặt hái

được nhiều thành công: năm 1786 ông được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa

học Hoàng gia Phổ tại Berlin; năm 1798 cả Viện Hàn lâm khoa học Italia và Paris

đều bầu ông làm viện sĩ của viện mình. Kant là người có cách sống giản dị và hài

hòa, thích bầu bạn. Những bài giảng của ông đầy uyên bác và lôi cuốn sinh viên.

Mặc dù không ra khỏi thành phố quê hương nhưng ông vẫn rât nổi tiếng. Kant trút

hơi thở cuối cùng ngày 12 tháng 2 năm 1804 với nụ cười trên môi và nhận xét “thế

là tốt rồi”, ông mất khi đang hoàn thành một tác phẩm. Nghe tin ông mất mọi người

thuộc các tầng lớp khác nhau đã vội vã đến căn nhà riêng của ông để được nhìn

thấy con người vĩ đại ấy lần cuối. Cả thành phố và cả trường đại học tổng hợp đã tổ

chức lễ an táng cho ông như một ông hoàng mà thành phố Konigsberg lúc ấy chưa

từng được chứng kiến. Trong lời giới thiệu tác phẩm “Phê phán lý tính thực hành”

Bùi Văn Nam Sơn đã nhận xét: “Suốt đến cuối đời, Kant là một huyền thoại sống,

chiếm lĩnh mọi giảng đường đại học châu Âu và ảnh hưởng của ông kéo dài sâu

đậm mãi đến tận ngày nay…đọc Kant là một sự vất vả cần thiết, hiểu biết ít nhiều

về Kant là hành trang bắt buộc phải mang theo trong mọi nẻo đường suy tưởng”

[32,16].

Lịch sử các nước châu Âu thế kỷ XVII – XVIII đã bước sang một giai đoạn

mới, đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh

tế - xã hội mới khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa giai cấp tư

sản lên địa vị thống trị. Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phá tan dần các

quan hệ kinh tế phong kiến làm xuất hiện sản xuất mới với các nhu cầu xã hội và cá

nhân mới. Nước Đức trong khoảng thời gian này về trình độ kinh tế và phương

diện chính trị là một nước nông nghiệp phân tán. Nếu đem so sánh với các nước

như Hà Lan, Anh, Pháp và những nước đã có cách mạng tư sản và quan hệ tư bản

phát triển thì nước Đức thời bấy giờ chỉ là một nước nông nghiệp rất lạc hậu và bắt

8

đầu phát triển tư bản chủ nghĩa mà thôi.

Trong hoàn cảnh lịch sử có nhiều biến động như thế, nếu nước Anh nhờ cách

mạng tư sản và bước ngoặt công nghiệp mà trở thành một quốc gia tư bản lớn mạnh

nhất và nước Pháp nhờ cách mạng tư sản Pháp năm 1789 mà tiến nhanh trên con

đường tư bản chủ nghĩa. Cả Châu Âu đang phát triển mạnh mẽ thì nước Đức lại

ngược lại – là một nước phong kiến lạc hậu với chế độ quân chủ chuyên chế phân

quyền, bị phân hóa cả về chính trị và kinh tế. Triết học cổ điển Đức nói chung,

cũng như triết học Kant nói riêng ra đời trong hoàn cảnh phức tạp như thế. Xã hội

Đức cuối thế kỷ XVIII vẫn còn là một nước nghèo nàn lạc hậu, phát triển trì trệ so

với các nước Tây Âu xung quanh với sự thống trị của tập đoàn phong kiến chuyên

quyền và độc đoán.

Về kinh tế: Phương thức sản xuất phong kiến chiếm vai trò chủ đạo, ruộng

đất tập trung trong tay địa chủ, những tàn dư của chế độ nông nô, phường hội, chúa

đất và sự phụ thuộc lẫn nhau của nhiều cát cứ nhỏ bé với các thể chế chính trị lạc

hậu đã kìm hãm phát triển kinh tế. Đời sống nhân dân Đức nghèo nàn và lạc hậu,

đó là nền kinh tế manh mún, phân tán.

Về chính trị: Đứng đầu triều đình Phổ là vua Friedrich Wilhem II bảo thủ và

độc đoán để tăng cường và duy trì quyền lực và chế độ quân chủ phong kiến nên đã

kìm hãm đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó thì giai cấp tư

sản Đức còn rất nhỏ bé và yếu ớt chưa đủ tiềm lực kinh tế và chính trị để giành

chính quyền, khẳng định quyền của giai cấp tư sản.

Về tư tưởng: Dưới chế độ quân chủ chuyên chế thì tư tưởng thần học chiếm

địa vị độc tôn là điều dễ hiểu. Khoa học không có chỗ để phát triển, nếu phát triển

thì bị sa lầy trong tư tưởng thần học. Chủ nghĩa duy vật mới manh nha phát triển

nhờ vào thành tựu của vật lý học, sinh học và y học thì bị thần quyền kìm hãm.

Thần học được giảng dạy trong các trường đại học tổng hợp, còn các khoa học khác

9

và triết học chỉ là công cụ biện hộ và bảo vệ cho thần học. Triết học thời kỳ này

thỏa hiệp với tôn giáo, thậm chí là nhượng bộ tôn giáo. Có thể khái quát bức tranh

toàn cảnh xã hội Đức lúc này u ám và đen tối dưới cái vỏ bọc tôn giáo và thần

quyền. Ăng ghen đánh giá thời kỳ này: “mọi thứ đều nát bét, lung lay xem chừng

sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn một tia hi vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc

không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi” [35, 754].

1.2. Tổng quan về tƣ tƣởng đạo đức trƣớc Kant

Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kỳ này đã đạt được sự

phát triển chưa từng có về mặt triết học, văn hóa và nghệ thuật. Đây là quê hương

của nhiều nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Goethe, Schiller v.v họ một

mặt tiếp thu những quan điểm của Nicôlai Kuzan, Leibniz, mặt khác được sự cổ vũ

to lớn của tư tưởng khai sáng và văn hóa Pháp thế kỷ XVIII. Cách mạng tư sản

Pháp năm 1789 đã thức tỉnh giai cấp tư sản Đức đấu tranh vì một trật tự xã hội mới

ở Đức. Thể hiện nguyện vọng đó của giai cấp tư sản, các tác phẩm của Goethe,

Schiller, Kant, Phíchtơ đều toát lên một tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và bất

công của xã hội Đức thời đó.

Để giải quyết những vấn đề bất công trong xã hội Kant bàn tới đạo đức học.

Chưa có những nghiên cứu nào cho thấy Kant bị ảnh hưởng bởi những học thuyết

về đạo đức trước đó, nhưng để nghiên cứu đạo đức học của Kant, chúng ta cũng

cần tìm hiểu về những học thuyết đạo đức trước ông.

Bắt đầu nền lịch sử Triết học từ thời Hi Lạp cổ đại. Triết học Hy lạp cổ đại

đã đưa ra những tư tưởng biện chứng sâu sắc trong toàn bộ triết học cổ đại. Đây là

giai đoạn triết học tự nhiên thấm đượm tinh thần của phép biện chứng tự phát, khi

mà thế giới và giới tự nhiên được xem như một chỉnh thể dưới cái nhìn và góc độ

10

quan sát trực tiếp của các nhà triết học.

Đạo đức thời kỳ tiền Socrates là vấn đề tìm sự quân bình giữa hai bản năng

“tinh thần” (spirit) và “dục vọng” (passion) của con người. Cũng giống như một kỵ

mã phải điều khiển hai con ngựa chiến, mỗi con muốn kéo cỗ xe ngựa đi theo

hướng riêng của nó, thì con người tìm hạnh phúc qua cách điều khiển cả hai đi theo

hướng mình muốn. Tinh thần cao quá độ có thể trở thành hiếu thắng làm mất trí

khôn, nhưng dục vọng quá nhiều cũng sẽ làm tê liệt khả năng phán đoán của con

người.

Phái khắc kỷ: Muốn tìm hạnh phúc chúng ta cần kiểm soát những yếu tố nằm

trong khả năng của mình (thái độ, phán đoán, niềm tin); và tránh tìm cách thay đổi

những điều ngoài tầm tay của chúng ta (đau khổ, cái chết). Hạnh phúc con người

chính là sự “khôn ngoan”, là biết cách sống cho phù hợp với những qui luật mà lý

trí khám phá ra về vũ trụ và thế giới bên ngoài.

Zeno xứ Citium, giống như Epicurus, là một nhà luân lý học. Ông cũng

giành cuối đời của mình ở Athen và nghiên cứu bên cạnh những triết gia thuộc phái

Cynic như Diogenes thành Sinope.

Zeno là cha đẻ của chủ nghĩa khắc kỷ, một trường phái triết học khá nổi

tiếng vào cuối thời kỳ Hy Lạp hóa và thời Đế chế La Mã.

Trong khi Epicurus tin rằng hạnh phúc, thông qua những khoái lạc nhỏ bé, là

mục tiêu của cuộc sống thì Zeno lại đi đến một kết luận trái ngược. Zeno và những

triết gia thuộc phái khắc kỷ khác tin rằng vũ trụ được tạo nên bởi một đấng toàn

năng, người đưa ra luật lệ một cách công bằng và có lý trí. Vì vậy vũ trụ là nằm

ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Điều duy nhất chúng ta có thể làm là kiểm soát

tư tưởng và mong muốn của mình.

Đây đúng là điểm mà chủ nghĩa khắc kỷ tập trung nghiên cứu. Chúng ta

không có năng lực kiểm soát vũ trụ hay thậm chí là kiểm soát những gì xảy ra với 11

chúng ta. Thay vào đó chúng ta nên tập trung vào cách chúng ta phản ứng với vũ

trụ. Nỗi buồn hay sự thống khổ là để dành cho chúng ta. Và điều đó thường đến vì

chúng ta có những khát khao không thực tế và thất vọng là không thể tránh khỏi.

Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ dạy rằng chúng ta không nên truy cầu

những mong muốn thường nhật của mình, mà thay vào đó nên loại bỏ chúng ngay

từ giây phút đầu tiên. Và họ coi điều này là cảnh giới lôgic cao nhất. Những người

theo chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng lý trí nhất là phủ nhận những khao khát và khoái

lạc không thực tế để đổi lại sự tồn tại yên bình hòa hợp với tự nhiên.

Phái ngụy biện: Chối bỏ mọi đạo đức truyền thống, con người là thước đo

cho chính mình; dùng tài hùng biện để thắng trong những cuộc tranh luận và thuyết

phục người khác nhìn nhận “chân lý” của mình. Chân lý thuộc về kẻ thắng. Tương

đối và hoài nghi là hai chủ thuyết nền tảng của trường phái ngụy biện.

Protagoras đại diện cho phái ngụy biện, cho rằng mọi tri thức mà một con

người có thể đạt được đều giới hạn trong khả năng con người của họ. Với câu nói

nổi tiếng: "Con người là thước đo của mọi vật, họ coi vật gì là có thì nó có, coi việc

gì không có thì không có".

Theo Protagoras, tri thức của chúng ta bị giới hạn vào các tri giác khác nhau

của chúng ta và những tri giác này ở mỗi người mỗi khác. Không có một tiêu chuẩn

chung nào để xác định tri giác của người này là đúng và của người kia là sai. Người

ta tri giác được bao nhiêu đặc tính thì vất đó có bấy nhiêu đặc tính, không thể phát

hiện được cái gì là bản chất "thực" của bất cứ cái gì. Không có cách gì phân biệt

được "biểu hiện bên ngoài" và "thực tại". Chẳng hạn, người ta nói cơn gió ấy lạnh

thì quả thực nó là lạnh chứ không chỉ là có vẻ như vậy chỉ vì một ai đó cảm thấy nó

12

ấm.

Protagoras kết luận, tri thức thì tương đối tùy theo mỗi người. Do đó, các

phán đoán đạo đức cũng chỉ là tương đối. Theo ông, có thể có những nguyên tắc

phản ánh một ước muốn chung của mọi nền văn hóa muốn có một trật tự đạo đức

giữa mọi người, nhưng không có qui luật tự nhiên đồng nhất cho hành vi con người

mà mọi dân tộc ở mọi nơi có thể khám phá ra. Luật pháp và các qui tắc đạo đức là

dựa trên qui ước nên không có đúng và sai, ngoại trừ những nhận xét của lương tri

về tính "lành mạnh" tương đối của chúng. Tuy vậy, vì lợi ích của một xã hội hòa

bình và trật tự, người dân phải tôn trọng và tuân thủ các phong tục, luật lệ, và các

qui tắc đạo đức mà truyền thống của họ đã cẩn thận vun trồng.

Socrates (470- 399 TCN) một triết gia được coi là bậc thầy về triết học truy

vấn, một công dân mẫu mực của thành Athen của Hy Lạp cổ đại. Trước Socrates,

các triết gia Hy Lạp cổ đại chủ yếu quan tâm đến những vấn đề về vũ trụ luận, giải

thích sự hình thành và phát triển của thế giới dựa trên những kiến thức khoa học tự

nhiên như vật lý, toán học, sinh học, v.v.. Không đi theo lối mòn bản thể luận triết

học của các bậc tiền bối. Với luận đề nổi tiếng: “Con người, hãy tự nhận thức chính

mình”, Socrates quyết định lựa chọn cho mình một con đường riêng, ông chú ý tới

vấn đề con người, mà trọng tâm trong bản tính con người là đạo đức. Theo

Socrates, triết học không phải là hiện tượng tư biện, chỉ luận bàn những vấn đề

không liên quan gì đến cuộc sống thường nhật, trái lại, nó là phương tiện dạy con

người cách sống hay cần phải sống như thế nào. Theo nghĩa đó, triết học trước hết

phải là tri thức hay sự hiểu biết về con người, tri thức ấy nhất thiết phải là tri thức

về cái thiện. Do vậy, nếu đạo đức là hành vi đối nhân xử thế đẹp thì đạo đức đó

không là gì khác ngoài tri thức.

Phản biện lại nhóm Ngụy Biện, Socrates chủ trương rằng tri thức phải gắng

liền với khả năng nhận thức và thực hành điều thiện hảo hầu mang lại hạnh phúc

cho chính mình và tha nhân. Khủng hoảng trong xã hội thảnh Athens đến từ sự bại

13

chiến với Persia đặt lại vấn đề về cách sống, đưởng lối huấn luyện và giáo dục giới

trẻ, tương quan giữa sự thiện và niềm tin tôn giáo hay thần thánh? Khủng hoảng là

thời gian thích hợp để suy tư về nền tảng đạo đức, truy vấn về cách chúng ta suy tư,

phán đoán và tìm kiếm chân lý để đạt đến một cuộc sống thiện hảo. Giữa hai quan

điểm sự thiện là “bẩm sinh” và là kết quả của “tài tranh cãi” thì Socrates chọn con

đường thứ ba. Đó là con người qua đối thoại, phản tỉnh, biện chứng pháp, tiến trình

tiệm tiến của nổ lực tìm chân lý chung, sẽ giúp chúng ta gia tăng ý thức về những

“giả định” chung về đức hạnh.

Trong cuộc đời mình, Socrates luôn tìm cách quảng bá các quan niệm đạo

đức của mình bằng cách giao tiếp với đông đảo quần chúng tại rất nhiều các ngõ

ngách của Athen. Hoạt động này dần dần thu hút sự quan tâm của nhiều người dân

và có sự ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội đương thời và cũng gây ra sự

tức tối của những công dân thuộc đẳng cấp giàu có. Và đây cũng là một trong

những nguyên nhân dẫn đến cái chết bi kịch của ông.

Nhiều nhà triết học Cổ đại Hy Lạp quan niệm rằng, con người là một vũ trụ

thu nhỏ. Socrates đã tích cực tiếp nối tư tưởng trên, bằng cách nhận thức chính bản

thân con người thông qua sự giao tiếp. Ông là người rất thích tranh luận với bất kỳ

ai nhằm tìm kiếm chân lý. Nhiều khi, do đuối lý, những kẻ tranh luận đã nhục mạ

ông, thậm chí đánh đập ông. Song ông vẫn chấp nhận tất cả mà không chống lại.

Bởi vì, theo ông, nếu cố chấp thì chẳng khác gì, khi "con lừa húc tôi, lẽ nào tôi lại

đưa nó ra toà?".

Ông coi việc nhận thức con người thông qua giao tiếp là rất quan trọng. Tiến

trình giao tiếp có sự tác động qua lại về mặt tinh thần giữa những người đối thoại.

Vì thế, cần tổ chức quá trình nhận thức thông qua sự giao tiếp một cách khéo léo để

không dẫn đến sự đổ vỡ. Tranh luận như thế, không phải là cãi nhau mà mục đích

14

của nó là để tìm ra chân lý đúng như nguyên nghĩa từ phép biện chứng ở thời Cổ

đại. Một sự đối thoại như vậy không thể tự diễn ra một cách ngẫu nhiên mà phải có

sự nỗ lực để xây dựng phương pháp nhằm bảo đảm cho sự giao tiếp diễn ra phù

hợp cho mục đích của cuộc đối thoại.

Trong giao tiếp - theo Socrates - nhất thiết không được giáo huấn người khác

(một dạng thức kiêu ngạo được che đậy như là sự lễ độ). Vì khi cảm nhận được thái

độ kiêu ngạo của đối phương, người đối thoại sẽ co mình lại, phòng thủ khiến cho

quá trình giao tiếp và nhận thức tiếp theo sẽ diễn ra rất khó khăn và có nguy cơ thất

bại.

