ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
------------
NGUYỄN THỊ TRANG
NGHI THỨC TANG LỄ CỦA NGƯỜI VIỆT THEO CÔNG GIÁO
(NGHIÊN CỨU TẠI GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Người hướng dẫn: TS. Vũ Văn Chung
HÀ NỘI - 2019
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công
giáo” tại giáo xứ Thái Hà là một công trình nghiên cứu độc lập không có sự
sao chép của người khác. Đề tài là sản phẩm mà tôi đã nỗ lực nghiên cứu
trong quá trình học tập tại trường cũng như thời gian đi khảo sát, tham gia
trực tiếp vào tang lễ của giáo dân tại khu vực và phỏng vấn sâu các tín hữu
kitô tại khu vực quanh nhà thờ Thái Hà. Trong quá trình viết bài có sự tham
khảo của một số tài liệu có nguồn gốc rõ ràng và tài liệu lưu hành nội bộ tại
nhà thờ Thái Hà, dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Văn Chung.
Tôi xin cam đoan nếu có vấn đề gì tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2019
Sinh viên
Nguyễn Thị Trang
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được đề tài nghiên cứu báo cáo thực tập này, ngoài sự cố
gắng của bản thân, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến TS. Vũ Văn Chung,
người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa Triết Học, thầy cô
trong chuyên ngành Tôn Giáo – Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân
Văn đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm tôi học tập tại trường.
Với vốn kiến thức đã được tiếp thu trong quá trình học tập không chỉ là nền
tảng cho quá trình viết khóa luận mà còn là hành trang quý báu để tôi bước
vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Tôi chân thành cảm ơn các quý Cha và cộng đoàn giáo xứ Thái Hà đã
cho phép và tạo điều kiện thuận lời để tôi thực hiện đề tài nghiên cứu khóa
luận tại giáo xứ.
Cuối cùng tôi xin kính chúc quý thầy cô dồi dào sức khỏe và thành
công trong sự nghiệp cao quý. Đồng kính chúc các anh (chị) em trong cộng
đoàn giáo xứ Thái Hà luôn dồi dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt
đẹp trong công việc.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2019
Sinh viên
Nguyễn Thị Trang
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
NỘI DUNG ............................................................................................................ 9
CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHI THỨC TANG LỄ CỦA NGƯỜI
CÔNG GIÁOVÀ VÀI NÉT VỀ GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI ....................... 9
1.1. Cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người Công giáo ........................... 9
1.1.1. Quan niệm của người Công giáo về linh hồn và thể xác ....................... 9
1.1.2. Những quy định về tang lễ trong Bộ giáo luật 1983 ........................... 15
1.2. Lịch sử hình thành, hoạt động và phát triển của giáo xứ Thái Hà – Hà Nội .... 19
1.2.1. Lịch sử hình thành giáo xứ .................................................................. 19
1.2.2. Hoạt động và phát triển của giáo xứ .................................................... 23
CHƯƠNG II: THÁNH LỄ CẦU HỒN VÀ AN TÁNG CỦA NGƯỜI VIỆT
THEO CÔNG GIÁO VÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO TẠI GIÁO XỨ THÁI HÀ .... 28
2.1. Thánh lễ cầu hồn và thánh lễ an táng của người Công giáo Việt Nam ..... 28
2.1.1. Thánh lễ cầu hồn .................................................................................. 28
2.1.2. Thánh lễ an táng................................................................................... 32
2.2. Các nghi thức diễn ra trong tang lễ ở giáo xứ Thái Hà.............................. 33
2.2.1. Những nghi thức trước khi chôn cất người chết .................................. 33
2.2.2. Những nghi thức sau khi chôn cất người chết ..................................... 39
2.3. Giá trị và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ của người
Công giáo Việt Nam…. .................................................................................... 44
2.3.1. Giá trị ................................................................................................... 44
2.3.2. Những tồn tại cần khắc phục ............................................................... 51
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 55
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 70
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quan niệm về nghi lễ vòng đời của con người, cái chết là sự
chuyển giao giai đoạn của một đời người. Do đó, việc chuẩn bị các nghi thức
liên quan đến cái chết đóng vai trò quan trọng đối với mỗi dân tộc, mỗi gia
đình, dòng họ và cá nhân. Tang ma có thể được xem là một trong những nghi
thức quan trọng để bày tỏ tâm tình, sự kính trọng “đền ơn, đáp nghĩa” của
người còn sống với người đã mất... Cũng là lúc để người thân trong gia đình,
bạn bè tưởng nhớ về những việc mà người chết đã làm khi còn sống, là thời
gian để chính họ suy ngẫm về cái chết của chính bản thân mình. Đồng thời
còn là sự chuẩn bị của người sống tiễn đưa người qua đời về thế giới của vĩnh
hằng. Đó là công việc bắt buộc phải làm và là trách nhiệm, bổn phận của con
cái báo hiếu bố mẹ, ông bà, tổ tiên.
Tùy vào từng tôn giáo, phong tục tập quán khác nhau, sự thay đổi của
kinh tế, xã hội mà nghi thức tang ma ở mỗi nơi, mỗi vùng, thâm chí ngay
trong cùng một tôn giáo lại được tổ chức và thực hành khác nhau, nhưng tất
cả đều hướng đến thế giới tâm linh, với mong muốn người khuất được về nơi
yên nghỉ, đến thế giới khác tốt đẹp hơn.
Một điểm đặc biệt trong tang lễ của người Công giáo nói chung và
người Việt theo Công giáo nói riêng là không mang màu sắc bi thương, đau
buồn giống như tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam, mặc dù bị ảnh
hưởng ít nhiều từ phong tục tang ma của người Việt. Thay vì đau buồn trước
sự ra đi của người thân, sự mất mát của cá nhân, họ mang trong mình sự hy
vọng, niềm tin mãnh liệt vào sự sống sau khi chết “Tôi tin xác loài người
ngày sau sống lại”, tin vào linh hồn, tin ở sự công bình thưởng phạt của luật
nhân quả luân hồi, và tin có thiên đàng địa ngục “ngay khi còn sống, con
người đã mang trong mình sự chết, vì thế mà con người sẽ phải chết. Chết là
một kết thúc của ta trong cuộc sống này, và mọi cái ta sở hữu cũng đều chấm
dứt” (x. Hc 41, 1).
1
Niềm tin này đôi khi bị cho là mê tín dị đoan. Tuy nhiên, không ai có
thể phủ nhận tác dụng tích cực của niềm tin này đối với đạo đức xã hội Việt
Nam ngày nay. Bởi lẽ, nhờ có niềm tin con người mới cố gắng sống tốt hơn,
tích cực làm điều thiện nhiều hơn và tránh làm những điều ác ngay cả khi một
mình nơi thanh vắng “Sự chết nhắc nhở ta về bản chất thật ngắn ngủi, thật
mong manh phù du của đời sống con người trên dương thế. Đứng trước định
mệnh khắt khe đó, người ta dễ có một nhận định sầu thảm đôi khi sinh ra một
thất vọng chán chường” (x. Sm 12, 23).
Và cũng chính vì niềm tin mãnh liệt vào sự sống sau cái chết mà người
Công giáo tôn trọng hình thức án táng (hay còn gọi là chôn cất) người quá cố,
để thi hài người quá cố được nguyên vẹn cho đến ngày phán xét của
Chúa.Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, diện tích đất để xây dựng phần mộ,
chôn cất người quá cố dần bị thu hẹp do đất đai phải sử dụng cho những mục
đích kinh tế, chính trị.Vì vậy, những năm trở lại đây, nhà nước Việt Nam
khuyến khích người dân lựa chọn hình thức hỏa táng người chết để hạn chế
tối đa việc sử dụng đất canh tác, đất phát triển công nghiệp. Hỏa táng là một
hình thức rất hợp vệ sinh, bảo vệ được môi sinh, lại giảm bớt được rất nhiều
công đoạn như xây mộ, tảo mộ, bảo quản mộ, cải táng, di dời… Cho nên việc
hỏa táng càng ngày càng được phổ biến rộng rãi.
Hình thức hỏa táng không được đề cập đến trong Kinh Thánh. Kinh
Thánh chỉ nói tới việc Thiên Chúa chấp nhận hỏa táng như một cách để bảo
vệ di cốt của người chết. Thế nhưng, để đáp ứng với tình hình thực tế, năm
1963, hỏa táng đã được Giáo Hội nhìn nhận là cách mai táng hợp pháp“hỏa
táng tự thân không đi ngược với truyền thống Ki-tô giáo.” Hỏa táng thực chất
không ảnh hưởng gì đến sự phục sinh thân xác của niềm tin Kitô, bởi “thân
cát bụi phải trở về cát bụi” (St 2,7; 3, 19). Nó cũng không làm di hại đến lòng
tôn trọng thi hài người quá cố hay gián đoạn các cử hành hậu sự. Hỏa táng chỉ
là việc dùng nhiệt độ cao để đẩy nhanh tiến trình phân rã và trở về cát bụi của
thân xác vật chất mà thôi. Ngày tận thế, mọi người đều sẽ trỗi dậy mà chịu
2
phán xét chung; không một không gian hay khoảng cách nào có thể giam cầm
hay tách lìa họ được, vì chẳng có gì chống trả được ý Chúa (x. Kh 20,11-13;
1Cr 15, 23-28.35-38).
