ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐẶNG HUYỀN TRANG
QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L
HÀ NỘI – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐẶNG HUYỀN TRANG
QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. CHU HỒNG THANH
HÀ NỘI – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời
cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đặng Huyền Trang
SV: Đặng Huyền Trang i Lớp: K60B-QH-2015-L
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
MỤC LỤC ................................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... iii
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ QUYÊN CON NGƯỜI VÀ VỀ MỘT SỐ TÔN
GIÁO LỚN ................................................................................................................ 5
1.1 Lý luận chung về quyền con người ................................................................ 5
1.2 Khái quát về một số tôn giáo lớn ..................................................................... 13
1.2.1 Tôn giáo và lịch sử tôn giáo ............................................................................ 13
1.2.2 khái quát tư tưởng triết lý của các tôn giáo liên quan đến tư tưởng quyền
con người .................................................................................................................. 17
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TÔN GIÁO VỀ MỘT SỐ QUYỀN
CON NGƯỜI CỤ THỂ ........................................................................................... 21
2.1. Sự tương đồng giữa quan điểm tôn giáo và tư tưởng quyền con người ...... 21
2.1.1 Nhân sinh quan ............................................................................................... 21
2.1.2 Tư tưởng Về nhà nước và xã hội trong quan điểm tôn giáo ....................... 23
2.2. Quan điểm của các tôn giáo về một số quyền cụ thể ..................................... 26
2.2.1. Quyền sống ..................................................................................................... 26
2.2.2 Quyền không bị tra tấn ................................................................................... 32
2.2.3 Vấn đề quyền tự do bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. .......................... 36
2.2.4. Quyền tự do dân chủ tín ngưỡng tôn giáo .................................................... 46
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT KHÁI QUÁT TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUAN
ĐIỂM TÔN GIÁO VỀ QUYỀN CON NGƯỜI .................................................... 54
3.1. Tác động tích cực trong các quan điểm tôn giáo về quyền con người ........ 54
3.1.1 Nền văn hóa nhân quyền ................................................................................ 54
3.1.2 Tác động tích cực trong tư tưởng của các Tôn giáo cần được phát huy ..... 56
3.2. Tác động tiêu cực trong các quan điểm tôn giáo về quyền con người ........ 58
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 68
SV: Đặng Huyền Trang ii Lớp: K60B-QH-2015-L
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Công ước chống tra tấn CAT
Giáo hội Phật giáo Việt Nam GHPGVN
Ủy ban Quyền con người HRC
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ICCPR
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ICESCR
Hội Chữ Thập đỏ quốc tế ICRC
Tổ chức Lao động quốc tế ILO
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam MTTQVN
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người UDHR
SV: Đặng Huyền Trang iii Lớp: K60B-QH-2015-L
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người (Nhân quyền - Human Rights) là một phạm trù đa diện và có
nhiều định nghĩa, các nhà nghiên cứu cho rằng quyền con người đã tồn tại ngay từ
buổi ban sơ trong lịch sử xã hội loài người; mặc dù có nhiều ý kiến đánh giá và cách giải thích khác nhau, nhưng phải đến sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945),
khái niệm “quyền con người” mới thực sự được đề cập rộng rãi trong cộng đồng
nhân loại.
Theo dòng chảy lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung, lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người nói riêng, có thể thấy rằng những giá trị phản ánh về quyền con
người đã tồn tại trong đời sống xã hội loài người từ nhiều thế kỷ trước đây, mặc dù
không được nói đến trong cụm từ “quyền con người” nhưng những giá trị của quyền
con người, ở những mức độ khác nhau đã được nêu ra trong những tác phẩm của
các triết gia, các nhà tư tưởng lớn, nó xuất hiện và tồn tại trong giáo điều và quy
định của các tôn giáo, trong pháp luật của các quốc gia, biểu hiện trong văn hóa
truyền thống của nhiều dân tộc khác nhau…
Quyền con người là phổ quát, là giá trị chung của nhân loại, đảm bảo quyền
con người là mục tiêu hướng đến của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo trên thực tế là một quá trình và cần có
sự tham gia của nhiều thành tố trong xã hội.
Chúng ta hiểu và thừa nhận rằng, bảo vệ quyền con người không chỉ bằng hệ
thống pháp luật, mà nó còn là phát huy tổng hợp các giá trị tốt đẹp tồn tại trong xã
hội, một nền tảng xã hội được xây dựng dựa trên những giá trị xuất phát từ phẩm
giá của con người là điều kiện tốt để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo.
Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (năm 1990) về công tác tôn giáo khẳng định: Tôn
giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta đã nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết
chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
SV: Đặng Huyền Trang 1 Lớp: K60B-QH-2015-L
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người” [8]; „„Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia
đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo, xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ,
trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa
tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng giađình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [8].
Bên cạnh việc từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chúng ta cần khai thác, phát huy những giá trị tích
cực, tốt đẹp của truyền thống văn hóa của dân tộc, trong đó có những giá trị tư
tưởng tôn giáo, những giá trị của văn hóa tôn giáo để góp phần xây dựng một nền
văn hóa nhân quyền.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người giúp cho chúng ta
nhận thấy những giá trị về quyền con người tồn tại ở đâu, giá trị quyền con người
được chứa đựng trong những giá trị văn hóa hay tôn giáo nào, đã và đang hiện hữu trong đời sống xã hội loài người. Từ đó gợi cho chúng ta ý tưởng rằng, việc thúc
đẩy và đảm bảo quyền con người cũng chính là tiếp tục phát huy hơn nữa những giá
trị quyền con người chứa đựng trong các giá trị văn hóa ấy, mà ở đây tác giả tập
trung nói đến là những giá trị trong tư tưởng, triết lí của 4 tôn giáo lớn là: Kito giáo,
Hồi giáo, Ấn độ giáo và Phật giáo.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “KHÁI LƯỢC QUAN ĐIỂM CỦA
MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI” làm đề khóa luận tốt
nghiệp của mình, với mục đích làm rõ một số tư tưởng, triết lí của các tôn giáo về
quyền con người, bổ sung vào hệ thống lí luận về lịch sử tư tưởng, triết lí của nhân loại về quyền con người; góp phần phát huy những giá trị tích cực của các tôn giáo trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong thời đại ngày nay.
2 Tình hình nghiên cứu Ngày nay, khi nói đến tôn giáo, không ai có thể phủ nhận hay bàn cãi về giá trị nhân văn, nhân đạo của các tôn giáo cũng như cảm nhận sự gần gũi của những tư
tưởng, triết lí, văn hóa các tôn giáo trong cuộc sống. Có thể thấy rằng, mặc dù trong giáo lí, kinh điển các tôn giáo không nói đến cụm từ “quyền con người” song vấn đề
tôn trọng quyền con người hoàn toàn không xa lạ gì đối với các tôn giáo.
SV: Đặng Huyền Trang 2 Lớp: K60B-QH-2015-L
Tư tưởng, triết lí của các tôn giáo về quyền con người là một chủ đề tuy không mới;
tuy nhiên, việc nghiên cứu sâu sắc vấn đề này hầu như còn hạn chế, trong một số bài viết thường tiếp e dưới dạng phân tích về triết lí các tôn giáo liên quan đến một
số vấn đề cụ thể trong cuộc sống, và các vấn đề này ít nhiều tương đồng với nội
hàm của một số quyền con người theo luật nhân quyền quốc tế hiện nay.
Bên cạnh đó, những nghiên cứu trước đây về quan điểm của các tôn giáo lớn về quyền con người thường xảy ra việc những nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào
những diễn đạt riêng lẻ trong giải thích của họ về các giáo lý tôn giáo, nên gây hạn
chế việc tìm ra mối liên hệ giữa quan điểm của các tôn giáo và quyền con người.
Đến nay, chưa thấy khóa luận tốt nghệp nào tiếp cận chủ đề này dưới góc độ quyền con người.
Mặc dù các giáo lý tôn giáo xuất hiện từ thời cổ đại và không có sự nối kết
trực tiếp với những khái niệm, tư tưởng hiện đại về quyền con người như trong Luật
nhân quyền quốc tế. Tác giả cố gắng nghiên cứu và chỉ ra, tìm ra những nguyên tắc
và tư tưởng về quyền con người mà các tư tưởng tôn giáo chuyển tải. Để hướng đến
việc khai thác trong đó những ứng dụng hữu ích. Bởi vì các tôn giáo đã và đang tồn
tại đầy sức sống trong thế giới của chúng ta.
Với cách tiếp cận những quan điểm về quyền con người trong các tôn giáo, tác
giả muốn tiếp cận nghiên cứu và làm rõ những tư tưởng quyền con người “đã có”, đó là những tư tưởng quyền con người đã và đang tồn tại trong đời sốngcác tôn
giáo, với mong muốn nhìn nhận vấn đề quyền con người gần gũi hơn, sáng tỏ nội
dung quyền con người là giá trị chung của nhân loại, thực sự tồn tại phổ biến trong
đời sống của con người; đồng thời cũng góp phần phê phán những góc nhìn thiếu
tích cực trong quan điểm của các tôn giáo về quyền con người
3 Mục đích, phạm vi nghiên cứu Trình bày, phân tích có hệ thống các quan điểm của một số tôn giáo lớn về
quyền con người; góp phần bổ sung và làm sáng tỏ thêm về lịch sử tư tưởng, triết lí
về quyền con người; thể hiện tính phổ biến của quyền con người; để chứng minh rằng các giá trị quyền con người đã và đang tồn tại trong đời sống xã hội, mà cụ thể ở đây là trong đời sống và văn hóa các tôn giáo.
Bổ sung lí luận về lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người qua tư tưởng,
triết lí, nguyên tắc của các tôn giáo về vấn đề quyền con người.
Đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong
thực tiễn đời sống; bên cạnh việc nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu phát triển của pháp luật quốc tế về quyền con người thì việc phát huy những giá trị quyền con
người trong văn hóa các tôn giáo cũng có tác dụng góp phần xây dựng một nền văn
SV: Đặng Huyền Trang 3 Lớp: K60B-QH-2015-L
hóa nhân quyền, nó có ưu thế riêng và dễ được xã hội tiếp nhận và phát triển. Góp
phần hoàn thiện pháp luật về quyền con người.
Phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung phân tích các quan điểm của 4 tôn giáo
lớn là kito giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo và Phật giáo. Trong đó tập trung vào việc giải
thích các quy định của các tôn giáo có liên quan đến các quyền và tự do cơ bản của
con người. Nghiên cứu các quan điểm tôn giáo dưới góc độ khoa học pháp lí về nhà nước và pháp luật nói chung, pháp luật về quyền con người nói riêng.
4 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Tác giả xem xét vấn đề quyền con người từ quan điểm triết học về luật, để
nhận diện những giá trị quyền con người được chia sẻ bởi hệ tư tưởng các tôn giáo.
Tiếp cận từ sự liên hệ giữa quyền con người khởi phát từ nhân phẩm, ý nghĩa của
nhân phẩm trong tư tưởng các tôn giáo.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích - tổng hợp, xã hội
học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận văn cũng khai
thác thông tin tư liệu của các bài viết khoa học và công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho các luận điểm.
5 Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của Khóa luận Bổ sung hệ thống lí luận về lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người. Hệ
thống hóa các nghiên cứu về quyền con người trong các tôn giáo.
Các kết quả của khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo pháp luật về quyền con người. Có
đóng góp nhất định trong xây dựng nền văn hóa nhân quyền và phương pháp giải
quyết hòa bình các xung đột xã hội, các bất đồng liên quan đến tôn trọng và bảo vệ
quyền con người.
6. Kết cấu của luận văn Luận văn này gồm phần mở đầu, ba chương và phần kết luận. - Chương 1: Khái quát về quyên con người và quan điểm của một số tôn giáo
lớn về quyền con người
- Chương 2: Quan điểm của các tôn giáo về một số quyền con người
- Chương 3: Mặt tích cực và hạn chế của các quan điểm tôn giáo về quyền con
người
SV: Đặng Huyền Trang 4 Lớp: K60B-QH-2015-L
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ QUYÊN CON NGƯỜI VÀ VỀ MỘT SỐ TÔN
GIÁO LỚN 1.1 Lý luận chung về quyền con người Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định
nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ trước đến nay có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, 8 mỗi định nghĩa tiếp cận vấn
đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định
nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự
nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (Office of High
Commissioner for Human Rights – OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà
nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental
freedoms) của con người.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng không hoàn toàn
giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu,
lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Trong khoa học pháp lý, các quyền con người được hiểu đó là những quyền
mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đó là quyền tối thiểu
mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp không được xâm hại.
Nhằm mục đích bảo vệ những quyền tự nhiên này của con người những sự xâm
phạm của bất kể chủ thể nào, nên xã hội loài người đã phải tạo ra cho mình một
thiết chế có trách nhiệm đảm bảo những quyền này. Thiết chế được sau này gọi là nhà nước.
Liên quan đến khái niệm trên, cũng cần lưu ý rằng thuật ngữ human rights trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (theo tiếng thuần Việt) hoặc nhân quyền (theo Hán – Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền’’ chính là “quyền con người”.211 Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, đây là hai từ đồng nghĩa, do đó, hoàn toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn về quyền con người.
SV: Đặng Huyền Trang 5 Lớp: K60B-QH-2015-L
Về nguồn gốc của quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra hai quan
điểm trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights112) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh,
vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành
viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào
phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể
cả các nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có
của các cá nhân.
Ngược lại, học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights213) cho rằng, các quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà
phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc
xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý,
phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con
người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội. Ở đây, trong khi các quyền tự nhiên có
tính đồng nhất trong mọi hoàn cảnh (universal), mọi thời điểm, thì các quyền pháp
lý mang tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa và chính trị (culturally and
politically relative)
Tính chất của quyền con người:
Tính phổ biến (universal): Thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm
sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên
trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì. Tuy nhiên,
cần chú ý là sự bình đẳng không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ, mà là
bình đẳng về tư cách chủ thể và cơ hội thụ hưởng các quyền con người.
Tính không thể chuyển nhượng (inalienable): Thể hiện ở chỗ các quyền con người
không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả bởi
nhà nước. Mọi giới hạn, hạn chế hay tước bỏ quyền của một cá nhân đều phải do pháp luật quy định và chỉ nhằm để bảo vệ lợi ích chính đáng, tương xứng của cộng đồng hay của cá nhân khác.
Tính không thể phân chia (indivisible): Thể hiện ở chỗ các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào, bởi lẽ việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền nào đều tác
động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.
Tuy nhiên, tùy bối cảnh và với những đối tượng cụ thể, có thể ưu tiên thực
hiện một số quyền con người nhất định (ví dụ, khi có dịch bệnh đe dọa, quyền được
SV: Đặng Huyền Trang 6 Lớp: K60B-QH-2015-L
ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế, hoặc cần có những quyền đặc biệt
cho do phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người thiểu số... do đây là những nhóm yếu thế). Điều này không có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao
hơn, mà bởi vì các quyền đó trong thực tế có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị vi phạm
nhiều hơn so với các quyền khác.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): Thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên
hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián
tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ
trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác
Lịch sử phát triển quyền con người:
Có những ý kiến trái ngược về lịch sử phát triển của quyền con người. Một
học giả cho rằng : “… các quyền con người không có lịch sử… vì lịch sử, nếu có, thì
hình như rất hỗn độn. Nó pha lẫn những lặp lại, những xen kẽ, những tương phản
và những đứt đoạn giữa những bước tiến triển và những bước thụt lùi”. Nhưng trên
quan điểm duy vật lịch sử, có thể khẳng định rằng, cũng như bất kỳ sự vật, hiện
tượng nào, quyền con người không phải là một cái gì siêu lịch sử, siêu giai cấp và
siêu xã hội. “Quyền con người là sản phẩm phát triển văn hoá xã hội của một kết cấu kinh tế xã hội nhất định và chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, xã hội hiện thực”
Theo một số học giả, những tư tưởng về quyền con người xuất hiện từ thời
tiền sử, thể hiện trong các luật lệ của chiến tranh, mà: “Luật lệ của chiến tranh thì
lâu đời như bản thân chiến tranh và chiến tranh thì lâu đời như cuộc sống trên trái
đất”. Tuy nhiên, ở trình độ phát triển của thời tiền sử, có lẽ con người mới chỉ có
những ý niệm, chứ chưa thể có những tư tưởng ( với ý nghĩa là những quan điểm
hoặc hệ thống quan điểm rõ ràng về một sự vật, hiện tượng nhất định), về quyền con
người. Bởi vậy, quan điểm phù hợp hơn đó là, tư tưởng quyền con người được khởi
thuỷ từ khi trái đất xuất hiện những nền văn minh cổ đại, mà một trong đó là nền văn minh rực rỡ ở Trung Đông (khoảng năm 3.000-1.500 trước CN). Chính trong nền văn minh Lưỡng Hà này, nhà vua Hammurabi xứ Babylon đã ban hành một đạo luật có tên là Bộ luật Hammurabi khoảng năm 1780 TCN) với câu tuyên bố nổi tiếng ( đã đề cập ở trên), theo đó, mục đích của đức vua khi thiết lập ra đạo luật này là để : “… ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu”, …làm cho người cô quả có
nơi nương tựa ở thành Babylon,…đem lại hạnh phúc chân chính và đặt "nền thống trị nhân từ “cho mọi thần dân trên vương quốc.
SV: Đặng Huyền Trang 7 Lớp: K60B-QH-2015-L
Cho đến thời điểm hiện nay, xét từ các góc độ tính toàn vẹn, nguyên bản, nội
dung và niên đại, Bộ luật Hammurabi có thể coi là văn bản pháp luật thành văn đầu tiên của nhân loại nói đến quyền con người (mặc dù quan điểm này không phải
được tất cả các học giả ủng hộ) . Ngoài Bộ luật Hammurabi, vấn đề quyền con
người còn sớm được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật cổ khác của thế giới,
trong đó tiêu biểu như Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576 -529 TCN; Bộ luật do nhà vua Ashoka (Ashoka’s Edicts) ban hành vào khoảng
các năm 272-231 ; Hiến pháp Medina (The Constitution of Medina) do nhà tiên tri
Muhammad sáng lập vào năm 622; Đại Hiến chương Magna Carta (1215) và Bộ
luật về quyền (1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân(1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn độc lập (1776) và Bộ luật về các quyền
(1789) của nước Mỹ. Trong vấn đề này, mặc dù ít được nhắc tới trong các công
trình nghiên cứu ở tầm quốc tế, song xét về mặt nội dung, bộ luật Hồng Đức (Quốc
triều Hình Luật (1470-1497) thời Hậu Lê của Việt Nam cũng xứng đáng được xếp
vào danh sách những bộ luật cổ tiêu biểu của thế giới về quyền con người, bởi lẽ, nó
đã chứa đựng nhiều quy định có tính nhân văn sâu sắc, trong đó bao gồm cả các quy
định cụ thể về quyền của phụ nữ, trẻ em, v.v.. mà được nhiều nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước đánh giá rất cao.
Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của nhân loại, các tư tưởng về quyền con người không chỉ được thể hiện trong các đạo luật, mà còn được phản ánh (một cách
sâu sắc và cụ thể hơn) trong các tư tưởng, học thuyết tôn giáo, chính trị và pháp lý.
Trước hết, xét về các học thuyết tôn giáo, tư tưởng về quyền con người từ lâu đã
được thấm nhuần trong giáo lý của hầu hết các tôn giáo trên thế giới. Trên thực tế,
trong số những tài liệu được cho là cổ xưa và toàn diện nhất xét về tư tưởng quyền
con người mà nhân loại còn giữ lại được cho đến ngày nay; ngoài đạo luật
Hammurabi và bộ Văn tuyển Nho giáo (Luận ngữ) , các tài liệu còn lại đều là những
kinh điển của tôn giáo , bao gồm: Kinh Vệ Đà của đạo Hinđu ở Ấn Độ, Kinh Phật
của đạo Phật; Kinh Thánh của đạo Thiên chúa và Kinh Kôran của đạo Hồi.
Xét về các học thuyết chính trị, pháp quyền, người ta ghi nhận rằng, vào thế kỷ thứ XXIV trước Công nguyên, vua Symer đã sử dụng khái niệm “tự do” để bảo vệ những bà goá, trẻ mồ côi trước những hành vi bạo ngược của những kẻ giàu có
và thế lực trong xã hội; còn nhiếp chính quan người Hy Lạp ở La mã là Arokhont
Salon, ngay từ thế kỉ XI trước Công nguyên đã ban bố một đạo luật trong đó xác định một số khía cạnh của dân chủ và quy định một số quyền của các công dân tự do trong mối quan hệ với các quan lại nhà nước. Người ta cũng chỉ ghi nhận rằng,
trong thời kỳ diễn ra sự tàn bạo khủng hiếp của chế độ nô lệ ở La Mã cổ đại :
SV: Đặng Huyền Trang 8 Lớp: K60B-QH-2015-L
“Trước Crêông, Antigone đã nói đến quyền không vâng lời và trước những nô lệ,
Spartacusse đã nói về quyền chống lại áp bức”.Cũng trong thời kỳ này, Protagoras (490-420 TCN) và các nhà triểu học thuộc trường phái nguỵ biện Sophism đã đưa ra
quan niệm về sự bình đẳng và tự do giữa các cá nhân trong xã hội: “Thượng đế tạo
ra mọi người đều là người tự do, không ai tự nhiên biến thành nô lệ cả “.
Trong thời kỳ Trung cổ ở Châu Âu, tự do của con người bị hạn chế một cách khắc nghiệt bởi sự cấu kết cai trị giữa vương quyền của chế độ phong kiến và thần
quyền của nhà thời Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, trong bối cảnh đen tối đó vẫn xuất
hiện những tư tưởng khai sáng về quyền con người mà dẫn đến việc ban hành các
văn kiện pháp lý nổi tiếng nhất của nhân loại về lĩnh vực này. Điển hình trong số đó là Hiến chương magna Carta do vua John của nước Anh ban hành năm 1215. Hiến
chương đã khẳng định một số quyền con người, cụ thể như: quyề nsở hữu , thừa kế
tài sản; quyền tự do buôn bán và không bị đánh thuế quá mức; quyền của các phụ
nữ goá chồng được quyết định tái hôn hay không; quyền được xét xử đúng đắn và
được bình đẳng trước pháp luật….Quan trọng hơn, bản hiến chương này được coi là
một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của nhân loại đề cập cụ thể đến việc tiết
chế quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền của công dân, mà biểu hiện cụ thể
ở hai quy phạmv ẫn còn có giá trị đến tận ngày nay, đó là quy phạm về lệnh đình
quyền giam giữ ( hay còn gọi là luật bảo thân- habeas corpus) trong đó bắt buộc mọi trường hợp tử hình đều phải qua xét xử và quyết định trước Toà và quy phạm về
due process of law ( luật tôn trọng tất cả các quyền hợp pháp của công dân)…
Thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu là giai đoạn phát triển rực rỡ của các quan
điểm, học thuyết về quyền con người. Tại đây, trong các thế kỷ XVII-XVIII, nhiều
nhà triết học mà tiêu biểu là Thomas Hobbes( 1588-1679), John Locke (1632 -
1704), Thomas Paine (1731-1809), Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831);
John Stuart Mill (1806-1873), Henry David Thoreau (1817-1862)… đã đưa ra
những luận giải về rất nhiều vấn đề lý luận cơ bản của quyền con người, đặc biệt là
về các quyền tự nhiên và quyền pháp lý , mà vẫn còn có ý nghĩa quan trọng với việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thời đại ngày nay.
Tuy nhiên, trước hết, những tư tưởng triết học về quyền con người ở Châu Âu thời kỳ Phục Hưng đã có ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của những văn bản pháp luật về quyền con người ở một số nước của châu lục này, cũng như đến hai cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới nổ ra vào cuối những năm 1700 ở Mỹ và Pháp.
Hai cuộc cách mạng này đã có những đong góp rất to lớn vào sự phát triển của tư tưởng và quá trình lập pháp về quyền con người không chỉ ở hai nước Mỹ và Pháp
mà còn trên toàn thế giới. Trong cuộc cách mạng thứ nhất, năm 1776, mười ba
SV: Đặng Huyền Trang 9 Lớp: K60B-QH-2015-L
thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với đế chế Anh thông qua một văn bản có
tên là Tuyên ngôn độc lập , trong đó khẳng định rằng : “… mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc “.
Mặc dù không phải văn kiện pháp lý đầu tiên trên thế giới đề cập đến vấn đề này,
tuy nhiên, Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ có thể coi là sự xác nhận chính thức đầu tiên trên phương diện nhà nước về quyền con người. Đánh giá về văn kiện
này, Các Mác đã cho rằng, nước Mỹ là nơi lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về nền
cộng hoà dân chủ vĩ đại, nơi đã tuyên bố bản tuyên ngôn đầu tiên về quyền con
người.
Trong cuộc cách mạng thứ hai, vào năm 1789, nhân dân Pháp, mà chủ yếu là
thợ thuyền, trí thức và một số thị dân, đã đứng lên lật đổ chế độ phong kiến, thành
lập nền cộng hòa đầu tiên, đồng thời công bố bản Tuyên ngôn về nhân quyền và dân
quyền nổi tiếng của Pháp. Điều 1 bản Tuyên ngôn này khẳng định : “ Người ta sinh
ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền …”.Đặc biệt, không dừng lại ở những
nguyên tắc, ý tưởng như Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn về
nhân quyền và dân quyền 1789 đã xác định một loạt các quyền cơ bản của con
người như quyền tự do và bình đẳng, quyền sở hữu, được bảo đảm an ninh và chống
áp bức , quyền bình đẳgn trước pháp luật, quyền không bị bắt giữ trái phép, quyền được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, quyền tự do tư tưởng, tự do tín
ngưỡng, quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia ý kiến vào công việc nhà nước…,
đồng thời đề cập đến những biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện các quyền
này . Nhưng đáng chú ý hơn là, chỉ trong vòng 35 năm ( từ 1795 đến 1830), hơn
bản Hiến pháp mang dấu ấn của những luận điểm trong bản Tuyên ngôn về nhân
quyền và dân quyền 1789 đã được thông qua ở Châu Âu. Điều đó chứng tỏ những
tư tưởng về quyền con người đã thẩm thấu một cách nhanh chóng và gây ra những
biến động xã hội rất to lớn ở châu lục này. Nó cũng chứng tỏ rằng, giai cấp tư sản
đã nhận thấy, nắm lấy và tận dụng triệt để quyền con người như là một phương tiện hữu hiệu trong cuộc đấu tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến.