Thông qua giao tiếp con người cũng tự nhận thức ra bản thân mình và người

đối thoại như là cái gương đặc biệt giúp chỉnh lý những suy nghĩ của mình. Quan

niệm như vậy về quá trình giao tiếp - nhận thức đã tiến sát đến phương pháp đối

thoại nổi tiếng, được coi như một phần quan trọng trong phép biện chứng của

Socrates.

Là người không đề cao vật chất. Đồng thời ông cũng không coi sự bần cùng

là cơ sở của đạo đức, hơn thế ông cũng không phải là người sống khắc kỷ. Coi sự

kiềm chế là đức hạnh quan trọng nhất, đó chính là sự kế tục thái độ ôn hoà mà các

nhà thông thái Hy Lạp trước đó từng ca ngợi.

Không màng danh vọng hay của cải vật chất, khi nhìn thấy hàng hóa ở chợ,

ông nói: "Có biết bao thứ mà có thể sống thiếu chúng". Vì không quan tâm đến

những kẻ ngạo mạn, ngu dốt nhưng hay chế nhạo người khác nên ông được người

đương thời coi là kẻ thông thái hơn người khác.

Theo ông, việc làm chủ sự thông thái tự thân nó cho phép dễ dàng làm chủ

sự thông thái trong các lĩnh vực khác. Đó cũng là cách tiếp cận của ông với các

15

khái niệm chung như: cái thiện và cái ác, cái xấu và cái đẹp v.v. Con người là một

trong những vấn đề trung tâm của các triết thuyết triết học, trong đó có học thuyết

đạo đức của Socrates. Con người là một thực thể sinh vật - xã hội thường xuyên tìm

kiếm, kiểm tra và thử nghiệm chính bản thân mình. Theo Socrates: "Thiếu sự thể

nghiệm thì cuộc sống không còn là cuộc sống dành cho con người"

Trong học thuyết đạo đức, Socrates nhấn mạnh sự có mặt của tâm hồn như là

dấu hiệu quan trọng nhất của bản tính con người. Theo ông, tâm hồn như là năng

lực tự ý thức, tự đánh thức, tự khẳng định mình, do nó tồn tại và hoạt động tự thân.

Ông coi thể xác như là phương tiện để thực hiện các hành vi cụ thể của con người.

Bản chất con người là không phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài. Mọi cái

bên ngoài như của cải, địa vị hay thể xác, trí tuệ là không tồn tại đối với con người.

Cái bên ngoài khi không được con người xem xét và không có quan hệ với con

người thì chỉ được coi là cái hư vô, trống rỗng. Thế giới nội tâm là không thể thủ

tiêu được, nên nó không phụ thuộc vào cái bên ngoài. Socrates nói: "... tôi chỉ làm

những gì tôi thích và thuyết phục mỗi người trong các bạn, người trẻ và người già,

hãy quan tâm sớm hơn và mạnh mẽ hơn không phải đến cơ thể hay tiền bạc mà đến

tâm hồn các bạn để nó trở nên tốt nhất" và: "không phải tiền bạc sinh ra lòng dũng

cảm, mà lòng dũng cảm sinh ra tiền bạc và nhiều của cải khác cho con người, cả

trong cuộc sống riêng tư lẫn trong cuộc sống xã hội".

Như vậy, theo ông nỗ lực của trí tuệ - đạo đức là để bảo vệ thế giới nội tâm,

biểu hiện cho sự quan tâm đến tâm hồn con người. Hành vi đạo đức, hợp lý là biểu

hiện của hạnh phúc, khi đó của cải sẽ đem đến sự thoả mãn. Để làm được điều đó,

lý tính con người phải hạn chế các dục vọng, thông qua lý tính con người có quyền

lực với chính mình. Khái niệm tâm hồn được coi là đóng góp của Xôcrát, chính vì

16

thế: "Nhờ phát hiện này, Xôcrát đã tạo ra một truyền thống đạo đức và trí tuệ nuôi

dưỡng châu Âu cho đến ngày nay". Đó chính là sự ghi nhận của những nhà tư

tưởng khi nghiên cứu học thuyết triết học của ông.

Theo Socrates, tâm hồn có cấu trúc đơn giản, với năng lực cơ bản là lý tính.

Đối lập với lý tính là những dục vọng, xúc cảm sinh ra từ thế giới bên ngoài tác

động đến cơ thể. Trong quan niệm về tâm hồn, ông không hề nói đến trái tim, ý chí

hay niềm tin. Do cách tiếp cận tâm hồn từ lý tính bỏ qua những dục vọng hay lợi

ích nên tâm hồn được hình dung là cái đẹp đẽ, tinh khiết, thoát khỏi cái tầm thường.

Cảm xúc hay dục vọng là cái lôi kéo con người theo các hướng khác nhau, đe dọa

sự cân bằng của tâm hồn. Còn lý tính là năng lực suy luận của tư duy có lôgíc về

tính hợp lý hay là sự nhất quán.

Vì thế, lý tính được Socrates coi là cội nguồn của sự tự chủ (tự do) hay là

quyền lực đối với bản thân trước những cám dỗ tự phát của dục vọng hay cảm xúc.

Như thế, người tự do là người biết cách điều khiển và hạn chế các dục vọng. Đây là

cách hiểu hoàn toàn đúng đắn mà đạo đức học hiện đại phải tiếp tục kế thừa và phát

triển.

Theo Socrates: "Phải chăng mỗi người cần phải thấm nhuần tư tưởng cho

rằng sự kiềm chế là cơ sở của đức hạnh, và trước hết cần phải có nó trong tâm hồn?

Và trên thực tế, thiếu nó thì ai có thể có được những tri thức hữu ích nào đó hay có

được thói quen kiềm chế? Nô lệ nào của những khoái cảm mà lại không đưa cả cơ

thể lẫn tâm hồn tới trạng thái nhục nhã?".

Ông quyết liệt chống lại thói hám tiền vì cho rằng, ai đã nhận tiền của người đầu

tiên gặp mặt thì sẽ biến người đó thành chủ nhân của mình và mình bị biến thành

nô lệ của người đưa tiền. Tự do là kỹ năng điều chỉnh bản thân mình, nhờ đó lý tính

17

luôn làm chủ được thể xác.

Theo Socrates, lý tính có thể xác lập được độ hay giới hạn của các khoái

cảm, ngăn chặn con người có thể làm hay không làm một điều gì đó. Người tự do,

người thông thái là người xác lập được độ hợp lý cho các hành vi của mình và tuân

thủ nó. Như vậy, khi con người tự do trong tâm hồn, sẽ làm chủ được các hoạt động

của bản thân và người anh hùng là nhà thông thái chiến thắng được kẻ thù từ bên

trong tâm hồn mình.

Qua hội thoại “Euthyphro”, Socrates cho thấy rằng các giá trị đạo đức thì

không lệ thuộc vào thần thánh, tôn giáo, cảm tính, thói quen xã hội, quyền lực hay

ý thức hệ. Nhận thức về sự vô tri của mình là khởi điểm của khôn ngoan. Socrates

bị kết án là gây hoang mang trong giới thanh niên thành Athens, bị bỏ tù và bị ép

uống thuốc độc mà chết. Ông từ chối đào tẩu vì lẽ nhà nước đại diện cho đạo đức

tập thể vốn là nền tảng của chế độ dân chủ và kết quả của việc suy tư thuần lý và

tôn trọng lý trí một cách tối đa. Socrates chấp nhận hình phạt của nhà nước dân chủ

thì cũng như bất kỳ người lính nào cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết khi ra

chiến trận.

Nhưng cái chết của Socrates cũng là một sự mỉa mai cho nền dân chủ dựa

trên tranh cãi và hùng biện vốn đang che lấp một ý thức hệ ngụy biện của nhóm lợi

ích nào đó. Socrates xác tín rằng lý trí có thể phát triển một số những nguyên tắc

đạo đức vốn tiềm tàng trong trong cách chúng ta phán đoán về niềm tin, hành động

và chọn lựa. Nhận ra sự vô tri của chính mình là khởi đầu của hành trình khôn

ngoan. Khả năng phản tỉnh là “con đường vàng” dẫn đến tri thức thực sự. Con

người, hãy tự biết mình! (Mortals, Know thyself!).

Plato (khoảng 427 – 437 TCN) là một trong những nhà triết học, nhà tư

tưởng kiệt xuất thời cổ đại. Ở khía cạnh đạo đức học, Plato chủ yếu bàn đến vấn đề

18

con người và các học thuyết chính trị xã hội. Theo Plato con người chỉ có thể hoàn

thiện nhân cách – chủ yếu là nhân cách đạo đức trong một nhà nước được tổ chức

một cách hợp lý. Mục đích của triết học theo ông là xây dựng một nhà nước hoàn

toàn lý tưởng và hoàn thiện.

Thực thể tối hậu tồn tại trong thế giới ý niệm. Plato dùng mô hình toán học để

diễn đạt tri thức. Ông thiết lập một nền tảng siêu hình nhằm đưa ra giải pháp cho

những vấn nạn của Socrates. Thiện hảo và công lý tồn tại độc lập với chúng ta.

Chúng ta là những linh hồn bị cầm tù trong thể xác, chúng ta có thể hồi tưởng lại tri

thức về các “ý niệm” đã được tạc ghi vào linh hồn chúng ta trong quá khứ. Giáo

dục (e-ducare) là tiến trình hồi tưởng lại các thị kiến về điều Thiện. Vì thế, sự thiện

hảo, công bằng, đức hạnh, etc., là những ý niệm tuyệt đối, tồn tại ở thế giới ý niệm.

Cho dù trong thế giới khả giác chúng ta chưa hề bắt gặp sự thiện tuyệt đối nhưng ta

có thể dùng lý trí để hồi tưởng lại tri thức về các thực tại tuyệt đối này.

Dụ ngôn “Cái Hang”: Trong tác phẩm Nền Cộng Hòa, Plato dùng dụ ngôn Cái

Hang để phân biệt ra hai tầm mức thực tại: thế giới vĩnh cửu và thế giới tạm bợ.

Tìm hiểu về Đạo Đức thì cũng như các nô lệ đang bị giam cầm nơi hang sâu, chỉ

nhìn thấy hình bóng của những gì xảy ra chập chờn trên vách hang đá. Chỉ khi

được giải thoát ra ngoài thì mới ý thức là sự tồn tại của mình trong thế giới khả giác

trước đây chỉ là ảo ảnh của thực tại bất biến và vĩnh hằng bên ngoài hang tối. Ý

nghĩa của dụ ngôn “Cái Hang”: Bị trói buộc: thân xác nặng nề vì vui thú nhục dục

sẽ đè nặng xuống, ngăn cản suy tư đạo đức. Trong bóng tối: thế giới nhỏ bé, thiếu

kinh nghiệm, không sẵn sàng đón nhận tri thức. Bóng in trên tường: mỗi người là

thước đo cho chính mình, quan tâm đến mình, chấp nhận bất điều gì mà không biết

phê phán. Ánh sáng bên ngoài và sự mù lòa ban đầu: nỗi đau đớn khi học biết

những chân lý mới, cảm xúc khó chịu khi ý tưởng của ta bị thách đố.

Cần “từ bỏ bóng tối” thống trị bởi các đam mê và dục vọng. Nhận ra những

19

bóng tối của chính mình để được tự do theo đuổi tri thức. Tri thức chân thật đòi hỏi

sự kỷ luật, quay đầu khỏi các đam mê, và hồi tưởng lại những gì linh hồn đã biết.

Trí khôn con người có phần lý tính và phần phi lý tính (phần tiếp xúc với thân xác).

Do đó hạnh phúc của con người sống trên đời này là dùng lý trí để điều khiển dục

vọng và tinh thần. Tri thức luận của Plato gồm bốn bước đi lên: hình ảnh, sự vật,

toán học, ý niệm, tương đương với bốn mức độ nhận thức: tưởng tượng, tin tưởng,

suy gẫm và tri thức thật sự.

Đạo đức của Platon được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết về linh hồn,

theo Platon linh hồn có 3 bộ phận là lý trí, ý chí và nhục dục. Ông hình tượng hóa 3

bộ phận ấy là cỗ xe song mã, trong đó lý tính thì lái xe, con ngựa có ý chí thì nhận

thức được ý niệm, con ngựa thèm khát nhục dục thì sa vào tối tăm, dốt nát mà

không nhận thức được ý niệm. Platon cho rằng lý tính của linh hồn là cơ sở của sự

thông thái, ý chí là cơ sở của lòng dũng cảm, chế ngự nhục dục là cơ sở của sự điều

độ. Sự thông thái là một đức tính cao nhất, sự kết hợp 3 yếu tố trên dưới sự chỉ đạo

của lý tính sẽ tạo ra chính nghĩa là yếu tố thứ tư. Lý tính, ý chí, chế ngự dục vọng

và chính nghĩa là bốn yếu tố trong đạo đức học của Platon.

Đạo đức học của Platon hướng con người vào ý niệm tối cao của cái thiện,

đó là sự thông thái và lòng dũng cảm. Platon cho rằng chỉ có số ít người, những chủ

nô thượng lưu mới có đời sống đạo đức với những biểu hiện tối cao của nó là sự

thông thái và lòng dũng cảm. Còn quần chúng thường dân chỉ có năng lực đạo đức

tiêu cực, đạo đức khuất phục. Platon không coi nô lệ là con người. Với ông đó chỉ

là những “Động vật biết nói ” không thể có đạo đức và bảo vệ địa vị thống trị của

gai cấp chủ nô quý tộc, đối lập với quần chúng nhân dân.

Aristotles (384-322 TCN) là học trò Platon, ông đã phê phán mạnh mẽ học

thuyết của Platon về ý niệm. Bộ óc bách khoa toàn thư thời cổ đại đã đặc biệt đề

20

cao vai trò của nhân bản học – một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong thế giới quan

của Arítotles. Ông cho rằng con người được cấu tạo từ linh hồn và thể xác tựa như

mỗi sự vật được cấu thành từ hình dạng và vật chất. Ông phê phán quan niệm của

Plato cho rằng thể xác chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Aristotles đã khẳng

định sự gắn bó hữu cơ giữa chúng mặc dù linh hồn đóng vai trò chủ đạo.

Aristotles phê bình đạo đức học của Plato là lôi cuốn con người đi quá xa khỏi

thực tại mình đang sống. Aristotles cho rằng bản chất (hình thức) của sự vật không

ở trong thế giới cách biệt (ý niệm) nhưng trong chính vật chất. Aristotles dùng mô

hình sinh học: biết điều gì nghĩa là nhận ra các bộ phận của nó hoạt động như thế

nào trong một toàn thể để nó phát triển hoàn toàn chức năng của nó.

Mọi thực thể đều có bản chất và hình thức; hành động được hiểu theo ý hướng và

mục đích. Điều mang lại hạnh phúc không hệ tại ở sự vật hay hành động nhưng là

trong ý định hay mục đích. Như vậy “sự thiện” của một sự vật là điều kiện vốn

giúp nó đạt đến hay hoàn thành ý định hay mục tiêu của nó. Điều kiện này chính là

“điểm trung dung” giữa sự thái quá và bất cập. Nhân đức là tương quan đúng đắn

giữa sự thái quá và khiếm khuyết: khôn ngoan, can đảm. Nhân đức là thói quen

chọn những gì tốt nhất để mình có thể phát triển hoàn thành chức năng cao nhất của

mình, đó chính là lý trí

Tác phẩm Nicomachean Ethics là bản văn đầu tiên về đạo đức trong nền văn

minh Tây phương. Aristotles cho rằng không có hình thức nào có thể tồn tại tách

biệt khỏi đối tượng. Không có sự thiện hảo nào tồn tại tách biệt khỏi kinh nghiệm

sống hàng ngày. Chúng ta biết điều tốt nhờ vào việc quan sát cách thức người ta nỗ

lực đạt được điều thiện. Tình bạn hữu chân thật (mong ước điều thiện cho người

khác chỉ vì họ mà thôi) là động lực tối hảo cho việc vun trồng nhân đức.

Trong khi tập nhân đức, tìm kiếm sự thiện hảo qua cách chọn cái trung dung, con

người phải tận dụng lý trí. Do đó, đời sống lý trí có hai hướng song song: theo đuổi

21

chân lý (trí thông minh và sự hiểu biết) và theo đuổi nhân đức (sự trung dung giữa

thái quá và khiếm khuyết). Đây là mô hình “sinh học”: bạn chỉ biết bản chất của

một vật khi bạn nắm bắt được toàn bộ tiềm năng của nó. Vì con người là động vật

có lý trí, tiềm năng lý trí sẽ đưa chúng ta đến hạnh phúc; trong tiến trình này, chúng

ta có thể học biết điều thiện hảo.