Qua nghi thức tang ma của người Việt theo Công giáo ta có thể giải mã
được thế giới tâm linh của những người có đức tin từ đó ứng dụng những
quan điểm tích cực, những nghi thức tang ma tiến bộ, phù hợp của họ vào xã
hội Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là trong tình hình văn hóa – tư tưởng đang
xuất hiện nhiều những quan điểm, tư tưởng dị bản ngầm phá hoại đi nét đẹp
văn hóa, phong tục của người Việt, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần
và vật chất của người Việt nói chung và các tín đồ Công giáo nói riêng.Điều
này cũng thể hiện rõ ý thức và trách nhiệm của đồng bào các tôn giáo nói
chung và Công giáo nói riêng trong việc thực hiện luật pháp Nhà nước và nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Theo
đúng tinh thần của Quyết định số 308/2005/QĐ - TTG, của Thủ tướng Chính
Phủ về Ban hành quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang và lễ hội. Quyết định này nêu rõ:
“Điều 6. Tổ chức việc tang phải thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật về hộ tịch, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; việc tang cần được tổ
chức chu đáo, trang nghiêm, gọn nhẹ, tiết kiệm; khi đưa tang phải tuân thủ
các quy định của pháp luật về an toàn giao thông và trật tự an toàn công
cộng; hạn chế tối đa việc rắc vàng mã, tiền âm phủ trên đường; không rắc
tiền giấy hoặc tiền xu trên đường; thực hiện những quy định trong hương
ước, quy ước của địa phương về việc tang.
Việc quàn, chôn cất, hoả táng, điện táng, bốc mộ và di chuyển thi hài,
hài cốt phải thực hiện theo quy định tại Điều lệ Vệ sinh ban hành kèm theo
Nghị định số 23/HĐBT ngày 24 tháng 11 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ).
Điều 7. Tang phục; cờ tang và treo cờ tang theo phong tục truyền
thống của từng vùng, miền, dân tộc, tôn giáo.
3
Điều 8. Khuyến khích thực hiện các hình thức sau trong việc tang:
1. Sử dụng băng, đĩa nhạc tang thay cho phường bát âm.
2. Hạn chế mang vòng hoa.
3. Các hình thức hoả táng, điện táng.
4. Các tuần tiết trong việc tang như lễ cúng 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày,
100 ngày, giỗ đầu và cải táng nên tổ chức trong nội bộ gia đình, họ tộc, bạn
thân” [37].
Từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Nghi thức tang lễ của
người Việt theo Công giáo” (Nghiên cứu tại Giáo xứ Thái Hà – Hà Nội). Lấy
bối cảnh giáo xứ Thái Hà thuộc Giáo Hạt Hà Nội là khu vực nghiên cứu, bởi
đây là một giáo xứ có lịch sử thành lập hơn 80 năm gắn liền với những thằng
trầm của giáo hội Công giáo và gắn chặt với lịch sử Việt Nam trong suốt gần
một thập kỷ.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến Nghi thức tang ma của người Việt theo Công Giáo đã có
rất nhiều nghiên cứu của các tác giả thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà vấn đề này chưa được nghiên cứu
một cách hệ thống. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu dưới đây:
Có thể nói, nghi thức tang ma là một trong những nghi thức quan trọng
đối với đời sống của người Việt. Nó chi phối đời sống người Việt ở nhiều
lãnh vực trong sinh hoạt hàng ngày. Mặt khác nghi lễ tang ma là một yếu tố
mang yếu tố tâm linh, tính bản địa, bản sắc văn hóa của khu vực Đông Nam Á
nói chung và Việt Nam nói riêng, đồng thời nó là một đề tài gây tranh luận sôi
nổi của hầu hết các tôn giáo khác nhau như: Ki-tô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo,
Đạo giáo, Phật Giáo, Nho giáo, Thần giáo, Do Thái giáo… Và ngày nay nó
vẫn còn là vấn đề nan giải đối với các nhà khoa học: “Thờ cúng tổ tiên trong
lịch sử truyền giáo” của Đỗ Quang Hưng trong bài tham luận tại Toạ đàm về
Tôn kính tổ tiên, Huế. Hay Giáo Hội Công Giáo, “Các nghi thức”, thuộc nhà
xuất bản Tôn giáo. Hội đồng Giám mục Việt Nam “Sống đạo theo cung cách
Việt Nam”…
4
“Tài liệu hội thảo mùa phục sinh”. Mai Diệu Anh (2011), “Một số vấn
đề hội nhập nghi lễ Công giáo với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên người Việt
hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo.Nguyễn Hồng Dương (2011), “Tổ
chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam, lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt
ra”,… ở mỗi khía cạnh nào đó đều bàn đến thế giới tâm linh, đặc điểm nghi
thức tang ma của cộng đồng người Việt theo Công giáo.
Cuốn sách “Cẩm nang các nghi thức Bí tích và Á bí tích” của linh mục
Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, thuộc giáo phận TP. Hồ Chí Minh, nxb 2003, hay
cuốn “Giờ Chúa gọi nghi thức viếng xác và cầu hồn”, nxb Tôn giáo 2010,
“Nghi lễ An táng và Thánh Lễ Cầu Hồn” (UBGM.PV)… đưa ra đầy đủ các
bước diễn ra nghi thức Phụng Vụ và trong đó bao gồm cả Thánh Lễ tang lễ
của người theo Công giáo, tuy nhiên, cuốn sách chỉ có thể giúp người sử dụng
biết được các bước diễn ra nghi thức chứ không đi sâu vào phân tích ý nghĩa,
mục đích của việc thực hiện các nghi thức đó.
Cuốn sách Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam, Viện Khoa
Học Xã Hội Việt Nam Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, PGS. TS. Nguyễn Hồng
Dương chủ biên, nxb Từ Điển Bách Khoa, 2010; hay cuốn Công giáo trong
văn hóa Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Hồng Dương, nxb Văn Hóa Thông Tin,
2001… đã nói tới vấn đề Tang Lễ và những nghi thức tang ma của người Việt
theo Công giáo, tuy nhiên chỉ dừng lại ở một số khu vực ít bị ảnh hưởng bởi
sự thay đổi của kinh tế, chính trị, xã hội hay một vùng dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, tất cả các tác phẩm trên đều chưa đi sâu được vào bản chất,
tính riêng của các nghi thức diễn ra trong tang ma, giá trị nhân sinh trong nghi
thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích và làm rõ quan niệm của người Công giáo về thể
xác và linh hồn có thể hiểu được ý nghĩa của các nghi thức diễn ra trong
Thánh lễ An Táng của người Việt theo Công giáo và từ đó thấy được giá trị
nhân sinh trong nghi thức tang lễ của người Công giáo ở Việt Nam.
5
3.2. Nhiệm vụ
- Thứ nhất: Phân tích cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người
Việt theo Công giáo và quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của giáo
xứ Thái Hà – Hà Nội.
- Thứ hai: Phân tích các nghi thức diễn ra trong thánh lễ cầu hồn và an
táng của người Công giáo Việt Nam và người Công giáo tại giáo xứ Thái Hà
– Hà Nội, từ đó hiểu được giá trị nhân sinh và những tồn tại cần khắc phục
trong nghi thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu quan niệm của người Công giáo về thể
xác và linh hồn từ đó phân tích đặc điểm, ý nghĩa và tiến trình vận hành của
các nghi thức diễn ra trong tang lễ của người Việt theo Công giáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận giới hạn trong phạm vi là cộng đồng tín đồ người Việt theo
Công giáo tại giáo xứ Thái Hà – Hà Nội (địa chỉ: 180/2 Nguyễn Lương Bằng
– Quang Trung – Đống Đa – Hà Nội) trong khoảng thời gian từ năm 2015 –
2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cở sở những quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam về quy định
tang lễ của các tôn giáo ở Việt Nam.
Đề tài cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu có
liên quan đến khóa luận trong những năm gần đây.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài tôi quan tâm là “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công
giáo” (nghiên cứu tại khu vực giáo xứ Thái Hà – Hà Nội). Để thực hiện mục
đích nghiên cứu đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
6
Khảo sát – tham gia: là tiến hành những cuộc điều tra, khảo sát trong
nghiên cứu khoa học. Đi điền dã giúp cho việc thu thập tư liệu và điều tra
thực tế được chuẩn xác nhất để phục vụ cho đề tài của mình.
Quan sát: là cách thu thập dữ liệu, thông tin cần thiết cho một đề tài
nghiên cứu, tìm hiểu nghi lễ tang ma ở một giáo xứ thì việc quan sát giúp đề
tài có được góc nhìn khách quan và khái quát nhất.
Phỏng vấn sâu: là quá trình thu thập thông tin nghiên cứu bằng các
cuộc đối thoại có chủ đích với các thành viên trong cộng đồng kitô hữu, từ đó
thâm nhập vào đời sống ki-tô mà không mất quá nhiều thời gian tìm kiếm
thông tin, được tham dự vào cuộc sống của thông tín viên thông qua việc lắng
nghe, chia sẻ, ghi nhận những thông tin chân thành.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: là phương pháp dùng hai hay nhiều
các chỉnh thể so sánh với nhau để thấy điểm giống và khác nhau, tìm ra bản
chất của sự vật, hiện tượng. Trong bài nghiên cứu tôi so sánh giữa tang ma
người theo Công giáo và người không theo Công giáo trong phạm vi giáo xứ
Thái Hà tìm ra được cái tương đồng và khác biệt trong quan niệm về hồn và
sự tồn tại của hồn sau khi chết và hình thức thể hiện tấm lòng của người sống
đối với người đã khuất cũng như trong một số nghi lễ cụ thể diễn ra của đám
tang.
