ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- ----------------------- NGUYỄN THỊ THU TRANG LÊ THỊ DIỆU NGỌC HIỆN TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL DƢỚI GÓC NHÌN CỦA TRẦN ĐỨC THẢO

TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA N.MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM QUÂN VƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Khóa học: QH 2016 - X NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH 2016 – X

HÀ NỘI – 2020 HÀ NỘI - 2020

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

-----------------------

NGUYỄN THỊ THU TRANG

HIỆN TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL DƢỚI GÓC NHÌN CỦA TRẦN ĐỨC THẢO

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.s Trần Minh Hiếu

Khóa học: QH 2016 - X

2

HÀ NỘI - 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 5

CHƢƠNG 1. HIỆN TƢỢNG HỌC HUSSERL ..................................................11

1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Edmund Husserl ............................................11

1.1.1 Tiểu sử .......................................................................................................11

1.1.2. Giai đoạn duy tâm lý ...............................................................................12

1.1.3. Giai đoạn phản duy tâm lý ......................................................................14

1.1.4. Giai đoạn Hiện tượng học .......................................................................15

1.2. Hiện tƣợng học Husserl ...............................................................................18

1.2.1. Bối cảnh hình thành Hiện tượng học Husserl .........................................18

1.2.2. Tiền đề tư tưởng của Hiện tượng học Husserl ........................................21

1.2.3. Một số nội dung cơ bản của Hiện tượng học Husserl .............................25

1.3. Một số ý nghĩa và ảnh hƣởng của Hiện tƣợng học Husserl đối với triết

học phƣơng Tây hiện đại ....................................................................................38

CHƢƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN ĐỨC THẢO ĐỐI VỚI HIỆN

TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL .................................................................42

2.1. Đôi nét về Trần Đức Thảo và những hƣớng nghiên cứu của ông. ..........42

2.2. Lập trƣờng nhìn nhận Hiện tƣợng học Husserl của Trần Đức Thảo.....44

2.2.1. Chủ nghĩa duy vật ở Trần Đức Thảo .......................................................44

2.2.2. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Bản chất” trong Hiện tượng học

3

Husserl ...............................................................................................................47

2.2.3. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Tính ý hướng” trong Hiện tượng học

Husserl ...............................................................................................................49

2.2.4. Quan điểm của Trần Đức Thảo về phương pháp quy giản Hiện tượng

học ......................................................................................................................54

2.3. Sự “vƣợt bỏ” của Trần Đức Thảo với Hiện tƣợng học Husserl ..............55

2.3.1. Quan điểm của Trần Đức Thảo về nguồn gốc và bản chất của ý thức ...55

2.3.2. Vấn đề con người và cuộc cách mạng ở Việt Nam ..................................61

4

KẾT LUẬN .............................................................................................................68

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhận thức luận - lý luận về bản chất, quá trình hình thành, phát triển của

nhận thức cũng như khả năng phản ánh thế giới của con người – vốn là một trong

những nội dung cơ bản của triết học. Trong nhiều vấn đề đặt ra, việc nhận thức vận

động như thế nào để đạt tới chân lý luôn là một đề tài thu hút sự chú ý và gây tranh

cãi. Nguyên nhân là vì, thứ nhất, ngay trong những nguyên lý mang tính nền tảng

của nhận thức vốn chứa đựng mâu thuẫn biện chứng nội tại, thứ hai, mỗi quan

niệm, dù đặc sắc đến thế nào, chỉ có giá trị khi giúp con người giải quyết được

những vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra.

Thật vậy, trong khi chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức là sự

phức hợp những cảm giác của con người thì chủ nghĩa duy tâm khách quan lại coi

nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” hay là

sự vận động của “Ý niệm tuyệt đối” trong sự “chiêm ngưỡng” lại chính mình

(Hegel). Trong khi những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái

hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một

nguyên tắc của nhận thức thì chủ nghĩa duy vật lại thừa nhận khả năng nhận thức

được thế giới của con người, coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan

vào trong đầu óc của con người…

Trong dòng chảy sôi động của lịch sử tư tưởng về nhận thức đó, Hiện tượng

học Husserl xuất hiện, một mặt là những suy tư nhằm giải quyết phần nào “nan đề”

của nhận thức, mặt khác, quan trọng hơn nhằm “đối mặt” với cuộc khủng hoảng

của xã hội Đức cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Với quan niệm về “Bản chất”,

“Tính ý hướng”, “Thế giới sống”…, Hiện tượng học Husserl đề xuất cách tiếp cận

5

mới, với phương pháp nhận thức đặc thù, giúp con người soi rọi sâu hơn vào thế

giới tinh thần, từ đó góp phần lý giải những vấn đề của xã hội đương thời, tạo nền

tảng cho triết học phương Tây hiện đại.

Trần Đức Thảo – một nhà nghiên cứu triết học Việt Nam - trong khi tìm thấy

những giá trị cốt lõi, khoa học trong Hiện tượng học của Hurrserl cũng nhận ra một

số hạn chế của nó, đặc biệt khi vận dụng vào việc lý giải, tìm đường cho hiện thực

Việt Nam những năm 1952. Trần Đức Thảo đã có một sự chuyển mình âm thầm,

đầy nội lực bằng sự kết hợp giữa Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng,

nhưng không phải theo kiểu “trung dung”, “hài hoà” mà bằng những trăn trở phản

tư đau đáu, bằng sự dấn thân mạnh mẽ vào thực tiễn với sự trở về, góp sức trong

cuộc kháng chiến chống Pháp, cho chúng ta nhận ra một cốt cách, một sự “sống

trải” đáng kính. Đó là lý do chúng tôi lựa chọn đề tài “Hiện tượng học Edmund

Husserl dưới góc nhìn của Trần Đức Thảo”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

* Các công trình nghiên cứu về Hiện tượng học E. Husserl:

Hiện tượng học là học thuyết ra đời những năm đầu thế kỷ XX, tuy nhiên

việc tiếp cận nó ở Việt Nam và thể hiện những nghiên cứu thông qua các công

trình, tài liệu chuyên khảo vẫn còn khá ít.

Công trình đầu tiên cần phải kể đến chính là tác phẩm “Hiện tượng học và

chủ nghĩa duy vật biện chứng” của giáo sư Trần Đức Thảo, xuất bản lần đầu tiên

tại Paris năm 1951, được dịch và xuất bản sang tiếng Việt năm 2004. Tác phẩm là

những tiếp thu Hiện tượng học Husserl của Trần Đức Thảo với tư duy phê phán

độc đáo. Ở đó, tác giả đã cố gắng tìm kiếm điểm gặp nhau, bổ sung cho nhau của

hai học thuyết Hiện tượng học và biện chứng nói riêng, chủ nghĩa Marx nói chung.

Mặc dù đánh giá cao những thành tựu của Hiện tượng học, ông vẫn chỉ ra những

6

mâu thuẫn mà nó chưa thể giải quyết. Theo ông, Hiện tượng học chưa thể giúp con

người có được sự hiểu biết chính xác về thế giới hiện thực, đặc biệt là phương

hướng giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, bởi sự thiếu hụt tính chất “thực

tiễn” và “thực hành” trong nó. Do đó, chủ nghĩa Marx sẽ là sự bổ sung cần thiết

cho những khoảng trống này. Đúng như lời nhận xét của Phan Ngọc: “Trần Đức

Thảo đến với chủ nghĩa duy vật sau khi trèo lên cái đỉnh cao nhất của chủ nghĩa

duy tâm thời đại này là Hiện tượng học, rồi lật ngược lại nó” [14, tr.17].

Công trình chuyên khảo đáng chú ý thứ hai là “Edmund Husserl” của tác giả

Diêu Trị Hoa người Trung Quốc, được dịch và xuất bản sang tiếng Việt vào 2006

thuộc dự án “Tủ sách triết học Đông Tây”. Trong tác phẩm này, tác giả Diêu Trị

Hoa đã đem đến cho độc giả một cách nhìn căn bản về Hiện tượng học Husserl.

Theo Diêu Trị Hoa, lộ trình gần 40 năm hoạt động nghiên cứu của Husserl gắn liền

với quá trình đi từ chủ nghĩa tự nhiên đến Hiện tượng học, từ tâm lý học mô tả đến

Hiện tượng học tiên nghiệm và dừng lại ở thế giới đời sống. Điều cơ bản nhất của

Hiện tượng học là một hệ thống khoa học chặt chẽ với lập trường triệt để. Sự

phong phú và đa dạng về các công trình nghiên cứu về Hiện tượng học Husserl đã

đem lại một bức tranh mới hơn về một trào lưu triết học lớn.

Tài liệu chuyên khảo đáng chú ý tiếp theo là “Hiện tượng học Husserl” của

nhóm tác giả Nguyễn Chí Hiếu, Đỗ Minh Hợp, Phạm Quỳnh Trang xuất bản năm

2008. Là một công trình nghiên cứu công phu, cuốn sách gồm 3 chương, trong đó

chương 2 khái quát toàn bộ nội dung Hiện tượng học với các khái niệm cơ bản

“Tính ý hướng”, “Ý thức tuyệt đối”, “Dòng ý thức”, “Hiện tượng”, và “Thế giới

sống”. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống các khái niệm này giúp cho người

đọc có một cái nhìn khá toàn diện, có chiều sâu về một học thuyết làm nền tảng

cho các trào lưu triết học cũng như nền văn hoá phương Tây hiện đại.

* Các công trình nghiên cứu về Trần Đức Thảo và góc nhìn của ông đối với

7

Hiện tượng học Husserl:

Không chỉ là một nhà nghiên cứu về Hiện tượng học Husserl, Trần Đức

Thảo còn là một triết gia. Bởi thế, những tác phẩm cũng như tư tưởng của ông trở

thành một đối tượng nghiên cứu đầy sức hút, và hơn thế, cực kỳ quan cũngtrọng,

cần thiết đối với những người nghiên cứu khác, ở cả Việt Nam và trên thế giới.

Trước tiên cần kể đến một số bài báo mang tính học thuật cao. Đó là bài viết

“Trần Đức Thảo với Hiện tượng học Husserl” của Nguyễn Anh Tuấn (in trong

sách “Những vấn đề phương Tây thế kỷ XX”, 2007), đã nêu lên cách thức mà Trần

Đức Thảo thoát khỏi mâu thuẫn và bế tắc trong việc luận giải về ý thức mà Hiện

tượng học Husserl đã mắc phải [xem 33]. Bài viết “Hiện tượng học và Hiện tượng

học của Trần Đức Thảo” của Ngô Hương Giang đưa ra nhận định, Trần Đức Thảo

đã mở ra một dòng “Hiện tượng” riêng tạm gọi là Hiện tượng học duy vật [xem 7].

Hội thảo khoa học “Trần Đức Thảo - cuộc đời và di sản” được tổ chức tháng

11/2007, tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, nhân kỷ niệm 90 năm

ngày sinh của Trần Đức Thảo tập hợp các bài viết quan tâm đến Hiện tượng học

Husserl cũng như các quan điểm kiến giải, phát triển, phê phán của Trần Đức Thảo

đối với Hiện tượng học Husserl.

Hội thảo khoa học quốc tế “Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức

Thảo” được tổ chức vào năm 2013, tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nhân kỷ

niệm 20 năm ngày mất của giáo sư Trần Đức Thảo. Một số bài viết được lựa chọn

tại hội thảo này đã được in trong tập sách cùng tên vào năm 2015, cũng tập trung

chủ yếu vào chủ đề Hiện tượng học và Hiện tượng học của Trần Đức Thảo.

Qua tổng quan tài liệu chúng tôi nhận thấy vấn đề Hiện tượng học Husserl

và quan điểm của Trần Đức Thảo đối với Hiện tượng học Husserl đã thu hút sự

quan tâm của đông đảo học giả và người nghiên cứu. Dù vậy, theo cảm nhận,

8

dường như những khái niệm căn bản như “Hiện tượng”, “Ý thức sống trải”, “Bản

chất”, “Thế giới sống”… vẫn là những “ẩn số” chưa được khai thác hết. Một học

thuyết là kết tinh cả cuộc đời của một triết gia lớn, một học thuyết làm nền tảng

cho không chỉ triết học mà còn cả nền văn hoá phương Tây hiện đại chắc chắn sẽ

còn nhiều điều thú vị, hấp dẫn, truyền cảm hứng cho người nghiên cứu, nhất là đối

với trình độ một sinh viên đang bước đầu tìm hiểu như chúng tôi. Mặt khác, là

người thế hệ sau, có điều kiện để cùng đặt lên bàn không chỉ Hiện tượng học

Husserl mà còn cả sự phê phán Hiện tượng học từ một triết gia Việt Nam như Trần

Đức Thảo, chúng tôi không những được hiểu rõ hơn các nội dung của Hiện tượng

học mà còn hiểu được thế nào là một sự phê phán triết học. Đó là sự phê phán

không phải chỉ để phê phán mà còn để tự “vượt bỏ” chính mình. Trong khuôn khổ

của một khoá luận sinh viên, chúng tôi mong muốn nghiên cứu phần nào các nội

dung trên, qua đó làm rõ những đặc sắc trong tư tưởng của triết gia Trần Đức Thảo

khi “đọc” Hiện tượng học Husserl.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Phân tích, làm rõ một số nội dung cơ bản của Hiện tượng học

Husserl, đồng thời phân tích, làm rõ góc nhìn của Trần Đức Thảo về Hiện tượng

học Husserl cũng như sự “vượt bỏ” của ông về vấn đề Hiện tượng học.

Nhiệm vụ:

Phân tích điều kiện kinh tế, xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời quan

niệm của Hiện tượng học Husserl

Phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về Hiện tượng học

Husserl.

Phân tích và làm rõ góc nhìn của Trần Đức Thảo về Hiện tượng học Husserl.

Đưa ra những đánh giá về sự lĩnh hội, vượt bỏ trong nghiên cứu của Trần

9

Đức Thảo.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Những khái niệm cơ bản của Hiện tượng học Husserl

và quan điểm của Trần Đức Thảo về Hiện tượng học Husserl.

Phạm vi nghiên cứu: Một số tác phẩm như “Ý niệm Hiện tượng học” của

Edmund Husserl; “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, “Tìm cội

nguồn ngôn ngữ, ý thức”, “Sự hình thành con người” của Trần Đức Thảo.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm Marx – Lenin về

lịch sử tư tưởng và lịch sử triết học.

Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận vận dụng các phương pháp nghiên cứu

cụ thể như phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, thống nhất lịch sử - logic,

khái quát hóa, trừu tượng hóa,…

6. Ý nghĩa của khoá luận

Ý nghĩa lý luận: Khóa luận góp phần vào việc hiểu rõ hơn Hiện tượng học

Husserl và cách nhìn của Trần Đức Thảo đối với Hiện tượng học, qua đó cho thấy

giá trị tư tưởng của Trần Đức Thảo đối với hệ thống triết học Việt Nam và thế giới.

Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những

ai quan tâm đến vấn đề Hiện tượng học và tư tưởng Trần Đức Thảo.

7. Kết cấu của khoá luận

10

Ngoài phần mở đầu và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương và 5 tiết.

CHƢƠNG 1. HIỆN TƢỢNG HỌC HUSSERL

1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Edmund Husserl

1.1.1 Tiểu sử

Edmund Husserl (1859 - 1938) là người sáng lập ra trường phái “Hiện

tượng” luận của thế kỷ XX. Ông sinh tại Prossnitz miền Movarie, lúc ấy đang

thuộc đế quốc Áo - Hung. Tốt nghiệp phổ thông tại Áo, Husserl sau đó lần lượt học

đại học từ năm 1876 ở đại học Leipzing, Berlin và Viên.

Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XIX, ông chịu ảnh hưởng các nhà tư

tưởng theo chủ nghĩa Kant mới như F. A. Lange, H. L. F. Heimholtz, những người

ủng hộ chủ nghĩa tâm lý thịnh hành khi đó. Nhưng người có tầm ảnh hưởng lớn

đến con đường chuyển từ toán học sang triết học của ông là nhà tâm lý học, triết

học người Áo F. Brentano (1838 -1917). Vào năm 1886, Husserl bảo vệ luận án

tiến sĩ triết học với đề tài “Các vấn đề triết học của số học”.

Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ vào năm 1887, Husserl trở thành phó giáo sư

đại học tổng hợp Halle. Từ năm 1901 đến năm 1916, ông giảng dạy tại Goettingen

và trở thành giáo sư vào năm 1906. Trong thời gian này tư tưởng Husserl đã có

bước chuyển to lớn. Ông phê phán gay gắt việc nghiên cứu toán học, số học - một

môn khoa học khách quan - dựa trên các lý thuyết của tâm lý học. Ông cho rằng

toán học, logic học là khoa học độc lập, thuần tuý không phụ thuộc vào bất kỳ nội

dung tâm lý nào, và xác định đây là khoa học làm nền tảng cho các môn khoa học

thực chứng khác. Đối với Husserl, logic học thuần tuý không gì khác là học thuyết

nghiên cứu “nhận thức”. Ông đặc biệt quan tâm tới những khái niệm “hiện tượng”,

“hiện tượng học”, “thời gian”, “ý thức” cũng như học thuyết về phép quy giản

Hiện tượng học.

Khi Hitle lên cầm quyền, luật phân biệt chủng tộc đối với viên chức nhà

11

nước có hiệu lực vào tháng 4/1933 và Husserl bị loại khỏi hàng ngũ giáo sư do

nguồn gốc Do Thái của mình, thậm chí ông còn không được phép đến trường đại

học và thư viện. Nếu trước đây, ông ít quan tâm tới triết học xã hội thì giờ đây,

nhãn quan của ông hướng vào những vấn đề thời sự bức thiết của xã hội và sự phát

triển của lịch sử nhân loại. Husserl mất ngày 27 tháng 4 năm 1938.

Cả cuộc đời mình, Husserl đã suy tư, nghiên cứu, lao vào biển cả triết học

đầy rẫy những khó khăn, thử thách. Quá trình tư duy của Husserl là sự chuyển biến

từ chủ nghĩa tâm lý đến Hiện tượng học, từ Hiện tượng học mô tả đến Hiện tượng

học siêu nghiệm, từ chủ thể tiên nghiệm đến “Thế giới sống”. Tương ứng với 3 giai

đoạn: sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ là giai đoạn duy tâm lý, giai đoạn phản duy tâm lý,

giai đoạn Hiện tượng học - Hiện tượng học siêu nghiệm trong tư tưởng của ông.

1.1.2. Giai đoạn duy tâm lý

Husserl sinh ra và lớn lên vào những năm cuối của thế kỷ XIX, những năm

này diễn ra nhiều xung đột giữa các luồng tư tưởng ở châu Âu. Trong thời gian

này, các ngành khoa học tự nhiên có nhiều bước phát triển vượt bậc, khẳng định vị

trí thống trị. Các bộ môn thuộc ngành khoa học xã hội - nhân văn chủ yếu vận

dụng các phương pháp của ngành khoa học tự nhiên vào những nghiên cứu của

mình. Để chống lại sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các phương pháp khoa

học tự nhiên vào các nghiên cứu, nhiều nhà khoa học xã hội - nhân văn đã đề xuất

thiết lập môn “khoa học tinh thần”. Vấn đề đặt ra khi đó là đối tượng thực sự của

khoa học tự nhiên và “khoa học tinh thần” là gì? Không gì khác trước hết đó là vấn

đề logic học và tiếp sau đó là mối liên hệ của các cấu trúc tư duy và hiện thực.

Hai vấn đề cơ bản khi đó được đặt ra: thứ nhất, các cấu trúc logic có đưa

được về các cấu trúc tâm lý hay không?; thứ hai, các thao tác logic có phải là các

mô hình về quá trình tư duy hiện thực hay không? Khi trả lời hai vấn đề trên, hầu

hết các nhà theo chủ nghĩa tâm lý đều khẳng định tính chất mô tả của logic học đối

12

với quá trình tư duy. Chủ nghĩa tâm lý cổ điển thế kỷ XIX (J. Mill) cho rằng, thứ

nhất, logic học được quy về tâm lý học tức là các khái niệm logic có thể được suy

ra từ các khái niệm tâm lý học, đồng thời các các quy luật logic học cũng có thể

được tách từ các quy luật của tâm lý học. Thứ hai, logic học là mô hình về quá

trình tư duy vì bản thân nó cũng là một bộ phận cấu thành nên quá trình ấy. Một số

quan điểm khác thì không đồng tình, phủ định vấn đề thứ nhất nhưng vẫn nhất trí

sự đồng nhất của cấu trúc logic và cấu trúc tâm lý theo một con đường kinh

nghiệm xác định nào đó. Lập trường nghiên cứu giai đoạn sơ kỳ của Husserl chịu

ảnh hưởng bởi thời đại và trực tiếp chịu ảnh hưởng từ nhà tâm lý học Brentano.