Tuy nhiên, quyền con người chỉ thực sự nổi lên như một vấn đề ở tầm quốc tế từ những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ diễn ra rất mạnh mẽ và liên tục tới tận cuối thế kỷ đó và phong trào đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sống cho người lao động và bảo vệ nạn nhân
trong các cuộc xung đột vũ trang thế thới. Vào năm 1864, Hội nghị ngoại giao quốc tế đầu tiên họp ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ) đã thông qua Công ước về cải thiện điều kiện
của người bị thương trong các cuộc chiến trên trên bộ ( Công ước Giơnevơ thứ I).
SV: Đặng Huyền Trang 10 Lớp: K60B-QH-2015-L
Năm 1899, Hội nghị hoà bình quốc tế họp ở La hay (Hà Lan) đã thông qua Công
ước về các luật lệ và tập quán trong chiến tranh. Đây là những văn kiện đầu tiên của luật nhân đạo quốc tế- ngành luạt mà tuy chỉ giới hạn trong việc bảo vệ những nạn
nhân chiến tranh trong hoàn cảnh xung đột vũ trang, nhưng chứa đựng những giá trị
và quy phạm có quan hệ chặt chẽ với luật quốc tế về quỳên con người ở giao đoạn
sau này.
Vào những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với việc thành lập Hội quốc liên và
Tổ chức Lao động quốc tế, quyền con người càng trở thành một vấn đề có tầm quốc
tế rộng lớn. Cả hai tổ chức này đã nâng nhận thức và các hoạt động về quyền con
người lên một mức độ mới. Tổ chức Lao động quốc tế, trong Điều lệ của mình, đã khẳng định, hoà bình trên thế giới chỉ có thể được thực hiện nếu được dựa trên cơ
sở bảo đảm công bằng xã hội cho tất cả mọi người. Trong Thoả ước của Hội quốc
liên, các nước thành viên tuyên bố chấp nhận nghĩa vụ bảo đảm, duy trì sự công
bằng và các điều kiện nhan đạo về lao động cho đàn ông, phụ nữ và trẻ em cũng
như bảo đảm sự đối xử xứng đáng với những người bản xứ tại các thuộc địa của họ.
Cũng trong thời kỳnày, một loạt văn kiện khác của luật nhân đạo quốc tế đã được
thuông qua trong hội nghị La Hay, tại các Hội nghị của Hội Chữ Thập đỏ quốc tế
(ICRC) và Hội Quốc liên, bổ sung những bảo đảm rộng rãi hơn với các quyền con
người trong hoàn cảnh chiến tranh và xung đột vũ trang. Cũng trong thời kỳ này, cuộc Cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới nổ ra ở nước Nga vào tháng 10 năm
1917, mở ra một chương mới trong lịch sử chính trị quốc tế, đồng thời tạo ra những
biến chuyển quan trọng trong tư tưởng và thực tiễn về quyền con người. Cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ
1940 đến 1980 của thế kỷ trước, các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được đề cao, và
đặc biệt, các quyền độc lập và tự quyết của các dân tộc được cổ vũ. Đây là những
quyền con người mà trước đó đã không hoặc rất ít được đề cập trên các diễn đàn
quốc tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, việc Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến thế giới về quyền con người ( toàn chương (24/10/1945), Tuyên ngôn 10/12/1948) và hai công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hoá ( năm 1966) đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế về quyền con người, đặt nền móng cho việc tạo dựng một nền văn hoá quyền con người- nền văn hoá mới và chung của mọi dân tộc- trên trái đất. Mặc dù ngay sau khi Liên Hợp
quốc được thành lập cho đến cuối thập kỷ 1970, cuộc Chiến tranh Lạnh trên thế giới phần nào ảnh hưởng đến những nỗ lực quốc tế trên lĩnh vực này, song cho đến ngày
nay, một hệ thống hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người đã được thông
SV: Đặng Huyền Trang 11 Lớp: K60B-QH-2015-L
qua , một cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người đã được hình
thành, biến quyền con người thành một trong các yếu tố chính trị chi phối các quan hệ quốc tế.
Hội nghị thế giới về quyền con người năm 1993 đánh dấu một bước ngoặt
trong những nỗ lực thúc đẩy các quyền con người trên thế giới sau những trì trệ ở
thời kỳ “ Chiến tranh Lạnh”. Hội nghị đã khẳng định mối liên hệ không thể tách rời giữa dân chủ, phát triển và quyền con người cũng như giữa các quyền con người về
dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hoá. Hội nghị đã thiết lập “một khuôn khổ
mới cho việc đối thoại, hợp tác và phối hợp của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực
quyền con người” mà cho phép thúc đẩu một cách thực sự hiệu quả các quyền con người ở tất cả các cấp độ địa phương, quốc gia khu vực và quốc tế. Tại hội nghị
này, các đại biểu đã nhất trí thông qua Tuyên bố Viên kèm theo Chương trình hành
động chung về quyền con người, với các mục tiêu rất cụ thể, trong đó đưa ra những
biện pháp mới mang tính lịch sử để thúc đẩy và bảo vệ các quyền của phụ nữ, trẻ
em, người bản địa và để tăng cường năng lực của hệ thống Liên hợp quốc trong việc
giám sát sự tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trên thế giới…
Cùng với Hội nghị Viên, những phát triển gần đây trên lĩnh vực quyền con
người bao gồm việc thành lập các toà án hình sự quốc tế lâm thời và thường trực để
xét xử các tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại, tội diệt chủng và tội xâm lược và việc thành lập Hội Đồng Liên Hợp quốc về quyền con người (năm 2006, thay thế
cho Uỷ ban của Liên hợp quốc về quyền con người trước đó) đã làm cho cuộc đấu
tranh vì quyền con người thực sự phát triển trên phạm vi toàn cầu với một cơ sở
pháp lý vững chắc, được mở rộng không ngừng cả về nội dụng và mức độ bảo đảm.
Song song và làm nền tảng cho tiến trình phát triển đó, dòng tư tưởng, lý thuyết về
quyền con người cũng ngày càng được củng cố và phát triển, đi sâu làm rõ những
khía cạnh thực tiễn của quyền con người, biến quyền con người trở thành một trong
những khái niệm được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường
xuyên và nồng nhiệt nhất trong đời sống hiện nay của nhân loại.
Dưới đây là một số sự kiện, văn kiện đánh dấu sự phát triển của tư tưởng về
quyền con người của nhân loại từ trước tới nay.
Sự kiện, văn kiện theo dòng lịch sử 1789 TCN: Bộ luật Hammurabi 1200 TCN: Kinh Vệ đà
570 TCN: Luật của Cyrus Đại Đế 586-456 TCN: Kinh Phật
479-421 TCN: “ Luận ngữ” của Khổng tử
SV: Đặng Huyền Trang 12 Lớp: K60B-QH-2015-L
7-1 TCN: Kinh Thánh
610-612: Kinh Kôran 1215: Đại hiến chương Magna Carta( Anh)
1689: Luật về Quyền (Anh); “ Hai khảo luận về chính quyền “ của John
Locke
1776: “ Tuyên ngôn độc lập” (Mỹ) 1789: “Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân” (Pháp)
Bộ luật về các quyền (10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp) (Mỹ)
1791: “Các quyền của con người” của Thomas Pain
1859: “Bàn về tự do” của John Stuart Mill 1863-1864: Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế được thành lập, Công ước Giơnevơ
lần thứ I được thông qua, mở đầu cho ngành luật nhân đạo quốc tế
1917: Cách mạng tháng mười Nga
1919: Hội quốc liên và Tổ chức Lao động thế giới (ILO) được thành lập
1945: Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến chương Liên Hợp quốc
1948: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
1966: Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự và Công ước về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hoá
1968: Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ nhất tại Tê hêran (Iran) 1993: Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tại Viên( Áo), thông
qua Tuyên bố Viên và Chương trình hành động
2002: Quy chế Rôma có hiệu lực, Toà án hình sự quốc tế ( thường trực) được
thành lập.
2006: Cải tổ bộ máy quyền con người của Liên hợp quốc, thay thế Uỷ ban
quyền con người bằng Hội đồng quyền con người
1.2 Khái quát về một số tôn giáo lớn
1.2.1 Tôn giáo và lịch sử tôn giáo a) Định nghĩa Trong tiếng Anh: tôn giáo là religion - xuất phát từ tiếng Latinh religio mang nghĩa "tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần linh" hay "bổn phận, sự gắn kết giữa con người với thần linh") - xét trên một cách thức nào đó, đó là một phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con người), đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là
niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn giáo chia thế giới thành hai phần: thiêng liêng và trần tục.[13] Trần tục là những gì
SV: Đặng Huyền Trang 13 Lớp: K60B-QH-2015-L
bình thường trong cuộc sống con người, còn thiêng liêng là cái siêu nhiên, thần
thánh. Đứng trước sự thiêng liêng, con người sử dụng lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính, sùng bái và đó chính là cơ sở của tôn giáo.
Tôn giáo hay đạo có thể được định nghĩa là một hệ thống văn hóa của các
hành vi và thực hành được chỉ định, quan niệm về thế giới, các kinh sách, địa điểm
linh thiêng, lời tiên tri, đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh.
Ngoài nghĩa rộng về tôn giáo trên, có nhiều cách sử dụng cũng như nhiều
nghĩa của từ "tôn giáo." Một số lối giải thích như sau:
Một cách định nghĩa, đôi khi được gọi là "lối theo chức năng", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề cập đến
những câu hỏi căn bản về đặc tính con người, đạo đức, sự chết và sự tồn tại của thần
thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ thống tín ngưỡng, kể cả
những hệ thống không tin tưởng vào thần thánh nào, những hệ thống đơn thần,
những hệ thống đa thần và những hệ thống không đề cập đến vấn đề này vì không
có chứng cớ.
Cách định nghĩa thứ hai, đôi khi được gọi là "lối theo hình thể", định nghĩa
tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng nào xác nhận những điều không thể quan sát
một cách khoa học được, và chỉ dựa vào chức trách hay kinh nghiệm với thần thánh. Nghĩa này hẹp hơn phân biệt "tôn giáo" với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa nhân bản
thế tục, thuyết vô thần, triết khách quan và thuyết bất khả tri, vì những hệ thống này
không dựa vào chức trách hay kinh nghiệm nhưng dựa vào cách hiểu theo khoa học.
Cách định nghĩa thứ ba, đôi khi được gọi là "lối theo chứng cớ vật chất",
định nghĩa tôn giáo là những tín ngưỡng về nhân quả mà Occam's Razor loại trừ vì
chúng chấp nhận những nguyên nhân quá phức tạp để giải thích những chứng cớ vật
chất. Theo nghĩa này, những hệ thống không phải là tôn giáo là những hệ thống
không tin tưởng vào những nguyên nhân phức tạp hơn cần thiết để giải thích những
chứng cớ vật chất. Những người theo quan điểm này tự xưng là "bất tôn giáo", nhưng cũng có người tôn giáo nhìn nhận rằng "tín ngưỡng" và "khoa học" là hai cách hoàn toàn khác nhau để đi đến chân lý. Quan điểm này bị bác bỏ bởi những người xem rằng những giải thích siêu hình là cần thiết để giải thích các hiện tượng tự nhiên một cách căn bản.
Cách định nghĩa thứ tư, đôi khi được gọi là "lối tổ chức", định nghĩa tôn giáo
là các hội đoàn, tín ngưỡng, tổ chức, phong tục, và luật đạo đức chính thức của tất cả các tôn giáo chính có tổ chức. Nghĩa này đặt "tôn giáo" vào một vị trí trái ngược
SV: Đặng Huyền Trang 14 Lớp: K60B-QH-2015-L
với "tinh thần", cho nên không bao gồm những luận điệu của "tinh thần" về việc
tiếp xúc, phục vụ, hay tôn thờ thần thánh.
b) Lịch sử tôn giáo
Nếu không kể những chứng tích khảo cổ học cho thấy niềm tin tôn giáo về
cuộc sống sau khi chết có từ rất xa xưa, khi mà người ta chôn đồ tùy táng cùng với
người chết thì ít nhất cách đây 40.000 năm, tổ tiên con người đã có niềm tin tôn giáo và tham gia các nghi lễ tôn giáo.[14] Trong các xã hội săn bắn và hái lượm, phổ biến là thuyết vật linh, cho rằng vật thể trong thế giới tự nhiên được phú cho nhận
thức và tác động đến đời sống con người. Biển cả, núi cao, gió và thậm chí cả cây
cối...cũng có thể được coi là những thế lực có tính chất thần thánh sinh ra và chi phối đời sống con người. Xã hội săn bắn, hái lượm có tổ chức chưa phức tạp nên
đời sống tôn giáo chủ yếu tồn tại trong gia đình. Địa vị pháp sư (shaman) có thể
được trao cho một người như là lãnh tụ tôn giáo nhưng hoạt động này không phải
chiếm toàn bộ thời gian của người đó.
Sang đến giai đoạn xã hội trồng trọt và chăn nuôi, niềm tin thần thánh là
nguyên nhân hình thành thế giới dần dần được phát triển. Một hệ thống văn hóa đạo
đức được ủng hộ bằng việc công nhận thần thánh đồng thời tôn giáo vượt qua khỏi
phạm vi gia đình và thường gắn chặt với chính trị, lãnh tụ xã hội thường được xem
là vua và tăng lữ như các Pharaoh Ai Cập.
Trước Cách mạng Công nghiệp, tôn giáo đã rất phát triển và là thể chế xã hội
vô cùng quan trọng ở khắp các lục địa. Đây cũng là lúc các tôn giáo có nhiều xung
đột với nhau: Kitô giáo với Hồi giáo qua nhiều cuộc Thập tự chinh; Ấn Độ
giáo xung đột với Phật giáo và về cơ bản đã loại trừ tôn giáo này ra khỏi miền đất
phát tích của nó vào thế kỷ 13; người Hồi giáo chinh phục và truyền bá tôn giáo của
mình đến những vùng khác...
Từ khi Cách mạng Công nghiệp nổ ra, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã
khiến cho ảnh hưởng của tôn giáo không còn mạnh mẽ như trước, tôn giáo dần bị
tách rời khỏi nhà nước. Trong đời sống xã hội, khoa học cũng dần thay thế cho tôn giáo, chẳng hạn một người khi gặp bệnh tật tìm đến bác sĩ nhiều hơn là tu sỹ. Tuy vậy, thậm chí ngay cả cho đến nay, nhiều phong trào tôn giáo mới vẫn tiếp tục phát triển.
c) Các tôn giáo lớn Kitô giáo: với ba nhánh lớn là Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông
phương và Tin Lành, là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới, khoảng 2,1 tỷ tín đồ, chủ yếu ở Bắc Mỹ, Mỹ Latin, châu Âu và rải rác ở nhiều nơi khác trên
thế giới. Kitô giáo bắt nguồn từ Do Thái giáo ở Trung Đông và do Giê-su sáng
SV: Đặng Huyền Trang 15 Lớp: K60B-QH-2015-L
lập. Kitô giáo theo thuyết độc thần thể hiện ở quan điểm về Chúa Ba Ngôi: Đức
Chúa Cha - Đấng Tạo hóa; Đức Chúa Con (Jesus Christ) - Đấng Chuộc tội và Đức Chúa Thánh Thần - Đấng Thánh hoá. Jesus Christ bị hành hình bằng cách đóng
đinh trên cây thập tự, từ đó cây thập tự trở thành biểu tượng thiêng liêng của tín
đồ Kitô giáo và theo niềm tin của tín đồ Kitô giáo, Chúa phục sinh là bằng chứng về
việc Jesus là Con Thiên Chúa, Jesus được phái đến để giải phóng con người khỏi ách quỷ Satan. Con người không chỉ là tôi tớ của Chúa, kẻ được cứu rỗi, mà còn là
con của Chúa, do vậy con người có bổn phận noi gương Chúa trong tình yêu cuộc
sống, tình yêu đồng loại, con người phải sống thánh thiện và đạt đến cuộc sống vĩnh
hằng. Từ khi ra đời và trong giai đoạn đầu, Kitô giáo bị ngược đãi, đàn áp nhưng dần dần đã được truyền bá rộng rãi trên thế giới. Đây là một trong những tôn giáo
lâu đời nhất trên thế giới và là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến nền văn
minh phương Tây.
Hồi giáo: là tôn giáo có số lượng tín đồ đông thứ hai trên thế giới, với
khoảng 1,5 tỷ tín đồ, chủ yếu tập trung ở Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á và rải rác ở
khắp nơi trên Trái Đất. Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ VII, do Muhammad sáng
lập. Muhammad là Đấng Tiên tri chứ không phải là thần thánh như Giê-su đối với
người Kitô giáo, ông là Đấng tiên tri cuối cùng sau các Đấng tiên tri trước đó
là Adam, Abraham, Moses và Jesus Christ. Vai trò của Muhammad là ghi lại lời của Thượng đế và kinh Koran được các tín đồ coi là lời răn của Đấng Chí Tôn. Cũng
giống Kitô giáo, Hồi giáo tin rằng có địa ngục, thiên đàng và ngày phán xét, mọi
người có trách nhiệm giải thích trước Thượng đế về những việc làm của mình trên
trần thế. Tín đồ Hồi giáo cũng thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ
đức tin, chống lại mọi đe dọa và trong một số trường hợp, giáo lý này của Hồi giáo được sử dụng để biện minh cho các cuộc Thánh chiến.[18]
Ấn Độ giáo: được coi là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới,[19] bắt nguồn từ Ấn Độ khoảng 1500 năm trước Công nguyên. Khác với Kitô giáo và Hồi giáo, Ấn Độ giáo không liên kết với đời sống của một cá nhân nào, hay nói cách khác, không có người sáng lập. Qua hàng ngàn năm, Ấn Độ giáo và xã hội Ấn Độ với hệ thống đẳng cấp đan quyện, gắn bó chặt chẽ với nhau đến mức người ta không thể dễ dàng mô tả riêng biệt, cũng chính vì thế mà Ấn Độ giáo khó truyền bá đến các xã hội khác. Thế nhưng đến nay, Ấn Độ giáo vẫn có khoảng 900 triệu tín đồ chủ yếu ở Ấn Độ, Pakistan và ở nhiều nơi khác trên thế giới với số
lượng ít. Trong Ấn Độ giáo, công lý sau cùng không phải thuộc về vị thần tối cao mà thông qua chu kỳ tái sinh theo luật nhân quả. Mọi hành động của con người đều
dẫn đến kết quả tinh thần trực tiếp, đó chính là nghiệp chướng (karma), đời sống
SV: Đặng Huyền Trang 16 Lớp: K60B-QH-2015-L
chính đáng khiến cho tinh thần được hoàn thiện, ngược lại sẽ làm cho tinh thần suy
đồi. Trạng thái cực lạc (nirvana) là sự hoàn thiện tinh thần, trong đó linh hồn được sẵn sàng cho việc tái sinh một cách hoàn hảo.
Phật giáo: cũng có nguồn gốc từ Ấn Độ và khởi nguồn khoảng 500 năm
trước Công nguyên. Tôn giáo này có nhiều phương diện giống với Ấn Độ
giáo nhưng gắn với cuộc đời của người sáng lập - Đức Phật Thích Ca (Siddartha Gautama). Phật giáo là tôn giáo lớn trên thế giới, hiện có khoảng 365 triệu tín đồ
chính thức (đã làm lễ Quy y Tam bảo), và nếu tính cả số tín đồ không chính thức
(chưa làm lễ Quy y nhưng có niềm tin vào Phật pháp) thì có thể lên tới 1,2-1,6 tỷ
(phần lớn người Đông Á thuộc bộ phận không chính thức này)(cần dẫn nguồn). Phật giáo chủ yếu tập trung ở Châu Á và đang lan truyền khắp thế giới. Sau
nhiều năm chu du và thiền định, Siddartha Gautama đạt đến trạng thái giác
ngộ (bodhi), Ngài trở thành Phật, hiểu được bản chất của đời sống và biết con
đường dẫn đến hạnh phúc thực sự. Tương tự như Ấn Độ giáo, Phật giáo cho rằng có
kiếp luân hồi, nhân quả, mọi hành động của con người đều dẫn đến kết quả sẽ nhận
được: hoặc là thiện (dẫn đến sự hoàn thiện tinh thần, sẽ nhận được quả thiện) hoặc
là ác (dẫn đến sự suy đồi tinh thần,sẽ nhận được quả ác) nhưng khác nhau về bản
chất. Cốt lõi là thoát khỏi hoàn toàn sinh tử, khổ đau, không còn bị tác động
bởi nghiệp. Vũ trụ có trật tự mà không có vị thần tối cao thực hiện công lý cuối cùng (hay nói cách khác toàn thể Vũ trụ đều là Chân như của Phật tính - Pháp thân
của Phật khắp mọi nơi. Mọi sự tồn tại của con người đều có khổ đau và muốn đạt
đến sự bình an về tinh thần, Phật giáo phủ nhận mọi hình thức vui thú vật chất -
hưởng dục, làm giảm các ham muốn về vật chất hay thể xác. Phật giáo cũng là tôn
giáo đầu tiên đưa ra hệ thống phẩm cấp tu hành.
1.2.2 khái quát tư tưởng triết lý của các tôn giáo liên quan đến tư tưởng
quyền con người
Khi xem xét tôn giáo như một hình thái ý thức xã hội độc lập với các hình thái
ý thức khác, chúng ta thấy nó chứa đựng nội dung đạo đức (bao gồm giá trị, chuẩn mực, lý tưởng đạo đức...) thể hiện trong giáo lý tôn giáo.
Bất cứ tôn giáo nào cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của các tín đồ. Đa số các tôn giáo đều tuyên bố về giá trị tối cao của 'các lực lượng siêu nhiên (Thượng đế, Chúa trời, Thần thánh) và mọi giá trị khác phải lấy đó làm chuẩn. Thực tế cho thấy, quan niệm đạo
đức của hầu hết mọi tôn giáo, ngoài những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại, như
sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều
SV: Đặng Huyền Trang 17 Lớp: K60B-QH-2015-L
ác... Trong Khoa học và tôn giáo, Bertrand Russeli cho rằng, một tôn giáo lớn bao
giờ cũng có hệ thống tín điều, hệ thống đạo đức và giáo hội. Người theo tôn giáo không phải sống thế nào cũng được, mà phải sống theo những khuôn phép đạo đức
hợp với tín điều của tôn giáo mình, hành động không phải chỉ là thực hành một số
hình thức nghi lễ, mà còn phải sống theo những quy tắc đạo đức nhất định. Vì vậy,
đương nhiên, một số nội dung của đạo đức trở thành bộ phận cấu thành nội dung của tôn giáo.
Khi mới ra đời, hầu hết các tôn giáo đều phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng
của người lao động. C.Mác đã khẳng định: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu
hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy". Con người bất lực, không kiếm tìm được hạnh phúc nơi trần thế và đành
phải tìm hạnh phúc ấy nơi Thiên đường. Tôn giáo đã gieo vào họ mềm tin ở sự cứu
vớt, giải thóat của các đấng siêu nhiên. Ph.Ăngghen đã nghiên cứu lịch sử tôn giáo,
đặc biệt là lịch sử Thiên chúa giáo và chứng minh rằng, sự xuất hiện của tôn giáo
này là phản ứng chống lại sự bất công và tàn bạo của chế độ nô lệ. Tương tự như
vậy, Phật giáo nguyên thuỷ là khát vọng của quần chúng phản kháng lại sự phân
chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội ấn Độ cổ đại. Thiên chúa giáo kêu gọi tình yêu
thương giữa con người với con người, Phật giáo chủ trương bình đẳng, từ bi, hỷ xả,
vô ngã, vị tha. Ngoài ra, chúng ta còn có thể nêu lên những nét tích cực của nhiều tôn giáo khác, khi các tôn giáo này xây dựng mối quan hệ yêu thương giữa người
với người, hướng con người vào những việc thiện, biết giữ gìn đạo đức và xa lánh
những điều ác.
- Kito giáo: Kinh Thánh và thần học Kitô giáo cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà triết học phương Tây và các nhà hoạt động chính trị. Các giáo lý của Chúa Giêsu, chẳng hạn như Dụ ngôn Người Samari nhân lành, là một trong những ví dụ quan trọng cho các quan niệm hiện đại về Nhân quyền và các biện pháp phúc lợi thường được cung cấp bởi các chính phủ ở phương Tây. Giáo lý Kitô giáo được có ảnh hưởng lâu dài về xu hướng tình dục, hôn nhân và cuộc sống gia đình. Kitô giáo đóng một vai trò trong việc chống lại những hành vi lạc hậu như sự hy sinh của con người, chế độ nô lệ, tội giết trẻ con và Đa phu thê. Kitô giáo nói chung ảnh hưởng đến tình trạng của phụ nữ bằng cách lên án ngoại tình hôn nhân, ly hôn, loạn luân, Đa phu thê, kiểm soát sinh sản, tội giết trẻ con (trẻ sơ sinh nữ có nhiều khả năng bị giết), và phá thai. Trong khi giáo huấn chính thức của Giáo hội coi phụ nữ và nam giới là sự bổ sung cho nhau (bình đẳng và khác biệt), một số người ủng hộ "phong trào phụ nữ và nữ quyền khác" hiện đại cho rằng giáo lý do Thánh Phao Lô và những người Cha của Giáo hội và Chủ nghĩa Kinh viện nâng cao ý niệm về sự trinh tiết của nữ tu được phong chức thiêng liêng. Tuy nhiên, phụ nữ đã đóng vai
SV: Đặng Huyền Trang 18 Lớp: K60B-QH-2015-L
trò nổi bật trong lịch sử phương Tây như là một phần của nhà thờ, đặc biệt là trong giáo dục và chăm sóc sức khỏe.
- Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những quan niệm về thế giới và con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố tín ngưỡng cổ của người Ả rập. Cơ sở giáo lý Hồi giáo là niềm tin vào Thượng đế Allah và Thiên sứ Mohammad, tin vào thiên thần và sự bất tử của linh hồn, tin vào ngày phục sinh và phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin vào sự vĩnh cửu của kinh Qur'an và luật Sariat.
Kinh Qur'an là thánh thư của Hồi giáo, được thiết lập gồm 30 phần, 114 chương (Surah) với 6.211 câu (Ayat) và được viết bằng tiếng Ảrập. Theo Hồi giáo, kinh Qur'an là những lời giáo huấn của Thượng đế cho mọi người mà Thiên sứ Mohammad đã nhận được qua thiên thần Gabriel trong khoảng 22 năm (610-632). Thực ra, kinh Qur'an là tập hợp những lời thuyết đạo của Mohammad lúc còn tại thế, mãi về sau này được sưu tầm, biên soạn thành văn bản chính thức lưu truyền cho đến ngày nay. Kinh Qur'an được người Hồi giáo coi là "cuốn sách vĩ đại nhất, thông thái nhất" chứa đựng mọi "chân lý và tri thức" của loài người.