6. Đóng góp chính của khóa luận
- Khóa luận làm sáng tỏ quan niệm về linh hồn và thể xác của người
Công giáo
- Khóa luận phân tích được đặc điểm, ý nghĩa và tiến trình vận hành
của các nghi thức diễn ra trong tang lễ của người Việt theo Công giáo.
- Khóa luận chỉ ra được giá trị nhân sinh và những tồn tại cần khắc
phục trong nghi thức tang lễ của người Công giáo ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Đề tài khóa luận khái quát một cách hệ thống quan niệm về linh hồn và
thể xác của những người có niềm tin tôn giáo, từ đó hiểu được ý nghĩa và tiến
7
trình vận hành của các nghi thức diễn ra trong một đám tang của người Công
giáo ở Việt Nam.
8. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài khóa
luận “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” tại giáo xứ Thái Hà
gồm 2 chương, 5 tiết.
8
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHI THỨC TANG LỄ CỦA
NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ VÀI NÉT VỀ GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI
1.1. Cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người Công giáo
1.1.1. Quan niệm của người Công giáo về linh hồn và thể xác
Kinh Thánh bộc lộ rất rõ quan điểm về con người và linh hồn, đặc biệt
khi đứng dưới góc nhìn của Tân Ước: Con người là một hữu thể thuộc về vũ
trụ, có thể chất và tồn tại trong một thân xác hay huyết nhục cụ thể, bên cạnh
đó, con người cũng đồng thời là một sinh vật. Hữu thể con người không tự đủ
cho chính mình, có vô số những khát vọng, nhu cầu về tình cảm, sự biểu lộ
cảm xúc, thái độ khác nhau, con người cũng có khả năng lý luận, suy tư, lập
kế hoạch và đề ra quyết định, và điều quan trọng là con người có khả năng
tiếp nhận sự tác động từ Thiên Chúa, có khả năng tiếp nhận sự sống từ nơi
Thiên Chúa, khả năng có được một tâm hồn chính trực. Khả năng của con
người không phải là điều gì tự sức của con người có được và có thể sở hữu
như của riêng mình mà đó là do “thần khí” của Thiên Chúa, chính năng lực
của Thần Khí Người làm cho con người trở nên mạnh mẽ. Thần khí là thực tại
thần linh, Thần khí biểu thị quyền năng mà Thiên Chúa có thể thi thố bất cứ
khi nào.
Trong Tân Ước, Thần Khí được mặc khải như Đấng liên kết khăng khít
với Chúa Cha và Chúa Con trong việc thực hiện công trình cứu độ. Trong
Cựu ước lẫn Tân ước, nhất là trong các thư của thánh Phaolô, không phải lúc
nào cũng dễ dàng phận biệt được ý nghĩa đích xác của hạn từ “thần khí”, xét
như một khái niệm nhân học thì “thần khí là một quan năng để tiếp cận Thiên
Chúa” [56; tr. 159]. Một nét đặc trưng của Tân ước nói chung và đặc biệt của
các văn phẩm Phaolô, đó là sự đối lập giữa thần khí và xác thịt (xc. Mt 26,41;
Mc 14,38; Ga 3,6; 6,36; Rm 8,1-11, Gl 5,16-26,). Một bên là “thần khí”, tức
9
quyền năng Thiên Chúa được thông ban cho con người, ngược lại, bên kia là
“xác thịt” bị coi như sự yếu đuối của con người.
Và “linh hồn” chính là “thần khí” (F. Âme; L. Anima; E. Soul), các tôn
giáo đều cho rằng linh hồn là phần chính cốt, phần thiêng liêng của mỗi con
người, chính linh hồn hình thành lên cuộc sống, năng lực và nhân cách của
mỗi con người: linh hồn ở bên ngoài phần xác thịt, tồn tại mãi ở thế giới bên
kia, cả sau khi phân xác thịt đã tan rữa thành tro bụi. Đức tin và linh hồn có từ
thời xa xưa, trong cách lý giải theo thuyết vật linh về các hiện tượng tự nhiên,
như hơi thở, giấc mơ, cái chết… Khái niệm linh hồn gắn liền với giáo lý về
Chúa. Chúa ban tặng linh hồn cho con người từ khi sinh ra ở đời. Giáo lý về
linh hồn đã đánh lạc hướng tín đồ khỏi nỗi đau khổ hàng ngày, giải thoát khỏi
mọi sự áp bức bằng con đường cứu độ, mong đợi lên thế giới Thiên Đàng.
Trong Tân ước, xuất hiện trong lời nói của Đức Giêsu về sự đối lập
giữa phần xác – phần hồn “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không
giết được linh hồn. Đúng hơn, hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác
trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Linh hồn được gắn với sự bất tử, khi nhắc đến
linh hồn của những người quá cố.
Linh hồn không thể cắt nghĩa được dựa theo cấu tạo sinh lý giống như
phần xác con người. Trí khôn nói cho ta rằng: “phải có một nguyên lý linh
thiêng nối kết với xác, mà không vì thế cũng giống y như xác. Ta gọi là
“hồn”. Mặc dù không thể dùng khoa học để chứng minh là có linh hồn, tuy
nhiên nếu không đếm xỉa tới cái yếu tố linh thiêng làm chủ vật chất này, ta
không thể hiểu được rằng con người là một hữu thể linh thiêng”. (153-
154,163), vì lẽ đó “hãy làm điều gì tốt cho xác bạn, để hồn bạn được vui vẻ ở
trong xác.” Trích lời Thánh Têrêsa Avila (1515-1582), nhà thần bí Tây Ban
Nha, tiến sĩ Hội Thánh. Và Đức Bênêđictô XVI, Deus Caritas est cũng khẳng
định rằng: Con người chỉ thực sự là con người khi hồn và xác hiệp nhất sâu xa
với nhau. Nếu con người chỉ muốn là tinh thần và muốn từ bỏ thể xác phàm
tục thì cả tinh thần lẫn thể xác đều mất hết phẩm giá. Ngược lại, con người
10
muốn từ bỏ tinh thần và coi trọng vật chất, coi thân xác như thực tại duy nhất
của mình thì họ cũng tự làm mất đi giá trị cao cả của mình.
Linh hồn là cái làm cho ta trở thành một con người. Nhờ linh hồn, con
người có thể xác nhận cái "Tôi" của mình, và đứng trước Thiên Chúa như một
cá thể không ai thay thế được. Vì linh hồn không phải là vật chất, nên chúng
ta không thể tách ra từng phần và phần thiêng liêng của mỗi con người chỉ có
thể hiện hữu qua hành vi tạo dựng trực tiếp của Thiên Chúa.
Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái
chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan viết vào những
năm 30 trước công nguyên tại Alexandria, đã đề cập đến linh hồn con người,
đó là “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình
nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng
cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ
bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an” (Kn 3 1-3).
Kinh Nghĩa Đức Tin đã viết: “Linh hồn thiêng liêng chẳng hề chết
được. Và đến ngày tận thế, xác loài người ta sẽ sống lại mà chịu phán xét, kẻ
lành lên Thiên đàng hưởng phúc đời đời, kẻ dữ sa Hỏa ngục chịu phạt vô
cùng” [27; tr. 35]. Và trong Kinh Tin Thánh cũng có đoạn viết về sự sống sau
cái chết.
Người Việt theo Công giáo cũng tin rằng giữa những người đang sống
và những người khuất vẫn có mối liên hệ qua lại. Các Thánh sẽ cùng Thiên
Chúa phù hộ cho những người sống. Người sống tạo lập các công phúc nhằm
giúp các linh hồn chuộc những tội lỗi đã phạm phải khi còn ở trần gian, có thể
lên Thiên Đàng và lại cùng Thiên Chúa phù hộ cho chính người sống.
Chết là khi linh hồn rời khỏi xác. Linh hồn mang tính thiêng liêng
chẳng hề tan biến. Linh hồn ngay khi rời khỏi xác thịt con người phải đến
trước tòa Đức Chúa Giêsu mà chịu phán xét riêng về tội phúc mà chịu thưởng
phạt tùy theo việc lành, dữ mình đã làm khi còn ở thế gian. Sau khi nhận sự
phán xét của Chúa, những người sạch tộicùng những người đã đền tội cho đủ
11
mới được lên Thiên đàng. Thiên đàng là nơi chứa đựng sự thanh nhàn vui vẻ
đời đời, mà phúc nhất trên Thiên đàng là được chiêm ngưỡng dung nhan Đức
Chúa.Những người lành, nhưng còn mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ, thì
phải chịu phạt nơi luyện ngục. Có thể cứu rỗi linh hồn từ luyện ngục bằng
cách người thân của họ cầu nguyện và làm lễ cho các linh hồn. Những người
chỉ cần phạm tội trọng là đã phải chịu hình phạt hỏa ngục. Hỏa ngục là chốn
hình khổ, để mà phạt ma quỷ cùng những kẻ chết đang khi mắc tội trọng.
Những kẻ đã bị xa vào hỏa ngục thì không thể cứu giúp và hình phạt không
thể giảm bớt. Quan niệm về sự chết, sự sống, về phần hồn, phần xác là những
tín điều mà mọi giáo dân Công giáo đều tin theo.
Đối với người Kitô hữu, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần
vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng ta đã nên một với
Đức Kitô nhờ được chết như người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với
người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,5). Đức Giêsu đã nói
về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết rằng: Quả
thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa Con và tin vào Người
Con, sẽ có được sự sống đời đời, và sẽ cho họ sẽ được chỗi dậy trong ngày
sau hết.