Trong tác phẩm “Tâm lý học xét từ góc độ kinh nghiệm” (1874), Brentano

đã xác định đối tượng của tâm lý học là những yếu tố ý thức của con người và

phương thức liên kết chúng cũng như các tiền đề và các điều kiện làm xuất hiện

những yếu tố ấy. Đối với Brentano thì không gì có thể thay thế được tâm lý học

trong việc nhận thức chân lý khoa học, nó đem đến cho nhà nghiên cứu nhận thức

chân thực và chính xác về ý thức con người. Brentano lần đầu tiên đưa ra khái

niệm “Tính ý hướng” (intentio). Đây là khái niệm quan trọng, mấu chốt đối với hệ

thống triết học phương Tây hiện đại sau này, mà người đang chịu ảnh hưởng trực

tiếp là Husserl. “Tính ý hướng” luôn giả định phải có một cặp tương liên, một là

hành vi ý hướng, hai là cái mà hành vi ý hướng vào, trong đó chỉ hành vi ý hướng

là thực tồn. Sau này, Husserl sử dụng hai khái niệm noesis và noema để chỉ mối

tương liên này. Sự ra đời của khái niệm “Tính ý hướng’ đã giải quyết những mâu

thuẫn trong việc xác định đối tượng, cung cấp một nhãn quan mới mẻ hướng tới

đối tượng và cũng mở lối cho sự phát triển đường hướng triết học phi duy lý sau

này.

Husserl xây dựng các kết luận dựa trên cơ sở phân tích logic toán thời bấy

giờ dựa trên sự đồng tình với Brentano về lý giải phénomène tâm lý trong tâm lý

13

học mô tả. Phénomène tâm lý là các “Bản chất” không đòi hỏi phải viện dẫn các

khách thể bên ngoài mà chỉ đòi hỏi được trải nghiệm từ bên trong. Một giai đoạn

mà người ta lý giải logic học trên tinh thần tâm lý học là vì thế. Husserl đã viết tác

phẩm “Các vấn đề triết học số học” với mong muốn lý giải các khái niệm số học,

các nguyên tắc, các nguyên lý số học dựa trên các kiến giải tâm lý học. Giai đoạn

này diễn ra trong thời gian không lâu. Sau này, Husserl gọi tác phẩm “Các vấn đề

triết học số học” là “vô tội nhưng ấu trĩ” vì đã tiếp cận nhiều vấn đề mà không hiểu

rõ vấn đề. Đây là giai đoạn đánh dấu sự phê phán và tự phê phán trong suốt cuộc

đời ông.

1.1.3. Giai đoạn phản duy tâm lý

Đối lập với chủ nghĩa tâm lý là chủ nghĩa phản tâm lý, coi logic học là một

môn khoa học độc lập với tập lý học với mục đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng. Trước hai vấn đề1 nêu trên của thời đại, các nhà theo chủ nghĩa phản

tâm lý cổ điển (Frege, Husserl) đã trả lời như sau. Thứ nhất, không thể quy logic

học về tâm lý học, bởi lẽ không thể rút ra được các khái niệm logic học từ các khái

niệm tâm lý học, không thể tách các định đề logic từ các định đề tâm lý học, không

thể viện dẫn các sự kiện tâm lý để luận chứng cho các nguyên tắc logic học. Thứ

hai, logic hoàn toàn không thể là mô hình về tư duy, vì các kết quả và phương pháp

của logic không đem lại bất kỳ thông tin nào về tư duy tự nhiên của con người.

Trong khi đồng tình với lý giải của Brentano về quan hệ ý hướng là cái

thuần túy mô tả, là đặc thù nội tại của các trải nghiệm xác định, là tính quy định về bản chất của các hiện tượng tâm lý hay hành vi tâm lý [xem 9, tr.165], Husserl lại

phê phán ông khi cho rằng có sự tách biệt giữa hành vi ý hướng và đối tượng ý

hướng, bởi Brentano luôn hướng tới triết học đạt tới sự đồng nhất chủ khách thể.

Ông hiểu ý hướng là hành vi quy định đối tượng nhờ phương pháp biểu tượng,

1 Trong bài viết, tr. 4.

14

tưởng tượng, khát vọng,… “Không ai có thể suy luận, hy vọng hay sợ hãi nếu

người ấy không biểu tượng một cái gì” [9, tr.166]. Trên thực tế có những khái niệm

không hề có ngoại diên, nhưng vẫn có nội hàm xác định. Theo cách lý giải của

Husserl, ngay cả khi đối tượng không tồn tại trên thực tế thì cũng hoàn toàn không

ảnh hưởng tới tính thực tại của đối tượng ấy.

Trong tác phẩm “Những nghiên cứu logic” tập 1 Husserl đã kịch liệt phê

phám chủ nghĩa tâm lý. Bác bỏ các luận đề của chủ nghĩa tâm lý về sự phụ thuộc

của logic học vào tâm lý học, ông cho rằng đây là chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa

tương đối, chủ nghĩa hoài nghi. Husserl bày tỏ mong muốn xây dựng logic thuần

túy trở thành khoa học về những “Bản chất” tuyệt đối, không phụ thuộc vào chủ

thể.

Bước ngoặt tư tưởng Husserl chuyển từ chủ nghĩa logic tuyệt đối của khoa

học sang Hiện tượng học khi ông viết tập thứ 2 của “Những nghiên cứu logic”.

Chính Hiện tượng học đã in đậm dấu ấn Husserl trong sự phát triển của triết học

thế giới.

1.1.4. Giai đoạn Hiện tượng học

Xuất phát từ quan niệm Hiện tượng học như khoa học về ý thức thuần túy,

như dòng chảy của những “Hiện tượng” (phénomène) với tư cách sản phẩm của

hoạt động kiến tạo ý thức thuần túy, Husserl đã mang một hơi thở hoàn toàn mới

thổi vào khái niệm “Hiện tượng”.

Cho đến trước quan niệm của Husserl, khái niệm “Hiện tượng” đã được bàn

trong lịch sử triết học. Những tranh luận xoay quanh các câu hỏi như sau: “Hiện

tượng” là những tồn tại khách quan hay là những thứ được mang lại trong cảm

giác”? “Hiện tượng” tách rời hay đồng nhất với “Bản chất”?

Các nhà triết học thời kỳ Hy Lạp cổ đại chia thành hai trường phái khi đưa

15

ra quan điểm về “Hiện tượng”. Trường phái thứ nhất cho rằng “Hiện tượng” là

những gì khách quan, xuất hiện trước giác quan. Trường phái thứ hai cho rằng thế

giới các sự vật cảm tính (thế giới hiện thực) chính là “Hiện tượng” với tư cách là

cái bóng của thế giới ý niệm. Bản chất thật sự thuộc về thế giới ý niệm, không

thuộc về thế giới “Hiện tượng”. Ở đây, bắt đầu có sự tách rời giữa “Hiện tượng” và

“Bản chất”.

Triết học Cận đại, Berkeley, Hume và sau này là triết học cổ điển Đức, cho

rằng “Hiện tượng” không còn phản ánh ý niệm đáng tin cậy nữa. Họ đưa ra các

khái niệm khác có quan hệ gần gũi với khái niệm “Hiện tượng”, biểu hiện các mức

độ đáng tin cậy, hiện ra khác nhau của tồn tại (cảm tưởng, vẻ bề ngoài,…) như là

cái đứng giữa ảo tưởng và chân lý. Kant cho rằng “Hiện tượng” không gì khác

chính là hiện thực hoạt động sống của con người, và năng lực nhận thức của con

người là có giới hạn. Hegel dành cả cuộc đời để nghiên cứu, biện giải cho tinh thần

tuyệt đối. Ông coi “Hiện tượng” là thế giới hiện thực bao gồm cả con người, là sự

phản ánh “Tinh thần tuyệt đối”. Nhưng trong khi “Tinh thần tuyệt đối” vận động

biện chứng, thì thế giới “Hiện tượng” lại chết cứng, không vận động. Trong triết

học, việc sử dụng từ hiện tượng là để nói đến một sự kiện có thể nhận biết được.

Có thể nhận biết qua giác quan hoặc trong tâm trí. Thuật ngữ này bắt đầu được sử

dụng trong triết học bởi triết gia người Kant, khái niệm “Hiện tượng” đã được Kant

sử dụng “vật tự nó” - Ding an sich hoặc "vật tự vật" - thing-in-itself) hoặc Tuyệt

đối. Kant bị ảnh hưởng bởi triết gia “tiền bối” Absolute về phần này trong triết lý

của ông. Hiện tượng và vật tự thể tương quan với nhau, ta không thể trực tiếp dùng

mắt mà thấy. Hiện tượng học tinh thần của Hegel là cội nguồn thực sự và “bí ẩn”

của học thuyết Hegel, tức là cái chìa khoá mà có nó, người ta sẽ mở toang được

cánh cửa đi vào nội dung quý giá của học thuyết này. Đây là lãnh địa của tinh thần

tuyệt đối – bản chất, chi phối toàn bộ thế giới hiện thực. Mọi sự vật chỉ là hiện thân

16

cá biệt của tinh thần tuyệt đối. Theo Hegel, tinh thần thế giới trực tiếp hay gián tiếp

bị tha hoá thành tự nhiên, thành các thể chế và các đồ vật do con người tạo ra. Và,

tất cả các quá trình tha hoá đó dường như là mặt trái của sự vận động của ý niệm

tuyệt đối đến chính mình, đến sự hiện thân trọn vẹn như sự tự nhận thức. Quá trình

này diễn ra nhất thiết phải thông qua mặt đối lập của mình, tức là qua vô tri và

thậm chí, qua tri thức giả dối xuất hiện trên đường nhận thức một cách tất yếu như

tồn tại khác của nó, tức không phải như lỗi ngẫu nhiên, mà như sai lầm tất yếu và

cần thiết. Những giới hạn đó của các hiện tượng tha hoá tương ứng với nguyên tắc

Hegel về đồng nhất tư duy và tồn tại vốn giống hệt như quá trình bản thể luận phổ

quát. Và, với bất kỳ quá trình nào trong số chúng - nhận thức luận hay bản thể

luận, thì theo Hegel, tha hoá nhất định phải được vượt bỏ và được khắc phục: Tinh

thần quay trở về với chính mình qua đầy rẫy những đớn đau cực hình và những thử

thách trải nghiệm đầy thông thái. Chân lý đạt tới độ trọn vẹn và tuyệt đối, thế giới

được lý tính rọi sáng hoàn toàn. Lập trường của Hegel trong vấn đề tha hoá đầy lạc

quan và chúng ta có thể cảm thấy điều đó ở khắp nơi trong Hiện tượng học tinh

thần.

Triết học Marx - Lenin khắc phục tính chất duy tâm của triết học cổ điển

Đức, đặt khái niệm “Hiện tượng” trong mối tương quan biện chứng với khái niệm

“Bản chất”. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua “Hiện tượng”, còn “Hiện tượng”

bao giờ cũng là sự thể hiện của “Bản chất” nhất định. Bản chất nào thì sẽ thể hiện

ra qua “Hiện tượng” ấy. Một “Bản chất” có thể được biểu hiện thông qua nhiều

“Hiện tượng” và ngược lại một “Hiện tượng” có thể bộc lộ ra nhiều “Bản chất”.

Nhưng sẽ luôn chỉ có một “Hiện tượng” là phù hợp hơn cả với “Bản chất” mà nó

thể hiện.

Khái niệm “Hiện tượng” cũng đóng vai trò quan trọng ở Brentano: tri thức

về con người (nhiệm vụ của tâm lý học) mà theo ông chỉ nhận được từ việc quan

17

sát đời sống tâm thần, còn cái gì đạt được từ nhờ sự quan sát như vậy là “Hiện

tượng” (phénomène). Theo nghĩa rộng, phénomène là tất cả những gì có thể trở

thành khách thể của sự nghiên cứu khoa học. Với nghĩa đó, ta có các phénomène

“nội tâm” - tâm lý và các phénomène “ngoại tâm” - vật lý. Cái đặc thù của các

phénomène tâm lý là sự tồn tại ý hướng vốn có của chúng.

Đối với Husserl, khái niệm “Hiện tượng” trở thành then chốt trong triết học

của ông. Bên cạnh cách hiểu truyền thống về “Hiện tượng” như trên, theo Husserl,

“Hiện tượng” không những biểu thị những phương diện xác định của sự vật được

đem lại trong trực giác cảm tính mà còn đặc trưng cho “dòng ý thức”. Hiện tượng

ở Husserl là những “Bản chất” của ý thức được xây dựng dựa trên phương pháp

đặc thù của riêng nó. Ông cho rằng, “Hiện tượng học: thuật ngữ này biểu thị một

môn khoa học, một phức hợp những bộ môn khoa học; nhưng đồng thời và trên hết

nó biểu thị một phương pháp và một thái độ tư duy: đó là thái độ tư duy triết học riêng biệt và phương pháp triết học riêng biệt” [13, tr.23].

Như vậy, Hiện tượng học Husserl có ba đặc trưng cơ bản. Thứ nhất, học

thuyết Hiện tượng học là học thuyết về ý thức. Thứ hai, phương pháp riêng biệt,

độc đáo của Hiện tượng học là phương pháp quy giản Hiện tượng học. Thứ ba,

Hiện tượng học còn là học thuyết về “Thế giới sống” và sự khủng hoảng loài người

châu Âu. Thông qua Hiện tượng học, Husserl đã chuyển sự suy từ vấn đề khủng

hoảng của khoa học sang cuộc khủng hoảng của con người. Ông đã dành cả đời

mình để trăn trở, để suy ngẫm về khoa học, về con người, là nét chấm phá nhưng là

nét chấm phá quan trọng nhất trong bức tranh triết học muôn màu, muôn vẻ.

1.2. Hiện tƣợng học Husserl

1.2.1. Bối cảnh hình thành Hiện tượng học Husserl

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển tới cực thịnh của nó,

chứng kiến sự biến đổi dữ dội nhất trong lịch sử châu Âu. Đây là thế kỷ của chủ

18

nghĩa duy lý, chủ nghĩa khoa học lên ngôi với những thành tựu khoa học, kỹ thuật,

các lý thuyết thực nghiệm chi phối toàn bộ đời sống xã hội, đem lại những ảnh

hưởng to lớn cho con người châu Âu.

Bước sang thế kỷ XX, một kỷ nguyên hưng thịnh chứng kiến sự phát triển

vượt bậc của khoa học, kỹ thuật vượt qua thời kỳ cổ điển bước sang thời kỳ hiện

đại. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được đánh dấu bằng các nguồn năng

lượng được khai thác và sử dụng một cách phổ biến. Các ngành công nghiệp năng

lượng ra đời: khai thác dầu mỏ, sản xuất gang thép, sản xuất ô tô, đặc biệt là năng

lượng điện đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt nhân loại thế kỷ XX trên mọi phương

diện đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần,…

Khoa học ngày càng phát triển, nền sản xuất phát triển kéo theo năng suất

lao động tăng nhanh, thúc đẩy chất lượng đời sống con người đi lên. Thế nhưng, do

cả quy mô sản xuất lẫn số lượng sản phẩm làm ra tăng nhanh một cách không thể

kiểm soát, cần hạn chế cạnh tranh tự do, nên như một điều tất yếu chủ nghĩa tư bản

bắt buộc phải thực hiện bước chuyển mình sang chủ nghĩa tư bản độc quyền và

ngay sau đó là sang chủ nghĩa đế quốc. Khi nghiên cứu sâu vấn đề kỹ thuật, tiến bộ

kỹ thuật, Karl Marx đã chỉ ra mặt trái của nó trong xã hội tư bản “…Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về tinh thần”

[22, tr.10], hay Albert Einstein cũng nhận xét “sự phát triển về khoa học và kỹ

thuật đã khiến cho cuộc đấu tranh sinh tồn của con người ngày càng thêm gay gắt”

[6, tr.26] với biểu hiện rõ ràng nhất là chiến tranh thế giới thứ nhất.

Đầu thế kỷ XX, vật lý học Newton gặp thách thức to lớn. Vật lý học hiện đại

của A Einstein, L. Planck đập tan hòn đá tảng tưởng như không thể lay chuyển nổi

của vật lý học kinh điển. Các công thức toán học mới ra đời phá vỡ quy luật toán

học cổ điển. Tình hình trên làm cho người ta lo sợ trước nguy cơ của khoa học.

Nhưng cho đến những năm 30 của thế kỷ XX, từ đó trở đi thì người ta cũng hiểu ra

19

rằng cuộc khủng hoảng đó đã phá vỡ được phần sơ cứng của vật lý học cổ điển,

thúc đẩy vật lý học phát triển thêm một bước tiến mới. Với sự ra đời của định lý

bất toàn thì mọi người cũng thấy rõ hơn tính không thể của khoa học cho dù đó có

là một khoa học chính xác như toán học. Những cố gắng không ngừng nghỉ của các

nhà khoa học, cơ bản khắc phục được những khủng hoảng trong lòng nó. Lúc này,

Husserl vẫn nói nhiều về khủng hoảng của khoa học châu Âu.

Khủng hoảng mà ông đề cập đến ở đây không đơn giản là cuộc khủng hoảng

vật lý, số học hay bản thân của bất kỳ khoa học nào mà khủng hoảng về nguồn gốc

của khoa học, là khủng hoảng của toàn bộ bầu không khí văn hoá mà khoa học

hoạt động trong đó. Hơn ai hết, Husserl hiểu rõ cho dù Newton, Einstein, Planck

hay bất kỳ ai sau này là nhân vật tiêu biểu cho vật lý học thì vật lý học từ trước đến

nay và từ nay về sau vẫn luôn là một khoa học chính xác. Mọi người có thể phản

bác rằng sẽ không bao giờ có được một cấu trúc vật lý đúng tuyệt đối song đó chưa

từng là lý do ngăn cản vật lý học là môn khoa học chính xác. Cuộc khủng hoảng

ấy, không phải cá biệt cho một môn khoa học nào, một học thuyết cá biệt nào mà

là cuộc khủng hoảng chung, tức là khủng hoảng tính người châu Âu. Khủng hoảng

cá biệt xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau, có những đặc trưng khác nhau nhưng

chúng vẫn ràng buộc nhau bởi cuộc sống con người. Cuộc sống con người được đề

cập tới là hoạt động sáng tạo có mục đích, sáng tạo văn hoá được tiến hành trong

quá trình lịch sử. Con người đánh mất tính người. Trong trạng thái mơ màng,

không mục đích con người không thể sáng tạo, cải tạo bản thân, cải tạo thế giới đã

dẫn đến sai lầm cả trong lý luận và thực tiễn. Husserl ví khủng hoảng như một con

bệnh mà triệu chứng bệnh nó biểu hiện ra là cuộc khủng hoảng khoa học. Khủng

hoảng của khoa học không phải ở chỗ bản thân nó được xây dựng không vững

chắc, không đồ sộ mà ở cái nền của nó xét về căn bản là không đạt tiêu chuẩn.

20

Đánh mất tính người đó là nguồn gốc thực sự cho mọi sự khủng hoảng. Và, vấn đề

ý thức, sự hiểu biết bản thân, hiểu biết lẫn nhau trở nên thiết yếu trong xã hội và

chính nó cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của Hiện tượng học.

1.2.2. Tiền đề tư tưởng của Hiện tượng học Husserl

Với tư cách là một triết gia, Husserl xây dựng triết thuyết của mình khi ông

đứng trên “đôi vai của những người khổng lồ”, nhìn nhận, đánh giá và khai phá

những tri thức mới. Tiền đề tư tưởng của ông bao gồm: triết học hoài nghi của

Descates, chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm của Kant, và tư tưởng của Brentano.

Trước hết, Husserl học hỏi từ Descartes. Trong hệ thống triết học Descartes,

có hai nguyên tắc để ông đem ra khai thác, luận giải và phê phán: Một là, bất cứ

thứ gì ta biết thì phải biết một cách rõ ràng, phân minh, những gì xuất hiện một

cách trực tiếp. Hai là, những “Hiện tượng” là an toàn, là chắc chắn ở trên vì được

mang lại một cách trực tiếp, được đồng nhất với những tư tưởng, phụ thuộc vào

tâm lý của chủ thể nhận thức.

Husserl trước hết tán thành với việc nhận thức đối tượng một cách rõ ràng,

phân minh bằng con đường trực tiếp. Ông cho rằng không được chấp nhận bất kỳ

một tồn tại nào như là có sẵn mà không có sự kiểm chứng rõ ràng minh bạch. Và

có thể hoàn toàn chỉ ra được một tồn tại mà ta không có gì để phải nghi ngờ, được

mang lại một cách tuyệt đối, hoàn toàn rõ ràng, bất kỳ câu hỏi nào về nó đều có thể

đưa ra câu trả lời trực tiếp. Tiếp theo, Husserl đồng ý rằng đối tượng của Hiện

tượng học là những cogitations (những tư tưởng, những trạng thái tâm lý, những

hành vi và nội dung tư duy) của Tôi được mang lại một cách trực tiếp.

Tuy nhiên, Husserl cũng chỉ ra những hạn chế trong học thuyết Descartes.

