TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ----------

TRẦN THANH THỦY

HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG HỒI KÍ CÁT BỤI CHÂN AI CỦA TÔ HOÀI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2016

LỜI CẢM ƠN

Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cám ơn TS. Nguyễn

Thị Tuyết Minh – người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt

quá trình làm khóa luận.

Em xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn trường

ĐHSP Hà Nội 2 đã quan tâm giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Tuy đã cố gắng nhiều, nhưng do điều kiện thời gian và trình độ còn hạn

chế nên khóa luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính

mong nhận được sự đóng góp quý báu của các thầy cô trong hội đồng chấm

khóa luận để đề tài của em được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2016

Tác giả khóa luận

Trần Thanh Thủy

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong khóa luận là kết quả

nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Thị

Tuyết Minh. Những nội dung này chưa được công bố ở công trình nghiên cứu

nào. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2016

Tác giả khóa luận

Trần Thanh Thủy

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................... 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................... 6

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 6

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 6

6. Đóng góp mới của khóa luận ............................................................. 7

7. Cấu trúc của khóa luận ....................................................................... 7

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: HỒI KÍ TÔ HOÀI TRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI

VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI .............................................................................. 8

1.1. Giới thuyết về thể loại ..................................................................... 8

1.1.1. Giới thuyết về kí ....................................................................... 8

1.1.2. Hồi kí và đặc trưng thể loại .................................................... 10

1.2. Thể loại hồi kí trong văn xuôi Việt Nam đương đại ..................... 12

1.3. Tô Hoài và thể loại hồi kí trong văn xuôi Việt Nam đương đại ... 16

1.3.1. Tiểu sử nhà văn Tô Hoài ........................................................ 16

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác hồi kí của Tô Hoài ................................... 19

1.3.3. Quan niệm của Tô Hoài về hồi kí ........................................... 20

1.3.4. Hồi kí Cát bụi chân ai ............................................................ 23

CHƢƠNG 2: NHẬN DIỆN HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON

NGƢỜI TRONG HỒI KÍ CÁT BỤI CHÂN AI CỦA TÔ HOÀI .............. 25

2.1. Hiện thực đời sống xã hội ............................................................. 25

2.1.1. Hiện thực đời sống trong chiến tranh ..................................... 25

2.1.2. Hiện thực đời sống trong hòa bình ......................................... 27

2.2. Con người trong hồi kí Cát bụi chân ai ........................................ 30

2.2.1. Chân dung những con người nhỏ bé, đời thường ................... 30

2.2.2. Chân dung những nhà văn đồng nghiệp ................................. 32

2.2.2.1. Chân dung nhà thơ Xuân Diệu ............................................ 33

2.2.2.2. Chân dung nhà thơ Nguyễn Bính ........................................ 36

2.2.2.3. Chân dung nhà văn Nguyên Hồng ....................................... 38

2.2.2.4. Chân dung nhà văn Nguyễn Tuân ....................................... 42

2.2.3. Chân dung tự họa con người tác giả ....................................... 50

KẾT LUẬN ............................................................................................ 54

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 54

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tô Hoài là cây bút có đóng góp lớn cho sự phát triển của văn xuôi Việt

Nam hiện đại. Với hành trình sáng tạo nghệ thuật hơn 70 năm, Tô Hoài giống

như “con dao pha”, viết nhiều thể loại mà thể loại nào cũng đạt dấu ấn riêng.

“Đời văn Tô Hoài gợi hình ảnh một dòng sông miên man chảy và mang trong

mình cả cuộc sống bất tận” [34]. Có thể nói, hiếm một nhà văn nào có tuổi

đời, tuổi nghề gắn bó với công việc sáng tạo nghệ thuật chung thủy như Tô

Hoài. Sự nỗ lực đó được ghi nhận năm 1996, ông được nhà nước trao tặng

Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Đó là phần thưởng xứng

đáng cho một đời lao động nghệ thuật bền bỉ đầy tâm huyết của một nhà văn

có tài.

Tô Hoài viết nhiều thể loại nhưng thể loại mà ông gặt hái được nhiều

thành công nhất chính là hồi kí. Điều đó được GS Nguyễn Đăng Mạnh khẳng

định: “Tô Hoài sinh ra để viết hồi kí, tự truyện… Hồi kí, tự truyện là thể văn

sở trường nhất của Tô Hoài. Đúng thế, ở thể văn này tất nhiên nhân vật chính

là cái tôi cho nên sự hấp dẫn của hồi kí Tô Hoài xét cho cùng là sự hấp dẫn

của cái tôi ấy”[40]. Từ Cỏ dại (1944), Tự truyện (1978) đến Cát bụi chân ai

(1992), Chiều chiều (1999), Tô Hoài được xem là một tác giả hồi kí tài năng.

Thể văn này thu hút được sự quan tâm của xã hội, nó vừa thể hiện bút lực của

Tô Hoài, lại vừa cho thấy cách viết riêng, độc đáo sớm định hình một phẩm

chất không lẫn với bất cứ ai. Với gần 200 trang sách trong Cát bụi chân ai, Tô

Hoài đã đưa thể hồi kí lên một bước mới. Hồi kí đâu chỉ là chuyện đời tư của

tác giả được gợi lại mà hồi kí của Tô Hoài còn là chân dung của biết bao con

người, của chính thời đại ông nữa. Đọc hồi kí Tô Hoài, người đọc luôn luôn

1

được cuốn hút bởi những gì mới mẻ, không trùng lặp, không mờ nhạt, không

kém sức trong kho kỉ niệm của nhà văn.

Cuốn hồi kí đầu tiên của Tô Hoài mang tên Cỏ dại ra đời năm ông mới

ngoài 20 tuổi. Tự truyện là cuốn tiếp theo in ra khi ông ở tuổi 50. Nếu cuốn

hồi kí thứ nhất đã phát hiện ra khả năng của tác giả trong việc nắm bắt quá

khứ ngay khi nó vừa hình thành cũng như khách quan hóa bản thân, biến

mình thành một đối tượng miêu tả thì cuốn thứ hai cho thấy ông sống kĩ

lưỡng biết bao với đời sống xung quanh mình từ chuyện riêng tư đến chuyện

nghề rồi chuyện hoạt động Cách mạng. Cái gì cũng có thể đưa lên trang giấy

để trở thành văn chương, sức chứa của đầu óc ông thật hơn người mà sự chi

li, tỉ mỉ thì lại ít ai bì kịp. Dường như trong kho văn chương của tác giả luôn

có một góc riêng dành cho cái mà người xưa hay gọi là dĩ vãng và nó được

ông quan niệm như một bộ phận không thể thiếu của hiện tại. Tuy nhiên phải

đến Cát bụi chân ai (1992), hồi kí Tô Hoài mới thực sự thu hút dư luận. Sự ra

đời của Cát bụi chân ai là một sự kiên văn học đáng chú ý. Dù nhiều ý kiến

khen chê khác nhau nhưng điều cốt lõi là không ai phủ nhận giá trị nội dung,

giá trị nghệ thuật của nó. Theo Trần Đình Nam: “Cỡ tuổi 72 ông hiểu được

độc giả cho độc giả một Cát bụi chân ai mà với nó ông trở thành nhà văn

thượng thặng trong thể hồi kí. Chưa nói đến đóng góp nghệ thuật viết hồi kí

đến cái chất Tô Hoài rất đặc biệt trong cuốn sách này, riêng phần tư liệu đã

là vô giá. Nếu Tô Hoài sống để dạ, chết mang theo không kể lại những chuyện

sau đây thì bạn đọc sẽ thiệt thòi lắm” [40].

Trên tuần báo Văn nghệ ngày 13/11/1993 Xuân Sách, Trần Đức Tiến

đã có cuộc trao đổi về Cát bụi chân ai. Theo Trần Đức Tiến với Cát bụi chân

ai: “Lần đầu tiên Tô Hoài đã cho thế hệ cầm bút của ông nhìn những nhân

vật lớn của văn chương nước nhà ở một cự ly gần một khoảng cách khá tàn

nhẫn nhưng chính vì thế mà chân thực và sâu sắc”. Còn Vương Trí Nhàn

2

khẳng định: “Cát bụi chân ai là dịp ngòi bút hồi kí của Tô Hoài tung hoành

giữa những chuyện sống, đã sống qua để rồi dựng lên ngồn ngộn một bức

tranh hoành tráng…[44]. Ngoài ra, Mai Văn Thọ trên tuần báo Văn nghệ Trẻ,

Đặng Tiến trong tổng quan về hồi kí Tô Hoài đều khẳng định hồi kí là thể văn

sở trường của Tô Hoài. Ở đó Tô Hoài đã xây dựng cả thế giới riêng của mình

với những cảm quan nhân bản đời thường thấm thía, chân thực mà sâu sắc.

Với mong muốn hiểu sâu sắc về hồi kí Cát bụi chân ai, trong khóa luận

này chúng tôi đi sâu nghiên cứu Hiện thực đời sống và con người trong hồi

kí Cát bụi chân ai của Tô Hoài.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Tình hình nghiên cứu sáng tác của Tô Hoài

Với khối lượng tác phẩm đồ sộ trên nhiều thể loại, đề cập đến nhiều

phương diện của đời sống, sáng tác của Tô Hoài đã thực sự trở thành đối tượng

nghiên cứu của các nhà phê bình, nghiên cứu văn học trong và ngoài nước.

Người đầu tiên nghiên cứu văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu Vũ

Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn hiện đại, quyển IV (1942), khi giới thiệu về

Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan đánh giá: “Tiểu thuyết Tô Hoài thuộc loại tả chân, có

khuynh hướng về xã hội. Ông tỏ ra là nhà tiểu thuyết có con mắt quan sát sâu

sắc và lối văn dí dỏm, tinh quái đầy những phong vị và màu sắc thôn quê,

ông tỏ ra không giống một nhà văn nào trước ông và cũng không giống một

nhà văn nào mới nhập tịch trong làng văn chương như ông”[48]. Như vậy,

ngay từ những ngày đầu mới bước chân vào con đường văn chương, Tô Hoài

đã khẳng định là một nhà văn có phong cách.

Giai đoạn sau 1975, Tô Hoài đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Số lượng

công trình nghiên cứu văn chương Tô Hoài cũng không ngừng tăng lên.

Nhiều nhà nghiên cứu văn học tên tuổi đã có những bài viết về tác phẩm của

3

Tô Hoài như: Phan Cự Đệ, Trần Hữu Tá, Vũ Quần Phương, Trần Đình Nam,

Vân Thanh, Vương Trí Nhàn...

GS Nguyễn Đăng Mạnh trong Tổng tập văn học Việt Nam đã nhận xét:

“Nhà văn có một năng khiếu quan sát hết sức phong phú và sắc sảo, tài hoa

hiểu theo nghĩa vận dụng toàn bộ các giác quan để ghi nhận cảnh vật bên

ngoài với tất cả hình dáng, sự hoạt động, âm thanh, màu sắc, mùi vị của nó…

Ông có một trí tưởng tượng mạnh mẽ đồng thời có một vốn ngôn ngữ giàu có

đẻ tạo nên những bức tranh chân thực, góc cạnh và đầy hương sắc”[40].

GS Hà Minh Đức trong lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài thì khẳng

định: “Sự tìm tòi rõ nhất trong nghệ thuật văn xuôi của Tô Hoài thuộc lĩnh

vực ngôn từ. Ông là nhà sử dụng nhiều thể loại văn học và ở thể loại nào

mạch văn của ông cũng vươn tới giá trị nghệ thuật ngôn từ hay nói một cách

nôm na là có văn. Tính văn của ngôn từ được tạo nên bằng nhiều nỗ lực tìm

tòi, sáng tạo. Ông không để câu văn rơi vào tình trạng chữ nghĩa sáo mòn và

lối biểu hiện nghèo nàn. Có nhiều hiện tượng còn khô khan, khó miêu tả

nhưng dưới ngòi bút của ông trở nên sinh động, cách diễn tả nhiều cảm hứng,

liên tưởng đẹp, so sánh thích hợp, chữ nghĩa chọn lọc và gợi cảm…”[6].

GS Trần Đăng Suyền trong bài Khái quát về trào lưu văn học hiện thực

phê phán (1930-1945) (Văn học Việt Nam thế kỉ XX tập 2, NXBĐHSP, 2005)

đã viết: “Truyện ngắn và tiểu thuyết của Tô Hoài dường như vắng bóng

những xung đột xã hội gay gắt. Nhãn quan hiện thực đời thường và nhãn

quan phong tục của ông đặc biệt nhạy cảm và tinh quái khi phát hiện những

chi tiết xoàng xĩnh, nhếch nhác đời thường của những bức tranh phong tục

đậm đà phong vị và màu sắc của thôn quê. Tô Hoài có biệt tài quan sát sắc

sảo, hóm hỉnh, tinh tế, nhất là về thế giới loài vật”.

4

Như vậy, nhiều bài viết, nhiều ý kiến đánh giá nhận xét khác nhau

nhưng đều thống nhất ở một điểm: Tô Hoài là nhà văn có tài năng và sức sáng

tạo dồi dào.

2.2. Tình hình nghiên cứu các tác phẩm hồi kí của Tô Hoài

Hồi kí là mảng đặc sắc trong sáng tác của Tô Hoài, đây cũng là mảng

sáng tác “được đọc nhiều, đọc kĩ trong một vài giới bạn đọc”. GS Nguyễn

Đăng Mạnh nhận xét: “Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường

nhất của Tô Hoài… Ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của

người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự

hấp dẫn của cái tôi ấy”[43]. GS Hà Minh Đức trong lời giới thiệu Tuyển tập

Tô Hoài đã chỉ ra những nét đăc sắc trong nghệ thuật viết hồi ký, tự truyện:

“Hồi ký và tự truyện của ông kết hợp dược dòng kể tự nhiên, xác thực với ý

thức phát triển các hiên tượng và phần tâm sự của tác giả” [6]. Cùng với

hướng phát hiện đó, GS Phong Lê đã khẳng định sức lôi cuốn, hấp dẫn của tự

truyện Tô Hoài: “Đọc tự truyện tôi bỗng ngạc nhiên không hiểu sao người ta

thể viết hay đến thế về mình, để qua mình mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế

hiểu cả một bầu khí quyển chung cho bao thế hệ”. GS Phong Lê khẳng định

Tự truyện, Những gương mặt chân dung văn học, Cát bụi chân ai là những

cuốn sách thuộc trong số không nhiều những cuốn của một vài tác giả hiện

đại mà ông luôn có nhu cầu đọc đi đọc lại. “Đọc lại để mà hưởng cái thú

chiêm nghiệm của một ý tưởng, một triết lý sống hoặc để nghe một giọng điệu

riêng, một cách nói riêng”. Ở đó là Tô Hoài, “Một Tô Hoài không lẫn với bất

cứ ai, một Tô Hoài hết mình, hóm hỉnh và thông minh. Nhẹ nhõm mà có sức

nặng, cứ như đùa mà lại thật, nghiêm chỉnh. Nhã nhặn, khiêm nhường mà

thật dũng cảm, chẳng biết sợ là gì”[35].

Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu, bàn luận xoay quanh sáng tác hồi

kí và tự truyện Tô Hoài của các nhà nghiên cứu như: Vương Trí Nhàn, Trần

5

Hữu Tá, Trần Đình Nam… Song tựu trung, các bài viết chủ yếu đề cập một

cách khái quát. Đó là khoảng trống để trong khóa luận này chúng tôi đi sâu

tìm hiểu về Hiện thực đời sống và con người trong hồi kí Cát bụi chân ai.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là cuốn hồi kí Cát bụi chân ai do

NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 1992.

- Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp Đại học, chúng tôi tập

trung làm rõ những vấn đề cơ bản sau :

+ Hồi kí của Tô Hoài trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam đương đại.

+ Nhận diện hiện thực đời sống và con người trong hồi kí Cát bụi chân

ai của Tô Hoài.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu của khóa luận là tập trung làm rõ bức tranh hiện

thực đời sống và con người trong hồi kí Cát bụi chân ai của nhà văn Tô Hoài.

Từ đó, khẳng định những đóng góp của Tô Hoài đối với nền văn xuôi Việt

Nam đương đại, đặc biệt là thể loại hồi kí.

- Trong khóa luận này, chúng tôi không đặt nhiệm vụ nghiên cứu toàn

bộ sự nghiệp văn học của Tô Hoài mà chỉ tập trung vào cuốn hồi kí Cát bụi

chân ai để làm rõ bức tranh hiện thực đời sống và con người.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp khảo sát thống kê

Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp khảo

sát thống kê để có những ý kiến đánh giá, những nhận xét, những dẫn chứng

tiêu biểu phục vụ cho việc làm sáng tỏ vấn đề: Bức tranh hiện thực đời sống

và con người trong hồi kí Cát bụi chân ai của nhà văn Tô Hoài.

6

5.2. Phương pháp phân tích tổng hợp

Đây là phương pháp chính của khóa luận. Trên cơ sở phân tích tổng

hợp những giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm, người viết sẽ

chỉ ra được những nét đặc sắc trong hồi kí của Tô Hoài. Từ đó, góp thêm một

tiếng nói tiếp tục khẳng định tài năng của nhà văn Tô Hoài trong sự nghiệp

văn học của nước nhà.

5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu

Phương pháp này được sử dụng để làm nổi bật sự khác biệt, độc đáo

trong hồi kí của Tô Hoài so với hồi kí của một vài tác giả khác và ngay chính

bản thân Tô Hoài trong từng giai đoạn sáng tác.

6. Đóng góp mới của khóa luận

Khóa luận vừa kế thừa những nhận định, đánh giá của các nhà nghiên

cứu đi trước, vừa tìm tòi, lựa chọn, khám phá để từ đó làm rõ những đặc điểm

nổi bật nhất, đặc sắc nhất của hồi kí Tô Hoài về cảm hứng thế sự phản ánh

hiện thực đời sống và con người.

Kết quả của khóa luận góp phần gợi mở hướng tiếp cận tác phẩm hồi kí

Tô Hoài. Giải quyết những vấn đề đặt ra, khóa luận đem lại cho độc giả yêu

mến nhà văn Tô Hoài một cách nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn về tác giả.

Đồng thời, khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho học sinh, giáo viên,

sinh viên khi nghiên cứu về tác giả Tô Hoài.

7. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính

của khóa luận được chia làm 2 chương:

Chương 1: Hồi kí Tô Hoài trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam đương đại

Chương 2: Nhận diện hiện thực đời sống và con người trong hồi kí Cát

bụi chân ai của Tô Hoài

7

CHƢƠNG 1

HỒI KÍ TÔ HOÀI TRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI

VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

1.1. Giới thuyết về thể loại

1.1.1. Giới thuyết về kí

Kí là một loại hình văn học ra đời từ rất sớm trong lịch sử văn học nhân

loại nhưng phải đến thế kỉ XVIII đặc biệt là thế kỉ XIX, kí mới thực sự phát

triển mạnh mẽ. Với tư cách là một thể loại văn học mang tính thời sự, nhạy

bén và kịp thời nhất, kí là một hình thức biểu hiện của cuộc sống trong trạng

thái vận động trôi chảy, phát huy được sức mạnh của thể loại vào những khúc

quanh, những bước ngoặt của lịch sử, của thời đại. Chính vì vậy, so với các

thể loại khác như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, thơ thì kí là thể loại gây ra

nhiều tranh cãi, bàn luận các vấn đề liên quan đến nó.

Theo Từ điển văn học: “Kí phản ánh sự việc và con người có thật trong

cuộc sống, tính chính xác tối đa là đặc trưng cơ bản của kí. Do sức hấp dẫn,

sức thuyết phục của kí một phần do chính sự việc được phản ánh trong tác

phẩm. So với tiểu thuyết, truyện ngắn, kí phản ánh nhanh chóng, chính xác và

linh hoạt cuộc sống” [15].

Từ điển Tiếng Việt cho rằng: “Kí là một thể văn tự sự viết về người thật,

việc thật có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực ở mức cao nhất” [9].

Từ điển thuật ngữ văn học xác định: “Kí là một loại hình văn học trung

gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể văn xuôi tự sự (…) không

nên căn cứ vào cách gọi tên của nhà văn để xác định thể loại (…). Kí không

nhằm vào việc miêu tả quá trình hình thành tính cách cá nhân trong tương

quan với hoàn cảnh (…). Đối tượng nhận thức thẩm mỹ của kí thường là một

trạng thái đạo đức  phong hóa xã hội (thể hiện qua những cá nhân riêng lẻ)

8

một trạng thái tồn tại của con người hoặc những vấn đề xã hội nóng bỏng…

Vì thế nhiều tác phẩm kí gần gũi với truyện ngắn. Nhưng khác với truyện

ngắn, truyện vừa, đặt biệt là tiểu thuyết, kí mang đặc trưng thể loại là tôn

trọng sự thật khách quan của đời sống. Người viết kí phải luôn đảm bảo cho

tính xác thực của đời sống phản ánh trong tác phẩm. Kí thường không có cốt

truyện nhưng lại có tính hư cấu. Sự việc và con người trong kí phải xác thực

hoàn toàn, có địa chỉ hẳn hoi vì kí dựng lại những sự thật đời sống cá biệt một

cách sinh động chứ không xây dựng hình tượng mang tính khái quát” [2].

Có thể nói, tính chính xác là đặc trưng cơ bản và quan trọng nhất của

kí. Nói như vậy, không có nghĩa là người viết kí không có quyền hư cấu,

tưởng tượng. Nhưng hư cấu trong kí khác với hư cấu trong truyện. Nếu truyện

dùng hư cấu tưởng tượng để tạo ra cái hiện thực thứ hai cao hơn hiện thực

ngoài đời sống thì kí chỉ thể hiện vai trò sáng tạo chủ quan thông qua liên

tưởng, ước đoán trong việc lựa chọn, tổ chức, sắp xếp, bình giá những sự

việc, hiện tượng, con người nổi bật ở những nét tiêu biểu điển hình của nó.

Mặc dù có hư cấu song ta hiểu, kí vẫn luôn lấy “người thực, việc thực” làm

điểm tựa sáng tác. Trong người thực, việc thực có những thành phần xác định

như tên tuổi, lai lịch, ngoại hình, nguồn gốc gia đình, văn hóa mà người viết

phải đạt đến mức tối đa. Có nhiều trường hợp người viết có thể quên, lúc đó

người ta phải dùng đến bút pháp hư cấu. Tuy nhiên nếu hư cấu vượt quá

ngưỡng cho phép kí sẽ trở thành thể loại khác như: truyện kí, tiểu thuyết…

Nói như Chế Lan Viên: “Với thể kí, ngoài việc phản ánh người thật, việc thật

ra còn có thể nói cái cảm xúc, suy tưởng, thậm chí tưởng tượng nữa” [32].

Điều đó có nghĩa là “kí cần tái tạo sự sống, miêu tả sự sống với đầy đủ sức

sống chứ không phải là những ghi chép khô khan” [32]. Muốn vậy, người viết

kí phải đi nhiều, có vốn sống, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, phải thực sự sống

với tư liệu, hay nói như Tô Hoài mỗi con số trong kí phải “đằm thắm những

9

tình cảm”. Nhưng việc quan trọng nhất do trần thuật người thật, việc thật nên

kí có giá trị cung cấp những tri thức về cuộc sống và có giá trị như những tư

liệu lịch sử quý giá đúng như lời khẳng định của GS. Hoàng Ngọc Hiến:

“Ngoài gây hiệu quả khoái cảm mỹ học, thể kí gây ở người đọc những khoái thú

thuần trí tuệ bằng việc cung cấp những tri thức người đọc quan tâm” [32].

1.1.2. Hồi kí và đặc trưng thể loại

“Hồi kí là một thể thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra

trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến” [2]. Các vấn đề

trong hồi kí thuộc bình diện quá khứ mà người viết ghi lại bằng những ấn

tượng, những hồi ức trực tiếp của mình. Lẽ dĩ nhiên, đó là những điều vẫn còn

ám ảnh và có ý nghĩa quan trọng đối với người viết. Điểm khác biệt của chủ

thể trần thuật trong hồi kí so với tiểu thuyết là người viết hồi kí chỉ tiếp nhận

và ghi chép phần hiện thực mà tác giả nhìn rõ hơn cả dựa trên cơ sở những ấn

tượng về hồi ức riêng trực tiếp của mình. Bản thân người viết hồi kí luôn ở

bình diện thứ nhất. Chính vì vậy, hồi kí thường khó tránh khỏi phiến diện, ít

nhiều tính chủ quan của thông tin, tính không đầy đủ của sự kiện. Song dưới

hình thức diễn đạt sinh động, trực tiếp của tác giả các sự kiện này trở nên có

giá trị như một tài liệu đáng tin cậy.

“Hồi kí đòi hỏi phải hết sức tôn trọng tính chân thực của câu chuyện sự

việc, số liệu, thời gian phải chính xác” [2]. Tuy nhiên tính chính xác, chân

thực trong hồi kí không đòi hỏi tới mức nó phải là sự sao chép thụ động theo

kiểu máy ảnh, máy ghi âm, cũng không phải là bản tin thông báo về các sự

kiện lịch sử hay tiểu sử của nhà văn. Tính chân thực của hồi kí phụ thuộc vào

khả năng ghi nhớ, vào sự chân thực của chính tác giả, người viết hồi kí. Nếu

người viết hồi kí có biệt tài riêng trong việc ghi nhớ các sự kiện xảy ra trong

quá khứ thì sự việc dù xảy ra đã lâu nhưng mọi chi tiết, sự kiện vẫn được tái

10

hiện một cách chân thực như vừa mới diễn ra. Hồi kí Tô Hoài là một điển

hình cho khả năng ghi nhớ của nhà văn, đặc biệt là cuốn Cát bụi chân ai.

Hồi kí thường chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử. Nhưng khác với

các sử gia, các nhà nghiên cứu tiểu sử: “Chỉ tái hiện cái phần hiện thực nằm

trong tầm nhìn của mình, anh ta thường chỉ căn cứ chủ yếu vào những ấn

tượng, hồi ức của bản thân mình” [2]. Vấn đề nổi lên hàng đầu ở thể văn này

là bản thân người viết hoặc các nhân vật, sự kiện liên quan đến anh ta trong

đời sống, được đặt trong trường nhìn, sự đánh giá, nhận xét của chính anh ta.

Hồi kí do vậy thường mang đậm tính chủ quan. Các sự việc, hiện tượng được

phản ánh, được kể lại trong hồi kí chịu sự tác động của quy luật “quên lãng”

và “làm méo lệch” của cơ chế hồi ức. Nếu câu chuyện xảy ra trong quá khứ

gần hoặc mới xảy ra người viết còn nhớ rõ thì dòng hồi tưởng có thể chân

thực, sinh động đến từng chi tiết. Song cũng có khi câu chuyện đã lùi sâu vào

dĩ vãng, người kể quên đi một số chi tiết đòi hỏi phải dùng trí tưởng tượng để

hư cấu nhào nặn bổ sung cho cái khung hiện thực trở nên sinh động, hấp dẫn.

Người viết dùng hư cấu để tái tạo hiện thực nhằm phản ánh một cách đầy đủ

và toàn vẹn diện mạo của đời sống trong tính đa dạng, phức tạp của nó. Bản

thân nghệ thuật là sự chắt lọc của đời sống, là sự lựa chọn những nét điển

hình làm cho tác phẩm có chỗ đứng trong lòng công chúng. Xây dựng hình

tượng nghệ thuật đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn các chi tiết đan cài các suy

nghĩ, tâm trạng nhân vật. Đó chính là nét hư cấu trong hồi kí. Tự bộc lộ, đưa

những suy nghĩ, tình cảm, ấn tượng của mình, cấp cho nó một hình dáng, một

diện mạo cụ thể âu cũng là nhu cầu của sự sáng tạo. Tuy nhiên, mọi sự thêm

thắt, hư cấu trong hồi kí cũng không nằm ngoài mục đích tái hiện sinh động

cái hiện thực đang được phản ánh.

Nhìn chung, là một thể loại tự sự đặc biệt, hồi kí thiên về trần thuật từ

ngôi thứ nhất  tác giả. Nó mang tính xác thực, tính chủ quan và hình thức tự

11

sự của dòng hồi ức. Sức hấp dẫn của hồi kí chính là bản thân các sự việc, hiện

tượng được phản ánh trong tác phẩm và cách kể chuyện của tác giả. Nhưng

hơn hết là cái tôi cá nhân hiện hình, sống động trên trang giấy. Nhân vật Tôi 

người kể chuyện trong hồi kí do lựa chọn điểm nhìn  phạm vi, trình tự phản

ánh, giọng điệu nghệ thuật cốt sao tái hiện được quá khứ rõ nét và sinh động.

Với vai trò là người tham dự, chứng kiến câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ,

nhân vật Tôi  tác giả trở thành một đảm bảo khá vững chắc mà câu chuyện

đề cập tới.

1.2. Thể loại hồi kí trong văn xuôi Việt Nam đƣơng đại

Hồi kí ra đời từ rất sớm. Ngay từ thời cổ đại Hy Lạp nhân loại đã được

biết đến những trang hồi ức của Kxenôphan và Xôcnat ghi chép về các cuộc

hành quân của người Hy Lạp thế kỉ V TCN. Đây được coi là tác phẩm hồi kí

cổ xưa nhất. Thế kỉ XVI ở các nước phương Tây khoa học kĩ thuật phát triển,

ý thức cá nhân ngày càng nâng cao trở thành cơ sở cho hồi kí phát triển mạnh.

Hồi kí của các nhà văn, các chính khách, các nhân vật quan trọng đã xuất hiện

ở phương Tây từ nhiều thế kỉ trước.

Mãi đến thế kỉ XVIII, ở Việt Nam các tác phẩm kí lần đầu tiên mới

xuất hiện như Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh kí sự của Lê

Hữu Trác. Gần hai thế kỉ sau khi kí xuất hiện, hồi kí mới thực sự ra đời. Phan

Bội Châu niên biểu đầu thế kỉ XX được coi là cuốn hồi kí đầu tiên của Việt

Nam. Tác phẩm là sự ghi chép những tháng năm hoạt động cách mạng của

người chí sĩ yêu nước. Ghi lại cách cảm, cách nhìn của một con người không

còn là cá nhân riêng lẻ trong đời thường nữa mà là con người của thời đại đặt

số phận mình trong số phận chung của cộng đồng, của dân tộc. Cùng với

Phan Bội Châu niên biểu, một số bài viết có tính chất hồi kí như Giấc mộng

lớn, Giấc mộng con của Tản Đà. Ý thức về con người cá nhân, bản lĩnh cá

nhân cùng với cốt cách của bậc trượng phu đã tạo cho Tản Đà cái ngông của

12

người trí thức ý thức rõ về con người mình. Ngoài ra còn phải kể đến sự xuất

hiện của Tương Phố với Giọt lệ thu. Đây là tiếng lòng của cô gái Bắc Ninh

hồi tưởng lại những tháng ngày đẹp đẽ của tình nghĩa vợ chồng và bày tỏ nỗi

lòng thương nhớ khôn nguôi của người vợ với chồng quá cố.

Những năm 1930  1945 hồi kí phát triển mạnh trên văn đàn. Nhiều tác

phẩm hồi kí, tự truyện liên tiếp ra đời với nội dung chủ yếu viết về thân phận,

số phận của các nhà văn trong một đoạn đời cụ thể. Sự phát triển của hồi kí

giai đoạn này đánh dấu sự du nhập của văn hóa phương Tây vào Việt Nam,

làm thay đổi đời sống xã hội, thay đổi nhận thức, tư tưởng của con người. Tư

tưởng đó xuất hiện trong thơ, trong tiểu thuyết rõ nhất là trong hồi kí. Đến

giai đoạn 1945  1954, đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, hồi

kí lại phát triển theo một hướng khác. Thời điểm này do áp lực của xã hội

trước các vấn đề xung đột dân tộc và giai cấp, kí văn học chuyển hướng phát

triển sang thể kí sự, bút kí để kịp thời phản ánh những sự kiện dồn dập đang

diễn ra trên khắp đất nước. Đến năm 1950, hồi kí mới xuất hiện trở lại nhưng

là hồi kí cách mạng. Đây là dòng hồi tưởng của các chiến sĩ cách mạng lớp

trước, các sĩ quan quân đội về những năm tháng hoạt động cách mạng đầy

gian khổ, những chiến công oanh liệt mà họ và đồng đội đã trải qua. Hồi kí

cách mạng đề cao chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bồi

đắp tình cảm yêu nước, lòng tự hào về truyền thống cách mạng của thế hệ đi

trước mở đường. Những cuốn hồi kí Hai lần vượt ngục của Trần Đăng Ninh,

Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận. Hồi kí của Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Thị

Định. Các hồi kí Nhân dân ta rất anh hùng, Trên đường thắng lợi, Người

trước ngã người sau tiến của nhiều tác giả… Nhân vật trong các hồi kí này là

những con người gắn liền với các biến cố trọng đại của Cách mạng, của dân

tộc. Họ là những con người vĩ đại chiến đấu vì nước, vì dân.

13

Thời kì 1954  1975, ở miền Nam xuất hiện một số cây bút viết hồi kí

văn học. Họ là những nhà văn, nhà thơ thuộc thế hệ tiền chiến nay tái hiện là

đời sống văn học theo quan điểm cá nhân của riêng mình. Các hồi kí Bốn

mươi năm nói láo của Vũ Bằng, Văn thi sĩ tiền chiến của Nguyễn Vĩ… xuất

hiện ở Sài Gòn vào những năm 60. Ở miền Bắc ngay từ những năm 1970, hồi

kí văn học cũng được chú ý. Một số nhà văn đã lấy bản thân mình ra làm đối

tượng để suy ngẫm. Thời điểm này Tô Hoài cũng cho ra đời cuốn Tự truyện

(1973) viết về cuộc sống của những người thợ thủ công vùng ngoại ô Hà Nội

trên con đường tìm kiếm miếng cơm manh áo…

Năm 1975, đất nước thống nhất, sự thức tỉnh của ý thức cá nhân khiến

cho hồi kí văn học phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhà văn viết hồi kí để nói rõ

hơn những sự thật mà trước kia họ chưa có dịp để nói hay viết những mảng

tối còn chìm khuất trong đời sống hôm qua giúp người đọc hiểu rõ hơn những

phức tạp đã tồn tại một thời. Hồi kí Nguyễn Khải phần lớn được sáng tác

trong khoảng thời gian từ sau 1980. Khi tác giả ở độ tuổi “thất thập cổ lai hi”

cũng là lúc nhà văn có dịp chiêm nghiệm lại những biến thiên, thăng trầm của

cuộc sống. Vì vậy, những tác phẩm hồi kí của ông thực sự có giá trị trong

chiều sâu tư tưởng. Hồi kí Tô Hoài cũng được viết khi ông còn rất trẻ đề cập

đến cuộc sống xã hội vùng đất Nghĩa Đô nơi ông sinh ra và lớn lên với cái

nhìn rất chân thực. Tuy nhiên, cũng có những nhà văn viết hồi kí chỉ đơn

thuần để nhìn lại những chặng đường đã qua của bản thân mà tránh đề cập

đến khúc mắc, những vấn đề bên trong đời sống văn nghệ. Hồi kí Song đôi

của Huy Cận được viết theo hướng này.

Văn học thời kì đổi mới đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, mỗi nhà

văn tự tạo cho mình một diện mạo riêng, một cách nhìn riêng, một giọng điệu

riêng góp phần vào thế giới muôn màu, muôn vẻ của đời sống văn học.

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải thì truyền thống, mực thước. Dương

14

Hướng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường thì gai góc, sắc nhọn. Phạm Thị Hoài,

Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp thì gây hấn, khiêu khích. Mỗi người một vẻ,

một cá tính tự do thể hiện bản sắc cá nhân của mình. Chưa bao giờ đời sống

văn học lại phong phú, khởi sắc đến như vậy. Cũng vào thời điểm ấy giữa cơn

lốc của sự đổi mới, trên văn đàn xuất hiện hàng loạt các hồi kí văn học. Mảnh

đất hồi kí văn học giai đoạn này thu hút đông đảo sự đánh giá của dư luận. Tô

Hoài với hai tác phẩm hồi kí Cát bụi chân ai, Chiều chiều đã thực sự gây

tiếng vang lớn trong lòng độc giả và giới nghiên cứu phê bình. Hòa cùng trào

lưu đó các nhà văn, nhà thơ vốn rất quen thuộc với bạn đọc cũng tung ra

những trang viết về cuộc đời của chính mình. Anh Thơ với hồi kí Từ bến sông

Thương (1985), Nguyễn Văn Bổng với hồi kí Thời đã qua (1995), Lưu Trọng

Lư với hồi kí Nửa đêm sực tỉnh (2001), Huy Cận với hồi kí Song đôi (2003)

và hàng loạt hồi kí khác… Phong phú về số lượng, đa dạng trong khuynh

hướng sáng tác, hồi kí giai đoạn này đã giành được tiếng nói riêng của mình

trên văn đàn văn học nghệ thuật. Ta bắt gặp điểm tương đồng giữa hồi kí Tô

Hoài và Nguyễn Văn Bổng trong việc xây dựng chân dung của chính mình

cũng như chân dung các bạn văn cùng thời. Hai hồi kí Cát bụi chân ai, Chiều

chiều, Tô Hoài ít đề cập đến quá trình sáng tác của bản thân mà chủ yếu viết

về đời sống văn nghệ với hàng loạt chân dung các nhà văn, nhà thơ Nguyễn

Bính, Xuân Diệu, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Phùng Quán… Mỗi người

một vẻ, một số phận riêng không ai giống ai nhưng thông qua chân dung của

họ, Tô Hoài tái hiện lại đời sống văn học ngày hôm qua trong cái nhìn chân

thành trong sáng nhưng cũng chứa đựng nhiều sai lầm, ấu trĩ của một thời.