Công đồng Vatican II đã nói lên tình trạng của con người trước cái chết
như sau: Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên đến tột độ. Con
người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần đến tan rã của thân
xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời... Mọi cố
gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi ngoai được nỗi lo
âu của con người, bởi vì đời sống sinh vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa,
cũng không thể thỏa mãn được khát vọng cuộc sốngtrong lòng con người.
Trước cái chết, óc tưởng tượng của con người đành bất lực. Nhưng
Mạc khải của Thiên Chúa quả quyết rằng con người được Chúa dựng nên để
đạt tới cứu cánh hạnh phúc sau những khổ cực trần thế này. Hơn nữa, đức tin
Kitô giáo còn dạy rằng giả như con người không phạm tội, thì đã không phải
12
chết; sự chết này sẽ bị đánh bại khi Đấng Cứu Thế toàn năng và nhân ái mang
lại cho con người sự cứu rỗi mà vị tội lỗi, họ đã đánh mất. Bởi vì Thiên Chúa
đã và đang kêu gọi con người đem toàn thân kết hợp với Ngài trong sự hiệp
thông vĩnh viễn vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã đem lại
chiến thắng ấy khi Người sống lại và nhờ cái chết của Người, Người đã giải
phóng con người khỏi sự chết. Vậy đức tin với những lý chứng vững chắc
đem lại giải đáp cho bất cứ ai khắc khoải ưu tư về số phận tương lai của mình.
Đồng thời đức tin còn cho con người khả năng hiệp thông với những anh em
thân yêu đã chết trong Chúa Kitô, và làm cho họ hy vọng rằng những người
ấy đã được sống thực sự nơi Thiên Chúa (GS 18).
Thật vậy, để giải thoát ta khỏi quyền lực Thần chết, trước tiên Đức Kitô
đã đến để nhận lấy cho mình số phận tử vong của chúng ta. Ngài thực hiện
thánh ý của Chúa Cha là muốn cứu độ tất cả mọi người. Ngài đã chết “vì
chúng ta” (1 Tx 5, 10), “cho tội chúng ta” (1Cr 15, 3) để làm hy tế xá tội (x.
Dt 9). Nhờ cái chết của Ngài, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa x. Rm 5,
10), hầu có thể lãnh nhận gia nghiệp muôn đời (x. Dt 9, 15). Ngài đã chiến
thắng tử thần bằng sự phục sinh vinh hiển (x. 1Cr 15, 4), nên quyền lực của
Thần chết từ đó đã bị vô hiệu hóa (x. Rm 6, 9). Kể từ giây phút đó, tương
quan của con người với sự chết đã thay đổi, vì từ nay Đức Kitô chiến thắng sẽ
luôn chiếu soi “những người ngồi trong bóng sự chết” (Lc 1, 79).
Nếu bạn đã sống với mọi khoảnh khắc mà Chúa ban cho bạn, thì bạn sẽ
không còn than vãn và khóc lóc khi cái chết cận kề... Những người đã chết
một cách hạnh phúc là những người từng nỗ lực để sống. Qua việc phục sinh,
Ngài trở thành thủ lĩnh của một nhân loại, Ngài cũng sẽ mang tất cả nhân loại
đi vào cái chết và đến với sự phục sinh giống như Ngài.
Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của
Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: “Để được chỗi dậy với
Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân
xác để được cư ngụ với Chúa”. Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi
13
thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác
trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công chính đã ra
đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi
đó tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
Ngoài những lý lẽ suy luận của trí khôn nói trên, những tín hữu Ki-tô
còn có một lý lẽ chắc chắn khẳng định có đời sống vĩnh cửu sau khi chết dựa
vào mạc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh, đặc biệt, họ tin vào lời giảng
dạy của Đức Giê-su về đời sống của con người sau khi chết rằng: Linh hồn
con người sau khi chết sẽ chịu sự phán xét của Chúa về những việc mình đã
làm khi còn sống. Đến ngày tận thế, thì mọi xác chết đều được Thiên Chúa
dùng quyền phép của mình mà cho sống lại để cùng chịu phán xét và chung
số phận với linh hồn.
Suy ngẫm về sự chết là điều cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến
cuộc sống: làm thế nào để yêu, để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để
tránh những tội lỗi, những vấp phạm, làm thế nào để khẳng định về chính
mình như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối
lợi”. Vì thế“Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39).
Mối quan hệ qua lại giữa người sống với các linh hồn và Thiên Chúa
chính là cơ sở niềm tin của sự chuyển giao công trạng. Người sống thờ kính
những người đã khuất để bày tỏ lòng biết ơn của mình với họ vì những gì họ
đã làm cho con cháu khi còn sống và cả những điều họ sẽ cùng Chúa ban
phúc cho con cháu sau khi chết.
Như vậy, theo kế hoạch của Thiên Chúa, linh hồn và thể xác sẽ hiệp
thông với nhau, cái chết của con người không mang tính chết chóc, nhưng là
một định hướng cho cuộc sống mới. Điều này thể hiện rất rõ qua các nghi
thức diễn ra trong Thánh lễ An táng của người Việt theo Công giáo tại giáo
xứ Thái Hà.
14
1.1.2. Những quy định về tang lễ trong Bộ giáo luật 1983
Lễ tang là một việc quan trọng và phức tạp trong đời sống xã hội con
người, tùy vào từng tín ngưỡng, tôn giáo lại có cách lý giải xung quanh cái
chết và cách xử lý xác người chết như thế nào. Ngay thời sơ khai, nhiều tôn
giáo đã cho rằng con người sống chỉ là gửi, chết mới là về chốn lâu dài; sau
khi chết, con người vẫn tiếp tục sống một cuộc sống như trước, linh hồn họ
vẫn ở lại với người đang sống, hoặc ở lại một nơi nào đó, hoặc tiếp tục sống
tại thế giới bên kia. Nhưng dù ở đâu, linh hồn người chết vẫn ảnh hưởng đến
những người đang sống.
Quan niệm như vậy, cho nên đối với Giáo hội Công giáo, lễ tang có vai
trò đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh và lễ tục vòng đời. Vì vậy,
việc cử hành lễ an tang của người Việt theo Công giáo được ghi chép lại khá
cụ thể trong cuốn “Bộ Giáo Luật 1983” của nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội
2004, hay trong cuốn sách “Nghi thức An táng Công giáo” – Order of
Christian Funerals, viết tắt là OCF được ấn hành năm 1989, là ấn bản Anh
ngữ được Tòa Thánh phê chuẩn theo quy định của giáo luật. Ấn bản bằng
tiếng Tây Ban Nha El Ritual de las Exequias Cristianas, được phê chuẩn vào
năm 2011, đã được chấp thuận sử dụng trong các giáo phận tại Hoa Kỳ.
Lễ tang được tổ chức muôn hình vạn trạng khác nhau trong lịch sử các
dân tộc, bộ lạc, Lễ tang gồm các hình thức xử lý với thây người chết ( như
thiêu, chôn sâu có hoặc không cải táng,…), làm các nghi lễ, cầu nguyện, khấn
cúng, làm các “phép” cho người chết siêu thoát, làm các công trình trên mộ,
tưởng nhớ người mất. Và đương nhiên mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại xếp đặt
và chọn lựa nhiều hinh thức xử lý khác nhau theo nguyên tắc giáo lý riêng của
mình, nhằm đi tới những hiệu quả khác nhau trong đời sống tâm linh của tín
đồ đạo mình.
Đối với lễ tang của người Việt theo Công giáo, các nghi thức diễn ra
trong một tang lễ là công việc cử hành của cộng đoàn Kitô hữu, của người
thân trong gia đình nhằm bày tỏ nỗi đau buồn, đồng thời nói lên niềm hy vọng
15
khi hướng về cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Trước cái chết của một
người Kitô hữu vốn đã sống cuộc đời được khởi sự từ nước Thánh Tẩy và
được củng cố nơi bàn tiệc Thánh Thể, Giáo Hội thay mặt người mới qua đời
dâng lời chuyển cầu. Việc tổ chức tang lễ là trách nhiệm của Giáo Hội nhằm
xoa dịu những người đang đau buồn và an ủi họ bằng nghi thức an táng với sự
nâng đỡ của Lời Chúa và với bí tích Thánh Thể. Vì vậy, việc phân tích rõ
những quy định về việc cử hành tang lễ và quy tắc phụng vụ diễn ra sẽ giúp
chúng ta có cái nhìn hoàn thiện hơn về tang lễ của người Công giáo.
Cộng đồng người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà chấp hành
Giáo Luật mà Giáo Hội Công Giáo bàn hành, đồng thời, chấp hành đúng
những quy định của Nhà nước về luật tang lễ, vì vậy, việc cử hành tang lễ về
cơ bản vẫn theo một trình tự nhất định và các tín hữu tại giáo xứ Thái Hà hầu
hết lựa chọn hình thức tang lễ cho người quá cố bằng hình thức Hỏa Táng.