Đạo đức học Aristotles thẳng thắn hướng đến mục đích. Ông quan tâm đến

hành vi, không phải hành vi tự nó đúng bất chấp mọi nhận định khác, mà là hành vi

đưa đến điều thiện cho con người. Cái đưa đến chỗ đạt được sự thiện (hoặc mục

đích) sẽ là một hành vi “đúng” về phía con ngưới: còn hành vi đối nghịch với việc

đạt đến điều thiện đích thực sẽ là một hành vi “sai”.“Mọi nghệ thuật và mọi đòi hỏi,

mọi hành vi và lựa chọn, hình như nhắm đến một điều thiện nào đó; vì thế sự thiện

đã được định nghĩa đúng là cái mà mọi vật nhắm đến”. Nhưng có nhiều sự thiện

khác nhau tương ứng với những nghệ thuật và khoa học khác nhau. Vì vậy, nghệ

thuật của bác sĩ nhắm đến sức khỏe, tài khéo léo đi biển nhắm đến một chuyến

hành trình an toàn, kinh tế nhắm đến sự giàu có. Hơn nữa, một số mục đích lệ thuộc

những mục đích khác cơ bản hơn. Mục đích của việc đưa ra một phương thuốc nào

đó có thể là tạo ra giấc ngủ, nhưng mục đích tức thời này lệ thuộc mục đích sức

khỏe. Cũng thế, chế tạo hàm thiếc và yên cương cho ngựa chiến là mục đích của

một nghề thủ công nào đó. Nhưng việc đó lệ thuộc mục đích rộng hơn và bao quát

hơn là làm cho các cuộc hành quân có hiệu quả. Do đó, các mục đích này nhắm đến

những mục đích hoặc những sự thiện xa hơn. Nhưng có một mục đích chúng ta ao

ước vì chính nó, và vì nó mà chúng ta ao ước tất cả các mục đích (hoặc sự thiện)

phụ thuộc khác, thế thì sự thiện tối hậu sẽ là sự thiện thiện hảo nhất, thực ra đó là

sư thiện. Aristotles dấn thân vào việc khám phá sự thiện này là gì và khoa học

tương ứng với nó là gì.

Phái Khoái lạc: Thước đo hành động của chúng ta là mức độ thỏa mãn mà

22

hành động đó mang lại. Mỗi người cần tìm cuộc sống thoải mái với một sự thỏa

mãn quân bình, cần loại trừ những nỗi lo lắng vô căn cứ như Thượng đế hay hình

phạt đời sau.

Epicurus là một nhà tư tưởng bắt đầu phát tiết tinh hoa trí tuệ của mình chỉ

vài thập kỷ sau sự ra đi của Aristotle. Sinh ra trên hòn đảo Samos, Epicurus đã

dành cả đời mình để chu du ngang dọc khắp Hy Lạp trước khi dừng chân ở thủ đô

triết học của thế giới thời ấy, thành Athen.

Epicurus, khá oan uổng, thường bị người đời chê trách là kẻ theo chủ nghĩa

khoái lạc. Chủ nghĩa khoái lạc là một loại triết học đạo đức nói rằng bất cứ hành

động nào đem lại sự thoải mái đều là tốt. Một người trung thành với chủ nghĩa

khoái lạc cả đời chỉ đi tìm kiếm cảm giác khoái lạc tiếp theo mà chẳng cần quan

tâm đến bất cứ mục đích cao cả nào khác của cuộc sống.

Điều này thoạt đầu nghe có vẻ hay, có lẽ nằm ườn ra trên ghế bành và ăn nho

đựng trong một cái bát bằng bạc là một cách thú vị để tiêu khiển vào cuối tuần. Tuy

nhiên, những người trung thành với chủ nghĩa khoái lạc cuối cùng thường phát hiện

ra rằng cuộc sống mà họ truy cầu là chỉ là vọng tưởng mà thôi. Và rằng bạn luôn

gặp phải nguy cơ sẽ ăn hết nho trong bát.

Trường phái triết học của Epicurus thực ra là trái ngược. Ông nói rằng con

người không nên liên tục tìm kiếm những cảm giác khoái lạc, mà nên tìm cách

tránh những điều tiêu cực như đau đớn và sợ hãi. Epicurus tin rằng bằng cách hạn

chế những thống khổ trong cuộc sống, chúng ta có thể trân trọng hơn những điều

thú vị nhỏ nhoi hơn như tình bạn và gia đình. Bằng cách tránh khỏi đau đớn và cố

gắng tìm kiếm sự yên bình, chúng ta có thể thỏa mãn cuộc sống của mình.

Epicurus tin rằng vật cản chính chắn đường hưởng thụ cuộc sống của chúng

23

ta chính là sự sợ chết. Con người Hy Lạp cổ đại sống trong nỗi sợ chết thường nhật.

Họ tin rằng nếu họ sống mà không kính Thần thì họ sẽ bị tống xuống địa ngục của

Thần Hades và chịu nhận tra tấn vạn kiếp bất phục. Điều này thật đáng buồn thay.

Epicurus cho rằng toàn bộ vũ trụ được tạo nên từ các nguyên tử và giữa

chúng là khoảng không trống rỗng, cũng giống như tư duy của khoa học ngày nay.

Ông kết luận rằng linh hồn con người, chính vì vậy, cũng được tạo thành từ nguyên

tử và sẽ bị giải thể cùng lúc với phần còn lại của cơ thể khi con người chết đi.

Nên nhớ là Epicurus tin rằng nếu điều gì đó đem đến đau đớn hay thống khổ,

thì nó chính là xấu. Ông kết luận rằng vào thời khắc qua đời chúng ta không còn

cảm thấy bất kỳ dạng đau đớn nào nữa, cả về tinh thần lẫn thể chất. Cái chết không

đau đớn, không đáng sợ, mà đó chỉ là sự kết thúc của những cảm giác dài lê thê của

chúng ta mà thôi. Vậy nên chúng ta không nên e sợ cái chết. Quan trọng nhất là

chúng ta không nên để nó làm phân tâm trong quá trình tìm kiếm hạnh phúc trong

cuộc sống.

Đây là một thế giới quan khá thú vị. Đừng lo lắng về cái chết vì nó sẽ không

gây ra đau đớn và sợ hãi. Hãy chỉ truy cầu hạnh phúc và tận hưởng cuộc sống với

bằng hữu và gia đình mà thôi.

Bất chấp những suy nghĩ tích cực này, Epicurus không nổi tiếng cho lắm

trong thời đại của ông. Những lời thuyết giảng khiến mọi người tin rằng ông là một

người vô thần. Chính vì tín ngưỡng phi truyền thống này mà hầu hết người dân

Athen không mấy tôn trọng ông. Tuy nhiên quanh ông vẫn có một nhóm những

người sùng kính trung thành kiên định thực hành triết lý này và gìn giữ những công

24

trình của ông cho các thế hệ tương lai.

Đến thời kỳ trung cổ, những yếu tố biện chứng sơ khai ban đầu thời kỳ cổ đại

dần dần bị rũ bỏ thay vào đó là tôn giáo và thần học mọi sự vật hiện tượng đều

được đánh giá một cách giáo điều, phiến diện.

Đạo đức học thời trung cổ : đức tin và lý trí

Vấn đề: Lý trí nâng đỡ hay cản trở đức tin trong khi truy tầm nhận thức về

điều đúng hay sai. Một mình lý trí có thể nắm bắt được bản chất của luân lý hay

không?

Augustino (354-430): ánh sáng nội tại

Khuynh hướng nhị nguyên: có hai loại nhận thức, hay hai thành đô. Thành đô

Thiên Chúa và thành đô con người; thế tục đối ngược với thánh thiêng. Có hai trật

tự: tự nhiên (khả giác, thành đô con người, công ích, thế tục) và siêu nhiên (khả tri,

thành đô Thiên Chúa, vĩnh cửu).Vai trò của niềm tin Kitô, Giáo Hội, Kinh Thánh:

Đạo đức Kitô giáo hướng đến tìm kiếm những giá trị bất biến, vĩnh cửu. Triết học

đưa đến sự hiểu biết còn thần học đưa đến sự khôn ngoan. Thánh Augustino viết

hơn 700 tác phẩm, đáng lưu ý nhất là cuốn Tự thuật và Thành đô của Thiên Chúa.

Tính nhị nguyên của thánh Augustino: đời sống lý trí (hướng đến hạnh phúc tạm

thời, điều thiện tự nhiên và chóng qua), và đời sống đức tin (đưa đến sự cứu rỗi và

hạnh phúc vĩnh cửu, điều thiện siêu nhiên). Vì cuộc đời này chỉ là sự chuẩn bị cho

đời sau cho nên không thể tìm thấy hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu ở đây. Con

người sa ngã do nguyên tội nhưng vẫn còn ý chí tự do và trách nhiệm đối với các

hành vi của mình. Vì lẽ đó, nhân đức có thể luyện tập được nhưng giá trị thực sự

phải được thúc đẩy bởi niềm tin vào Thiên Chúa hằng hữu. Con người sống như

khách lữ hành trong thế giới này.

25

Thomas Aquino (1225-1274): lý trí phối hợp với đức tin.

Lý trí đưa đến các nhân đức trí tuệ; nhưng đức tin đưa đến nhân đức đối thần.

Lý trí là tiếng nói của lương tâm. Một mình lý trí thông thường có thể đạt đến hiểu

biết quy luật tự nhiên. aquino tái khám phá và Kitô hóa triết học của Aristotles, tạo

nên một sự hài hòa giữa nền đạo đức tự nhiên và đạo đức hướng thần. Phạm vi sáng

tác của Aquino rất rộng, quan trọng nhất là tác phẩm Summa Theologica, và

Summa Contra Gentes. Đạo đức tự nhiên bao gồm việc phát triển khả năng của lý

trí đồng thời thực hành đời sống luân lý; đạo đức tự nhiên đưa con người đến hạnh

phúc trần thế. Đạo đức hướng thần bao gồm việc đạt được các nhân đức hướng

thần: tin-cậy-mến nhờ ân sủng của Thiên Chúa.

Aquino cho rằng Luật tự nhiên-Luật siêu nhiên được viết trong tâm hồn-được

khám phá bởi lý trí và trau dồi bởi lương tâm. Khi chấp nhận tính độc lập và khả

năng đạt đến chân lý của lý trí, đạo đức học của Aquino có một lối nhìn mang tính

khoa học hơn về con người. Sống đạo đức là biết sống tuân theo bốn qui luật: luật

vĩnh cửu, luật tự nhiên, luật xã hội, và luật Thiên Chúa.

Triết học cận đại ghi dấu tên tuổi của Bacon (1561 – 1626) ông tổ của chủ

nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm. Bắt đầu từ Bacon lịch sử triết học Tây

Âu bước sang một giai đoạn mới với những màu sắc riêng. Quan niệm về đạo đức

của Bacon được khái quát trong vấn đề con người. Ông cho rằng con người là sản

phẩm của tạo hóa do vậy khoa học về con người cũng chính là khoa học về tự

nhiên.

Thomas Hobbes (1588 – 1679), có một quan điểm khá tối tăm về đạo đức

con người. Ông hình dung loài người, về căn bản, là tàn bạo, tranh đua, và chỉ quan

tâm đến quyền lợi bản thân. Khác với Bacon, Hobbes khẳng định rằng thần học là

lĩnh vực hoàn toàn về lĩnh vực tôn giáo, triết học là hoạt động trí tuệ của con người

26

nhằm khám phá ra bản chất sự vật hiện tượng. Tất cả các lĩnh vực khoa học như

hình học, vật lý, đạo đức… theo ông đều chỉ là lĩnh vực khác nhau của triết học.

Ông khẳng định cần phải xóa bỏ “trạng thái tự nhiên” của con người, ở Hobbes là

sự thể hiện xu hướng tư sản tiến bộ đấu tranh đòi phá bỏ thần quyền và phân biệt

đẳng cấp của chế độ phong kiến đòi mở rộng dân chủ và tiến bộ xã hội.Trong tự

nhiên, tự bản chất con người tìm kiếm sự bảo toàn cho chính mình. Trong tình

trạng tự nhiên, đúng hay sai không tồn tại, không có luân lý. Chỉ khi xã hội dân sự

hình thành và khi mọi người sẵn sàng đồng ý cống hiến trọn vẹn lòng trung thành

cho đất nước thì đạo đức mới có thể thực hiện được. Nhà nước có thể trừng phạt

những hành động ngăn trở hoặc ban thưởng cho những hành động cổ võ công ích

và sự an toàn của người dân. Do đó, đạo đức học đối với Hobbes xuất phát từ nhu

cầu tự vệ.

Nghiên cứu cặn kẽ nhất của Hobbes về bản tính con người chính là học

thuyết của ông về nhà nước. Dù ta có công nhận những khái niệm của ông về trạng

thái tự nhiên và về khế ước xã hội có giá trị về mặt lịch sử hay không thì những

khái niệm này vẫn cấu thành nên sự giải thích của Hobbes về nguồn gốc của nhà

nước.

Ở trạng thái tự nhiên, con người cư xử với nhau giống như dã thú . Trong

trạng thái này, dục vọng tự nhiên (cupiditas naturalis) chiếm ưu thế. “Tự nhiên ban

cho mỗi con người quyền hạn làm tất cả mọi thứ, tức là nó cho phép mỗi con người

– trong trạng thái tự nhiên trần trụi hay trước khi tham gia vào bất kỳ thỏa thuận

hay khế ước nào – làm những gì họ có thể làm, chống lại những ai họ thấy cần, và

sở hữu, sử dụng, tận hưởng tất cả những gì họ muốn, hay có thể có, hay chiếm

được… Và đây chính là ý nghĩa của câu nói phổ biến “tự nhiên ban tặng tất cả cho

tất cả”. Từ đó, ta cũng hiểu theo cách tương tự rằng trong trạng thái tự nhiên, lợi

ích chính là thước đo của pháp quyền, của lẽ phải”. Vì lý do này, mọi con người, về

bản chất, đều bình đẳng. Vì mỗi hữu thể bình đẳng này đều có thể tìm kiếm bất cứ

thứ gì họ muốn, nên mỗi người đều sống trong nỗi lo sợ trước những người khác. 27

Trong một giả thuyết như vậy, mỗi người đều là quan tòa của chính mình. Trạng

thái tự nhiên trần trụi được đặc trưng bởi tình trạng chiến tranh chống lại nhau giữa

người với người, của tất cả chống lại tất cả (belium omnium contra omnes).

Do những điều kiện thiếu thốn của trạng thái tự nhiên, con người đã hành

động để giải thoát mình khỏi những bất lợi này. Họ tham gia vào cái gọi là khế ước

dân sự: Con người từ bỏ những quyền tự nhiên cá nhân của mình và bằng hành

động tự do này, họ đã tạo dựng nên trật tự, luật pháp, phong tục, và luân lý cho bản

thân và cho đồng loại. Đây chính là khối cộng đồng hay nhà nước. Sự tự do được

đảm bảo cho tất cả thông qua nhà nước. Mỗi người bắt buộc phải áp đặt những hạn

chế nhất định lên những hành động tùy tiện của bản thân; bằng cách đó, con người

tạo điều kiện cho tất cả có thể tận hưởng trọn vẹn sự tự do của mình. Ngay nơi

Kant, những khái niệm về pháp quyền và nhà nước cũng dựa trên lý thuyết. Nếu

muốn sự quản trị của nhà nước hoạt động có mục đích và hữu ích thì ắt không thể

cho phép các quyền tự nhiên như thế được. Nhà nước phải có toàn quyền và có khả

năng quyết định tất cả mọi thứ bởi quyền lực nội tại của nó. Nhà nước phải có chủ

quyền tối cao. Nhà nước cũng là nguồn suối duy nhất của pháp quyền, luân lý và

tôn giáo.

John Locke (1632 – 1704) là đại biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy

vật Anh, ông đề cao vai trò kinh nghiệm trong quá trình nhận thức con người.

Locke cũng cho rằng, con người luôn ích kỷ và đầy ham muốn. Chính vì vậy mà

ngay từ thời kỳ còn trong trạng thái tự nhiên,khi nhà nước chưa ra đời, bên cạnh

quyền tự nhiên của mình, con người đã phải tự cho mình quyền xét xử và trừng

phạt kẻ khác để duy trì luật của tự nhiên. Khi xã hội văn minh ra đời, thể chế nhà

nước là hệ quả của khế ước xã hội-một bước tiến văn minh hơn và giúp duy trì luật

của tự nhiên thông qua luật lệ của xã hội văn minh. Ngay cả một nhà nước chuyên

28

chế do vua chúa cai trị cũng phải thực hiện đúng các chức năng của khế ước xã hội

như một chính quyền dân sự nếu không muốn bị diệt vong. Chức năng của một

chính quyền dân sự hợp lý là phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người, tức quyền

được sống, được tự do, có sức khỏe và của cải của mỗi công dân. Ông cũng phân

biệt quyền hạn của nhà nước do truyền ngôi với quyền hạn chính trị và độc tài.

Quyền hạn truyền ngôi là hạn chế, còn quyền hạn chính trị là lấy từ quyền của mỗi

cá nhân để đảm bảo việc thực hiện luật của tự nhiên. Quyền độc tài thì ngược lại,

nó lấy quyền sống, tự do, sức khỏe và cả một phần của cải của người khác để phục

vụ cho quyền lực của mình.

Theo quan điểm của Locke về khế ước xã hội, nhà nước không cần có quá

nhiều quyền lực, vì như vậy chỉ khiến người dân bị đè nén. Ông cũng nhận thấy

nguy cơ của quyền lực tuyệt đối, quyền độc tài dù trao cho một cá nhân hay một

nhóm người. Dạng nhà nước tốt nhất chính là quyền lực của hệ thống chính quyền

được hạn chế bằng cách chia thành các nhánh và mỗi nhánh có quyền hạn riêng cần

thiết đủ để thực hiện chức năng của mình.Theo ông, một hệ thống nhà nước cần có

quyền xét xử độc lập mà việc ra quyết định được thực hiện chỉ dựa trên duy nhất

hiến pháp của cả quốc gia.Ông cho rằng, trách nhiệm của quốc hội là lập pháp và

nhiệm vụ của nhà vua là hành động như một người chấp pháp tối cao.