Khác với Tô Hoài, Nguyễn Văn Bổng, Lưu Trọng Lư lại đắm mình trong

dòng hồi tưởng với những cảm xúc riêng tư trước sự thay đổi của số phận con

người. Anh Thơ, Huy Cận lại đi vào tái hiện những sự kiện đời tư của cá nhân

mình mà ít chú ý đến những miền còn khuất lấp trong đời sống xã hội. Nhờ

15

không khí dân chủ trong thời kì đổi mới, nghệ sĩ có cơ hội được đối thoại với

đời sống một cách cởi mở. Hồi kí chính là một hình thức giao tiếp đặc biệt

của nhà văn với bạn đọc về mọi vấn đề của cuộc sống hôm nay.

1.3. Tô Hoài và thể loại hồi kí trong văn xuôi Việt Nam đƣơng đại

1.3.1. Tiểu sử nhà văn Tô Hoài

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27/9/1920 trong một gia

đình thủ công nghèo làm nghề dệt lụa ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh

Hà Đông cũ, nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Quê nội của

ông ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Bút danh Tô Hoài

cũng xuất phát từ hai địa danh sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức của quê ngoại

nhà văn ở làng Nghĩa Đô.

Ngay từ nhỏ, ông đã sớm hòa mình vào cuộc sống của gia đình lúc

phong lưu cũng như khi sa sút, túng quẫn với những niềm vui bình dị, đôi khi

pha chút buồn thấm thía, xót xa. Gia đình trong kí ức Tô Hoài ngày ấy là ngôi

nhà cổ với nhiều kỉ niệm. Mỗi góc nhà, mỗi cột nhà đều gắn liền trong kí ức

ông với những câu chuyện kì lạ, bí ẩn. Trong gian nhà ấy ông cảm nhận được

niềm vui sum họp và cả nỗi buồn chia li khi người cha phải từ giã quê hương

vào Sài Gòn kiếm sống vì đã đi tìm việc nhiều nơi nhưng không có. Khi tin

tức về người cha bặt vô âm tín, tiền gửi thưa dần rồi mất hẳn cũng là lúc thằng

cu Bưởi phải thôi học, rời Kẻ Chợ về cõng em. Trong kí ức Tô Hoài còn in

đậm hình ảnh người mẹ hiền lành, tần tảo, cam chịu số phận nhọc nhằn mà

cái nghèo, cái đói cứ bám riết lấy và cả nỗi đau về tinh thần mà mẹ phải hứng

chịu. Đứa con gái xấu số của mẹ đã mất vì bệnh sởi và có tới mấy năm rồi

không tin tức bố tôi “người làng bên đồn bố tôi đã lấy vợ trên Sài Gòn”.

Mảnh đời đầy cay đắng của mẹ đã trở thành hình ảnh sống động ảnh hưởng

sâu sắc đến tâm hồn nhà văn trong những ngày còn thơ dại, ngay khi bắt đầu

biết cảm nhận những vui buồn trong cuộc sống.

16

Tuổi thơ Tô Hoài gắn bó với ông bà ngoại và các dì. Ông ngoại

“nghiện rượu ngữ” khi say thì sinh sự đánh bà vì “cái tội không đẻ được con

trai”, khi thì hiền lành âu yếm cháu kể lại chuyện ngày xưa. Bà ngoại thì vừa

nhiều lời, vừa cam chịu nhưng cũng chiều chuộng và yêu thương cháu hết

lòng. Sống trong bối cảnh gia đình thường xuyên có tiếng xô xát, kí ức về gia

đình trong những ngày ấy khiến Tô Hoài không quên được cảm giác: “Nhà tôi

còn êm ấm sao được nữa khi sự túng thiếu ngày càng gô cổ mỗi con người lại

và mỗi người đều ngày cứ bẳn gắt nhau, càng lúc thương, lúc ghét nhau hết

sức thất thường”. Hai bên gia đình nội ngoại của Tô Hoài đều là những người

lao động lam lũ, nghèo khó, không có truyền thống văn chương giống như

một số nhà văn khác. Gia cảnh của Tô Hoài chỉ trang bị cho nhà văn cảnh

nghèo đói, túng quẫn tuy chưa đến mức tận cùng dưới đáy xã hội, những nỗi

lo cơm áo gạo tiền đôi khi cũng là nguyên nhân gây ra xô xát giữa những

người thân trong gia đình. Do tuổi thơ sớm phải chứng kiến những cảnh buồn

nhiều hơn vui của gia đình, sớm nếm trải cuộc sống gian truân đời thường nên

cảm quan hiện thực của nhà văn “thấm được và thấm nhanh nỗi buồn” là vì vậy.

Hoàn cảnh gia đình khiến Tô Hoài chỉ được học hết bậc tiểu học rồi

sớm trở thành thợ cửi. Làng nghề lụi bại, ông phải lận đận trong công việc

mưu sinh. Làm đủ mọi nghề để kiếm sống: Từ bán hàng, phụ kế toán đến coi

kho cho hiệu buôn giày, dạy học và trải qua cả những tháng ngày thất nghiệp

tủi nhục không một xu dính túi. Những ngày tháng ấy hiện lên qua Tự truyện

thật xót xa và cay đắng: “Ngày ngày tôi cuốc bộ vào thành phố tha thẩn ở các

vườn hoa. Tôi xem kiến bò đến tận hôm tôi có thể phân biệt rạch ròi ra từng

loại kiến xây tổ khác nhau”.

Không khuất phục trước hoàn cảnh, luôn nỗ lực vươn lên để khẳng

định mình. Ông tự trau dồi tri thức bằng việc đọc bất cứ thứ gì có thể đọc

được. Những chồng Tiểu thuyết thứ bảy bán cân mua ở hiệu sách cũ khiến Tô

17

Hoài “mải mê đọc mà không hề để ý điều đó”. Niềm ham mê đọc sách giúp

ông có vốn sống ngày càng phong phú. Những câu chuyện thượng vàng, hạ

cám như giá cả sinh hoạt, chợ búa, tiếng nhà nghề, tiếng địa phương… đều

được ông ghi chép một cách tỉ mỉ, chi tiết và trở thành yếu tố quan trọng tạo

nên sự gắn bó máu thịt với cuộc sống dân dã, bình dị ở các miền quê mà ông

từng gắn bó. Không chỉ đọc nhiều, Tô Hoài còn chịu khó học hỏi cuộc sống

đang diễn ra xung quanh, với khả năng quan sát tinh tường đến mức “con ruồi

bay qua cũng không lọt khỏi mắt” (Vương Trí Nhàn). Mọi biến động cuộc

sống xoay quanh cuộc đời nhân vật đều được nhà văn phản ánh chân thực góp

phần đem lại bản chất vốn có của nó. Đến với nghề văn một cách tự nhiên, Tô

Hoài sớm nhận ra văn xuôi chính là mảnh đất canh tác màu mỡ của mình.

Ông thực sự say mê cuộc sống sinh hoạt bình dị của làng quê, gia đình, bạn

bè, bản thân và các phong tục tập quán của các dân tộc. Cả cuộc đời cầm bút,

Tô Hoài bám riết lấy cuộc sống trong cảm quan hiện thực để tung hoành và

bộc lộ sở trường của mình một cách toàn diện sâu sắc.

Lớn lên trong cảnh đất nước chìm đắm trong màn đêm nô lệ, cuộc sống

của các tầng lớp đều cơ cực, nét đẹp văn hóa bị mai một, trộm cắp vặt thường

xuyên xảy ra, làng quê ngày càng trở nên tiêu điều, xơ xác. Chứng kiến cảnh

sống bất hạnh ấy, Tô Hoài sớm trĩu nặng nỗi buồn. Và trong chính những

ngày tháng đó, phong trào cách mạng đã tràn về. Tô Hoài nhanh chóng hòa

mình vào không khí thời đại, đem hết sức mình phục vụ cách mạng và phong

trào văn nghệ cách mạng. Lặng lẽ sống, quan sát, thu vào trong mình tất cả

các biến động của lịch sử bằng một lăng kính riêng một cách nhìn riêng

không giống với bất cứ ai, Tô Hoài đã khéo léo thể hiện cuộc sống từ nhiều

chiều chân thực, vẹn nguyên như chính cuộc sống đang diễn ra như thế.

Là người sớm giác ngộ cách mạng, nhiệt tình tham gia nhiều công việc

đoàn thể, chính quyền từ khi còn rất trẻ, Tô Hoài đã từng giữ nhiều cương vị

18

trong Hội Văn nghệ, Hội Nhà văn. Ông cũng từng là đại biểu Quốc hội, từng

tham gia các đoàn thể quốc tế và tham gia cả các hoạt động của khu phố, tổ

dân phố. Ở cương vị nào ông cũng làm tròn trách nhiệm. Cuộc đời hoạt động

cách mạng và quá trình tham gia công tác xã hội là cơ hội thuận lợi giúp nhà

văn thâm nhập vào cuộc sống muôn màu, muôn vẻ, hiểu được đời sống của

mọi tầng lớp người trong xã hội mang lại cho những trang văn của ông mảng

hiện thực chân xác của lịch sử.

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác hồi kí của Tô Hoài

Với gần nửa thế kỉ lao động nghệ thuật, Tô Hoài đã có những đóng góp

quan trọng cho nền văn học nước nhà cả giai đoạn trước và sau Cách mạng

tháng Tám. Tô Hoài viết đủ mọi thể loại: Truyện ngắn, truyện đồng thoại, bút

kí, hồi kí, phóng sự, kịch bản phim… Con số gần 200 tác phẩm đã xuất bản

chứng tỏ ở Tô Hoài một sức sáng tạo mạnh mẽ, dài hơi kiên nhẫn, đều đặn và

kiên tục, đủ để đưa ông trở thành một trong những cây đại thụ của nền văn

học Việt Nam. Ở mảng sáng tác nào, ông cũng có những thành công và ghi

được dấu ấn riêng. Ông thật sự là một tấm gương sáng về lòng say mê học

tập, ham hiểu biết tự trau dồi kiến thức cho mình. Tài năng thiên bẩm cùng

với sự say mê học hỏi đã giúp nhà văn có được văn nghiệp đồ sộ như ngày

hôm nay. Riêng ở thể hồi kí, ông cũng khẳng định được tài năng và sức sáng

tạo mãnh liệt của mình ở nhiều tác phẩm như: Cỏ dại (1944), Tự truyện

(1978), Những gương mặt chân dung văn học, Cát bụi chân ai (1992), Chiều

chiều (1999). Hồi kí Tô Hoài có những đặc trưng về cảm quan nhân bản, về

con người và sự kiện được nhớ lại và cả về nghệ thuật trần thuật. Có lẽ ở hồi

kí ông mới có dịp “tung hoành” ngòi bút bộc lộ phong cách nghệ thuật của

mình một cách rõ nhất. Cỏ dại và Tự truyện được xây dựng theo trật tự thời

gian từ lúc ấu thơ ở làng Nghĩa Đô cho đến khi trưởng thành đi khắp nơi kiếm

sống và tìm đến với Cách mạng, đến với nghề văn của nhà văn. Còn Những

19

gương mặt chân dung văn học là chân dung những nghệ sĩ cụ thể được phân

chia rất rõ ràng. Khác với quan niệm chung về hồi kí là nói về mình, tổng kết

lại đời mình, Tô Hoài đã dựng lên cả một bức tranh cuộc sống đa chiều về

hiện thực qua Cát bụi chân ai và Chiều chiều. Ở đấy Tô Hoài đã làm được

việc mà nói như Vương Trí Nhàn: “Trước mọi sự việc, mỗi người đều có cách

phản ứng riêng của mình, người nọ làm nền cho người kia để trong sự so

sánh, mỗi người lại hiện ra sắc nét hơn... Và điều nhắn gửi cuối cùng của nhà

văn là cái chân lí sóng đôi, chúng ta mỗi người mỗi tính, không ai giống ai

mà đồng thời chúng ta lại lồng ghép lên nhau, quyến quyện với nhau hoặc nói

như danh từ vật lí ánh xạ vào nhau. Tôi có viết hồi kí cho riêng tôi đâu, tôi

viết cho cả những người thân sơ đã cùng tôi chia sẻ cái cuộc đời lạ lùng

này”[46]. Với cách viết hồi kí như thế, Tô Hoài đã gián tiếp bộc lộ ý tưởng

của mình: Dù đời sống có thế nào đi chăng nữa thì tôi vẫn cứ là tôi, cái quá

khứ của tôi là sự đảm bảo vững chắc cho điều đó. Suốt một đời văn Tô Hoài

đã tạo cho mình một phong cách riêng, một “thương hiệu” nghề nghiệp riêng

đáng kính trọng.

1.3.3. Quan niệm của Tô Hoài về hồi kí

Ngay từ khi mới vào nghề, Tô Hoài đã chứng tỏ ý thức sáng tạo của

một nghệ sĩ chân chính. Điều đó trước hết được thể hiện ở quan niệm của Tô

Hoài về văn chương nói chung: “Chưa bao giờ bắt chước viết theo lối truyện

của Nhất Linh, Khái Hưng. Mặc dù tôi cũng thích đọc những truyện ấy. Bởi lẽ

giản dị: viết truyện giang hồ kì hiệp, ai cũng có thể tưởng tượng nhưng viết

cái thật thì đời và người trong truyện của mấy ông nhà giàu con quan và có

đồn điền như thế, tôi không biết những kiểu người ấy, không bắt chước

được”. Hoàn cảnh xuất thân và môi trường sống của Tô Hoài quá xa cách với

tầng lớp thượng lưu, ông chỉ quen thuộc, gần gũi với đám bình dân, những

con người lam lũ, khổ nghèo, nhếch nhác. Cái nhà văn quan tâm chính là cuộc

20

sống bình dị của bản thân và những người xung quanh, là những chuyện xảy

ra “trong nhà, trong làng quanh mình” [25, tr.218].

Về thể kí, Tô Hoài cũng đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của nhà

văn. Với ông, “Nhà văn là thư kí của thời đại. Trách nhiệm và vinh dự ấy là

câu định nghĩa của cuộc sống dành cho những ngòi bút chân chính. Tôi nghĩ

danh hiệu cao quý ấy, mệnh lệnh chiến đấu ấy trước nhất trân trọng tặng

những người viết thể loại kí: phóng sự, tùy bút, kí sự, bút kí, cũng như những

người cầm cày cuốc, họ đông nhất và bao giờ cũng đi hàng đầu, có mặt khắp

nơi trên các trận tuyến văn nghệ và đời sống” [25]. Suy nghĩ ấy chứng tỏ sự

đánh giá rất cao của Tô Hoài đối với người viết kí. Kí là ghi chép, nhưng

không phải đơn thuần là ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, mà đòi hỏi

người viết phải có tài năng và vốn sống phong phú.

Là người viết, Tô Hoài đã lựa chọn cho mình mảnh đất khá cứng rắn để

gieo mầm phát triển, đó là hồi kí. Và ông đã gặt hái được nhiều thành công.

Con đường đi đến thành công được Tô Hoài đánh đổi bằng cả một đời người.

Hồi kí Tô Hoài cuốn hút người đọc bới tính chân thực của nó. Trong một cuộc

trò chuyện với phóng viên báo Lao động (2006), Tô Hoài vẫn khẳng định:

“Tôi đang tập dượt để viết hồi kí”. Theo ông “Mỗi lần viết kí là một lần đấu

tranh tư tưởng để nói ra sự thật. Sự thật đó có lẽ nhiều nhà văn cố gắng đạt

cho được nhưng có làm được hay không lại là chuyện khác. Khi có cuốn sách

không được phát hành hoặc bị phê phán, tôi nghĩ mình vẫn phải viết mà

không để ý cuốn sách đó liệu có được xuất bản hay không” [27]. Chiều chiều

và Cát bụi chân ai là những cuốn hồi kí đã chịu số phận như vậy, thậm chí

Chiều chiều đã được xuất bản (1999) nhưng một thời gian sau lại bị lặng lẽ,

có lẽ cũng vì “sự thật” khốc liệt mà nó đề cập đến. Khi viết về sự thật, nhà

văn ý thức rất rõ “Không đấu tranh với chính mình thì chưa chắc nói ra sự

thật được. Mà đôi khi chỉ là một nửa sự thật. Đã là sự thật thì không tầm

21

thường cho dù có người nói tôi “đập vỡ” các thần tượng của họ. Nhìn chung,

trong hồi kí thường thì người ta không nói thật mình lắm hoặc chỉ nói tốt về

mình. Tôi ít viết về mình mà viết về các nhà văn. Đọc bản thảo cho bạn bè, họ

thích thế là tôi cho ra một tập chân dung các nhà văn”. Ông phát biểu tiếp:

“Người ta thường viết hồi kí để trình bày một vấn đề gì đấy, để ca ngợi chính

mình, để yêu ai hoặc ghét ai, nhưng cũng có khi chỉ để tìm ra một điều gì đấy.

Nhưng với tôi, dù viết truyện ngắn, tiểu thuyết hay hồi kí thì tôi vẫn cố gắng

viết gần với sự thật, tiến tới sự thật” [28]. Tuy nhất quán với cách viết hiện

thực nhưng Tô Hoài lại rất linh hoạt trong quan niệm về hiện thực. Ông cho

rằng: “Cái góc độ sự thật nó cũng linh động lắm” và “chữ thực kia cũng có

năm bảy đường. Mỗi người có một sự thực của riêng mình mà cả những mơ

hồ tưởng của người ta rút cuộc cũng thực nốt” [28].

Khi được hỏi về vấn đề liệu Tô Hoài có thêm thắt vào những câu

chuyện khi xây dựng chân dung các nhà văn trong cuốn hồi kí của mình hay

không, Tô Hoài khẳng định rằng: “Sự thật đã là đẹp rồi. Đôi khi tôi tự hỏi

cách viết của mình có gì không đúng chăng? Tôi chỉ sợ viết những điều mình

không biết. Ví dụ như viết về thời đi học ở trường chính trị hai năm, thực tế

thế nào thì tôi viết như thế. Cuối cùng viết xong thì người ta không bằng lòng

cho rằng ở trường đó không có chuyện mất cắp được. Còn nếu hỏi có thêm

thắt hay không thì tôi khó có thể trả lời câu hỏi này. Khi tôi viết Mười năm có

nhiều người phê bình dữ dội mà tôi đâu có nản lòng, chỉ rút kinh nghiệm cho

riêng mình thôi…” [28]. Không để đối phó với ai, không nói quá cho ai hay tô

vẽ, lí tưởng hóa ai, có được động cơ trong sáng này đòi hỏi người viết thể loại

hồi kí phải công tâm. Và có thể nói, trong những tác phẩm hồi kí của mình,

Tô Hoài đã làm được điều đó.