Việc cử hành lễ an táng được Giáo luật Công giáo quy định tại:
- Điều 1177: Thường lệ, lễ an táng cho một tín hữu quá cố phải cử hành
tại nhà thờ giáo xứ của người ấy. Tuy nhiên, mọi tín hữu hay những người lo
tang lễ cho tín hữu quá cố, được phép lực chọn một nhà thờ khác để cử hành
lễ an tang, miễn là được vị quản đốc nhà thờ đồng ý, và phải thông báo cho
Cha Sở riêng của người quá cố biết. Nếu ai chết ở ngoài giáo xứ riêng, và thi
hài không được đem về đó, cũng không có nhà thờ nào được chọn lựa hợp lệ
để cửa hành tang lễ, thì lúc đó phải cử hành lễ an tang tại nhà thờ của giáo xứ
nơi người ấy chết, trừ khi luật địa phương chỉ định thể khác.”
- Điều 1178: “Lễ an táng của Giám mục giáo phận phải được cử hành
tại nhà thờ chính tòa của giáo phận, trừ khi chính ngài đã chọn một nhà thờ
khác”;
- Điều 1179: “Lễ an táng của các tu sĩ hay các phần tử của tu đoàn tông
đồ thường được cử hành tại nhà nguyện hay nhà thờ riêng, do cha Bề trên,
nếu đó là dòng tu đoàn giáo sĩ và do cha Tuyên úy trong những trường hợp
khác”.
16
- Điều 1176: Các tín hữu qua đời phải được an tang theo nghi thức
Giáo hội, do luật định. Qua lễ nghi an tang, Giáo Hội cầu xin ơn trợ giúp
thiêng liêng cho người quá cố, tôn trọng thi hài của họ, và đồng thời đem lại
ủi an và hy vọng cho người con sống. Các lễ nghi phải được cử hành đúng
theo quy luật phụng vụ. Giáo Hội thiết tha khuyên nhủ nên duy trì phong tục
đạo đức chôn cất thi hài người quá cố. Tuy nhiên, Giáo hội không cấp hỏa
tang, trừ khi nào sự hỏa tang được chọn lựa vì những lý do trái ngược với đạo
lý Ki-tô giáo.
Mọi người Việt theo Công giáo, nếu không bị khai trừ vì lý do đặc biệt
theo quy định của Giáo luật, lúc qua đời đều sẽ được an táng theo nghi thức
tang lễ của Giáo hội. (Giáo luật, điều 1176 §1) đó là:
- Trước tiên cần phải gọi điện thoại báo cho giáo xứ biết để sắp xếp
lịch trình. Cần có sự phối hợp giữa văn phòng giáo xứ, gia đình người mới
qua đời và nhà quàn do gia đình chọn, để nhờ giáo xứ sắp xếp buổi Canh thức
cầu nguyện, Thánh lễ an táng và Nghi thức Từ biệt.
- Thông thường, Thánh lễ an táng chính là yếu tố trung tâm trong Tang
lễ của người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà. Thánh lễ an táng, cuộc
tưởng niệm cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, là cầu nguyện xin Thiên
Chúa thương xót người mới qua đời và an ủi người đang sống, gồm toàn thể
cộng đoàn tín hữu.
- Chỉ các biểu tượng Kitô giáo mới được đặt trên hoặc kê gần quan tài
trong lúc cử hành Phụng vụ an táng. Các quốc kỳ hoặc huy hiệu hội đoàn
được cất khỏi quan tài lúc đến cửa nhà thờ và được đặt lại sau khi quan tài đã
được đưa ra khỏi nhà thờ (Nghi thức an táng Công giáo, số 38 và số 132).
- Được phép cử hành Nghi thức an táng Công giáo, gồm cả cử hành
Thánh lễ an táng, cho người đã được rửa tội nhưng không phải là Công giáo,
vốn tỏ rõ lòng ước ao hoặc quý mến Nghi thức Công giáo. Việc chấp nhận
này sẽ thật thích đáng nếu các Kitô hữu không thuộc Giáo hội Công giáo này
17
từng thường xuyên làm việc thờ phượng tại nhà thờ Công giáo hoặc gắn bó
với Giáo hội Công giáo hơn cả.
- Nhằm cổ vũ và tỏ lòng quý trọng đối với các mối liên hệ gia đình,
những người không Công giáo trong các gia đình Công giáo cũng được mai
táng trong nghĩa trang Công giáo. Giáo sĩ thuộc các cộng đoàn khác có thể
chủ sự các nghi thức tại nghĩa trang theo truyền thống của mình, nếu gia đình
có ý muốn như vậy, hoặc nếu đó là nguyện vọng của người quá cố.
- Giáo hội khuyên nên mai táng các tín hữu Công giáo tại nghĩa trang
Công giáo (Giáo luật, điều 1180 §1). Việc mai táng tại nghĩa trang Công giáo
đã được làm phép là dấu chỉ của lời hứa khi chịu phép Rửa tội, đồng thời, dù
đã qua đời, vẫn làm chứng cho niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô.
- Trẻ em chết trước khi được Rửa tội, hoặc chết ngay lúc chào đời hoặc
bị sẩy thai, cũng được cử hành Nghi thức an táng Công giáo nếu cha mẹ trước
đó đã muốn con mình được rửa tội. Di hài của bào thai hoặc trẻ sơ sinh, nếu
có thể, nên được chôn cất một cách xứng hợp theo truyền thống Công giáo.
Các di hài này hoặc được chôn trong mộ riêng từng người hoặc ở khu mai
táng chung.
- Không phản đối các tín hữu Công giáo hiến tặng cho y học thân thể
hoặc các bộ phận cơ thể của mình sau khi chết. Khi thu nhận xác hoặc lấy các
bộ phận ra, phần thi hài còn lại phải được bảo đảm xử lý một cách đúng đắn,
tôn kính. Gia đình của người hiến xác được khuyến khích nên dâng Thánh lễ
càng sớm càng tốt sau khi người hiến xác qua đời. Mọi phần còn lại của thi
hài, sau khi bộ phận hiến tặng đã được lấy ra để cấy ghép hoặc nghiên cứu y
khoa, phải được mai táng một cách xứng hợp. Nghi thức Phó dâng và Từ biệt
(Nghi thức an táng Công giáo, các số 224-233) có sẵn các lời nguyện dành
cho người hiến xác và gia đình của người hiến xác.
- Có thể mai táng người không Công giáo trong nghĩa trang Công giáo.
- Việc chăm sóc mục vụ đối với các cặp đồng tính, hiện có hai giá trị
được nêu lên: tôn trọng ý muốn của người quá cố, và bảo vệ quyền được an
18
táng của người tín hữu Công giáo. Trong trường hợp có điều còn hoài nghi,
cần phải tham khảo ý kiến của Bản quyền Địa phương và tuân theo phán
quyết của ngài.
- Có thể cử hành Nghi thức an táng Công giáo cho người qua đời vì
tự tử.
1.2. Lịch sử hình thành, hoạt động và phát triển của giáo xứ Thái
Hà – Hà Nội
1.2.1. Lịch sử hình thành giáo xứ
Giáo xứ Thái Hà là một trong những giáo xứ thuộc tổng giáo phận Hà
Nội – là xứ đạo có nhiều hoạt động giá trị đóng góp cho Giáo Hội, một trong
những xứ đạo trọng điểm, diễn ra nhiều sự kiện chính trị thu hút sự chú ý của
các họ, xứ đạo trên cả nước. Tôi có thể tóm lược lịch sử hình thành giáo xứ
Thái Hà qua một số những dữ kiện lịch sử mà tôi thu thấp được:
Ðầu năm 1926, 2 linh mục tên Hubert Cousineau và Eugène Larouche
đã đặt chân đến khu vực miền Bắc để giao giảng cho các linh mục ở Phát
Diệm, Hà Nội và Hưng Hóa. Trong suốt quá trình giao giảng các linh mục
này đã muốn thiết lập một Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế. Giữa năm 1926,
trong kỳ kinh lược Việt Nam đầu tiên, Giám Tỉnh Thomas Pintal đã trực tiếp
xúc tiến việc thành lập Dòng Chúa Cứu Thế tại miền Bắc.
Năm 1928, nhờ sự giúp đỡ của Toà Giám Mục Hà Nội, 2 linh mục
Hubert Cousineau và Eugène Larouche đã mua được khu đất 64 héc-ta ở ấp
Thái Hà, lập nên tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội và hoạt động dựa trên
Giáo Luật của giáo hội.
Năm 1933 Nhà Dòng đã xây dựng toà tu viện mà hiện nay đã bị chiếm
dụng làm bệnh viện Đống Đa. Năm 1935 xây dựng một ngôi đền đơn sơ kính
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong khi chờ đợi có đủ điều kiện để xây dựng một
ngôi đền khang trang hơn trên khu đất là linh địa Đức Bà cũng đã bị chiếm
dụng. Cũng trong năm 1935, Học Viện được thành lập. Số sinh viên Việt
Nam và Canada tăng rất nhanh, vì vậy, năm 1938, Phụ Tỉnh phải xây dựng
19
thêm một ngôi nhà mới dành cho Học Viện; ngôi nhà này được khánh thành
năm 1939.
Năm 1935, khánh thành nhà thờ, các cha mở rộng việc sùng kính Ðức
Mẹ Hằng Cứu Giúp. Ngày 23-06-1935, số đầu tiên Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng
Cứu Giúp được phát hành. Năm 1936, Tu Viện xây dựng nhà nghỉ Mẫu Sơn.
Năm 1939, Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội đứng ra thành lập và phụ
trách Giáo xứ Thái Hà theo đề nghị của Toà Thánh và Toà Giám Mục Hà
Nội, trên cơ sở là họ đạo Nam Đồng, thuộc xứ Nhà Thờ Chính Toà. Từ năm
1936, các cha bắt đầu giảng đại phúc bằng tiếng Việt tại Hà Nội. Công cuộc
này sau đó phát triển và mở rộng tới các Giáo Phận Phát Diệm, Hưng Hoá,
Bùi Chu.