Để duy trì trật tự xã hội, bất kỳ nhà nước nào cũng đều phải có sự đồng thuận

của những người bị trị. Nhận thấy rằng, khó có thể đạt được sự đồng thuận tuyệt

đối cho một luật lệ cụ thể được đưa ra, Locke chủ trương phải chấp nhận đặt sự

quyết định dựa trên ý kiến của đa số lên trên hành vi của mỗi cá nhân.

Đối với Locke, cơ cấu nhà nước không quan trọng bằng việc quyền lập pháp-

quyền quyết định trật tự xã hội và phúc lợi chung qua việc đặt ra luật lệ về việc

chuyển nhượng, bảo toàn và thu nhận tài sản phải được thực hiện theo cách mà mọi

người đều đồng thuận. Vì luật lệ sẽ được duy trì trong một thời gian dài sau khi

thiết lập, nên cơ quan lập pháp không cần phải họp thường xuyên. Tuy nhiên nhánh

29

hành pháp-nơi chịu trách nhiệm đảm bảo luật pháp được thực thi cần duy trì hoạt

động liên tục trong xã hội. Chức năng hành pháp được thực hiện bởi các quan

chức,các vị bộ trưởng mà quyền lực của họ được trao từ nhánh lập pháp.Khi nhánh

lập pháp ngưng họp, cơ quan hành pháp có đặc quyền xử trí tình hình khẩn cấp khi

chưa có luật lệ quy định cho những tình huống này. Locke cũng cảnh báo rằng, nếu

lạm dụng đặc quyền này sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định và trật tự của quốc gia. Khi

đó, một trật tự mới, một khế ước xã hội mới sẽ ra đời để thực hiện quyền phán xét

tối cao theo đúng luật của tự nhiên.

Locke coi bản chất con người là lý trí và khoan dung. Ông tin vào Chúa Trời,

nhưng không cho Chúa Trời một vị trí nào trong tâm tưởng hay trái tim của con

người,

Quan điểm về tôn giáo của Locke là phải khoan dung. Một xã hội mới muốn

thực hiện tốt chức năng của nó cần phải thống nhất không phải bằng một tôn giáo

mà bằng lòng khoan dung. Do vậy, nhà thờ phải là các tổ chức tự nguyện,chứ

không gắn liền với nhà nước như Nhà thờ Anh giáo.

Cho dù mới chỉ giới hạn ở Kitô giáo, hay nói đúng hơn là các giáo

phái Kháng Cách,song J.Locke là người đã đặt ra nguyên tắc khoan dung đối với

tôn giáo. Quan điểm của J.Locke về khoan dung tôn giáo phù hợp với quan điểm

của ông về chính quyền dân sự. Ông cho rằng, quyền sống, tự do, sức khỏe và của

cải là các quyền lợi dân sự và đó cũng là mối quan tâm của chính quyền dân sự và

các quan tòa. Các quan tòa có thể dùng sức mạnh và bạo lực nếu cần để duy trì các

lợi ích dân sự và để chống lại bạo lực phá vỡ những quyền trên. Và đấy là chức

năng của nhà nước. Còn đối với mối quan tâm tới sự cứu rỗi thì đó không phải là

lợi ích dân sự, nằm ngoài quyền hạn của chính quyền dân sự và các quan tòa. Trên

thực tế, Locke đã bổ sung vào các quyền tự nhiên, như quyền sống, quyền tự do,

30

quyền có sức khỏe và của cải,một thứ quyền nữa-đó là quyền tự do lựa chọn con

đường cứu rỗi của riêng mỗi người. Ông coi mọi sự can thiệp của nhà nước nhằm

duy trì niềm tin đều không hợp lý, vì sức mạnh mà vị quan tòa sử dụng không phải

là phương tiện hiệu quả để thay đổi niềm tin. Chỉ có nhà thờ chân chính mới có

quyền lực đó, nhưng mỗi nhà thờ đều tự cho mình là chân lý, trong khi không ai

ngoài Chúa Trời có thể phán xét điều này. Do vậy, điểm cốt lõi trong biện luận của

ông về khoan dung tôn giáo là sự hoài nghi đối với khả năng hiểu biết tôn giáo.

Các nhà tự do như J.Locke cũng e sợ sự đa cảm của số đông. Người tự do

phải là người đọc các tác phẩm trí tuệ, tin vào giáo dục và tin vào việc con người

biết vượt lên hoàn cảnh như các nhà tư sản vẫn làm, và vì là người có trí tuệ nên

cần biết đặt giá trị vào sự tự do tư tưởng, phản đối sự can thiệp của nhà thờ vào triết

học và khoa học.

Chính từ quan niệm nhận thức luận của mình, J.Locke đã nhấn mạnh vai trò

và quyền năng của giáo dục chính là tạo ra sự trải nghiệm trong tâm trí của trẻ em

trong quá trình trưởng thành. Và “trí tuệ của đứa trẻ cũng dễ dàng thay đổi giống

như nước vậy”. Ông quên sự khác nhau về bản năng giữa những đứa trẻ và nhấn

mạnh tới mục tiêu rộng lớn của giáo dục chính là để có những con người phù hợp

với cuộc sống, với thế giới chứ không phải là để vào đại học. Mục tiêu giáo dục

quan trọng chính là đào tạo tính cách.

Montesquieu (1689-1755), triết gia Khai sáng của Pháp, nhận thấy mối quan hệ

khăng khít giữa giáo dục với nền chính trị của một đất nước “trật tự chính trị tạo ra

nền giáo dục phục vụ cho mục tiêu của nó. Ở các nhà nước quân chủ giáo dục tạo

ra danh dự; ở các nhà nước cộng hòa giáo dục tạo ra giá trị; ở các nhà nước chuyên

chế giáo dục tạo ra nỗi e sợ”. Trong chuyên luận The Spirit of the Laws (1748)

Montesquieu đã dành một phần(Quyển 4) để viết về giáo dục và gắn liền với nó là

các kiểu nhà nước tương ứng. Ngay phần đầu Quyển 4 này, ông viết “Nguyên tắc

31

về giáo dục là thứ đầu tiên mà chúng ta phải nắm bắt được. Vì giáo dục chuẩn bị

cho cuộc sống công dân, mỗi gia đình riêng lẻ phải được điều hành bởi một kế

hoạch chung rộng lớn bao trùm lên tất cả”. Chính là vì giáo dục sẽ đào tạo nên

những công dân sống trong xã hội của một thể chế chính trị nhất định, các nguyên

tắc giáo dục được quy định bởi thể chế chính trị đó. “Trong xã hội quân chủ, danh

dự đóng một vai trò quan trọng… danh dự có một số nguyên tắc tối thượng mà

người có giáo dục phải tuân thủ. Nguyên tắc quan trọng nhất là được phép định giá

cho tài sản nhưng không được phép định giá cho cuộc sống; nguyên tắc thứ hai là

khi được thăng chức, (người có giáo dục) không bao giờ được phép thể hiện rằng

họ không xứng đáng với vị trí đó; nguyên tắc thứ ba là có một số điều mà danh dự

đã cấm ngặt thì đó là những thứ không bao giờ được màng tới, dù luật pháp không

ngăn cấm”. Montesquieu đã sớm tỏ thái độ phê phán chế độ chuyên chế và nền

giáo dục của nó “Nếu giáo dục trong chế độ quân chủ ca tụng trí tuệ thì các nhà

nước chuyên chế tìm cách hạ thấp nó. Dưới chế độ này, giáo dục chỉ nhằm tạo nên

những kẻ biết nghe lời”. Trong khi đó, ông ủng hộ chế độ cộng hòa cùng giáo dục

của nó “Chính trong thể chế cộng hòa, giáo dục mới phát huy được tòan bộ sức

mạnh của nó…Giá trị (mà giáo dục đem lại) có thể được hiểu là tình yêu đối với

luật pháp và với đất nước. Tình yêu này đòi hỏi cả lợi ích công cộng lẫn riêng tư

nên nó là nguồn gốc của mọi giá trị cá nhân”. Tương tự như John Locke,

Montesquieu coi mục tiêu của giáo dục là đào tạo những công dân mẫu mực phù

hợp với một xã hội nhất định mà ông coi là “một đại gia đình lớn”.

Hume (1711-1776) là nhà triết học nổi tiếng người Anh.Hume cho rằng toàn

bộ các hiện tượng trong thế giới là bí ẩn.Bằng sự hoài nghi của mình, Hume phê

phán các quan niệm coi linh hồn con người như một thực thể, không có vật chất

cũng không có tinh thần như những khái niệm cơ bản của triết học. Hume đề cao

tuyệt đối vai trò của cảm giác, ông chống lại tôn giáo vì nó chỉ đem lại những điều

siêu thực và giả dối nhưng chính bản thân ông cũng tự mâu thuẫn khi cho rằng con

32

người vẫn phải tin vào một lực lượng siêu nhiên nhằm an ủi cuộc sống.Ngược lại

với cái nhìn đạo đức mang tính cơ học và duy vật của Hobbes, Hume cho rằng cảm

giác về sự đau đớn đưa chúng ta đến việc suy tư và hình thành nên những quan

niệm về công lý và điều thiện, từ đó tạo nên một hệ thống các phán đoán luân lý.

Luân lý có khía cạnh: khách quan (kết quả của hành động) và chủ quan (cảm giác

về mức độ hài lòng mà người khác có được). Một mình lý trí không thể trả lời hết

những vấn nạn luân lý, nhưng cần một “sự đồng cảm luân lý” trong việc chọn lựa

điều gì hữu ích hay hài lòng để hành động.Có lẽ Hume đã là người đầu tiên, cùng

với các thành viên khác của thời kỳ Khai sáng Scolland, đề ra tư tưởng rằng có thể

tìm giải thích cho các nguyên tắc đạo đức trong lợi ích mà chúng khuyến khích.

Tuy Francis Hutcheson, một đồng bào của ông, là người đặt ra khẩu hiệu "niềm vui

tối đa cho số đông" ("greatest happiness for the greatest numbers"), nhưng từ việc

đọc Luận thuyết của Hume mà Jeremy Bentham đã lần đầu tiên cảm thấy sức mạnh

của một hệ thống vị lợi chủ nghĩa. Tuy nhiên, chủ nghĩa vị lợi sơ khai của Hume rất

đặc biệt từ góc nhìn của chúng ta. Ông không cho rằng sự kết hợp của các con số

đếm về lợi ích có thể cho ra một công thức để đi tới chân lý đạo đức. Ngược lại,

Hume là một người theo chủ nghĩa cảm tính đạo đức, ông cho rằng các nguyên tắc

đạo đức không thể được minh giải bằng tri thức. Đơn giản là ta cảm thấy một số

nguyên tắc là đúng và những người khác thì không; và lý do tại sao các nguyên tắc

đạo đức theo chủ nghĩa vị lợi được ta công nhận là vì chúng khuyến khích lợi ích

của cả ta và những người khác, những người mà ta có sự thông cảm. Con người

được cấu tạo để đồng ý với những gì giúp cho xã hội, nghĩa là lợi ích công cộng.

Hume đã sử dụng hiểu biết sâu sắc này để giải thích cách chúng ta đánh giá nhiều

hiện tượng đa dạng, từ các thể chế xã hội và các chính sách của chính phủ cho đến

các tính cách và tài năng.

Rousseau (1712-1778) được biết đến không chỉ với tư cách nhà tư tưởng vĩ

đại, nhà Khai sáng lỗi lạc của Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Ông còn

33

được biết đến với tư cách nhà chính trị học, nhà nghệ thuật học, nhà văn, nhà giáo

dục học. Với tư cách nhà triết học, về phương diện thế giới quan, Rousseau là

người theo thuyết thần luận. Ngoài sự tồn tại thần linh, ông còn thừa nhận sự tồn tại

linh hồn bất tử. Trong lĩnh vực lý luận nhận thức, ông đề cao cảm giác luận, mặc

dù thừa nhận tính chất bẩm sinh của các ý niệm đạo đức. Trong đạo đức học, ông

coi đức hạnh là “khoa học cao siêu của các tâm hồn đơn sơ”, bởi triết học đích thực

là “lắng nghe tiếng nói của lương tâm”.

Rousseau là người có đóng góp to lớn đối với phong trào Khai sáng của Châu

Âu, gây ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng đối với cuộc Cách mạng Pháp 1789 và đặc

biệt còn là một nhà giáo dục, đặt nền móng cho “kỷ nguyên về sư phạm” ở thế kỷ

XVIII. Khác với các nhà tư tưởng về giáo dục trước đó, Rousseau đã lấy trẻ em làm

đối tượng cho triết lý về giáo dục của mình, làm “tâm điểm cho quá trình giáo

dục”. Tư tưởng về giáo dục của Rousseau được thể hiện rõ nhất qua tiểu thuyết

Emile hay là về giáo dục. Ra đời trong bối cảnh cả châu Âu đang “lên cơn sốt về

giáo dục”, cuốn Emile của Rousseau vẫn khiến dư luận châu Âu phải bất ngờ về

những tư tưởng độc đáo của mình, dù ông tự nhận là kế thừa và chịu ảnh hưởng rất

nhiều của những triết gia đi trước như Montaigne, John Locke. Rousseau được coi

là cha đẻ của các trào lưu giáo dục cấp tiến của thế kỷ XX, chẳng hạn Trào lưu

Trường học hiện đại (the Modern School movement) hay trào lưu Trường học tự do

(Free School movement).

Nếu phần lớn các nhà giáo dục trước đó đều coi mục tiêu giáo dục là đào tạo

ra những công dân mẫu mực cho xã hội thì Rousseau lại cho rằng việc giáo dục nên

một con người kép (con người và công dân) là “sự nhọc công uổng phí” bởi vì “sự

giáo dục này hướng về hai mục đích tương phản mà lỡ cả hai: sự giáo dục hòng tạo

nên một con người kép luôn ra vẻ đem lại tất cả cho người khác, song bao giờ cũng

chỉ mang lợi cho riêng mình mà thôi… Toàn thiên hạ đều thế cả, nên chẳng lừa

34

được ai”. Rousseau đề xuất một nền giáo dục hướng con người tới sự phát triển tự

nhiên chứ không phải giáo dục để con người thực hiện một chức năng nhất định

nào đó trong xã hội “nếu một cá nhân được đào tạo cho vị trí của anh ta mà ra khỏi

vị trí ấy, anh ta không còn thích hợp cho việc gì nữa hết”. Rousseau nêu mục tiêu

của giáo dục “Việc học tập đích thực của chúng ta là học tập về thân phận con

người.

Tiểu kết chƣơng 1:

Khi nghiên cứu một vấn đề cụ thể,chúng ta đều cần tìm hiểu về những tiền

đề,tác nhân ảnh hưởng đến nó và trên đây là những tiền đề về kinh tế xã hội cũng

như tiền đề về lý luận trước Kant.Những học thuyết về đạo đức trước Kant có thể

chưa được hệ thống rõ rang và phổ quát hay chưa được xây dựng thành một học

thuyết có lý luận chặt chẽ,nhưng đó đều là những bệ phóng để Kant tạo nên một

học thuyết đạo đức được hệ thống chặt chẽ bậc nhất trong nền lịch sử Triết học nói

riêng hay một học thuyết mang đầy tính nhân văn trong lịch sử nhân loại nói

chung.Khi đã hiểu rõ những tiền đề về kinh tế xã hội cũng như về lý luận trước

Kant,chúng ta có thể tiếp cận nghiên cứu Đạo đức học của Kant một cách dễ dàng

35

và hiểu sâu hơn.

CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC KANT TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH

2.1.Quan niệm của Kant về hành vi đạo đức

Triết học Kant có vị trí đặc biệt trong lịch sử triết học phương Tây. Tính chặt

chẽ trong hệ thống triết học của Kant cùng với việc nghiên cứu con người như một

chủ thể nhận thức và một chủ thể hành động đã đưa triết học cổ điển Đức nói riêng

và triết học phương Tây nói chung lên tầm cao mới.

Trước khi đi vào học thuyết về đạo đức của Kant, chúng ta cần phảiđiểm qua

khái lược về tác phẩm “Phê phán lý tính thực hành”. Nó là tác phẩm thứ hai nằm

trong bộ ba tác phẩm phê phán của ông. Và nó, theo ông, là tác phẩm quan trọng

36

nhất trong hệ thống triết học của mình. Vì nó chính là toàn bộ tâm huyết ông đã gửi

gắm vào để nhằm đóng góp xây dựng môn Siêu hình học đạo đức, nếu có thể, nó

chính là những quy phạm thiết lập và thú hướng đạo đức cho con người trong xã

hội rối ren mà các quy tắc đạođức đã bị lãng quên thời ông cũng như sau này.

“Phê phán lý tính thuần tuý” (xuất bản 1781) là nhằm trả lời cho câu hỏi

“Tôi có thể biết gì?”, “Phê phán lý tính thực hành” (xuất bản 1788) dành trả lời cho

câu hỏi “Tôi phải làm gì?”, “Phê phán năng lực phán đoán” (xuất bản 1790) để trả

lời cho câu hỏi “Tôi có thể hy vọng gì?”.