Đầu tiên, Descartes coi cái Cogito (cái tôi tư duy) là cái tôi tâm lý. Husserl viết:

“Khi bắt đầu phê phán nhận thức thì toàn bộ giới tự nhiên vật lý và tâm lý, kể cả

21

bản ngã người của chính mình, cùng mọi ngành khoa học có quan hệ với những

đối tượng khách quan này, đều phải được đưa vào danh mục những điều khả vấn”

[13, tr.48]. Chừng nào vẫn còn tồn tại cái tôi tâm lý, tức là vẫn có gì đó chưa minh

bạch hoàn toàn. Với Husserl, cái Cogito của Descartes vẫn cần cần phải quy giản

nữa. Vậy “Cái tôi tư duy” mà Husserl hướng đến có gì khác biệt với Descates. Ông

gọi đó là Tôi Hiện tượng học, cái Tôi đã được “epoché” khỏi mọi vấn đề tâm lý.

Cái Tôi Hiện tượng học chỉ là một điểm nhìn, và cái biết của nó là cái biết chắc

chắn, tuyệt đối. Cái tôi Hiện tượng học đóng vai trò như kẻ quan sát một cách

thuần túy.

Bên cạnh đó, Husserl đặt ra câu hỏi rằng “làm sao nhận thức có thể vượt ra

khỏi chính mình và được đối tượng của mình một cách đáng tin cậy” [13, tr.24].

Ông đặt ra vấn đề về nội tại (immanenz) và siêu nghiệm (transzendenz). Đây là hai

thuật ngữ được riêng Husserl sử dụng mà không phải ở Descartes. Tính nội tại

thuộc về ý thức còn siêu nghiệm là một đặc tính thiết yếu của nhiều đối tượng nhận

thức, làm sao để nhận thức được nó. Làm sao có thể nhận thức được sự nội tại là

điều dễ hiểu còn làm sao có thể nhận thức được sự siêu nghiệm thì không dễ dàng.

Ông lý giải hai thuật ngữ này theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, nội tại và siêu

nghiệm đơn giản là ở bên trong và ở bên ngoài tâm trí, “nội tại (immanenz) có

nghĩa là nội tại một cách thực sự (reell/ really) trong trải nghiệm của nhận thức”

[13, tr.57]. Nghĩa thứ hai, nội tại có nghĩa “cái được mang lại một cách tuyệt đối và

rõ ràng, là cái tự mang lại theo nghĩa tuyệt đối” [13, tr.67]. Còn siêu nghiệm là cái

không trình hiện một cách trực tiếp đích thân cho nhận thức mà cùng lắm là chỉ

được hình dung để chủ thể suy luận mới đến được đích. Rõ ràng, nếu nội tại được

hiểu theo nghĩa thứ hai và siêu nghiệm được hiểu theo nghĩa thứ nhất thì phá vỡ

rào cản khuôn khổ của Descartes về sự phụ thuộc vào cái Tôi tâm lý và có thể

tránh được thuyết duy ngã. Như vậy, đối tượng được phản ánh một cách chân xác,

22

tuyệt đối đáng tin cậy không có điều gì đáng phải nghi ngờ.

Husserl cũng chịu ảnh hưởng từ triết học cổ điển Đức đặc biệt là chủ nghĩa

duy tâm tiên nghiệm Kant. Kant chủ trương muốn dung hòa cả triết học duy lý và

triết học duy nghiệm truyền thống để giải quyết các vấn đề nảy sinh một cách có hệ

thống của “Bản chất” ý thức, các năng lực nhận thức của chủ thể. Kant không đặt

ra cho mình mục tiêu làm sáng tỏ “Bản chất” của thế giới, ông chỉ đặt ra cho mình

một mục tiêu khiêm tốn hơn là làm sáng tỏ chủ thể nhận thức có thể nhận thức

được gì và nhận thức như thế nào. Vậy, chúng ta có thể nhận thức được gì? Chúng

ta có thể nhận thức được mọi thứ trong giới hạn của nó. Kant trước sau chỉ xem xét

thế giới thông qua các hành vi và hình thức của tính chủ quan của con người. Tính

chủ quan này chính là cái mà nhờ đó thế giới mới được đem lại cho con người.

Husserl cho rằng ý thức luôn là ý thức về một cái gì đó, ý thức mang tính “tạo

dựng”, ông coi toàn bộ thế giới hiện thực và các sự vật là do ý thức, ý đồ chủ quan

của con người sắp đặt. Nếu không có hành vi ý hướng của con người thì sự tồn tại

của mọi sự vật và “Hiện tượng” đều vô nghĩa. Ông viết: “Cả thế giới thời gian và

không gian, bao gồm con người và tính tự ngã của con người, xét về ý nghĩa mà

nói, là một thứ tồn tại của ý đồ. Nói thế cũng có nghĩa là, thế giới này đối với ý

thức chỉ là cái có sau, có ý nghĩa tồn tại tương đối. Nó là tồn tại của ý thức được bố

trí trong kinh nghiệm. Sự tồn tại như vậy, về nguyên tắc, chỉ là cái nhất trí trong

biểu tượng ý thức mà nhiều người có thể cảm nhận và quy định. Ngoài cái đó ra,

chẳng có gì khác” [5, tr. 485].

Tuy nhiên khi bàn đến tính chủ quan của ý thức, Husserl không đồng ý với

cách luận giải của Kant. Với Kant tri giác chủ quan khi kết hợp với các phạm trù

giác tính mới cho ra được một tri thức phổ quát và tất yếu. Những nỗ lực của Kant

không phải không đáng ghi nhận nhưng Kant không có sự quy giản Hiện tượng

học nên dưới con mắt Husserl, Kant chưa thoát khỏi các “Hiện tượng” tâm lý tự

23

nhiên. Và khi xem xét tính chủ quan dựa trên tâm lý tự nhiên, có thể áp dụng trong

nhận thức hiện thực khách quan, thế giới bên ngoài nhưng với việc nhận thức về

chính tính chủ quan liệu có còn hợp lý. Điều kiện để nhận thức tính chủ quan lại là

tính chủ quan, nói cách khác bản thân khách thể nhận thức lại là chính điều kiện để

nhận thức khách thể ấy. Husserl cho rằng điều này là nhảm nhí. Tính chủ quan ở

Husserl thể hiện như là cơ sở thứ nhất là cái tuyệt đối mà triết học cần xuất phát từ

đó lý giải sự tồn tại của vạn vật thậm chí là cả bản thân nó. Tính chủ quan tồn tại

một cách hoàn toàn đặc biệt, không có sẵn, không bộc lộ một cách trực tiếp như

khách thể mà hiện diện trong mọi hành vi nhưng lại không thể tách rời khỏi hành

vi, nó tạo ra bất kỳ sản phẩm nào của hoạt động con người nhưng không thể quy về

các sản phẩm đó, nó bao giờ cũng là khả năng nhưng không ở một sự kiện xác

định, tham gia vào các hình thức, phương pháp thực tồn nhưng không chịu sự quy

định trở lại của các hình thức, phương pháp đó. Và với tư cách là đối tượng thực

tiễn, tồn tại người là không thể thiếu quan niệm của con người về chính nó, như

vậy sự thấu hiểu tồn tại người là một trong các thành tố cấu thành nên nó.

Bước tiến lớn nhất của Husserl so với chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Kant

là việc khám phá một cách tiếp cận đặc thù triết học chuyển từ bản thể luận siêu

nghiệm sang bản thể luận văn hóa - vạch ra và mô tả cội nguồn văn hóa của tồn tại

người. Tính quy định văn hóa của tồn tại người là cơ sở của mọi hoạt động con

người kể cả hoạt động nhận thức, cũng là cơ sở bản thể của sự hiện sinh người.

Cách tiếp cận văn hóa, mở ra triển vọng cho việc xác định lại đối tượng và phương

pháp triết học trong triết học truyền thống. Và cũng với cách tiếp cận như vậy mà

Hiện tượng học Husserl đã trở thành cơ sở quan trọng nhất của toàn bộ triết học

phương Tây hiện đại, và vô số lĩnh vực nhân văn khác.

Bên cạnh nhị nguyên luận Descartes, chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Kant,

thì Husserl còn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ người thầy của mình là Brentano.

24

Husserl tiếp thu quan điểm về “Tính ý hướng” và biến nó trở thành yếu tố quyết

định đối với Hiện tượng học. Tính ý hướng là tính chủ ý có định hướng, hoặc nói

“tôi nghĩ” thì phải nói “tôi nghĩ về vật nào đó”. Điều đó cũng có nghĩa là, ông đã

phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động mang “Tính ý hướng” của ý thức và đối

tượng của ý hướng. Sự phân biệt đó cho thấy rõ đằng sau nhiều biểu tượng hiển thị

trong quá trình nhận thức, còn có “sự nhộn nhịp” của hoạt động mang “Tính ý

hướng” [xem 15]. Brentano là người ảnh hưởng nhiều nhất đến con đường triết học

của Husserl, hai tác phẩm “Về khái niệm con số” - 1887 và “Triết học của số học”

- 1891 là minh chứng cho sự ảnh hưởng của tâm lý, ông muốn giải thích toán học

dựa vào tâm lý.

Nhưng Husserl đã giải phóng học thuyết của mình ra khỏi chủ nghĩa tâm lý.

Khám phá ra “Bản chất” độc lập của các “Hiện tượng” (phénomène) tâm lý, sự

không phụ thuộc của chúng đối với hiện thực bên ngoài và cấu trúc thể xác, tâm

hồn con người đã đem lại một đối tượng nghiên cứu đặc biệt - nó nằm trong chính

nột tâm con người nhưng lại không phụ thuộc vào chủ thể tâm lý. Husserl đã đem

đến một cách tiếp cận khác về đối tượng nghiên cứu đặc biệt là phương pháp

nghiên cứu độc đáo - phương pháp quy giản Hiện tượng học để giải quyết các vấn

đề triết học truyền thống còn bỏ ngỏ và làm cơ sở cho nhiều trường phái triết học

phương Tây hiện đại sau này.

1.2.3. Một số nội dung cơ bản của Hiện tượng học Husserl

a. Khái niệm “Hiện tượng học”

Hiện tượng học (phénomènologie) là một trong những khuynh hướng tư

tưởng triết học có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ tiến trình phát triển của triết học

phương Tây hiện đại.

Husserl đặt vấn đề như sau: “Trong tất cả các biểu hiện, nhận thức là một

25

biểu hiện tâm lý: đó là nhận thức của chủ thể nhận thức. Đối tượng được nhận thức

đứng đối lập lại với chủ thể nhận thức. Vậy thì làm thế nào đảm bảo được sự tương

ứng của nó đối với đối tượng được nhận thức? Làm thế nào nhận thức vượt ra khỏi

chính nó để gặp được đối tượng một cách đáng tin cậy?” [13, tr. 24].

Theo Husserl, triết học truyền thống cho rằng những gì được mang lại trong

nhận thức có thể thực sự hiểu được, và đó là một quan điểm sai lầm. Ông nói: triết

học truyền thống “thường tiền giả định rằng: những gì duy nhất được mang lại mà

có thể thực sự hiểu được, không khả nghi và tuyệt đối hiển nhiên phải là những

momen thực sự chứa trong hành vi nhận thức, và, vì thế, họ xem xét tất cả những

gì liên quan đến đối tượng được nhận thức mà không thực sự chứa đựng trong

hành vi nhận thức mới là những gì bí hiểm, nghi vấn, có vấn đề. Tuy nhiên, ta sẽ

sớm thấy rằng đây là vấn đề sai lầm nghiêm trọng” [13, tr. 58]. Không thể sử dụng

các khoa học truyền thống làm cơ sở, Husserl cho rằng chỉ có thể dựa vào toàn bộ

những nội dung tư duy (cogitationes), tức là từ hành vi của ý thức hay nội tại của ý

thức. Bởi nơi đó có những gì “được mang lại một cách tuyệt đối” hay “Hiện tượng

học thuần tuý”. Đó là những gì diễn ra trong ý thức là tuyệt đối, không có gì khả

nghi, là chân lý tuyệt đối. Husserl gọi đây đích thị là bến đỗ an toàn và vững chắc

mà Hiện tượng học có thể “thả neo”.

Như vậy, theo Husserl nhận thức Hiện tượng học là học thuyết nhận thức về

“Bản chất”. Hiện tượng học phân tích và nghiên cứu “Bản chất” trong khuôn khổ

sự quan sát trực quan thuần tuý hay trong khuôn khổ những gì được mang lại một

cách hiển nhiên. Đối với những ai có thể đặt mình ở vị trí trực quan thuần tuý và

gạt bỏ hết mọi thiên kiến tự nhiên, ắt hẳn rằng sẽ thấy không chỉ những cái cá biệt

mà cả những cái phổ biến, những đối tượng phổ biến, những sự việc phổ biến cũng

có thể đạt được trạng thái thuần tuý, được mang lại một cách hiển nhiên.

Vì thế, Hiện tượng học đặt ra nhiệm vụ nắm bắt “Bản chất” của nhận thức.

26

Vấn đề ở đây không phải là quan sát những gì diễn ra mà mô tả sự nhận thức phát

triển như thế nào. “Câu hỏi đặt ra là: Về bản chất thì cái gì được chứa đựng và

được đặt nền tảng nơi những hiện tượng nói trên? Chúng được cấu thành từ những

yếu tố nào? Chúng có thể kết hợp với nhau ra sao khi nắm bắt vấn đề về mặt bản

chất và như cái nội tại thuần tuý; và đâu là những mối quan hệ tổng quát bắt nguồn

từ chúng?” [13, tr. 98]. Bên trong ý thức luôn xác định được yếu tố nội tại đích

thực nhưng đồng thời ta cũng sẽ thấy một tương quan giữa yếu tố nội tại đích thực

ấy và đối tượng khách quan được ý hướng. Muốn hiểu được “bản chất của ý thức

thì phải lĩnh hội được hai yếu tố. “Làm rõ bản chất của nhận thức, và đưa ra những

sự kết nối mang tính bản chất thuộc về nhận thức thành những gì tự mang lại,

chính nghiên cứu cả hai mặt này, là xét mối quan hệ thuộc về bản chất nhận thức”

[13, tr. 98]. Trong mọi trường hợp nghiên cứu bản chất không bao giờ là đối với

các hiện tượng đơn lẻ, cá biệt. Cái đến rồi đi theo dòng chảy bất tận của của ý thức

không phải là cái mà Hiện tượng học nhắm tới. Hiện tượng học nhắm tới cội nguồn

của nhận thức, đến những bản chất phổ biến có thể nhìn thấy được, đến những cái

phổ biến được mang lại một cách hiển nhiên, tuyệt đối. Theo Husserl, chắc chắn

một số đối tượng không đơn thuần khép kín trong hành vi tâm trí, phá vỡ chiếc

lồng chật hẹp của Descartes, đó chính là những cái phổ biến. Cái phổ biến chính là

cái bản chất, mà có thể nhận thức về nó một cách trực tiếp (không cần đến suy luận

hay khái quát hoá) mặc dù nó vượt ra khỏi hành vi tâm trí của ta. Hoạt động nhận

thức của ý thức trong tính nội tại đích thực được hiểu trực quan, hiển nhiên và

trong sự siêu việt nằm bên ngoài, vượt ra khỏi phạm vi của các hành vi nhận thức.

Đến đây thì Husserl đã khắc phục được hạn chế của Descartes trong nhận thức về

đối tượng.

Để làm rõ bản chất của ý thức, Husserl bắt đầu với ý tưởng cho rằng, mọi ý

thức của con người đều là ý thức về đối tượng nào đó. Vậy, thực chất của đối

27

tượng mà ý thức con người hướng tới là gì, hành vi nhận thức đối tượng diễn ra

như thế nào? Husserl trả lời câu hỏi này bằng khái niệm “Tính ý hướng” và

“Phương pháp quy giản Hiện tượng học”.

b. Khái niệm “Tính ý hướng”

Khái niệm “Tính ý hướng” tiếng Latinh là intentio, có nghĩa là hướng tới -

khái niệm của một loạt học thuyết triết học, được sử dụng ghi nhận sự đặc thù của

ý thức con người. Sự đặc thù của ý thức thể hiện ở định hướng của nó vào một đối

tượng nào đó. Theo Ceneca (4 TCN-65 SCN), “Tính ý hướng” là phương thức vận

động của tâm thần. Theo Thomas Aquino (1225 - 1274) thì nó là một trong số

những công cụ nhận thức của trí tuệ, công cụ hiện thực hoá những tiềm năng của

trí tuệ nhờ nắm bắt khách thể bằng ý thức. Đến Brentano, thì khái niệm “Tính ý

hướng” được đem đến với một hơi thở mới. Bên ngoài “Hiện tượng” của ý thức

không có đối tượng nghiên cứu của triết học, vì tính thực tại, tính hiện hữu, tính

được đem lại của thế giới thể hiện là tổng thể những “Hiện tượng” (phénomène)

tâm lý hoàn toàn khả tri với tư cách những cái hiện diện trong ý thức. Theo

Brentano, “Tính ý hướng” là “có quan hệ với nội dung”, “hướng vào một đối

tượng”. Mọi ý hướng đều là hướng vào một đối tượng, “Hiện tượng” tâm lý là

“Hiện tượng” có ý hướng bao dung đối tượng vào tự thân nó. Tiếp thu quan điểm

này, Husserl nhất trí rằng bất kỳ hành vi nào của ý thức cũng hướng tới một đối

tượng nào đó. Tôi thấy một cái cây và nó trình diện cho tôi với một số lượng các

quy định nhất định, xác định ý nghĩa khách quan mà nó mà nó có cho tôi, nghĩa là:

nó là gì cho tôi. Nếu tôi nhìn nó trong màn sương mù, nó được thiết định như là

chính đối tượng ấy nhưng lại mang trong ý thức của tôi. Nhờ vào sự phản tư đang

được đối tượng hóa: đối tượng được làm giàu thêm với một quy định mới mẻ và vì

thế, được làm cho sẵn sàng đón nhận một đặc tính hoàn toàn mới mẻ.

Tuy nhiên, màu sắc kinh nghiệm và chủ nghĩa tâm lý nặng nề là nội dung mà

28

Husserl phê phán Brentano trong lý luận “Tính ý hướng” của ông. Brentano phân

biệt hiện tượn tâm lý và hiện tượng vật lý. Điều này chỉ đúng trong phạm vi tâm lý

học kinh nghiệm truyền thống, còn trong lĩnh vực Hiện tượng học sự phân biệt đó

không còn giá trị. Trong thế giới của ý thức thuần tuý, bất kỳ đối tượng nào đều

tồn tại không thể tách rời ý thức. Chúng đều được ý thức hướng đến. Brentano

cũng không thể thoát khỏi sự phân biệt chủ - khách thể, nhận thức - đối tượng. Ông

sử dụng khái niệm “bao hàm” để luận giải, tức là mô tả “Tính ý hướng” là đối

tượng đã thâm nhập vào ý thức, mối quan hệ lúc này kiểu như vật bao chứa và vật

bị bao chứa. Husserl muốn triệt để khắc phục kiểu quan hệ như vậy khi ông đưa ra

mối quan hệ giữa đối tượng ý hướng (noema) và hành vi ý hướng (noesis).

Khái niệm “Đối tượng ý hướng” (neoma) là nội dung của hoạt động ý

hướng. Các triết gia Hy Lạp sử dụng Neoma để chỉ nội dung được tư duy. Vì vậy,

từ này được dùng dưới hình thức “được…”. Đối tượng ý hướng bị hoạt động của

“Tính ý hướng” đồng nhất, thống nhất, hướng vào. Nếu hỏi “noema là gì?”, câu trả

lời chỉ có thể là cái làm cho trải nghiệm tạo dựng của ý hướng. Và nếu lại hỏi “trải

nghiệm tạo dựng của ý hướng là như thế nào?”, câu trả lời cũng chỉ có thể là trải

nghiệm tự thân. Noema tức là ý nghĩa hoạt động tạo dựng, là đối tượng trong hoạt

động của “Tính ý hướng”, nên gọi là đối tượng ý hướng. Đối tượng ý hướng cũng

được phân làm hai loại: đối tượng như nó ý hướng và đối tượng ý hướng. Thứ nhất

“đối tượng như nó ý hướng” là đối tượng của ý hướng nội tại (là đối tượng đã gác

lại, loại bỏ các thiên kiến tự nhiên). Thứ hai, “đối tượng được ý hướng” là đối

tượng ở bên ngoài. Hai loại đối tượng này đều là đối tượng ý hướng, trong đó “đối

tượng được ý hướng luôn chuyển hoá thành “đối tượng như nó ý hướng” trở thành

đối tượng của ý hướng nội tại. Đối tượng ý hướng khiến chúng ta chú ý dựa theo

cái mà ý hướng hướng vào để nắm bắt nó. Có như thế thì hoạt động ý hướng của ý

29

thức mới phong phú, sâu sắc.