Thực tiễn cho thấy, kinh Qur'an không chỉ đơn thuần là kinh sách tôn giáo mà nó còn có ý nghĩa về tính pháp lý trong xã hội, có nhiều quy định về vệ sinh, ăn ở, hôn nhân, cách cư xử trong gia đình và trong quan hệ xã hội như: quan hệ mua bán, tài chính, chính trị - có cả tội ác và hình phạt. Đây là một đặc điểm quan trọng nhất của Hồi giáo, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo với đời, giữa tôn giáo và chính trị.
Ngoài những điều, những hành vi cuộc sống thường nhật của con người mà kinh Qur'an không quy định, hành vi “đối nhân xử thế” của Mohammad hoặc những việc làm của tín đồ mà không bị ngăn cấm đều được coi như những điều luật về tôn giáo và đạo đức của con người. Sự ghi nhận đó là cơ sở và nguồn gốc sách luật thứ hai của tín ngưỡng Hồi giáo - luật Sariat.
Đạo Hồi không có Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qur'an cũng liệt
kê mười điều tương tự:
1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Á Rập là Allah). 2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ. 3. Tôn trọng quyền của người khác. 4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo. 5. Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (*). 6. Cấm ngoại tình. 7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi. 8. Hãy cư xử công bằng với mọi người. 9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
SV: Đặng Huyền Trang 19 Lớp: K60B-QH-2015-L
10. Hãy khiêm tốn - Theo giáo lý Ấn Độ Giáo, mỗi người có một vị trí riêng trong cuộc sống và trách nhiệm riêng biệt. Mỗi người được sinh ra ở một chỗ với những khả năng riêng biệt vì những hành động và thái độ trong quá khứ. Điều này giải thích nguyên mẫu xã hội Ấn Độ và nó bao gồm cái gọi là đẳng cấp. Có bốn đẳng cấp chính, ghi trong các tác phẩm Ấn Giáo: (1) nhóm trí thức – thầy tu, (2) tầng lớp quý tộc, kể cả quân nhân, (3) nhóm hành chính gồm có những nhà buôn và địa chủ; và (4) số lớn dân chúng làm những việc thông thường trong xã hội. Giai cấp gọi là “tiện dân” hay “người bị ruồng bỏ” (mới đây bị hủy bỏ do luật của Ấn Độ) gồm có những người có nguồn gốc thuộc những phân nhóm khác của giai cấp thứ tư, quần chúng nhân dân. Do những điều kiện xã hội và kinh tế khác nhau, họ “mất đẳng cấp”, hay mất vị trí trong xã hội.
Một phần lớn giáo lý Ấn Độ Giáo đề cập đến khái niệm bổn phận luân lý. Vì người Ấn Độ Giáo nhấn mạnh đến sự đồng nhất của tất cả cuộc sống, họ tin một người quan trọng đối với tất cả những người khác. Điều này có nghĩa là mỗi người phải học hỏi để vượt qua quyền lợi vị kỷ của mình. Khi quyết định phải làm gì, hầu hết mọi người muốn nói, “Tôi sẽ có lợi gì từ việc này?” Người Ấn Độ Giáo nói chúng ta tìm hạnh phúc lâu dài khi chúng ta làm một việc vì đối với chúng ta trong hoàn cảnh của chúng ta đó là điều chính đáng không quan tâm đến lợi lộc mà ta nhận được.
- Hầu hết giáo lí Phật giáo đều nhằm mục đích giáo dục con người để có thái độ sống, hành vi ứng xử và cách thích nghi với hoàn cảnh sống, bao hàm những giá trị sống và kĩ năng sống không ngoài mục đích giúp con người “li khổ đắc lạc” (xa lìa khổ đau, đạt được niềm vui an lạc). Mục đích Phật giáo là “đào luyện con người thành bi, trí, dũng”. Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động sáng suốt lợi lạc. Dũng là quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không có bi và trí thì sẽ thành tàn ác và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ thành gian xảo và mộng tưởng. Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư cách tiến hóa, trí là tri thức tiến hoá, dũng là năng lực tiến hoá. Con người như thế là con người mới, căn bản của xã hội mới. Đặc điểm của Phật giáo là “kiến thiết một xã hội mới” mà căn bản là con người mới. Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, là phải chiến thắng chính mình trước hết. Con người tự chiến thắng con người, nghĩa là cái “nhân cũ” (bóc lột, đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa, thì kết quả được cái “quả mới” là một xã hội mới. Trong xã hội ấy, quyền sống tuyệt đối bình đẳng như sự sống: Bình đẳng trong nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ.”
SV: Đặng Huyền Trang 20 Lớp: K60B-QH-2015-L
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TÔN GIÁO VỀ MỘT SỐ QUYỀN
CON NGƯỜI CỤ THỂ
2.1. Sự tương đồng giữa quan điểm tôn giáo và tư tưởng quyền con người
2.1.1 Nhân sinh quan Nhân sinh quan là toàn bộ những quan điểm chung nhất về cuộc sống của con người, nhân sinh quan đề ra và giải đáp những vấn đề như con người sinh ra để làm
gì? Lẽ sống của con người là gì? Sống như thế nào cho xứng đáng với con người?
Nhân sinh quan nói lên quan niệm của con người về bản chất, mục đích của cuộc
sống, về thái độ và hành vi của con người trong cuộc sống.
Nhân sinh quan có tính giai cấp, trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có nhân
sinh quan riêng, nhân sinh quan của giai cấp bóc lột nói lên nguyện vọng muốn bóc
lột được thật nhiều sức lao động của kẻ khác, nhân sinh quan 26 của giai cấp bị bóc
lột nói lên nguyện vọng, mong muốn phản kháng giai cấp bóc lột để giành quyền
sống; đó là bởi lẽ nhân sinh quan là một bộ phận của ý thức tư tưởng. Cũng như mọi
ý thức tư tưởng khác, nhân sinh quan phản ánh tồn tại xã hội, nghĩa là phản ánh địa
vị giai cấp của con người trong sản xuất xã hội. Trong xã hội có các giai cấp khác
nhau, địa vị khác nhau, trong hệ thống sản xuất xã hội có quan hệ khác nhau về tư
liệu sản xuất, có vai trò khác nhau trong tính chất lao động xã hội, có thu nhập và phương thức hưởng thụ khác nhau. Nghĩa là địa vị xã hội và lợi ích khác nhau, nhân
sinh quan phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất là khác nhau, mang tính giai
cấp. Chỉ trong xã hội cộng sản, khi không còn giai cấp, khi mà mọi người có địa vị
và lợi ích như nhau trong sản xuất xã hội thì mới có một nhân sinh quan không có
tính giai cấp.
Nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với con người. Trong cuộc sống, con
người luôn suy nghĩ về cuộc sống của chính mình và không lúc nào ngừng hoạt
động để phục vụ cho cuộc sống của mình. Nhân sinh quan là toàn bộ những kinh
nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống, cho nên nó cũng là những tư tưởng chỉ đạo suy nghĩ và hành động của con người, là nguồn với tư cách là hình thái ý thức, tư tưởng, trong mỗi giai cấp, mỗi cộng đồng người và thậm chí trong mỗi người đều tồn tại những kiểu nhân sinh quan khác nhau tương xứng với các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Như vậy thì, không chỉ có nhân sinh quan nói chung mà còn có nhân sinh quan cụ thể của từng hình thái ý thức, tư tưởng của con
người như nhân sinh quan huyền thoại, nhân sinh quan triết học, nhân sinh quan tôn giáo.
SV: Đặng Huyền Trang 21 Lớp: K60B-QH-2015-L
Nhân sinh quan tôn giáo được đặt trong mối quan hệ với thế giới quan tôn
giáo, nhân sinh quan tôn giáo được hiểu là toàn bộ những quan niệm chung nhất của tôn giáo về cuộc sống của con người nhằm giải đáp cho con người những vấn đề về
lẽ sống và định hướng niềm tin vào sự giải thoát.
Kito giáo: Xem con người như một nhân vị là một đặc thù của Kitô giáo. Điều
này diễn tả tính siêu việt của con người như một hữu thể thiêng liêng.
“Tôn trọng “tư cách pháp nhân” của con người có thể là một trong những lý
tưởng quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Ngày hôm nay, câu hỏi về tư cách
pháp nhân cũng như nhân vị được đề cập một cách rộng rãi, như một lý tưởng tối
thượng. Tuy nhiên, ít ai biết được rằng ý niệm này hoàn toàn gắn liền với thần học về mặt lịch sử cũng như về phương cách hiện hữu của nó”.
Đối với Kitô giáo, nhân vị là một hữu thể con người trong bản thể phổ quát và
trong những gì làm nên tính chất đặc thù và duy nhất của từng người.
Kitô giáo tuyệt đối hóa ý niệm nhân vị. Mỗi con người hiện hữu trong vai trò
của mình trước mặt Thiên Chúa và đối với tha nhân. Là một nhân vị khi ta được
người khác nhìn nhận ta chính trong lúc ta nhìn nhận người khác. Vì thế, một nhân vị
được xác định trong tương quan với Thiên Chúa và với người khác Kitô giáo không
duy tâm, chẳng duy linh, càng không duy vật. Kitô giáo là sự kết hợp hài hòa giữa
hồn và xác, giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với
nhau cũng như giữa con người với vạn vật trong vũ trũ. Nói một cách khác, nhân học
Kitô giáo tức là con người sống, nhập thể, sống trọn kiếp người như Đức Kitô trong
môi trường của mình.
Ấn độ giáo: Ấn Độ giáo xem con người như thần thánh. Bởi vì Brahma là tất cả
mọi vật, Ấn Độ giáo khẳng định rằng tất cả mọi người là thần thánh. Linh hồn của
con người (Atman), hay bản chất của nó, là một với Brahman. Mọi thực tại bên ngoài
của Brahman được xem chỉ là ảo tưởng. Mục đích thiêng liêng của một người Hindu
là trở thành một Brahma, do đó việc không còn sống nữa để tồn tại ở dạng huyền ảo
của "tự thân riêng lẻ". Sự tự do này được gọi là “moksha” ("sự giải thoát"). Cho đến khi “moksha” được thực hiện, người Hindu tin rằng anh ấy / cô ấy sẽ được liên tục đầu thai để cho anh ấy / cô ấy có thể hoạt động theo hướng tự thực hành chân lý (sự thật là chỉ có Brahman tồn tại, không có gì khác). Làm thế nào một người được tái sinh được xác định bởi nghiệp báo, mà nó là một nguyên lý nhân quả (principle
cause and effect) bị chi phối (governed) bởi sự cân bằng của tự nhiên. Những gì người ta đã làm trong quá khứ ảnh hưởng và tương ứng với những gì sẽ xảy ra trong
tương lai, bao gồm cuộc đời quá khứ và tương lai.
Phật giáo: Phật giáo quan niệm con người là trung tâm điểm của xã hội loài
SV: Đặng Huyền Trang 22 Lớp: K60B-QH-2015-L
người. Phật giáo không nói duy tâm, không nói duy vật, mà tất cả đều do người phát
sinh và đều phát sinh vì người. Trong thế giới loài người này không có gì tự nhiên
sinh ra hay từ hư không rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động của con người tạo thành. Năng lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui,
thoái hóa hay tiến hóa, là đều do con người dã man hay văn minh. Người là chúa tể
của xã hội loài người, xã hội loài người không thể có chúa trời thứ hai. Cho nên
muốn cải tạo xã hội, căn bản là phải cải tạo con người, cải tạo tâm bệnh con người. Tâm bệnh con người nếu còn độc tài, tham lam, thì xã hội loài người là địa ngục; tâm
bệnh con người được đối trị rồi thì hoạt động con người rất sáng suốt mà xã hội con
người, kết quả của hoạt động ấy, cũng rất cực lạc.
2.1.2 Tư tưởng Về nhà nước và xã hội trong quan điểm tôn giáo - KiTo giáo: Giáo hội Công giáo đã đóng góp cho xã hội thông qua học thuyết
xã hội đã hướng dẫn các nhà lãnh đạo thúc đẩy công bằng xã hội và y tế cho người
bệnh và người nghèo. Trong các bài giảng như Bài giảng trên núi và những câu
chuyện như Người Samari tốt bụng, Chúa Giêsu kêu gọi những người tin Chúa thờ
phượng Thiên Chúa, hành động mà không có bạo lực hoặc định kiến và chăm sóc
người ốm, đói và nghèo. Giáo lý đó là nền tảng của sự tham gia của Giáo hội Công
giáo vào công bằng xã hội, y tế và chăm sóc sức khỏe.
Trong lịch sử phát triển nhân loại dưới sự lãnh đạo của Giáo hội ở nhiều loại khoa học, đặc biệt là thiên văn học, toán học, từ nguyên học, triết học, hùng biện, y
học, giải phẫu, và vật lý, đặc biệt là Alorstaiwih (tức là ngành khoa học do Aristotle
thành lập), cơ học, đặc biệt là các công cụ chiến tranh, cùng với kiến trúc, hóa học,
địa lý, triết học và khoa học thực vật và động vật.
Trong tương quan đối với nhà cầm quyền, Bộ Truyền giáo căn dặn: “Nếu
được vua chúa có cảm tình và rộng lượng, chư huynh hãy tỏ lòng biết ơn. Để tránh
mọi ganh tị có thể xảy ra, chư huynh đừng xin đặc ân, miễn trừ đối với luật lệ trong
nước… Hãy tránh tất cả những hành động có liên can đến chính trị, kể cả những
hành động có thể khiến người ta nghi ngờ chư huynh dính líu vào chính trị. Hãy rao giảng cho tín hữu bổn phận trung thành với Nhà nước, dù các nhà cầm quyền là những người không cùng tín ngưỡng”.
Dĩ nhiên, theo thần học luân lý, khi công quyền không còn phục vụ công thiện công ích hay vượt quá quyền hạn của mình để đàn áp người dân, lúc đó các công
dân được phép sử dụng những biện pháp cần thiết để bênh vực công lý và nhân quyền. Tuy nhiên khi nhà cầm quyền phục vụ công ích thì họ có thẩm quyền đòi hỏi người dân phải tuân thủ pháp luật và lương tâm cũng đòi buộc các công dân phải
chấp hành pháp luật. Theo Công đồng Vatican II, “cộng đồng chính trị và Giáo hội,
SV: Đặng Huyền Trang 23 Lớp: K60B-QH-2015-L
mỗi bên trong lãnh vực riêng của mình, đều độc lập và tự trị. Tuy nhiên, dù dưới
danh nghĩa khác nhau, cả hai đều cùng phục vụ ơn gọi cá nhân và xã hội của con người. Việc phục vụ đó sẽ hữu hiệu hơn cho thiện ích của nhân loại, nếu cả hai duy
trì đuợc sự cộng tác tốt đẹp với nhau, thích ứng với từng thời điểm và từng địa
phương”.
- Hồi giáo: Khác với các tôn giáo thế giới khác, các cộng đồng Islam giáo
trên thế giới không chỉ là những cộng đồng tôn giáo thuần tuý mà còn là những
cộng đồng mang tính chất chính trị - xã hội. Trong các xã hội Islam giáo không có sự phân biệt rạch ròi giữa tôn giáo với chính trị và luật pháp. Kinh Koran, sách
Hadith (sách ghi chép những truyền thuyết về nhà Tiên tri Mohammed), luật
Shariah (luật Islam giáo) không chỉ được thực thi trong đời sống tôn giáo mà còn
được áp dụng trong cả đời sống xã hội ở các nước lấy Islam giáo làm quốc giáo. Điều này có nguồn gốc lịch sử ngay từ lúc tôn giáo này mới ra đời. Ngay từ khi còn
đang phát triển cộng đồng tín đồ Islam giáo của mình tại Medina, nhà Tiên tri
Mohammed không chỉ đóng vai trò một thủ lĩnh tôn giáo mà còn là một thủ lĩnh
chính trị và một nhà lập pháp. Kinh Koran đã cung cấp một bộ khung luật pháp cho
việc tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước và xác lập nghĩa vụ, trách nhiệm và
quyền lợi của các “công dân” tín đồ trong một xã hội Islam giáo. Từ đây, một mô
hình tổng quát về nhà nước chính trị được xác lập theo ý đồ của Đức Allah. Trong
suốt quá trình lịch sử phát triển của Islam giáo, Kinh Koran, sách Hadith, luật
Shariah luôn được các học giả và giới chức Islam giáo diễn giải cho phù hợp với
điều kiện xã hội mà họ đang sống.
- Ấn độ giáo: Sau khi giành được độc lập vào năm 1947 và từ khi bản Hiến pháp ra đời, Ấn Độ bãi bỏ và nghiêm cấm phân biệt đối xử giữa các giai tầng xã
hội. Nhưng trên thực tế, thay vì mất dần theo thời gian, tình trạng bạo lực vẫn tồn
tại và thậm chí còn tăng lên trong những năm gần đây, đặc biệt là nhằm vào tầng
lớp "tiện dân", khi tầng lớp này cố thoát khỏi "số phận đã an bài" cho họ. Trước
đây, xã hội truyền thống Ấn Độ bị phân hóa thành bốn tầng lớp (varna) theo hệ thống Bà-la-môn giáo (brāhmana) gồm : nhà sư (Brahmane), chiến binh (Kshatriya), thương gia (Vaishya) và người làm việc tay chân hay gia nhân (Shudra). Ngoài ra, còn phải kể tới lớp người "tiện dân" (Dalit), chiếm 16% dân số, không được xếp vào hệ thống này và bị coi là giai cấp cặn đáy của xã hội, là những
người ô uế. Họ không có quyền sống, ăn uống hay cầu nguyện với những người khác. Thực trạng đáng thương của những “tiện dân” Ấn Độ không hề thay đổi và Tổ chức Giám sát Nhân quyền Quốc tế (Human Right Watch) đã chất vấn chính phủ
Ấn Độ về vấn đề này. Ngày 25/08/2014, tổ chức nhân quyền đã công bố một bản
SV: Đặng Huyền Trang 24 Lớp: K60B-QH-2015-L
báo cáo về tình trạng phân biệt đối xử vô cùng khắc nghiệt và điều kiện sống không
thể chấp nhận được của lớp người bị coi là “cặn bã” của xã hội. Cho tới nay, những phụ nữ “tiện dân” vẫn chỉ được thuê để dọn phân tại các nhà vệ sinh (lạc hậu, không
có nước) để kiếm sống, bất chấp các đạo luật đã được ban hành nhằm chấm dứt
cách đối xử miệt thị này.
- Phật giáo: Đức Phật nói rằng: Người cai trị dân phải có lòng nhân ái thương dân, giúp đỡ những người nghèo khó, ban thưởng xứng đáng cho chúng quan lại
biết phục vụ nhân dân, các quan phải thực hành hạnh cần, kiệm, liêm, chính, sống
đời đạm bạc, không phung phí ngân quỹ quốc gia, phải thực hành hạnh bình đẳng,
xem dân như mình, cùng tuân thủ pháp luật. Tư tưởng Phật giáo về một xã hội lí tưởng, chính là một xã hội trong đó sự bình đẳng, dân chủ và quyền con người được
tôn trọng, tiến bộ đạo đức và tâm linh được khuyến khích và người dân quan tâm
đến đời sống đạo đức. Đó là một xã hội giúp đỡ cho người thiếu thốn, làm mạnh mẽ
những người yếu thế, đem hoà hợp lại cho những người không hoà hợp, mang hạnh
phúc và ánh sáng lại cho những người đau khổ và tăm tối. Những điều Đức Phật
dạy là hướng đến sự lợi lạc thiết thực cho hết thảy mọi chúng sinh. Mối quan tâm
chính của Ngài là xoá bỏ bệnh tật và đau khổ của con người, mang lại từ bi cho
mình và cho người. Ngài dạy cho mọi người sự tịnh hoá tư tưởng, dạy cách diệt trừ
đau khổ và buồn phiền, cách vượt qua sầu muộn, cách đạt đến con đường chứng ngộ Niết bàn. Do vậy Ngài được mô tả là một người xuất hiện trên thế gian vì phúc
lợi, an lạc và hạnh phúc cho nhiều người, vì lòng từ bi đối với thế gian, vì điều tốt
đẹp và lợi ích cho loài người. Đây là một xã hội trong đó tất cả mọi công dân đều
sống đời chân chính và có trách nhiệm cao, trong khi người lãnh đạo hay quản lí xã
hội nên xây dựng một nền kinh tế vững vàng, nền giáo dục đúng tiêu chuẩn, công
bằng để cho người dân tin cậy, tự tin, nỗ lực, siêng năng, lương thiện, đạo đức, cao
thượng và khoan dung. Còn về môi trường sống, người dân có được sự kết giao tốt
với các đoàn thể, có đời sống quân bình, giữ được quan hệ tốt đẹp với người khác
và đóng góp vào sự an lạc, hạnh phúc của xã hội. Những người lãnh đạo và quần chúng nên dùng những phương tiện tốt để đạt hạnh phúc cho mình và cho người khác trong việc tạo ra một thế giới không có tham, sân, si. Với tư cách là một nhà cải cách xã hội trong ý nghĩa đạo đức, Đức Phật loại bỏ hệ thống xã hội dựa trên giai cấp của Bà la môn, một hình thái xã hội bóc lột kinh tế đối với quần chúng của những nhà làm tôn giáo và những nhóm chính 33 trị. Tách rời địa vị xã hội của con
người khỏi nguồn gốc sinh ra, Đức Phật kết hợp nó với nghiệp báo đạo đức có chủ tâm của con người. Theo lí thuyết này, chính sự phát triển đạo đức và tâm linh của
con người làm cho họ trở nên đạo đức và xứng đáng được tôn trọng; ngược lại
SV: Đặng Huyền Trang 25 Lớp: K60B-QH-2015-L
chính cái động cơ xấu xa và những việc làm ác độc của con người làm cho họ trở
thành một kẻ đáng lên án chứ không phải do nguồn gốc sinh ra, bối cảnh gia đình hay địa vị xã hội. Mô hình xã hội lí tưởng của Phật giáo dựa trên sự bình đẳng, chân
chính và đạo đức. Những khó khăn và những tội ác trong xã hội được coi như là
sinh ra từ sự tham ái và những điều kiện không tốt đẹp của đời sống. Tội ác và hình
phạt do đó được nhìn từ viễn cảnh cải cách để đạt đến một giải pháp hữu hiệu, hoặc ít ra là kiểm soát được nó. Thêm vào đó, những nguyên tắc hòa hợp và đoàn kết nêu
trên chính là nhằm góp phần xây dựng một xã hội của những người có kỉ luật và tự
tin vào chính mình. Họ là những con người có trách nhiệm về sự an lạc, tiến bộ và
hạnh phúc của chính mình cũng như của người khác. Một xã hội như thế thì chắc chắn đã đảm bảo ở mức độ cao những tiêu chuẩn về quyền con người trong Luật
nhân quyền quốc tế ngày nay. Và quan trọng nhất theo chúng tôi, tư tưởng Phật giáo
góp phần, hướng tới xây dựng một nền đạo đức cho con người mà một xã hội, với
những người dân có được các phẩm chất đạo đức ấy, nhất định sẽ đóng góp tích cực
vào việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người.
2.2. Quan điểm của các tôn giáo về một số quyền cụ thể
2.2.1. Quyền sống Theo Khoản 1 Điều 6 ICCPR, mọi người đều có quyền cố hữu là được sống,
không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện. Quyền sống là cơ sở cho tất cả các quyền con người. Chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác
nghiêm trọng nhất. Bình luận chung số 6 của HRC thông qua tại phiên họp lần thứ
16 năm 1982 nói rõ thêm, quyền sống là một quyền cơ bản của con người mà trong
bất kì hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia cũng không thể
bị vi phạm. Thêm nữa, một trong các nguy cơ phổ biến đe dọa quyền sống là chiến
tranh và các tội phạm nghiêm trọng như diệt chủng hay tội phạm chống nhân loại.
Vì thế, việc chống chiến tranh và các tội phạm này cũng là sự bảo đảm quyền sống,
nghĩa là nó có mối liên hệ với nghĩa vụ cấm các hoạt động tuyên truyền chiến tranh
và kích động hận thù, bạo lực. Đồng thời, các quốc gia có nghĩa vụ hạn chế sử dụng hình phạt tử hình, chỉ có thể được áp dụng hình phạt này với những tội ác nghiêm trọng nhất, việc giới hạn áp dụng hình phạt này được coi là một hình thức bảo đảm quyền sống.
Theo Kito giáo, thiên chúa muốn chúng ta tôn trọng sự sống—của chính mình và của người khác. Thí dụ vào thời A-đam và Ê-va, con của họ là Ca-in giận dữ với
em là A-bên. Đức Giê-hô-va cảnh cáo Ca-in là cơn giận của ông có thể khiến ông phạm trọng tội. Ca-in lờ đi lời cảnh cáo đó. Ông “xông đến A-bên là em mình, và
giết đi”. Thirn chúa trừng phạt Ca-in vì tội giết em. Hàng ngàn năm sau, thiên chúa
SV: Đặng Huyền Trang 26 Lớp: K60B-QH-2015-L
ban cho dân Y-sơ-ra-ên những luật pháp để giúp họ phụng sự theo cách đẹp ý Ngài.
Vì những luật pháp này được ban qua trung gian nhà tiên tri Môi-se, cho nên đôi khi được gọi là Luật Pháp Môi-se. Một điều luật trong Luật Pháp Môi-se nói: “Ngươi
chớ giết người”. Điều này cho dân Y-sơ-ra-ên biết rằng Đức Chúa Trời quý trọng
mạng sống của con người và họ cũng phải quý trọng sự sống của người khác.
Còn về sự sống của một thai nhi thì sao? Theo Luật Pháp Môi-se, gây ra cái chết của đứa bé trong bụng mẹ là một tội trọng. Thật vậy, ngay cả một mạng sống
như thế cũng quý giá đối với Đức chúa trời. Điều này có nghĩa phá thai là phạm tội.
Để tôn trọng sự sống, chúng ta cần có quan điểm đúng về người đồng loại.
Kinh Thánh nói: “Ai ghét anh em mình, là kẻ giết người; anh em biết rằng chẳng một kẻ nào giết người có sự sống đời đời ở trong mình”. Nếu muốn sống muôn đời,
chúng ta cần loại trừ mọi hận thù khỏi lòng mình, vì hận thù là căn nguyên của hầu
hết mọi sự hung bạo. Điều trọng yếu là chúng ta phải biết yêu thương lẫn nhau.
Còn về việc tôn trọng chính mạng sống mình thì sao? Thường thì người ta
không muốn chết, nhưng một số người muốn tìm khoái lạc dù biết điều này dẫn đến
cái chết. Thí dụ, nhiều người dùng thuốc lá, ăn trầu hoặc dùng ma túy để tiêu khiển.