Khi chúng ta xác định: “Tôi là người”. Vậy “tôi” phải làm gì để xứngđáng là

“người”? Để khi người khác nhìn vào “tôi”, họ không lầm lẫn “tôi” như một “động

vật” về phương diện đạo đức? Tôi có khả năng tự quyếtđịnh cuộc đời mình hay

phải phụ thuộc vào Thượng đế? “Phê phán lý tính thực hành” của Kant sẽ giải đáp

cho chúng ta vấn đề này.

Đầu tiên, chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của một số thuật ngữ quan trọng liên

quan mà Kant đã dùng trong “Phê phán lý tính thực hành”.

“Phê phán” (Ger. Kritik, Eng. Criticize) ở đây không phải là lên án hay đả

kích theo ý nghĩa thông thường, mà nó có hàm nghĩa của một sự phân định những

nguyên tắc là có hợp lý hay không.

“Lý tính” (Ger. Vernunft, Eng. Reason) là một khả năng suy luận, nó có

thể đánh giá toàn bộ những gì mà mình đã từng kinh nghiệm, đã từng hiểu. Tức là

nó cao cấp hơn “giác tính” (Ger. Verstand, Eng. Understanding), chỉ là một sự hiểu

biết thông thường hằng ngày. “Lý tính” là một khả năng, mà trong ý nghĩa triết học

của Kant, nó chỉ có ở con người. Và nó là tiêu chuẩn để đánh giá về tư cách “làm

người” của một cá nhân. Con người cũng có “giác tính”, con vật cũng có “giác

tính”. Nhưng “giác tính” của con vật đều xuất phát từ bản năng và kinh nghiệm về

37

cùng một sự kiện đã trải qua một hay nhiều lần trước đó và nó sẽ hành động theo

bản năng ham muốn của chúng. Còn “giác tính” của con người cũng là một “sự

hiểu” về đối tượng, nhưng sau “sự hiểu” này thì thường khởi theo liền sau nó là sự

“ham muốn”, xui khiến, thúc giục ta phải đoạt cho bằng được nó hoặc ghét bỏ, lánh

xa nó. Ta không thể phân biện được điều ấy có phù hợp với các phạm trù đạo đức

hay không, mà đơn giản chỉ là tuân theo sự sai sử của lòng ham muốn, không hề

chú ý đến hậu quả của hành động của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào.

Con vật chỉ dừng hay đạtđược tầm nhận thức cao nhất là đến đây. Nếu chúng ta

cũng chỉ dừng lạiđây thì thật rất khó nói có phải là người hay không. Nhưng con

người nhờ có “lý tính” nên đã xem xét tính chất và hậu quả của hành động này, sẽ

giúp ta quyết định một cách chính xác là việc này có đúng hay không. Đây là

một điểm khác nhau giữa con vật và con người. Nhưng “lý tính” xem xét dựa trên

những nguyên tắc nào?

Theo Kant, tất cả nhận thức của ta khởi đầu từ giác quan, rồi tiến lên giác

tính và kết thúc ở lý tính. Ngoài lý tính ra không còn có cái gì cao hơn nữa trong

tinh thần con người và giác tính chính là đối tượng của giác tính.

“Thực hành” (Ger. Praktischen, Eng. Practice) ở đây không thiên về ý nghĩa

của một động từ mà là một danh từ (practing). Đó là toàn bộ tất cả những

hành động có sự tham gia của lý tính. Thực hành là tất cả những gì có thể làm được

bằng tự do của ý chí.[29, 1141]

“Phê phán lý tính thực hành” có nghĩa như là một việc thiết lập một “toà

án” để xem xét và xác định những việc nên làm hay không nên làm của lý tính.

Từ đó xác định những cơ sở pháp lý chính xác để cho làm sao khi áp dụng cho bất

kì đối tượng, bất kì sự kiện, bất kì hành động nào nó cũng có thể đúng. Và ở tầm

vóc to lớn hơn, nó mang lại hạnh phúc và thiết lập nền tảng đạo đức cho toàn thể xã

hội. Phê phán tức là đặt câu hỏi về hành động có hợp pháp hay không, nói khác hơn

38

là nó có phù hợp với những phạm trù đạo đức hay không.

Toàn bộ tác phẩm này có thể nói là những nguyên tắc quy phạm, mà từ đó

chúng ta xác định được tư cách “làm người” của mình. Nó không nghiêng về chủ

trương phê phán, phân xử các hành động như là một phán quan, nó chỉ là hệ thống

những chuẩn mực để đo lường mức độ chính xác, phù hợp của hành động

với đạo đức hay không. Nói cách khác, nó sẽ xácđịnh cho chúng ta những giới hạn

phạm vi những hành động được phép, sao cho kết quả mang đến hạnh phúc cho tự

thân và tổng thể tha nhân. Đó chính là Đạo đức học vậy.

Triết học đạo đức của Kant chủ yếu được đề cập đến trong tác phẩm “Phê

phán lý tính thực hành” (1788), ngoài ra còn đề cập đến trong 02 tác phẩm: “Đặt

nền móng cho siêu hình học của đạo đức” (1785), “Siêu hình học của đạo đức”

(1797).

Triết học đạo đức của Kant là đạo đức học về hành vi nghĩa là nó đưa ra

những tiêu chuẩn giá trị đạo đức, trên cơ sở đó đánh giá hành vi cư xử của con

người. Chính xác hơn, triết học đạo đức của Kant là đạo đức học về trách nhiệm,

bởi ông cho rằng chỉ những hành vi xuất phát từ trách nhiệm đạo đức mới được

xem là hành vi đạo đức. Nội dung triết học đạo đức của Kant nhằm trả lời câu hỏi

“Tôi cần phải làm gì ?” hay chính xác hơn là tôi cần phải làm gì để hành vi của tôi

được đánh giá là hành vi đạo đức. Theo Kant, tiêu chuẩn đánh giá giá trị hành vi

không phải là mục đích nhằm đạt tới của hành vi mà là tính chất của ý chí, chỉ

những hành vi xuất phát từ ý chí tốt mới được coi là hành vi đạo đức. Khẳng định

về vấn đề này, ông viết: “ ý chí là sự thôi thúc từ bên trong, phân biệt với sự cưỡng

chế từ bên ngoài ” [32, 19].

2.1.1 Khái niệm chung về hành vi đạo đức

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đều có những suy nghĩ và hành động,

39

nhưng bản thân mình khó xác định được nó có phù hợp với đạo đức hay không. Do

vậy, nhiệm vụ đầu tiên đòi hỏi là chúng ta cần phải tìm hiểu thế nào là hành vi có

đạo đức.

Đôi khi, chúng ta tự cho mình là một người có đạo đức. Từ đó, lòng kiêu

căng nổi dậy và có thể sinh ra xem thường kẻ khác. Nhưng chúng ta lầm lẫn lớn khi

cho rằng tôi không suy nghĩ, không làm gì có hại cho người khác thì tôi là người có

đạo đức vậy. Đấy không phải là đạo đức. Vì bình thường không có chuyện gì xảy

ra thì mình nghĩ như vậy, đến khi có những tình huống bất như ý hoặc là mối lợi

trước mắt thì sự tham lam liền nổi lên, lúc đó đạo đức đã biến mất.

Đạo đức chỉ được kiểm chứng khi nó tác động đến người thứ hai, tức là chỉ

xác định khi nó đã được biểu hiện thành một “hành động”. Ở đây, “hành động”

không hẳn là những động tác của tứ chi, mà khi chúng ta không hành động tứ chi

nhưng với ý nghĩ rằng tôi không muốn hại ai, lúc đối tượng chịu tác động đang nằm

trong tầm nhận thức của ta. Và những hành động với thiện tâm như vậy mới gọi là

“hành vi đạo đức”. Kant định nghĩa hành vi ấy như sau:

2.1.2. Các nguyên tắc xác định hành vi đạo đức

Để xác định một hành vi đạo đức phải như thế nào, Kant đã đưa ra một số

các định lý và vấn đề như sau:

Định lý 1: Mọi nguyên tắc thực hành tiền-giả định một đối tượng (chất liệu) của

quan năng ham muốn như là cơ sở quy định cho ý chí thì đều có tính thường

nghiệm và không thể mang lại các quy luật thực hành.[32, 42]

Khi đối trước một đối tượng giả sử nào đó, nó là đối tượng cho các giác quan

của chúng ta, khiến cho ta ham muốn và thúc đẩy ý chí phải cốđoạt cho bằng được

40

thì tiến trình ấy thuộc thường nghiệm, không thể là một quy luật thực hành. Tại sao

vậy? Vì thường nghiệm là những gì đã được kinh nghiệm trước đó. Ví dụ như cái

bàn, thì trong kinh nghiệm của ta đã xác định một vật có những đặc điểm và hình

thức như thế nào thì mới gọi cái bàn. Chúng ta sẽ “mã hoá” hình dạng (form) cái

bàn vào trí não mình kèm theo công dụng của nó và bắt đầu đặt ra quy định cho bản

thân: đây là cái bàn của tôi, tôi phải gìn giữ nó để sử dụng; đây là cái bàn của kẻ

khác, tôi có thể sử dụng mà không cần quan tâm vấn đề bảo vệ sao cho nó khỏi bị

hư mục. Đó là nói đơn giản, còn những vấn đề phức tạp hơn, liên quan đến quyền

lợi cho bản thân, gia đình, thậm chí là dân tộc, quốc gia mình thì ý thức chiếm hữu

và trục lợi trở thành mục đích tối cao thúc đẩy ý chí hoạtđộng. Nhưng thật sự, với

kinh nghiệm như vậy, chúng ta không thể đánh giá được hành động ấy liệu có

mang lại hạnh phúc thật sự cho cá nhân và người khác hay không? Theo Kant,

những nguyên tắc như vậy không thể là “quy luật thực hành”, nghĩa là chúng ta

không thể xem nó là phương châmđể hành động (cho toàn xã hội) được. Vì sao? Vì

nếu ai cũng lấy mục tiêu ấy để thực hiện hành động thì xã hội sẽ loạn lạc, đạo đức

sẽ bị phong hoá. Trong Định lý 2, Kant sẽ phân biện những đối tượng ấy rõ hơn.

Định lý 2: Mọi nguyên tắc thực hành mang tính chất liệu, xét như bản thân

chúng, đều thuộc cùng một loại và phục tùng nguyên tắc chung của việc yêu chính

mình [hay lòng tư dục] (selbstliebe) hay hạnh phúc riêng tư.[32, 43]

Chất liệu tức là những đối tượng giả sử đối với giác quan, mà nếu khi nó

biểu hiện thật trước giác quan thì chúng ta sẽ sinh ra một sự ham muốn chiếm đoạt

và xem đó là yếu tố mang đến hạnh phúc cho mình. Vì vậy, mọi nguyên tắc nào khi

chúng ta thực hành dựa trên nền tảng như thế thì đều có xu hướng chiếm hữu, phục

vụ lợi ích cho cá nhân kèm theo và xúc cảm ấy ta cho là hạnh phúc. Nó thuộc cùng

một loại tức đều là loại khiến chúng ta ham muốn hay chúng đều thuộc những thứ

mà khi hànhđộng chiếm giữ, yếu tố đạo đức cần phải được xem xét. Như vậy, định

41

lý này nhằm minh định rõ cho chúng ta biết về đối tượng, mà nếu nó là yếu tố

thúc đẩy ý chí buộc ta phải hành động thì chúng ta cần phải dùng lý tính đối chiếu

với các châm ngôn (khách quan) (nguyên tắc đạo đức) để xem xét nên có thái độ

hành xử với đối tượng đó như thế nào.

Khi nào chúng ta hành động theo những nguyên tắc này, tức là chúng ta sẽ

phát sinh một sự ham muốn, rồi nó thúc đẩy ý chí buộc hành động thì Kant gọi đây

là một ham muốn hạ cấp. Và lý tính chúng ta nếu không đủ khả năng để buộc ý chí

phải hành động theo một nguyên tắc khác (phù hợp nguyên tắc đạo đức), thì không

thể thừa nhận nơi người ấy một ham muốn cao cấp nào. Kant có nêu một Hệ luận

của Định lý 2 này như sau:

Hệ luận: Mọi nguyên tắc thực hành mang tính chất liệu đặt cơ sở quy định

cho ý chí vào trong quan năng ham muốn hạ cấp; và; nếu giả sử không có các quy

luật đơn thuần mang tính hình thức [mô thức/formal] của ý chí đủ sức qui định nó,

ắt ta không thể thừa nhận rằng có một quan năng ham muốn cao cấp nào hết.

Ở đây, ham muốn hạ cấp và cao cấp khó mà phân định thông qua mô thức

của chất liệu. Bởi vì, ta khó thể phân biệt hạnh phúc xuất phát từ cảm năng hay giác

tính. Khi chúng ta tiếp xúc đối tượng thì sẽ có cảm nhận về nó, đồng thời, giác tính

sẽ xen vào khuyên bảo ta hãy giành lấy. Đôi khi, với cảm năng, chúng ta thấy một

sự thích thú nào đó, nhưng với giác tính thì nó hiểu khác đi và sai sử ý chí buộc ta

hành động theo hướng khác. Chẳng hạn, ta cho một kẻ ăn xin năm nghìn đồng, cảm

giác cụ thể nhất là nó làm ta hân hoan và hạnh phúc trong lòng. Nhưng chiều nay

có người bán món ăn mà ta thích, nếu để năm nghìn đó cộng với số tiền có sẵn đem

mua món ăn ấy, nó cũng mang lại cho ta cảm giác hạnh phúc. Bấy giờ, giác tính sẽ

xui sử chúng ta mua món ăn đó, vì nó viện cớ rằng nếu mình không cho thì cũng có

người khác cho. Do đó, cảm giác hạnh phúc không thể định nghĩa cụ thể bằng cảm

giác trong những tình huống cụ thể nào. Bởi vì mỗi khi cảm giác đó xuất hiện

42

ta đều rất thích thú và muốn lưu giữ nó lâu hơn. Cả việc cho tiền và mua

món ăn đều là đối tượng ham muốn của chúng ta, nó thuộc về cùng một loại. Như

vậy, chúng ta không thể phân biệt ham muốn hạ hay cao cấp theo mô thức bên

ngoài mà chỉ có thể dựa vào mức độ của hạnh phúc ta đạt được sau khi hành động

theo khả năng của giác tính biểu đạt đến. Tức là ta hiểu rằng nếu ta cho người ăn

xin thì có thể họ được hạnh phúc, họ có thể mua thức ăn về nhà cho những thành

viên khác trong gia đình đang chờ đợi và cả gia đình của họ đều hạnh phúc, họ sẽ

rất biết ơn người đã mở rộng vòng tay giúp đỡ gia đình mình. Dù biết rằng họ sẽ

biết ơn mình nhưng mình làm thế không phải vì mục đích này, mình chỉ một lòng

chân thành muốn giúp đỡ họ qua khỏi cơn đói kém mà thôi, và mình làm như thế

không phải vì muốn được thiên hạ tán thưởng. Ngược lại, nếu ta dùng số tiền ấy

mua món mà ta thích, khi ăn xong rồi, một chốc thì cảm giác hạnh phúc ấy cũng

qua mau và về phương diện đạo đức thì ta là kẻ không có lương tâm. Thì như vậy,

ta muốn cho người ăn xin năm đồng – ham muốn cao cấp, hơn là muốn mua

món ăn – ham muốn hạ cấp. Thế nên, nếu không có cách hiểu như vậy để ý chí

quy định phải quyết tâm hành động vì lợi ích tha nhân hơn là tự kỉ thì chẳng thể

nào đạt được một ham muốn cao cấp nào.

Vậy, khi nào lý tính bản thân mình quy định cho ý chí hành động một cách

thuần khiết như vậy (chứ không phải hành động vì muốn người ta tán thưởng hoặc

nếu không làm thế thiên hạ sẽ chê bai theo đánh giá của giác tính đơn thuần), nó

mới thật sự là một quan năng ham muốn cao cấp. Ngược lại, nếu chúng ta ham

muốn hành động vì sự thúc đẩy của sinh lý hoặc thoả mãn bởi sự tán thưởng thì đó

chỉ là ham muốn hạ cấp.

Lý tính, với những quy luật thực hành (nguyên tắc đạo đức) sẽ quyđịnh cho ý

chí một cách trực tiếp, không thông qua trung gian tình cảm vui sướng hay không

43

vui sướng thường tình của cảm tính, và ngay cả một tình cảm vui sướng đối vớibản

thân quy luật được thực hiện thì nó mới có thể là lý tính thuần tuý – có thể thực

hành, nên điều ấy làm cho nó có năng lực ban bố quy luật (gesetcgebend).[32, 47]

Hạnh phúc là sự mong muốn tồn tại thường trực trong lòng của mọi người,

nên hằng ngày chúng ta không thể tránh được những ham muốn. Mà giới hạn phạm

vi của hạnh phúc rất khó xác định. Chúng ta dễ dàng không vừa lòng với những gì

mình đang sở hữu và tâm trạng ấy là luôn xuất hiện sẵn trong lòng, nên quan niệm

rằng nếu ta có đầy đủ những gì ta muốn thì sẽ rất hạnh phúc. Đây là nhu cầu hoàn

toàn tất yếu mà bản tính tự nhiên của ta đặt ra, bởi hiện tại ta đang thiếu thốn. Nhu

cầu này lại xuất phát cho sự ham muốn và tất nhiên nó hoàn toàn có tính chủ quan

theo quan niệm hạnh phúc hay đau khổ của ta. Vì nó là chủ quan nên những

quy định cho ý chí này lấy sự thoả mãn làm đối tượng thì không thể trở thành

một quy luật thực hành được. Bởi lẽ, như trên đã nói, mọi quy luật thực hành phải

có tính khách quan, nó phải đáp ứng yêu cầu đảm bảo tính đúng đắn khi áp dụng

cho mọi trường hợp, mọi cá nhân và xã hội.