Khái niệm “hành vi ý hướng” (neosis) cũng bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp. Các

triết gia Hy Lạp dùng nó để chỉ hoạt động tư duy, chứng tỏ nó chủ động, không

ngừng hoạt động. Trong Hiện tượng học, nó là mắt khâu quan trọng trong trải

nghiệm của “Tính ý hướng”. Nếu hỏi “Noesis là gì?”, sẽ không một câu trả lời trực

tiếp, bởi nó không là một cái cụ thể nào, hoặc bất cứ hoạt động đặc thù nào. Ta chỉ

có thể căn cứ vào tình hình mà nó thể hiện trong trải nghiệm ý hướng cụ thể, để mô

tả lại nó. Hành vi ý hướng là mắt khâu quan trọng trong việc chuyển hoá “đối

tượng được ý hướng” thành “đối tượng như nó ý hướng”. Trong quá trình đó hành

vi ý hướng nắm bắt và duy trì đối tượng. Mặt khác hành vi ý hướng cũng tiến hành

việc làm rõ, liên hệ, tập hợp, nhằm phát huy vai trò tổng hợp của nó. Đồng thời nó

còn thể hiện những quan niệm giá trị tương ứng như tin tưởng, hoài nghi hoặc phủ

định,… Trong trường hợp này, hành vi ý hướng như hoạt động tổng hợp, cấu thành

nên đối tượng. Hành vi ý hướng là mắt khâu kết cấu mang tính “Bản chất” của trải

nghiệm “Tính ý hướng”. Nó là lĩnh vựa hoạt động của trải nghiệm “Tính ý hướng”,

và cũng là đặc trưng ý thức của nó. Hành vi ý hướng có thể biểu hiện thành hoạt

động tạo dựng, cũng có thể biểu hiện thành hoạt động tổng hợp. Nó được kiến tạo

không ngừng trong hoạt động nhận thức của con người.

Hai lĩnh vực kết cấu nên “Tính ý hướng” của ý thức: đối tượng ý hướng và

hành vi ý hướng có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Trong đó, hành vi ý

hướng mang tính bản chất còn đối tượng ý hướng có địa vị không “Bản chất”.

Hành vi ý hướng như người chấp hành chủ động trong quá trình nhận thức còn đối

tượng ý hướng bị động trong quá trình này. Hành vi ý hướng đa tạp, tạo dựng còn

đối tượng ý hướng thống nhất và được tạo dựng. Tuy nhiên, sự mật thiết của hai

khái niệm này là không có gì để bàn cãi. Không thể nói rằng trong một hành vi ý

hướng nào đó lại không có đối tượng ý hướng tương ứng với nó và ngược lại. Mối

30

quan hệ giữa đối tượng ý hướng và hành vi ý hướng là kết cấu mang tính chỉ đạo,

để phân tích kết cấu trong các lĩnh vực hoạt động của “Tính ý hướng”, từ đó giải

quyết các vấn đề còn mập mờ, không rõ của triết học truyền thống.

Trên cơ sở đó, “Tính ý hướng” trong Hiện tượng học Husserl mang đặc

trưng “tạo nghĩa”. Cùng với hoạt động định hướng là hoạt động hiện thực hoá định

hướng ấy có ý nghĩa quan trọng. Trong quá trình nhận thức cụ thể, hai hoạt động

đó đan xen vào nhau, gắn liền chặt chẽ với nhau, không thể tách khỏi nhau. Chúng

thúc đẩy lẫn nhau để hình thành quá trình nhận thức sôi động. Trong lịch sử, lý

luận Hiện tượng học truyền thống, bao giờ cũng đi từ nhận thức cảm tính đến nhận

thức lý tính với khái niệm, phạm trù làm cơ sở. Ngay cả Kant được coi có “một

cuộc cách mạng kiểu Copernik”, thì cũng chỉ dùng các phạm trù giác tính để chỉnh

lý các tài liệu cảm tính được cung cấp liên tục bởi các sự vật khách quan. Nhưng

với Hiện tượng học Husserl, hết thảy mọi hoạt động nhận thức đều là sự tự phản tư

về chính nó. Tất cả mọi đối tượng vật lý, nếu nó là đối tượng trong lĩnh vực ý thức

thì nó không còn là đối tượng bên ngoài nữa mà trở thành ý nghĩa nội tại. Quá trình

đó được thực hiện và hoàn thành bằng chính khả năng “tạo nghĩa” của ý thức. Mối

quan hệ chủ - khách thể, nhận thức - đối tượng cơ bản được giải quyết. Với đặc

trưng “tạo nghĩa” của “Tính ý hướng” thì ý thức luôn hướng về đối tượng. Khi tìm

kiếm, một cách vô tình hay hữu ý thì đã luôn có một dáng hình, tính cách, trình độ

văn hoá,…được hình thành trong đầu óc người. Cái đối tượng trong ý tưởng đó

không có một đối tượng thực, nó là một đối tượng trừu tượng được tạo ra từ trong

quan niệm. Thực ra đó là khả năng “tạo nghĩa” của ý thức. Trong hoạt động nhận

thức, ý thức hướng vào đối tượng, tạo nên bản chất của đối tượng ấy, để biểu hiện

ra thành các hiện tượng thuần tuý, bản chất thực tại của đối tượng được mang lại

một cách tuyệt đối. Husserl đã đề xuất một phương pháp hoàn toàn mới mẻ trong

việc đào sâu, bám rễ tìm kiếm bản chất tận cùng của đối tượng, đó là phương pháp

31

Hiện tượng học.

c. Phương pháp Hiện tượng học

Nếu như “Tính ý hướng” bàn đến kết cấu của và nội dung của ý thức, thì câu

hỏi tiếp theo là làm thế nào để nhận thức đạt được tri thức “Bản chất” cuối cùng,

không bị nhiễu loạn bởi những thiên kiến, ảo tưởng.

“Thiên kiến tự nhiên” là một khái niệm được Husserl sử dụng để chỉ toàn bộ

những luận điểm, định kiến (ý thức hàng ngày, dư luận, các luận điểm khoa học tự

nhiên, các luận điểm triết học truyền thống, các tín điều tôn giáo, các định đề mang

tính quyền uy, …) nằm sẵn trong nền tảng của chính các học thuyết, lý luận, và nó

là điểm hạn chế. Thật vậy, “Ta tự bảo, nó tồn tại tự mình ở đó; bất chấp ta có nhận

thức nó hay không thì nó vẫn cứ tự mình diễn ra” [13, tr. 33]. Đi theo phương pháp

nhận thức truyền thống, các tri thức chưa thể loại bỏ hoàn toàn các “tạp chất tự

nhiên” vốn tồn tại sẵn từ trước. Cách mà khoa học truyền thống có được tri thức

khách quan là rút ra trên cơ sở những suy luận mang tính kinh nghiệm. Bởi vậy,

những tri thức ấy tuy xác định, song cũng chứa cả những mâu thuẫn, xung đột, bất

đồng bởi sự mập mờ, thiếu sót của kinh nghiệm cảm tính. “Toàn bộ nhận thức

mang tính tự nhiên chủ nghĩa, tiền khoa học và khoa học đều là nhận thức mang

tính siêu việt - khách quan hoá; nó coi các khách thể là tồn tại và cố gắng nắm bắt

chúng, trong khi đó chúng theo nghĩa chân thực không được đem lại, không mang

tính nội tại với nó” [9, tr. 213 -214]. Bởi vậy, trước tiên cần tìm cách khắc phục

những “thiên kiến tự nhiên” này. Đây là một suy tư không phải theo cách giành lấy

cho mình một bộ phận xác định của thế giới để nghiên cứu như các ngành khoa

học khác, mà chính xác là tìm kiếm một cách tiếp cận, một lập trường, một tư duy

mới. Vậy phương pháp đó cần phải như thế nào?

Theo Husserl, bất kỳ nghiên cứu nhận thức nào, dù thuộc loại hình nhận

thức này hay loại hình nhận thức kia thì cũng cần tiến hành sự quy giản nhận thức

32

luận, ông gọi đó là phương pháp “Quy giản Hiện tượng học”. “Quy giản” nghĩa là

“đặt mọi sự siêu việt có liên quan vào danh mục bị loại trừ, hay vào danh mục của

sự dửng dưng, của sự vô hiệu của nhận thức luận, vào danh mục với lời tuyên bố

rằng: sự hiện hữu của mọi sự siêu việt này, dù tôi có tin vào chúng hay không, là

tuyệt nhiên không liên quan gì đến tôi ở đây cả; và, đây không phải là nơi để tôi

đưa ra phán đoán về chúng, việc phán đoán ấy hoàn toàn ở ngoài cuộc” [13, tr. 62].

Husserl đưa ra thuật ngữ “Epoché”, vốn có nguồn gốc từ thuyết khắc kỷ cổ đại, có

nghĩa đen là “kiêng”, “nhịn”, còn nghĩa bóng là “gác lại”, “treo lại”. Theo Husserl,

nhà Hiện tượng học cần kiềm chế phán đoán, bởi thế giới vốn luôn đầy rẫy những

đánh giá, những ý kiến trái ngược nhau. Việc bổ sung các phán đoán không những

làm phức tạp hoá vấn đề mà còn làm tăng hỗn loạn xã hội. Hiện tượng học không

che đậy, không im lặng mà có hướng đi riêng để không lu mờ cả ý kiến của mình

và của những người xung quanh. Nhà Hiện tượng học không nên cố phán đoán mà

chỉ nên kể, mô tả, xây dựng hình ảnh đối tượng để nghiên cứu.

Husserl thường nói đến 3 kiểu quy giản:

Thứ nhất là quy giản triết học (có ý kiến gọi là giản lược lịch sử), là yêu cầu

đặt ra ngoài nhận thức mọi học thuyết của tiền nhân, bởi nhà Hiện tượng học cần

nắm lấy ngay bản thân sự vật. Trong tư duy, đây là bước tiến đầu tiên nhằm tránh

những đường mòn, đặt lại mọi vấn đề. Ở đây, tư tưởng của Husserl có sự liên hệ

và chịu ảnh hưởng bởi nguyên tắc nhận thức minh bạch, rõ ràng của Descartes.

Quy giản này cũng đi đến hành động đặt các quan điểm khoa học về giới tự nhiên

“sang một bên”, và là sự chuyển hướng về phía lĩnh vực Hiện tượng học – lĩnh vực

của ý thức.

Thứ hai là quy giản “Bản chất”, “đặt trong ngoặc” hữu thể của tự nhiên.

Theo Husserl, để tìm lại kinh nghiệm sống của mình, chúng ta phải đặt thế giới

hiện hữu vào trong ngoặc để chỉ nhắm đến cái “Hiện tượng” trong ý thức, của ý

33

thức. Khi đó, mỗi đối tượng hay thế giới hiện hữu nói chung chỉ là một eidos (cái

mà tôi ý thức). Theo đó, khi tôi tư duy, chú ý đến một cái gì đấy thì thế giới tự

nhiên bị tạm thải loại ra ngoài phạm vi của ý thức. Như vậy, quy giản “Bản chất”

đưa ta đến sự gặp gỡ giữa ý thức và đối tượng. Đối tượng lúc này không phải là sự

vật, “Hiện tượng” của giới tự nhiên, mà là tôi đang ý thức.

Thứ ba là quy giản Hiện tượng học, đến đây mới là phương pháp đặc thù

giúp ta “vén màn” để đi tới thế giới “Hiện tượng”. Bước quy giản này làm cho thế

giới hiện ra đúng như nó đã xuất hiện trong kinh nghiệm sống của ta, cho thấy thế

giới đã xuất hiện dưới ý thức như thế nào trong mỗi cái nhìn của ta. Nhờ các thao

tác quy giản Hiện tượng học, toàn bộ nội dung đối tượng được loại bỏ. Ý thức

được “làm sạch” và biến thành “ý thức thuần tuý”. Nó chỉ giữ lại những đặc điểm

vốn có ở ý thức nói chung. Nói cách khác, ý thức thuần tuý là ý thức đạt tới sự thấu

hiểu bản thân nó như là ý thức phổ biến. Sau khi đạt tới sự thuần tuý của ý thức,

chủ thể nhận thức sẽ có một cái nhìn không còn thiên kiến về bản thân mình.

d. Khả năng tạo dựng của ý thức

Việc có được tri thức đích thực, không tạp nhiễm chỉ là một phương diện

của Ý thức, một phương diện khác của nó là “Khả năng tạo dựng”.

Trước hết, ý thức tạo dựng thời gian, thời gian là hình thức tồn tại của ý

thức. Thời gian, theo quan điểm của Husserl, được xem là hình thức của mọi trải

nghiệm chủ thể, chúng diễn ra đồng thời và nối tiếp nhau. Husserl lấy một ví dụ về

âm thanh. Một âm thanh vang lên trong thời điểm hiện tại, đó là thời điểm hoàn

toàn khách quan thuần tuý. Nhưng cũng chính âm thanh đó có thể xuất biến thành

“Hiện tượng” nếu chủ thể để nó “lùi” vào quá khứ. Cái “Hiện tượng” ấy, trong mỗi

lúc vừa là cái bây giờ, vừa là cái đang thay đổi theo một tiến trình liên tục. Hình

thức thời gian cũng giúp cho những trải nghiệm được hồi tưởng theo đúng trình tự.

34

Hình thức thời gian của ý thức cũng giúp cho sự quá độ từ trải nghiệm này sang

trải nghiệm khác. Những trải nghiệm riêng lẻ - cũng như các những giai đoạn của

chúng không bao giờ tiếp diễn nhau một cách nhảy vọt. Giữa những trải nghiệm

luôn có một sự quá độ. Âm thanh vang vọng trong khoảnh khắc này rồi trầm lặng

trong khoảnh khắc kế tiếp thì giữa hai khoảnh khắc còn có một cái gì khác nữa và

thường là trầm lặng. Sự liên tục của bước quá độ có căn nguyên trong chuỗi tiếp

diễn của các giai đoạn thời gian của dòng chảy ý thức.

Các trải nghiệm không chỉ dàn trải theo thời gian mà còn có tính quảng tính

của không gian. Cũng giống như thời gian, không gian khách quan của đối tượng

được đặt cơ sở trên cơ sở cấu tạo chủ quan của chủ thể. Không gian khách quan

nhào trộn với không gian chủ quan, dựa trên cơ sở không gian chủ quan. Sự biến

đổi của thời gian và không gian trên cơ sở tính chủ thể được Husserl gọi là “những

tổng hợp thụ động” (passive synthesis) theo nghĩa không có sự thêm thắt của cái

Tôi như vẫn diễn ra trên địa vực của tính chủ thể. Những tổng hợp kế tiếp nhau

kiến tạo nên những gì mà ta gọi là thế giới.

Bên cạnh vấn đề “Khả năng tạo dựng của ý thức”, “cấu tạo tính liên chủ thể”

cũng là một nội dung đáng chú ý trong nghiên cứu của Husserl. Ý thức không đơn

thuần là ý thức của tôi mà nó còn chi phối, sáng tạo nên ý thức của tha nhân. Khả

năng kiến tạo của chủ thể mà Husserl bàn tới ở đây không phải là cái thuộc về từng

cá hể riêng biệt, mà của mọi cá thể. Ý tượng này, đặt ra trong bối cảnh khủng

hoảng xã hội của Châu Âu, có ý nghĩa như thế nào. Trong một xã hội thiếu đi sự

giao tiếp, người ta không thấu hiểu nhau, đối xử với nhau xa cách, lạnh lùng. Vậy

có thể khắc phục như thế nào. Husserl đưa ra khái niệm “Tính liên chủ thể siêu

nghiệm”, với xuất phát điểm về sự giống nhau giữa người với người ở năng lực ý

thức. Husserl cho rằng người ta ban đầu nhận thức nhau như những chủ thể tri

giác, khi đạt tới trình độ nhận thức người khác cũng như chính mình, họ sẽ thấu

35

hiểu nhau.

Một nội dung nữa trong “hệ sinh thái” ý thức của Hiện tượng học là “Thế

giới sống” (lebenswelt). Theo Husserl, Ý thức không chỉ kiến tạo nên ý thức tha

nhân mà còn bao trùm toàn bộ thế giới tự nhiên, xã hội. Với sự ra đời của các bộ

môn khoa học thời Cận đại, cùng với đó là việc toán học hoá giới tự nhiên khiến

thế giới xung quanh chúng ta mất dần đi ý nghĩa. Mọi “Hiện tượng” của tự nhiên

chỉ còn được xem xét dưới giác độ định lượng. Những câu hỏi thiết thân và đặc

trưng của con người bị gác lại, bị gạt bỏ khỏi các ngành khoa học thực chứng. Thế

giới chỉ được hiểu như “vũ trụ của các sự kiện đơn thuần” - các sự kiện vừa có

nghĩa, vừa vô nghĩa. Khoa học châu Âu rơi vào khủng hoảng, trong bối cảnh đầy

hiểm hoạ của nguy cơ phát xít và chiến tranh, Husserl đề xuất giải pháp quay lại

với Ý thức và những công năng “kiến tạo thế giới” của nó thông qua “tự nhận

thức” sâu sắc về chính mình.

Hiện tượng học thời hậu kỳ, Husserl đã có những thay đổi đáng kể. Nếu

“thiên kiến tự nhiên” chủ yếu được xem xét dưới góc độ phê phán thì với sự ra đời

của khái niệm “Thế giới sống”, nhãn quan Hiện tượng học có chiều cạnh mới.

“Thế giới sống” theo Husserl là “thế giới hiện thực cụ thể” là thực tại bao quanh

chúng ta và bao hàm chúng ta, là cơ sở tồn tại của chúng ta. Đây là thế giới kinh

nghiệm đang được trực giác, có quan hệ với tính chủ quan của kinh nghiệm và với

cuộc sống hàng ngày của cộng đồng người. Nó được đem lại trước và ngoài khoa

học. Tuy nhiên ý thức cùng với những “Hiện tượng” của nó vẫn là cái lăng kính

mà thông qua đó mọi thứ được khảo cứu. Nhận thức của chúng ta vẫn xuất phát từ

những tài liệu thô cảm tính, sau đó tổng hợp lại thành đối tượng nhận thức để rồi

mô tả lại trạng thái thật sự của tồn tại thông qua “Thế giới sống” – thế giới chủ

quan. Đồng thời “Thế giới sống” ấy lại là cơ sở cho những nhận thức đó. “Thế giới

sống” trở thành cơ sở cuối cùng cho hết thảy mọi tri thức khách quan, là cơ sở

36

tuyệt đối của thực tiễn khoa học, chính trị, lao động của con người. Trên cơ sở đó,

chúng ta không ngừng trừu tượng hoá mới rút ra được từ những yếu tố cảm tính cái

năng lực nhận thức cần thiết. Như vậy, thế giới hiện ra dưới lăng kính của các nhà

khoa học tự nhiên chỉ là một phần - phần thô cứng, đằng sau nó còn cả một “Thế

giới sống” cần được khai phá.

Cấu trúc cơ bản của “Thế giới sống” là tính lịch sử của nó. Thế giới sống

hiện ra với ta thông qua bộ mặt của truyền thống, lịch sử; là tổng hoà các mối quan

hệ xã hội. Thế giới này, một mặt có sắc thái nhân cách sâu sắc, mặt khác thể hiện

là môi trường của những sự vật. Căn cứ trên hai mặt này của thế giới tạo nên một

môi trường lý tưởng, sự đan xen phức tạp giữa những thực tại khách quan hoá của

văn hoá. Đây cũng là lối thoát của Hiện tượng học trong việc xác định cái Tôi siêu

nghiệm và cho thấy hoạt động kiến tạo của ý thức thuần tuý.

Khái niệm “Thế giới sống” là sự khởi đầu cho cách tiếp cận phương pháp

luận triết học mới - cách tiếp cận nhân học văn hoá, đặt nền móng cho bản thể luận

văn hoá. Với cách tiếp cận như vậy, “Thế giới sống” như thể là không gian văn hoá

cho sự hình thành nhân cách với tư cách chiếc chìa khoá để mở ra bí ẩn về cách

thức hiện hữu của thế giới trong ý thức cá nhân. Có thể coi Hiện tượng học là bản

thể luận ý thức, tức học thuyết về những cơ sở bản thể, tồn tại của ý thức.