Dù viết về ai, những người bạn nghệ sĩ, những con người bình thường

hay chính bản thân mình, Tô Hoài cũng xuất phát từ quan niệm “Người ta ra

22

người ta thì phải là người ta đã chứ” [20, tr.7]. Có sao viết vậy, có tốt, xấu,

dở, hay, những thói tật, những “chuyện bí mật riêng tư”, nhà văn cũng không

hề né tránh. Chính vì thế, đọc hồi kí của ông chúng ta một lần nữa được biết

thêm nhiều điều thú vị về những chuyện bên lề, chuyện “hậu trường”, “bếp

núc” của các nhà văn, về tuổi thơ, những gì mà Tô Hoài đã trải qua. Từ Cỏ

dại, Tự truyện, Những gương mặt chân dung văn học, đặc biệt đến Cát bụi

chân ai, Chiều chiều Tô Hoài đều có cái nhìn thống nhất, đó là sống đến đâu,

viết đến đấy. Thực tế không ở đâu xa, thực tế ở ngay chính con người bản

thân mình và chung quanh, băn khoăn mà làm gì, cứ ghi, cứ tả cho kĩ là được.

Và hồi kí là gì nếu không phải là một cái nhìn về quá khứ với một sự dũng

cảm nhìn thẳng vào sự thật, không lấp liếm, không e ngại. “Tôi lật con bài của

tôi cho mọi người xem” (Aragông).

Như vậy, theo quan niệm của Tô Hoài, muốn viết cho được hồi kí,

người viết rất cần có sự dũng cảm và trung thực. Trong cuộc sống còn bộn bề

phức tạp, dám nhìn thẳng vào sự thật là một điều đáng quý. Vì chỉ có sự dũng

cảm trong phê và tự phê thì mới có thể tiến bộ. Muốn biết được kí nói chung

và hồi kí nói riêng phải có quá trình tích lũy vốn sống nghiêm túc và tài năng

biểu hiện cần thiết. Hơn nữa, đối với người viết kí, hồi kí, vốn sống phải bao

la hơn. Với những quan niệm tiến bộ như vậy, Tô Hoài đã tự tạo ra được một

ngã rẽ độc đáo, để từ đó làm phong phú hơn diện mạo hồi kí văn học Việt

Nam hiện đại. Tác phẩm hồi kí của ông như một mạch ngầm trong lòng đất,

càng khơi càng trong, càng ngọt ngào, bất ngờ, thú vị.

1.3.4. Hồi kí Cát bụi chân ai

Cát bụi chân ai ra đời năm 1992 đã gây được tiếng vang lớn trên văn

đàn. Qua những dòng hồi kí chân thực, tỉ mỉ, tác giả đã dựng lại toàn cảnh

bức tranh về đời sống. Nhưng nổi bật trong Cát bụi chân ai là chân dung của

các nhà văn, những cây bút lão thành đã quá cố hoặc đang sống, trong đó có

23

cả chân dung của chính tác giả. Đó là cái nhìn của người trong cuộc với

những buồn vui; những băn khoăn, trăn trở; những khao khát, náo nức; những

gửi gắm lớn lao… Và ám ảnh người đọc vẫn là những cảm xúc tuôn trào từ

gan ruột người viết. Viết hồi kí là dịp để Tô Hoài giãi bày lòng mình, giải

phóng một pho tâm sự đang bị dồn nén và để thể hiện rõ hơn một quan niệm

sống, quan điểm nghệ thuật mà ông không muốn trực tiếp bộc lộ dưới dạng lí

luận hay “phát biểu ý kiến” tại các buổi họp, diễn đàn. Hình tượng giới cầm

bút trong các trang hồi kí của ông có thể khác xa với những gì người đời

thường tưởng tượng, song không vì thế mà mất đi lòng yêu quý, trân trọng

của bạn đọc. Họ không có cái độc đáo, phi thường của những bậc tài hoa, tài

tử, họ dung dị giữa đời thường như bao người trong xã hội. Đó là hình ảnh

một Nguyên Hồng “chiếc” ba lô con cóc trên lưng, trong cái cặp đúc da bò

nâu xỉn, gìn giữ từ ngày công tác cách mạng vẫn được tha đi, Nguyên Hồng

xếp từng chồng bản thảo, lại còn lỉnh kỉnh những hộp tiêm, kim tiêm nhiều

thứ thuốc uống. Ai nhờ tiêm Nguyên Hồng tiêm ngay. Lại còn hỏi bệnh, đoán

bệnh và bảo người ta phải để mình tiêm như một thầy thuốc thực sự. Nhà văn

đi đường lẫn vào đám đông. Cái quần nâu, tấm áo cánh mồ hôi muối ăn đã

bạc cả hai vai, chiếc mũ lá cọ, đôi dép chẳng khác nào với màu sắc, dáng nét

của những người đi chợ, nghỉ quán hàng trên đường [20]. Đó là hình ảnh thi sĩ

quê mùa Nguyễn Bính “mặc bộ quần áo tây trắng đã tã, gấu quần và ống tay

áo lồm xồm như tóc tai”, “tay chân thô nhám, quyềnh quàng lúc nào cũng lừ đừ,

thủng thỉnh…” [20, tr.780]. Đó là hình ảnh rất đỗi đời thường của các nhà văn,

những nhân vật thường được người đời quan tâm và dệt nên bao giai thoại.

24

CHƢƠNG 2

NHẬN DIỆN HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƢỜI

TRONG HỒI KÍ CÁT BỤI CHÂN AI CỦA TÔ HOÀI

2.1. Hiện thực đời sống xã hội

2.1.1. Hiện thực đời sống trong chiến tranh

Bức tranh hiện thực đời sống những năm kháng chiến chống Mỹ được

đánh dấu bằng những câu chuyện sơ tán của thành phố: “Thành phố sôi nổi và

âm thầm khinh bạc, phớt đời. Lại đòn đánh mới, lại sắp bom, lại sắp sơ tán,

triệt để sơ tán. Lần nào cũng tưởng đã vơi hết người rồi lại thấy trẻ con,

người già lốc cốc ở đâu bò ra lắm thế” [20, tr.225]. Cả Hà Nội xơ xác, tiêu

điều trong khói bom tàn phá: “Kho xăng Đức Giang lại ném bom lúc xế trưa.

Máy bay nhào xuống, một chiếc trúng đạn hất ngược vào thành phố, rơi

xuống vườn làng chùa Thông – làng Mọc…” [20, tr.275]. Nhưng cuộc sống

sinh hoạt trong những ngày chống Mỹ vẫn diễn ra bình thường. “Khi mà tối

đến phố xá vẫn đông cafe Lâm, cafe Ca không còn chỗ chen chân người mặc

cho còi báo động. Máy bay tuôn khói chằng chịt như một cuộn thừng trắng…

thế mà quán bia Chuồng Lạp bên hồ Thiên Cuông vẫn người đứng rồng rắn

quanh lan can sắt suốt ngày. Cuộc sống con người vẫn diễn ra quanh bối

cảnh tàn phá đó. Bên cạnh, kho Đức Giang chồng đống những thùng đựng

xăng cháy đỏ hắt. Ngoài bờ rào, ruộng lúa mới cấy mạ đã bén rễ xanh rờn.

Những người đàn bà lúi húi cắt cỏ. Một người đàn ông đặt thúng thóc trên

đầu gối, vung tay gieo hạt lúa giống vãi xuống mặt ruộng xâm xấp còn sóng

sánh đường bừa. Chú bé kia nằm trên lưng trâu, giữa bãi cỏ, hai cân cong

như móc câu, mắt lơ đãng nhìn ra đường…” [20, tr.276]. Mặc chiến tranh

tiếp diễn, con người vẫn phải lao động, sinh hoạt, sự sống vẫn tiếp tục hồi

sinh nhưng những đau thương, mất mát trong chiến tranh thì thật khó tránh

25

khỏi. Mặc dù không đề cập nhiều đến sự ác liệt của chiến tranh, nhưng trong

chiến tranh thì cái chết là điều khó tránh khỏi. Đó là cái chết của cô bác sĩ mới

cưới chồng ngày hôm trước, dư âm hạnh phúc vẫn còn. Là những đợt bom nối

nhau trút xuống bến xe Kim Liên. Kí ức chiến tranh in hằn trên những trang

nhật kí của những binh sĩ tử trận mà chưa kịp gửi cho người thân. Lịch sử

trong những năm chống Mỹ thể hiện ở những gì hết sức đời thường, không đi

sâu vào phản ánh những sự kiện lịch sử nhưng chỉ qua các chi tiết đời thường

của cuộc sống sinh hoạt, chiến tranh hiện lên một cách chân thực nhất. Chiến

tranh có những người chết vì bom Mỹ, nhưng cũng có người chết vì tội lỗi do

mình gây ra. Những vụ án xử trong thời chiến mà Tô Hoài đại diện khối phố

được tham dự khá nhiều bi hài. Không ngờ giữa lúc nước sôi, lửa bỏng của

cuộc chiến tranh con người vẫn không từ bỏ được tật xấu của mình. Con

người vẫn là con người đầy rẫy những thói tật.

Vụ bắt người đàn bà bán vé xổ số mà trong tay có 36 chìa khóa của 36

cái nhà, cái buồng chuyên cho những người “hủ hóa” thuê kiếm chút tiền tiêu

vặt nói lên nhiều điều về sự suy thoái đạo đức. Nhưng nghiêm trọng hơn đó là

việc xét xử vụ lợi dụng lúc máy bay Mỹ nghỉ ném bom, nhảy sau xe đạp dí

dao vào người rồi trấn lột đồng hồ, phu la, áo len, ví tiền, giày… bán lấy tiền

tiêu xài. Luật thời chiến xử tử hình làm gương cho người khác quả là nghiêm

khắc nhưng đó cũng là bài học nhớ đời. Đáng lên án hơn nữa, ở cái huyện anh

hùng đã đi vào lịch sử với bức tranh du kích nhỏ giương cao súng thằng Mỹ

lênh khênh bước cúi đầu lại chính là cái huyện gây chấn động nhất. Vụ án có

“Văn phòng huyện tham ô phải bắt đi tù vãn cả huyện ủy, ủy ban, thì hàng

huyện mới ngã ngửa ra” [20, tr.297].

Hồi ức trong những năm chống Mỹ với Tô Hoài là những mảnh vụn

vặt, với đủ các sự kiện đang diễn ra. Hay có, dở có. Tất cả ghép lại thành bức

tranh cuộc sống hoàn chỉnh với những mảng tối, những góc khuất mà không

26

là người trong cuộc thì khó có thể biết hết được. Ký ức chiến tranh những

ngày Mỹ đánh phá Hà Nội khép lại với hiệp định đình chiến của Mai Đức

Thọ và Kitsingio tại Hà Nội. Sự kiện lớn lao như thế mà đi vào hồi kí Tô Hoài

không có gì nổi bật. Chỉ bằng nét vẽ giản đơn: “Chiến tranh tàn phá liên miên

các quán bia vẫn đông như hội thế mà lúc đình chiến các quán ấy lại đóng

cửa…[20, tr.271]. Sự kiện ấy đáng lẽ phải được tuyên bố trịnh trọng, vậy mà

kênh thông tin ấy được truyền tai nhau bởi bọn sâu bia: “Công an sợ các bợm

bia bốc lên kéo ra chặn xe đường ném cốc vào mặt lão Kít” [20, tr.315].

Chiến tranh với những ấn tượng khủng khiếp vậy mà đi vào hồi kí của

Tô Hoài thật bình thường. Vẫn biết đối với Tô Hoài những chi tiết kể về

mình, tái hiện đời tư của mình là cái cớ để ông khắc ghi hiện thực, các hiện

thực ngổn ngang trong lịch sử đầy biến động. Đó là phần tư liệu vô giá mà

chúng ta không thể bỏ qua. Nói như nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn “Ngày

nay viết lịch sử không thể không đọc hồi kí Tô Hoài”. Điều ấy khác hẳn với

hồi kí của Nguyễn Khải, mọi biến cố xã hội trong chiến tranh được nhắc đến

chỉ là cái cớ để nói rõ hơn thế giới tinh thần với những chiêm nghiệm suy

nghĩ của nhà văn. Với Cát bụi chân ai Tô Hoài đã góp thêm một tiếng nói vào

bản giao hưởng về những năm tháng gian khó nhưng cũng rất hào hùng của

dân tộc ta bằng những sự kiện tưởng như đời thường nhưng lại có ý nghĩa vô

cùng to lớn.

2.1.2. Hiện thực đời sống trong hòa bình

Thời kì đổi mới đánh dấu sự vươn lên của cơ chế thị trường trong đời

sống xã hội. Sự khan hiếm của hàng hóa cùng cơ chế quản lí bao cấp trước đó

chưa thực sự phù hợp khiến cho cuộc sống người dân trong thời gian này còn

nhiều nỗi lo toan, vất vả. Khó khăn thiếu thốn của họ chính là khó khăn thiếu

thốn mà cả xã hội phải đối mặt. Nếu những năm đầu đổi mới trong hồi kí

Nguyễn Khải được ghi dấu bằng cảnh mua bán trao đổi tem phiếu, bằng sự

27

khan hiếm của hàng hóa cùng cơ chế quản lí chưa thực sự phù hợp thì những

năm đổi mới trong hồi kí Tô Hoài đánh dấu bằng sự thay đổi trong đời sống

của người dân gắn liền với thời kì Tô Hoài quay lại xóm Đồng. Không đánh

dấu bằng một mốc thời gian cụ thể nào nhưng dấu ấn của sự đổi mới khiến

người đọc nhận ra đó chính là sự thay đổi hiện rõ ở con người, cảnh vật.

Phố xá Thái Bình trước đây chỉ là vài ngôi nhà, nhưng mấy năm nay đã

lên thành phố với những bước giằng co. Đường cầu Bo qua cổng tỉnh sang

Nam Định không còn nhà vách lợp phibrôxi măng xám mà đã nhấp nhô

những nhà một tầng mái ngói, mái bằng. Phố “si đa”, lại phố “quân khu”

choáng lộn bánh kẹo lạ mắt, rối mắt như ở Hà Nội lan xuống dưới này đông

như chợ. Đầu cầu Bo, mấy nhà lá hàng cơm chứa trọ năm trước đã lên gạch

cả. Không còn cái gậy tre chống tấm phên cửa lên mà buông phất phơ một

rèm vải hoa lụa trứng sáo. Vẫn bến tàu nhưng người không đeo vai cánh tay

nải, cái bọc mà hàng chục gánh nối nhau đi một dãy. Cảnh vật thay đổi, cuộc

sống con người cũng thay đổi rõ rệt. Rồi nhà nhà, người người đua nhau mái

ngói, mái xi măng mặc bữa ăn, bữa nhịn, mặc đi vay lãi, bán lúa từ lúc còn trổ

đòng đòng cốt làm được cái nhà Tây. Cảnh vật đổi thay, con người cũng thay

đổi. Anh bí thư Sự ngày nào còn là Đảng viên mẫu mực nay đã trở nên giàu

nhất làng. Nhà này sang hơn nhà chủ tịch, điện thoại bắt vào tận tai. Năm gian

nhà ngói âm dương, sân lát gạch từ thềm ra tận bờ ao, cổng xây hai cột trụ

như cột đình nhưng ngôi nhà ấy lại lạnh lẽo như cái nhà không người. Bản

thân anh Sự hôm nay thì “gò lưng đến rụt cổ, cong hai vai kéo điếu thuốc”.

Anh đã trở thành “con nghiện” tự bao giờ. Cuộc sống của anh chị là hút sách,

là những bữa cơm đã chuẩn bị sẵn do vợ con gánh đến… là những lời chửi vã

sau lưng vợ. Những thay đổi thể hiện rõ trong cách ăn mặc của bà Sự béo ục

ịch “Cũng sấy tóc xoăn, quần phăng đen, sơ mi hồng dài tay, mặt bôi phấn, cổ

đeo dây chuyền vàng to như xích mèo, nước hoa thơm phức”. Còn cô con gái

28

đã cứng tuổi nhưng ăn mặc trẻ trung. Một cô tiếp thị đúng mốt, áo thụng tám

túi, đeo cái túi sách hai ngăn. Tóc cắt tém, bôi môi son, quầng mắt xanh, váy

bò cũn cỡn đầu gối. Vẻ nhiệt thành ban đầu của hai mẹ con đối với Tô Hoài

cũng nhạt dần khi biết nhà văn không về bằng ô tô riêng mà đi bằng xe ôm.

Mặc dù sự trở về của nhà văn là sự trở về đơn giản của tình người vì tình

nghĩa những gì trước đây với nơi nhà văn từng gắn bó. Thế nhưng sự đổi thay

của con người khiến nhà văn không khỏi băn khoăn, nghĩ ngợi.

Cuốn hồi kí đã tái hiện sinh động một giai đoạn lịch sử của đất nước

với bao chuyện buồn, vui, hay, dở gắn liền với những thăng trầm của một đời

người. Mượn chuyện cá nhân để nói chuyện cuộc đời, chuyện xã hội, dường

như Tô Hoài muốn cho người đọc hiểu thêm về một thời mà nhà văn đã sống.

GS Phong Lê nhận xét : “Thời mà tất cả chúng ta trở thành viên chức của nhà

nước, kể cả cao, thấp và với cái thế giới ấy có sống trong nó, sống với nó thấy

hết cái nhìn tầm thường, cái nhỏ nhen khó ai tôn trọng đươc ai trong cuộc

ganh đua vừa vô nghĩa, vừa buồn cười”. Là thời kì “Còn có sự tranh cãi về

lập trường, quan điểm, giai cấp trong văn nghệ”. Và đó là “những cơ hội bằng

vàng để thư lại trình bày chuyện, đơm chuyện làm rối tinh mọi sự khiến từng

người cảm thấy bất an, đề không dám bộc lộ công khai niềm tin riêng của

mình, đều sẵn sàng nhân nhượng để đổi lấy sự yên ổn của một anh viên chức

mẫn cán” (Báo Văn nghệ số ra 19/5/2007).

Cuộc sống, con người, lịch sử trong hồi kí Tô Hoài sinh động, hấp dẫn

không thể hòa lẫn với một hiện thực nào khác. Ngòi bút đầy chất văn của Tô

Hoài khai thác triệt để phần thiên lương làm nên phẩm chất mỗi con người mà

không hề né tránh những cá tính, thói tật của họ làm nên những cái bình

thường của cuộc sống. Vì thế cuộc sống của những con người trong hồi kí

luôn gần gũi góp phần tô điểm thêm cho bức tranh xã hội những năm tháng

hòa bình.