Khi hướng đến mục tiêu truy tầm hạnh phúc cho chính mình thì chúng ta sẽ

tư duy để tìm ra những phương pháp để hành động, và có thể những phương pháp

ấy, theo chúng ta là hợp lý và dự đoán sẽ dẫn đến kết quả như mong muốn. Tuy

nhiên, chúng ta hết sức cẩn trọng, bởi tất cả phương pháp ấy mới chỉ là Châm ngôn

thôi, nó chưa thể là quy luật thực hành được. Vì sao vậy? Vì khi đem áp dụng, chưa

hẳn nó sẽ là thành công và không ai dám chắc rằng nó phù hợp với những phạm

trù đạo đức. Do đó, chúng ta phải luôn nghiệm rằng, không nên áp đặt một hình

thức hành động nào lên cá nhân khác, dù với ý chủ quan mình cho là đúng và đôi

khi, ta cũng chưa xét hết bản chất của nó trong hệ quy chiếu của đạo đức. Định lý

này chính là sự lên án của Kant với các hành vi tư lợi ích kỉ, và tất nhiên, Kant

không xem đó là hành động đạo đức.

44

2.1.3. Phƣơng pháp thực hành hành vi đạo đức

Ở trên chúng ta đã xác định được thế nào là hành vi đạo đức hay cụ thể hơn

là nhận biết sự khác nhau giữa nguyên tắc thực hành và quy luật thực hành. Bây giờ

Kant sẽ hướng dẫn chúng ta cách chuyển thể từ nguyên tắc thực hành sang quy luật

thực hành. Hằng ngày, mỗi người đều có hành động xuất phát từ những động cơ

dựa trên những nguyên tắc khác nhau, nhưng chúng ta thường hành động phục vụ

cho lợi ích cá nhân mình nhiều nhất. Và những hành động loại này Kant đã cảnh

báo chúng ta phải dè chừng nó.

Định lý 3: Một hữu thể có lý tính, khi phải suy nghĩ về những Châm ngôn

của mình như là những quy luật thực hành phổ biến, chỉ có thể suy tưởng chúng

như là những nguyên tắc quy định ý chí không phải do chất liệu (materie) mà chỉ

do hình thức (form) của chúng.[32, 50]

Trong Định lý 1, theo Kant, “chất liệu” của sự ham muốn chính là những đối

tượng mà ai cũng muốn hiện thực hoá (đạt được) nó. Với Định lý 3 này, Kant đã

phát biểu: “Tôi hiểu chất liệu của một nguyên tắc thực hành là đối tượng của ý

chí. Đối tượng này là hoặc không phải là cơ sở quyđịnh ý chí”.[32, 50] Đối tượng

của ý chí chính là mục tiêu mà nó buộc hànhđộng phải hướng đến. Mục tiêu này có

thể dẫn đến kết quả hạnh phúc hay khổ đau cho tự kỉ tuỳ thuộc vào động cơ

hành động. Mục tiêu này chính là chất liệu (đối tượng) của nguyên tắc thực

hành. Để biếnnguyên tắc thực hành thành quy luật thực hành thì ta không để cho

những cảm giác hạnh phúc hay khổ đau (chất liệu) này quy định cho ý chí. Nếu để

cho chất liệu này quy định ý chí thì lúc nào ý chí cũng sẽ phải phục tùng theo

một điều kiện thường nghiệm, tức là luôn có cảm giác hạnh phúc hay khổ đau kèm

theo thì nó không phải là quy luật thực hành vì nó là chủ quan. Do vậy, khi muốn

biến một châm ngôn theo một quy luật thực hành phổ biến (thích hợp cho mọi

người áp dụng) thì phải gạt bỏ chất liệu này qua một bên, mà chỉ lấy hình thức của

45

châm ngôn mà thôi, tức là lấy số đông để làm quy chiếu xét tầm ảnh hưởng của

châm ngôn khi hành động. Khi gạt bỏ tất cả những chất liệu của ý chí thì những

châm ngôn sẽ biểu thị dưới dạng mô thức hay hình thức đơn thuần của một sự ban

bố quy luật phổ biến. Hình thức này là một khuôn mẫu, một điển hình thực tế

sống động cho những công việc đạođức tốt lành. Hình thức này cũng không phải là

thường nghiệm, nó là biểu tượng vượt quá những kinh nghiêm trần gian. Và khi

hành động vì hạnh phúc của số đông, đứng trước đối tượng ấy, mọi động cơ cho

hạnh phúc của mình bị triệt tiêu hoàn toàn. Đó chính là “quy luật hình thức” – quy

luật đạo đức.

Và Kant cho rằng: “Lý trí bình thường nhất – không cần dạy dỗ - cũng có thể

phân biệt hình thức nào của châm ngôn thích hợp cho việc ban bố quy luật phổ

biến, còn hình thức nào không”.[32, 51] Thí dụ như một người nói “tôi muốn giàu

sang”, thì dù không phải là một kẻ học cao hiểu rộng, họ vẫn biết rằng nếu tôi làm

giàu bằng cách lừa lọc kẻ khác thì sớm muộn gì tôi không những không giàu mà

còn nhận lãnh hậu quả đau khổ tệ hại hơn. Như vậy, khi chúng ta đặt ra cho mình

một châm ngôn rằng “tôi phải làm việc thiện”, thì tất nhiên việc làm của tôi phải

mang lại hạnh phúc cho nhiều người khác, chứ không bọc dưới vỏ lợi ích cho chính

tôi được. Thì như vậy châm ngôn này thích hợp cho việc ban bố quy luật phổ biến.

2.2. Mệnh lệnh tuyệt đối – nguyên tắc cơ bản của đạo đức học Kant 2.2.1 Khái niệm chung về mệnh lệnh tuyệt đối

Kant gọi “mệnh lệnh tuyệt đối” (hay còn gọi là mệnh lệnh nhất quyết) là

nguyên tắc tối cao của đạo đức. Việc đưa ra, giải thích và chứng minh nguyên tắc

này giữ vị trí trung tâm trong đạo đức học của ông. Theo ông, “mệnh lệnh tuyệt

đối” cần phải được sử dụng làm nền tảng cho toàn bộ học thuyết đạo đức, tức nó

phải trở thành luận điểm then chốt để giải quyết những vấn đề cơ bản của đạo đức

học. Cụ thể là, thứ nhất, phải làm rõ nội dung của đạo đức học (làm rõ sự khác biệt

giữa những hiện tượng đạo đức và những hiện tượng nằm ngoài đạo đức); thứ hai

phải giải thích đạo đức (xác định nguồn gốc và phương thức tác động của đạo đức); 46

thứ ba phải hình thành tiêu chuẩn đánh giá đạo đức, nhận biết cái đạo đức và cái vô

đạo đức; thứ tư, phải xác định mục đích của giáo dục đạo đức…

Theo Kant, những động lực đạo đức cần phải thoát ly khỏi mọi cơ sở vật chất

vì trong các động lực đó ý chí cần tự thiết lập cho mình một quy luật bắt buộc. Quy

luật như vậy ông gọi là mệnh lệnh tuyệt đối hay mệnh lệnh nhất quyết. Ông gọi là

mệnh lệnh tuyệt đối để phân biệt với mệnh lệnh giả thiết – là mệnh lệnh được thực

hiện vì một mục đích, một quyền lợi có tính nhân quả nào đấy mà trong cách nói

hàng ngày thường được phát biểu dưới dạng: “nếu … thì …”, “muốn … thì …”.

Nói tóm lại mệnh lệnh giả thiết là mệnh lệnh khuyến khích hoặc ngăn chặn các

hành vi đạo đức của con người một cách có điều kiện còn mệnh lệnh tuyệt đối là

mệnh lệnh xuất phát từ tiếng gọi của lương tri con người, nó tiềm ẩn trong trái tim

khối óc mang tính phổ quát – tất yếu và thường được phát biểu dưới dạng: “hãy

làm như …” mà không kèm theo một điều kiện nào cả. Nói cách khác mệnh lệnh

tuyệt đối thể hiện khả năng tự chủ của con người, khả năng tự do ý chí mà không

có tính vụ lợi, không có sự tính toán thiệt hơn.

2.2.2. Ý nghĩa mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học Kant

Mệnh lệnh tuyệt đối đã trở thành khái niệm đặc trưng trong đạo đức học

Kant, làm cho đạo đức của ông trở nên khác biệt so với đạo đức trước đó.

Mệnh lệnh tuyệt đối khiến cho con người sống có trách nhiệm hơn, tuân thủ

theo “bổn phận”, mệnh lệnh tuyệt đối nâng con người lên trước con mắt của bản

thân, trước tự nhiên và trước Chúa.Việc phân tích ở trên về mệnh lệnh tuyệt đối

cho phép chúng ta thấy được ý nghĩa quan trọng của nó. Trước hết chúng ta có thể

khẳng định cảm hứng nhân văn của nguyên tắc này trong đạo đức học Kant. Chính

yếu tố này đã góp phần khắc phục quan niệm đạo đức thuần túy mang sắc thái tôn

47

giáo về thế giới. Không dừng lại ở đó luận văn còn muốn nhấn mạnh ý nghĩa đạo

đức học của mệnh lệnh tuyệt đối, vai trò của nó trong việc xác định các đặc điểm

đặc thù của đạo đức theo quan niệm của Kant.

Chức năng cơ bản của mệnh lệnh tuyệt đối là làm sáng tỏ bản chất của mục

đích đạo đức. Kant quan niệm đạo đức là cơ chế đem lại sự hài hòa cho tổng thể

những mục đích của con người và hợp nhất chúng thành một hệ thống. Phương tiện

chính để thực hiện chức năng này là tư tưởng về loài người như mục đích tự thân..

Thông qua mệnh lệnh tuyệt đối, Kant cảnh báo cho chúng ta rằng cần phải

tránh việc biến con người và loài người thành phương tiện để đạt tới mục đích của

bản thân mình. Trên thực tế, con người lại hay làm điều này nhất và theo Kant ở

đâu và khi nào mà điều đó diễn ra thì ở đó đạo đức kết thúc.

Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant hướng mọi người tới hoạt động cộng đồng, đòi

hỏi họ sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình và người khác, bỏ “thói hà tiện và

nhún nhường giả dối”. Người có đạo đức là người sống theo lẽ phải và tôn trọng sự

thật và pháp luật. Mệnh lệnh tuyệt đối trên đây còn là nghĩa vụ của mỗi công dân

đối với xã hội. Mỗi người cần phải biến phúc lợi cao nhất mà thế giới có thể thành

mục đích cuối cùng.

Mọi cái đều phải làm vì con người, bởi vì sự tồn tại của con người là cái quý

nhất trên thế gian. Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant là quy luật đạo đức chung đòi hỏi

mọi người ở mọi lứa tuổi, tầng lớp xã hội phải thực hiện. Tất cả các công dân đều

bình đẳng trước các quy luật và chuẩn mực đạo đức.Trong thời đại ngày nay, xã hội

phát triển mạnh mẽ về kinh tế, nền sản xuất công nghiệp hiện đại đã và đang thay

thế sản xuất nông nghiệp cổ truyền, đời sống xã hội có nhiều thay đổi, nhưng đạo

đức vẫn là vấn đề “đang có vấn đề”. Trong bối cảnh đó, mệnh lệnh tuyệt đối của

Kant càng có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục con người, hướng con người

vào những giá trị tốt đẹp, cao cả, giúp họ loại bỏ những thói hư tật xấu để xây dựng

48

một xã hội tốt đẹp hơn cho chính bản thân con người và cộng đồng.

2.3. “Tự do” – phạm trù trung tâm trong đạo đức học Kant

Một tâm điểm khác đáng chú ý trong đạo đức học Kant là mối quan hệ giữa

tự do và đạo đức. Theo Kant, ở lĩnh vực đạo đức con người sống ở hai thế giới: một

là, thế giới hiện tượng luận – nơi mà mọi cái diễn ra theo quy luật của tự nhiên.

Trong thế giới này tự do của con người chỉ là thứ yếu, chỉ diễn ra trong khuôn khổ

giác tính. Hai là, thế giới “vật tự nó” ở đây con người hoàn toàn có khả năng làm

chủ các quy luật tự nhiên, do đó con người có tự do.

2.3.1 Khái niệm về Tự do

Tự do trong triết học của Kant không có nghĩa đơn thuần như chúng ta hiểu

hằng ngày là “thích làm gì thì làm” (tự do tùy tiện) hoặc trạng thái có được khi

không bị kẻ khác giam cầm (thân thể). Tự do, theo Kant, là tự do của ý chí, và tự

do này là tự do trong những quy luật đạo đức và tự do thực hiện các quy luật đạo

đức, hay nói khác hơn tự do là đạo đức. Ý chí tự do là những ý chí có thể được quy

định độc lập với những xung động cảm tính, tức chỉ từ những động cơ của lý tính.

Kant viết: “Tự do là một ý niệm thuần tuý siêu nghiệm”[31, 861]. Tự do không

chứa đựng một cái gì vay mượn từ kinh nghiệm cả, và đối tượng của nó không thể

mang lại một cách xác định trong bất kì kinh nghiệm nào.

“Tự do theo nghĩa thực hành là sự độc lập của ý chí trước sự cưỡng chế do

các xung động của cảm năng gây ra […] Tự do thực hành giả định tiên quyết rằng,

dù một điều gì đó không xảy ra, nhưng nó phải được xảy ra, và vì thế, nguyên nhân

của nó ở trong thế giới hiện tượng không phải có tính quy định nghiêm ngặt đến

nỗi trong ý chí chúng ta không có tính nhân quả nào tạo ra được một cái gì độc lập

với những nguyên nhân tự nhiên và bản thân đi ngược lại sức mạnh và sự ảnh

hưởng của tự nhiên, tức bị quy định bên trong trật tự thời gian theo những quy luật

thường nghiệm, do đó không thể hoàn toàn tự mình khởi đầu một chuỗi các sự

49

kiện” [32, 24].

2.3.2. Các hình thức biểu hiện của tự do

Xét về phương diện lượng

Đó là các châm ngôn, các điều lệnh và các quy luật thể hiện như là các

nguyên tắc xét về mặt lượng: cá nhân, tập thể và phổ quát. Với tiền giả định rằng

con người là một hữu thể có lý tính và tiến trình hình thành ý chí – độc lập với việc

hình thành một mình hay trong cộng đồng với những người khác – tuy bắt đầu một

cách thường nghiệm (với những xu hướng và lợi ích nhất định). Nhưng đều có thể

được đánh giá về mặt luân lý từ tương quan giữa cái Thiện và cái Ác, ta có thể hình

dung các phạm trù về lượng của tự do bằng nguyên tắc quy phạm như sau:

Xét về phương diện Chất

Đó là những quy tắc về những gì ta làm, không làm và các ngoại lệ. Các quy

tắc này đòi hỏi một cách nhất thiết: Lúc nào cũng phải giữ vững các nguyên tắc phù

hợp với quy luật luân lý. Bác bỏ bất kỳ nguyên tắc nào không đứng vững trước sự

thẩm tra của mệnh lệnh nhất quyết (mệnh lệnh tuyệt đối). Chỉ cho phép các trường

hợp ngoại lệ khi có đầy đủ các lý do biện minh được về mặt luân lý.

Xét về phương diện tương quan

Về tương quan tức là các nguyên tắc quan hệ với nhân cách con người, với

hoàn cảnh con người cũng như với mối quan hệ hỗ tương giữa những con người

với nhau. Trong chừng mực các phạm trù về tương quan diễn ra các mối quan hệ

tiên nghiệm (như bản thể, tùy thể, nguyên nhân kết quả, sự tương tác) thì các

nguyên tắc thực hành về mặt tương quan đòi hỏi việc xây dựng nhân cách bao giờ

cũng phải lấy luân lý làm cái ưu tiên so với xu hướng và lợi ích tự nhiên.

50

Xét về phương diện hình thái

Đó là các phạm trù liên quan đến cái được phép, đến nghĩa vụ và đến nghĩa

vụ không hoàn toàn (nghĩa vụ không hoàn toàn: hành động hợp nghĩa vụ chứ

không phải là từ nghĩa vụ), tức là về cái khả thể, cái hiện thực và cái tất yếu về luân

lý, thể hiện trong các nguyên tắc quy phạm.