Những chất này làm hại thân thể và thường giết chết người dùng. Một người thường
xuyên dùng những chất ấy không xem sự sống là thiêng liêng. Những thực hành này
là ô uế dưới mắt Đức Chúa Trời. Để phụng sự theo cách đẹp ý Đức Chúa Trời, chúng ta phải bỏ những thực hành ấy. Mặc dù đây là điều khó làm, nhưng Đức Giê-
hô-va có thể cho chúng ta sự giúp đỡ cần thiết. Và Ngài quý trọng những nỗ lực của chúng ta khi chúng ta xem sự sống là món quà quý giá mà Ngài đã ban. Nếu tôn trọng sự sống, chúng ta sẽ luôn quan tâm đến sự an toàn. Chúng ta sẽ thận trọng và
không liều lĩnh chỉ vì muốn được khoái lạc hoặc kích thích. Chúng ta sẽ tránh lái xe
bất cẩn và chơi những trò thể thao hung bạo hay nguy hiểm. Luật pháp của Đức
Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên xưa có ghi: “Khi ngươi cất một cái nhà mới [có sân
thượng], thì phải làm câu-lơn [lan can] nơi mái nhà, kẻo nếu người nào ở trên đó té
xuống, ngươi gây cho nhà mình can đến huyết chăng”. Để phù hợp với nguyên tắc được ghi trong luật pháp này, chúng ta phải giữ thang lầu được an toàn để không người nào bị vấp, ngã và bị thương. Nếu bạn có xe, hãy chắc chắn xe được bảo trì tốt. Đừng để cho nhà cửa hay xe cộ của bạn gây nguy hại cho chính bạn hoặc người khác.
Thật vậy, từ đầu đến cuối, xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh là ý nghĩa sâu xa về
sự sống với thiên hình vạn trang và một ý nghĩa thuần khiết về việc Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta thấy rằng con người được mời gọi hiện hữu để sống niềm hi
SV: Đặng Huyền Trang 27 Lớp: K60B-QH-2015-L
vọng, một ân huệ thần thiêng mà Thiên Chúa khai sáng sự sống mầu nhiệm và lòng
quảng đại của Ngài trong đó. Sự sống con người là điều quan trọng và quí giá
Khác với Kinh thánh chỉ đề cập đến vấn đề thiêng liêng hoặc lịch sử, Kinh
Koran của đạo hồi đồng thời cũng là một bộ luật đầu tiên và cao nhất của Hồi Giáo.
Đạo Hồi không có Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qur'an cũng liệt kê
mười điều tương tự:
1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Á Rập là Allah). 2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ. 3. Tôn trọng quyền của người khác. 4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo. 5. Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (*). 6. Cấm ngoại tình. 7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi. 8. Hãy cư xử công bằng với mọi người. 9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần. 10. Hãy khiêm tốn (*) Trường hợp đặc biệt được phép giết người mà không bị trọng tội là:
1) Trong khi kháng cự hoặc chiến đấu chống lại những kẻ lùng giết người đạo
mình nhằm cưỡng bách bỏ đạo. Nhưng nếu chiến thắng, phải noi gương thiên sứ Muhammad, tha thứ và đối xử nhân đạo với phần đông kẻ bại trận.
2) Giết những tên sát nhân để trừ hại cho dân lành.
Trong đó quyền sống cũng được đề cao và khẳng định “ sự sống của con
người là điều quan trọng và quý giá”
Trong tư tưởng Phật giáo, Đức Phật khuyên không nên sát sinh vì rằng mọi
chúng sinh sợ hãi hình phạt, đối với mọi loài hữu tình sự sống là quý nhất trên đời.
Giới thứ nhất của một cư sĩ phải thọ trì là kính trọng sự sống, không sát hại chúng
sinh. Dù là một Bà la môn cần phải xứng đáng với danh xưng, một vị Thánh phải
xứng đáng với Thánh vị, đó là phải thực hiện sự kính trọng đời sống này một cách toàn diện và đầy đủ. Đặc điểm “tôn trọng sự sống” trong tư tưởng Phật giáo thể hiện là không sát sinh, thực hành ăn chay, đó chính là những điều tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy. Phật giáo xem sự sống trên tất cả. Hết thảy cái gì gọi là có giá trị là phải bảo vệ sự sống ấy. Giết sự sống để nuôi sự sống là mê muội mà vì tham sống nên hại sự sống cũng là vô minh. Cho nên tôn trọng sự sống không những
bằng cách giúp nhau để sống còn, mà còn có khi phải hi sinh sự sống để bảo vệ sự sống, nghĩa là có khi tiêu cực như ăn chay để cứu muôn loài, có khi tích cực như
“thay khổ cho chúng sinh” để cứu vạn loại. Phật giáo đặc biệt chú trọng và nêu cao
SV: Đặng Huyền Trang 28 Lớp: K60B-QH-2015-L
chủ nghĩa lợi tha, nhưng chữ “lợi” ấy là phải hướng về mục đích tôn trọng sự sống.
Kinh Tăng Chi của Phật giáo nói rằng: Sát sinh tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Từ bỏ sát
sinh, không tạo ra sợ hãi hận thù trong hiện tại, không tạo ra sợ hãi hận thù trong
tương lai, không khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Người từ bỏ sát sinh làm lắng dịu sợ
hãi hận thù. “Mọi người sợ hình phạt, Mọi người sợ tử vong, Lấy mình làm ví dụ, Không giết, không bảo giết” . Đức Phật nói về đặc điểm của những vị A-la-hán như
sau: Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sinh, từ bỏ sát sinh, bỏ trượng,
bỏ kiếm, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sinh và loài hữu
tình. Đức Phật nhắc điều này để làm gương cho phật tử, cho những người chưa đạt được mức A-la-hán noi theo mà tu tập. “Bỏ trượng đối chúng sinh, Yếu kém hay
kiên cường, Không giết, không bảo giết, Ta gọi Bà la môn” . Kinh Tăng Chi có nêu
nội dung như sau: Ở đây, này các Tỷ kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sinh, từ bỏ sát
sinh. Này các Tỷ kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sinh, đem (sự) không sợ hãi cho vô
lượng chúng sinh, đem (sự) không hận thù cho vô lượng chúng sinh, đem (sự)
không hại cho vô lượng chúng sinh; sau khi cho vô lượng chúng sinh, không sợ hãi,
không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận
thù, không hại. Này các Tỷ kheo, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết là
tối sơ, được biết là lâu ngày, không bị những Sa-môn, Bà la môn có trí khinh thường.
Cũng giống như phật giáo, Ấn độ giáo khẳng định sự sống là quý giá nhất trên
đời. Theo giáo lý Ấn Độ Giáo, mỗi người có một vị trí riêng trong cuộc sống và
trách nhiệm riêng biệt. Mỗi người được sinh ra ở một chỗ với những khả năng riêng
biệt vì những hành động và thái độ trong quá khứ vì.
- Về hình phạt tử hình: Liên quan chặt chẽ đến quyền sống trong Luật nhân
quyền quốc tế là vấn đề hình phạt tử hình. Hình phạt tử hình là chế tài hình sự
nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với những hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng. Hình phạt này được áp dụng từ xa xưa trong xã hội loài người và hiện vẫn được quy định trong pháp luật và thực thi ở nhiều nước. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và của nhà nước, pháp luật qua từng giai đoạn cụ thể, hình phạt tử hình được áp dụng với các tội phạm khác nhau, được thi hành với nhiều cách thức, song cùng với mục đích trừng trị người phạm tội, răn đe và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, sang đến thế kỉ XX và cùng với sự tiến bộ của xã hội ngày
nay, hình phạt tử hình đã được nhìn nhận dưới góc độ quyền con người với sự thay đổi theo xu hướng phổ biến là hạn chế, tiến tới xóa bỏ việc áp dụng hình phạt này
đối với con người. Vấn đề hình phạt tử hình được quy định trong Điều 6 ICCPR,
SV: Đặng Huyền Trang 29 Lớp: K60B-QH-2015-L
theo đó thì: Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì chỉ được phép
áp dụng hình phạt này đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện và không được trái với những quy
định của Công ước này và của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng.
Hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên cơ sở bản án đã có hiệu lực pháp luật, do
một tòa án có thẩm quyền phán quyết. Không được phép tuyên hình phạt tử hình với người phạm tội dưới 18 tuổi và không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ
đang mang thai. Bất kì người nào bị kết án tử hình đều có quyền xin ân giảm hoặc
xin thay đổi mức hình phạt. Việc ân xá, ân giảm hoặc chuyển đổi hình phạt tử hình
có thể được áp dụng đối với mọi trường hợp. Không một quy định nào trong điều này có thể được viện dẫn để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ hình phạt tử hình tại
bất kì quốc gia thành viên nào của Công ước. Nghị định thư tùy chọn thứ hai năm
1999 về việc xóa bỏ hình phạt tử hình, bổ sung ICCPR nêu rằng, việc bãi bỏ hình
phạt tử hình góp phần nâng cao nhân phẩm và thúc đẩy sự phát triển tiến bộ các
quyền con người; khẳng định việc bãi bỏ hình phạt tử hình được coi là sự tiến bộ
trong việc hưởng thụ quyền sống. Theo Điều 1 Nghị định thư tùy chọn thứ hai năm
1999 về việc xóa bỏ hình phạt tử hình, bổ sung ICCPR: Không một người nào thuộc
phạm vi quyền tài phán của một quốc gia thành viên Nghị định thư này có thể bị
hành quyết. Mỗi quốc gia thành viên Nghị định thư sẽ tiến hành tất cả những biện pháp cần thiết để bãi bỏ hình phạt tử hình trong phạm vi quyền tài phán của mình.
Nghị quyết 2005/59 ngày 20/4/2005 của Ủy ban Quyền con người Liên Hợp Quốc
về vấn đề hình phạt tử hình, kêu gọi tất cả các quốc gia còn duy trì hình phạt tử
hình, thực hiện việc: Xóa bỏ hoàn toàn hình phạt này, đồng thời đình chỉ việc thi
hành các hình phạt tử hình đã tuyên; Tiến tới hạn chế số lượng những tội phạm có
thể tuyên hình phạt tử hình và ít nhất là không mở rộng việc áp dụng hình phạt tử
hình tới những tội phạm mà hiện không áp dụng hình phạt này. Nghị quyết số
62/149 ngày 18/12/2007 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về việc tạm ngừng thi
hành án tử hình nêu rõ: Xét rằng việc sử dụng hình phạt tử hình làm tổn hại nhân phẩm con người và khẳng định việc đình chỉ áp dụng hình phạt tử hình sẽ góp phần tăng cường và thúc đẩy sự phát triển các quyền con người, rằng không có chứng cứ rõ ràng nào chứng tỏ hình phạt tử hình có tác dụng ngăn chặn tội phạm và bất kì những sai sót nào trong việc áp dụng hình phạt này đều không thể lấy lại và đền bù được. Phong trào vận động xóa bỏ án tử hình trên thế giới đã thực sự mạnh mẽ từ
đầu thập niên 1990 và trung tâm là ở châu Âu, với nòng cốt của cuộc vận động là các tổ chức quốc tế, trong đó bao gồm Liên Hợp Quốc và nhiều tổ chức liên chính
phủ như Hội đồng châu Âu, Liên minh châu Âu, OSCE, Tổ chức các nước châu
SV: Đặng Huyền Trang 30 Lớp: K60B-QH-2015-L
Mỹ, Liên minh châu Phi. Cụ thể như việc Nghị viện châu Âu đã ra nghị quyết về
hình phạt tử hình trên thế giới và xác định Ngày châu Âu phản đối hình phạt tử hình; Liên minh châu Âu đã ban hành chính sách về kết nạp thành viên mới trong
đó yêu cầu các quốc gia muốn gia nhập khối này phải xóa bỏ hình phạt tử hình.
Tháng 5 năm 2002, Liên minh thế giới phản đối hình phạt tử hình được thành lập tại
Rôma, tập hợp hàng ngàn tổ chức phi chính phủ đang vận động xóa bỏ hình phạt tử hình trên thế giới, lấy ngày 10/10 hàng năm là “Ngày thế giới phản đối hình phạt tử
hình”. Vào thời điểm đầu thế kỉ XX, chỉ có ba quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình đối
với tất cả tội phạm (Côxta Rica, Venexuela, Xan Marinô); tuy nhiên, đến đầu thế kỉ
XXI, đã có hai phần ba số quốc gia trên thế giới đã xóa bỏ hình phạt này trong pháp luật hoặc trên thực tế. Cụ thể như khu vực châu Âu không còn quốc gia nào áp dụng
hình phạt tử hình, ở châu Phi chỉ còn 6/53 quốc gia áp dụng hình phạt này. Mục tiêu
chung và cuối cùng của phong trào phản đối hình phạt tử hình là vận động các quốc
gia xóa bỏ hoàn toàn hình phạt này, thay thế nó bằng những hình phạt khác không
tước đoạt tính mạng của người phạm tội. Những mục tiêu gần hơn là vận động các
quốc gia giảm số tội danh có thể bị kết án tử hình, giảm hoặc hoãn không thi hành
án tử hình trên thực tế, nhân đạo hóa các biện pháp thi hành án, đảm bảo công bằng
trong xét xử, công khai thông tin về việc áp dụng hình phạt tử hình. Có thể thấy
rằng, phong trào vận động xóa bỏ hình phạt tử hình dường như bắt nguồn và cổ vũ cho tinh thần nhân đạo, khoan dung - là giá trị văn hóa có trong mọi nền văn minh,
mọi tôn giáo và mọi dân tộc trên thế giới. Đó là cơ sở quan trọng để hiện thực hóa
niềm tin loại bỏ hình phạt tử hình trên thế giới, đảm bảo tốt hơn quyền con người.
Những tổ chức tham gia tích cực vào phong trào toàn cầu vận động xóa bỏ hình
phạt tử hình cho rằng, hình phạt tử hình không đem lại “sự kết thúc” cho những đau
khổ của các nạn nhân và gia đình nạn nhân, mà sự tha thứ, lòng khoan dung mới
làm được điều đó; đồng thời các tổ chức này chọn lựa cách tiếp cận theo hướng ủng
hộ những biện pháp “phục hồi” như tạo lập mạng lưới giúp đỡ lẫn nhau giữa những
người cùng cảnh ngộ, tổ chức những hoạt động hòa giải giữa những nạn nhân, gia đình nạn nhân với người phạm tội, gia đình người phạm tội.
Tư tưởng tôn giáo và hình phạt tử hình: Tôn giáo không phải là hệ thống các quy phạm pháp luật nhưng dưới góc độ nhân phẩm, tư tưởng Tôn giáo thể hiện rõ sự tôn trọng tính mạng của con người và vì con người. Các tôn giáo quan niệm bản chất con người cơ bản là thiện và mọi người đều có khả năng trở thành nên thiện, đó
chính là khả năng hướng thiện kể cả khi đã mắc vào tội lỗi hay có hành động sai trái. Do vậy, các biện pháp trừng phạt dành cho người phạm tội cần được thực hiện
với tinh thần cảm thông và dựa trên quan điểm phục hồi. Trong kinh thánh của Kito
SV: Đặng Huyền Trang 31 Lớp: K60B-QH-2015-L
giáo hay kink Koran của hồi giáo và kinh vệ đà của Ấn độ giáo đều khẳng định sự
sống là điều thiêng liêng nhất. Người đứng đầu Phật giáo Tây Tạng là Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn - Tenzin Gyatso đã từng tuyên bố ủng hộ việc ngừng thực hiện
hình phạt tử hình và nhấn mạnh, mặc dù để thực hiện chức năng ngăn chặn tội 40
phạm, hình phạt tử hình là một hình thức trừng phạt đặt biệt hà khắc và không nên
áp dụng bởi nó tước đi cơ hội thay đổi, phục hồi và đền bù tổn thất của người vi phạm. Một điều chắc chắn là Phật giáo với quan niệm từ, bi, hỉ, xả luôn luôn không
ủng hộ việc giết người hoặc áp dụng hình phạt tử hình với mục đích báo thù.
Lập trường của các tôn giáo chống lại án tử hình dựa vào nền tảng triết lí và
giáo lí của các tôn giáo và đồng thời tương ứng với thực tế của xã hội. Trước hết, có khả năng rằng án tử hình trong hệ thống luật pháp các quốc gia ban hành có thể dẫn
đến sự thực hiện oan đối với người vô tội, và điều này vẫn xảy ra ở nhiều nước tiên
tiến. Án tử hình, một khi đã thi hành rồi thì không thể đảo ngược và cũng không thể
sửa chữa được nếu bị cáo về sau được chứng minh là vô tội. Thứ hai, các tôn giáo
khẳng định rằng tất cả mọi người về căn bản là chân thiện, và mục đích chính của
pháp luật là giáo dục, chuyển hoá và cải cách chứ không hủy diệt.
Tóm lại, dựa vào những lời dạy cơ bản trong giáo lí của các tôn giáo và tâm tư
bao dung sáng suốt của những đấng tối cao, chúng ta hoàn toàn đồng tâm ủng hộ lời
kêu gọi bãi bỏ hình phạt tử hình trong tinh thần coi trọng sự sống của các tôn giáo. Quyền sống là quyền cơ bản để thực hiện những quyền khác của con người, tư
tưởng của các tôn giáo về quyền sống thể hiện rõ nét sự tôn trọng tính mạng của tất
cả con người, sự tích cực nỗ lực bảo vệ mạng sống của con người và không được
tùy tiện tước đoạt sinh mạng của bất cứ ai. Đó là những giá trị rất nên được khuyến
khích, thúc đẩy ở mọi quốc gia trên thế giới.
2.2.2 Quyền không bị tra tấn Điều 5 UDHR nêu rằng, không ai bị tra tấn hay bị đối xử, trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; quyền này được cụ thể hóa trong Điều 7
ICCPR. Tiếp đó, theo Điều 1 CAT, tra tấn được hiểu là: Bất kì hành vi cố ý nào gây đau đớn hoặc đau khổ nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe dọa hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kì một lí do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình
thức, khi nỗi đau đớn và đau khổ đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận
của một công chức. Tuy nhiên, khái niệm tra tấn không bao gồm những đau đớn
SV: Đặng Huyền Trang 32 Lớp: K60B-QH-2015-L
hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với, hoặc có liên quan đến các biện pháp trừng
phạt hợp pháp.
Bình luận chung số 20 của HRC thông qua tại phiên họp lần thứ 44 năm 1992
nêu rằng, mục đích của Điều 7 ICCPR là để bảo vệ cả phẩm giá và sự bất khả xâm
phạm về thể chất và tinh thần của các cá nhân, việc cấm tra tấn và các hình thức đối
xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục phải được duy trì trong mọi tình huống, kể cả trong hoàn cảnh khẩn cấp của quốc gia như quy định ở Điều 4 ICCPR.
Không chấp nhận bất cứ lí do nào, kể cả về tình trạng khẩn cấp của quốc gia và
mệnh lệnh cấp trên đưa ra để biện minh cho các hành động tra tấn, đối xử, trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục.
Những hành động được quy định trong Điều 7 ICCPR không chỉ là những
hành động gây ra đau đớn về thể xác mà còn bao gồm những hành động gây đau
khổ về tinh thần với nạn nhân; những hành động ấy không chỉ nhằm mục đích để
trừng phạt, mà còn nhằm mục đích để giáo dục, rèn luyện một đối tượng nào đó.
Như vậy, Điều 7 ICCPR còn có tác dụng bảo vệ trẻ em, học sinh và các bệnh nhân
trong môi trường giáo dục và y tế.
Ngay từ những trang đầu của Kinh thánh, chúng ta đã đọc thấy những đoạn
viết về phẩm giá cao qúy của con người bởi vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa (St 1,26-27; 5,3; 9,6; Kn 2,23-24). Việc tôn trọng quyền lợi tha nhân được diễn tả cụ thể qua các giới răn ngăn cấm không được làm thiệt hại tới tính mạng, tài
sản, danh dự của họ. Nói cho đúng, cần phải mất nhiều thời gian để cho dân Israel
nhận ra rằng chân lý này có giá trị cho hết mọi nhân sinh chứ không phải chỉ có giá
trị cho những phần tử thuộc dân riêng Chúa mà thôi. Ý thức đó được trưởng thành
từ từ. Dù sao ta nên ghi nhận những ưu khoản dành cho các “ngoại kiều, kẻ góa bụa
và mồ côi” (Xh 21,20-23), tức là những thành phần lép vế trong xã hội. Một điểm
đặc biệt nữa là tại Israel các vua không có uy quyền tuyệt đối: họ không thể ỷ lại
vào quyền hành để mà cướp người cướp của. Họ sẽ bị trừng phạt nặng nề nếu phạm
những tội tày trời đó, như ta thấy hai trường hợp điển hình nơi vua Đavít (2Sm 12,7-10) và vua Acab (1V 21,17-24).
Dĩ nhiên, sang đến Tân ước, việc tôn trọng phẩm giá con người lại còn được đề cao hơn nữa khi mà đức Kitô đồng hóa mình với những kẻ đói khát, trần truồng, khách lạ, đau yếu, tù tội (Mt 25,31-46). Những trang Phúc âm nói về lòng bác ái không biên cương đã thúc đẩy bao nhiêu thế hệ Kitô hữu quan tâm phục vụ những
kẻ bị xã hội bỏ rơi, không ai đếm xỉa tới. Phải nói rằng đó là những tiền đề và nguồn gốc của ý thức về nhân quyền: phẩm giá con người bắt nguồn từ Thiên Chúa,
và ở trên các luật lệ của xã hội.
SV: Đặng Huyền Trang 33 Lớp: K60B-QH-2015-L
Sự đóng góp đặc biệt của Giáo hội vào vấn đề nhân quyền ở chỗ cung cấp đạo
lý về nền tảng nhân quyền cũng như về những điều kiện luân lý cần thiết để thi hành nhân quyền. Thực vậy, nếu thiếu sự kính trọng nhân phẩm, nếu thiếu tình liên đới
bác ái, nếu thiếu ý thức về công ích, thì khó mà nói tới việc tôn trọng quyền lợi của
tha nhân! Kinh nghiệm cho ta thấy rằng mỗi người chúng ta hăng hái tranh đấu cho
quyền lợi bản thân nhưng tỏ ra lạnh lùng khi đụng tới bổn phận phải tôn trọng quyền lợi của người khác. Nhân quyền bắt nguồn từ phẩm giá con người: một hữu
thể độc nhất vô nhị, có khả năng tự ý thức, làm chủ chính mình, tự quyết định. Mọi
người đều bình đẳng về phẩm giá, kể cả những người khuyết tật. Vì thế các quyền
lợi này mang tính cách “phổ quát” (hiện hữu trong hết mọi người), “bất khả xâm phạm” và “bất khả chuyển nhượng”. Bởi vì các quyền lợi này bắt nguồn từ phẩm
giá con người, cho nên chúng mang tính cách “bất khả phân chia”. Tuy vậy, cũng
có xếp một thứ đẳng trật trong số các quyền lợi đó, đứng hàng đầu là quyền được
bảo vệ sự sống từ khi bắt đầu thụ thai cho đến khi chết cách tự nhiên; liền đó là
quyền duy trì thân thể toàn vẹn, quyền có những phương tiện đầy đủ và thích đáng
để sinh sống, quyền truy tầm chân lý, nền tảng của quyền tự do tín ngưỡng. Mà
Quyền lợi đi đôi với trách nhiệm (hay nghĩa vụ). Đây là một hệ luận tất nhiên trong
đời sống xã hội: quyền lợi của một người này đặt ra nghĩa vụ cho những người khác
phải tôn trọng nó.
Giáo hội không chỉ dừng lại ở chỗ kêu gọi bảo vệ nhân quyền hoặc tố giác
những sự vi phạm, nhưng còn giáo dục lương tâm về ý thức nhân quyền, đồng thời
cũng phải nêu gương trong thực hành, khởi đầu ngay từ trong đời sống nội bộ của
mình. Bộ giáo luật 1983 đã được duyệt lại trong chiều hướng đó. Đừng kể những
quyền lợi gắn liền với bản tính con người, người tín hữu còn có những quyền lợi
phát sinh từ bí tích rửa tội nữa. Tất cả mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm
tính, trước khi có những khác biệt về chức vụ, như ta có thể đọc thấy ở đ.208, mở
đầu cho thiên nói về các nghĩa vụ và quyền lợi nền tảng của các tín hữu. Ngoài ra
Giáo hội còn dấn thân vào việc bảo vệ nhân quyền qua biết bao nhiêu phần tử của mình đang phục vụ những thành phần thấp cổ bé miệng, những thành phần đã bị xã hội gạt ra ngoài lề. Và cũng đã có không biết bao nhiêu người đã trả giá cao cho sự phục vụ đó, bằng chính mạng sống của mình!
Cũng giống như KiTo giáo, hồi giáo cũng bảo vệ quyền không bị tra tấn của con người thông qua giáo lí mà một trong 10 điều cấm cơ bản là “ tôn trọng quyền
của người khác”
Trong tư tưởng Phật giáo, Từ bi là chất liệu không thể không được nhắc đến.
Từ thường cho vui, Bi thường cứu khổ. Ðó là trọng trách thiêng liêng mà Phật giáo
SV: Đặng Huyền Trang 34 Lớp: K60B-QH-2015-L
đã mang trên mình đi suốt hai mươi lăm thế kỉ qua, bằng mọi cách để thực hiện ở
bất cứ nơi nào. Và chính vì sứ mệnh cao cả này mà đạo Phật đã tồn tại trên một lịch sử lâu dài của loài người, và phát triển cũng chỉ bằng chất liệu yêu thương mà hoàn
toàn không sử dụng một bạo lực bạo quyền, không dính dáng đến lưỡi gươm mũi
súng. Chất liệu yêu thương của Phật giáo như dòng suối mát lịm ngọt ngào đã làm
cho vạn vật xanh tươi, cỏ cây đâm chồi nảy lộc. Cũng vậy, Từ bi đã hiện hữu giữa cuộc đời, là thần dược xoa dịu những niềm đau nhân thế, hàn gắn những rạn vỡ tình
người, xua tan những oán hờn thù hận; và hơn thế nữa, giải quyết những căn bản
khổ đau, đưa con người đến an vui trọn vẹn. Phật giáo quan niệm rằng, đủ nghĩa của
“Từ” và “Bi” là Từ năng dữ nhất thiết chúng sinh chi lạc, Bi năng bạt nhất thiết chúng sinh chi khổ, vắn tắt lại là Từ năng dữ lạc, Bi năng bạt khổ, có nghĩa là lòng
Từ thường mang niềm vui cho tất cả chúng sinh, lòng Bi diệt mọi khổ đau cho tất cả
chúng sinh. Ở lĩnh vực tình cảm, lòng thương yêu của Phật giáo có thể sánh với
lòng mẹ thương con bao la rộng lớn. Tuy vậy, khi đi sâu vào ý nghĩa của nó, chúng
ta thấy rằng lòng Từ bi là một tình thương vượt qua mọi ranh giới, mọi quan hệ và
bao trùm lên trên tất cả muôn loài. Trong thế gian, thương yêu bao giờ cũng đi đôi
với hạnh phúc; tuy nhiên, những loại tình cảm ở đời chỉ thường giới hạn trong một
quan hệ, một đẳng cấp, một chủng loại, một phạm trù nào đó. Khi vượt ra ngoài
phạm trù ấy, lắm khi con người lại đối xử xa lạ, hững hờ, kì thị với nhau, thậm chí còn dẫn đến chống đối, tàn sát lẫn nhau một cách khủng khiếp. Trong khi đó, Từ bi
vượt lên tất cả mọi tình thương hẹp hòi của thế gian, không bến bờ, không biên
cương, không hạn định. Lòng thương yêu ấy tuyệt nhiên không chứa đựng bất kì ý
niệm kì thị nào, dù cho đó là một tín đồ 47 Phật giáo hay không phải. Ðối với Phật
giáo, tất cả chúng sinh đều là bạn hữu. Lòng thương vô cùng ấy tựa như ánh mặt
trời tỏa sáng khắp không gian, bao trùm muôn loài vạn vật, chẳng phân biệt đây hay
kia, thân hay sơ, bạn hay thù, giàu hay nghèo, sang hay hèn, người hay vật. Từ ý
nghĩa này, Phật giáo đã có một tinh thần khoan dung, cảm thông và tha thứ. Chúng
ta đang sống giữa một thời đại mà quyền lực và danh vọng đang khống chế con người, tham vọng nhân loại bùng vỡ một cách cùng cực, chiến tranh liên tục xảy ra, những cuộc chạy đua kinh tế, chính trị, quân sự đang phô bày khắp nơi trên thế giới, lửa hận thù tràn ngập khắp hành tinh. Thảm trạng này đang là cơ hội đưa nhân loại đến vực thẳm của diệt vong. Chính ngay lúc này, Từ bi là chất liệu rất cần thiết cho cuộc đời; và chỉ có vận dụng lòng thương yêu ấy của Phật giáo, chúng ta mới thật
sự có đủ năng lực dập tắt ngọn lửa chiến tranh và hận thù còn đang tồn tại không ít nơi trên trái đất này.