29

2.2. Con ngƣời trong hồi kí Cát bụi chân ai

2.2.1. Chân dung những con người nhỏ bé, đời thường

Bên cạnh chân dung những nhà văn lớn, những cây đại thụ trong nền

văn học nước nhà, Tô Hoài khá thành công khi khắc họa chân dung những

con người bình dị đến từ các miền quê khác nhau, nơi nhà văn đã sống, đã đi

qua. Mỗi người một dáng vẻ, một công việc, một số phận khác nhau, thế

nhưng ở những con người ấy luôn hiện diện tất cả các cung bậc khác nhau của

đời sống xã hội. Họ là những nét chấm phá đậm nhạt góp phần hoàn thiện bức

tranh cuộc sống đa thanh, đa diện giữa đời thường. Bước vào thế giới Cát bụi

chân ai ta bắt gặp chân dung những con người hết sức bình thường. Họ có thể

chẳng có tên nhưng lại gắn bó nhiều duyên nợ với Tô Hoài và các bạn của

ông. Đó là ông lão 81 người Nhật  ông chủ hàng cafe bít tất với bộ quần áo

nâu non nhờ nhệch, dáng ngơ ngơ như đương lẩm nhẩm ai trả tiền, ai lĩnh

mất. Là ông chủ Tiểu Lạc Viện “đôi mắt kính lấp lánh” với câu cửa miệng

“có ngay” luôn thường trực trên môi. Là ông Ca cafe, bác cháo gà Chữ, ông

Hồng Lâm quán bánh cuốn gần ngã sáu dốc chợ Bưởi, lão Sáng nhị mũi hay

những cô gái như Ly Chờ, Thào Mỷ, Chúng Thị Phà… nơi mảnh đất địa đầu

Tổ quốc. Những con người ấy và số phận của họ để lại trong lòng người đọc

khá nhiều ấn tượng sâu sắc. Cuộc đời họ đôi khi cũng nhiều chua xót.

Ly Chờ, cô giáo sinh người Mông chỉ võ vẽ được đọc, viết được mà

quyết xa nhà xóa mù chữ cho bản làng. Đẹp sắc sảo nhưng hồng nhan bạc

phận bởi cái không may vẫn không chịu buông tha người con gái ấy. Bốn

mươi tuổi, Ly Chờ về hưu non mà cũng phải “chạy mãi mới được cái sổ hưu”

[20, tr.246]. Cuộc đời người con gái vùng cao như Ly Chờ nhiều lúc tưởng đã

lóe sáng vậy mà cuối cùng cũng chỉ im lặng chìm vào ruộng nương, gia đình

vào “những bóng người địu củi, vác nước và tiếng gọi lợn, gọi trâu ời ợi

trong sáng chiều” [20, tr.221]. Nói về Ly Chờ, dường như Tô Hoài ngậm

30

ngùi, chua xót. Bao nhiêu khát khao, hi vọng dành cho cô gái cùng tan biến

trong vòng quay của số phận.

Rồi đến Thào Mỷ  phó chủ tịch huyện, phụ trách văn xã ở Mèo Vạc.

Tháo vát, nhanh nhẹn thành công trong công việc thế mà con đường tình

duyên lại long đong, lận đận. Cô gái dân tộc Mông tân tiến dám bỏ anh chồng

kém mười tuổi để về nhà mình, dám đi giúp bộ đội dịch tiếng địa phương rồi

trở thành cán bộ huyện. Cô làm cái việc mà chẳng người đàn bà Mông vào lúc

ấy dám làm. Con đường công danh rộng mở bao nhiêu thì con đường tình

duyên lại gập ghềnh trắc trở bấy nhiêu. Bỏ chồng để mưu cầu hạnh phúc riêng

nhưng lại không thể bén duyên với người mình yêu. Chê anh chồng trẻ con ít

tuổi mà lại chỉ gặp những anh chàng ít tuổi hơn mình. Rồi cũng lấy được

chồng nhưng hạnh phúc chẳng kéo dài được bao lâu. Bởi chồng cô vừa ít tuổi

hơn lại vừa không biết chữ, anh ta không muốn vợ mình làm cán bộ. Cuộc đời

Thào Mỷ như một triết lí đã được an bài sẵn. Hạnh phúc hay khổ đau, kiêu

hãnh hay ngậm ngùi âu cũng là số phận mà chẳng ai có thể định trước được

trong cuộc đời mình. Dường như ở những con người này tác giả luôn viết về

họ với cái nhìn cảm thông sâu sắc. Ta còn bắt gặp chủ tịch huyện Vù Mý Kẻ,

con người dọc ngang, ngang dọc một thời, đã từng thét ra lửa, từng là đại biểu

Quốc hội được sang tận nước Nicanagoa bên vách nước Mỹ. Thế mà giờ đây

đã về hưu ở Sà Pìn cuộc sống vẫn chẳng có gì thay đổi. Chua chát, đau đớn

trước niềm hy vọng lớn về họ mà giờ không đạt được Tô Hoài luôn canh cánh

bên mình một hoài niệm đẹp về họ.

Cát bụi chân ai là một vòng thời gian gần như trùng khít (thập niên 40,

50 đến thập niên 90 của thế kỉ XX). Tô Hoài đã sống một cuộc sống gắn bó

máu thịt với từng sự kiện lịch sử của đất nước trong suốt một hành trình dài.

Từ hiện thực cuộc sống ấy con người xuất hiện với tư cách hoàn toàn bình

thường : “Con người là con người” hay “Người ta ra người ta phải là người

31

ta đã chứ”. Phác họa chân dung những con người bình thường ông thâu tóm

được cái thần, cái hồn nhất, cái làm nên bản chất, làm nên cá tính của họ. Mặc

dù xây dựng chân dung những con người bình thường ở các miền quê không

phải là mục đích chính của nhà văn, song với cảm quan nhân bản đời thường,

hồi kí của Tô Hoài đã thu vào tầm nhìn khá đông đúc những chân dung ấy.

Với những nét cá tính khác, nghề nghiệp khác, thói tật cũng chẳng ai giống ai.

Đời sống hiện lên qua những con người này sinh động muôn màu, muôn vẻ.

2.2.2. Chân dung những nhà văn đồng nghiệp

Không chỉ dựng thành công chân dung mình, Tô Hoài còn dựng chân

dung các văn nghệ sĩ, những người bạn cùng thời của nhà văn hết sức sinh

động. Họ là những người nổi tiếng không chỉ trên văn đàn mà còn cả trên

phương diện xã hội chính trị. Suốt thập kỉ 90, dựng chân dung văn học là đề

tài “nóng” trong hồi kí Tô Hoài. Sự thành công liên tiếp của Những gương

mặt chân dung văn học, Cát bụi chân ai rồi Chiều chiều đánh dấu bước

chuyển mình vượt bậc của ông ở thể văn này. Ông sớm thể hiện một năng lực

quan sát, một vốn sống, vốn hiểu biết, một khả năng phát hiện đặc điểm riêng

biệt của đối tượng độc đáo theo con mắt riêng của mình. Nếu như với các nhà

nghiên cứu, phê bình văn học, dựng chân dung là một công việc nhằm thỏa

mãn nhu cầu nghiên cứu, phê bình thì với các nhà văn, dựng chân dung văn

học nhằm thỏa mãn nhu cầu sáng tác, quan trọng hơn là nhu cầu bộc lộ tình

cảm của mình với bạn bè, đồng nghiệp, những người mình gần gũi, yêu mến.

Trong hồi kí Tô Hoài, chân dung các văn nghệ sĩ ta bắt gặp thường là những

người tri âm hoặc ít nhiều đã có sự tiếp xúc, gặp gỡ gắn liền với những kỉ

niệm hay ấn tượng của nhà văn về họ. Nó được viết lên từ những chi tiết có

thực về cuộc đời và con người nhà văn trong cuộc sống. Từ đó cung cấp cho

chúng ta một cái nhìn chân thực, sinh động, toàn diện hơn về tác phẩm, về

con người, cuộc đời của họ.

32

Mặc dù không phải là người đầu tiên dựng chân dung các văn nghệ sĩ

nhưng Tô Hoài được đánh giá là nhà văn khá thành công. Ông có một quan

niệm, một cái nhìn khá tiến bộ so với các nhà văn khác. Thông thường các

cuốn sách dựng chân dung văn học bao giờ cũng được viết với phương châm:

“tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại” nhưng Tô Hoài lại viết khắc hẳn. Ông nhìn họ

ở cuộc sống thường nhật hàng ngày nhặt ra những cái gì bình thường, thậm

chí tầm thường, nhếch nhác của họ. Nhà văn không thi vị hóa bạn bè và cuộc

sống của họ. Không hề trùm phủ lên những hành động, lối nói của họ một ánh

hào quang nào mà thực tế cuộc sống diễn ra như thế nào thì ông phản ánh như

thế. Mỗi người một phẩm chất, một cá tính, một thói tật chẳng ai giống ai.

Mỗi nhà văn, mỗi nhân vật đi vào hồi kí Tô Hoài đều gần gũi, đáng yêu hơn

bao giờ hết. Hồi kí Cát bụi chân ai cho ta gặp nhiều con người nổi tiếng mà ta

mới chỉ tiếp xúc với họ qua tác phẩm văn chương. Giờ đây, họ hiện lên trong

cái nhìn ở góc nhìn gần gũi đời thường nhất với biết bao điều tưởng như đơn

giản nhất.

2.2.2.1. Chân dung nhà thơ Xuân Diệu

Xây dựng chân dung Xuân Diệu, Tô Hoài không viết về một nhà thơ

“mới nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài Thanh), cũng không viết về một nhà

thơ “của tình đời, của tình người, của lòng yêu mến cuộc sống, yêu mến con

người” (Nguyễn Văn Long) mà viết về một chân dung “rất Xuân Diệu” bởi

cái “tình trai” của ông. Cái “tình trai” của Xuân Diệu dữ dội và chân thành

hiếm thấy. Bấy lâu nay ta cũng chỉ nghe loáng thoáng đâu đó cái tin: Xuân

Diệu chỉ mê đàn ông con trai, sự thực sau bức màn ấy như thế nào có lẽ

không ai dám chắc. Nhưng khi đọc hồi kí Cát bụi chân ai của Tô Hoài ta mới

vỡ ra: Đó là sự thật.

“Từ thuở trẻ, cái bắt tay như vồ lấy, trán đụng vào nhau, bốn con mắt

vuốt ve nhau nghiêng ngả. Ở đâu Xuân Diệu cũng đào hoa mối tình trai. Con

33

gái đi ngang mặt, Xuân Diệu cứ dưng dửng như không, nhưng con trai thì

xoắn xuýt vòng trong vòng ngoài. Sáng hôm sau còn đến chơi. Xuân Diệu

nắm cổ tay từng đứa, nhìn dõi vào mắt, mân mê như chọn đẫn mía…” [20,

tr.205]. Con người suốt đời khao khát yêu thương hạnh phúc nhưng lại suốt

đời chịu cảnh cô đơn. Người đọc càng tin điều đó khi ta đọc những trang viết

Tô Hoài miêu tả: “Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay

người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt, lên cổ rồi xuống

dần xuống dần khắp mình” [20, tr.198]. Phải, chính những cử chỉ ấy cho ta

thấu hiểu cái dị thường của người đàn ông mà tạo hóa trớ trêu bày đặt. Đó

cũng là nỗi đau tinh thần thầm kín mà nhà thơ phải chịu đựng. Rồi chuyện ấy

cũng có ngày bị đưa ra ánh sáng. Mọi người lên án, tẩy chay, kiểm điểm:

“Xuân Diệu bị kiểm điểm kéo dài liền hai tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp

chỉnh huấn nhưng hàng ngày chúng tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗ tổi

buổi chiều trước giờ tăng gia lại hội ý rút kinh nghiệm, nêu hướng sửa chữa

và trình bày công việc ngày mai của từng người. Cả cơ quan họp đến

khuya…” [20, tr.200]. Không nói cụ thể việc ấy nhưng ai cũng to tiếng, to

tiếng gay gắt nghiêm trang phê phán tư tưởng tư sản: “Tư tưởng tư sản xấu xa

phải chừa đi. Xuân Diệu nức nở nói đấy là tình trai của tôi..., tình trai…! rồi

nghẹn lời, nước mắt ứa ra, không hứa hẹn sửa chữa gì cả” [20, tr.200]. Ít lâu

sau trong một cuộc họp Ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường

vụ… Có lẽ thời ấy người ta chưa hiểu những khác thường bên trong của con

người Xuân Diệu. Sự im lặng của mọi người thật đáng sợ. Xuân Diệu phải tự

đối diện với chính những khát khao của lòng mình để dằn nó xuống rồi lại

phải tự mình đối diện với dư luận. Xuân Diệu đã “xa lánh mọi công tác” chỉ

chuyên vào đi và viết. Đọc Cát bụi chân ai ta mới hiểu tại sao thơ Xuân Diệu

lại khao khát sống, khao khát giao cảm với đời sâu lắng, mãnh liệt đến thế.

34

Phóng khoáng trong tình cảm nhưng trong sinh hoạt đời thường Xuân

Diệu lại tính đếm cẩn thận từ chi tiêu đến sáng tác. Mỗi bài viết của ông đều

tận dụng để làm hai việc một lúc. Bài nói ở đài hoặc đăng báo rồi in sách. Nếu

không, không viết. Còn tiêu pha, từ may vá đến ăn uống đều được ông lên kế

hoạch cụ thể, rạch ròi: “ Ở Yên Dã, cái quần kaki vàng nhạt của Xuân Diệu đã

bợt cả hai bên mông. Hỏi sao để trễ tràng thế, sắm quần khác đi”. Xuân Diệu

nói: “Không ngờ cái kaki này mau rách, thành thử lỡ kế hoạch. Đáng nhẽ

cuối năm mới đến hạn thay quần mới. Chán quá” [20, tr.201]. Đi công tác ở

đâu cũng chuẩn bị dự trữ mọi thứ: “Lọ nước mắm kem đặc sệt. Một túi củ

hành, tỏi đã bóc bót vỏ cho nhẹ đem từ khu bốn ra. Hộp thịt bò kho ướp lá

xả…” [20, tr.202]. Trong ăn uống, phung phí thì Xuân Diệu không chịu được.

“Nhớ chuyến sang thăm nước Lào, ở khách sạn Apôlô, khi nhà hàng bưng ra

nhiều món. Xuân Diệu cứ thong thả vừa nhai, vừa ngắm nghía từng miếng và

ăn đến đến hết. Đêm ấy đau bụng phải đi cấp cứu” [20, tr.203]. Ở bệnh viện

về Xuân Diệu thở dài: “Cái miệng làm khổ cái bụng, mình phải tính tham ăn”

[20, tr.203]. Nhưng rồi lại vẫn thong thả “quét sạch mâm” như mọi khi. Xuân

Diệu rất quý miếng ăn: “Thích ăn thịt chó vừa rẻ vừa bổ nhưng lại không

đụng đến thịt chó nhà hàng” mà “mua thịt chó sống, mỗi tuần lễ đánh chén

hai lần vào ngày nhất định…” [20, tr.203]. Gọi Xuân Diệu là “con ma ăn” có

lẽ cũng chẳng sai chút nào.

Với bạn bè, Xuân Diệu rất tình cảm, chu tất và còn tỉ mỉ nữa. Quan tâm

đến bạn bè “cho chiếc mùi xoa, đôi bít tất chỉ để nhớ đến nhau”. Mặc dù cho

Tô Hoài là người khinh bạc nhưng thương bạn nên hay bảo ban từ những việc

nho nhỏ. Thật đúng như Tô Hoài đã nói: “Mỗi khi nhớ chuyện về Xuân Diệu

chỉ buồn thương, buồn cười và đáng yêu, chỉ đáng yêu” [20, tr.200]. Có lẽ chỉ

Tô Hoài mới có cách xây dựng chân dung các bạn văn của mình như thế. Vốn

là người giỏi quan sát và có tài miêu tả bao nhiêu chuyện lặt vặt như ăn, ở,

35

sinh hoạt, đi lại đều được ông đưa cả lên trang sách. Câu chuyện lúc Xuân

Diệu bị kiểm điểm, Tô Hoài im lặng đến bây giờ trong hồi kí ông mới dũng

cảm nói ra. Ta hiểu phải có sự đấu tranh tư tưởng, có bản lĩnh vững vàng khi

nói ra những bí mật riêng tư của mình. Tô Hoài đã phải trải qua một quá trình

đấu tranh tư tưởng để chiến thắng chính mình. Bí mật về Xuân Diệu chỉ càng

khiến người đọc cảm thông và yêu quý hơn con người tài hoa ấy.

2.2.2.2. Chân dung nhà thơ Nguyễn Bính

Chân dung nhà thơ Nguyễn Bính trong hồi kí Cát bụi chân ai được

phác họa không phải là nhà thơ của chân quê, mộc mạc, giản dị say đắm lòng

người mà là một Nguyễn Bính của đời thường gần gũi với những gì thô nhám

của cuộc sống. Nếu như ở Những gương mặt chân dung văn học ta ấn tượng

trước một Nguyễn Bính rất chân quê với bộ quần áo tây trắng đã tã, gấu quần

và ống tay áo đã lồm xồm như tóc tai. Tay cầm một hộp sắt tây màu đỏ lựu

cái hộp đựng bánh quy nhưng bên trong: “Đấy là bản thảo những bài thơ của

anh. Những bức thư tình, một hộp thư tình tờ trắng, tờ xanh, viết tay mồ hôi

mờ đọc đi đọc lại đã về vệt cả của người ta ở đâu đấy đã cho anh rơi rồi. [26,

tr.771]. Một Nguyễn Bính lam lũ, khắc khổ. Con người Nguyễn Bính trông

lôm lam lắm. Tay chân thô nhám, quềnh quàng lúc nào cũng lừ đừ, thưng

thỉnh như “ông Từ vào đền như người thong thả giữa làng. Lại lam lũ như

vừa lướt mướt từ đồng sâu lên dẫu cho anh đương đội mũ áo chững chạc trên

đường phố…” [26, tr.780]. Chẳng giống với những gì ta tưởng tượng về một

nhà thơ nổi tiếng lúc bấy giờ. Đọc hồi kí Cát bụi chân ai ta bắt gặp một

Nguyễn Bính đa tình, đa đoan “thấy gái như quạ vào chuồng lợn, như ếch vồ

hoa. Thề bồi đấy rồi lại nhăng ngay đấy…” [20, tr.64]. Bởi thế nên “biết bao

nhiêu người con gái đã theo thơ đến với Nguyễn Bính. Nhưng cuộc đời hoa

thơm bướm lượn không giống thơ, không giống như thơ” [20, tr.64]. Chẳng ai

có thể gắn bó cả cuộc đời mình với nhà thơ. Thế nên người ta cho anh rơi hết.