2.3.3 “Tự do” là cơ sở để nhận thức sự Thiện- tối cao

Trong đạo đức học của Kant, sự thiện – tối cao là đối tượng mà mọi hành vi

đạo đức của con người cần hướng tới. Với ông sự Thiện – tối cao là một “khái niệm

siêu việt”. Ông viết: “…khả thể của sự Thiện – tối cao không dựa trên bất kỳ

nguyên tắc thường nghiệm nào; nói cách khác sự diễn dịch về khái niệm này phải

là có tính siêu nghiệm” [32, 208]. Kant cho rằng một khái niệm có tính chất siêu

nghiệm như vậy tất yếu phải là kết quả của tự do siêu nghiệm” bởi lẽ tính nhân quả

từ tự do bao giờ cũng phải được tìm ở bên ngoài thế giới cảm tính, tức bên trong

thế giới của cái khả niệm. Hay có thể nói rằng tự do siêu nghiệm chính là nguồn

gốc tạo ra sự Thiện – tối cao. Ông còn nhấn mạnh rằng: “cần phải tạo ra sự Thiện –

tối cao bằng sự tự do của ý chí một cách tất yếu tiên nghiệm vì quy luật luân lý vì

thế điều kiện cho khả thể của nó chỉ được phép dựa duy nhất trên những nguyên tắc

tiên nghiệm của nhận thức mà thôi” [32, 208].

Sang thời kỳ phê phán, triết học tôn giáo của I.Kant có liên quan tới triết học

lý luận và triết học thực hành của ông. Trong Phê phán lý tính thuần tuý (1781),

I.Kant khẳng định: "Tôi phải dẹp bỏ nhận thức [sai lầm] đi để dành chỗ cho lòng

tin" [31, 55].

Một trong những chủ đề quan trọng là chứng minh sự tồn tại của Thượng đế.

Về vấn đề này, trong lịch sử triết học đã tồn tại ba cách: thứ nhất là cách chứng

minh vũ trụ luận cho rằng mọi vật cũng như bản thân thế giới chúng ta đều phải có

nguyên nhân và Thượng đế đóng vai trò là khởi nguồn của vạn vật; thứ hai là cách

51

chứng minh mục đích luận cho rằng bản thân thế giới cho thấy sự thông thái, khôn

ngoan của Đấng sáng thế trong việc xếp đặt mọi vật một cách có trật tự, có quy

luật, nhờ đó chúng nằm trong một chuỗi liên hoàn, vật này gắn kết với vật kia; thứ

ba là cách chứng minh bản thể luận như thánh Ascelm (1033 – 1109) ở Cantebury

trình bày: cái gì mà chúng ta suy tư được trong lý tính của mình thì bao giờ cũng có

trên thực tế. Lý tính con người không thể suy tư cái mà hoàn toàn không có trên

thực tế.

2.3.4.Khái niệm về đối tƣợng thiện-ác

Hằng ngày chúng ta hoạt động dựa trên nền tảng của những châm ngôn do ý

chí mình đặt ra, nhưng chúng ta là người – với lý tưởng muốn góp phần mang hạnh

phúc đến toàn nhân loại, thì phải thực hiện như thế nào? Kant đã khuyên:

“Hãy hành động sao cho châm ngôn của ý chí của bạn lúc nào cũng đồng thời

có thể có giá trị như là nguyên tắc của một sự ban bố quy luật phổ biến”.[32, 56]

Như mục trên đã trình bày, hạnh phúc là mục đích mọi người ai cũng

muốn đạt được và chúng ta cũng lấy đó đặt ra những châm ngôn hành động. Nhưng

hạnh phúc tối cao là sự tự do trong ý chí nên châm ngôn của ý chí cũng phải tự do,

chỉ như vậy mới là hành vi đạo đức. Đạo đức, hiểu theo nghĩa hoàn bị, là không lấy

chủ quan (vị kỉ) làm nền tảng. Vì vậy, Kant đã khuyên chúng ta nên hành động theo

nguyên tắc của sự ban bố quy luật phổ biến. Muốn như vậy thì ý chí luôn luôn đặt

ra nghi vấn cho tính khả thi của châm ngôn. Tức là, châm ngôn này có giá trị trong

phạm trù chủ quan hay khách quan? Ý chí phải luôn suy tưởng trong tình trạng độc

lập với mọi điều kiện thường nghiệm – ý chí thuần tuý. Quy luật phổ biến là không

dựa hay vay mượn từ bất kì ý chí ngoại tại nào (áp lực của tha nhânđặt để).

“Lý tính thuần tuý là thực hành do tự nơi chính mình và mang lại (cho con

52

người) một quy luật phổ biến được ta gọi là quy luật luân lý.[32, 59]

Đối với những hành vi hằng ngày, nếu ta có những hành vi tốt thì thường tự cho

rằng đó là ta đã có đạo đức. Nhưng không, như vậy, theo Kant, chúng ta đã rất hàm

hồ khi đánh giá như thế. Vì sao? Vì ta lầm lẫnđánh đồng các động cơ khiến ta

hành động. Ở đây, Kant chia động cơ này thành hai, là theo bổn phận và vì bổn

phận (nghĩa vụ). Theo bổn phận là hành động theo giác tính, tức là hành động vì sợ

dư luận, vì theo ý người khác, sợ quyền lợi của mình có thể mất. Vì bổn phận là lý

tính phán xét rõ ràng và kiên định rằng mình phải làm, vì nếu mình không làm thì

mình vi phạm các phạm trù đạo đức, lương tâm sẽ cắn rứt, và ta tự ý thức rằng

không làm như thế liệu mình có xứng đáng là “người” không? Như vậy, với

Kant, đạo đức chính sự toàn hảo về ý chí tự do hành động vì bổn phận. Lý tính

thuần tuýchỉ thành quy luật luân lý khi đạt được cột mốc ấy. Tuy nhiên, theo Kant,

con người chỉ đạt được lý tính thực hành hữu tận chứ không thể vô tận. Mọi sự cố

gắng của con người là muốn đạt đến những cấp độ cao dần hướng đến đạo đức toàn

hảo, và những cấp độ đạt được gọi là đức hạnh. Vì sao? Vì bản chất vị kỉ vi tế của

con người là rất khó trừ hết, và chúng ta, Kant cảnh báo, hãy dè chừng với những ý

nghĩ tự cho đã đạt đượcđạo đức toàn hảo – một nguyên nhân làm trương phình chủ

nghĩa cá nhân. Kant phân định:

“Châm ngôn của lòng yêu chính mình (sự khôn ngoan) chỉ khuyên bảo ta; còn quy

luật của luân lý ban mệnh lệnh cho ta. Ở đây, ta thấy có một sự khác biệt lớn giữa

những gì khuyên ta nên làm với những gì ta có bổn phận phải làm.[32, 65]

Châm ngôn của lòng yêu chính mình là thường nghiệm, nó khuyên ta hãy làm

theo bổn phận. Giác tính sẽ đặt ra viễn ảnh tốt đẹp lợi ích cho cá nhân. Tình huống

này nếu ý chí tuân phục theo, Kant nói ý chí này đã bị tính nguyên tắc ngoại

trị. Ngoại trị tức là sự sai sử với động cơ rằng làmđiều này ta sẽ đạt được một điều

ích lợi khác. Trong trường hợp này, ý chí không tự mang lại quy luật cho chính

53

mình, mà chỉ đưa ra được “điều lệnh”để làm theo quy luật “sinh lí” (sự ham muốn)

một cách khôn ngoan, hợp lí. Và châm ngôn, trong trường hợp này không thể

chứa đựng được hình thức ban bố quy luật phổ biến, không chỉ không tạo

ra được động cơ vì bổn phận, mà trái lại nó còn đối lập với nguyên tắc lý tính thuần

tuý thực hành. Do vậy, nó cũng đối lập luôn với luân lý, dù những hành vi nảy sinh

từ ý chí này có phù hợp với quy luật đến mấy đi nữa. Ngược lại, khi ý chí không

quyết tâm hành động khi có sự dẫn dắt của lý tính thì ý chí đó có tínhnguyên tắc tự

trị. Nếu dựa trên nguyên tắc tự trị của ý chí thì dù một người bình thường cũng có

khả năng thực hiện hành động mà không chút ngần ngại. Nhưng một khi ý chí

bị ngoại trị thì người đó phải dò dẫm rất lâu trong đêm tối tâm trí để tìm đường trở

về với đạo đức. Những người có sẵn sự tự trị của ý chí thì họ nhanh chóng thích

nghi với các quy luật luân lý (đạo đức) và quy luật luân lý này ban mệnh lệnh bắt

buộc họ phải tuân theo. Nếu luân lý với vai trò không phải như vai trò khách quan

ra mệnh lệnh và người ấy không phải thuộc hàng “uyên bác” các quy luật luân lý

thì họ cũng không hành động trái với luân lý, hễ họ muốn làm thì họ sẽ làm được.

[32, 66] Điều này minh chứng rất rõ rằng dù là nhà khoa học, bác học nếu ý chí

ngoại trị thì vẫn quyết định đi theo kẻ trái đạo đức. Chẳng hạn, trong chiến tranh

thế giới thứ nhất và hai, nhiều nhà bác học vẫn theo phe Phát-xít hoặcĐồng

minh để chế tạo ra những vũ khí có tính huỷ diệt lớn để tiêu diệt đồng loại của họ.

Ở trên, chúng ta đã bàn qua các quy luật của lý tính thuần tuý thực hành, nó

cũng là quy tắc đạo đức, bây giờ ta tìm hiểu khái niệm về “một đối tượng” của lý

tính thuần tuý thực hành. Kant đã phát biểu “Tôi hiểu khái niệm về một đối

tượngcủa lý tính thực hành là sự hình dung về một đối tượng như là về một kết quả

có thể tạo ra bởi sự tự do”.[32, 107]

Chúng ta cần phải phân biệt ba khái niệm: lý tính thuần tuý, lý tính thực

54

hành và lý tính thuần tuý thực hành.

Lý tính thuần tuý là loại nhận thức hoàn toàn độc lập với kinh nghiệm, nó

không dựa vào bất kì kinh nghiệm nào cả mà vẫn có khả năngđạt được tri thức về

những đối tượng vượt khỏi kinh nghiệm (như Thượngđế, linh hồn, tự do…) tức là

những đối tượng tuyệt đối, là những khuôn mẫu hoàn hảo. Khả năng này không thể

kiểm chứng bằng các kinh nghiệm sẵn có vì những đối tượng của nó (phạm trù –

mô thức) chưa bao giờ chúng ta trải nghiệm (tiếp xúc) qua. Nó chỉ được suy luận

bằng những quy luật của logic học.

Lý tính thực hành là khả năng có thể đạt được một mục tiêu do ý chí tự do của

chúng ta quyết định. Lý tính thuần tuý lấy tuyệt đối làm đối tượng, còn lý tính thực

hành lấy khả năng có thể đạt được một kết quả của ý chí tự do làm đối tượng.

Lý tính thuần tuý thực hành là nhằm phân biệt với lý tính thuần tuý tư

biện.(Kant đã trình bày trong cuốn Phê phán lý tính thuần tuý [PPLTTT]). Nó phục

vụ cho nhu cầu cụ thể là những vấn đề về đạo đức và hạnh phúc cho nhân sinh.

Như những mục trên đã phân tích, khi chỉ dùng lý tính thực hành chúng ta cũng

hiểu nó là lý tính thuần tuý thực hành về phương diện vừa nêu.

Kant khẳng định:

Những đối tượng duy nhất của lý tính thực hành là những đối tượng về cái Tốt

[Thiện] và cái Xấu [Ác]. Cái Tốt có nghĩa là một đối tượng nhất thiết phải được

ham muốn dựa theo một nguyên tắc của lý tính; cái Xấu là cái nhất thiết phải tránh

xa, và cũng dựa trên một nguyên tắc của lý tính.[32, 108]

Cái Tốt trong câu này, theo Kant, nếu khái niệm về nó không được rút ra từ một

quy luật thực hành trước đó, mà lại làm cơ sở cho quy luật thực hành, thì nó chỉ là

một khái niệm về một cái gì hứa hẹn mang lại sự vui sướng bằng sự hiện hữu của

nó, và, như thế, quy định tính nhân quả của chủ thể tạo ra nó, nghĩa là quy định

55

quan năng ham muốn. Nhưng vì chúng ta không thể nhận ra rằng biểu tượng gì

sẽ đi cùng với sự sung sướng hoặc không sung sướng, nên cái Tốt là cái gì mà nó

gắn liền với cảm giác vui sướng, còn cái Xấu là cái gì trực tiếp gây nên sự đau đớn.

Kant nêu lại một công thức cổ xưa như sau:

“Ta chỉ ham muốn điều gì thuộc về khái niệm cái Tốt; ta xa lánh điều gì thuộc

về khái niệm cái Xấu”.[32, 109]

Trong khái niệm tốt (boni) và xấu (mali), theo Kant, ý nghĩa của nó rất mơ hồ

vì chúng ta có thể hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Trái lại, trong tiếng Đức lại phân

biệt một cách cụ thể. Khi nói đến sự tốt lành của hành vi, thì dùng “das Gut” (điều

thiện), còn khi tốt với ý chủ quan của ta thì dùng “das Wohl” (điều tốt). Khi nói đến

hành vi trái đạo đức thì dùng “das Böse” (điều ác), khi nói đến điều dữ xảy ra cho

ta thì dùng “das Übel” (điều xấu). Cái tốt chủ quan hàm ý một cảm giác khoan

khoái dễ chịu, cũng vậy, cái xấu chủ quan khiến ta sinh đau khổ. Cái thiện và ác là

liên quan đến luân thường đạo lý, không xét trên phương diện hạnh phúc hay

khổ đau.

“Vì thế, thiện và ác thực sự quy chiếu đến những hành vi chứ không phải cảm

giác con người”.[32, 111] Bản thân hành động không được gọi là thiện hay ác mà

chỉ gọi nó cho chủ thể thực hiện. Cái ta gọi là thiện phải làđối tượng của quan năng

ham muốn trong sự phán đoán của bất kì con người có lý tính nào; cái ác là đối

tượng xa lánh của mọi người. Như vậy, lý tính đóng vai trò chủ yếu trong sự

phán đoán này.

Tuy nhiên, nó thuộc vào khả năng nhận thức chủ quan của từng cá nhân. Nếu

những hành động xuất phát từ nhận thức lý tính thường nghiệm thì chỉ gọi là sướng

hay khổ mà thôi vì nó là đối tượng của lòng ham muốn. Ngược lại, lý tính thuần tuý

sẽ đưa đến hành vi thiện của ta. Hành vi thiện trong trường hợp này nếu tuân theo

56

chặc chẽ các quy luật luân lý thì nó sẽ là cái thiện tuyệt đối. Các khái niệm về thiện

và ác không thể được quyđịnh trước quy luật luân lý, trái lại, nó được quy định sau

quy luật và nhờ vào quy luật mà ta xác định nó.

Trong việc đánh giá thiện và ác thì nguyên tắc thuần tuý phải đượcđóng vai

trò quy định cho ý chí, không xét đến những đối tượng của sự ham muốn quan

năng. Như vậy, nguyên tắc thuần tuý này trở thành một quy luật thực hành tiên

nghiệm (sự nhận thức không thông qua kinh nghiệm), nó phải quy định ý chí một

cách trực tiếp. Tức là chỉ những ý chí tự trị mới có khả năng hướng đến một sự

thiện tối cao.

Nhân đây, Kant cũng đã chỉ ra những sai lầm của các triết gia về nguyên tắc

tối cao của luân lý. Các triết gia này đã đi tìm một đối tượng của ý chí để họ lấy đó

làm tiêu chuẩn chính xác nhất để đặt ra nguyên tắc của một quy luật. Do đó, ý chí

trong tình huống này sẽ là ngoại trị, thì nó không bao giờ đạt được sự thiện tối cao

và sẽ bị vướng vào những điều kiện thường nghiệm của quy luật luân lý.

2.4. Ý nghĩa đạo đức học Kant Đạo đức học của Kant có một ý nghĩa thời đại sâu sắc, mặc dù ra đời từ cuối

thế kỷ XVIII nhưng sau hơn 200 năm, ý nghĩa thời đại của những quan niệm về đạo

đức trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành nói riêng và toàn bộ đạo đức học

của Kant còn nguyên giá trị.

Tuy đạo đức Kant còn nhiều hạn chế nhưng bỏ qua tất cả những gì là hạn chế,

chúng ta thấy đạo đức học của Kant nói chung cũng như trong riêng tác phẩm Phê

phán lý tính thực hành nói riêng có những giá trị thời đại đáng lưu ý. Là một người

có tinh thần phê phán và khả năng tiên tri lịch sử, nhà triết học cổ điển Đức đã đặt

ra một số tình huống có vấn đề cho cả lịch sử hiện tại và cho cả nhân loại, đó là:

Thứ nhất, ông nhận thấy rằng sự phân hóa giàu nghèo trong chủ nghĩa tư bản

có nguy cơ dẫn tới suy thoái đạo đức, dẫn đến tình trạng làm con người đánh mất

bản tính tự nhiên vốn có ban đầu của mình, bởi vậy trong bất kỳ tác phẩm lớn nhỏ 57

nào của mình đề cập đến đạo đức ông cũng luôn nhắc đến giá trị người, hay tính

nhân loại nói chung.

Thứ hai, trong đạo đức học của mình, nhà triết học Đức không chỉ đề cao giá

trị nhân loại của con người, mà ông còn đề cao ngay chính bản thân con người.