SV: Đặng Huyền Trang 35 Lớp: K60B-QH-2015-L
Một tư tưởng hướng thiện như thế trong tư tưởng của các tôn giáo hoàn toàn
đối lập với cách hành xử tồi tệ giữa người với người trong xã hội, đối lập với những hành vi tra tấn hay đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm
của người khác vì bất cứ lí do gì. Các tôn giáo chỉ trân trọng, hướng đến những
hành động của con người với điều kiện nó xuất phát từ lòng yêu thương, tôn trọng
nhân phẩm con người.
2.2.3 Vấn đề quyền tự do bình đẳng, không bị phân biệt đối xử.
Quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp
luật đồng thời được coi như một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về
quyền con người, do đó được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp trong tất cả các văn kiện quốc tế về quyền con người.
Quyền này gồm ba khía cạnh liên kết với nhau (mà đôi khi được đề cập như
các quyền hàm chứa (unenumerated rights), đó là: (i) không bị phân biệt đối xử, (ii)
được thừa nhận tư cách con người (thể nhân) trước pháp luật, và (iii) có vị thế bình
đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng.
Quy định về quyền này đầu tiên được đề cập trong các Điều 1, 2, 6, 7, 8 Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR), sau đó được tái khẳng định trong các Điều 2, 3,
16 và 26 ICCPR, cụ thể như sau:
Về khía cạnh thứ nhất, Điều 1 UDHR nêu rõ, mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền...Điều 2 UDHR quy định, mọi người
đều được hưởng tất cả các quyền và tự do...mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử
nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc
quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay
các địa vị khác. Ngoài ra, Điều này cấm phân biệt đối xử dựa trên địa vị chính trị,
pháp lý của quốc gia hoặc lãnh thổ, bất kể là lãnh thổ độc lập, uỷ trị, quản thác,
chưa được tự quản hay đang phải chịu bất kỳ hạn chế nào khác về chủ quyền.
Hai điều kể trên của UDHR được nhắc lại và cụ thể hóa trong các Điều 2 và 3
ICCPR. Theo Điều 2 ICCPR, các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các quyền đã được công nhận trong Công ước mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác (Khoản 1). Các Khoản 2 và 3 Điều này đề cập đến nghĩa vụ của các quốc gia
thành viên phải tiến hành các biện pháp cần thiết...nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước, và bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm phạm các
quyền và tự do như được công nhận trong Công ước đều nhận được các biện pháp
SV: Đặng Huyền Trang 36 Lớp: K60B-QH-2015-L
khắc phục hiệu quả, cho dù sự xâm phạm này là do hành vi của những người thừa
hành công vụ gây ra...Điều 3 ICCPR tập trung vào khía cạnh bình đẳng giữa nam và nữ, theo đó, các quốc gia thành viên Công ước cam kết đảm bảo quyền bình đẳng
giữa nam và nữ trong việc thực hiện tất cả các quyền dân sự và chính trị mà Công
ước đã quy định.
Về khía cạnh thứ hai, Điều 6 UDHR quy định, mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi. Quy định này được tái
khẳng định nguyên văn trong Điều 16 ICCPR.
Về khía cạnh thứ ba, Điều 7 UDHR quy định, mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào...Điều 8 UDHR cụ thể hóa một khía cạnh quy định ở Điều 7 khi nêu rằng,
mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các
biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ
mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.
Điều 26 ICCPR tái khẳng định hai quy định kể trên của UDHR, đồng thời nêu
rõ, về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho
mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về
chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan
điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác.
Bên cạnh những khía cạnh đã nêu cụ thể trong các quy định ở trên của UDHR
và ICCPR, Ủy ban Quyền con người (Human Rights Committee – cơ quan giám sát
thực hiện ICCPR của Liên Hợp Quốc, sau đây viết tắt là HRC), trong Bình luận
chung số 18 thông qua tại phiên họp lần thứ 37 năm 1989 của Ủy ban đã phân tích
về ý nghĩa và nội hàm của quyền này một cách khá chi tiết, mà có thể tóm tắt những
điểm quan trọng như sau:
Thứ nhất, không phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật
bảo vệ một cách bình đẳng đóng vai trò là cơ sở và nguyên tắc chung trong việc bảo vệ tất cả các quyền con người. Các quốc gia thành viên có trách nhiệm bảo đảm quyền này cho mọi người có mặt trên lãnh thổ nước mình, bất kể người đó là công dân nước mình, người không quốc tịch hay người nước ngoài, bất kể các yếu tố dân tộc, chủng tộc, quốc tịch, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị, thành phần xã hội, tài sản hay bất kỳ yếu tố nào khác (đoạn 1).
Thứ hai, Điều 26 ICCPR không chỉ cho phép tất cả mọi người có vị thế bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, mà còn nghiêm
SV: Đặng Huyền Trang 37 Lớp: K60B-QH-2015-L
cấm các quốc gia thành viên ban hành bất kỳ quy định pháp luật nào có tính chất
phân biệt đối xử (đoạn 1).
Thứ ba, quyền không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật và được
pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng phải được áp dụng trong mọi tình huống, kể cả
trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia được quy định ở Điều 4 ICCPR (đoạn 2).
Thứ tư, quyền không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mang tính chất khái quát, thể hiện trong nhiều
bối cảnh, có mối liên hệ với việc thực hiện các quyền con người khác, cụ thể như
với quyền được bình đẳng trước tòa án (các Khoản 1 và 3 Điều 14 ICCPR), quyền
được tham gia vào đời sống của cộng đồng (Điều 25 ICCPR)...(đoạn 2).
Thứ năm, các quốc gia thành viên có quyền tự quyết định các biện pháp thích
hợp để thực hiện quyền này, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, cần phải có những
hành động chủ động (ví dụ như để bảo đảm sự bình đẳng về quyền và trách nhiệm
của vợ và chồng nêu trong Khoản 4 Điều 24 ICCPR...) (đoạn 5).
Thứ sáu, trên thực tế ICCPR không đưa ra định nghĩa về sự phân biệt đối xử,
tuy nhiên, theo HRC, thuật ngữ này được hiểu là bất kỳ sự phân biệt, loại bỏ, hạn
chế hay thiên vị nào thực hiện dựa trên bất kỳ yếu tố nào như chủng tộc, màu da,
giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay quan điểm khác, quốc tịch
hay thành phần xã hội, tài sản, nguồn gốc hay các vị thế khác, mà có mục đích hoặc có tác động làm vô hiệu hóa hay làm suy giảm sự thừa nhận, thụ hưởng hay thực
hiện các quyền và tự do của tất cả mọi người trên cơ sở bình đẳng (đoạn 7). Cũng
theo Ủy ban, trong các bối cảnh có liên quan, các định nghĩa về sự phân biệt đối xử
về chủng tộc nêu ở Điều 1 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử về chủng tộc, và về phân biệt đối xử chống lại phụ nữ nêu ở Điều 1 Công ước về
xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ sẽ được áp dụng (đoạn
6).
Thứ bảy, quyền bình đẳng không có nghĩa là áp dụng một kiểu đối xử cho mọi
đối tượng trong cùng một tình huống (tức cào bằng), và không phải mọi sự khác biệt về đối xử đều tạo nên sự phân biệt đối xử. Nếu sự đối xử khác biệt được xác định dựa trên các điều kiện hợp lý, khách quan và nhằm mục đích để đạt được sự bình đẳng thì không bị coi là trái với ICCPR (các đoạn 10 và 13)
Bình Đẳng cũng phù hợp với các triết lý tôn giáo. Đức Phật từ các đây hơn 2000 năm từng dạy ”Không có sự khác biệt giữa những giọt nước mắt cùng mặn và
những giọt máu cùng đỏ”. Kinh thánh cũng có câu “Tất cả các linh hồn đều bình đẳng trước Chúa”.
SV: Đặng Huyền Trang 38 Lớp: K60B-QH-2015-L
Con người thích được hưởng đặc quyền và khi có đặc quyền lại lên mặt khinh
thường người khác: người Do-Thái hãnh diện vì được Thiên Chúa ban Lề Luật và được làm dân riêng của Thiên Chúa nên khinh thường Dân Ngọai; người tự do hãnh
diện vì sự tự do của mình và đối xử bất công với những người nô lệ; đàn ông trong
các quốc gia Cận Đông hãnh diện về vai trò làm chủ trong gia đình và khinh thường
đàn bà; người làm quan hay có địa vị trong gia đình thường đối xử với những người trong gia đình ưu tiên hơn những người ngòai gia đình. Những đặc quyền như thế
xảy ra ở mọi nơi và trong mọi lãnh vực; nhưng không thể xảy ra với Thiên Chúa.
Trước mặt Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng.
- Trong Bài đọc I, thánh Phaolô tuyên bố xóa bỏ mọi thứ phân biệt: Tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô; không còn chuyện phân biệt Do-Thái hay Hy-Lạp,
nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà.
- Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Mọi người đều có thể trở nên mẹ,
anh, chị, em của Thiên Chúa bằng việc nghe và giữ Lời Ngài; đặc ân này không chỉ
dành cho Đức Mẹ mà thôi.
Tất cả những ai tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa là trở nên một thân thể với
Ngài; vì thế, mọi phân biệt phải được xóa bỏ: giai cấp, chủng tộc, phái tính… Mọi
người đều là con Thiên Chúa và anh chị em với nhau.
Giáo hội đánh giá cao bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Giáo hội ghi nhận “giá trị tích cực của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, được Liên Hiệp
Quốc chấp nhận ngày 10-12-1948, và được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II coi
như“một cột mốc thực sự trên con đường tiến bộ đạo đức của nhân loại”. Tôn trọng
con người là tôn trọng quyền con người (Nhân quyền). Xác định và công bố các
quyền của con người, là một trong những cố gắng quan trọng nhất nhằm đáp ứng
cách hữu hiệu những đòi hỏi tất yếu của phẩm giá con người (số 152).
Nguyên tắc đầu tiên và cơ bản nhất là nguyên tắc nhân vị. Con người chính là
trọng tâm và linh hồn của tư duy xã hội công giáo. Con người có phẩm giá bất khả
xâm phạm. Giáo hội luôn cố gắng bênh vực phẩm giá con người mỗi khi có toan tính xác định lại hay bóp méo hình ảnh của phẩm giá ấy (x. TYHTXHCG, số 107).
Người nam và người nữ có cùng một phẩm giá và ngang bằng nhau. Từng người và cùng nhau họ là hình ảnh của Thiên Chúa. Người nam và người nữ quan hệ với người khác trước hết như những người chịu trách nhiệm về sự sống của người khác: “Ta sẽ đòi ngươi tính sổ về máu của anh em mình” (St 9, 5). Người
nam và người nữ cũng đặt mình đối diện với các loài thụ tạo khác, dựa vào chính ơn gọi phải sống của mình, họ có quyền và bổn phận sử dụng chúng để phục vụ mình.
SV: Đặng Huyền Trang 39 Lớp: K60B-QH-2015-L
Nhưng việc con người làm chủ vũ trụ cũng đòi hỏi trách nhiệm, chứ không được
quyền tuỳ tiện và khai thác cách ích kỷ (x. ibid. số 111 – 113).
Con người được Thiên Chúa tạo dựng thành một thể thống nhất gồm xác và
hồn. Nhân vị con người bao gồm cả thân xác, được trao phó trọn vẹn cho chính con
người. Và con người với cả hồn lẫn xác là chủ thể chịu trách nhiệm về các hành vi
luân lý của mình. Thông qua thân xác, con người thống nhất nơi mình các yếu tố của thế giới vật chất. Còn thông qua sự linh thiêng của mình, con người vượt lên
trên thế giới các sự vật và đi vào nơi sâu thẳm nhất của thực tại. Bởi đó con người
có hai đặc điểm khác nhau: là hữu thể vật chất có liên quan với thế giới này qua
thân xác mình, và là hữu thể thiêng liêng, mở ra với siêu việt.
Con người mở ra với Đấng Vô biên và với toàn thể các thụ tạo, mở ra với sự
hữu viên mãn, với chân trời vô biên của sự hữu. Con người hiện hữu như một hữu
thể độc đáo và không thể sao chép, như một cái “tôi’ có khả năng hiểu chính mình,
làm chủ chính mình và tự quyết về mình. Con người hiện hữu trước hết như một
thực thể làm chủ thể, như một trung tâm của ý thức và tự do.
Một xã hội công bằng chỉ trở thành hiện thực khi được xây dựng trên việc tôn
trọng phẩm giá siêu việt của con người. Con người là mục tiêu tối hậu của xã hội;
xã hội được tổ chức là nhắm tới con người. Bởi đó không bao giờ người ta được lèo
lái con người vào những mục tiêu xa lạ với sự phát triển của chính con người. Không thể lấy con người làm phương tiện để thực hiện những dự án kinh tế, xã hội
hay chính trị.
Tự do đích thực không phải là “muốn làm gì thi làm’, không cần để ý tới ai,
không lưu tâm tới điều gì khác. Muốn thực hành đúng đắn ‘tự do cá nhân”, đòi hỏi
phải có những điều kiện đặc thù liên quan tới trật tự kinh tế, xã hội, luật pháp, chính
trị và văn hoá. Thực thi tự do, con người làm những hành vi tốt về mặt luân lý, có
giá trị xây dựng con người và xã hội, nếu con người biết tuân theo sự thật. Người ta
nhận ra sự thật liên quan đến điều tốt xấu một cách hết sức cụ thể dựa vào phán
đoán của lương tâm khiến con người sẵn sàng chịu trách nhiệm về điều tốt và điều xấu đã làm.
Khi thực thi sự tự do, chúng ta gián tiếp liên hệ đến luật luân lý tự nhiên, có tính phổ quát, đi trước và liên kết mọi quyền lợi và nghĩa vụ của con người. Luật tự nhiên “chẳng là gì khác hơn chính ánh sáng của trí khôn được Thiên Chúa dọi vào lòng chúng ta. Nhờ đó chúng ta biết phải làm điều gì và tránh điều gì. Trong tình
trạng có nhiều nền văn hoá khác nhau, luật tự nhiên chính là điểm liên kết mọi dân tộc, thống nhất các nguyên tắc chung (x. ibid. các số 129 – 141).
SV: Đặng Huyền Trang 40 Lớp: K60B-QH-2015-L
Thiên Chúa không thiên vị ai, vì mọi người đều có cùng phẩm giá của những
thụ tạo được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa. Phẩm giá của mỗi người trước mặt Thiên Chúa chính là nền tảng đem lại phẩm giá của con
người trước mặt người khác.Và đó cũng là nền tảng tối hậu đưa tới sự bình đẳng và
tình huynh đệ căn bản giữa mọi người, bất kể chủng tộc, giới tính, nguồn gốc, văn
hoá hay giai cấp.
Chỉ khi nào phẩm giá con người được nhìn nhận mới có thể có sự phát triển
riêng và chung của mọi người (Gc 2, 1-9). Để khuyến khích sự phát triển này, cần
đặc biệt giúp đỡ những người kém nhất, bảo đảm cho cả nam lẫn nữ có những điều
kiện phát triển đồng đều, cũng như sự bình đẳng khách quan giữa các giai cấp xã hội khác nhau trước mặt luật pháp.
Trong các quan hệ giữa các dân tộc và các quốc gia, cũng cần phải có những
điều kiện bình đẳng và giống nhau thì cộng đồng quốc tế mới phát triển đích thực
(x. ibid. các số 143-145).
Ứng dụng nguyên tắc nhân vị vào đời sống xã hội đưa tới đòi hỏi không thể
thoái thác, là mọi người phải tôn trọng quyền làm người của nhau, xã hội và cộng
đồng chính trị phải tôn trọng quyền con người. Giáo hội công giáo đánh giá rất cao
bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc, được công bố ngày 10 tháng 12
năm 1948. Thật ra, nguồn gốc của các quyền con người nằm trong chính phẩm giá của mỗi một con người. Nhưng nguồn gốc tối hậu của chúng không ở trong ý muốn
thuần tuý của con người, trong thực thể quốc gia hay chính quyền, nhưng là trong
chính bản thân con người và trong Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người.
Phải bảo vệ các quyền con người không chỉ một cách riêng lẻ mà còn như một
tổng thể: bảo vệ chỉ một phần các quyền này thôi là một cách không công nhận
chúng. Các quyền ấy tương ứng với phẩm giá con người, và trên hết chúng đáp ứng
các nhu cầu căn bản của con người, vật chất cũng như tinh thần của con người.
Những quyền này áp dụng cho mọi giai đoạn của cuộc sống, mọi hoàn cảnh chính
trị, xã hội, kinh tế và văn hoá.
Thông điệp Bách chu niên (Centesimus annus) của Đức Thánh cha Gioan Phaolô II liệt kê một số quyền rất cụ thể: “Quyền được sống”, và phần bổ sung của quyền ấy là quyền của thai nhi được lớn lên trong bụng mẹ từ lúc thụ thai; quyền được sống trong một gia đình hợp nhất và trong một môi trường luân lý giúp phát triển nhân cách của đứa trẻ; quyền được phát huy trí khôn, được tìm biết chân lý;
quyền được chia sẻ công ăn việc làm, được sử dụng các thành quả rút ra từ đó để lo cho bản thân và những người thân; quyền được tự do thành lập gia đình, quyền có
con hoặc hoãn lại bằng việc sinh đẻ có trách nhiệm. Theo một nghĩa nào đó, nguồn
SV: Đặng Huyền Trang 41 Lớp: K60B-QH-2015-L
gốc và tổng hợp các thứ quyền ấy là quyền tự do tôn giáo, được hiểu như là quyền
sống trong chân lý đức tin của mình và phù hợp với phẩm giá siêu việt của một nhân vị” (Gioan Phaolô II, CA, số 47).
Liên kết hết sức chặt chẽ với đề tài quyền lợi là vấn đề nghĩa vụ của con
người. Trong xã hội loài người, quyền của người này là nghĩa vụ cho hết mọi người
khác: cụ thể là nghĩa vụ phải nhìn nhận và tôn trọng các quyền ấy. Khi khẳng định các quyền lợi mà không nhìn nhận các trách nhiệm tương ứng là một sự mâu thuẫn
nội tại.
Phạm vi nhân quyền được mở rộng ra để bao gồm cả quyền lợi của các dân tộc
và các quốc gia. Luật quốc tế dựa trên nguyên tắc phải tôn trọng một cách bình đẳng đối với các quốc gia, đối với quyền tự quyết của mỗi dân tộc và đối với sự hợp
tác tự do nhằm đạt được công ích cao ơn cho cả nhân loại. Hoà bình được xây dựng
không chỉ dựa trên quyền con người, mà còn trên sự tôn trọng các quyền của các
dân tộc, nhất là quyền độc lập (x. ibid. các số 152-157)
Cũng như nhiều tôn giáo nói chung, đối với người phụ nữ ở chừng mực nhất
định nào đó đều được coi là một thực thể không hoàn chỉnh. Nhưng nội dung Thiên
kinh Qur’an và những lời thuyết đạo của Thiên sứ Muhammad cho thấy người phụ
nữ Muslim có giá trị sống như nam giới và bình đẳng với người đàn ông. Hồi Giáo
là một tôn giáo của thế giới, một tôn giáo dạy về ôn hòa, tha thứ, công bằng, danh dự cũng như chủ trương nhẫn nại, khiêm tốn và quân bình. Ngay từ khoảng 1200
năm về trước khi nữ phái Tây Phương còn bị xem là tài sản trao đổi của nam phái
thì Hồi Giáo đã dạy rằng cả đàn ông và đàn bà đều bình đẳng dưới mắt Thượng Đế.
Kinh Koran thật ra không chủ trương bất bình đẳng giữa giới phái cho nên đúng
theo quy luật của Hồi Giáo thì phụ nữ vẫn có quyền lợi tương đương với nam phái.
Đối với nhiều phụ nữ Hồi Giáo, điều nầy mới lạ và vĩ đại chẳng khác gì như một
khải huyền đến từ Thượng Đế.
Tuy nhiên, những người Muslim nhìn nhận còn phiến diện, được hiểu rằng
trong xã hội Hồi giáo thân phận người phụ nữ thấp kém hơn đàn ông? Vì con người áp đặt nhân tính của họ vào các lời dạy thiêng liêng nên họ đã lập ra những luật lệ sai lầm và do đó các luật lệ trên cần phải được sửa đổi. Nếu chỉ dựa lên nhân quyền thuần túy mà thôi thì cuộc tranh đấu cho bình đẳng sẽ không thể thành công. “Nhân quyền” không có ý nghĩa gì mấy đối với đại đa số phụ nữ Hồi Giáo, nhất là ở thôn quê. Tri thức họ đã được huấn luyện thuần thục từ ngày mới sinh ra rằng Kinh
Koran là lời của Thượng Đế, là nền tảng của cách hành sử trong gia đình và xã hội, là khuôn mẫu đạo đức, là luật pháp. Đối với họ, tôn giáo có ảnh hưởng trực tiếp và
SV: Đặng Huyền Trang 42 Lớp: K60B-QH-2015-L
toàn diện lên đời sống trong khi không có Nghị Định nào của Liên Hiệp Quốc hay
bất cứ tổ chức gì có ý nghĩa hay giá trị bằng.
Tóm lại, với một người Muslim là phụ nữ, Allah không đặt nặng trách nhiệm
như đàn ông, bởi người đàn ông là người duy nhất gánh vác trách nhiệm chu cấp, lo
toan bảo đảm cuộc sống không chỉ cho người vợ và cho cả gia đình mà còn có bổn
phận đóng góp tài chính cho hoạt động xã hội. Ngược lại, người phụ nữ chỉ làm phận sự chăm sóc chồng con, nhắc nhở con cháu chuyện học hành, đến thánh đường
dâng lễ nguyện. Không bắt buộc đến thánh đường lễ nguyện tập thể và lễ nguyện
mỗi ngày thứ sáu; không gánh vác, lo toan tài chính cho gia đình… Mặt nữa, phụ
nữ Muslim được nhìn nhận là một sanh linh, có quyền sống và bình đẳng trong sự sống của con người; họ được quyền thừa kế gia sản của cha mẹ để lại mà xã hội
trước kỉ nguyên Hồi giáo, người phụ nữ các dân tộc Ả Rập không có quyền này bởi
chính họ chỉ được xem là một thứ tài sản của đàn ông. Như đã biết, kinh Qur’An
ghi nhận những điều này không chỉ là một dạng thức qui định mà giáo luật Hồi giáo
có tất cả các biện pháp để bảo đảm thực thi như là những điều khoản của đức tin
vào Allah (Thượng đế). Và, Hồi giáo (Islam) không bao giờ dung nạp những con
người có thái độ thành kiến với phụ nữ; luôn lên án thái độ coi thường và coi phụ
nữ thấp kém hơn đàn ông.
Trong xã hội Ấn Độ thời Đức Phật, giai cấp Bà la môn và Sát đế lợi thuộc giai cấp thống trị, giai cấp Thủ đà la và Vệ xá thuộc giai cấp bị trị. Bốn giai cấp này theo
chế độ thế tập, cha truyền con nối. Vì vậy, người dân nô lệ thì cứ đời đời làm nô lệ,
tạo thành một xã hội bất công. Ngay trong buổi hoàng hôn tăm tối của một thực
trạng như vậy, một hiền nhân thuộc dòng dõi vua chúa đã dũng mãnh gióng tiếng
chuông tiên phong phá tan bóng đêm của xích xiềng nô lệ và bức tường phi lí của
phân 48 chia giai cấp bằng một châm ngôn vĩ đại: Không có giai cấp trong dòng
máu cùng đỏ, không có giai cấp trong dòng nước mắt cùng mặn. Lời tuyên bố hùng
hồn ấy của Ðức Phật là nền tảng để hình thành một hệ thống giáo lí, mà trong đó
tính bình đẳng được thể hiện trọn vẹn cả về phương diện lí thuyết lẫn thực tiễn.