36

Một Nguyễn Bính thân làm tội đời “hay nhăn nhó rầu rĩ, những cùng quẫn tự

chuốc, những thương đâu vơ vào, mình lại đày ải mình, thân làm tội đời, cả

những ngày còn lại này mà vẫn không nguôi” [20, tr.63]. Một Nguyễn Bính

tùy tiện, phóng túng. Làm chủ nhiệm báo Trăm hoa thì coi: “Đời là một cuộc

chơi dài, mà thiên hạ phải cung phụng nhà thơ. Làm biên tập báo, xuất bản

như làm khoán, không cần giờ giấc, bàn giấy. Hứng làm thơ lên thì tung hê

công việc, thích đi chơi thì vay tiền, cơ quan lúc nào chẳng có tiền. Cho tao

vài ba đồng là bao” [20, tr.61]. Dựng chân dung nhân vật với quan niệm:

Con người là con người, ngòi bút Tô Hoài tỏ ra rất tự do, thoải mái khi phác

họa những thói tật trong đời sống riêng tư của Nguyễn Bính. Là một nhà thơ

có tài trên văn đàn nhưng trong cuộc sống ông vẫn là người khá nhiều tật:

lăng nhăng, phóng túng, tùy tiện, say khướt tối ngày nhưng cũng chẳng vì thế

mà ta ác cảm với Nguyễn Bính. Câu chuyện Tô Hoài muốn viết nên đã đặt

trước tên cháu là Hiền khiến người đọc thực sự xúc động. Hành động dại dột

của Nguyễn Bính khi say rượu đem cho con người xa lạ ở dốc Hàng Kèn để

rồi khi tỉnh ra “lật đật chạy đi đấm cửa nhà mấy người bạn” rồi “Thất thểu

suốt đêm. Sáng ra, nhợt nhạt, thẫn thờ bước giữa trống không” [20, tr.65] làm

ta thảng thốt. Đứa con của mối tình thời làm báo Trăm hoa đã trở thành nỗi

day dứt chẳng bao giờ nguôi trong suốt cuộc đời Nguyễn Bính, tính đến nay

đã trên 30 năm rồi. Vậy mà mỗi khi nhắc lại lần nào Nguyễn Bính cũng chỉ

khóc.

Dòng hồi tưởng của Tô Hoài về Nguyễn Bính đưa ta đến một Nguyễn

Bính đời thường. Một người cha trong niềm mong muốn tìm lại đứa con trai

bị thất lạc chứ không phải là một nhà thơ danh tiếng. Nguyễn Bính trong hồi

kí giúp người đọc biết thêm nỗi niềm riêng của nhà thơ, càng hiểu những khát

khao về tình yêu, hạnh phúc nhà thơ giãi bày trên các trang thơ. Từ đó giúp

chúng ta có dịp gần gũi nhà thơ hơn, cảm thông với nỗi đau mà nhà thơ nếm trải.

37

2.2.2.3. Chân dung nhà văn Nguyên Hồng

Nguyên Hồng được bạn đọc biết đến với phương châm sáng tác bất hủ:

“Tôi sẽ viết, viết về những cảnh đói khổ, về nơi trái ngược, bất công. Tôi sẽ

đứng về phía con người bị lầm than, bị lăng nhục”[10]. Là nhà văn của những

người cùng khổ, có trái tim nhân đạo sâu sắc, tất cả những ai biết Nguyên

Hồng, đã từng gặp, từng nghe ông nói chuyện, có lẽ đều không thể quên được

một nhà văn với: “Cái quần nâu, tấm áo cánh mồi hôi muối ăn đã bạc cả hai

vai, chiếc mũ lá cọ, đôi dép lốp chẳng khác chút nào với màu sắc, dáng nét

của những người đi chợ, người bán hàng trên đường” [26, tr.739], trông

giống như một bác nông dân chính hiệu. Mỗi khi nói chuyện nhà văn đặc biệt

rất hay xúc động và hay khóc. Hồi kí Tô Hoài bổ sung cho chúng ta những tư

liệu khác về đời tư của nhà văn, về những thói thường, những mặt “chả hay

ho gì” đồng thời cả những tâm sự u uẩn, những tâm trạng buồn và một bản

lĩnh nghệ sĩ tuyệt vời, đáng kính trọng của Nguyên Hồng.

Giản dị trong ăn mặc, xuề xòa trong lối sống đời thường. Nơi làm việc

cùng cung cách làm việc của Nguyên Hồng cũng khác người: “Bàn làm việc

là chiếc chõng tre trong gian nhà tranh vách đất, mảnh chiếu trải dưới đất

thay ghế ngồi. Lúc nào mỏi ngả lưng luôn xuống chiếu, người viết đưa xuống

say mê ngòi bút những điều mình ấp ủ không biết đến xung quanh nữa miễn

sao có mực, có bút và chỗ kê được trang giấy lên” [20, tr.121]. Không chỉ chú

ý đến lối sống, sinh hoạt, cách ăn mặc, ăn uống của Nguyên Hồng cũng được

Tô Hoài rất thích thú. Khác hẳn với Nguyễn Tuân cầu kỳ, sành ăn, Nguyên

Hồng xuề xòa, giản dị phàm ăn đến bất ngờ: “Ông uống tạp, rượu nhắm với

ổi xanh, hành sống, cà pháo muối xổi, thịt bò mua ngoài chợ về xào , không

muối với mỡ, rau húng, cần tây không cần rửa chỉ cởi lạt, ngắt ăn cả nhánh”

[20, tr.181] với lý luận “hàng rau người ta rửa rồi mới đem ra chợ bán chứ

ăn cả đất đâu mà lo, khéo vẽ vệ sinh lôi thôi…” [20, tr.181]. Hay cả món ăn

38

đặc biệt như “nem Sài Goòng” làm bằng nhân rau bà đẻ mà Nguyễn Tuân gọi

mỉa mai là “chả rán Nguyên Hồng”. Món ăn theo ông có sức mạnh thần kì

chữa bách bệnh. Chỉ có Nguyên Hồng, người “ăn cả bọ hung” mới dám

thưởng thức chứ Nguyễn Tuân mới chỉ nghe đến đã lắc đầu quầy quậy.

Nguyên Hồng nghiện cả thịt chó. Nhưng cái kiểu ăn thịt chó của ông cũng

thật khác người. Thịt chó đánh chén thừa ngoài quán hổ lốn nào thịt luộc,

lòng gan trộn lẫn húng, riềng, cả đùm, còn muối tiêu ông gói vào giấy báo cho

vào cặp mang theo lúc nào bỏ ra ăn tiếp. Thưởng thức món bánh cuốn của

thím Hồng làm, Nguyễn Tuân khen ngon nhưng cũng chỉ ăn một cặp để cảm

nhận hương vị còn Nguyên Hồng thì đánh lẻm năm đôi như mọi khi, một

chục chiếc đầy đặn sau còn xin mươi chiếc đem về vì ông bảo mình có thói

quen ăn đêm: “như con vạc ăn đêm…”.

Ăn uống xuề xòa như thế nhưng trong công việc Nguyên Hồng lại hết

sức cẩn thận và công phu. Ông giữ gìn từng trang bản thảo, cẩn thận đến độ đi

đâu cũng ôm đồm vác theo. Không yên tâm để chỗ nào, sợ lạc, sợ mất. Con

mắt tinh quái của Tô Hoài còn phát hiện thấy “Trong cái cặp da bản thảo

thường cắp theo, lúc nào cũng kẹp sẵn mảnh giấy dầu vỏ bao xi măng con

rồng xanh không thấm nước… Đêm ngủ đâu nhỡ một cái… lần ra hiên ngang

cạnh cửa sổ, trải mảnh giấy dầu ra… rồi gói lại kĩ lưỡng bỏ vào cặp. Hôm

sau vứt ra hố hay đống rác nào đấy. Có khi tiếc cái giấy còn tốt, lại gột sạch

đem phơi. Chẳng coi là sự bẩn thỉu giấu giếm” [20, tr.322].

Xây dựng chân dung người bạn thân của mình, hồi kí Tô Hoài dựng lên

đầy đủ những cá tính, những thói tật của Nguyên Hồng với nhiều chi tiết khá

trần trụi. Nhưng đây không hẳn là cái nhìn hạ thấp con người mà là cái nhìn

chân thật, đời thường nhất. Đặt nhân vật tồn tại trong các mối quan hệ gia

đình, bạn bè, đồng nghiệp trong xã hội, chỉ ra cái tốt, cái xấu của họ, Tô Hoài

đã cho người đọc thấy con người thực của họ giữa cuộc đời từ đó hiểu văn

39

chương của họ sâu sắc hơn, kéo gần khoảng cách giữa nhà văn và độc giả.

Trong sáng tác của Nguyên Hồng phần lớn nhân vật của ông là những con

người cùng khổ, đáng thương, có số phận bất hạnh. Nhân vật của ông và

chính ông, đều chứa chan tình cảm làm động lòng không ít độc giả. Nhà văn

thường xúc động và hay khóc.

Đọc hồi kí Cát bụi chân ai ta không thể quên hình ảnh một Nguyên

Hồng lặn lội mang theo chồng báo từ số 1 để “thanh minh” khi tờ báo Văn do

Nguyên Hồng làm chủ bút bị phê, bị dập là “đả hữu khuynh, bị lũng loạn”.

Nhà văn để một tay lên chồng báo, to giọng đến bật khóc, vừa mếu máo vừa

nói tiếp, nước mắt ròng ròng, hai tay mê mẩn, xót xa, vuốt mép tập báo: “Tôi

làm báo không kể giờ giấc, không quản thức đêm thức hôm, tôi bỏ hết sáng

tác, cố làm cho kịp. Suốt tuần tôi bận bịu về nó hơn con mọn, bỏ ăn bỏ uống

vì nó… thế thì sao tôi lại có thể sai… Tôi đấu tranh thực hiện đường lối văn

học nghệ thuật của Đảng… Tôi hết tâm hết sức vì nó, tôi không thể, tôi không

thể sai…” [20, tr.96]. Thật thà đến thế là cùng. Hay trong quán, lão Tiểu Lạc

Viên phát hiện ra mùi của cái gói thịt chó Nguyên Hồng mở ra đãi bạn đã thay

đổi thái độ “chắp tay” rầu rĩ như khấn cầm nén hương cắm vào chân tường

trong chỗ tờ giấy dán điều trang kim đã đen xỉn nạm chân hương, mặt hầm

hầm. Thái độ ấy khiến “Nguyên Hồng lật đật gói lại bọc thịt chó, bỏ vào cặp.

Nước mắt lưng tròng, nói: Lúc nãy ở tổ chúng nó đòi đuổi ông, bây giờ thằng

Tàu này lại đuổi ông, tỉu cái nhà ma lớ! Rồi cung cúc bước ra lấy xe đạp”

[20, tr.98].

Hay mủi lòng, hay khóc thế thôi nhưng Nguyên Hồng lại quyết đoán

đến lạ lùng. Mọi việc trong nhà đều nhất một Nguyên Hồng định đoạt…

“Thầy nó mà đã định, thì trong nhà ai nấy chỉ việc làm theo. Cả tính toán chi

tiêu mắm muối, Nguyên Hồng đi chợ lo liệu lấy, nếu không chị ấy cũng bảo

các con: Đã hỏi thầy mày chưa?” [20, tr.138]. Chính vì thế trong gia đình

40

chẳng ai dám chất vấn hay ngỡ ngàng trước quyết định bỏ Hà Nội về Nhã

Nam của Nguyên Hồng. Ai cũng biết để có quyết định kia chắc chắn Nguyên

Hồng phải đau đớn nhiều lắm giữa một bên là gia đình đã yên nơi ăn chốn ở

và một bên là lòng tự trọng đến ngạo nghễ: “Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với

chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam” [20, tr.137]. Về Nhã Nam chắn hẳn là sẽ

sống những ngày tháng chật vật, vất vả, trong căn nhà “mưa to, mái hắt,

tường thấm nước, mà nắng thì nóng ơi là nóng” nhưng Nguyên Hồng lại vểnh

râu hào hứng: “Các ông xem cơ ngơi tôi thế nào? Đã hơn dinh Đề Thám

chưa?” [20, tr.142]. Rồi cất giọng hách lấn át khi nói về đám thợ xây nhà

mình: “Toàn tay thợ con cháu các cụ đã cất dinh ông Đề, đã xây dựng doanh

trại ông Đề Thám ở Cầu Gồ đấy” [20, tr.143]. Lạc quan, tếu táo trong hoàn

cảnh khó khăn. Chẳng bao giờ băn khoăn, dằn vặt trước quyết định của mình.

Một Nguyên Hồng giàu lòng tự trọng, luôn đứng trên mọi hoàn cảnh thật

đáng làm gương cho mọi người. Ta nể trọng một Nguyên Hồng ở tuổi 52

đương sức lực hăm hở xin nghỉ hưu ngay khi cơ quan vận động giảm biên

chế. Người ấy dù ở đâu, làm gì cũng chẳng ghét ai.

Trong Cát bụi chân ai bức chân dung ấy một lần nữa xuất hiện trở lại

trong cái thú tẩm quất tại ngã ba xế cửa ga Hàng Cỏ. Nguyên Hồng hiện ra

giản dị không khác một ông lão nông dân bình thường: “Cởi áo, quần dài lên

gối đầu. Mình trần, độc trụi cái quần đùi, nằm úp xuống chiếu cứ lật người

lên xuống để cho người tẩm quất mù lòa sờ sẫm bẻ khục răng rắc đốt chân,

đốt tay, đốt lưng, vành tai, sống mũi kêu lên như bánh đa” cho đến khi thấy

“sướng lứ lả, rên hừ hừ giãn xương sống, nằm thẳng cẳng, nên ú ớ dễ chịu

quá, sướng quá mới lồm cồm ngồi dậy, trả tiền rồi cứ vắt áo lên cánh tay lừ

rừ đi…” [20, tr.145]. Nguyên Hồng khoái tầm quất đến mức chưa cơm nước

gì, chẳng để ý gì đến mọi người xung quanh chợ Kỳ Lừa, cũng chẳng cần có

chiếu, ông nằm ngay xuống đất để được giãn gân cốt. Cái thú bình dân ấy của

41

Nguyên Hồng khiến bạn bè khó có thể quên được. Bởi lẽ trong các nhà văn

chắc chắn chỉ có Nguyên Hồng đặc biệt như thế mà thôi.

Chân dung Nguyên Hồng còn được phác họa bởi những “mối tình

thoang thoảng” mà ít người biết đến. Giống Nguyễn Bính ở cái tính trăng gió

“sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa”, Nguyên Hồng “ăn ý” với mấy bà “nạ

dòng má phúng phính bánh đúc, áo cánh chồi, nhai trầu môi cắn chỉ” [20,

tr.323], để đến khi “bà chị đã kéo cả một đại đội binh mã con gái ra đánh

ghen một trận khiến cô hàng xén phải bán sới đi nơi khác”. Ông mới choàng

tỉnh và còn nhăn nhó tiếc rẻ: “Mất mẹ nó cái màn” [20, tr.323]. Chẳng biết

cái màn gửi cho người ta bán hay màn mắc ra nằm cho đỡ muỗi. Không chỉ

có vậy, tơ vương ấy còn giăng mắc ngay tại Hà Nội với bà cai ách phì nộn nạ

dòng bán bia. Cách biểu lộ tình cảm của bác “gà trống cứng cựa” Nguyên

Hồng với người đẹp thật nực cười nhưng cũng thật đáng yêu “tỏ tình bằng

cách lau chau ra ghé vai vác thùng bia vào, kê lên bệ cẩn thận”, để rồi xong

việc, công lao của họ cũng được trả xứng đáng “Sơn Tinh xích lô và Thủy

Tinh Nguyên Hồng khi nào cũng được bà lão người đẹp rót cho mỗi người hai

vại bia tươi đầu tiên…” [20, tr.324]. Tình tứ nhưng cũng rất đời thường, chân

chất, Nguyên Hồng hiện ra với những cá tính thật độc đáo, với một khí phách

giữa đời thường không thể trộn lẫn với bất cứ một nhà văn nào khác.

2.2.2.4. Chân dung nhà văn Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân được người đọc biết đến với cái “ngông” trong văn

chương, cái “ngông” của một con người uyên bác, tài hoa lấy cái tài của mình

đặt lên trên thiên hạ. Con người ý thức sâu sắc về bản lĩnh của mình và đã tạo

ra quanh mình khá nhiều huyền thoại. Con người ấy không chỉ có tài hoa, tâm

hồn nghệ sĩ, nhân cách cao cả mà còn có những cá tính, thói tật trong cuộc

sống đời thường. Thuộc lớp đàn anh của Tô Hoài nhưng phải thừa nhận rằng

người mà nhà văn nể nhất, nhớ nhiều nhất chính là Nguyễn Tuân. Mở đầu tác

42

phẩm ta bắt gặp hình ảnh Nguyễn Tuân và kết thúc tác phẩm cũng được khép

lại bằng sự ra đi của Nguyễn Tuân. Không chỉ có thế, Nguyễn Tuân xuất hiện

trở đi trở lại nhiều lần trong hồi kí. Xâu chuỗi tất cả các trang viết ấy lại ta

được một chân dung Nguyễn Tuân khá hoàn chỉnh.

Ấn tượng đầu tiên của Tô Hoài về Nguyễn Tuân ở kiểu cách khác

người: “Khăn lướt vố, áo gấm trần, tay chống dọc chiếc quạt thước thay ba

toong, chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định. Ngoài đường phố chẳng ai

ăn mặc kiểu cách khác thường thế nếu không là quan tri phủ, quan thương tá

ngồi xe nhà, áo sa phủ, áo gấm, áo đoạn, vừa ý tứ vừa khoe chiếc bài ngà dây

kim tuyến thấp thoáng trong ngực áo…” [20, tr.5]. Vì thế đi bên này Hồ

Gươm giữa dòng người đông đúc của thủ đô Hà Nội người ta vẫn dễ dàng

nhận ra Nguyễn Tuân bởi sự khác người ấy. Nguyễn Tuân lúc đó mới ngoài

30 tuổi nhưng đã khá nổi tiếng trên văn đàn bởi cái “giọng khinh bạc”, thế

nên “có người mê Nguyễn Tuân như điếu đổ, từng chữ. Có người chỉ lướt một

đoạn đã không chịu được cái giọng khụng khiệng, khệnh khạng. Cái chơi của

Nguyễn Tuân cũng thế. Với người này không thể thiếu Nguyễn Tuân. Người

kia thì không thể chịu đựng được” [20, tr.7]. Cá tính và con người khác

thường như thế đã tạo nên một Nguyễn Tuân tài hoa, kiêu bạc, mê gái đẹp,

ngông, thích những chuyến đi xa, tạo nên một huyền thoại đẹp về người nghệ

sĩ tài hoa này.