Năm 1940, mở lớp đầu tiên cho các tu sĩ người Việt Nam tại Học Viện
Thái Hà. Nhân sự trong cộng đoàn ngày một đông hơn: năm 1941, Tu Viện có
66 thành viên, gồm 17 linh mục, 26 sinh viên, 12 thầy và 11 tập sinh.
Giữa lúc Tu Viện đang ở trong thời kỳ thịnh vượng, chiến tranh thế
giới lần thứ hai bùng nổ, và bóng đen u ám của nó bắt đầu ập xuống trên
Cộng Ðoàn Hà Nội.
Từ năm 1942 đến năm 1945, trong thời gian quân đội Nhật chiếm đóng
Việt Nam, Tu Viện bị cô lập hoàn toàn, quý cha, quý thầy người Canada gần
như bị quản chế trong Tu Viện, không được ra khỏi nhà và không được làm
việc. Các cha Việt Nam cũng không thể đi rao giảng ở các giáo xứ ngoài
thành phố Hà Nội. Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp bị đình bản. Tuy
nhiên, công việc mục vụ tại nhà thờ vẫn được thực hiện, mặc dù gặp rất nhiều
khó khăn.
Năm 1945, Tu Viện lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn vì đói kém,
dịch bệnh và loạn lạc hoành hành. Tuy nhiên, quý cha, quý thầy vẫn tích cực
cứu giúp các nạn nhân ở trại Thái Hà, trại Giáp Bát và Bệnh viện Bạch Mai.
Riêng cha Louis-Philippe Vaillancourt còn lập một bệnh xá trong khu vực
20
Nhà Dòng, chăm sóc cho khoảng 400 người, trong số đó gần 200 người đã
được cứu sống.
Trong công cuộc phục vụ này, Nhà Dòng đã hiệp thông sâu xa với
những đau thương, mất mát của Dân Tộc. Nhiều cha, nhiều thầy trong Tu
Viện đã bị bệnh nặng do lây lan khi chăm sóc các nạn nhân của trận đói và
dịch bệnh năm Ất Dậu 1945. Cha Gia-cô-bê Nguyễn Khắc Cân bị hư mất một
mắt. Cha Âu-tinh Nguyễn Hòa Hiệp qua đời vì lây bệnh. Cha Gio-an Ma-ri-a
Nguyễn Kim Dong bị máy bay bắn chết trên đường đưa một bệnh nhân từ
Nam Ðịnh ra Hà Nội cấp cứu.
Ngôi nhà nguyện được xây từ năm 1938, nay đang xử dụng làm nhà
thờ giáo xứ Thái Hà Tháng 08-1945, các hoạt động mục vụ bình thường tại
nhà thờ Thái Hà đã được phục hồi sau một thời gian phải tạm ngưng vì
những lý do khác nhau. Từ năm 1946 đến năm 1954, Tu Viện tiếp tục sống
trong cảnh khó khăn vì chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội và sau đó lan rộng
khắp Việt Nam.
Công việc tông đồ trường kỳ của quý cha, quý thầy Nhà Hà Nội trong
giai đoạn này là trợ giúp các nạn nhân chiến tranh từ khắp nơi đổ về tị nạn tại
Tu Viện, cũng như tại các trung tâm Thái Hà, Bạch Mai và Nam Ðồng. Tuy
nhiên, tại những nơi có thể được, quý cha, quý thầy trong cộng đoàn mau
chóng tổ chức các hoạt động mục vụ giúp đỡ giáo dân.
Tháng 06-1949, Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp tái ra mắt độc
giả. Cha Giuse Vũ Ngọc Bích làm chủ nhiệm. Ngày 07-12-1950, cha Bề Trên
Giám Phụ Tỉnh quyết định chuyển Nhà Tập và Học Viện vào miền Nam, Tu
Viện Thái Hà chỉ còn 11 cha và 6 thầy; tuy vậy, công cuộc tông đồ của Tu
Viện vẫn phát triển. Số giáo dân trong giáo xứ tăng rất nhanh do chạy loạn từ
nơi khác về Hà Nội và do cư dân trong các làng thuộc khu vực giáo xứ trở lại.
Có thể so sánh sinh hoạt mục vụ của Tu Viện Thái Hà Ấp trong thời gian này
với hoạt động mục vụ của Tu Viện Sài Gòn trong 2 thập niên sau.
21
Sau này, một thừa sai Canada viết: Chúng tôi có một giáo xứ năng
động ở Hà Nội, giáo xứ này thực sự là một trung tâm tôn giáo của Việt Nam.
Trong cuộc họp tổng kết mục vụ của Giáo Phận Hà Nội năm 1947, cha Cras,
O.P, cho rằng Thái Hà là giáo xứ có tổ chức tốt nhất và có nhiều sinh hoạt
sống động nhất tại Hà Nội.
Năm 1954, sau khi hiệp định Geneve được ký kết, toàn bộ quý cha, quý
thầy và đệ tử chuyển vào miền Nam. Thầy Clê-men-tê Phạm Văn Ðạt tình
nguyện ở lại. Phụ Tỉnh đã cử cha Denis Paquette và cha Thomas Côté từ Huế
ra giữ Nhà Hà Nội. Cha Giuse Vũ Ngọc Bích và thầy Marcel Nguyễn Tấn
Văn ở Ðà Lạt tình nguyện ra theo. Tu Viện lớn nhất Phụ Tỉnh, nơi đã đào tạo
được 45 cha và 50 thầy, lúc này chỉ còn 3 cha và 2 thầy. Dòng Chúa Cứu Thế
Hà Nội bước vào một giai đoạn khó khăn chưa từng thấy.
Năm 1956, nhờ chính sách sửa sai của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, cha Giuse Vũ Ngọc Bích được phép đi giảng 6 tháng ở 12 tỉnh –
thành. Tuy nhiên, ngài đã bị các nhà chức trách địa phương thu giấy phép cấm
hoạt động tại các khu vực và mời quay trở lại Hà Nội.
Ngày 07-05-1955, thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn bị bắt. Ngày 23-10-
1958 cha Denis Paquette bị trục xuất. Ngày 09-07-1959, thầy Marcel Nguyễn
Tấn Văn qua đời trong một trại giam tại Yên Bái. Tháng 11-1959, đến lượt
cha Thomas Côté bị trục xuất. Ngày 09-10-1962, thầy Clê-men-tê Phạm Văn
Ðạt bị bắt; thầy qua đời trong một trại giam tại Yên Bái ngày 07-10-1970.
Cha Giuse Vũ Ngọc Bích trở thành Bề Trên không bề dưới.
Cái chết của hai thầy cũng như sự hiện diện của cha Giuse Vũ Ngọc
Bích từ đó cho đến ngày nay, vừa là dấu chứng về sự tồn tại trung kiên của
Nhà Dòng nơi nửa phần Ðất Nước, vừa là dấu chỉ tình thương của Thiên
Chúa đổ xuống trên Nhà Dòng. Khi các toà nhà chính của Tu Viện bị trưng
dụng, cha Giuse Vũ Ngọc Bích được xây cho một ngôi nhà nhỏ ở phía đông
nam nhà thờ, tiếp tục đón con cái Ðức Mẹ từ khắp nơi về hành hương.
22
Năm 1985, khi được trả tự do, cha Giuse Trần Hữu Thanh tình nguyện
ở lại phục vụ miền Bắc, giúp giáo xứ Phú Tảo, gần thành phố Hải Dương,
thuộc Giáo Phận Hải Phòng. Thế là cộng đoàn Hà Nội được gia tăng nhân sự.
Năm 1992, bắt đầu có các cha từ miền Nam ra giúp mục vụ thường
xuyên tại Thái Hà; người đầu tiên là cha Giuse Trần Ðức Khâm, sau đó là cha
An-phong Hoàng Gia Khanh, tiếp đến là thầy Giuse Võ Văn Tuệ và các cha,
các thầy khác. Năm 1993, cha Giuse Trần Hữu Thanh được cử làm Bề Trên –
Chính Xứ. Ngài vừa ở Trần Nội vừa ở Hà Nội. Cũng năm này, thầy Giuse
Trịnh Ngọc Hiên được phép ra Hà Nội giúp cha Giuse Vũ Ngọc Bích và được
lãnh sứ vụ linh mục ngày 10-06-1994. Ðó là một biến cố vui mừng đặc biệt
cho anh em Nhà Hà Nội, cho Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam và cho tất
cả những ai quan tâm đến sự hiện diện của Dòng Chúa Cứu Thế ở miền Bắc.
Năm 1996, cha Giuse Trịnh Ngọc Hiên được đặt làm Bề Trên-Chính
Xứ. Tu Viện và giáo xứ đi vào hoạt động sôi nổi. Các lãnh vực mục vụ từng
bước được tái tổ chức và thích nghi cho phù hợp hoàn cảnh. Nhờ đó, Tu Viện
mang lại nhiều ơn ích thiêng liêng cho đông đảo giáo dân tại Hà Nội và các
giáo phận khác tại miền Bắc về hành hương kính Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Những ơn ích thiêng liêng ấy còn được gia tăng cách này cách khác nhờ
những công cuộc tông đồ được thực hiện dưới những hình thức khác nhau tại
Hà Nội, Phát Diệm, Hưng Hoá, Bắc Ninh, Bùi Chu, Hải Phòng, Thanh Hoá,
Vinh, Lạng Sơn.