Theo Phật giáo, mọi sai biệt trên thế giới này đều tùy thuộc vào các nhân duyên mà sinh khởi; cũng vậy, sự khác nhau về địa vị, hoàn cảnh giàu sang hay nghèo khổ, ngu dốt hoặc thông minh... tất cả đều hoàn toàn do hành vi tạo tác của mỗi con người chứ không phải do tự nhiên hay được sắp đặt theo bất kì một thông lệ hoặc quy định nào. Trên tinh thần này, sự phân chia giai cấp trở thành phi lí và vô
nghĩa. Việc Thái tử Tất Đạt Đa từ bỏ ngôi vị đế vương, quay lưng với tất cả vinh hoa phú quý, khước từ mọi đặc ân cao tột dành cho giai cấp vua chúa, một thân độc
hành với chiếc áo thô sơ, đầu trần chân đất, vân du đây đó... đã thể hiện tinh thần
SV: Đặng Huyền Trang 43 Lớp: K60B-QH-2015-L
bình đẳng tuyệt vời của Ngài. Và cũng chính Ðức Phật, con người với đời sống giản
dị khiêm tốn ấy, đã thể hiện tư tưởng bình đẳng trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sinh. Ngài rải tình thương vô biên xuống tất cả muôn loài một cách công bằng
không phân biệt. Từ người gánh phân, thợ cạo tóc cho đến những người giàu sang
phú quý, từ những người lúc ấy bị coi là thấp hèn ti tiện như gái giang hồ cho đến
các bậc vua chúa quyền uy, Ðức Phật luôn thương yêu, chân tình giúp đỡ, khuyên dạy để họ nhận thức được chân giá trị của cuộc sống và tự thăng hoa tâm hồn, đạt
đến an lạc hạnh phúc. Tư tưởng bình đẳng ấy không phải dừng lại ở nhân loại mà
lan tỏa đến muôn loài vạn vật. Ngài luôn dạy rằng tất cả sinh vật đều có cùng tâm lí
tham sống sợ chết, vì vậy không vì lí do gì mà ta nỡ cướp đi mạng sống của kẻ khác, như vậy nghĩa là không bình đẳng. Tâm trạng buồn nhớ mẹ của một chú cừu
non lạc đàn chẳng khác gì sự đau buồn của một người mẹ phải chia lìa với con thơ
bởi một nguyên nhân nào đó. Và vì vậy, sinh mạng của một con vật cũng quý như
bất kì sinh mạng của một ai. Với quan điểm này, trên bước đường du hóa, có lần
Ðức Phật đã tự tay bế một chú cừu non lạc đàn tìm về với mẹ. Và cũng chính Ngài
đã lên tiếng giải thích và vạch rõ những ngu xuẩn của bọn người vì mê tín dị đoan,
làm lễ tế thần bằng cách hiến dâng những con thú sống, để cứu lấy con vật vô tội
thoát khỏi cái chết hỏa thiêu đau đớn chỉ vì một niềm tin mù quáng. Trong giáo
điển, Phật giáo quan niệm rằng tất cả mọi loài chúng sinh, từ con người cho đến các sinh vật nhỏ bé côn trùng đều tiềm ẩn một khả năng phi thường như nhau, đó là khả
năng thành Phật (Phật tính). Nhưng do các đặc tính cố hữu ở mỗi loài, việc triển
khai khả năng ấy tùy đó mà khó dễ, nhanh chậm khác nhau. Ðiều này có thể tóm ý
trong một câu nói kinh điển: Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành. Ðây
là nền tảng để hình thành tính bình đẳng triệt để trong đạo đức luân lí Phật giáo.
Công bằng thể hiện trong cái nhìn của Đức Phật về con người, đó là con người ai
cũng có Phật tính như ai, cho nên mọi sự phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ,
giai cấp, đều không có nghĩa. Ngài A Nan, đại đệ tử của Đức Phật, đã có một câu
nói triệt để cách mạng với cô thiếu nữ không dám múc nước giếng dâng ngài, sợ bàn tay hạ tiện làm bẩn nước: Tôi xin nước chứ không xin giai cấp. Đó là bác thợ cạo Upali, bị coi là giai cấp hạ tiện thời ấy, được Đức Phật thu nhận và trở thành đại đệ tử, tu đến mức A-la-hán, là mức độ cao trong hàng Phật. Nhưng Phật giáo không nói rằng công bằng là ai cũng ngang nhau, bằng nhau tuyệt đối. Đức Phật thấy ai cũng có Phật tính như ai, nhưng Ngài cũng thấy ai giác ngộ sớm hơn ai. Gặp người
đã chín muồi giác ngộ, dù người đó là tướng cướp, Ngài chỉ dạy thêm một lời là người đó đạt đến mức (chứng) A-la-hán. Và rõ ràng trong hàng đệ tử của Ngài,
không phải ai cũng đạt đến hàng A-la-hán. Ngang nhau nhưng không giống nhau,
SV: Đặng Huyền Trang 44 Lớp: K60B-QH-2015-L
bình đẳng nhưng không đồng đẳng, đó là căn bản của công bằng theo tư tưởng Phật
giáo. Sự phân biệt duy nhất trong Phật giáo giữa người với nhau là sự phân biệt dựa trên khả năng giải thoát, dựa trên đức hạnh.
Tự do: Con người có quyền tự do, không ai được vô cớ tước được tự do của
người khác, không được phân biệt, đối xử bất công, vô nhân đạo với người khác, tất
cả mọi người đều bình đẳng trong thế gian này, không ai bị coi là hèn hạ hơn người khác; Đạo Phật đánh giá con người không theo giai cấp họ sinh ra hay địa vị xã hội,
dòng giống, màu da hay giới tính, mà đánh giá con người theo cách cư xử đạo đức
của họ. Đức Phật dạy con người có quyền bình đẳng tự do không ai được tước đoạt
tự do hay đối xử bất công đối với kẻ khác, dưới thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ chủ trương phân biệt bốn giai cấp: Bà la môn, Sát đế lợi, Vệ xá và Thủ đà la vẫn còn tồn
tại ảnh hưởng đến ngày nay. Đức Phật thì chủ trương bình đẳng bốn giai cấp ấy.
Phật nhìn nhận rằng: Không phải do sinh ra mà thành Bà la môn, không phải do
sinh ra mà thành tiện nhân, trở thành một tiện nhân là do hành vi của mình, trở
thành một Bà la môn là do hành vi của mình. Không có sự kì thị về giai cấp, phái
tính, màu da, tuổi tác nào được giáo lí Phật giáo chấp nhận. Loại trừ những khái
niệm tôn giáo về sự tồn tại của những thế giới bên ngoài sự xác nhận của khoa học
hiện nay, chúng ta không chỉ nhận ra sự tương đồng giữa tư tưởng của Phật giáo về
tự do và bình đẳng, mà chúng ta còn thấy được trong tư tưởng ấy của Phật giáo bao hàm cả phương thức để thúc đẩy và hiện thực hóa tự do và bình đẳng chân thực và
bền vững nhất trong bất cứ xã hội nào. Trên phương diện giải thoát, tất cả con
người đều bình đẳng và công bằng với nhau, ai cũng có thể tu tập được và ai cũng
có thể lĩnh hội tùy theo căn cơ. Sự giáo dục của Phật giáo giúp cho con người đạt
được thánh quả, thành tựu tuệ giác và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Ai cũng có
khả năng ấy, bất luận là nam hay nữ, bất luận là tôn giáo nào, bất luận giai cấp nào,
bất luận địa vị xã hội nào, nếu có lòng quyết tâm và phương pháp hành trì đúng thì
sẽ đạt được Niết bàn trong đời sống hiện tại với sự công bằng không phân biệt.
Khoảng 80% người Ấn Độ tự xem mình là người theo Ấn Độ giáo và người ta cho rằng, có khoảng 30 triệu người theo Ấn Độ giáo sống tại hải ngoại. Thuyết giai cấp đã in sâu vào xã hội Ấn Độ từ lâu đời và mọi người chấp nhận với giai cấp của mình. Ấn độ giáo phân chia xã hội Ấn Độ làm 5 giai cấp. Ai sinh ra trong giai cấp nào thì phải ở mãi trong giai cấp đó suốt đời.
Giai cấp trên hết là các Tăng lữ Bà-La-Môn
Họ tự cho rằng họ được sinh ra từ miệng của Đấng Phạm Thiên (Brahma), nên họ được quyền giữ địa vị tối cao trong xã hội, độc quyền cúng tế Thượng Đế và các
Thần linh.
SV: Đặng Huyền Trang 45 Lớp: K60B-QH-2015-L
Giai cấp thứ nhì là Sát-Đế-Lỵ
Họ được sinh ra từ vai của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp này gồm các bậc vua chúa, quí tộc, trưởng giả, công hầu khanh tướng. Họ nắm quyền cai trị và thưởng
phạt dân chúng.
Giai cấp thứ ba là Phệ-Xá
Họ được sinh ra từ hông của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp này gồm các nhà thương mại, các trại chủ giàu có. Họ nắm kinh tế, chuyên môn mua bán làm ăn với
các từng lớp dân chúng trong xã hội.
Giai cấp thứ tư là Thủ-Đà-La
Họ được sinh ra từ chân của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp này gồm các nông
dân và công nhân nghèo khổ.
Giai cấp thứ năm là Chiên-Đà-La
Đây là giai cấp thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ, gồm các người làm các
nghề hèn hạ như: Ở đợ, làm mướn, chèo ghe, giết súc vật, vv …
Giai cấp Tăng lữ Bà-La-Môn dựa vào thế lực tôn giáo để củng cố địa vị và
quyền lợi của họ. Họ tìm đủ phương pháp để bảo hộ và duy trì chế độ giai cấp,
nương theo thần thoại, chế ra Luật pháp Manu, kỳ thị giai cấp, không cho gả cưới
giữa 2 giai cấp khác nhau.
Sự bất công giữa nam và nữ trong xã hội Ấn Độ cũng là vấn đề nan giải. Người nữ phải chịu những bất công từ gia đình cho đến xã hội. Ở nhà phải thờ cha
mẹ, chăm lo gia đình, thờ cha mẹ chồng, lo cho chồng con, an phận thủ thường,
không được can dự vào những việc chính sự cũng như xã hội.
2.2.4. Quyền tự do dân chủ tín ngưỡng tôn giáo Theo Điều 18 UDHR, mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và
tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín
ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ
cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng
hoặc nơi riêng tư. ICCPR cụ thể hóa nội dung của Điều 18 UDHR, theo Điều 18 ICCPR: Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành hoặc truyền giảng. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại
đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ.
Bình luận chung số 22 của HRC thông qua tại phiên họp lần thứ 48 năm 1993
nói rõ, quyền tin hoặc theo một tôn giáo hay tín ngưỡng bao gồm quyền tự do lựa
SV: Đặng Huyền Trang 46 Lớp: K60B-QH-2015-L
chọn một tôn giáo hay tín ngưỡng để tin hoặc theo, kể cả việc thay đổi niềm tin từ
tôn giáo, tín ngưỡng này sang tôn giáo, tín ngưỡng khác, hay thay đổi niềm tin từ vô thần sang hữu thần và từ hữu thần sang vô thần, không chỉ được áp dụng với những
tôn giáo lâu đời hoặc những tôn giáo có tính chất thể chế, mà còn đối với những tín
ngưỡng hoặc những tập tục truyền thống tương tự như tín ngưỡng; cấm cưỡng ép
tin, theo, bỏ hay thay đổi tôn giáo, tín ngưỡng, kể cả bằng những chính sách hay tập quán nhằm gây sức ép để đạt mục đích đó như hạn chế sự tiếp cận với các dịch vụ
giáo dục, y tế, việc làm hoặc hạn chế các quyền khác được quy định trong ICCPR.
Đồng thời, nghiêm cấm các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng có mục đích hoặc tính
chất tuyên truyền cho chiến tranh hoặc hận thù dân tộc, tôn giáo hay kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch hoặc bạo lực.
Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm quyền tự do đối với việc
giữ tín ngưỡng, bao gồm quyền tự do suy nghĩ về tất cả các vấn đề, niềm tin cá nhân
đối với những tôn giáo hay tín ngưỡng, không thể bị đình chỉ thực hiện trên thực tế,
thậm chí trong những thời điểm khẩn cấp quy định trong Điều 4 ICCPR.
Do đó bất kì xu hướng nào có tính chất phân biệt chống lại các tín ngưỡng
hoặc niềm tin khác với bất kì lí do gì, bao gồm những tín ngưỡng tôn giáo mới được
thiết lập hoặc có tính chất thiểu số mà có thể phải chịu thái độ thù địch của những
tín đồ của các tôn giáo chiếm ưu thế, đều được coi là vi phạm quyền này.
Không cho phép có bất kì giới hạn nào đối với quyền tự do tư tưởng và tín
ngưỡng hoặc với quyền tự do được tin theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng, những
quyền tự do này được bảo vệ một cách không điều kiện, không ai bị ép buộc nói ra
suy nghĩ của mình hoặc bị bắt buộc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào đó. Mọi
người có quyền tự do thể hiện tín ngưỡng hoặc niềm tin thông qua các hành động
thờ cúng, lễ hội tôn giáo, giảng dạy, thực hành giáo lí. Cho phép hạn chế quyền tự
do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng với điều kiện những hạn chế đó được quy định
trong pháp luật và cần thiết để bảo vệ sự an toàn, trật tự, sức khỏe hoặc đạo đức của
xã hội hoặc các quyền và tự do cơ bản của người khác.
Về các lời răn trong Kinh Koran về cách đối xử với những kẻ ngoại đạo. Kinh Koran, được truyền tụng là đã được Tiên Tri Muhammad cảm nhận lời Thượng Đế Allah và đã được tín đồ ghi chép lại. Theo Hồi Giáo, Allah là đấng sáng tạo của vũ trụ.
Dưới đây chỉ là một vài thí dụ trong kinh Koran cho thấy Allah chủ trương
tiêu diệt những kẻ “ngoại đạo”, tức là bất cứ ai không tôn thờ hay tuân phục giáo điều của Allah:
“Những kẻ ngoại đạo sẽ bị đốt cháy bằng lửa”. 2:39, 90
SV: Đặng Huyền Trang 47 Lớp: K60B-QH-2015-L
“Nếu gặp những kẻ ngoại đạo ở bất cứ nơi đâu, hãy giết chúng. Nếu chúng tấn
công ngươi, hãy giết chúng. Đó là phần thưởng dành cho những kẻ ngoại đạo. (Tuy nhiên nếu chúng từ bỏ đạo của chúng thì đừng giết chúng”. 2:191-192
“Những kẻ ngoại đạo sẽ bị trừng phạt vĩnh viễn bằng lửa. Khi lớp da nầy của
chúng cháy đi hết thì một lớp da mới sẽ được mọc ra lại”. 4:46
“Không được làm bạn với những kẻ ngoại đạo. Khi gặp những kẻ ngoại đạo ở
bất cứ nơi đâu hãy giết chết chúng”. 4:89
“Hãy giết chết những kẻ tôn thờ hình tượng ngoại đạo khi thấy chúng ở bất cứ
nơi nào”. 9:5
Đây là những lời dạy của Allah, một Thượng Đế tối cao và tuyệt đối, đến tín đồ Hồi Giáo. Những lời dạy nầy rất rõ ràng, dễ hiểu và lập đi lập lại nhiều lần trong
Kinh Koran. Không có cách giải thích hay biện hộ nào có thể pha loãng hay bẻ cong
ý nghĩa của các mệnh lệnh tối thượng trên. Cũng không thể biện luận rằng “Kinh
Koran thật ra không chủ trương thù nghịch với kẻ ngoại đạo, chỉ vì người ta diễn
dịch sai lầm lời dạy của Allah mà thôi”; vì nếu như vậy thì toàn bộ Kinh Koran có
thể chỉ do sự diễn dịch hay chế biến bởi con người và do đó không còn có giá trị gì
nữa.
Vấn đề được đặt ra ở đây là những lời dạy cực đoan dạng trên không chỉ hiện
hữu trong Hồi Giáo mà còn trong các tôn giáo độc thần khác. Thí dụ như trong chính Kito Giáo.
Theo tín ngưỡng Kito Giáo thì hai bộ Cựu Ước và Tân Ước của Kinh Thánh
cũng được xem là lời của Thiên Chúa, đấng sáng tạo của vũ trụ, đã truyền phán cho
con người.
Dưới đây là vài thí dụ trong Kinh Thánh cho thấy Thiên Chúa cũng chủ trương
tiêu diệt những kẻ ngoại đạo:
– Cựu Ước: Ðệ Nhị Luật 6:14-15
Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân
chung quanh anh em. Vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng ở giữa anh (em), là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và tiêu diệt anh (em), không còn cho sống trên mặt đất.
– Cựu Ước: Ðệ Nhị Luật 13:7-10 Nếu người anh em của anh (em), con của mẹ anh (em), hoặc con trai con gái
anh (em), hoặc người vợ anh (em) âu yếm, hoặc người bạn anh (em) coi như chính mình, lén lút rủ rê anh (em): "Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác" những thần
mà anh (em) và cha ông anh (em) không biết, trong số các thần của những dân ở
SV: Đặng Huyền Trang 48 Lớp: K60B-QH-2015-L
chung quanh, gần hay xa anh (em), từ đầu đến cuối xứ,thì anh (em) đừng ưng thuận,
đừng nghe nó, đừng nhìn nó mà thương hại, đừng xót thương, đừng bao che nó;
Trái lại, nhất định anh (em) phải giết nó. Anh (em) phải là người đầu tiên tra
tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau.
Anh (em) phải ném đá cho nó chết, và nó phải chết vì đã tìm cách lôi cuốn anh
(em) xa Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai- cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngay trong Tân Ước, một quyển kinh mà tín đồ Thiên Chúa Giáo cho rằng
chủ trương tình thương và hòa bình, cũng mang đầy những lời răn tương tự. Thí dụ
như:
– Tân Ước: Thư Thứ Hai Gửi Tín Hữu Thessalonikê 1:7-9
Và cho anh em, những kẻ phải gian truân, được phúc thanh nhàn với chúng tôi
vào thời mạc khải tự trời của Chúa Yêsu với các Thiên Thần của quyền năng Ngài,
dùng ngọn lửa hỏa hào đoán phạt những kẻ không biết Thiên Chúa, và không vâng
phục Tin Mừng của Chúa chúng ta, Ðức Yêsu. Những kẻ ấy sẽ bị án hư đi đời đời,
xa mặt Chúa và xa cách vinh quang quyền lực của Ngài
– Tân Ước: Khải Huyền Của Yoan 14:9-11
Rồi một Thiên thần khác nữa, vị thứ ba, tiếp đến sau các vị trước, mà hô lớn
tiếng: "Phàm ai thờ lạy Mãnh thú và tượng của nó, cùng chịu thích tự trên trán hay nơi tay mình, thì sẽ phải uống rượu lôi đình của Thiên Chúa không pha, rót đầy
chén thịnh nộ của Người. Nó sẽ bị hành hình trong lửa diêm sinh, trước mặt các
thánh Thiên thần và trước mặt Chiên Con.
Và khói hình phạt chúng cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp. Ðêm ngày chúng không
hề được an nghỉ, những kẻ thờ lạy Mãnh thú và tượng của nó làm một với kẻ nào đã
chịu thích tự tên nó.
– Tân Ước: Thư Thứ Hai Của Thánh Phêrô 3:5-7
Vì những kẻ dám quyết như thể không nhận biết rằng: Xưa kia trời và đất đã
ngoi lên tự nước và nhờ nước, bởi Lời Thiên Chúa,rồi cũng vì các duyên do ấy mà thế gian thời bấy giờ đã bị hủy diệt dìm dưới nước lụt.
Còn trời và đất bây giờ đây, thì do cũng một Lời ấy mà được tàng trữ lại dành
cho lửa vào ngày phán xét và diệt vong của phường vô đạo.
Trong lịch sử, Giáo Hội Công Giáo La Mã đã nhiều lần cho thấy họ áp dụng
những lời dạy trong Kinh Thánh kể trên. Dưới đây là một vài thí dụ:
– Cuộc Thánh Chiến (1095-1291) đã được chủ động bởi Hội Thánh và đã dẫn đến việc vô số người Hồi Giáo bị tàn sát. Ngay cả những tín đồ Thiên Chúa Giáo
SV: Đặng Huyền Trang 49 Lớp: K60B-QH-2015-L
người Byzantium (trong cuộc Thánh Chiến Thứ Nhất) chỉ vì họ có da sậm màu và
có một ngôn ngữ khác cũng bị xem là thù địch trong thời gian nầy.
– Cuộc Hạch Sát (The Inquisition) kéo dài gần 700 năm (1180-1850) cũng là
một chiến dịch tàn sát một cách có hệ thống toàn bộ và hiệu quả để tiêu diệt tất cả
những ai dám chống đối lại quyền thế của Tòa Thánh La Mã.
– Trong thời kỳ khám phá và bành trướng của các cường quốc Âu Châu, từ Columbus cho đến Cook và những nhà truyền giáo đi theo họ đã dùng những lời
dạy trong Kinh Thánh kể trên để hợp thức hóa việc đàn áp, khủng bố và tiêu diệt tất
cả những nền văn hóa và những tôn giáo bản xứ để truyền bá Thiên Chúa Giáo. Cứ
nhìn vào lịch sử nước Mỹ về thổ dân da đỏ, lịch sử nhiều nước Nam Mỹ cũng như các quốc gia trên các quần đảo ở Thái Bình Dương thì sẽ thấy. Gần gũi nhất với
chúng ta trong lịch sử Việt Nam, các nhà truyền giáo cũng dưới chỉ thị của Tòa
Thánh La Mã đã cấu kết với thực dân Pháp với chủ trương “một tay cầm thánh giá,
một tay cầm súng” để truyền bá Thiên Chúa Giáo.
Đó là chưa kể những cuộc tàn sát lẫn nhau kéo dài hàng trăm năm (thế kỷ 16)
giữa các tín đồ Thiên Chúa Giáo với nhau (Công Giáo và Tin Lành) vì nhóm nầy
cho rằng nhóm kia đã “không hiểu đúng nghĩa và thực hành đúng theo Kinh
Thánh”.
Trong khi phán đoán về vấn đề nầy chúng ta cần phải nhớ rằng những lời răn dạy trên phản ảnh tư tưởng và tiêu chuẩn đạo đức của văn hóa Trung Đông cách nay
hơn hai ngàn năm. Đó là một thời kỳ nhiễu loạn khi nền an ninh của xã hội và mạng
sống con người luôn luôn bị đe dọa từ mọi phía. Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo đều
cùng xuất phát từ một cái nôi Trung Đông. Bạo động ở thời điểm đó là phản ứng tự
nhiên và phương cách hiễn nhiên để chống trả lại những hiểm họa bạo động khác.
Vấn đề là cái di sản tinh thần nầy vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay qua một vài
tác phẩm tôn giáo quan trọng, trong trường hợp nầy là Kinh Thánh và Kinh Koran.
Ngày nay, khi văn hóa và nhân bản của thế giới nói chung đã tiến triển đến
trình độ hiện tại thì nhiều người có khuynh hướng phê phán rằng nền tảng của Thiên Chúa Giáo lẫn Hồi Giáo là các tư tưởng bạo động, man rợ và lỗi thời. Tuy nhiên nếu nhìn kỹ vào lịch sử cận đại chúng ta sẽ thấy một sự khác biệt khá rõ rệt giữa hai tôn giáo trong phương diện nầy.
Trong Phật giáo, thông qua hệ thống kinh điển, Đức Phật đã tạo cho con người có đầy đủ quyền tự do suy nghĩ mà không bị phụ thuộc vào quan niệm hay hỗ trợ
của một vị thần, một vị Phật hay là bất kì một vị đạo sư nào khác để hiểu được chân lí giải thoát. Theo một số tư tưởng gia phương Tây, Phật giáo được coi là một tôn
giáo của tự do và lí trí. Tuy nhiên, tự do ấy được lí trí hướng dẫn, soi sáng để tránh
SV: Đặng Huyền Trang 50 Lớp: K60B-QH-2015-L
việc con người sẽ lạm dụng sự tự do đó. Chẳng hạn, nếu một chính phủ cho phép
công dân của họ quyền tự do hoàn toàn được sống và làm bất cứ điều gì theo ý chí của họ, thì chắc chắn rằng họ có thể hủy hoại toàn bộ đất nước và sự ổn định của xã
hội. Phật giáo coi đó là sự hiểm nguy của việc thực hiện quyền tự do mà không phát
huy lí trí trong tâm thức con người; chúng ta biết rằng không có một sự tu tập, huấn
66 luyện và hướng dẫn thích hợp thì việc sử dụng tự do ý chí đó có thể đưa đến những hậu quả tai hại. Một đứa trẻ có thể có tự do ý chí, nhưng nó cần được dạy dỗ
không nên chơi với một đường dây dẫn điện.
Đức Phật nhấn mạnh rằng tự do ý chí không phải là một món quà từ bất kì một
động lực bên ngoài nào. Đó là bản năng tự nhiên của con người, những đặc tính này không phải là do một ai ban phát, nó cần được hiểu như một kiểu quyền tự nhiên.
Tôn giáo hướng dẫn và chỉ đạo cách tư duy của con người bằng cách đưa ra
những sự chỉ dẫn thích hợp. Mục đích của tôn giáo là nhằm giúp cho con người tu
tập, rèn luyện tâm thức để có thể phát huy sự hiểu biết và hành động theo tinh thần
trách nhiệm luân lí đạo đức. Con người làm thiện, làm việc có lợi ích bởi vì anh ta
“biết” rằng đó là việc đúng, việc tốt phải làm, chứ không phải là vì anh ta muốn
tránh sự trừng phạt hoặc là muốn nhận được sự tưởng thưởng. Tôn giáo là một sự
trợ giúp để phát triển cá nhân thăng hoa trong cuộc sống.
Tư tưởng Phật giáo khuyến khích, nhắc nhở không nên lệ thuộc vào bất kì một người nào khác. Nếu con người ngưng làm những điều ác, điều đồi bại, đê tiện, ích
kỉ, không suy nghĩ những điều ác, điều xấu, ích kỉ chỉ vì sợ rằng sẽ bị ai đó trừng
phạt, thì con người sẽ không bao giờ tạo hành vi luân lí mà không đề cập đến thiên
đường hay địa ngục. Đây là tính nhất quán trong giáo lí của Đức Phật.
Đức Phật còn muốn tu tập nhân bản theo một số giới luật mang đầy bản chất
luân lí, đạo đức nhất định, nhằm để trau dồi nhân cách con người. Điều này có thể
đạt được mà không cần phải viện đến những sự cám dỗ do những lời hứa hẹn của
thiên đường hoặc là sự đe dọa lửa nơi địa ngục cung cấp. Đó là lí do giải thích tại
sao Phật giáo được xem như là một tôn giáo tự do và lí trí. Đức Phật khuyến khích chúng ta hãy học tập với một tâm hồn cởi mở để khảo sát và tìm hiểu thế giới. Chúng ta không nên lập tức chấp nhận những gì chỉ là tín ngưỡng hay niềm tin. Tư tưởng Phật giáo chỉ ra rằng: Không nên chấp nhận bất cứ điều gì chỉ là niềm tin bởi vì nó sẽ tạo ra cho chúng ta khó khăn trong việc tìm hiểu sự thật, và bởi vì niềm tin đó có thể khiến cho bạn trở thành một tín đồ mù quáng. Loại niềm tin mù quáng này
có thể đưa đến sự cuồng tín tôn giáo. Con người phản ứng theo bản năng tình cảm đối với thẩm quyền tôn giáo hơn là quyết định một cách có lí trí liệu điều đó đúng
hay sai bởi vì họ chưa biết được tri thức phân tích trong tâm họ để hiểu tại sao họ
SV: Đặng Huyền Trang 51 Lớp: K60B-QH-2015-L
nên giữ gìn một số việc hành trì giới luật nhất định và tại sao họ nên tránh xa những
hành động phi luân lí.