Nguyễn Tuân khác người ở lối ăn uống cầu kỳ, sành ăn nhưng cái sành

ấy chẳng giống bất cứ ai. Tổ làm phim Vợ chồng A Phủ “mổ bò đón khách

linh đình”.Nhưng Nguyễn Tuân chén thịt bò có một bữa ấy. Những hôm sau

ông nhờ nhà bếp nắm cho nắm cơm nắm và mở lọ muối vừng, lọ ruốc mang

từ nhà. Đừng ai nài ông khách kỹ tính ấy ăn thêm miếng thịt kho, bát nước

xuýt và khói hai ba lửa” [20, tr.181]. Những cái thích và vui ẩm thực của

Nguyễn Tuân không chỉ vì miếng ăn, miếng uống, mà phải hợp khẩu vị, ngon

43

theo ý mình. Nguyễn Tuân sành ăn và kỹ tính tuyệt nhiên không xô bồ. Việc

ăn uống của ông bao giờ cũng nền nã và cầu kỳ. Nguyễn Tuân nổi tiếng với

bài bút ký Phở thế nhưng ít ai biết “Nguyễn Tuân chỉ ăn một thứ phở, phở

chín, phở thịt bò chín. Không hề đụng đũa vào bất cứ thứ phở nào khác”

[20,tr.29]. Với ông ăn phở không phải tẩm bổ mà cốt thưởng thức cái tinh túy

của nước dùng xương. Đạo ăn phở của Nguyễn Tuân có cách riêng như thế.

Vậy nên từ dạo quà phở trở thành cơm phở, người ta ăn phở lấy no thì

Nguyễn Tuân thôi không ăn phở nữa.

Ăn thế, uống cũng vậy, Nguyễn Tuân cầu kỳ không kém: “Ông uống

như các cụ ngày trước, rượu ngữ. Bữa sáng hay chiều, có nhắm hay uống

suông cũng thế, thành lệ mỗi lần một hai chén, quanh năm không khác”

[20,tr.181]. Chuyện ăn uống của Nguyễn Tuân chỉn chu, mực thước từ việc

nghĩ xem trong bữa tiệc tiếp khách nên xuất hiện lúc nào, ra về lúc nào. Cái

cách mà Nguyễn Tuân nán lại trong bữa tiệc của ông đại sứ để nâng cốc rồi “ý

tứ chào ra về” khi đường khuya đã vắng ngắt thật tinh tế. Ông đến đâu phải

chỉ ăn uống qua loa, chuyện trò với người bên cạnh. Ông khách mời phải trực

tiếp cạn ly cùng chủ nhà thế là đủ bởi ông ít khi “bỏ cơm nhà”.

Chuyện ăn, uống, mặc của Nguyễn Tuân cầu kỳ khiến ai cũng tưởng

rằng nơi ở của ông cũng phải tương xứng điều đó. Hóa ra “cái khách sạn nhà”

của ông lại khá bừa bộn, tuyềnh toàng. Lối lên nhà “Hai bên tường bị cơi

lấn,chỉ còn một lối đi ngóc ngách. Cái thang gỗ vươn lên tầng hai buồng bác

Nguyễn màu lim đã lên nước tối sầm mắt. Tủ sách, giá sách, dãy chai lọ rỗng

nhãn các loại rượu nước ngoài- lại cả một tranh áp phích Ba Lan vẽ chai

rượu to tướng, có thằng người bơi trong chai. Bầy cho vui mắt, tất cả mọi đồ

lề hồ như tàn tật, buồn bã, mệt mỏi” [20, tr.336]. Đồ đạc cũng chẳng có cái gì

quý, đáng tiền. Nếu mất trộm chỉ có một chiếc đài Liên Xô con con đặt đầu

giường may ra còn bán được tiền còn lại toàn những thứ đáng đem tống

44

xuống quang gánh bà đồng nát. Những cái lộn xộn đó tích trữ kỷ niệm của

riêng ông, chỉ mình ông hiểu, ông biết và “trò chuyện” được với chúng. Vì thế

những hòn cuội, hòn đá, đám chai không cũng là một thế giới riêng của

Nguyễn Tuân. Những thứ ấn tượng nhất là một ống cả đựng ba toong, gậy

song, chiếc sơn then cán bạc, chiếc gậy lụi... cái nạng thương binh. Ngoài

hiên còn lủng củng những vỏ chai sâm banh, bia hộp, vang dâu. Trên tường

và giá sách là những hòn cuội, hòn đất lăn lóc, những ký họa giấy, sơn dầu,

sơn mài và ảnh minh chứng cho thú sưu tầm trong những chuyến đi của

Nguyễn Tuân. Nhìn thấy chúng Nguyễn Tuân sống lại kỷ niệm những ngày

xê dịch trong đời mình. Nếu như những chiếc ba toong chính là một người

bạn đồng hành của ông trên khắp mọi nẻo đường xuôi ngược, thì chiếc gối

sành trắng nhễ nhại, to bằng hòn gạch vồ rỗng ruột vẫn dựng đứng giữa trời

nắng, trời mưa bên song sắt. Cái gối ở trong tiệm thuốc phiện ở chợ cũ,

Nguyễn Tuân đã khuân trong ấy ra cũng lại là một minh chứng nữa cho cuộc

sống đầy cá tính của ông. Cái gối sành ấy là một phần của đề tài “đời sống

trụy lạc” mà Nguyễn Tuân đã thể hiện trong những trang văn trước Cách

mạng tháng Tám khá thành công.

Ở Nguyễn Tuân có cái thú xê dịch như ăn vào máu: “Đi và đi thực và

mộng cả đời Nguyễn Tuân. Làm thế nào đi được, chỉ cốt đi được” [20, tr.15].

Cái thúc giục ông ra đi là những “cơn đói đi” của chính mình. Chẳng thế mà

năm hết tết đến không quản đường xá xa xôi Nguyễn Tuân lặn lội từ Hà Nội

sang Hương Cảng để đóng phim Cánh đồng ma. “Tài tử màn bạc” Nguyễn

Tuân đâu có phải đóng vai chính mà chỉ là một vai phụ, phụ đến mức là “có

thể lôi người đi ngoài đường vào sắm vai cũng được, một người y tá mặc áo

blu trắng, nâng đầu cáng thương, lừ lừ qua ống kính chớp nhoáng một, hai

giây” [20, tr.15]. Chỉ thế thôi, điều quan trọng hơn cả là ông được đi, được

45

thỏa mãn cơn đói đi của mình. Khao khát được đi với Nguyễn Tuân lớn hơn

nhiều giấc mộng hương hoa đổi đời.

Từ thời trẻ, Nguyễn Tuân đã say mê với những chuyến đi. Và trong

suốt cả cuộc đời mình ông đã đặt chân đến các nơi địa đầu Tổ quốc từ Hà

Giang đến tận mũi Cà Mau để viết và thỏa mãn cơn đói đi luôn giày vò, trăn

trở của lòng mình. Mỗi mảnh đất ông đã đi qua không còn là một cái tên trên

bản đồ địa lý mà với Nguyễn Tuân đó còn là sự thức dậy của ký ức, của khát

vọng trong tâm hồn lãng tử nhà văn. Buồn cười nhất là chuyến đi của Nguyễn

Tuân và Lương Đức Thiệp người bạn cùng học năm thứ ba trường ca rô Nam

Định. Hai người cùng bàn nhau một chuyến phiêu lưu về phía Tây Cao Miên

giáp nước Xiêm La có mỏ Hồng Ngọc ở Pai Linh để làm một “giấc mộng

hương hoa đổi đời”. Chẳng biết giấc mộng ấy thực hiện được bao nhiêu phần

trăm nhưng đôi hoa tai, khuyên vàng của vợ để làm lộ phí cũng chẳng còn.

Kết quả của chuyến xê dịch ấy khiến Nguyễn Tuân và Lương Đức Thiệp trở

về Việt Nam trên “Hai người bị xích một cánh tay với nhau, trèo chiếc xe bò

kéo, có lính ngồi cùng thùng xe. Xe bò lắc lư qua mấy phố dài xúm xít người

chạy theo xem ra tận ga tàu hỏa…” [20, tr.155]. Bài học từ sự ngờ nghệch ấy

chỉ khiến Nguyễn Tuân khôn lên chứ cái thú xê dịch của ông không vì thế mà

giảm sút. Con người ham đi ấy khi còn trẻ đã từng tuyên bố: “Khi ta chết đi,

da ta thuộc làm cái vali” thật khó tưởng tượng được lúc về già chân đã chồn,

gối đã mỏi lại có thể tuyên bố “chẳng ở đâu bằng ở nhà, cái khách sạn nhà

tớ” [20, tr.326]. Chẳng phải cơn đói đi của Nguyễn Tuân đã thỏa mãn mà hơn

ai hết Tô Hoài hiểu đó là “cái đau của một người cả đời ham đi mà dần dần

không đi đâu, quanh quẩn bức bối, bực dọc dằn vặt…”. Ông đã từ chối cả

chuyến đi Pari “giảng cho ít bữa” mặc dù lời từ chối và cơn cắt nghĩa của

Nguyễn Tuân lúc ấy có thể không đầy đủ nhưng cái tâm sự nát lòng người ta

thì nói bao nhiêu cho hết được.

46

Nguyễn Tuân sống với lẽ yêu ghét phân minh, rạch ròi của riêng mình.

Ông có những cái “không” thật thú vị: “Không bao giờ ăn các thứ phở nào

khác ngoài phở bò chín, ghét mùi tỏi, không chịu được mùi thơm ở các thứ

hương Ấn Độ…” [20, tr.268]. Nguyễn Tuân “ghét mùi hoa sữa, hoa dạ hương

những mùi đậm quá làm điếc mũi cả đêm…”. Nhưng đúng là “ghét của nào

trời trao của ấy, ngay bên cửa sổ gác nhà Nguyễn Tuân, đến mùa, hoa sữa nở

từng chùm trắng ngà, nồng nàn buông vào ngập cả phòng…” [20, tr.269].

Điều đó khiến “ông bực bội không ngủ được, lúc nào cũng cửa sổ về phía ấy”

[20, tr.269]. Chẳng thích cái bát nháo ở quán ông 81 nhưng Nguyễn Tuân vẫn

đến, ngồi đối diện mà chẳng nhìn mặt ai chỉ để nhớ lại kỉ niệm xưa. Yêu, ghét

rõ ràng. Nhưng ghét ai thì khó mà giấu được, đã không thích thì ông dửng

dưng dù người ta giơ tay định bắt tay thậm chí thấy ông ấy ở cùng phòng

trong bệnh viện thì nhất định sang buồng khác. Ông còn bực bội “vặc” cả

những người ông không ưa một cách không giấu diếm. Ông cười vào “những

cán bộ các tỉnh gà vịt đội lông, công cùng áo cánh lụa mỡ gà phe phẩy cái

quạt giấy, cười cười như ủy viên bộ chính trị…” [20, tr.77]. Ông “Chửi các

báo địa phương làm măng sét hệt báo Nhân Dân” [20, tr.78]. Cái cười, cái

chửi ấy của Nguyễn Tuân đều nhằm vào cái mờ nhạt, không cá tính không

còn là mình  cái mà ông rất ghét. Ghét thì như thế nhưng ông cũng “sẵn

sàng giựt nóng tiền của ai để ra bà hàng hoa quen ở ngã tư Tràng Tiền mua

bốn bông hồng vàng lòng trứng đưa đến bữa ăn sinh nhật bà nhạc sĩ nọ” [20,

tr.331]. Con người đó nhiều lúc cũng thẳng thắn, bỗ bã trong quan hệ với bạn

bè. Ông từng nói độp vào mặt Tô Hoài: “chó biết thằng này thế nào là thật.

Tao ghét cái cười mủm mỉm, hiền lành, không hiền lành của mình…” [20,

tr.279]. Có lúc lại tợn tạo trắng trợn: “Ở Hà Nội này, đứa nào là Việt Minh,

đứa nào là tơ-rốt-kít, đứa nào là Đại Việt Quốc dân Đảng, đứa nào là bố láo

cách mệnh mồm khoác lác, đứa nào ăn tiền mật thám, tớ biết cả” [20, tr.6].

47

Con người đó ác mồm, ác miệng: “Tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một

thằng phê bình, ai đã bịa ra mà kể lại thế, nhưng giá ở dưới âm ty, thằng phê

bình chẳng may nào đó bị chôn sống, lại mời ông đi uống rượu rồi đi chơi

đảo Cát Hải thì chắc ông cười xòa, làm lành ngay” [20, tr.31]. Nhưng lại chu

đáo, ân tình, đi đâu xa đều viết thư, gửi thiệp chúc mừng người thân. Con

người ấy đôi khi góp ý cũng không chịu thay đổi. Trong đợt chỉnh huấn bị

nhắc nhở phê bình vì những câu nói ác mà chính ông không nhớ, ông chỉ ngồi

yên không tiếp thu cũng chẳng nói lại, rồi không bao giờ nhìn mặt người ấy

nữa.

Nguyễn Tuân đôi khi cũng hợm hĩnh, kiêu ngạo vậy mà lại đuổi họa sĩ

Nguyễn Sáng ra khỏi nhà hôm mùng 3 Tết vì không thể chịu được cái tính

hợm hĩnh trong sáng tác, không coi ai ra gì, ai cũng không bằng mình của

Nguyễn Sáng. Ác khẩu, đáo để nhưng trước sau Nguyễn Tuân vẫn là người có

tổ chức. Nguyễn Tuân khiến người ta tôn trọng không chỉ vì tài mà còn mến

vì nhân cách kiêu bạc, cầu kỳ, kiểu cách, ác khẩu, nhớ lâu, ghét dai, ấy thế mà

khi cần dí dỏm, tinh quái ông cũng hóm hỉnh chẳng kém ai. Khi bà giáo Bến

Tre nọ viết thư cho Nguyễn Tuân phàn nàn có một ông Nguyễn Tuân dởm

năm xưa đã lừa bà. Nguyễn Tuân thật than thở rằng: “Có cái thanh xuân của

người ta thì thằng Nguyễn Tuân giả sực tất cả. Bây giờ thằng Nguyễn Tuân

thật hiệu đầu râu, tóc tai lụ khụ đến. Hai chiếc quan tài sắp hạ huyệt rồi. Cái

trang cuối của thiên tiểu thuyết này không thể tái hồi Kim Trọng có hậu như

truyện Kiều được” [20, tr.176].

Chơi bời nhưng Nguyễn Tuân vẫn giữ chừng mực. Nhiều lúc cũng vì

mê tiếng hát mà muốn lấy thêm một bà vợ bé nhưng với Nguyến Tuân gia

đình vẫn là quan trọng nhất. Chơi đâu thì chơi, không bao giờ Nguyễn Tuân

sao nhãng cửa nhà. Ngay cả cái bí danh Chánh Tuệ, Nguyễn Tuân đặt cho

mình cũng chính là tên của người vợ. Lúc hiểm nguy ông vẫn nhớ về bác gái

48

người cả đời giúp ông làm “nhà bếp, nhà bàn, nhà phòng”. Ông lão “giang

hồ” cuối cùng rút ra kết luận: “Chẳng đâu có ôten tốt hơn cái ôten nhà mình”

[20, tr.178]. Đó là cái thấm thía của con người đã phải trải suốt một đời xê

dịch, đi ở hết ôten này đến ôten khác mới rút ra được. Con người của một thời

tuổi trẻ vang bóng chơi bời ấy luôn hiểu và trân trọng những gì vợ con đã hy

sinh thầm lặng cho ông được thỏa mãn đam mê của mình. Đây là điểm vô

cùng đáng quý ở một người chồng, người cha có trách nhiệm.

Nếu nói rằng: “Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ sĩ”, điều

đó chẳng sai. Con người tài hoa ấy luôn khiến người ta mến mộ về tài năng,

nể trọng về nhân cách. Cả một đời ngay cả khi tuổi đã cao, sức đã mòn ông

vẫn chăm chú cái mình thích, một chút xắng xấu hợp khẩu vị một chuyến

đi…”. Hành trình cuộc đời của người nghệ sĩ ấy thật khác xa với cuộc đời mà

bao người khác đã sống. Nhưng rồi hành trình ấy cũng đến lúc phải dừng. Cát

bụi chân ai đã khép lại kỷ niệm cuối cùng của Tô Hoài về Nguyễn Tuân. Khi

ông đến chào tạm biệt khoe Nguyễn Tuân một chuyến đi vào một ngày tháng

bảy nắng gắt, thành phố nóng ngột ngạt. “Nguyễn Tuân bước vào với vẻ mặt

bơ phờ, tía tím, không phải mặt rượu đỏ hồng” [20, tr.334]. Dáng vẻ mệt mỏi

của sức lực đã tàn nhưng ông vẫn “cất gậy vào ống, ngăn nắp vẫn đâu vào

đấy”, vẫn lịch sự, chu đáo mời “lấy rượu mà uống. Chai nút đỏ ở phía ngoài

ấy, cái này đậm lắm…” [20, tr.334], trong khi ngả lưng xuống phản, khép mắt

nằm thiêm thiếp. Đến lúc đó tình cảm chân thành, chu đáo trong ông vẫn

không hề thay đổi. Tô Hoài lặng lẽ ra về mà “không dám nói sắp đi Cát Bà”.

Vài hôm sau có người đến báo “Nguyễn Tuân mất rồi. Tôi nghĩ như vẫn buổi

tôi ngồi uống một mình ở nhà ông trước hôm đi Cát Bà, Nguyễn Tuân vẫn

nằm yên từ buổi sáng hôm ấy. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi!” [20, tr.346].

Nguyễn Tuân ra đi thanh thản, nhẹ nhàng như đến lúc phải “dừng chân nghỉ

một lát”.

49

Cát bụi chân ai khép lại bằng hành trình dài bất tận của cuộc đời nghệ

sĩ Nguyễn Tuân. Khép mở của Cát bụi chân ai là khép mở của một đời người.

Không phải ngẫu nhiên mà Tô Hoài lại chọn Nguyễn Tuân là tấm bản lề mở

khép một cuốn hồi kí dài. Có nhiều lý do nhưng có lẽ lý do lớn nhất là tình

cảm, là tấm lòng mà Tô Hoài dành cho người bạn mà mình yêu quý, cảm

phục. Chân dung Nguyễn Tuân một lần nữa hiện lên thật khiêm nhường, giản

dị nhưng cũng hết sức thanh cao.