1.2.2. Hoạt động và phát triển của giáo xứ
Thư chung 1980 là một trong những văn kiện đã đề cập khá đầy đủ và
toàn diện về trách nhiệm của người Công giáo đối với vấn đề kinh tế - chính
trị đất nước, cũng như hoàn thiện hơn đường hướng hoạt động, đời sống sinh
hoạt tôn giáo của tín hữu Ki-tô
Thư chung nhắc đến 3 tư tưởng lớn của Giáo hoàng Phaolo VI khi mới
làm giáo hoàng, trong thông điệp đầu tiên với nhan đề: Giáo hội Chúa Ki-tô.
Tư tưởng thứ nhất là đã đến lúc giáo hội phải có một nhận định sâu xa về
23
chính mình, phải suy ngẫm về mầu nhiệm của mình. Tư tưởng thứ hai là đem
toàn bộ mặt thật của giáo hội ngày nay đối chiếu với hình ảnh lý tưởng của
giáo hội như Chúa Ki-tô đã thấy, đã muốn và đã yêu như “Ban thánh thiện và
tinh tuyền của mình” (EP 5,27) từ đó sinh ra một ước muốn quảng đại và bức
thiết là phải canh tân. Còn tư tưởng thứ ba là đời sống sinh hoạt tôn giáo của
cộng đồng tín hữu ki-tô phải hài hòa giữa giáo hội và đất nước, thế giới.
Sau những phần nội dung từ đoạn 5 đến đoạn 8 như một sự “dọn
đường” cho những lập luận kế tiếp của đoạn 9 trong Thư chung, đó là: Gắn bó
với dân tộc và đất nước “là Hội thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta
quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc,
hòa mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước”. Cộng đồng dạy rằng “Hội
Thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần
gian với thế giới” (MV 40.2).
Thực hiện đúng với những gì mà Thư chung đề ra, giáo xứ Thái Hà
trong nhiều năm qua đã đồng hành với dân tộc Việt Nam trên nhiều “chặng
đường”. Cộng đồng tín hữu các xứ họ, đạo nói chung và giáo xứ Thái Hà nói
riêng luôn vì quê hương Việt Nam nơi họ được Thiên Chúa mời gọi để sống
làm con của Người. Đất nước này là lòng mẹ cưu mang họ trong quá trình
thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Chính vì vậy, nhiều năm qua giáo xứ Thái Hà đã cùng đồng bào cả
nước tích cực bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc. Xây dựng trong Hội thánh một
nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc. Hội
thánh lựa chọn “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc, để phục vụ hạnh phúc của
đồng bào.”
Tu viện đã lập trại Cứu tế và trại Tỵ nạn Thái Hà để cứu giúp hàng
nghìn người từ các nơi đổ về trong trận đói kém và dịch bệnh năm 1945 cũng
như trong cuộc chiến 1946-1954. Một số dãy nhà được cất lên để dùng vào
việc này vẫn còn tồn tại cho đến những năm gần đây. Từ năm 1954 tu viện đã
xây dựng trường Trung học Khâm Thiên và các trường tiểu học tại các làng ở
24
khu vực Đống Đa và Thanh Xuân hiện nay. Đấy là những ngôi trường đầu
tiên theo hệ thống giáo dục hiện đại được thành lập trong vùng này. Trong
suốt quá trình hình thành và phát triển Thái Hà đã đóng góp rất nhiều trong sự
nghiệp mở mang giáo dục, y tế, thể dục thể thao trong khu vực.
Các hoạt động Thánh Lễ, hoạt động Mục vụ của giáo xứ đều xoay
quanh con đường đã lựa chọn là sống Phúc âm giữa lòng dân tộc, để phục vụ
hạnh phúc đồng bào, điều này càng làm sáng tỏ đức tin và lòng yêu nước của
các tín đồ Ki-tô tại giáo xứ Thái Hà.
Những năm vừa qua đã có không ít các sự kiến chính trị xảy ra tại Hà
Nội với chính quyền đã gây sự quan ngại lo lắng của người đứng đầu Giao
hội La Mã. Có lẽ vì vậy mà trong Huấn từ Giáo Hoàng đã dành một phần
đáng kể để một mặt tỏ rõ quan điểm quan phương của Giáo hội La Ma nhưng
cũng để yêu cầu Giáo Hội Công giáo Việt Nam thực hiện.
Anh em cũng như tôi đều biết rằng một sự hợp tác lành mạnh giữa Giáo
hội và Cộng đồng chính trị là đều có thể thực hiện được. Về điều này, Giáo
hội mời gọi mọi phần tử của mình dấn thân cách trung thầm nhằm xây dựng
một xã hội công bằng, liên đói và bình đẳng. Giáo hội không hề muốn thay
thế chính quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn
trọng nhau, Giáo hội có thể góp phần mình vào đời sống của đất nước, nhằm
phục vụ tất cả mọi người dân. Trong khi tham gia cách tích cực, theo như vị
trí dành cho mình và theo ơn gọi đặc thù của mình, Giáo hội không bao giờ
miễn trừ cho mình việc thực hành bác ái xét như hoạt động có tổ chức của các
tín hữu, và đàng khác, không bao giờ có một tình trạng mà trong đó người ta
lại không cần tới bác ái của mỗi ki-tô hữu, bởi vì con người, ngoài công bình
ra vẫn còn và sẽ còn cần tới tình yêu (Tđ. Thiên chúa là tình yêu, S.29). Ngoài
ra, tôi thấy điều quan trọng này là phải nhấn mạnh rằng các tôn giáo không
gây ra mối nguy hiểm cho sự đoàn kết quốc gia, bởi vì tôn giáo nhằm giúp đỡ
cá nhân thánh hóa chính mình và qua các tổ chức của mình, các tôn giáo ước
mong phục vụ tha nhân cách quảng đại và hoàn toàn vô vị lợi” [1; tr. 23].
25
Cũng với tinh thần của Huấn từ, giáo hội Công giáo Việt Nam nói
chung và giáo xứ Thái Hà nói riêng đã bước vào Năm Thánh 2010, ngày
17/11/2009 với sứ điệp “Năm Thánh là thời điểm chứa chan ân sủng, thuận
lợi cho việc hòa giải với Thiên Chúa và anh em đồng loại. Trong ý hướng đó,
chúng ta nhìn nhận những sai lỗi chúng ta đã phạm trong quá khứ và hiện tại,
đối với an hem đồng đạo và anh em đồng bào. Đồng thời chúng ta nên quyết
tâm đào sâu và phong phú hóa sự hiệp thông trong Giáo hội và xây dựng một
xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng, bằng con đường đối thoại chính
thực, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác lành mạnh với nhau” [39; tr. 22].
26
TIỂU KẾT:
Quan điểm về linh hồn và cái chết của người Công giáo nói chung và
người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà nói riêng mang đầy tính lạc
quan và hy vọng, một sự cảm nhận thâm sâu về thực tại vĩnh cửu ngay bên
cạnh giờ phút lâm chung: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”.
Người mất và kẻ sống đều tin rằng: “Trong một giây lát, trong một nháy mắt,
khi tiếng kèn cuối cùng vang lên, những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư
nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15,52). Những đau khổ ở
đời này chẳng là gì so với vinh quang sẽ dành cho ta trong cõi vĩnh hằng (x.
Rm 8, 18), và đó là một tiến trình tối cần để khai sinh sự sống. Tiếp nhận cái
chết như một điều tự nhiên nhất để làm nẩy sinh điều siêu nhiên nhất: đó là sự
phục sinh đời sống vốn đã được khắc họa trong ta qua Phép Rửa: “Vì được
dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với
Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng
vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới”
(Rm 6,4).
Dưới cái nhìn đó, người Kitô hữu luôn “tận tình với sự chết, nhiệt tình
với sự sống” (Pierre Talec). Chính vì thế mà hết thảy người Ki-tô hữu đều
đón nhận cái chết trong niềm hy vọng phục sinh.
27
CHƯƠNG II: THÁNH LỄ CẦU HỒN VÀ AN TÁNG CỦA NGƯỜI
VIỆT THEO CÔNG GIÁO VÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO TẠI GIÁO XỨ
THÁI HÀ
2.1. Thánh lễ cầu hồn và thánh lễ an táng của người Công giáo
Việt Nam
2.1.1. Thánh lễ cầu hồn
Thánh lễ cầu hồn – hay còn gọi là thánh lễ cầu cho người qua đời được
tổ chức ngay sau khi nhận được tin báo tử, lúc mai táng, hay ngày giỗ đầu,
thánh lễ này có thể được cử hành cả trong những ngày sau Bát Nhật Giáng
Sinh, các ngày có lễ nhớ buộc hoặc những ngày trong tuần không phải thứ Tư
Tro hoặc Tuần Thánh.
Nghi thức cầu hồn có nguồn gốc từ Cựu Ước: “Ông Giuđa quyên được
khoảng 2000 quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm
cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế,
nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì
cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông
nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh
thần đạo đức, thì đây quả là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện. Đó là lý do
khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải
thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,43-46).