Phật giáo quan niệm không nên truyền bá tôn giáo thông qua sự thưởng phạt
mà không cho phép con người có được sự hiểu biết đúng đắn. Nếu cố gắng truyền
bá tôn giáo thông qua sự thưởng phạt, thì con người sẽ không hiểu giá trị chân thật
và mục đích chính của tôn giáo. Đó là lí do tại sao trong Phật giáo không có sự đe dọa của sự trừng phạt tôn giáo. Trách nhiệm của tôn giáo là phải hướng dẫn, giáo
dục và giác ngộ nhân loại. Trừng phạt là trách nhiệm của pháp luật của quốc gia.
Tôn giáo không nên đảm trách vai trò của pháp luật nhằm trừng phạt con người.
Nếu không, sẽ xuất hiện sự sợ hãi mà không có một sự hiểu biết đúng đắn. Đây là bản chất của giáo lí Đức Phật và tại sao chúng ta xem Ngài như là một nhà tư tưởng
tự do.
Tư tưởng của Đức Phật về chọn lựa một tôn giáo là nên tránh những gì mang
tính chất truyền thuyết hoặc là nghe nói suông. Người ta thường nói về tất cả những
mẩu chuyện thú vị hấp dẫn về những đấng quyền năng siêu nhiên, về bậc đạo sư của
họ, bậc thầy, những nghi thức hành trì tôn giáo, nam thần và nữ thần v.v… Họ
cường điệu và nhân cách hóa những sự kiện hoặc những mẩu chuyện và đến bảo
chúng ta chấp nhận niềm tin của họ. Lời khuyên của Đức Phật là không nên chấp
nhận những gì họ nói mà không xem xét chúng một cách thận trọng. Chúng ta có lí trí của một con người bình thường để suy nghĩ nhưng bởi vì những nhược điểm của
mình, chúng ta không tạo ra cơ hội để cho lí trí đó suy nghĩ mà không mang thành
kiến, thiên vị. Đức Phật khuyên chúng ta không nên chấp nhận bất cứ điều gì mà
không cân nhắc kĩ lưỡng mỗi lời tranh luận, để tránh mắc sai lầm một cách vội
vàng.
Phật giáo nhắc nhở không nên phụ thuộc vào bất kì một bộ thánh điển nào mà
không nghiên cứu nó một cách chính xác. Mỗi tôn giáo thường cho rằng thánh điển
của tôn giáo họ là đúng và của những người khác tôn giáo là sai. Họ cũng nói rằng
đó là một bức thông điệp từ thiên đường, được ghi nhận bởi thẩm quyền tôn giáo của họ và chúng ta phải chấp nhận nó mà không cần 69 phải chất vấn, kiểm nghiệm. Lời khuyên của Đức Phật là không nên chấp nhận bất cứ điều gì được ghi lại trong những bộ thánh điển mà không xem xét chúng cẩn thận. Đức Phật tôn trọng khả năng lí trí của con người. Đó là Ngài đã tạo cho ta biết bao tự do để theo đuổi một tôn giáo!
Theo quan điểm Phật giáo, người ta có thể ghi lại bất cứ điều gì trong kinh sách của họ và sau này giới thiệu những lời ghi lại ấy như là những bộ thánh điển
với những bức thông điệp từ thiên đường. Con người chấp nhận những ghi nhận ấy
SV: Đặng Huyền Trang 52 Lớp: K60B-QH-2015-L
mà không cần chất vấn. Những nhà lãnh đạo tôn giáo dùng quyền uy của họ để
kiểm soát, điều khiển con người. Họ đưa ra những quan điểm tôn giáo được làm sẵn. Do vậy, họ truyền trao những quan điểm của mình cho những người khác và
buộc họ phải chấp nhận và tin theo. Do đó, con người ta không có được cơ hội để sử
dụng ý thức thông thường hoặc là khả năng lí trí của họ để hiểu sự vật một cách
chính xác.
Lời khuyên tiếp theo của Đức Phật là không nên chấp nhận bất cứ điều gì
thông qua suy luận. Mặc dù khuyên rằng không nên chấp nhận điều gì mà không có
lí trí, Đức Phật nói rằng không nên sử dụng duy lí trí. Suy luận có sự hạn chế, trẻ
em cũng có thể suy luận theo cách suy nghĩ riêng của chúng. Chúng ta cũng có thể suy luận những vấn đề nhất định nào đó trong khả năng tư duy của chúng ta. Khi
chúng ta so sánh sự suy luận của chúng ta với sự suy luận của những tư tưởng gia vĩ
đại hoặc là của những khoa học gia, thì lúc đó dưới cặp mắt của những nhà trí thức
uyên thâm này, sự suy luận của chúng ta không chính xác. Khi chúng ta so sánh sự
suy luận của những bậc trí thức uyên thâm với cách suy luận của những bậc đạo sư
đã giác ngộ thì chúng ta có thể thấy sự suy luận của những bậc trí thức này cũng
không hoàn hảo.
Đó là lí do tại sao Đức Phật nói rằng: Hãy chấp nhận chân lí nằm trong khả
năng của bạn chứ không nên lập tức cho rằng đó là chân lí tuyệt đối. Hãy để cho tâm thức bạn suy luận một cách tự do. Hãy tạo điều kiện cho tâm thức phát triển,
tăng trưởng. Không nên khép cửa tâm thức ngay lập tức. Những gì bạn đã chấp
nhận sau này có thể thay đổi theo những kinh nghiệm và sự hiểu biết chín chắn và
đúng đắn, chính xác.
Phật giáo cũng khuyên rằng không nên chấp nhận điều gì thông qua sự tranh
luận mang tính lô-gic. Sự tranh luận phụ thuộc vào khả năng, kiến thức, kĩ năng và
thái độ chứ không phụ thuộc vào sự kiện và chân lí. Sự tranh luận hoàn toàn có thể
làm phát sinh tình cảm và tự ngã. Những tư tưởng ấy của Phật giáo hoàn toàn thể
hiện sự tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo của phật tử nói riêng và mọi con người trên thế giới.
SV: Đặng Huyền Trang 53 Lớp: K60B-QH-2015-L
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT KHÁI QUÁT TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUAN
ĐIỂM TÔN GIÁO VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
3.1. Tác động tích cực trong các quan điểm tôn giáo về quyền con người
3.1.1 Nền văn hóa nhân quyền Theo định nghĩa của UNESCO đưa ra vào năm 1994, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng thì văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện
mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một
cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ
bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…; còn hiểu theo
nghĩa hẹp thì văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (kí hiệu) chi phối cách
ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng.
Một cách chung nhất thì văn hóa nhân quyền là một tổng thể phức hợp hệ
thống khái niệm về quyền con người được sử dụng chung, chi phối cách ứng xử và
giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cho các cộng đồng vừa mang tính chung vừa
mang tính đặc thù riêng.
Theo đó, tổng thể phức hợp những khái niệm về quyền con người được sử
dụng chung đề cập đến các bình diện: (1) Tăng cường sự tôn trọng quyền con người và tự do cơ bản của con người; (2) Phát triển toàn diện nhân cách và hiểu biết về sự
tôn nghiêm của nhân cách; (3) Tăng cường hiểu biết và sự khoan dung, bình đẳng
giới, tình hữu nghị của các dân tộc, dân bản xứ, giữa các nhóm nhân chủng, dân tộc,
sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ; (4) Đảm bảo để mọi công dân đều có khả năng tham gia
hiệu quả vào xã hội tự do và dân chủ trong khuôn khổ pháp luật; (5) Xây dựng và
gìn giữ hòa bình; (6) Đẩy mạnh được sự phát triển, duy trì được vị trí con người là
trung tâm và chính nghĩa trong xã hội.
Xây dựng một văn hóa nhân quyền hướng đến việc tăng cường tính bất phân
chia và phổ biến của quyền con người, đẩy mạnh sự đa dạng và phản đối sự phân biệt đối xử đối với mọi sự khác biệt, bên cạnh đó tăng cường phân tích đến quyền con người bao gồm cả nghèo đói và bất bình đẳng, trao quyền cho xã hội khu vực và cá nhân tự làm rõ quyền con người. Trên cơ sở nguyên tắc về con người bắt nguồn từ tình trạng văn hóa khác nhau, thúc đẩy việc sử dụng các văn bản về quyền con người và các cơ quan liên quan ở mọi cấp từ địa phương đến quốc tế.
Việc sáng tạo và xây dựng một văn hóa nhân quyền phong phú trên thế giới chính là mục tiêu của giáo dục quyền con người và văn hóa nhân quyền ở đây có
thể có hai mặt. Mặt thứ nhất là tính đặc trưng riêng, tính độc đáo của quyền con
SV: Đặng Huyền Trang 54 Lớp: K60B-QH-2015-L
người thể hiện ở khái niệm về quyền con người khác nhau bắt nguồn từ mỗi vùng
đất và con người, là giá trị ưu tiên liên quan đến tính tôn nghiêm của con người, là cách nắm bắt sự vi phạm quyền con người; mặt này được gọi là văn hóa nhân quyền
trong thế giới hàng ngày (tính riêng - đặc thù của văn hóa nhân quyền). Mặt thứ hai
là tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở tiêu chuẩn đã được nhất trí, xác lập
trên trường quốc tế về quyền con người; mặt này được gọi là văn hóa nhân quyền thế giới (tính chung - phổ biến của văn hóa nhân quyền). Những điều được thể hiện
trong mục tiêu và nguyên tắc của Chương trình thế giới chính là văn hóa nhân
quyền thế giới.
Mục tiêu mà Chương trình thế giới về nhân quyền hướng đến là giáo dục quyền con người trên cơ sở văn hóa nhân quyền thế giới, cụ thể là những nguyên
tắc cơ bản về quyền con người đã được quốc tế nhất trí. Việc giáo dục quyền con
người bao gồm hai hướng, một là từ dưới lên (từ địa phương), hướng ngược lại từ
quốc tế hướng xuống từng cá nhân. Chương trình thế giới về nhân quyền đặc biệt
nhấn mạnh tới việc hiện thực các tiêu chuẩn nhân quyền đã được xác lập, hướng
đến mục tiêu làm cho những tiêu chuẩn ấy được ý thức hàng ngày và trở thành hiện
thực đối với từng con người cụ thể để vận dụng hiệu quả vào cuộc sống thực tiễn
hàng ngày ở từng địa phương.
Nhân quyền là thành tựu chung của cả loài người, là kết tinh của nền văn minh nhân loại. Một xã hội muốn được coi là dân chủ, công bằng, văn minh thì trước hết
trong xã hội đó phải tôn trọng quyền con người. Quyền con người cũng được xác
định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ.
Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp
dụng với con người, và cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi
thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều
kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Mặc
dù còn tồn tại cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, song một điều rõ ràng
là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
Ngày nay trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa cũng như sự phát triển nhảy vọt của các phương tiện thông tin, đặc biệt là Internet, giới trẻ có thể tiếp nhận nhanh chóng các trào lưu văn hóa cũng như cách sống, cách ứng xử và cả những phong tục đã trở thành nếp sống của giới trẻ ở nhiều nước.
Có thể nói giáo dục nhân quyền là nền tảng đồng thời là một trụ cột chính của phát triển con người và cũng là một mục tiêu cơ bản trong các mục tiêu phát triển
thiên niên kỉ. Giáo dục là một quyền con người cơ bản, hướng tới phát triển đầy đủ
SV: Đặng Huyền Trang 55 Lớp: K60B-QH-2015-L
nhân cách con người, thúc đẩy sự tôn trọng tất cả các quyền và tự do cơ bản, cũng
như tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các quốc gia. Ngay từ gia đình phải giải quyết ngay các vấn đề bất bình đẳng, nạn bạo lực gia đình, tệ phân biệt đối
xử nhằm xây dựng một nền văn hóa nhân quyền và an ninh cho con người. Sự phổ
biến nhân quyền giúp mọi người tôn trọng, không phân biệt đối xử với các sắc dân,
người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em, người lớn tuổi, dân tộc thiểu số, vấn đề tình dục, và người di cư.
Vi phạm nhân quyền một phần nguyên nhân là do trình độ thấp, chính là hậu
quả của nội dung đào tạo không phù hợp và chất lượng kém. Giáo dục chất lượng
cao là nhân tố quan trọng để nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh trong quá trình thực thi và duy trì nhân quyền. Cần cải thiện chất lượng giáo dục, đảm bảo
việc tiếp cận dễ dàng và phù hợp nhu cầu người dân. Giáo dục để phát triển con
người cũng như phục vụ sự phát triển của quốc gia.
Một nền văn hóa lành mạnh chỉ có thể khi được đặt trong một hệ thống xã hội
lành mạnh. Trong đó, phải xây dựng được những người lãnh đạo, với tấm gương
sáng về nhân cách và trí tuệ là nhân tố quan trọng cho việc định hướng dân tộc trên
con đường phát triển, xây dựng một môi trường văn hóa để nuôi dưỡng cho những
giá trị dân tộc.
Xây dựng nền văn hóa nhân quyền không thể tách rời với xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, giáo dục, xây dựng nền tảng đạo đức dân tộc và tinh
thần độc lập tự chủ của dân tộc.
3.1.2 Tác động tích cực trong tư tưởng của các Tôn giáo cần được phát huy Xây dựng một nền văn hóa nhân quyền, mục tiêu là làm cho những chuẩn mực
nhân quyền thực sự thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển của nhân loại.
Vì vậy, cần ưu tiên xây dựng một nền trật tự đạo đức, dựa vào một số nguyên
lí căn bản nhân đạo, được cộng đồng thế giới chấp nhận. Và đối với vấn đề hiện đại
này, các tôn giáo với truyền thống là hướng tới hòa bình, có thể đóng góp những giá trị nhất định. Đó chính là sự nghiên cứu, tìm hiểu, nhìn nhận, khơi gợi, thúc đẩy, bảo vệ những giá trị tích cực trong tư tưởng của các tôn giáo đã gắn bó, hòa quyện với văn hóa thế giới và tồn tại trong đời sống của toàn nhân loại từ bao đời nay.
Các thiếu sót cơ bản của con người hiện đại của chúng ta là chiều hướng đánh mất con người thật của mình, và chạy theo cái Ta giả với những khao khát, thèm
muốn cuồng loạn, không bao giờ có thể thỏa mãn. Với một nếp sống văn minh vật chất rất cao, con người hiện đại sống một đời sống vật chất rất phong phú. Nhưng
đời sống tinh thần và nguyện vọng tâm lí của con người không được thỏa mãn và bị
SV: Đặng Huyền Trang 56 Lớp: K60B-QH-2015-L
dao động. Con người hiện đại luôn luôn có cảm giác bất an dao động và dễ mất cân
bằng. Với một tâm lí như vậy rất dễ hướng dẫn nhiều người đi đến cách giải quyết tiêu cực cho bản thân và xã hội.
Cần nhìn nhận rằng các tôn giáo không ca ngợi một đời sống túng thiếu nghèo
đói và khổ hạnh. Các tôn giáo cũng không đề cao một đời sống chạy theo dục vọng
vật chất. Các tôn giáo luôn luôn đề cao an lạc và hạnh phúc tinh thần, một đời sống có đạo đức cao đẹp hướng thượng, một sự hạnh phúc rạng rỡ giác ngộ và giải thoát.
Các giáo khuyến khích mọi người trở về với con người thật của chính mình, với bản
tính chân thật của chính mình, hướng tới đời sống hòa hài với xã hội, hòa hài với
thiên nhiên, giữa thân với tâm, giữa từ bi với trí tuệ, giữa cảm giác với lí trí. Các tôn giáo xác nhận mọi người đều có thể thành tựu một đời sống nội tâm hài hòa như
vậy, nếu con người ước muốn và hành động theo giáo lí của tôn giáo mình, phù hợp
với một nếp sống đầy đủ giới hạnh và trí tuệ. Một đời sống tránh xa hai sự cực
đoan, một bên là hưởng thụ các dục hèn mọn, một bên là hành hạ xác thân, hành trì
khổ hạnh; một nếp sống chói sáng trong suốt, hướng thượng, giới hạnh cao đẹp, một
nếp sống mà mọi người, từ phương Đông, phương Tây, nam và nữ, trẻ và già, xuất
gia hay tại gia đều có thể sống và hướng đến.
Một đời sống đạo đức như vậy sẽ đem lại thiền định nội tâm, và một thiền
định nội tâm như vậy sẽ bảo đảm sự sáng suốt của trí tuệ, và một người có trí tuệ có thể nhìn sự vật như Thật (như vốn có). Chính nhờ thái độ như vậy, con người có
khả năng làm chủ bản thân, làm chủ sự vật khách quan, chứ không phải nô lệ cho
chúng.
Phương châm hướng nội, quay về với chính mình, với con người thật của
mình, không được hiểu lầm là tôn giáo kêu gọi một nếp sống tiêu cực chán đời và
phi xã hội. Trái lại, đó là phương châm thiết thực, sống động và tích cực để cải tạo
xã hội và thế giới. Các tôn giáo chủ trương rằng con người phải bắt đầu với chính
mình, làm cho con người hoàn toàn ý thức được chính mình, con người phải hiểu
chính mình, tự hoàn thiện mình, tự cải tạo mình cho được tốt đẹp hơn, trong một sự chiến đấu không mệt mỏi, trong từng giờ trong từng ngày, trong toàn bộ cuộc sống của mình. Chỉ có như vậy xã hội và thế giới mới trở thành lành mạnh hơn, tốt đẹp hơn và hiền thiện hơn. Nếu không có con người lành mạnh, làm sao chúng ta chờ đợi một sự quan hệ xã hội lành mạnh, thật sự đạo đức, hiền thiện và cao đẹp. Nếu những tư tưởng hòa bình, hạnh phúc, hòa hợp không thấm nhuần sâu đậm vào trong
nội tâm của mỗi con người, thì làm sao có thể chờ đợi một thế giới hòa bình, hạnh phúc và hòa hợp.
SV: Đặng Huyền Trang 57 Lớp: K60B-QH-2015-L
Tư tưởng của các tôn giáo trân trọng mạng sống, hình hài và trí óc của con
người thông qua hình ảnh để được làm một con người thật khó, rất khó. Quý trọng thân mạng của con người nhất định cũng chính là nền tảng, là cơ sở vững chắc cho
sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Đối với việc tôn trọng và thúc đẩy quyền con người: Người nghiên cứu, tìm
hiểu tư tưởng của các tôn giáo sẽ trân trọng và giữ gìn những phẩm chất đạo đức cao đẹp, hướng thượng, nâng cao trí tuệ để giải phóng bản thân, đồng thời tôn trọng,
yêu thương, vì con người và sự giải phóng con người . Việc thực hành trong cuộc
sống hướng đến những việc thiện, cũng chính là không làm những việc vi phạm
quyền và tự do cơ bản của người khác.
Hướng đến yêu thương con người, từ trong hành vi và công việc của mình sẽ
tôn trọng và bảo vệ con người và lợi ích, quyền và tự do cơ bản của con người; đó
chính là tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Khi nhìn thấy sự bất bình đẳng, khi
tự do, lợi ích cơ bản, chính đáng của người khác bị đe dọa, xâm hại thì người con
người sẽ chia sẻ, hướng đến sự hỗ trợ, tham gia để bảo vệ. Đối với việc thực hành
lối sống hướng đến đảm bảo quyền con người: Hài hòa giữa con người với con
người, hài hòa giữa con người với thiên nhiên, với môi trường sống; tôn trọng, yêu
thương chính bản thân cũng như tha nhân, giải phóng cho mình và giúp giải phóng
cho người khác. Những phẩm chất đạo đức như thế chính là điều kiện cho việc thực hành đời sống tôn trọng và đảm bảo quyền con người.
Đặc điểm yêu thương con người bao la trong tư tưởng của các tôn giáo giúp
ích cho xây dựng một xã hội, nơi mà dù ở vị trí nào trong xã hội, con người muốn
làm những điều tốt đẹp cho người yếu thế hơn mình, không đối xử với người khác
điều (không tích cực, hậu quả xấu) mình không muốn xảy ra với chính bản thân
mình.
3.2. Tác động tiêu cực trong các quan điểm tôn giáo về quyền con người Có thể nói rằng Thiên Chúa Giáo ngày nay đã được “thuần hóa” (phần lớn)
bởi tiêu chuẩn đạo đức hiện tại của nhân loại nói chung, và của thế giới Tây Phương nói riêng. Hiện nay Tòa Thánh rất thận trọng với những gì họ giảng dạy. Giáo hội Công Giáo gần đây không những không còn truyền dạy cho giáo dân các điều răn vô đạo đức về người ngoại đạo mà còn có vẻ, nếu có thể, tránh không đề cập đến chúng.
Trong lãnh vực thực hành, Thiên Chúa Giáo ngày nay chủ trương hòa giải,
hòa hợp với các tôn giáo khác. Họ chú trọng vào những quan điểm tương đồng và chấp nhận những tín điều dị biệt (ít nhất là trên bề mặt) để hiện diện và sinh hoạt
bình đẳng với các cơ cấu tín ngưỡng khác. Có người cho rằng đây là con đường duy
SV: Đặng Huyền Trang 58 Lớp: K60B-QH-2015-L
nhất Tòa Thánh có thể đi theo để bảo đảm sự sinh tồn cho tôn giáo của họ. Đó là vì,
như đã nói, so với tiêu chuẩn nhân đạo hiện thời thì hầu như ai trong cộng đồng Tây Phương nói chung cũng thấy rằng các điều răn kia trong Kinh Thánh là tàn ác, vô
đạo đức và không thể chấp nhận được.
Trong khi đó, nhiều tổ chức Hồi Giáo ở các nước Trung Đông vẫn tiếp tục
truyền dạy công khai các lời răn dạng “hãy tiêu diệt kẻ ngoại đạo để tôn vinh Thượng Đế” của họ.Trước nhất, khối Trung Đông nói chung không lệ thuộc vào áp
lực kinh tế và quân sự của Tây Phương nên họ không e dè gì trong việc nầy. Thêm
nữa, hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra một mối ngăn cách và nghi kỵ truyền kỳ giữa hai
nền văn hóa, lẫn tư tưởng, Tây và Đông trên. Đối với hầu hết khối Trung Đông thì xã hội Tây Phương biểu tượng cho sự “đồi trụy” và “sa đọa”. Còn đối với nhiều
bình luận gia Âu Mỹ thì hầu hết vùng Trung Đông đã vẫn dậm chân tại chỗ từ nhiều
trăm năm nay trên quá trình tiến hóa nhân bản và nhân quyền.
Sự kiện Kito Giáo ngày nay không còn công khai truyền dạy và thực hành
những lời răn trên trong Kinh Thánh là một điều tốt đẹp đáng ghi nhận. Nhiều
người cho rằng nếu như thế thì không có vấn đề gì cần phải nhắc nhở hay bàn luận
đến chúng cả.
Những lời răn đó quả có vẻ không còn tai hại gì nữa vì như đã nói ở trên, phần
đông chúng ta đều không quan tâm đến chúng vì chúng rõ ràng không thích hợp với tiêu chuẩn đạo đức và nhân bản ngày nay, chưa kể việc chúng bất hợp pháp tại
nhiều quốc gia. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận thấy rằng ngày nào những lời
răn trên còn nằm trong Kinh Thánh thì ngày đó chúng vẫn còn được xem là tín điều
chính thức của Thiên Chúa Giáo. Cũng giống như những hạt cỏ độc nằm lẫn trong
vườn, chúng luôn luôn có khả năng trồi dậy và nẩy nở trong tương lai khi hoàn cảnh
trở thành thuận lợi.
Trước hết, tôn giáo và chính trị (do đó quyền lực) hầu như luôn luôn đi đôi với
nhau. Cứ nhìn vào cơ cấu xã hội của Hoa Kỳ hiện nay sẽ thấy, Thiên Chúa Giáo
chiếm lãnh một địa vị quan trọng trong mọi lãnh vực chính trị. Không có một ứng cử viên cho một chức vụ quan trọng nào có hy vọng gì đắc cử nếu họ không thuộc vào một chi nhánh của Thiên Chúa Giáo. Hầu hết tất cả nhân vật lãnh đạo trong chính trường Hoa Kỳ đều sử dụng hay chịu ảnh hưởng (ít hay nhiều, gián tiếp hay trực tiếp) bởi Thiên Chúa Giáo trong chính sách và cách điều hành quốc gia của họ. Nguyên tắc “tôn giáo cần được giữ cách biệt bên ngoài chính trị” nhiều khi chỉ
có giá trị lý thuyết trong các quốc gia Thiên Chúa Giáo, nhất là trên đất Mỹ. Giáo Hội Công Giáo ngày nay vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ khi các đạo luật được soạn
thảo. Chúng ta thường xuyên thấy những đạo luật phản ảnh các giáo điều vô đạo
SV: Đặng Huyền Trang 59 Lớp: K60B-QH-2015-L
đức và phản khoa học của Kinh Thánh. Thí dụ như việc cấm phá thai ngay cả trong
trường hợp bị hãm hiếp hay thai tật trầm trọng, cấm sử dụng bao cao-su mặc dù có thể giúp ngăn ngừa bệnh AIDS và ngừa thai trong các xứ nghèo (cho đến 2010
Benedict XVI mới chịu gia giảm về vấn đề nầy), kết án đồng tính luyến ái là dơ bẩn
và tội lỗi, cấm cản các công trình nghiên cứu tế bào gốc (stem cell), cổ động việc
đem tư tưởng Sáng Tạo (Creationism) vào học đường để giảng dạy ngang hàng với khoa học tự nhiên, v.v. và v.v.
Nếu những giáo điều vừa kể trên vẫn có cơ hội gây ảnh hưởng nặng nề đến an
sinh hàng ngày, thì tại sao chúng ta không nên lo ngại về hạt cỏ độc “hãy tiêu diệt
kẻ ngoại đạo để tôn vinh Thượng Đế”?
Trong bất cứ đoàn thể và thời điểm nào cũng có những kẻ quá khích. Tôn giáo
nào cũng có những kẻ cuồng tín hoặc những kẻ lợi dụng sự cuồng tín của người
khác để thi hành những điều ác độc. Thí dụ như đã nói hiển nhiên ràng ràng trước
mắt hiện nay là phong trào khủng bố tràn lan của bọn cuồng tín Hồi Giáo. Lịch sử
Kito Giáo cũng đã (và chắc chắn sẽ) có đầy những kẻ cuồng tín tương tự. Lịch sử
đã nhiều lần cho thấy những kẻ cực đoan nắm chính quyền. Vì những điều răn tàn
ác, vô đạo đức trong Kinh Thánh vẫn chưa hề bị xóa bỏ hay sửa đổi nên thỉnh
thoảng chúng vẫn còn có thể được áp dụng lên những ý tưởng và hành động điên rồ
của họ. Làm sao ai có thể dám nói rằng những tội ác trên sẽ không xảy ra nữa trong tương lai?