Có thể thấy, hiện lên trong cuốn hồi kí của Tô Hoài là những nhân vật

lạ mà quen, quen mà lạ: “Chẳng lên giọng mà cũng chẳng cần phải ra bộ

khiêm nhường Tô Hoài cứ tự nhiên kể về những gì mình đã viết, đã trải” [36].

Người đọc quen với họ trong tính cách của những nhà văn nổi tiếng được mọi

người quan tâm, truyền tụng nhưng lạ ở những xó xỉnh, đời tư mà chúng ta

không biết, không thể tưởng tượng nổi. Chính ở đó ta nhận ra cái “lịch sử

trong con người” không hề tô vẽ thi vị hóa khi miêu tả chân dung. Các nhân

vật trong hồi ký Tô Hoài hiện lên trong kích thước quen thuộc, gần gặn nhất,

vì vậy nó không hiếm những cái dung tục, hài hước.

2.2.3. Chân dung tự họa con người tác giả

Là thể văn mang đậm dấu ấn chủ quan của người viết, hồi ký chủ yếu

viết về những hồi ức, những kỷ niệm của chính tác giả. Nhân vật chính của

tác phẩm không phải ai khác mà chính là nhà văn. Viết văn về mình là điều

rất khó. Dựng thành công chân dung của mình lại càng khó hơn. Bởi lẽ khi

viết về mình người viết hoặc là dễ sa vào việc đánh bóng bản thân để tạo ra sự

chú ý của dư luận hoặc viết về những điều chưa tốt thì vẫn còn ngần ngại, né

tránh. Nhưng với Tô Hoài, điều đó không xảy ra. Cuộc đời ông hay, dở, tốt,

xấu đều được ông phản ánh trung thực trên trang sách. Ông là mình trong

cuộc sống và cũng chính là mình trong chân dung nhân vật Tôi của cuốn hồi

ký Cát bụi chân ai. Nói như Erenbua trong tác phẩm Những người cùng thời:

50

“Bất kì một quyển sách nào cũng là lời tự thú và quyển sách hồi ức chính là

nơi tự thú mà tác giả không có ý giấu mình dưới bóng dáng của nhân vật hư

cấu”. Hồi kí Cát bụi chân ai chính là những lời tự thú chân thực nhất về bản

thân tác giả.

Đọc hồi ký Tô Hoài, nhất là các trang viết về bản thân mình, người đọc

thật sự ấn tượng bởi cách viết chân thực. Ông có cái tâm trong sáng với nghề

văn, có tấm lòng yêu thương mọi người nhưng cũng có những toan tính đời

thường giống như bất cứ ai. Điều đáng quý là ông đã dám nhìn thẳng vào con

người mình, biết tự kiểm điểm bản thân để tìm ra cái đúng, cái sai rồi tự mình

khắc phục. Ông không ngần ngại kể lại những điều sâu kín nhất của mình mà

rõ ràng nhiều khi chính những điều ấy có thể khiến mọi người nghĩ sai về

ông. Thế nhưng ông vẫn cứ viết, viết một cách tự nhiên như thể đó là một nhu

cầu không thể thiếu. Ông không ngần ngại ghi nguyên văn lời mắng của

Nguyên Hồng: “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn ông thì không ,Nguyên Hồng thì

không?”. Cũng như lời nhận xét không mấy hay ho của Như Phong: “Thằng

ngoại ô láu cá, văn chương thì đẽo gọt”. Tất cả những nhận xét ấy không hề

sai. Tô Hoài không hề lên tiếng phủ định hoặc giải thích bất cứ điều gì. Ông lí

giải: “Tôi sinh ra ở nơi thành phố với làng mạc lẫn lộn thế lực chánh lý không

khạc ra lửa như trời đát làng Đại Hoàng của Nam Cao, mà ở quê tôi túi bạc

đâm toạc tờ giấy, có tiền là có cả, bấy lấu tôi lăn lóc trong khóe đời ấy có thể

vì thế mà toi sai chăng…” [20, tr.121]. Chân thành, tự nhiên khi viết về

những điều đó ông không hề đẽo gọt văn chương của mình mà cứ để tự nó

phơi bày trên trang giấy. Vẫn là nụ cười hiền lành, mủm mỉm không hề che

giấu: Mọi người nghĩ về tôi như vậy đấy. Trung thực đến thế là cùng.

Chứng kiến, giải quyết không biết bao nhiêu công việc trong cuộc sống,

Tô Hoài không khỏi có những lúc băn khoăn, trăn trở về những việc đã xảy

ra. Việc kiểm điểm họa sĩ Phan Kế An khiến Tô Hoài không bao giờ quên.

51

Trong cuộc họp ấy Tôi-Tô Hoài đã “tóm tắt những cái đã đọc ở hồ sơ rồi gợi

ý những sai phạm như thế thì không thể kỷ luật nào khác là khai trừ ra khỏi

hàng ngũ Đảng”. Mọi người yên lặng, Tô Hoài ấn tượng mãi câu nói cuối

cùng của họa sĩ Phan Kế An cuối buổi họp “Tôi không có khuyết điểm. Ngày

mai, ngày mai thời gian sẽ ủng hộ tôi”[22, tr.189]. Sau này khi ngồi lại với

nhau, Phan Kế An không bao giờ nhắc lại chuyện ấy nhưng Tô Hoài thì chẳng

bao giờ có thể quên được những gì đã xảy ra.

Tự nhận mình là đơn giản, ngây thơ thậm chí có thể coi là một người ấu

trĩ trong cách nghĩ, Tô Hoài đánh giá mình là người hay quên: “Tôi có yếu

bẩm sinh thường không nhớ ngày tháng sự việc, không hay nhớ các con số,

không những thế, nhớ về người cũng chẳng tốt lắm”. Trường hợp này đúng

trong cuộc gặp gỡ với ông chủ bánh cuốn Hồng Lâm ở ngã tư cùng phố cà

phê Ca. Ông Tàu ấy nhận ra Tô Hoài trong khi đó nhà văn lại tưởng: “Ông ấy

nhìn ông cháo gà đồng hương”. Thế nhưng có những sự việc mà cả đời ông

không thể nào quên, khi viết trong hồi kí ông cũng không hề né tránh. Đó là

mối quan hệ “đặc biệt” của ông với Xuân Diệu ở chốn “U tì quốc” trong

những đêm mưa gió năm nào là một minh chứng cụ thể. Trước cách cầm tay

âu yếm, trước đôi mắt đắm đuối, những cử chỉ ân cần, chu đáo của Xuân Diệu

dành cho, Tô Hoài thấy “hơi lạ” nhưng “cảm động”. Tô Hoài nhận ra “Xuân

Diệu yêu tôi”. Trong cuộc tình mặn mà, vụng trộm của “mối tình trai” ấy

chính Tô Hoài là một “kẻ trong cuộc” một kẻ đồng lõa nhiệt thành. Thế mà

khi Xuân Diệu bị đưa ra kiểm điểm thì không chỉ không ai nói mà ngay đến

Tô Hoài cũng câm như hến. Ông đã nhận thấy tính hèn nhát an phận trong

con người mình dù trong lòng cũng xót xa, day dứt khi thấy “Xuân Diệu chỉ

ngồi khóc”. Có cảm thông với Xuân Diệu nhưng ông cũng không thể làm

khác hơn là lặng im và xót xa cho bạn mình. Trong trái tim mình, Tô Hoài

luôn dành cho Xuân Diệu những tình cảm tốt đẹp nhất. Chỉ ông mới nhớ tất

52

cả những lời cằn nhằn đáng yêu của Xuân Diệu dành cho mình, nhớ sự quan

tâm chu đáo từ chiếc khăn mùi xoa, đến đôi bít tất. Vậy mà ông không thể

đứng lên bênh vực cho Xuân Diệu. Đọc hồi kí của ông, ta mới hiểu Tô Hoài

là một nhà văn nhưng trước hết ông cũng là một con người bình thường như

tất cả những người khác mà thôi.

Có thể thấy, với cái tôi thành thực, Tô Hoài giúp chúng ta  những kẻ

hậu thế  có được cái nhìn khách quan, chân thực về bản thân nhà văn và thời

cuộc. Chân dung Tô Hoài nhờ thế trở nên gần gũi, chân thật khiến nhiều

người phải ngạc nhiên hòa cùng cảm giác với GS Phong Lê: “Đọc Tô Hoài tôi

bỗng ngạc nhiên không hiểu sao người ta có thể viết hay đến thế về mình mà

qua mình hiểu người, hiểu đời, hơn thế hiểu cả một thời  nó là bầu khí quyển

chung cho biết bao thế hệ. Cái vốn đó ai mà chẳng có nhưng tại sao lại rất ít

người có ý thức khai thác” [45].

53

KẾT LUẬN

Với hành trình gần một thế kỉ đời người và hơn 70 năm đời văn, Tô

Hoài có những đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà và khẳng định một

nét nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác. Trong phạm vi đề tài chúng

tôi đi sâu vào tìm hiểu Hiện thực đời sống và con người trong hồi kí Cát bụi

chân ai – Tác phẩm tiêu biểu cho chặng đường sáng tác thập kỉ 90 (thế kỉ

XX) của Tô Hoài, chúng tôi nhận thấy:

Qua hồi kí Cát bụi chân ai, cuộc sống, con người hiện lên chân thực,

vẹn nguyên như chính nó đang tồn tại. Các nhân vật của Tô Hoài hiện lên như

những con người bình thường với những phẩm chất riêng mà không hề tô vẽ. Vì

thế, đọc hồi kí Tô Hoài người đọc vô cùng thú vị khi được tiếp xúc với các nhà

văn mà chúng ta yêu mến từ một khoảng cách gần, chân thực, đời thường nhất.

Với Cát bụi chân ai, Tô Hoài đã khắc họa thành công các hình tượng

Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Xuân Diệu… và giúp chúng ta

hiểu rõ hơn về một thời đại văn học. Các nhân vật trong hồi kí được phác họa

bằng chính cách mà họ đã sống. Nhà văn quan tâm đến ngoại hình, hành động

của họ. Dù họ là bất cứ ai, ông vẫn nhìn họ với đầy đủ những nét nguyên sơ

của cuộc sống thực. Những con người nổi tiếng trong làng văn như: Nguyễn

Tuân, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Nguyên Hồng, Tô Hoài mà bấy lâu nay ta

mới chỉ biết đến qua những đóng góp của họ trên văn đàn. Đọc hồi kí Tô Hoài

ta mới nhận ra: Họ - những con người nổi tiếng ấy, cũng chỉ là những con

người bình thường như bao người khác. Họ cũng biết yêu, biết ghét, cũng có

những thói hư tật xấu như bất cứ ai. Cuốn hồi kí giúp ta hiểu bao điều về

những nhà văn, những người nghệ sĩ của một thời. Từ những kỉ niệm, những

câu chuyện có thật trong cuộc đời của họ ta có thể khẳng định: Những con

người tài hoa đó trước hết là những con người bình thường, có số phận, có

54

niềm vui, nỗi buồn riêng chẳng ai giống ai. Ẩn chứa đằng sau những số phận,

những con người ấy là bức tranh hiện thực đời sống. Chính cuộc sống sinh

hoạt đời thường không hề tô vẽ ấy đã trở thành cái nền chung để các nhân vật

sống, suy nghĩ và bộc lộ con người thật, con người công dân của mình. Đặc

biệt Tô Hoài không tô vẽ cầu kì, không thiêng liêng hóa hình tượng Nguyễn

Tuân nhưng chân dung Nguyễn Tuân không vì thế mà mất đi vẻ khả ái, đẹp

đẽ, ấn tượng. Chỉ điểm xuyết đôi nét về con người Nguyễn Tuân trong giai

đoạn tiền chiến, rồi đi ngược lại mãi về một thời rất xa, cứ thế cuộc đời dấn

thân của Nguyễn Tuân như Tô Hoài biết từ sau 1945 hiện lên sinh động với

tất cả những gì bình dị và thân thương nhất.

Suốt cuộc đời cống hiến cho sáng tạo nghệ thuật, 70 năm cầm bút

không mệt mỏi, Tô Hoài khẳng định vị trí của mình trong lòng bạn đọc bằng

giải thưởng cao quý mà nhà nước trao tặng: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn

học nghệ thuật. Nghiên cứu về Tô Hoài và văn nghiệp của ông không phải là

công việc làm một lần và một người có thể hoàn tất. Bởi văn Tô Hoài nói

chung và hồi kí Tô Hoài nói riêng thực sự là những tác phẩm có giá trị giống

như một mạch ngầm trong lòng đất cày, càng khơi càng trong, càng khai phá

càng thấy giá trị. Nói như nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn: “Dường như cả

cuộc đời từng trải đã chuẩn bị cho những trang viết hôm nay của ông. Hồi kí

là nơi con người tác giả cùng cái triết lí ông mơ hồ cảm thấy và đã theo đuổi

suốt đời cả hai đã có dịp bộc lộ”[47]. Đây thực sự là mảnh đất màu mỡ còn

nhiều tiềm năng để giới nghiên cứu tiếp tục chiếm lĩnh.

55

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm

định, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

[2]. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội.

[3]. M.Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),

Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

[4]. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam 1945-1975, tập 1,

Nhà xuất bản Đại học và THCN, Hà Nội.

[5]. Nguyễn Đăng Điệp (2004), “Tô Hoài sinh ra để viết”, Tạp chí Văn học số 9.

[6]. Hà Minh Đức (1987), Lời giới thiệu, Tuyển tập Tô Hoài tập 1, Nhà xuất

bản Văn học, Hà Nội.

[7]. Hà Minh Đức (chủ biên) (1994), Nhà văn nói về tác phẩm , nhà xuất bản

Văn học, Hà Nội.

[8]. Hà Minh Đức (1997), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

[9]. Hoàng Phê (chủ biên) (2002), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng.

[10]. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, Nhà xuất bản Văn học, Hà

Nội.

[11]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ

Văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

[12]. Đặng Thị Hạnh (1998), “Viết về một cuộc đời và những cuộc đời” (Cấu

trúc thời gian và ngôn ngữ trong Cát bụi chân ai), Tạp chí Văn học số 12.

[13]. Đoàn Thị Thúy Hạnh (2001), Nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài qua hồi

kí, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.

[14]. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nhà xuất bản Hội Nhà văn,

Hà Nội.

[15]. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (1983), Từ điển văn học, tập 2, Nhà xuất bản

Giáo dục, Hà Nội.

[16]. Lê Minh Hiến (1998), Tìm hiểu hồi kí Tô Hoài, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP

Hà Nội.

[17]. Tô Hoài (1981), Quê nhà, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội.

[18]. Tô Hoài (1985), Tự truyện, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

[19]. Tô Hoài (1994), Những gương mặt và chân dung văn học, Nhà xuất bản

Hội Nhà văn Việt Nam.

[20]. Tô Hoài (1992), Cát bụi chân ai, Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

[21]. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

[22]. Tô Hoài (1996), Tuyển tập Tô Hoài, tập 1, Nhà xuất bản Văn học.

[23]. Tô Hoài (1996), Tuyển tập Tô Hoài, tập 2, Nhà xuất bản Văn học.

[24]. Tô Hoài (1996), Tuyển tập Tô Hoài, tập 3, Nhà xuất bản Văn học.

[25]. Tô Hoài (2005), Hồi kí, Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

[26]. Tô Hoài (1989), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nhà xuất bản Văn

học, Hà Nội.

[27]. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nhà xuất bản Văn

học, Hà Nội.

[28]. Tô Hoài (2001), Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả, Nhà xuất bản

Giáo dục, Hà Nội.

[29]. Tô Hoài (1997), Sổ tay viết văn, Nhà xuất bản Tác phẩm mới.

[30]. Tô Hoài (2003), Tôi viết bằng tình yêu cuộc sống, Tạp chí Văn học.

[31]. Đoàn Trọng Huy (2006), Tô Hoài, Lịch sử văn học Việt Nam, (tập 3),

Nhà xuất bản ĐHSP Hà Nội.

[32]. Nguyễn Công Hoan (1997), Hỏi chuyện các nhà văn, Nhà xuất bản Tác

phẩm mới.

[33]. Vĩnh Quang Lê (1998), Tô Hoài và câu chuyện nghề văn, Báo Văn

nghệ ra ngày 2.5.

[34]. Phong Lê (giới thiệu), Vân Thanh (tuyển chọn) (2006), Tô Hoài về tác

gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

[35]. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam

hiện đại, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

[36]. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nhà

xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

[37]. Nguyễn Văn Long (2000), Tô Hoài tên hành trình thế kỉ, Tạp chí Văn

học số 9.

[38]. Nguyễn Văn Lưu (1999), Tô Hoài, đời văn, đời người, Nhà xuất bản Hội

Nhà văn.

[39]. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), (1975), Tổng tập văn học Việt Nam tập

(30A), Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

[40]. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Tô Hoài với quan niệm về con người, Báo

Văn nghệ số 25 ra ngày 17.6.

[41]. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học,

Trường ĐHSP Hà Nội.

[42]. Nguyễn Đăng Mạnh (1994),Con đường đi vào thế giới nghệ thuật nhà

văn, Nhà xuất Giáo dục, Hà Nội.

[43]. Trần Đình Nam (1995), Nhà văn Tô Hoài, Tạp chí Văn học số 9.

[44]. Vương Trí Nhàn (2002), Tô Hoài và thề hồi kí, Tạp chí Văn học số 8.

[45]. Vương Trí Nhàn (1999), Cuộc phiêu lưu giữu trần ai Cát bụi, Nhà xất

bản Hải Phòng.

[46]. Nhiều tác giả (1997), Tác giả văn xuôi Việt Nam hiện đại (từ sau 1975),

Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

[47]. Vũ Ngọc Phan, Hồi kí văn học, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội.

[48]. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, tập 2, Nhà xuất bản Văn học,

Hà Nội.

[49]. Vũ Quần Phương (1999), Tô Hoài văn và đời, Tạp chí văn học số 8.

[50]. Võ Xuân Quế (1976), Ngôn ngữ vùng quê trong các tác phẩm đầu tay

của Tô Hoài, Tạp chí Văn học số 5.

[51]. Xuân Sách, Trần Đức Tiến (1993), Cát bụi chân ai. Báo Văn nghệ ngày

13.11.

[52]. Vân Thanh (1976), Sáng tác của Tô Hoài, Tác giả văn xuôi Việt Nam

hiện đại, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

[53]. Vân Thanh (1980), Tô Hoài qua Tự truyện, Tạp chí Văn học số 6.

[54]. Trần Hữu Tá (2001), Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, Hội

nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp. Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ.

[55]. Trần Văn Thọ (2006), Vài cảm giác với Chiều chiều, Văn nghệ Trẻ, số

ra ngày 30.4.

[56]. Minh Thi (2006), Viết hồi kí để nói ra sự thật, Báo lao động Việt

Nam.net.

[57]. Khái Vinh (1971), Nhà văn Tô Hoài, Báo Văn nghệ số 5.