Theo Hiện tượng học, con người tồn tại trong hai thế giới: thế giới vật thể

vật chất và “Thế giới sống” của con người. Trong khuôn khổ của “Thế giới sống”,

các “Bản chất” hiện ra dưới dạng các khái niệm, phạm trù. Thế giới vật chất vốn

hiện hữu khách quan trong các vật thể, và nhiệm vụ của chúng ta là nhận biết

những “Bản chất” tồn tại trong nó. Cuộc sống con người là sự hài hoà giữa thế giới

khách quan và “Thế giới sống”. Hiện tượng học không ngừng đòi hỏi: hãy nhân lên

những cảm nghiệm (“Thế giới sống”), hãy phát hiện ra những “Bản chất”, đừng

tách “Bản chất” ra khỏi những cảm nghiệm, hãy hành động phù hợp với kết quả

37

nhận thức Hiện tượng học của mình. Tất cả những đòi hỏi ấy mang đậm sắc thái

đạo đức, thuộc vào lĩnh vực “Lý tính thực hành” mà I. Kant đã từng nói. Những tai

hoạ của nhân loại ở thời văn minh công nghệ là hệ quả của cuộc khủng hoảng

trong các khoa học vốn dựa trên thành tựu của khoa học và triết học cận đại. Các

nhà khoa học khi đạt được những thành tựu quan trọng trong nhận thức “Bản chất”

các sự vật, đem lại vị thế tối quan trọng cho các ngành khoa học tự nhiên thì đồng

thời quên đi, tách rời “Thế giới sống” của con người. Khoảng cách giữa hai thế

giới được hình thành, không thể khoả lấp bằng những thành tựu khoa học mới.

Điều này chứng tỏ trong cuộc sống còn có một cái gì đó còn quan trọng hơn cả

những thành tựu đó. Đó là quy trình tạo dựng ý nghĩa ban đầu, trong đó con người

tự kiến tạo bản thân mình. Tư tưởng về tồn tại người của Husserl, trở thành tiền đề

quan trọng cho triết học hiện sinh sau này.

Có thể nói, Hiện tượng học Husserl đã khắc phục những khủng hoảng của

châu Âu ở phương diện đề xuất một cách tiếp cận mới, giàu sức thuyết phục đối

với vấn đề Ý thức. Với tiếp cận này, Ý thức trở về nguyên nghĩa bản thể của nó,

giúp con người lý giải nguyên nhân của những khủng hoảng, từ đó tạo tiền đề lý

luận cho việc khắc phục khủng hoảng.

1.3. Một số ý nghĩa và ảnh hƣởng của Hiện tƣợng học Husserl đối với

triết học phƣơng Tây hiện đại

Có thể nói, trong dòng chảy bất tận của lịch sử triết học, Hiện tượng học

Husserl là một màu sắc khác lạ, là một điểm nhìn mới mẻ nhưng đồng thời cũng là

mắt khâu quan trọng để lý giải và khắc phục những khủng hoảng của xã hội Châu

Âu giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Husserl xây dựng Hiện tượng học nhằm thiết lập một nền tảng lý luận vững

chắc về Ý thức, giúp con người gạt bỏ những “thiên kiến tự nhiên” trong nhận thức

của mình. Lập trường của Hiện tượng học là mô tả, chứ không giải thích hay phân

38

tích; khuynh hướng của Hiện tượng học là nhằm triển khai, mô tả sự xuất hiện của

đối tượng, sự hình thành của thế giới như ta thấy trong kinh nghiệm của ta. Hiện

tượng học là một triết học đặt các “Bản chất” tại nơi hiện hữu, nên nó là thứ triết lý

siêu nghiệm chủ trương “thế giới đã có rồi” trước khi con người phản tỉnh. Nỗ lực

của con người là tìm về nơi gặp gỡ giữa chủ thể với thế giới và xây dựng cho nó

một cơ sở triết học. Hiện tượng học là học thuyết về “Bản chất” của Ý thức. Nó

giúp nhận thức các “Hiện tượng” đúng như nó xuất hiện nơi ý thức.

Hiện tượng học đề xuất phương pháp mới khám phá “Bản chất” đối tượng.

Nó gác lại những thiên kiến sai lầm tìm ra luận điểm đáng tin cậy. Việc phát hiện

ra phương pháp quy giản Hiện tượng học giải quyết những khó khăn của lý luận

nhận thức khi sa vào thái độ tự nhiên. Phương pháp Hiện tượng học do Husserl

sáng lập cùng với các vấn đề mà ông đặt ra đáng để cho các thế hệ kế tiếp lưu tâm.

Nhiều trào lưu tư tưởng, trường phái triết học Pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc

bưởi tư tưởng Hiện tượng học Husserl. Chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Sartre đã

vận dụng một cách cụ thể và sáng tạo phương pháp Hiện tượng học. J. P Sartre kế

thừa tư tưởng về “Tính ý hướng” của Hiện tượng học. Ông lý giải nó như sau,

“Tính ý hướng - đó là cấu trúc cơ bản của mọi ý thức. Từ đó tất yếu sẽ nảy sinh sự

khác biệt căn bản giữa ý thức và cái được ý thức. Khách thể của ý thức, cho dù nó

có là gì đi chăng nữa (trừ trường hợp ý thức phản tư), về nguyên tắc, tồn tại bên

ngoài ý thức: nó mang tính siêu việt” [9, tr. 398]. Theo Sartre, nguyên tắc “Tính ý

hướng” là hình thức triết học duy nhất cho phép chúng ta ý thức được tính thực tại

khách quan và tính quy định của thế giới về ý thức. Điều này giúp ông lý giải được

thực tế rằng, những xung đột, mâu thuẫn của tồn tại người không thể khắc phục

được theo con đường mâu thuẫn trong lĩnh vực ý niệm. Đây là một cách tiếp cận

mới mẻ khắc phục tính trực quan trong nhận thức đồng thời mở ra thái độ thực tiễn

39

đối với cuộc sống.

Trên đất Đức, Hiện tượng học cũng hun đúc lên đội ngũ các nhà triết học

lớn: Heidegger, Nicolai Hartmann, Goeger Gadamer,… Họ là đại diệ tiêu biểu của

các lĩnh vực: nhân học triết học, triết học hiện sinh, chú giải học,… Mặc dù trong

tư tưởng của các vị này ít nhiều có những bất đồng với Husserl, nhưng Hiện tượng

học vẫn là cái gốc cho học thuyết của họ. Trong thế giới thuật ngữ triết học, ngoài

từ “Hiện tượng học” được dùng để chỉ tư tưởng Husserl, còn có cụm từ “trào lưu tư

tưởng Hiện tượng học” để chỉ các học thuyết theo Hiện tượng học. Những trào lưu,

học thuyết này tạo thành bộ phận chủ yếu của trào lưu tư tưởng nhân văn thế kỷ

XX. Triết học hiện sinh Heidegger, cũng kế thừa học thuyết về “Tính ý hướng”.

Với cách tiếp cận này, thế giới hình ảnh của khách thể sẽ biến mất chỉ còn lại duy

nhất một thế giới khách thể ý hướng.

Triết học Hiện tượng học còn có ý nghĩa to lớn, thúc đẩy sự phát triển các

lưu tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn đương đại. Nó mở ra bức tranh triết học sống

động, muôn màu muôn vẻ với nhiều những trường phái, trào lưu ở khắp nơi trên

thế giới.

Tiểu kết chƣơng 1

Trong tác phẩm “Khủng hoảng của các khoa học châu Âu và Hiện tượng học

siêu nghiệm”, Husserl đã viết: “Triết học là một môn khó học; là một khoa học

thực sự, nghiêm túc, được khẳng định, không thể nghi ngờ. Giấc mơ ấy đã đến hồi

kết” [11, tr. 219]. Quả tình, giấc mơ ấy đã đi theo ông hơn nửa đời người. Suốt

mấy chục năm ấy, ông chỉ tâm tâm niệm niệm về một khoa học Hiện tượng học là

một khoa học nghiêm túc, để có thể phản ánh bản thân sự việc một cách tuyệt đối

không sai sót. Husserl cũng ôm ấp cho Hiện tượng học như các triết gia thế kỷ

trước quan niệm trở thành khoa học của mọi khoa học, lý luận của mọi lý luận. Nó

là nền tảng, cơ sở cho việc nhận thức hết thảy mọi khoa học, phải bám sát vào

40

những lý luận, nguyên tắc của Hiện tượng học mới có thể có chân lý phổ biến

mang tính phổ quát, tất yếu. Theo Hiện tượng học thì chủ thể tiên nghiệm là cơ sở,

mấu chốt chi phối tất cả. Song, khi ông phát hiện ra thế giới cuộc sống phong phú

và rộng lớn, thì Hiện tượng học cũng đứng trước nguy cơ “phá sản”. Bởi lẽ, cái thế

giới ấy không lấy chủ thể tiên nghiệm làm cơ sở, thậm chí nó đã sẵn có trước mọi

thể nghiệm của ý thức và mọi hoạt động cấu trúc. Thế giới đó là nguồn tài nguyên

vô tận cảm tính, bất cứ chủ thể nào cũng phải cắm rễ trong đó, không ngừng giao

tiếp, không ngừng hỗ trợ cùng nhau họp thành giới tự nhiên, xã hội sinh động,

phong phú. Đến đây, tầm nhìn và phương pháp của triết học Hiện tượng học đã

không thể tìm kiếm hết ngọn nguồn của nó; các yêu cầu của Hiện tượng học với tư

cách là triết học của các khoa học nghiêm túc không thể thoả mãn nữa.

Trên cơ sở phân tích những vấn đề chủ yếu của Hiện tượng học Husserl, ta

thấy lập trường duy tâm chủ quan thể hiện rõ nét. Ông cho rằng đối tượng, khách

thể của nhận thức không tồn tại khách quan mà tồn tại chủ quan trong ý thức của

con người. Quan điểm này bộc lộ hạn chế nhất định trong vận dùng nhằm lý giải

những trường hợp cụ thể của thực tiễn. Trần Đức Thảo một trong số ít những

người đã tiếp cận trực tiếp với các tài liệu mà Husserl, qua đó có một cái nhìn

mang tính phê phán khoa học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

41

Vậy, ông đã tư duy như thế nào?

CHƢƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN ĐỨC THẢO ĐỐI VỚI HIỆN

TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL

2.1. Đôi nét về Trần Đức Thảo và những hƣớng nghiên cứu của ông

Về tiểu sử, Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ

Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình viên chức nhỏ.

Trần Đức Thảo vốn là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert

Sarraut (Hà Nội), từng đạt giải Nhì cuộc thi Triết học các trường trung học toàn

quốc Pháp. Năm 1935, sau khi đỗ xuất sắc tú tài, ông theo học Trường Luật Hà

Nội. Năm 1936, ông được gửi sang Pháp chuẩn bị thi vào Trường cao đẳng sư

phạm phố d' Ulm (Thủ đô Paris) - một trường nổi tiếng ở Pháp về truyền thống tư

tưởng tân tiến, văn hoá và khoa học hiện đại. Năm 1939, Trần Đức Thảo thi đỗ vào

trường này với số điểm cao. Đến năm 1945, ông tốt nghiệp thủ khoa, nhận học vị

thạc sĩ triết học về luận án “Phương pháp “Hiện tượng” luận của Husserl”.

Về các hướng nghiên cứu chính, các công trình của Trần Đức Thảo được

chia thành bốn nội dung lớn. Thứ nhất là sự phê phán Hiện tượng học Husserl trên

lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng (ông viết trong giai đoạn sống ở Pháp

1941 - 1951). Thứ hai là sự chuyển hoá trong tư tưởng Trần Đức Thảo từ lập

trường chủ nghĩa duy tâm biện chứng của Hegel sang lập trường duy vật biện

chứng của Marx, khẳng định vai trò của chủ nghĩa Marx trong việc nhận thức và

cải tạo thế giới. Thứ ba, những công trình nghiên cứu có thể được xếp vào chủ

nghĩa duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo (1966 - 1986). Đây cũng là một phần

của hệ vấn đề vẫn làm Trần Đức Thảo trăn trở từ thập niên 1940: ý thức, tư tưởng

xuất hiện như thế nào trong cuộc tiến hoá vĩ đại của tự nhiên đi từ vật chất, qua

sinh vật, lên nhân loại. Cũng chính ở mảng này, ông đã để lại một tác phẩm có tầm

vóc quốc tế nữa “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không con người” (1988).

42

Thứ tư, liên quan đến bản chất và sự hình thành con người, qua đó, ông cũng nêu

sơ đồ tiến hoá của lịch sử loài người, từ “xã hội cộng sản nguyên thủy” lên “xã hội

cộng sản khoa học”, thông qua sự chuyển biến của các phương thức sản xuất trung

gian.

Những đóng góp của Trần Đức Thảo nổi bật ở hai mảng nghiên cứu: thứ

nhất, về Triết học Marx; thứ hai ,về Hiện tượng học.

Đối với Triết học Marx, từ khi giác ngộ chủ nghĩa Marx đến khi về cõi vĩnh

hằng vào ngày 19/4/1993, thời gian cách nhau trên 40 năm, Trần Đức Thảo đã

dành toàn bộ thời gian làm cho triết học Marx trở nên “nhập thế”, gắn liền với đời

sống, với số phận con người, dân tộc mình. Ông có niềm tin sâu sắc rằng chủ nghĩa

Marx không phải là một lý thuyết giáo điều, mà phải là ngọn đuốc thực tiễn dẫn

đường cho cuộc cách mạng vô sản. Ông nhận thức sâu sắc khả năng lý giải các vấn

đề bản thể của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đóng góp lâu dài của Trần Đức Thảo

là một tư duy triết học thuần khiết. Điều này trước hết thể hiện năng lực trừu tượng

hoá cao, kế đó là khả năng biết đặt và giải quyết các vấn đề Triết học dưới ánh

sáng của những phát kiến khoa học mới bằng các phương pháp nghiên cứu liên

ngành [xem 34].

Với Hiện tượng học, Trần Đức Thảo không những là người am hiểu sâu sắc

mà còn phát triển nó ở một số phương diện. Bàn về Ý thức, Husserl và các nhà

Hiện tượng học quả thức đã tạo nên một “hệ sinh thái” các khái niệm phong phú,

sâu sắc. Tuy nhiên, với Trần Đức Thảo, ông đặt câu hỏi: “Nhưng ý thức do đâu mà

có?”. Với Husserl, Ý thức có vẻ tồn tại sẵn, sự sinh thành, vận động của nó đã

được “an bài” ở đâu đó. Vấn đề còn lại chỉ là tìm hiểu xem Ý thức làm thế nào để

đạt tới tri thức đích thực, không thiên kiến. Khác với thầy mình và các đồng

nghiệp, Trần Đức Thảo muốn tìm hiểu nguồn gốc sinh thành của Ý thức. Trong

những năm 40 - 50 thế kỷ trước, ông lờ mờ nhận ra Hiện tượng học còn thiếu cái gì

43

đó rất căn bản làm nền tảng, mà nếu không tìm được lời giải thỏa đáng thì sẽ dẫn

đến sự sụp đổ vào bất kỳ lúc nào của nó. Trên đường tìm kiếm, ban đầu, một cách

ngẫu nhiên, ông đã gặp Chủ nghĩa duy vật biện chứng và tìm hiểu nó. Nhưng phải

phải đến nửa cuối những năm 60 - đầu những năm 70, câu trả lời về nguồn gốc của

Ý thức trong ông mới trở nên sáng rõ, là lý do trực tiếp ông để ông viết tác phẩm

“Tìm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức”. Từ đây, ông không chỉ tự giác đứng trên

lập trường duy vật biện chứng mà còn phát triển học thuyết này ở một số phương

diện mới.

2.2. Lập trƣờng nhìn nhận Hiện tƣợng học Husserl của Trần Đức Thảo

2.2.1. Chủ nghĩa duy vật ở Trần Đức Thảo

Với động cơ ban đầu tìm kiếm nguồn gốc của Ý thức, Trần Đức Thảo đã tìm

đến Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nhưng học thuyết này không chỉ nói về điều

đó. Nó còn nói đến những nội dung khác, quan trọng hơn, lớn lao hơn, đến mức

khiến Trần Đức Thảo dám từ bỏ điều mình đã dày công theo đuổi. Ông viết: “được

đào tạo Hiện tượng học, việc lựa chọn chủ nghĩa Marx đã tạo nên ở tôi yêu cầu bỏ

Hiện tượng học kép của cả Hegel và Husserl khỏi hình thức duy tâm và các yếu tố

siêu hình của nó, để sử dụng những gì còn có giá trị phục vụ cho chủ nghĩa duy vật

biện chứng, tìm ra một giải pháp tính khoa học cho vấn đề tính chủ quan” [29, tr.

18]. Đáng nói là, Chủ nghĩa Marx tại thời điểm đó bị đánh giá là học thuyết mang

tính giáo điều và thấm đẫm chủ nghĩa sùng bái cá nhân, nhưng Trần Đức Thảo vẫn

lựa chọn. Trong quá trình nhận thức chủ nghĩa duy vật biện chứng, Trần Đức Thảo

thậm chí rơi vào bế tắc. Chương hai tác phẩm “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy

vật biện chứng” (1950), Trần Đức Thảo thể hiện rõ mong muốn cải cách triết học

của mình theo con đường duy vật. Tuy hiểu đúng phương pháp biện chứng, nhưng

ông lại quên phải đặt vấn đề trong thực tiễn. Điều này khiến cố gắng của ông, khi

khi muốn trung hoà đặt Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng trở nên

44

“thất bại”, rơi vào nhị nguyên luận ít hay nhiều mang tính duy tâm.

Bế tắc của Trần Đức Thảo chỉ được tháo gỡ khi tiếng vang của Đại hội lần

thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô đã tác động đến ông cùng với sự kiện quay về

Việt Nam tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bầu

không khí của công cuộc đổi mới đã giúp ông hiểu sâu sắc luận giải của Marx về

nguồn gốc của việc chiếm đoạt sở hữu cộng đồng, về thái độ của người sản xuất

đối với cộng đồng, với cơ sở lao động và phương thức lao động của mình. Mối

quan hệ giữa sản xuất và sở hữu - nền tảng cho sự tiến hoá của lịch sử - chỉ có thể

được làm sáng tỏ thông qua quá trình sống trải trong chính thực tiễn sản xuất. Đến

đây, Trần Đức Thảo đã thể hiện rõ lập trường của mình khi gắn phương pháp biện

chứng với thực tiễn xã hội. Ông đã biến Hiện tượng học siêu nghiệm của E.

Husserl thành Hiện tượng học thực tiễn với một phương pháp mới, đồng thời đánh

dấu sự kết thúc nghiên cứu Hiện tượng học.

Với nền tảng Hiện tượng học, cùng lập trường duy vật biện chứng, Trần Đức

Thảo đã có những suy tư giá trị, góp phần bổ sung, làm phong phú hơn triết học

Marx. Chẳng hạn, trong vấn đề vật chất - ý thức, ông giải thích sâu sắc hơn mối

quan hệ này thông qua nghiên cứu cội nguồn của ngôn ngữ. Như Friedrich Engelss

đã nói “trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ,

đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con người, làm cho bộ

óc đó dần dần chuyển thành bộ óc của con người” [23, tr. 646], Trần Đức Thảo tập

trung vào nghiên cứu ngôn ngữ. Ngôn ngữ, theo Trần Đức Thảo, là “tín hiệu học

của đời sống hiện thực trong lao động sản xuất”. Là tiếng nói bên trong của ý thức,

nhưng nội dung của ngôn ngữ không phải là những ý niệm viển vông, mơ hồ đâu

đó, mà gắn liền với đời sống thực. Ý thức về Chân – Thiện – Mỹ là thực và có cơ

sở. Tất cả điều này là vì ngôn ngữ, ý thức gắn liền với lao động.

Lập trường duy vật biện chứng cũng giúp Trần Đức Thảo nhìn rõ hơn tính

45

vật chất của đời sống ý thức – đối tượng trung tâm của Hiện tượng học. Dù đã xây

dựng một “hệ sinh thái” các khái niệm về “Ý thức”, Hiện tượng học vẫn không thể

chỉ ra tính mục đích cuối cùng của Ý thức là gì. Thế giới Ý thức hay ho, đẹp đẽ là

vậy, nhưng để làm gì, nếu nó không gắn với hoạt động thực tiễn, vật chất của con

người. Điểm trống của Hiện tượng học chính là nó không nhìn thấy tính biện

chứng sống động của đời sống hiện thực, sống động như Trần Đức Thảo mô tả

trong “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”: “thực tại, với tư cách là

phép biện chứng, là sự vận động như thế, trong từng phương thức tồn tại, những sự

biến đổi của trật tự nhân quả, do chính cấu trúc của phương thức ấy quy định, qua

chính sự phát triển nội dung của nó, tất yếu dẫn đến việc tạo lập một phương thức

mới: hấp phụ phương thức trước đây và duy trì nó như là cái bị thải hồi, được bảo

lưu, bị vượt bỏ” [31, tr.713]. Từ đó, Trần Đức Thảo nhận định: “Hiện tượng học

chưa nhìn ra được tính vật chất của đời sống cảm tính nên mục đích của công cuộc

Hiện tượng học nhằm “đặt triết học “trên con đường vững chắc của khoa học”,

nghịch lý thay lại kết thúc trong một thuyết tương đối có tính duy cảm luận. Với

nó, truyền thống vĩ đại của thuyết duy tâm duy lý luận đi đến sự cáo chung” [31, tr.

700].