Và đây là một điều đáng thấy, đáng nhớ và đáng lo ngại.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ hay sửa đổi các điều răn trên trong Kinh Thánh là một
điều vô cùng khó khăn. Chỉ trên lãnh vực tín ngưỡng thuần túy mà thôi, Tòa Thánh
có sẽ không bao giờ cho phép điều đó xảy ra (ngay cả nếu họ cũng nhận thấy mối lo
ngại trên). Đó là vì Kinh Thánh là lời truyền dạy bất di bất dịch từ Thượng Đế tối
thượng và là nền tảng tôn giáo của họ. Tuy trong lịch sử Kinh Thánh đã từng nhiều
lần được sửa đổi, bất cứ sự sửa đổi nào nữa xảy ra ngày nay sẽ làm lung lay thêm
niềm tín ngưỡng đang có phần đi xuống của Thiên Chúa Giáo (dễ thấy nhất ở trong nhiều quốc gia Âu Châu).
Như đã nói ở trên, chủ trương và chính sách của Tòa Thánh ngày nay là, nếu có thể, cố gắng càng tránh truyền bá hay đề cập đến những tín điều nầy càng tốt. Và các trường phái “Bào Chữa” của Thiên Chúa Giáo (“Christian Apologetics”) thường xuyên sử dụng một số lập luận tiêu biểu của họ trong việc chống đỡ và bào
chữa những thiếu sót của Kinh Thánh.
Những hạt cỏ độc trên có lẽ sẽ còn nằm lẫn trong ngôi vườn chúng ta một thời
gian rất lâu. Trách nhiệm và bổn phận của chúng ta là phải tiếp tục ghi nhận và nhắc
SV: Đặng Huyền Trang 60 Lớp: K60B-QH-2015-L
nhở nhau về sự hiện diện của chúng. Thỉnh thoảng chúng sẽ đâm chồi trổi dậy khi
có điều kiện. Chúng ta cần phải tiếp tục cảnh báo mọi người chung quanh chúng ta, nhất là các tín đồ lẫn giới lãnh đạo Thiên Chúa Giáo về vấn đề nầy. Chúng ta cần
phải chủ tâm nhổ bỏ chúng càng sớm và càng thấu đáo càng tốt. Chế độ dân chủ
cùng với quyền tự do ngôn luận cho phép chúng ta làm điều này bằng nhiều phương
cách ôn hòa và hợp pháp.
Như một người làm vườn có lương tâm, chúng ta cần phải bảo vệ và cải tiến
cái xã hội mà chúng ta cũng như gia đình chúng ta đang sinh sống. Chúng ta chỉ
phải chấp nhận rằng đây là một công việc thường xuyên, dài hạn và lắm khi đầy
phiền nhiễu.
Vấn đề đáng quan tâm là những quy định riêng đối với tín đồ nữ đạo Hồi. Họ
dù không muốn cũng phải tuân thủ mà lý do chỉ có thể giải thích được là vì họ là
phụ nữ. Những quy định đó mang tính hà khắc và thể hiện địa vị thấp kém của phụ
nữ Hồi giáo so với nam giới. Sau đây là một số quy định chủ yếu
Trước hết phải kể đến quy định riêng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình:
Tuổi lấy chồng của con gái đạo Hồi trung bình từ 12 đến 15 tuổi. So với quy định
của pháp luật ở hầu hết các quốc gia khác thì tuổi lấy chồng của con gái đạo Hồi là
quá trẻ. Theo luật pháp của hầu hết các quốc gia, đây là tuổi vị thành niên, là tuổi
“ăn chưa no, lo chưa tới”. Với lứa tuổi đó người phụ nữ chưa phát triển đầy đủ về cả mặt sinh học lẫn nhận thức đã phải làm vợ, làm mẹ. Vì thế, phần lớn trong số họ
khi còn trẻ đều vướng víu vào công việc gia đình nên không có điều kiện học hành.
Với quan niệm của các bậc cha mẹ trong các gia đình đạo Hồi con gái chỉ cần học
chữ đủ để đọc thánh kinh, do đó hầu hết phụ nữ đều không được đi học nên có trình
độ học vấn rất thấp. Trong khi đó, đàn ông có rất nhiều quyền so với phụ nữ.
Một người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ nhưng một người đàn bà chỉ được
lấy một chồng. Quy định tội phạm trong quan hệ với người khác giới, đàn ông
không có tội khi ngoại tình, tội ngoại tình chỉ áp dụng cho phụ nữ. Khi mắc tội
ngoại tình, người phụ nữ có tội sẽ phải chịu hình phạt là bị ném đá đến chết. Kinh Qu’ran coi thiên đàng là khu vườn của lạc thú nhục dục muôn đời. Còn ở thế gian, lúc người đàn ông còn sống thì đàn bà là cánh đồng lạc thú mà mọi người đàn ông đều được vào nếu muốn. Như vậy, phụ nữ đạo Hồi chỉ được coi là thứ công cụ để duy trì giống nòi và để thoả mãn dục tính của đàn ông.
Trong quan hệ vợ chồng, khi cuộc sống gia đình không “thuận chèo mát mái”,
đàn ông muốn li dị vợ lúc nào cũng được, thậm chí họ còn được quyền giữ lại con cái. Chồng có quyền đánh vợ. Uy quyền của đàn ông đối với đàn bà được giải thích
trong Kinh là: đàn ông có quyền đối với đàn bà vì Chúa đã sinh ra đàn ông cao quí
SV: Đặng Huyền Trang 61 Lớp: K60B-QH-2015-L
hơn đàn bà và vì đàn ông phải bỏ tài sản của mình ra để nuôi đàn bà. Một người đàn
bà được coi là tốt phải là người biết vâng lời đàn ông vì đàn ông săn sóc cả phần tinh thần của đàn bà. Đối với phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có quyền ruồng
bỏ, không cho nằm chung phòng và có quyền đánh đập.
Về quyền được hưởng thừa kế gia sản của bố mẹ: con gái chỉ được hưởng
phần gia tài bằng một nửa phần gia tài được thừa kế so với phần của con trai.
Về quyền tham gia các hoạt động xã hội:
Với tư cách là một tín đồ Hồi giáo, khi đến giáo đường làm lễ vào ngày thứ
sáu hàng tuần, phụ nữ có thể không được vào hoặc muốn vào phải đi cửa riêng,
không được đi chung cửa với nam giới.
Khi phụ nữ làm nhân chứng ở toà án, thì lời chứng của đàn bà chỉ có giá trị
bằng một nửa lời chứng của đàn ông. Khi nạn nhân bị giết là nữ giới, trường hợp
nếu được bồi thường, thân nhân của họ chỉ được bồi thường giá trị bằng một nửa so
với nạn nhân là nam giới.
Về trang phục: Kinh Qu’ran quy định chế độ y phục của phụ nữ rất khắt khe,
phụ nữ phải mặc che kín hoàn toàn, không được để lộ thân thể bất kể phần nào (kể
cả mặt và tay) ra trước bất cứ người đàn ông nào ngoài chồng mình. Do quy định đó
tại các nơi công cộng người ta rất dễ nhận ra các phụ nữ đạo Hồi trong trang phục
giống nhau là: áo choàng rộng chùm kín từ đầu đến gót chân với mạng che mặt. Trang phục này có nhiều nếp gấp, nặng nề, gây nhiều khó chịu cho người mặc trong
mùa hè.
Nếu so sánh những quy định tương tự đối với phụ nữ đạo Hồi ở một số nước
khác ngoài khu vực, phụ nữ đạo Hồi ở các quốc gia Đông Nam Á xem ra vẫn còn
được may mắn hơn bởi họ không phải chịu những quy định khắt khe như được kể
dưới đây.
Chẳng hạn, để duy trì đạo luật về mặc, có quốc gia đã công khai (hoặc ngấm
ngầm) thực thi một loại chế tài man rợ kiểu thời Trung cổ là tạt a-xít vào mặt những
phụ nữ không che mạng. Chế độ Taliban còn có đội quân gọi là cảnh sát đạo đức hay Bộ cải tiến đạo đức để duy trì luật về y phục phụ nữ bằng việc dùng gậy hoặc roi quấn dây cáp đánh những phụ nữ tại bất cứ đâu nếu họ sử dụng y phục không đúng quy định
Ở Iran, quyền của phụ nữ đạo Hồi trong chuyện li dị không hề được đếm xỉa. Đàn ông muốn được li dị vợ lúc nào cũng được, chỉ với thủ tục là lặp lại câu nói
“tôi li dị cô” ba lần.
Về quyền nhân thân của phụ nữ đạo Hồi của các nước Đông Nam Á cũng
được coi trọng hơn ở Arập Xêut. Tại Arập Xêut, phụ nữ không ai có căn cước khi
SV: Đặng Huyền Trang 62 Lớp: K60B-QH-2015-L
chưa chồng, khi độc thân lí lịch vắn tắt của họ được ghi vào căn cước của cha. Khi
cha của cô gái nào đó chết, phần lí lịch đó được ghi vào thẻ căn cước của anh hoặc của em trai. Nếu đã kết hôn, lý lịch đó của phụ nữ được ghi vào căn cước của
chồng. Khi chồng chết thì ghi vào căn cước của con trai. Quyền của phụ nữ trong
hoạt động kinh tế còn bị thu hẹp đến mức khó tin. Phụ nữ bị cấm không được làm
một số nghề mà vốn chị em ở nhiều nước đó tham gia rất phổ biến như lái xe, luật sư, kỹ sư và bị cấm làm công chức trong các công sở nhà nước.
Thực tế trên cho chúng ta thấy rằng về một khía cạnh nào đó phụ nữ tín đồ
Hồi giáo ở Đông Nam Á còn có những may mắn hơn, quyền nhân thân cũng có
phần được coi trọng hơn. Tất nhiên nếu chỉ xét theo quy định của thánh kinh. Các mặt của đời sống xã hội trong đó có đời sốngcủa những người phụ nữ ngoài thánh
kinh còn được điều chỉnh bởi những quy định của pháp luật và những yếu tố khác.
Thực tế cho thấy, những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng là những
vấn đề gắn với truyền thống và lịch sử. Những quy định của đạo giáo dù bình
thường hay khắc nghiệt vốn đã ăn sâu, bám rễ hàng ngàn năm nên việc thay đổi
chúng không thể dễ dàng thực hiện trong một sớm, một chiều và bằng những biện
pháp riêng rẽ, đơn lẻ.
Ngoài ra, vấn đề bình đẳng giới hay thực chất là mở rộng quyền năng cho phụ
nữ, đánh giá đúng vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội không thể không ảnh hưởng tới phần còn lại của cộng đồng quốc tế là nam giới. Sự nghiệp đó
ít, nhiều làm giảm cái “oai”, cái “uy”, cái gọi là quyền hành của nam giới đối với nữ
giới. Một số người đó coi thậm chí không thích đề cập vỡ cảm thấy lợi ích của mình
dường như bị thu nhỏ lại. Vì vậy vấn đề bình đẳng giới được thực hiện trong thực tế
phải do chính những người phụ nữ tiến hành. Phụ nữ phải cùng nhau giành, giữ
và còn phải được giới mày râu thừa nhận và tự giác cùng thực hiện, thêm nữa cũn
phải được tổ chức thực hiện đồng thời ở nhiều quốc gia và phải được liên tục duy
trỡ trong thời gian dài.
Một chủ trương chung cần tính đến là phải có biện pháp cụ thể trong việc khai thác nguồn nhân lực nữ ở các quốc gia đạo Hồi. Phụ nữ là một nửa nguồn nhân lực cho mọi quá trình phát triển của nhân loại. Huy động, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực này là một việc làm không thể không tính đến ở tất cả các quốc gia và các khu vực trên thế giới. Thêm nữa việc khai thác nguồn nhân lực nữ ở tất cả các nước (kể cả các nước ASEAN) không thể tách rời các yếu tố tự nhiên, lịch
sử, trạng thái kinh tế- xã hội…, trong đó có cả ảnh hưởng về truyền thống đao Hồi và quan hệ quốc tế của mỗi quốc gia trong các giai đoạn, các thời kỳ. Sau đây là
một số giải pháp chủ yếu:
SV: Đặng Huyền Trang 63 Lớp: K60B-QH-2015-L
Trước hết cần khai thác nét văn hóa đạo Hồi trong phát triển kinh tế ở các
quốc gia. Phát triển kinh tế, tăng cường hội nhập khu vực trên cơ sở khai thác những yếu tố văn hoá lịch sử chung, riêng của các quốc gia
Những năm gần đây, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, những
yếu tố văn hoá, tín ngưỡng và sắc tộc càng có điều kiện để thể hiện rõ tính đa dạng,
phong phú. Đồng nhất trong đa dạng đó là xu hướng và là giải pháp cơ bản, lâu dài trong hội nhập quốc tế nói chung và trong phát triển cộng đồng ASEAN nói riêng.
Thực hiện bình đẳng giới ở các quốc gia đạo Hồi được coi như một động lực để
khai thác nguồn nhân lực cho phát triển không nằm ngoài giải pháp chung này.
Thực tế ở một số nước, trong một số hoạt động kinh doanh người ta cũng đã nói đến những nét văn hoá, những yếu tố đạo Hồi.
Thứ hai, nâng cao nhận thức về vai trò của phụ nữ cho chính những người phụ
nữ. Luật đạo Hồi hạn chế nhiều quyền và bất công với phụ nữ. Với lịch sử 14 thế kỷ
chắc chắn những qui định về thân phận người phụ nữ đã ăn sâu vào nếp sống các
tín đồ, thành yếu tố tâm lý, thói quen truyền thống không dễ phai nhạt. Từ đây
chúng ta thấy sự nghiệp bình đẳng giới của phụ nữ đạo Hồi không chỉ bị lực cản bởi
tính chất “bất khả xâm phạm”, không ai có quyền sửa đổi của những qui định đó mà
còn bởi quan niệm của chính những người phụ nữ về thân phận bất di bất dịch và
nhẫn nhục trở thành bổn phận tự nhiên của họ. Thành công trong cuộc đấu tranh giành và giữ quyền bỡnh đẳng giới phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng yếu tố quan
trọng phải xuất phát từ chính nhận thức và nhu cầu của những người phụ nữ ở các
nước đạo Hồi.
Để có bình đẳng giới thực sự, sự nghiệp cách mạng của phái đẹp nói chung
của phụ nữ đạo Hồi nói riêng chắc chắn còn gặp nhiều khó khăn và phức tạp. Từ
các kinh nghiệm thất bại cũng như thành công của phụ nữ ở nước khác và cả kinh
nghiệm của chớnh mỡnh, họ sẽ rút ra bài học và có thêm niềm tin để quyết tâm đi
đến thắng lợi. Sự nhận thức đúng về vị trí, vai trò của chính mỗi người phụ nữ, sự
đoàn kết của chị em trong cuộc đấu tranh để đi đến thắng lợi là một trong những giải pháp cơ bản, đầu tiên phải tính đến.
Thứ ba, tăng cường giao lưu giữa Hội phụ nữ các nước: Tạo cơ hội cho phụ nữ các nước trong khu vực trao đổi kinh nghiệm trên diễn đàn quốc tế, khu vực trong mọi lĩnh vực.. Tổ chức các diễn đàn vinh danh các tấm gương phụ nữ về kinh doanh giỏi, tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, tham gia các hoạt
động giúp đỡ nhau giải quyết các khó khăn trong cuộc sống, có nhiều thành tích nghien cứu khoa học… Trong đó cần tính đến đại biểu tham gia là các tín đồ nữ đạo
Hồi
SV: Đặng Huyền Trang 64 Lớp: K60B-QH-2015-L
Thứ tư, xây dựng và tăng cường ý thức pháp luật của người dân, đưa những
quy định của luật pháp vào cuộc sống trên nguyên tắc không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo.
Những hoạt động nói trên sẽ phát huy tác dụng nhiều hơn nếu thông tin về
những thay đổi tốt đẹp trong cuộc sống của phụ nữ đạo Hồi các được tuyên truyền
một cách sâu rộng và liên tục trong thời gian dài.
Chế độ đẳng cấp trong giáo lý của Ấn độ giáo cũng là một điều đáng lên án.
Phân biệt, kỳ thị đẳng cấp là vấn nạn nhức nhối trong xã hội Ấn Độ. Hàng triệu người
thuộc giai tầng Dalit (nằm ngoài hệ thống Varna của Hindu giáo) thường xuyên chịu
đựng sự hành hạ và thậm chí là bị giết.
SV: Đặng Huyền Trang 65 Lớp: K60B-QH-2015-L
KẾT LUẬN Quan điểm của các tôn giáo về quyền con người chứa đựng trong nhiều giáo điển, được mô tả, phản ánh một cách lồng ghép, đan xen chứ không phân định tách
bạch theo các quyền cụ thể như Luật nhân quyền quốc tế ngày nay, cho nên chúng
ta nghiên cứu quan điểm của các tôn giáo và thấy rằng, trong tư tưởng tự do có chứa
đựng giá trị dân chủ, trong tư tưởng tôn trọng quyền sống có giá trị của quyền không bị tra tấn, trong tư tưởng bình đẳng có giá trị tôn trọng quyền của những
người yếu thế, trong tư tưởng về quyền tự do có giá trị của quyền tự do biểu đạt, có
giá trị về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng... và sẽ thật khó nhìn nhận nếu chúng ta
không coi tư tưởng của các tôn giáo là một lí thuyết sống.
Vượt trên sự so sánh, đối chiếu, lí giải giáo lí của các tôn giáo tương thích với
một số quyền con người theo Luật nhân quyền quốc tế ngày nay; chúng tôi nhận
thấy điều quan trọng nhất chính là: các tôn giáo có tư tưởng và nguyên tắc. Chính tư
tưởng của các tôn giáo tương thích với tư tưởng quyền con người hiện nay, đó là
đều xuất phát và hướng đến “nhân phẩm” với con người là trung tâm, lấy con người
làm quan trọng, chính nguyên tắc của các tôn giáo phản ánh sự tôn trọng và bảo vệ
quyền con người. Tư tưởng của các tôn giáo, ấy chính là sự nhận thức cao về luân
lí, đạo đức là cơ sở để phổ quát quyền con người, để xây dựng một nền văn hóa
nhân quyền, để thiết lập một xã hội tôn trọng và đảm bảo quyền con người.
Do đó, phát huy những giá trị tích cực của các tôn giáo đối với thế giới, nơi
mà tín ngưỡng tôn giáo hiện diện ở kháp nơi là điều nên được khai thác, có khả
năng hiện thực hóa, để thúc đẩy và nâng cao nhận thức về giá trị quyền con người
trong quá trình xây dựng nền văn hóa nhân quyền.
Là một trong những thành tố tạo nên văn hóa dân tộc trong suốt hàng ngàn
năm, các tôn giáo trên thế giới ngày nay vẫn lưu giữ những giá trị tích cực góp phần
xây dựng đạo đức lối sống cho toàn nhân loại. Tính hướng thiện trong quan điểm
của các tôn giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo, một cơ sở
quan trọng cho việc tôn trọng và đảm bảo quyền con người trong lịch sử; tư tưởng bình đẳng, hòa bình của các tôn giáo phù hợp với sự hội nhập hóa của toàn nhân loại. Những giá trị tích cực trong quan điểm của các tôn giáo gắn với những hành động cụ thể trong đời sống xã hội, như người đói được cung cấp thực phẩm, người rách được mặc ấm, người ốm đau bệnh tật được chăm sóc, chữa trị...Tư tưởng quan điểm của các tôn giáo còn luôn coi trọng sự cân bằng giữa con người với tự nhiên,
với thiên nhiên và môi trường sống xung quanh con người, khuyến khích con người xây dựng cuộc sống gần gũi với thiên nhiên và cảnh vật. Bởi vậy, tôn giáo không
chỉ góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống mà còn có tác dụng gìn giữ
SV: Đặng Huyền Trang 66 Lớp: K60B-QH-2015-L
môi trường tự nhiên cân bằng sinh thái, khi ấy đương nhiên là quyền được sống
trong môi trường trong lành của con người sẽ được đảm bảo. Những nhân tố đó được phát huy sẽ là nhân tố thúc đẩy sự phát triển bền vững của toàn nhân loại
trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Điều này càng có ý nghĩa thúc đẩy hơn nữa
công tác giáo dục tôn giáo, một việc cần thiết nên làm thường xuyên, có hệ thống và
rộng khắp đối với nhiều đối tượng trong xã hội. Tư tưởng của các tôn giáo gắn liền với các giá trị văn hóa sẽ thấy gần gũi các giá trị quyền con người trong việc nhìn
thấy sự tương đồng giữa tư tưởng cua tôn giáo mình với tư tưởng quyền con người;
do vậy việc giáo dục nâng cao hiểu biết về quyền con người nói chung, trong tiếp
nhận các quyền cơ bản của con người trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm, thì giáo dục đi từ những giá trị truyền thống sẽ đi vào lòng người hơn, tránh được rào cản tâm lí
cố hữu là không thích tiếp nhận theo kiểu sao chép hay áp đặt theo các tiêu chuẩn,
mô thức bên ngoài.
Với ý nghĩa đối với ngành luật, thì đó chính là sự nâng cao nhận thức về
quyền con người và tôn trọng, bảo vệ quyền con người.Tôn trọng và đảm bảo quyền
con người, cũng như sự công bằng, dân chủ và tự do là những ước vọng muôn đời
của con người. Những điều này được đặt trên nền tảng của đạo đức, nếu thiếu đạo
đức thì công bằng xã hội mang tính lí thuyết nhiều hơn là hiện thực. Thực tiễn
ngành Luật nhân quyền quốc tế cho thấy rằng, trong sự phát triển của chính nó, những cách thức bảo vệ quyền con người trên thế giới ngày càng phát triển theo xu
hướng hạn chế phương pháp bạo lực và áp đặt; đồng thời phổ biến hơn sự khích lệ
và hỗ trợ việc nâng cao hiểu biết của các bên, nâng cao nhận thức và đạo đức của
con người. Đó là cách tiếp cận và giải quyết bền vững, nhân quyền hơn.
Bên cạnh đó cần phải lên án sâu sắc những quan điểm tôn giáo xâm phạm đến
quyền con người. Bởi vì, tôn trọng và bảo đảm quyền con người là thước đo của sự
tiến bộ xã hội.
SV: Đặng Huyền Trang 67 Lớp: K60B-QH-2015-L
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam TP.Hồ Chí Minh (2011), Nguyệt
san Giác Ngộ, số 188, tháng 11-2011.
2. Thích Minh Châu (1995), Những lời Đức Phật dạy về hòa bình và giá trị
con người, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. 3. Thích Minh Châu (dịch, 1996), Kinh Pháp cú, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
4. Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb.
Tôn giáo, Hà Nội.
5. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
6. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ với văn hóa và
phát triển ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Hồng Dương (2008), Nghiên cứu và ứng dụng các giá trị văn
hóa Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, Số 5.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Lê Văn Đính (2007), Bàn thêm về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10.
10. Nguyễn Khắc Đức (2008), Vai trò của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 7.
11. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1994), Kinh Pháp cú thí dụ (Thích Minh
Quang dịch), Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam TP.Hồ Chí Minh.
12. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2011), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Phật
giáo, Nxb. Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh.
13. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb.
TP.Hồ Chí Minh. 111 14. Hoàng Văn Hảo (2004), Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền công dân/Trong cuốn Quyền con người: Lý luận và Thực tiễn ở Việt Nam và Ốt-xtrây-lia, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội 2004, tr. 69. 15. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959,
1980, 1992, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội 2009. 16. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học
Xã hội.
SV: Đặng Huyền Trang 68 Lớp: K60B-QH-2015-L
17. Nguyễn Duy Hinh (2001), Triết học Phật giáo, Nxb. Văn hóa Thông tin.
18. Thích Thiện Hoa (1990), Phật pháp phổ thông, Nxb. Thành hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh.
19. Vũ Đình Hòe (1998), Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam: Một mô
hình mới - Hiến pháp dân tộc và dân chủ/ Hiến pháp năm 1946 và sự kế
thừa, phát triển trong các hiến pháp Việt Nam, Văn phòng Quốc hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.67.
20. Đỗ Quang Hưng (1999), Vấn đề tôn giáo tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1.
21. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người (Tập hợp những bình luận/ khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên
Hiệp Quốc), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
22. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Những điều cần biết về
hình phạt tử hình, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
23. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Luật nhân quyền quốc tế
những vấn đề cơ bản, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
24. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Tư tưởng về quyền con người
(Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam), Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
25. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
112
26. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I-II-III, Nxb. Văn
học, Hà Nội.
27. Nguyễn Đình Lộc (2000), Quyền con người và quyền công dân trong
Hiến pháp Việt Nam/ Quyền con người và quyền công dân, Nxb. Chính
trị Quốc gia, tr. 102.
28. Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1980, tr.356.
29. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 440. 30. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.290. 31. Phùng Hữu Phú (Chủ biên 1997), Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam (1945-1969), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 32. Thích Thiện Siêu (dịch, 2001), Long Thọ - Trung luận, Nxb. TP.Hồ Chí Minh. 33. Việt Tân (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
34. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên, 1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Nxb. Khoa
SV: Đặng Huyền Trang 69 Lớp: K60B-QH-2015-L
học Xã hội, Hà Nội.
36. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên, 1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2008),
Kỷ yếu hội thảo: Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông cuộc đời và sự
nghiệp. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 38. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2005), Phật giáo thời đại mới cơ
hội và thách thức, Nxb. Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh.
39. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (1998), Hồ Chí Minh về vấn đề Tôn giáo, tín
ngưỡng, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 40. Viện Triết học (1998), Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt
Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
113
41. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên 2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức
chuẩn giá trị xã hội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Trần Quốc Vượng (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
43. Floyd H.Ross, Tynette Hills (Dịch giả Thích Tâm Quang), Những tôn giáo
lớn trong đời sống nhân loại, Nxb Tôn giáo, TP.Hồ Chí Minh, 2007, tr.73).
Trang Web 44. http://en.trannhantongprize.org [Truy cập ngày 18/3/2019].
45. http://www.gdptvietnam.com/kinh-thien-sinh.gdpt [Kinh Thiện sinh,
Truy cập ngày 31/3/2019].
46. http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung93.htm [Kinh Assalàyana,
Trung bộ kinh, bài kinh số 93, Truy cập ngày 31/3/2019].
47. http://www.dangcongsan.vn [Nguyễn Đức Lữ (2012), Những điểm mới
trong Đại hội XI về tôn giáo, Truy cập ngày 6/4/2019].
48. https://coccoc.com/search?query=kito+gi%C3%A1o , truy cập ngày
6/4/2019.
49.https://coccoc.com/search?query=%E1%BA%A5n+%C4%91%E1%BB%9
9+gi%C3%A1o, truy cập ngày 7/4/2019.
50. https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93i_gi%C3%A1o, truy cập
ngày 10/4/2019.
SV: Đặng Huyền Trang 70 Lớp: K60B-QH-2015-L