Thứ ba, sống trong thời đại khoa học đang phát triển, nhà triết học Đức đã

cảm nhận và dự báo rằng khoa học là con dao hai lưỡi, nó mang lại cho nhân loại

nhiều giá trị vật chất, nhưng nếu tuyệt đối hóa thì nó cũng mang lại nhiều hậu họa

khôn lường như tha hóa đạo đức và hủy hoại môi trường tự nhiên sinh thái.

Thứ tư, bằng ý tưởng nhân đạo độc đáo của mình, Kant đã dự báo được xu

hướng toàn cầu hóa, xu hướng hợp tác chuyển từ đối đầu thành đối thoại của loài

người xuất phát từ mục đích chung của nó.

Ý nghĩa thời đại mà đạo đức học Kant để lại cho hậu thế ngày càng trở nên

cấp thiết, đặc biệt là trong thời đại ngày nay khi xu hướng toàn cầu hóa đang diễn

ra mạnh mẽ, sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng sâu

sắc đến đạo đức con người dưới nhiều góc độ.

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, đời sống vật chất của con người

ngày một nâng cao và theo đó, cũng xuất hiện những điều kiện "thuận lợi" cho sự

"thăng tiến" về đạo đức và tinh thần của con người theo hướng "phú quý sinh lễ

nghĩa” cùng với khả năng nảy sinh những giá trị đạo đức tiêu cực. Khi đời sống vật

chất được nâng cao, ở con người để nảy sinh tâm trạng hưởng thụ, tham lam, làm

giàu bằng mọi thủ đoạn. Do vậy, khả năng phát triển đạo đức theo xu hướng tích

cực mà chúng ta nói trên không phải tự nhiên mà có hay được thực hiện một cách

tự động, mà cần phải đấu tranh với những thói hư tật xấu bằng hình thức pháp luật,

bắt mọi cá nhân đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi đạo đức của

58

mình. Trong nền kinh tế thị trường, mọi mệnh lệnh hành chính cùng với những lời

hô hào đạo đức chung chung đều trở nên vô tác đụng. Thực tiễn đã cho thấy, ngày

nay, toà án dư luận không còn uy thế trong xã hội, ở đâu có sự buông lơi về pháp

luật đối với những hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm thuần phong mỹ tục thì ớ đó,

các hiện tượng tiêu cực càng tăng lên.

Triết học đạo đức của Kant đã mở ra một bước ngoặt quan trọng trong lịch

sử triết học phương Tây, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nền

triết học cổ điển Đức, khơi dậy cảm hứng cho các trào lưu triết học phương Tây từ

thế kỷ XIX đến nay. Sự ảnh hưởng đó thể hiện trong triết học Mác, chủ nghĩa Kant

mới, triết học hiện sinh và một số học thuyết triết học chính trị phương Tây hiện

đại.

Đối với triết học cổ điển Đức, nhất là với Hêghen thì phạm trù tự do ý chí và

nguyên tắc tôn trọng phẩm giá con người của đạo đức học Kant đã được Hêghen kế

thừa và phát triển. Mặc dù phạm trù tự do ý chí được hiểu rất khác nhau nhưng

cũng như Kant, Hêghen đã lấy phạm trù đó làm điểm xuất phát cho triết học pháp

quyền của mình.

Sự tự quyết của ý chí trong triết học đạo đức của Kant nói chung cũng như

đạo đức Kant trong tác phẩm phê phán lý tính thực hành là cơ sở lý luận của chủ

nghĩa duy ý chí đặc biệt là của A. Sôpenhauơ. Từ chỗ khẳng định rằng thế giới là ý

chí và tưởng tượng bản chất của ý chí là ham muốn mù quáng, Sôpenhauơ đã đi

đến khẳng định rằng không có tự do ý chí thực sự và vì vậy cũng không thể có đạo

đức chân chính. Như vậy, trên thực tế quan đểm của Sôpenhauơ về ý chí hoàn toàn

đối lập với quan điểm của Kant. Cũng chính vì sự đối lập này mà đạo đức của

Sopenhauer trở thành đạo đức học chủ nghĩa bi quan, của sự thương cảm.

Chủ nghĩa Kant mới mà đại biểu là Lănggơ (1828-1875) và H.Côhen (1842–

1918) cho rằng triết học đạo đức của Kant là một học thuyết về lý luận xã hội chủ

59

nghĩa, bởi nguyên tắc đạo đức của nó là mệnh lệnh tuyệt đối và nó đã trở thành

chuẩn mực của hành động đạo đức phổ biến của con người. Nguyên tắc tôn trọng

phẩm giá con người không bao giờ được xem con người chỉ là phương tiện mà luôn

là mục đích trong triết học của Kant là tư tưởng xã hội chủ nghĩa, là cương lĩnh đạo

đức để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai. Vì vậy theo chủ nghĩa Kant mới,

Kant chính là người xây dựng nền móng cho chủ nghĩa xã hội.

Đối với triết học hiện sinh mà đại biểu là K.Jasper, Heidegger và Sartre thì

vấn đề con người và ý nghĩa cuộc sống con người trong đạo đức học Kant đã khơi

dậy cảm hứng cho các nhà triết học hiện sinh, đi tìm bản chất con người trong đời

sống nội tâm của chính mình.

Một số học thuyết chính trị xã hội hiện đại như Một học thuyết về sự công

bằng của nhà triết học người Mỹ John Rawls cũng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng đạo

đức của Kant. Mặc dù đề cập tới sự công bằng dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng

cơ sở lý luận của nó đều bắt nguồn từ nguyên tắc tôn trọng phẩm giá của con người

trong triết học đạo đức của Kant. Rawls đưa ra hai nguyên tắc của công bằng nhằm

đảm bảo về quyền tự do cơ bản và bình đẳng trong việc phân phối phúc lợi xã hội

trong đó ông nhấn mạnh đến sự cần thiết phải bảo đảm bình đẳng về tự do cơ bản,

bởi nó là sự thể hiện nhân phẩm của con người.

Khi xây dựng học thuyết về đạo đức trong triết học phê phán của mình,

ngoài việc coi quy tắc đạo đức là cái có quyền uy tối cao, là mệnh lệnh tuyệt đối mà

con người cần tuân theo, Kant còn coi tự do là lý tưởng đạo đức cao đẹp nhất mà

60

nhân loại cần hướng tới

KẾT LUẬN

Từ khi bộ ba tác phẩm Phê phán của Kant ra đời, nó đã như tiếng nổ Big

bang trong giới triết học. Mọi thứ bắt đầu được làm lại hoàn hảo hơn dựa trên chất

liệu là những mảnh vỡ của những gì đã bị phá hủy trước đó và những chất liệu mới

do Kant sáng tạo ra. Lịch sử triết học với những trường phái đã được xét lại. Ông

không có tham vọng phê phán, chống báng, chê bai và tẩy trừ tất cả thành tựu

trước đó. Vì nếu đã làm như vậy thì học thuyết của ông chỉ được người ta nhìn

bằng ánh mắt ghê sợ đối với một con mãnh thú hung hãn. Ông đã không làm thế,

mà chỉ “xem xét” như một người công tâm, không bị sai sử bởi động cơ tốt – xấu

nào.

Kant – với sức sáng tạo mới, đã thiết lập nên nền Siêu hình học thật hành mà

trước đó nó chỉ ở dạng tiềm ẩn trong những định đề chưa một ai phát biểu. Và hiển

nhiên, không điều gì được tạo ra mới hoàn toàn mà không phải dựa trên những

gì đã có trước. Kant đã nhờ học thuyết Duy nghiệm, Duy lý, Duy vật, Duy tâm, rồi

xem xét nó qua công cụ là lăng kính suy nghiệm, thiết lập nên một học thuyết mới

– học thuyết Phê phán, màđối tượng của nó là Lý tính. Bởi Lý tính, một đặc ân,

một khả năng vốn có luôn hiện hữu nơi mỗi con người. Nó chính là công cụ xây

dựng hạnh phúc cho con người; và chính nó, chứ không phải là một đấng toàn năng

nào có thể mang lại hạnh phúc. Xét cho cùng, dù con người có làm gì, có đề ra bao

nhiêu ý tưởng cũng cùng hướng đến mục tiêu này. Nhưng hạnh phúc, con người –

với vị thế cao tột trong muôn loại phải làm gì để thành tựu đúng nghĩa? Những nội

dung trình bày trên cũng đủ nói lên ý nghĩa này.

Kant đã dành cả cuộc đời mình, như bao triết gia khác, phải dò dẫmđi phá đá

mở đường, san lấp những hố thẳm ngăn cách con người với nhau, ngăn cách con

người đi đến đời sống hoàn hảo – một thành quả xứng đáng mà con

người đáng được hưởng đã bị lãng quên sau bao tháng ngày chìmđắm trong cơn

61

cám dỗ của Thần học và ham muốn tầm thường ích kỉ.

Đối tượng mà Kant hướng đến để xem xét đó là Lý tính. Ông đã thực hiện

một bước đột phá mới trong lối tư duy cho cả khoa học nhân bản và vũtrụ. Nhưng

quan trọng hơn hết vẫn là Đạo đức học. Một môn cần thiết và cấp bách nhất trong

xã hội. Có thể nói, khoa học và đạo đức là hai vấn đề lớn mà ông quan tâm nhất,

qua câu nói nghệ thuật hoá sau đây:

“Hai điều tràn ngập tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới mẻ

và gia tăng mỗi khi nghĩ đến, đó là: bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy

luật đạo đức ở trong tôi”.[32, 278]

“Bầu trời đầy sao” là đối tượng mà ông ngưỡng mộ, và là mục tiêu của khoa

học hướng đến. Nhưng chính “quy luật đạo đức ở trong tôi” chính là điều khiến

ông kính sợ, vì nó đưa đến hạnh phúc và sự Thiện toàn hảo.

Khảo nghiệm Đạo đức học của Kant là chúng ta đang thừa hưởng gia tài

phương pháp luận chặt chẽ nhất. Kant đã thiết lập một nền tảng mà từ đó có thể xây

dựng một thế giới hoà bình và đạo đức. Tuy rằng, con người, với giới hạn tri thức

không thể nào đạt được sự toàn hảo nhưng có quyền hi vọng về việc ấy. Mỗi cá

nhân hãy tự đặt ra châm ngôn cho chính mình,đồng thời hãy hành động sao cho nó

biến thành một quy luật thực hành phổ biến. Đây là trách nhiệm không của riêng

một cá nhân mà là toàn xã hội. Khoa học có thể mang lại tiện nghi vật chất cho đời

sống nhưng nó chưa phải là điều kiện đủ để con người sống hạnh phúc. Chỉ và duy

chỉ đạo đức mới làm được điều ấy.

Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học về tất cả phương

diện, vật chất hầu như đã đáp ứng được nhu cầu của con người. Nhưng trái lại, các

giá trị đạo đức truyền thống đã bị mai một, đẩy con người tiến tới bờ vực thẳm của

sự phá huỷ “nhân tính”. Chiến tranh, đói kém… khi tìm đến nguyên nhân sâu xa

của nó, ta sẽ thấy rằng chính ta, chứ không phải thần thánh nào, đã tự xa rời hạnh

62

phúc và tự tìm đến khổ đau. Chúng ta hãy tìm lại và hãy đặt Đạo đức học của Kant

vào đúng vị thế mà nó vốn phải được. Làm như thế chúng ta không những tự cứu

mình thoát khỏi tiến trình “động vật hoá” mà cũng là tự tìm hạnh phúc cho chính

mình. Và tất nhiên, chúng ta phải luôn nhớ rằng mình hạnh phúc chỉ khi nào toàn

xã hội đã được hạnh phúc. Chúng ta hãy kiên định trên con đường này như Kant đã

khuyến khích:

“Nghĩa vụ, chứ không phải công đức, mới được phép không chỉ có tác động

quyết định nhất mà, nhất là khi được hình dung trong ánh sáng đúng đắn của tính

bất khả vi phạm, còn có ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với tâm hồn”.[32, 271]

Triết học của Kant nói chung và đạo đức học của ông nói riêng tuy còn

những hạn chế khi chưa bàn sâu về những khía canh của con người xã hội,nhưng

nhìn chung có thể nói đây là một trong những tư tưởng vĩ đại nhất trong nền lịch sử

63

Triết học cũng như lịch sử nhân loại.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vĩnh An (2008), Hỏi đáp siêu hình học, Nxb Văn hóa Sài Gòn.

2. Lý Anh - Vương Tiểu Lý(2005), Tinh hoa trí tuệ nhân loại, Người dịch: Nguyễn

Tuấn Minh, Nxb Lao động.

3. Đạo đức học Nicomaque-Aristotles.

4. Nghiên cứu triết học cơ bản, Nguyễn Tài Thư dịch, Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tri

Thức, 2007.

5. Calaro R.Cenniza and Romualdo E.Bulad, Nhập môn triết học, Lưu Văn Hy

dịch, Tp. Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 2005.

6.Forrest E.Braid (2006), Tuyển tập danh tác triết học từ Platon đến Derrida,

Người dịch: Lưu Văn Hy - Đỗ Văn Thuấn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

7.Edward Craig (2010), Triết học, Phạm Kiều Tùng dịch, Nxb Tri thức.

8. Frit Jof Capra (1999), Đạo của vật lý, Nxb Trẻ.

9. Các triết gia lớn (1999) ( Les grandes Philosophies), Nxb Thế giới

10. Đại học Quốc Gia Hà Nội (2004), Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận

thức luận và đạo đức học, NXB Chính trị Quốc Gia

11. Nguyễn Duy Cần (1993), Tinh hoa đạo học Đông Phương, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

12. Quang Chiến (chủ biên - 2000), Chân dung Triết gia Đức, Trung tâm văn hóa

ngôn ngữ Đông Tây.

13. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), Triết học Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII R. Đềcáctơ,

64

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

14. Nguyễn Trọng Chuẩn - Đỗ Minh Hợp (2001), Quan điểm lịch sử triết học của

Hêghen, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Nguyễn Trọng Chuẩn (1997), Imannuel Kant – Người sáng lập triết học cổ điển

Đức, Nxb Khoa học xã hội.

16. David E.Cooper (2005), Các trường phái triết học trên thế giới, Người dịch:

Lưu Văn Hy và nhóm Trí tri, Nxb Văn hóa Thông tin.

17. Nguyễn Tiến Dũng (2009), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Văn nghệ,

TP.Hồ Chí Minh.

18. Trần Thái Đỉnh (1974), Triết học Kant, Nxb Văn hóa Thông tin.

19. ĐHQGHN, ĐHKHXHNV (2006), Tư tư ng t iết học Việt Nam t ong b i c ảnh

du nhập các tư tư ng Đông –Tây nửa đ u thế XX, Nxb Đạ i học Quốc Gia Hà

Nội

20. Nguyễn Hùng Hậu (Chủ biên - 2006), Triết học: Ph n 1 - Lịch sử triết học,

Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

21. Trần Đình Hượu (1994), Đến hiện đại từ truyền th ng, Nxb Văn học.

22. Đỗ Minh Hợp (2011), Nhập môn triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 28. Đỗ Minh

Hợp (2010), Đại cương lịch sử triết học, Nxb Giáo dục,

23. Đỗ Huy(1994), Chân_ Thiện _Mỹ sự th ng nhất là đa dạng văn hóa nghệ thuật,

Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.

24. Nguyễn Văn Huyên (1996), Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII-XIV - Triết học

Immanuel Catơ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. Bùi Thị Thanh Hương - Nguyễn Văn Đại (2011), Khái lược lịch sử triết

65

học,Nxb Lý luận Chính trị.

26. K.Jaspers (2003), Triết học nhập môn, Lê Tôn Nghiêm dịch, Nxb Thuận Hóa,

Trung tâm Văn hóa và Ngôn ngữ Đông Tây, Huế.

27. Bernerd Morichere và nhóm giáo sư triết học các trường đại học Pháp(2010),

Triết học Tây phương từ kh i thủy đến đương đại, Biên dịch: Phan Quang Định,

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

28. Bryan Magee (2003), Câu chuyện Triết học, Huỳnh Phan Anh - Mai Sơn: dịch,

Phạm Viên Phương hiệu đính, Nxb Thống kê.

29.Friedrich Nietzsche, Zarathustra đã nói như thế, Trần Xuân Kiêm dịch, Hà Nội:

Nhà Xuất Bản Văn Học, 2008.

30. I.Kant (1983), Đặt nền móng cho siêu hình học của đạo đức, Nxb Verlag

Philipp jun. Leipzig.

31. Immanuel Kant, Phê phán lý tính thu n túy, (Bùi Văn Nam Sơn - Dịch và chú

giải - 2004), Nxb Văn học.

32. Immanuel Kant, Phê phán lý tính thực hành, (Bùi Văn Nam Sơn - Dịch và chú

giải - 2007), Nxb Tri thức.

33. Immanuel Kant, Phê phán khả năng suy diễn, (Bùi Văn Nam Sơn - Dịch và chú

giải - 2007), Nxb Văn học.

34.Dagobert D.Runes (2009), Lịch sử triết học từ cổ đại đến cận hiện đại, Người

dịch: Phạm Văn Liễn, Nxb Văn hóa Thông tin.

35.Nghiên cứu triết học cơ bản, Nguyễn Tài Thư dịch, Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tri

Thức, 2007.

36.Chủ nghĩa cấu trúc Kantian trong lý thuyết đạo đức-Phạm Quốc Việt

66

dịch(chương trình nghiên cứu chính trị so sánh và nhà nước thuộc VEPR-2019).

67