Lập trường duy vật biện chứng cũng cho Trần Đức Thảo một cái nhìn sâu

sắc về vấn đề chủ thể nhận thức. Ông cho rằng sự phân tích duy tâm từ lâu đã phát

hiện rằng mọi ý thức đều bao hàm hoạt động của chủ thể, nhưng nó chỉ được dùng

như là cỗ máy chống lại chủ nghĩa duy vật bằng cách phủ định tính hiện thực của

đời sống con người hiện thực. Trong sự Tồn tại của cái Tôi, mọi sự phốc động,

sinh động của đời sống hiện thực bị biến thành cái chết cứng, vô hình, bị đè nén,

chèn ép. Chỉ còn lại đó cái “linh hồn”, cái Ý niệm tuyệt đối, lang thang như cơn

gió vô định, không mục đích, song lại tưởng là toàn bộ tồn tại. Dù Ý thức có sống

trải phong phú như thế nào, dù sự tự ý thức về cái Tôi có phong phú bao nhiêu, thì

46

nó vẫn mãi là chật hẹp, phiến diện, bởi nó được bao bọc trong thế giới tinh thần đã

thoát khỏi, xa rời hiện thực. Theo nghĩa đó, chủ thể vẫn chưa phải là chủ thể, vì

chưa được làm chủ chính mình. Tư thế ấy chỉ xuất hiện, tồn tại khi Ý thức hay cái

Tôi được đặt vào đời sống vật chất, lao động.

Có thể nói, lập trường duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo mang màu sắc

riêng, bởi nó được nghiên cứu, suy tư trong mối tương quan với nền tảng Hiện

tượng học. Đây chính là điểm độc đáo của Trần Đức Thảo, cho phép ông không

chỉ phê phán đúng Hiện tượng học, mà còn “vượt bỏ” nó ở một số điểm.

2.2.2. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Bản chất” trong Hiện tượng học

Husserl

Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Bản chất” trong Hiện tượng học, theo

chúng tôi, có ba điểm chính.

Thứ nhất, về động lực của nghiên cứu “Bản chất”. Đồng ý với quan điểm

của Husserl “Hiện tượng học là khoa học về “Bản chất”, song khác với Husserl,

Trần Đức Thảo cho rằng động lực nghiên cứu “Bản chất” ấy không phải chỉ để “tỏ

tường” cơ cấu hoạt động của Ý thức, mà “động lực đích thực của các nghiên cứu

“Bản chất” (eidétiques) buộc ta phải quay trở lại với cái hiện thực” [31, tr. 451],

nghĩa là “Bản chất” trong Hiện tượng học có nguồn gốc sâu xa từ hiện thực.

Thứ hai, về mối quan hệ giữa “Bản chất” và “Sự kiện”. Mục đích của

Husserl khi nghiên cứu “Bản chất” chính là tìm hiểu cách thức đạt tới tri thức phổ

quát, tất yếu. Nhưng ngay từ đầu, ông đã cho rằng một tri thức như thế không thể

gắn với những “sự kiện” cảm tính, biểu thị cái gì khả hữu. Sự phân biệt về hai loại

tri thức đó là đúng, song việc tách rời chúng lại là một sai lầm. Đối với Husserl

Hiện tượng học luôn nắm bắt “Bản chất” bằng “sự trừu tượng ý thể hoá” từ những

thực thể cá biệt thông qua quy giản hiện tượng học. Bản chất có tính phổ quát

47

nghiêm ngặt, không giới hạn, khác với sự tổng quát hoá hay khái quát hoá dựa trên

các quy luật tự nhiên. Sự quy giản chỉ có nhiệm vụ vạch rõ nội dung của khái niệm

trong khi loại bỏ mọi quan hệ với cái hiện hữu. Nhưng theo Trần Đức Thảo, muốn

hiểu được giá trị tổng hợp tiên nghiệm những quy luật của “Bản chất” phải quy lại

tận gốc của cái khả hữu, mà xét đến cùng chính là bản thân của hiện thực, trong

chừng mực được phơi bày trong ý nghĩa của nó.

Với các nhà Hiện tượng học, “Bản chất” là độc lập với cái hiện thực, không

phải là chúng nằm ở bên ngoài nó mà bởi chúng đi trước cái hiện thực và mang lại

ý nghĩa cho cái hiện thực ấy. Nguyên nhân do đâu mà lại đẩy các nhà Hiện tượng

học theo con đường nghiên cứu đó? Trần Đức Thảo cho rằng bởi họ đã quá đề cao

phương pháp mà mình theo đuổi. Sự vượt mặt của phương pháp với việc xác định

đối tượng, để rồi mọi phân tích “Bản chất” tồn tại phát hiện ý nghĩa thực sự của nó

đều quy chiếu đến cái tôi, chịu sự chi phối bởi ý thức của tôi.

Thứ ba, Trần Đức Thảo cũng đồng tình với câu khẩu hiệu “quay trở lại với

bản thân sự vật” của Husserl song cách làm của Husserl thì có thật sự “bóc trần”

được “Bản chất” của đối tượng. Hiện tượng học là một sự thanh tân đáng kinh

ngạc, là một sáng tạo mới mẻ. Sự độc sáng ấy thể hiện ở chính phương pháp quy

giản hiện tượng học. Nhưng phương pháp ấy cũng thể hiện ra những điểm bất cập

khi khái niệm “Thế giới sống” ra đời. Chính Husserl cũng phải giật mình thảng

thốt rằng “nếu thế giới (mondain) là tất cả những gì có trước việc quy giản siêu

nghiệm,thì, qua việc quy giản ta đã thật sự di ra khỏi thế giới” [31, tr. 456]. Còn

Trần Đức Thảo lại khác, ông cho rằng việc nghiên cứu và hiện thực hoá “Bản chất”

là bước đầu tiên đối với triết học và những khó khăn do triết học đặt ra phải đòi hỏi

có sự vượt bỏ biện chứng. Việc khám phá ra chân lý triết học cơ bản này là rất

quan trọng, rằng cái đang hiện hữu tiền giả định ý nghĩa sự tồn tại của nó trong

chính bản thân nó. Vì thế, triết học đã bắt đầu bằng cách khẳng định rằng sự vật

48

đẹp chỉ hiện hữu thông qua vẻ đẹp tự thân chứ không phải từ thế giới ý niệm kiểu

Plato hay tồn tại siêu nghiệm kiểu Kant hay Husserl. Từ đó, vấn đề đặt ra không

còn là sự phân biệt giữa cái thường nghiệm và cái “Bản chất” nữa, bởi bất kỳ khái

niệm nào - được nắm bắt trong chính nó đều biểu thị một cái “Bản chất”. Trong

thực tế, việc tìm kiếm “Bản chất” đích thực không nằm ở đâu xa lạ mà ở trong

chính cái hiện thực.

Như vậy, Trần Đức Thảo đồng ý với những luận điểm mà Husserl đưa ra khi

tìm hiểu về “Bản chất”, song cách làm của Husserl thì vẫn còn đó những mâu

thuẫn, hạn chế so với luận điểm ban đầu. Xét đến cùng, Husserl vẫn không xác

định được điểm khởi đầu khi nghiên cứu vấn đề “Bản chất” là xuất phát từ chính

cái hiện thực mặc dù trong các nghiên cứu của mình ông đã manh nha chỉ ra điều

này. Nhiệm vụ của Trần Đức Thảo là phát hiện ra nó và sử dụng một phương pháp

toàn diện hơn để khắc phục những hạn chế mà Husserl gặp phải.

2.2.3. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Tính ý hướng” trong Hiện tượng

học Husserl

Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Tính ý hướng” trong Hiện tượng học,

theo chúng tôi, tập trung ở bốn điểm chính.

Thứ nhất, về cơ bản ông đồng tình với khái niệm “Tính ý hướng” và hiểu rõ

lịch sử vận động của khái niệm này. Thực vậy, “Tính ý hướng” là một khái niệm

quan trọng của Hiện tượng học, khởi đầu từ Brentano khi cho rằng mỗi hiện tượng

tâm lý đều được đặc trưng bởi sự hiện hữu có chủ đích. Trong khi bản thân

Brentano đề cập đến mối tương quan của “Hiện tượng” tâm lý với đối tượng bên

ngoài, thì Husserl lại tránh nói tới “tính hiện hữu” của đối tượng ý thức, và tránh cả

đề cập tới các “hoạt động” của ý thức nhằm thiết lập sự tương quan giữa các đối

tượng. Đối với Husserl, mọi đối tượng được nhắm tới đều mang tính tư tưởng và

thuộc về các “Hiện tượng”. Husserl nhấn mạnh ý thức là ý thức về một cái gì đó

49

trong bản thân nó, ý thức còn đòi hỏi cái gì khác với bản thân nó, nghĩa là đối

tượng mà nó nhắm tới. Husserl luôn hướng tới trung tâm, nơi mà chủ thể và khách

thể tỏ ra là không thể tách rời nhau. Ông đưa ra hai khái niệm đối tượng ý hướng

và hành vi ý hướng, mối quan hệ ràng buộc không thể tách rời giữa chúng nhằm

biện giải cho mong muốn của mình.

Thứ hai, Trần Đức Thảo tập trung vào vấn đề “Chức năng tạo dựng của ý

thức” – một quan điểm được Husserl xây dựng vào lúc cuối đời. Ý thức không chỉ

hướng một cách có chủ đích vào đối tượng mà nó nhận thức, đồng thời nó còn có

khả năng kiến tạo một cách năng động ý nghĩa cho chính mình.

Theo Husserl, thời gian thực sự không phải là thời gian được phân định bởi

cái đồng hồ như Aristotle từng tuyên bố trong định nghĩa nổi tiếng của ông: “Thời

gian là sự đo lường chuyển động, diễn ra từ thời điểm trước đến thời điểm sau”

[trích theo 8, tr. 614] mà được xác định bởi ý thức. Đó là thời gian mang tính

“Hiện tượng”. Husserl cho rằng cái hiện tại sống động phải là hiện thực của những

khoảnh khắc đang chuyển động, đã từng chuyển động trong quá khứ và sẽ tiếp tục

chuyển động trong tương lai. Cả ba cái này đều được phác hoạ trong sự phóng

chiếu vào tương lai, diễn ra một cách có chủ ý vào một thời điểm luôn vận động.

Đồng tình với điều này, Trần Đức Thảo cho rằng thời gian không chỉ được hiểu là

thời gian vật lý, mà còn là thời gian “Hiện tượng”, do đó phản ánh lịch sử một cách

chân xác. Thời gian hiểu theo nghĩa như thế làm cho lịch sử trở thành phép đo

lường về nhân tính với tất cả sự phong phú của các quan hệ của đời sống hiện thực,

một lịch sử phốc động, chứ không chết cứng, đã trừu tượng đi các quan hệ nhân

quả tuyến tính. Trần Đức Thảo viết: “Vào mỗi khoảnh khắc khi cá nhân tính mang

tính sinh học trỗi dậy như một hệ thống chức năng được thừa hưởng từ quá khứ,

mọi sự thừa hưởng được hình thành dựa trên sự lắng đọng trong quá khứ của nó và

vẫn được hiện thực giữ lại và tiếp tục hoà trộn với cái bây giờ, thì cá nhân mang

50

tính sinh học ấy sẽ kích thích quá trình chuyển hoá chức năng trong tương lai”

[trích theo 4, tr. 1125]. Đây là luận điểm triết học rất quan trọng của Trần Đức

Thảo, có ý nghĩa trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hoá, đặc biệt là khi nhiều quốc

gia đang phải sống trong sự chia rẽ, hận thù bởi các di sản quá khứ.

Thứ ba, đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, Trần Đức Thảo còn nhìn

thấy tính logic – lịch sử trong Ý thức. Ví dụ, một đứa bé trở thành một thanh niên

rồi từ một thanh niên trở thành một người đứng tuổi, thì những giá trị sống của thời

thơ ấu luôn luôn được giữ lại phát triển thành những giá trị của thời trưởng thành.

Cứ như thế, khi nó trở thành người trưởng thành đứng tuổi, thì những giá trị của

thời thơ ấu không bị chôn vùi trong quá trình phát triển. Quan điểm này rất quan

trọng, bởi mỗi sự vật, “Hiện tượng” trong quá trình phát triển luôn giữ lại những

giá trị tinh tuý của quá khứ. Nếu một sự vật, “Hiện tượng” trong quá trình phát

triển không hồi đáp lại những giá trị của thời quá khứ thì trước hay sau sự vật,

“Hiện tượng” ấy tự nó sẽ sụp đổ. Mỗi khoảnh khắc trong hiện thực đều hàm chứa

quá khứ, thống nhất với tương lai. Quan điểm về thời gian của Trần Đức Thảo

mang tính duy vật vì mỗi khoảnh khắc được tạo thành bởi chính sự phát triển của

sự vận động sự vật, “Hiện tượng”. Đồng thời, quan điểm ấy, cũng mang tính biện

chứng, bởi mỗi khoảnh khắc không phải là một cái gì cố định mang tính hư vô như

là cái tiền định, mà cái khoảnh khắc hiện tại chính là quá trình phủ định của phủ

định liên tục xảy ra trong lịch sử.

Thứ tư, Trần Đức Thảo quan tâm tới nội dung ý thức kiến tạo nên tha nhân

của Hiện tượng học. Theo Husserl, “tha nhân” với tư cách là “một cái tự ngã”, sẽ

không bao giờ tồn tại trong tôi được, nên tôi không thể lĩnh hội được điều gì về nó

hết. Tuy nhiên, do “Tha nhân” được cấu tạo dựa trên những đặc điểm giống tôi,

đặc biệt ở năng lực nhận thức, nên tôi có thể hiểu được “tha nhân”. Những con

người nhận thức này quy định lẫn nhau bằng cách làm cho mình hiểu nhau. Trên

51

thực tế, họ không ngừng tác động lẫn nhau để chứng minh sự tồn tại của bản thân

mình. Trong những hành động tương hỗ này mỗi bên hành động dựa vào việc mình

là một chủ thể và đối tượng mình tác động vào cũng là một chủ thể không thua

kém gì. Tuyệt nhiên, đây không phải là mối quan hệ nhân quả thay thế cho nhau

một cách cơ giới mà tồn tại với tư cách là một nhân cách, thúc đẩy người khác thực

hiện hoạt động. Vì thế, Trần Đức Thảo phát hiện ra sự cấu tạo được đặt trong

những nghịch lý. “Làm sao cái tôi của tôi, bên trong sự riêng biệt của nó lại có thể

cấu tạo nên “cái tôi khác” bằng một cách nào đó. Bởi nó là một cái xa lạ đối với

người khác, nghĩa là làm sao quy cho nó ý nghĩa hiện hữu, đặt nó bên ngoài nội

dung cụ thể “của bản thân cái tôi cụ thể” này, là cái cấu tạo nên nó” [32, tr. 526].

Trong những tác phẩm sau này của mình, khi đã vững vàng trên lập trường chủ

nghĩa duy vật biện chứng, tìm được tận cùng nguồn gốc của ý thức thì Trần Đức

Thảo đã giải quyết triệt để nghịch lý này. Chỉ trong lao động, khi con người biết

phản tư về chính bản thân mình khi ấy ý thức mới xuất hiện. Để hiểu được “Bản

chất” của ý thức, phải xuất phát từ đời sống hiện thực của con người để lý giải ý

thức, tư tưởng của họ chứ “không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong

lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó

mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt”, đồng thời “việc sản xuất ý niệm,

các biểu tượng, ý thức trước hết dược quấn vào nhau trong các hoạt động vật chất

và các quan hệ vật chất của con ngườicủa con người trong ngôn ngừ của hiện thực

đời sống. Biểu tượng, tư duy các quan hệ tinh thần của con người còn xuất hiện ở

đây như sự toả phát trực tiếp của hành vi xử sự vật chất của họ” [21, tr. 37 -38].

Thứ năm, Trần Đức Thảo quan tâm đến “Thế giới sống” của Hiện tượng

học. Hậu kỳ Hiện tượng học của mình, Husserl đưa ra khái niệm “Thế giới sống”

trên tinh thần “cấu tạo thế giới” dựa trên các dữ kiện cảm tính, vận động. Trần

Đức Thảo không đồng tình với những mô tả của Husserl về “thế giới nguyên sơ,

52

triển khai với sự đắc ý rõ rệt về những toạ độ cảm tính - vận động, khiến không

còn nghi ngờ rằng “chủ thể siêu nghiệm” do Hiện tượng học đề ra không được

đồng nhất với con người bằng xương bằng thịt đang phát triển, tiến hoá trong thế

giới hiện thực” [31, tr. 425]. Theo đó, với Trần Đức Thảo, chủ thể siêu nghiệm

phải được thay thế bằng chủ thể hiện thực. Từ lúc ấy trở đi, ta cần xét lại Hiện

tượng học, vẫn có ngoại lệ mà Husserl dành cho Hiện tượng học về “vật” (Ding).

Kỳ cùng, tận nền móng của mọi thực tại khác, ta tìm thấy thực tại tự nhiên, và như

thế, Hiện tượng học về tự nhiên vật chất, không nghi ngờ gì nữa, giữ vị trí ưu tiên.

Trần Đức Thảo nhận xét “sự trở thành hiện thực của vật chất đi tới sự sống, và từ

sự sống đi tới tinh thần, hiểu như tồn tại xã hội” [31, tr. 427].

Để phân tích “Thế giới sống”, Trần Đức Thảo đã đặt nó trong dòng chảy

thời gian, nối dài từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại đổ về phía tương lai. Có thể

nói, lý thuyết về “Thế giới sống” là một sáng tạo lớn, độc đáo của Trần Đức Thảo,

đã phản ánh đúng hiện thực của sự vận động của thế giới khách quan, đồng thời

xây dựng quan điểm đúng đắn về thời gian, về các khoảnh khắc của khoảnh khắc

để con người có thái độ khách quan với lịch sử và đối với chính bản thân mình. Từ

đó, con người có thể sử dụng cái quá khứ bền vững nhằm xúc tiến giải quyết các

vấn đề hiện tại đặt ra, luôn có xu hướng tiến bộ vì sự phát triển, hạn phúc tự do của

con người.

Thông qua việc phân tính “Thế giới sống”, Trần Đức Thảo nhận thấy những

phân tích ý hướng - lịch sử ở giai đoạn hậu kỳ của Hiện tượng học Husserl, tuy rất

giàu những gợi ý, nhưng lại đáng thất vọng vì sự lẻ tẻ và thiếu nội dung hiện thực.

Theo ông, cuối cùng, thực tại vật chất mới là cơ sở tối hậu cho những hình thái

được cấu tạo. Tính vật chất là “hình thức căn nguyên bao giờ cũng hiện diện của sự

vận động đã nâng nó lên thành sự sống và ý thức” [31, tr. 699]. Tính vật chất trong

quan niệm của Trần Đức Thảo được hiểu như khái niệm bao trùm về tổng thể

53

những hình thức khác nhau của tồn tại (trong khuôn khổ của thuyết nhất nguyên

duy vật). Ông cũng khẳng định rằng “Ta không rơi trở lại vào trong thuyết duy tâm

tầm thường, mà “sự giới hạn riêng biệt của nó nằm trong việc nó không có trong

việc nó không có khả năng thấu hiểu được vũ trụ như một tiến trình - như là vật

chất đang phát triển trong một tiến trình lịch sử”. Trái lại, chúng ta kết thúc với chủ

nghĩa duy vật biện chứng như là sự thật hay chân tướng (verité) của thuyết duy tâm

siêu nghiệm” [31, tr. 699].

2.2.4. Quan điểm của Trần Đức Thảo về phương pháp quy giản Hiện tượng

học

Phương pháp quy giản Hiện tượng học là phương pháp đặc thù, mới mẻ dựa

trên các đặc trưng về “Tính ý hướng” của ý thức để gác lại, gạt bỏ những thiên

kiến, dọn đường dẫn tới phân tích các “Hiện tượng” thuần tuý.

Theo Trần Đức Thảo, quy giản Hiện tượng học không phải là phương pháp

phủ định đơn giản, trái lại nó bóc trần đời sống cụ thể của ý thức thuần tuý trong sự

tồn tại tuyệt đối của nó. Quy giản Hiện tượng học cũng không phải là phương pháp

suy luận logic mà chính là một sự nhận thức (trực giác) thực tế đã trải nghiệm: ý

thức nhìn vào bản thân nó để làm rõ những nội dung vốn trước đây chỉ là cái được

sống trải chưa được tri giác, ý thức quay trở lại “từ bỏ thế giới để quay trở lại với

chính bản thân mình”. Đồng ý với Husserl về mặt ý tưởng dùng phương pháp quy

giản Hiện tượng học để đạt tới nhận thức chân lý, nhưng Trần Đức Thảo nhấn

mạnh sự tồn tại của thế giới vật chất tự nó. Tuy thế, ông vẫn hết lời ca ngợi cho

phương pháp độc đáo của Husserl khi đi tìm giải pháp cho vấn đề của phép duy lý

trong hành vi hiện thực của chủ thể cá biệt. Đời sống tinh thần không phải là sự từ

bỏ cái tôi, nhường chỗ cho những chuẩn mực cao hơn; trái lại, vượt bỏ “Bản chất”

là sự vượt bỏ chính mình, là sự vĩnh cửu của ý niệm không có ý nghĩa nào khác

54

ngoài việc là kết quả hành vi sống trải của chính mình.

Những phân tích của Trần Đức Thảo tại thời điểm này thể hiện rõ ràng mong

muốn của ông đặt Hiện tượng học bên cạnh chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính

điều này đã khiến cho ông rơi vào thuyết nhị nguyên, chưa thoát ra được vòng luẩn

quẩn của thuyết duy tâm siêu nghiệm trong nội dung Hiện tượng học.

Những phân tích trên đây là quan điểm chính của Trần Đức Thảo về một số

khái niệm cơ bản của Hiện tượng học Husserl. Khi viết tác phẩm “Hiện tượng luận

và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, Trần Đức Thảo cũng thẳng thắn thừa nhận một

sự diễn giải trong điều kiện của tệ sùng bái cá nhân đã đặt nội dung duy tâm siêu

nghiệm của Hiện tượng học cạnh nội dung mang tính duy vật một cách vô vọng, nó

đã mở đường cho việc quay lại với nhị nguyên luận duy tâm. Chính vòng luẩn

quẩn ấy đôi khi đã làm chùn bước nhà triết học kiệt xuất của Việt Nam. Trở về

Việt Nam theo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, ông đã phát hiện ra rằng muốn thoát

ra được vòng luẩn quẩn ấy phải tối thiểu hoá vai trò của Hiện tượng học thậm chí

là khước từ nó, để rồi cho ra đời “Tìm cội nguồn ngôn ngữ ý thức” (1973) với

những kiến giải về nguồn gốc, “Bản chất” của ý thức trên lập trường triết học hoàn

toàn mới - chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.

2.3. Sự “vƣợt bỏ” của Trần Đức Thảo với Hiện tƣợng học Husserl

2.3.1. Quan điểm của Trần Đức Thảo về nguồn gốc và bản chất của ý thức

Khi Husserl phát hiện ra thế giới cuộc sống phong phú và rộng lớn thì hệ

thống nghiên cứu Hiện tượng học của ông lung lay mạnh mẽ. Muốn nắm bắt thế

giới ấy một cách chính xác, phải đặt nó trong tiến trình lịch sử. Việc này đòi hỏi

một phương pháp nhận thức mới. Giấc mơ kéo dài mấy chục năm mà Husserl theo

đuổi về một khoa học nghiêm túc cuối cùng cũng phá sản. Lối thoát nào cho Hiện

tượng học Husserl đây? Trần Đức Thảo cũng đã từng phải vật lộn, luẩn quẩn với

điều đó. Nhưng khi ông bắt gặp một triết thuyết cùng với phương pháp đúng đắn

55

thì mọi nghịch lý đã được giải quyết.

Xoay quanh vấn đề nguồn gốc, bản chất của ý thức có nhiều cuộc tranh luận

nảy lửa diễn ra giữa các học thuyết duy vật và duy tâm. Nó là vấn đề cơ bản của

triết học. Trần Đức Thảo đã luận giải vấn đề này dựa trên nhiều tài liệu khoa học

đương thời, đồng thời tham gia luận chiến với các triết gia khác để khẳng định lập

trường triết học duy vật biện chứng của mình. Qua đây, chúng ta thấy được những

sự chuyển hoá trong tư tưởng của Trần Đức Thảo đối với Hiện tượng học Husserl.

Thấm nhuần phương pháp luận biện chứng duy vật, Trần Đức Thảo đã đặc

biệt áp dụng thành công phương pháp thống nhất lịch sử - logic trong nghiên cứu

nguồn gốc và bản chất của ý thức. Chính việc áp dụng phương pháp này đã giúp

ông xác định được chính xác điểm khởi đầu nghiên cứu - công việc khó khăn nhất

với mọi nghiên cứu khoa học. Trần Đức Thảo đã tìm ra được động tác chỉ dẫn

chính là hình thức gốc của ý thức chính là điểm khởi đầu trong nghiên cứu ý thức

của ông. Trần Đức Thảo cũng thành công khi áp dụng kết hợp phương pháp cổ

sinh học và bào thai học để xác định thời điểm cho sự sinh thành ý thức. Ông đã

xác định đó là giai đoạn “dự thành nhân” tức là vượn người.

Về vấn đề nguồn gốc của ý thức, thứ nhất, Trần Đức Thảo đã phát hiện ra

rằng hình thức gốc này của ý thức ra đời trong lao động tập thể thích nghi và được

phát triển từ trình độ vượn người. Hành trình tìm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức

của Trần Đức Thảo cho chúng ta hình dung về quá trình phát sinh loài, phát sinh cá

thể thông qua nghiên cứu cử chỉ, ngôn ngữ trẻ nhỏ và tư liệu về người tiền sử. Trần

Đức Thảo nhấn mạnh “cũng giống như lịch sử của phôi thai con người trong bụng

mẹ chỉ biểu hiện một sự lặp lại thu ngắn lịch sử hàng triệu năm phát triển về thể

chất các động vật tổ tiên của chúng ta bắt đầu từ con giun, thì sự phát triển của đứa

trẻ cũng là sự lặp lại” [29, tr. 30]. Ông phân tích và cho rằng để hình thành hành vi,

ý thức con người phải trải qua nhiều giai đoạn từ động vật cấp thấp đến động vật

56

cấp cao, từ vượn người thành người vượn rồi thành người. Nó cũng tương tự sự

phát triển của một đứa trẻ từ lúc hình thành bào thai cho tới lúc trưởng thành. Điều

này hoàn toàn mới lạ so với ý thức siêu nghiệm trong nội dung Hiện tượng học, thế

giới tự nhiên, xã hội chịu sự chi phối của nó.

Thứ hai, khi đề cập tới nguồn gốc của ngôn ngữ trên lập trường của chủ

nghĩa duy vật biện chứng Trần Đức Thảo nhận thấy ý thức không được nhìn nhận

như là sản phẩm bất kỳ “sự cấu thành mang tính tiên nghiệm” nào. Thay vào đó, ý

thức được phân tích, luận giải thông qua sự nghiên cứu công phu nhân chủng học

bắt đầu từ sự xuất hiện đầu tiên của đời sống con người trong tiến trình chọn lọc tự

nhiên, thích nghi của con người với môi trường xã hội và tự nhiên của mình. Dựa

trên sự phân tích của Trần Đức Thảo, có thể phân chia ra làm ba phần: (1) nguồn

gốc của ý thức từ cấp độ cảm giác - vận động của cơ chế tâm thần động vật; (2) sự

phát triển của ý thức thông qua quá trình lao động tập thể và chế tác công cụ lao

động; (3) nguồn gốc của tiếng nói.

Mục đích phân tích của Trần Đức Thảo về sự phát triển của ý thức để thấy

mối quan hệ gắn bó chặt chẽ của ý thức với sự phát triển của điều kiện vật chất

trong sinh hoạt của con người. Ý thức không chỉ có quan hệ trực tiếp với thế giới

hiện thực khách quan, và hơn thế nữa, ý thức phụ thuộc vào thế giới ấy. Từ quan

điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vấn đề cần quan tâm là bước chuyển từ

cấp độ cảm giác - vận động của cơ chế động vật sang ý thức của đời sống con

người, được phản ánh trong sinh hoạt của con người.

Do vậy, các mối liên hệ chủ thể phát triển trong lao động tập thể là một điều

kiện nền tảng cho sự hình thành ý thức, đồng thời xây dựng nên hệ giá trị của xã

hội. Trong hình thái vật chất của nó, dấu hiệu chỉ dẫn truyền đạt một sự chuyển

trừu tượng nhằm giúp người khác tập trung vào đối tượng được chỉ dẫn. Sự phát

57

triển của dấu hiệu chỉ dẫn từ hình thái chỉ dẫn kiểu vòng cung sang hình thái chỉ

dẫn kiểu đường thẳng; bắt đầu từ một động tác mang tính vật chất nhưng kết thúc

bằng một hình ảnh trừu tượng.

Thứ ba, Theo Trần Đức Thảo, ý thức trong hiện thực của nó là sự thống nhất

giữa hành động được thể hiện và ý nghĩa của hành động ấy. Ý thức là cái liên kết

chủ thể của nhận thức với chính hắn và với thế giới thông qua “tiếng nói nội tâm”.

Mối quan hệ khách quan giữa con người với môi trường đã tạo ra ý nghĩa -cái tồn

tại ngay trước cấp độ ý thức xuất hiện. Trần Đức Thảo viết “mọi ý nghĩa đều bao

hàm một ngôn ngữ thuộc về bản thân thực tế, tồn tại trước ý thức, từ đó mà ý thức

rút tỉa ý nghĩa cho mình. Nói cách khác, ý nghĩa phải được cấu thành trước hết

dưới một hình thái khách quan trong sự vận động nguyên thuỷ của ngôn ngữ, như

nó bật ra trực tiếp từ những quan hệ vật chất của đời sống xã hội” [trích theo 30, tr.

11]. Nếu chỉ quan niệm đơn giản rằng ý thức là hoạt động tạo nghĩa kiểu Husserl -

ý nghĩa là một đối tượng mang tính chủ quan thuần tuý thì không thể giải thích

được mối quan hệ của ý thức và vật chất. Chỉ khi ý nghĩa chuyển hoá thành ý thức

thì ý thức mới đi liền với các ký hiệu ngôn ngữ.

Trong sự phát triển của mình, ý thức bắt nguồn từ các điều kiện và cuối cùng

là từ những mâu thuẫn của các quan hệ vật chất. Điều này kéo theo sự vận động

của ý thức như là một phần của sự vận động vật chất. Chính sự vận động của ý

thức này đến lượt nó trở thành khởi nguồn cho những ý định thực tiễn có định

hướng. Ý thức là những hình ảnh chủ quan phản ánh thế giới khách quan, tự nó là

một sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội. Hoạt động thực tiễn mang tính xã hội

được tổng hợp trong dấu hiệu chỉ dẫn và biểu hiện đồng thời trong cả khách thể và

chủ thể. Qua đó, ý thức được hình thành đến lượt nó lại một lần nữa ý thức thúc

đẩy các bước phát triển của các hoạt động trở thành các hoạt động xã hội.

Như vậy, đối với Trần Đức Thảo, khởi nguồn của ý thức gắn bó với sự phát

58

triển của hoạt động thực tiễn của con người - quá trình chế tác công cụ lao động.

Chỉ có con người là đối tượng duy nhất có khả năng sử dụng công cụ trong quá

trình lao động. Ngay cả những loài thú phát triển nhất cũng chỉ có thể sử dụng đôi

bàn tay và khi chúng có sử dụng thêm bất kỳ công cụ hỗ trợ nào đi chăng nữa thì

cũng chỉ là sự nối dài thêm của đôi bàn tay. Tất cả những gì các loài thú có thể làm

được là thực hiện theo nhu cầu bản năng. Engels cũng nói điều này khi phân biệt

sự khác nhau giữa con người và loài vật trong quan hệ với giới tự nhiên: “Tóm lại,

loài vật chỉ lợi dụng giới tự nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi trong giới tự

nhiên, chỉ đơn thuần do sự có mặt của nó thôi; còn con người thì do đã tạo ra

những biến đổi đó, mà bắt giới tự nhiên phải phục vụ những mục đích của mình,

mà thống trị giới tự nhiên. Và chính đó là sự khác nhau chủ yếu cuối cùng giữa con

người và các loài vật khác, và một lần nữa, chính cũng là nhờ lao động mà con

người mới có được sự khác nhau đó” [23, tr. 650].

Đồng thời Trần Đức Thảo cũng khẳng định lao động sản xuất đánh dấu sự

khởi đầu của hoạt động con người và chứng kiến sự dịch chuyển từ tự nhiên lên

văn hoá. Ông viết “Trên cơ sở các lời gọi của hình ảnh xã hội, ý thức trong lời gọi

với bản thân đặt ra yêu cầu cải thiện trong hành động, cái chân trong kiến thức và

cái mỹ trong việc hoàn thành quá trình sống trải. Do đó, ý thức làm cho thế giới tự

nhiên thành thế giới con người, có giá trị đối với con người” [27, tr. 28]. Một lần

nữa, có thể thấy rõ bước chuyển từ Hiện tượng học Husserl snag chủ ngĩa duy vật

biện chứng, từ chủ nghĩa duy vật biện chứng sang chủ nghĩa duy vật lịch sử của

Trần Đức Thảo.

Trần Đức Thảo lý giải ý thức theo “cấu trúc” của phép biện chứng gồm ba

yếu tố: rời rạc - tập thể - cá thể. Trong những nghiên cứu của mình Trần Đức Thảo

luôn khẳng quy luật phủ định biện chứng, phủ định có sự kế thừa là mấu chốt quan

trọng trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Thông qua hai lần phủ định

59

ý thức ngày càng hoàn thiện hơn ở mỗi cá nhân, nó là sự vượt bỏ hoàn toàn so vưới

những tri thức, tư duy rời rạc không định hướng thời tiền sử - người nguyên thuỷ.

Có được điều đó là do sự vận động của ý thức trong lao động và thông qua lao

động. Mối quan hệ của sự vận động và đối tượng, xuất hiện một cách hiển nhiên

trong quá trình của sự sản xuất của con người. Và quan niệm biện chứng về thế

giới được xác định là sự phù hợp với “phép biện chứng của chính bản thân các sự

vật, của chính bản thân tự nhiên” [20, tr. 100] như nó tự chứng minh trong sự thực

hành xã hội về lao động sản xuất. Con người tái sản xuất theo cách của anh ta

những sự vật thuộc về tự nhiên bằng việc nhắc lại có ý thức quá trình cơ bản ấy,

trong đó sự vận động liên quan đến đối tượng tự khách thể hoá nó với danh nghĩa

là cái đứng im tương đối. Trần Đức Thảo đề cao tính vận động, trên thực tế, sự vận

động chỉ là hiện thực với tư cách là vận động của vật chất và mọi ý định nhằm đặt

nó vào chính nó, bên ngoài vật chất như là sự vận động thuần tuý tất yếu dẫn đến

biến nó thành sự vận động của tư duy

Về vấn đề bản chất của ý thức, ông khẳng định ý thức mang tính xã hội,

song Trần Đức Thảo không quên nhấn mạnh tầm quan trọng của ý thức đối với thế

giới. Trên tinh thần ấy, Trần Đức Thảo chỉ rõ cái biện chứng của “Hiện tượng” tinh

thần luôn thống nhất với biện chứng của lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội và con

người, đặc biệt là sự vận động nền sản xuất xã hội. Chính cái biện chứng của đời

sống tinh thần ấy phát triển đến trình độ nào thì sẽ đem lại sự biện chứng của nền

sản xuất xã hội lên trình độ ấy. Bởi lẽ ý thức là kết quả của tự nhiên, xã hội vận

động trong quan hệ biện chứng đem lại. Đến đây, Trần Đức Thảo khẳng định vấn

đề cơ bản của triết học: vật chất có trước, ý thức có sau nhưng đến lượt ý thức sáng

tạo thế giới, bởi vì cái thế giới mà con người sáng tạo ra luôn vận động và phát

triển theo sự phát triển của ý thức về chân -thiện -mỹ. Đòng thời, ông cũng đánh

giá về nghiên cứu đối với ý thức của mình: “Đóng góp được nhiều để làm cho chủ

60

nghĩa Marx -Lenin thắng lợi trên một vấn đề trung tâm của khoa học có liên quan

chặt chẽ với vấn đề cơ bản của triết học: giữa vật chất và ý thức phản ánh đúng đắn

sự vận động của vật chất” [trích theo 32].

2.3.2. Vấn đề con người và cuộc cách mạng ở Việt Nam

Khi phân tích về nghiên cứu của Trần Đức Thảo về cội nguồn, bản chất của

ý thức ta cũng thấy bóng dáng của khái niệm “cái tư tưởng” của Ilencov. Cũng

xuất phát từ sự tồn tại hiện thực của thế giới khách quan, Ilencov cho rằng, bên

cạnh sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất - cảm tính còn tồn tại một thế giới

đặc thù của đời sống người, mà sự tồn tại của chúng khách quan không kém gì các

đối tượng vật chất (cái cây, hòn đất), chính là thế giới tinh thần khách quan, thế

giới “cái tư tưởng”. Theo Ilencov, “cái tư tưởng” chính là cái vật chất được “cải

biến”, bị “vượt bỏ” thông qua hoạt động sống vật chất của con người trong đó luôn

diễn ra đồng thời hai quá trình khép kín tạo thành những vòng xoáy ốc vô tận: quá

trình “tư tưởng hóa hiện thức” và “hiện thực hóa tư tưởng”; “cái tư tưởng” trở

thành thành tố nội tại của hoạt động đó mà thiếu nó thì không và không thể có bất

cứ hoạt động có tính người nào. Chính vì thế, “cái tư tưởng” là hình ảnh chủ quan

của hiện thực khách quan, là sự phản ánh các hình thức của hiện thực khách quan

vào trong các hình thức tư tưởng hóa. Do vậy, “cái tư tưởng” nhiều khi cũng rất vật

chất bởi nguồn gốc của nó nhưng lại mang một dạng tồn tại mới - tồn tại tư tưởng.

“Cái tư tưởng” cũng chỉ bộc lộ bản thân nó trong thực tiễn lao động - sản xuất của

con người. Đúng như vậy, cũng như mọi sự vật vật chất trong tự nhiên chỉ tồn tại

nhờ vận động và thông qua vận động, con người cũng không có cách nào khác

ngoài hoạt động lao động để không ngừng tái sản sinh ra đời sống của mình. Rõ

ràng, khi con người lao động cũng là lúc “cái tư tưởng” được sinh ra. Con người

không và không thể là các cá nhân hoạt động sản xuất tinh thần tự phát, đơn lẻ mà

xuất phát điểm, chủ thể được Ilencov xác định phải là con người xã hội, như một

61

cơ thể sống động được tạo nên bởi những mối quan hệ xã hội của mình. Hoạt động

cùng nhau họ trên nền tảng là vô vàn các quan hệ đan xen khiến cho các sự vật

trong tự nhiên không ngừng biểu lộ “Bản chất” của chúng, để nhận thức nó, tính

chất tồn tại trực tiếp của chúng bị lấy đi, ngay lập tức chúng có thêm một dạng tồn

tại gián tiếp, trở thành những sự vật xã hội - tồn tại tư tưởng. Như vậy, có thể kết

luận rằng, “cái tư tưởng” chỉ có thể sinh thành và tồn tại trong đời sống người mà

cụ thể là con người xã hội, cá nhân tồn tại trong nền văn hóa, là một liên chủ thể

thực hiện hoạt động lao động, sản xuất bằng tư thế loài, bằng toàn thể loài người.

Đồng thời, “cái tư tưởng” là hình thức của tự nhiên nhưng được đem vào hoạt động

sống hiện thực của con người, thậm chí quyết định nó, chi phối nó thành hình thức

hoạt động sống của con người. “Cái tư tưởng” chính là cái vật chất nhưng không

sống cuộc đời mình mà sống theo quy luật của văn hóa, là những quy luật của tự

nhiên nhưng đã trở thành những quy luật của đời sống người, do vậy, “Bản chất”

của tự nhiên nhưng được sở hữu bởi con người nên trở thành “Bản chất” của chính

con người. Chính ở nơi cái tự nhiên chuyển hóa thành văn hóa, cái vật chất chuyển

hóa thành tư tưởng thông qua hoạt động sống hiện thực của con người thì cũng là

lúc hình thành nên cái gọi là thiên nhiên thứ hai - thế giới người, một thế giới

“nhuốm đầy lý tính”, “thấm đẫm tư tưởng”. Đối diện với thế giới ấy là con người

đối diện với chính mình, lấy từ đó phương thức sống cho mình, hình thành tri thức,

thói quen cho mình bởi không chỉ vậy, chúng ta còn đang đối diện với cha ông, với

lịch sử toàn thể loài người. Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta, những cá nhân đơn lẻ

không thể đi lại con đường nhân loại, loài người đã đi để tìm cho mình thứ “Châu

Mỹ” đã được tìm ra. Một cách rất logic và lịch sử, từ thế giới văn hóa ấy, chúng ta

tìm ra được hình thức cho sự thích nghi và vận động ngay lúc này nhưng đã được

“tạo nên bởi sự phát triển trước đó”. Do đó, con người tồn tại không thể thiếu văn

hóa nhưng chính nhờ đời sống hiện thực của con người mà nó không ngừng sinh

62

sôi và nảy nở bất tận trong không gian và thời gian.

Vấn đề con người, về lịch sử loài người được Husserl coi là trọng tâm nhằm

giải quyết các vấn đề khủng hoảng con người châu Âu. Đồng thời ông cũng chuyển

lập trường tư tưởng từ Hiện tượng học siêu nghiệm sang Hiện tượng học văn hoá.

Nhưng thứ Husserl nhận được thì vẫn là một cục diện tối tăm. Vậy nguyên nhân do

đâu? Rõ rằng, Husserl đã không lường hết được tầm quan trọng của điểm nhìn – tại

đó nhãn quan triết học mới soi tỏ, rõ ràng. Trên lập trường chủ nghĩa duy vật nhân

bản, Trần Đức Thảo đặt con người ở trung tâm của triết học. Con người mà ông

hướng tới luôn luôn quán triệt tinh thần nó là kết quả của sự phát triển lịch sử tự

nhiên đưa đến lịch sử xã hội và con người. Như vậy, luôn phải hiểu con người là

một phần của tự nhiên, xã hội. Cùng với đó là đời sống tinh thần tất yếu phải gắn

toàn bộ với sự vận động của tự nhiên, xã hội, không chỉ giới hạn trong các hoạt

động vật chất, sáng tạo mà còn gắn bó với tự nhiên, vũ trụ.

Bên cạnh đó, ông cho rằng cần nhận thức về con người nói chung được hình

thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của con người cụ thể, cá nhân - nhân

cách - nhất thiết phải thông qua sự phát triển của lịch sử xã hội và ý thức cá nhân.

Khẳng định như thế là khẳng định ý thức có tính độc lập tương đối của nó, khẳng

định vai trò của con người nói chung (văn hoá nói chung) và vai trò của các thế hệ

tri thức nói riêng.

Để làm rõ nội dung “con người nói chung” Trần Đức Thảo một lần nữa quay

lại vấn đề mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Ông cho rằng, chính vì cái

chung chỉ tồn tại trong và thông qua cái riêng, ngược lại cái riêng trong mối quan

hệ với cái riêng khác để đưa đến cái chung. Và trong các mối quan hệ như thế, cái

chung có thể chuyển hoá thành cái riêng và cái riêng có thể chuyển hoá thành cái

chung.

Trong xã hội nguyên thuỷ, quan hệ xã hội công bằng, tự do, bình đẳng luôn

63

là giá trị cố hữu của bản chất người đi suốt trong quá tình lịch sử phát triển của loài

người, bởi lẽ con người dù ở thời đại nào cũng vừa sở hữu cộng đồng trong mình

tồn tại đồng thời hữu cái tự nhiên, nguyên thuỷ. Và những giá trị cố hữu ấy cũng là

động lực để con người giải quyết mâu thuẫn được đặt ra trong các mối quan hệ

khác.

Bước vào xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp con người bước vào thời

kỳ tha hoá và đấu tranh chống tha hoá, thì những giá trị về quan hệ xã hội công

bằng, tự do, bình đẳng là căn cứ để giai cấp bị trị đoàn kết tạo ra sức mạnh cả về

vật chất lẫn tinh thần để chống lại giai cấp thống trị. Ở đây, ý thứ đóng vai trò quan

trọng. Lịch sử đã chứng kiến các cuộc đấu tranh giai cấp, lịch sử tha hoá, chống tha

hoá diễn ra phức tạp và đày mâu thuẫn nhưung nhìn chung lịch sử xã hội vẫn vận

động, phát triển theo hướng ngày càng tiến bộ.

Tóm lại, nói đến bản chất con người nói chung, Trần Đức Thảo đã chỉ ra

một loạt các quan hệ, là nơi thể hiện bản chất ấy, như quan hệ giai cấp, quan hệ

dân tộc - xã hội, quan hệ xã hội nguyên thuỷ, quan hệ sinh học. Bản chất ấy còn

tồn tại hiện hữu trong cá thể, cá nhân - nhân cách. Con người nói chung muốn hiện

hữu và phát triển trong con người cá thể , cá nhân - nhân cách thì một mặt cá thể,

cá nhân - nhân cách phải chủ động tiếp nhận những giá trị mang tính nhân loại,

tính dân tộc, tính giai cấp của hoạt động thực tiễn. Mặt khác, cộng đồng xã hội

cũng phải tích cực truyền thụ các giá trị của con người nói chung đến với mỗi cá

thể, cá nhân -nhân cách.

Sự sáng tạo ấy của Trần Đức Thảo có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Về lý luận, nó là một hệ lý thuyết khắc phục tư duy siêu hình khi nghiên cứu con

người, nhận thức vấn đề này toàn diện, chính xác hơn, giúp cho khoa học xã hội

nhân văn phát triển đúng hướng. Về thực tiễn, lý thuyết về con người nói chung sẽ

không rơi vào siêu hình trong việc xây dựng xã hội mới, để có thể tiếp nhận và sử

64

dụng những thành tựu của các xã hội trước để lại, biến chúng thành tiềm năng, khả

năng trực tiếp tạo ra những giá trị mới của xã hội mới. Như thế, không rơi vào tình

trạng phủ định sạch trơn các giá trị trong quá khứ. Lịch sử chứng minh, con người

xây dựng xã hội mưới trên nền tảng của xã hội cũ.

Nhận thức về lý thuyết này giúp con người phát triển ý thức bền vững. Con

người không chỉ hạnh phúc, sung sướng trước những thăng hoa của cuộc sống mà

còn phải biết suy ngẫm trước những tấn bi kịch của nhân loại, dân tộc như chiến

tranh dịch bệnh, đói nghèo, thiên tai,… Thấm nhuần lý thuyết ấy, các cộng đồng và

cá nhân luôn tự bồi đắp các lớp giá trị để trưởng thành, phát triển, bởi: “Người ta

lúc đầu phải nhìn vào người khác, nhưu nhìn vào một tấm gương mới nhận thấy

mình được” [24, tr. 87].

Trần Đức Thảo nghe theo lời kêu gọi của đất nước, dấn thân vào cuộc Cách

mạng dân tộc. Ông hiểu rõ một điều rằng muốn giải phóng dân tộc trước nhất là

phải giải phóng về ý thức. Mỗi một lời kêu gọi, một lời hiệu triệu phải khơi dậy

tinh thần yêu nước của cả dân tộc. Tinh thần ấy không là của riêng dân tộc nào, nó

chính là chất keo gắn kết các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Nói rằng vật chất có

trước, vật chất quyết định ý thức song khi có ý thức rồi thì các tinh thần, ý thức ấy

tạo nên sức mạnh to lớn đánh thắng mọi thế lực thù địch, mọi đội quân xâm lược.

Khi đất nước bước sang xây dựng xã hội mới, Trần Đức Thảo cũng đã phát

hiện một vấn đề mang tính thời sự đó là quyền sở hữu về tổ quốc, khẳng định địa

vị, vai trò của nhân dân. Nội dung cơ bản của tính cộng đồng của dân tộc là quyền

sở hữu cộng đồng về địa bàn đát đai: đất nước là của chung của dân tộc. Nghĩa là,

nhân dân là người sở hữu toàn diện địa bàn đất đai và của cải của đất nước, còn

nhà nước chỉ là người quản lý. Khi nhắc tới những điều cơ bản chung về lịch sửu

dân tộc, Trần Đức Thảo đã đề cập tới sự hình thành tính cách dân tộc, nhân cách

cộng cồng dân tộc, tâm hồn dân tộc chính là cơ sở chung, được đặt trong quá trình

65

hình thành lịch sử dân tộc và tiếp tục phát triển mãi. Đó cũng là cái cơ bản cho sự

hội nhập giữa dân tộc và nhân loại, đồng thời cũng tạo ra cái khác biệt giữa dân tộc

và nhân loại.

Để phát huy vai trò của con người đối với vận động lịch sử, Trần Đức Thảo

nhấn mạnh: “chính quan hệ con người, quan hệ giá trị, là một lớp không thể thiếu

sót của toàn diện những quan hệ xã hội, là “Bản chất” của con người. Đấy là cái

lớp hình ảnh tâm thần xuất phát từ những tiếng gọi âm hiệu, chỉ hiệu của những

liên hệ thần kinh ở bề sâu vỏ óc, xây dựng từ tuổi nhi đồng trong cộng đồng gia

đình, hàng xóm, dân tộc, loài người,…” [trích theo 3, tr. 1053].

Trần Đức Thảo đã đặt ra những vấn đề cấp thiết về xây dựng xã hội mới.

Suy cho cùng, các xã hội trong lịch sử phát triển là vì đã coi giá trị là một lớp căn

bản của đời sống tinh thần con người, trên cơ sở đó xã hội thời kỳ sau tiếp tục phát

triển trên nền tảng xã hội trước.

Tiểu kết chƣơng 2

Trần Đức Thảo tiếp nhận chủ nghĩa Marx, phát triển chủ nghĩa duy vật biện

chứng. Ông được giáo dục tại Pháp, đã tiếp nhận các học thuyết duy tâm , đặc biệt

là chủ nghĩa duy lý, nhưng chính vì vậy ông mới có cơ sở hiểu rõ vì sao Marx vận

dụng phép biện chứng Hegel , cải tạo nó áp dụng vào chủ nghĩa duy vật, hoàn thiện

chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trần Đức Thảo cũng tiếp thu các luận điểm của

Husserl về tồn tại “Tính ý hướng”. Song ông khẳng định cả Hegel lẫn Husserl vẫn

nằm trong giới hạn của chủ nghĩa duy tâm, bởi vì họ chưa phân tích và nhận thức

được mối liên hệ giữa tinh thần, ý thức và lịch sử của sự sống. Trần Đức Thảo

muốn đi sâu tìm hiểu điều này buộc ông phải chuyển nhãn quan triết học dưới lập

trường chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Trần Đức Thảo đã đưa ra câu trả lời đầy sáng tạo cho câu hỏi hóc búa xưa cũ

66

đầy tính tranh cãi giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật về nguồn gốc ý

thức. Trần Đức Thảo khẳng định tính thứ nhất vật chất của ý thức, phân tích ý thức

trong sự vận động của vật chất, tron quá trình lao động sản xuất mà ý thức xuất

hiện và phát triển. Ông phê phán Husserl, mặc dù phương pháp Hiện tượng học

giúp cho con người lần đầu tiên có sự mô tả thuần tuý, tỉ mỉ về “cái sống trải”, cho

phép giải thích các biểu nghĩa mang tính cấu tạo của đối tượng cảm tính xét như là

đối tượng cảm tính. Tuy nhiên, dù sự mô tả ấy có tỉ mỉ, chi tiết đến đâu thì nó vẫn

là sự “thiếu vắng hoàn toàn những động cơ và những quy định hiện thực”, mà “cái

hiện thực chỉ có nghĩa trong mối quan hệ của nó với chủ thể cụ thể, trong đời sống

thực tế của chủ thể đó. Tồn tại được xác định là tồn tại vì tôi, không phải theo

nghĩa tư biện mà theo nghĩa sống trải” [28, tr. 105]. Nghĩa là, chân lý của tồn tại

không phải những thuộc tính chủ thể quy định mà phụ thuộc vào thực tiễn cuộc

67

sống mang tính vật chất của chủ thể đó.

KẾT LUẬN

Với luận đề nổi tiếng “Mọi ý thức là ý thức về cái gì đó”, Husserl đã chỉ ra

đặc trưng “Bản chất” của ý hướng tính ý thức và khái quát lý luận về nhận thức:

Mọi tri giác là tri giác về cái tri giác, mọi kinh nghiệm là kinh nghiệm về trạng thái

của những kinh nghiệm, mọi mong muốn là mong muốn về một mong muốn,...

Đây hoàn toàn không phải là sự liên quan của những từ, mà theo Husserl, là một

mô tả Hiện tượng học và một trong những cái mới của đời sống tinh thần là tư duy

nhắm vào và ý hướng. Nghĩa là, kinh nghiệm, nhận thức của chúng ta về sự vật bao

gồm việc chúng ta dọi chiếu mình tới các đối tượng được nhắm tới; mọi đối tượng

của ý thức của Tôi được Tôi nhắm vào, hướng tới, xây dựng, tạo thành, nghĩa là,

có ý hướng của Tôi. Theo đó, cần phải hiểu ý thức luôn hướng tới một cái gì khác

nó, “mở ra” cho cái khác ngay trong nó.

Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp đó, chúng ta vẫn thấy trong học thuyết

về “Tính ý hướng” của Husserl còn có những hạn chế nhất định. Những luận

chứng của ông về ý thức lập thành ý nghĩa cho đối tượng đã buộc chúng ta phải

nghĩ đến luận điểm của Becoli: sự vật là phức hợp của những cảm giác, và một

cách tương tự là tư tưởng của chủ nghĩa Kant mới về hành vi nhận thức như là sự

kiến thiết đối tượng do sự sáng tạo tưởng tượng của chủ thể, chứ không phải là sự

nắm bắt bản tính của đối tượng. Chính hạn chế này đã đưa Husserl tới quan điểm

duy tâm khi khẳng định “Bản chất” của thế giới luôn tuỳ thuộc vào chủ thể tiên

nghiệm; rằng, thế giới chỉ có ý nghĩa như một thực tại hiện hữu khi nó là sản phẩm

ý hướng của chủ thể tiên nghiệm. Con đường tìm kiếm mối liên hệ qua lại phổ biến

giữa chủ thể và khách thể từ những khám phá về “Tính ý hướng”, cùng với nỗ lực

xây dựng một hệ thống tiên nghiệm về mối quan hệ này đã cho thấy khát vọng của

68

chủ nghĩa duy tâm muốn vươn tới một nền tảng cụ thể.

Các tư tưởng lớn thường gặp nhau, sự gặp gỡ này hẳn là có nhiều tâm đắc.

Những tư tưởng về Hiện tượng học Husserl gặp gỡ chủ nghĩa duy vật biện chứng,

chủ nghĩa duy vật lịch sử để tạo nên những luận giải độc đáo của Trần Đức Thảo.

Trần Đức Thảo đã một lần nữa phân tích lý giải chỉ ra những hạn chế và khắc phục

những mâu thuẫn của Hiện tượng học Husserl đồng thời mở ra cho mình con

đường nghiên cứu riêng. Những trăn trở suy tư của Trần Đức Thảo về logic của

thời hiện tại sống động, về biện chứng của quá trình tiến hoá sự sống, hình thành

bản chất con người, về nguồn gốc tiếng nói và ý thức, về động tác chỉ dẫn như một

ký hiệu tiền ngôn ngữ,… vẫn còn đó như bản giao hưởng còn dang dở, giúp ta

không ngừng phê bình và tự phê bình, tự vấn, đặt ra những câu hỏi tái xác lập

những giá trị, ý nghĩa và sứ mệnh lịch sử cảu mỗi cá thể, cá nhân -nhân cách: Anh

là ai? Anh đến từ đâu? Cuộc sống này có ý nghĩa gì? Con người với con người

quan hệ với nhau như thế nào? Đâu là tận cùng của cái Thiện, cái Ác? Liệu cái Đẹp

có cứu chuộc được thế giới? Vì sao đoá quỳnh vẫn đang ngát hương trong sương

đêm ướt đẫm? Vì sao con chim hoạ my vẫn đang hót trong mưa rừng đại ngàn? Vì

sao con suối vẫn rì rầm thủ thỉ tâm sự với đã núi? Vì sao con sóng vẫn mải mê và

miệt mài vỗ vào bờ cát? Vì sao mây trắng vẫn thảnh thơi và thanh thản trôi trên

bầu trời?… Những câu hỏi ấy như là ngọ lửa dẫn dắt chúng ta đi qua màn đêm đen

của những cám dỗ, bạo động, bản ngã,… giúp chúng ta thoát khỏi bi kịch khốn

69

cùng của “những kẻ đã chết và sẽ chết mà chưa từng được sống” [xem 2].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Jocelyn Bonist và Michel Espagne (chủ biên), Hành trình của Trần Đức Thảo:

Hiện tượng học và trình chuyển giao văn hoá, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội,

2016.

2. Nguyễn Trọng Chuẩn: Lời giới thiệu, Nguyễn Trung Kiên (sưu tầm và biên

soạn), trong Triết gia Trần Đức Thảo di cảo luận kỷ niệm, Nxb Đại học Huế,

Thừa Thiên – Huế, 2016.

3. Cù Huy Chử: Giáo sư Trần Đức Thảo với các vấn đề lịch sử. Nguyễn Trung

Kiên (sưu tầm và biên soạn), trong Triết gia Trần Đức Thảo di cảo luận kỷ

niệm, Nxb Đại học Huế, Thừa Thiên – Huế, 2016.

4. Cù Huy Chú - Cù Song Hà: Về hai tác phẩm cuối đời của giáo sư Trần Đức

Thảo. Nguyễn Trung Kiên (sưu tầm và biên soạn), trong Triết gia Trần Đức

Thảo di cảo luận kỷ niệm, Nxb Đại học Huế, Thừa Thiên – Huế, 2016.

5. Lưu Phóng Đồng (chủ biên), Giáo trình hướng tới thế kỷ 21 - Triết học phương

Tây hiện đại. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004.

6. Albert Einstein,Thế giới như tôi thấy, Nguyễn Vũ Hảo, Đinh Bá Anh và nhiều

tác giả dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2005.

7. Ngô Hương Giang: Hiện tượng học và Hiện tượng học của Trần Đức Thảo, Tạp

chí triết học số 9, tháng 9 - 2013.

8. Daniel J. Herman: Trần Đức Thảo và nửa thế kỷ trầm tư triết học, Nguyễn

Trung Kiên (sưu tầm và biên soạn), trong Triết gia Trần Đức Thảo di cảo luận

kỷ niệm, Nxb Đại học Huế, Thừa Thiên – Huế, 2016.

9. Nguyễn Chí Hiếu, Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Quỳnh Trang, Hiện tượng học

70

Husserl, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2008.

10. Nguyễn Thị Mai Hoa (2008): E.Husserl (1859 – 1938) – nhà Hiện tượng học,

Tạp chí triết học số 10, tháng 10/2008.

11. Diêu Thị Hoa: Edmund Husserl, Nxb. Thuận Hoá, 2005.

12. Đỗ Minh Hợp: Trần Đức Thảo lĩnh hội triết học Marx, đề tài khoa học Viện

Triết học – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, 2018.

13. Edmund Husserl: Ý niệm Hiện tượng học, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải,

Nxb. Nhà xuất bản trẻ, 2016.

14. Phạm Thành Hưng, Trần Ngọc Hà (chủ biên): Triết gia lữ hành Trần Đức

Thảo, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006.

15. Lê Hường (2008): F.Brentano – người đặt nền móng cho lý luận về “Tính ý

hướng”, Tạp chí triết học số 11, tháng 11/2008.

16. E.V Ilencov: Lôgíc biện chứng, Nguyễn Anh Tuấn dịch, Nxb. Văn hóa thông

tin, Hà Nội, 2003.

17. Nguyễn Trung Kiên (sưu tầm và biên soạn): Triết gia Trần Đức Thảo di cảo

luận kỷ niệm, Nxb Đại học Huế, Thừa Thiên – Huế, 2016.

18. Khoa Triết học - Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, kỷ yếu hôi

thảo Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX, Nxb. Đại học Quốc gia Hà

Nội, 2007.

19. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 18, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2005.

20. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2005.

21. C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà

71

Nội, 1995.

22. C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà

Nội, 1995.

23. C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà

Nội, 1995.

24. C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà

Nội, 1995.

25. Nguyễn Trọng Nghĩa: Hiện tượng học của Edmund Husserl và sự hiện diện

của nó ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011.

26. Ngô Thị Thảo: Nhận thức luận trong Hiện tượng học Husserl, luận văn thạc sĩ,

Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, 2012.

27. Trần Đức Thảo. Tìm về cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức, Nxb. Văn hoá -

Thông tin, Hà Nội, 1996.

28. Trần Đức Thảo. Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb. Đại

học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004.

29. Trần Đức Thảo: Sự hình thành con người, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà

Nội, 2004.

30. Trần Đức Thảo. Động tác chỉ dẫn như là hình thức gốc của ý thức. Nguyễn

Trung Kiên (sưu tầm và biên soạn), trong Triết gia Trần Đức Thảo di cảo luận

kỷ niệm, Nxb Đại học Huế, Thừa Thiên – Huế, 2016.

31. Trần Đức Thảo. Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng (Bùi Văn

Nam Sơn và Đinh Hồng Phúc dịch), trong Jocelyn Bonist và Michel Espagne

(chủ biên), Hành trình của Trần Đức Thảo: Hiệnt ượng học và trình chuyển giao

72

văn hoá, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2016.

32. Trần Đức Thảo. Báo cáo (I) về cuốn Tìm về cội nguồn của ngôn ngữu và ý

thức, 1975. Nguồn: http://www.viet – studies.org/TDThao.

33. Nguyễn Anh Tuấn: Trần Đức Thảo với Hiện tượng học Husserl. Khoa Triết

học - Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Kỷ yếu hội thảo “Những

vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.

34. Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, nhân vật – sự kiện: Giáo sư

Trần Đức Thảo – nhà triết học lỗi lạc. http://www.ussh.vnu.edu.vn/d6/vi-

73

VN/news/Giao-su-Tran-Duc-Thao-nha-triet-hoc-loi-lac-1-490-12678.