Mở đầu thánh lễ cầu hồn chủ sự thực hiện nghi thức sám hối:“Lạy
chúa, Chúa là niệm hy vọng của những người đã chết. Xin chúa thương xót
chúng con; lạy Chúa Ki-tô, chúa đã phục sinh để đem sự sống cho những ai
đã ly trần. Xin chúa Ki-tô thương xót chúng con; lạy Chúa, Chúa hứa ban
Nước Trời cho tất cả chúng con; xin Chúa thương xót chúng con, Xin Thiên
Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn
đời”[44; tr.131],và đọc lời nguyện nhập lễ cho người qua đời trước sự dõi
theo của Thiên Chúa, bởi với người công giáo, chết nơi trần thế là sự bắt đầu
28
của một đời sống mới nơi thiên đàng. Chết không phải là hết mà ra đi là về
với Chúa trời. Chết, sống lại (phục sinh) là một trong những mầu nhiệm cơ
bản nhất của đạo Công giáo“lạy Chúa là Đấng xót thương người tội lỗi và
ban thưởng hạnh phúc muôi đời cho bậc thánh nhân, ngày hôm nay chúng
con tiễn đường OBACE.T đến nơi an nghỉ cuối cùng. Xin cho người con của
Chúa đây, ngay từ giờ phút này được chung phần vinh phúc với các Chúa
chọn, chờ đợi ngày thân xác phục sinh về quê trời hưởng nhan thánh chúa.
Chúng con cầu xin…”[ 44; tr.132].
Sau lời nguyện nhập lễ, Chủ sự tiếp tục cử hành nghi thức Phụng vụ
Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa diễn ra
trong tang lễ như một sự tưởng niệm về việc Chúa Giêsu chịu chết, Phục sinh
và việc đến của Người, việc tưởng niệm này không mang tính thụ động chỉ
nhắc nhớ chuyện đã qua, đây là nghi thức mang đặc tính hiện sinh, có nghĩa là
chính Chúa Giêsu là chủ thể của việc cử hành này. Người hiện diện như lời
Người đã hứa: “Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Việc cử
hành Phụng vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ nói lên sự hiện diện này, Chúa
không câm lặng, mà là Chúa đang nói với chúng ta qua lời của Người, “Bài
trích thư thứ nhất của Thánh Phaolo Tông đồ gởi tín hữu Corinto. Anh chị em
thân mến, giờ đây Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của
những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì kẻ chết sống lại cũng bởi
một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Adam thế nào, thì mọi
người cũng sẽ được tác sinh trong Đức Ki-tô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo
thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Đức Ki-tô, đoạn đến là những kẻ thuộc
về Đức Ki-tô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi người sẽ đến sau khi trao
vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha. Nhưng Người còn phải cai trị cho đến
khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt
là sự chết, bởi Người đã bắt mọi sự quy phục dưới chân Người. Nhưng khi
Người tuyên bố rằng: “Mọi sự quy phục Người”, dĩ nhiên phải trừ ra Đấng
đã bắt buộc mọi sự quy phục Người. Nhưng khi mọi sự đã quy phục Người,
29
thì bấy giờ Chúa Con cũng sẽ quy phục Đấng đã bắt mọi sự quy phục mình,
ngõ hầu Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi người. Đó là lời chúa. Alleluia,
Alleluia: Chúa phán: Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không chết
đời đời. Alleluia”[44; tr. 134].
Chủ sự có thể giảng vắn tắt, sau đó sẽ cùng cộng đoàn đọc lời nguyện
chung trước khi kết thúc nghi thức phụng vụ lời Chúa “Anh chị em thân mến,
Trong niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh, Đấng đã chết và sống lại để bạn
cho nhân loại sự sống vĩnh cửu. Chúng ta cùng tin tưởng dâng lời nguyện xin:
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho OBACE.T xưa kia nhờ bí tích Thánh tẩy, đã
tiếp nhận mầm sống vĩnh cửu được hợp đoàn cùng các thanh trên Nước Trời.
Chúng ta hãy cầu xin chúa cho OBACE.T xưa kia đã rước Mình Chúa Ki-tô
là bánh hằng sống, được Chúa cho sống lại trong ngày sau hết. Chúng ta hay
cầu xin Chúa cho mọi người đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, được
chiêm ngưỡng ánh sáng tôn nhan Chúa muôn đời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa
cho tất cả cộng đoàn đang họp nhau nơi đây trong tin tưởng và yêu thương,
được Chúa cho đoàn tụ trong vinh quang Nước Chúa” [44; tr.135 - 136].
Sau nghi thức Phụng vụ lời Chúa là nghi thức phụng vụ Thánh Thể - hay
còn gọi là bí tích Thánh Thể, bí tích này bao gồm: nghi thức dâng lễ, đọc Kinh
Tạ Ơn, và thực hiện những nghi thức hiệp lễ.
Nghi thức Thánh Thể thể hiện việc Chúa Giêsu dâng mình cho Chúa
Cha qua hy tế thập giá để hòa giải và kêu cầu ơn cứu độ cho nhân loại dưới
hình bánh và rượu.
“TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ ĂN:
VÌ NÀY LÀ MÌNH THẦY
SẼ BỊ NỘP VÌ CÁC CON…
“Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, cũng tạ ơn,
trao cho các môn đệ và nói:
TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ UỐNG
VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY
30
MÁU GIAO ƯỚC MỚI VÀ VĨNH CỬU
SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ
NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI.
CÁC CON HÃY LÀM VIỆC NÀY
MÀ NHỚ ĐẾN THẦY.”
Nghi thức Phụng Vụ Thánh Thể không chỉ để tưởng nhớ những biến cố
đã qua của Thiên Chúa, mà còn là loan báo những kỳ công Thiên Chúa đã thực
hiện cho loài người, khi cử hành thánh lễ những biến cố này hiện diện sống
động giữa cộng đoàn. “Bí tích Thánh Thể tưởng niệm cuộc Vượt qua của Đức
Kitô, hiện tại hóa và dâng tiến cách bí tích hy tế duy nhất của Người trong
Phụng Vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong các kinh nguyện Thánh
Thể và phần hiến thánh, bao giờ cũng có một kinh Tưởng Niệm” (GLHTCG
1362).
Trong suốt giờkinh Nguyện Thánh Thể, ngoài việc tạ ơn, những người
thân quyên và linh mục còn xin ơn, cầu cho Đức Giáo Hoàng, Đức Giám
Mục... và hơn cả là xin ơn cho người quá cố“ Lạy Chúa, chúng con đang lễ tế
này trong ngày an táng tôi tớ Chúa là OBACE.T cúi xin Chúa vui lòng chấp
nhận và thương đến người quá cố: nếu vì yếu đuối lỡ lầm mà tôi tớ Chúa đây
hãy còn mang vết nhơ tội lỗi, thì xin Chúa thanh tẩy và thứ tha. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con”[44; tr. 137]. Bởi “Chúng ta tin rằng các
linh hồn sẽ được hưởng nhiều ơn ích nếu chúng ta cầu cho họ khi Đức Kitô,
Chiên Hy Tế cực thánh cực trọng đang hiện diện…Khi khẩn cầu cho những
người đã an giấc, dù họ còn là tội nhân, chúng ta đã dâng lên Thiên Chúa
chính Đức Kitô, Đấng đã hiến mình vì tội lỗi chúng ta, để Người giao hòa họ
và chúng ta với Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người”(T. Syrilô, GM
Giêrusalem).
Con người do Chúa trời sinh ra, mỗi con người là một ngôi đền thánh
thờ phụng Chúa. Con người sinh ra từ cát bụi lại trở về cát bụi. Cuộc sống nơi
trần thế là tạm thời, là vô cùng ngắn ngủi. Chỉ có cuộc sống sau khi qua đời
31
được lên Thiên đàng mới là vĩnh hằng. Và mọi tín đồ đều sẵn sàng đón nhận
cái chết trong sự hoan hỷ, “sẵn sàng” nhận lệnh khi chúa gọi. Tín đồ công
giáo ví sự “ra đi” như việc chuẩn bị đèn dầu sẵn sàng thắp sáng và Chúa sẽ
đến bất thình lình (không có sự báo trước) để đón đi.
Kết thúc thánh lễ cầu hồn bằng nghi thức rước lễ “Lạy Chúa là Đấng
cần quyền sinh tử, nhờ thánh lễ chúng con dâng, xin cho người con của Chúa
là OBACE.T, hôm nay đã lìa cõi thế, được Máu thánh Đức Ki-tô rửa sạch
mọi lỗi lầm, và được hưởng niềm hoan lạc trong ngày phục sinh. Chúng con
cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con”[44; tr. 143].
2.1.2. Thánh lễ an táng
Thánh lễ An Táng và nghĩ lễ an táng là hai cử hành khác nhau. Thánh
lễ án táng là cử hành thánh lễ với các bản văn phụng vụ về lễ cầu hồn; nghĩ lễ
an táng là cử hành các nghi thức công giáo trước khi đem chôn thi hài người
quá cố. Thông thường nghi lễ an táng được cử hành trong thánh lễ an táng.
Và trong nghi lễ an táng lại bao gồm ba giai đoạn: phát tang, tẩm liệm
tại gia, cầu nguyện; phó dâng và từ biệt tại nhà thờ; và mai tang hoặc hỏa táng
nơi phần mộ. Thông thường cử hành các nghi lễ an táng là các linh mục hay
phó tế, tuy nhiên khi những người này vắng mặt, thì một giáo dân được ủy
nhiệm cũng có thể chủ sự các nghi lễ này với một vài thich nghi cho phù hợp
với vai trò của họ.
Tuy nhiên vì hoàn cảnh tang gia và việc bảo vệ thi hài người quá cố
vào những ngày luật phụng vụ không cho phép cử hành thánh lễ an táng, thì
chỉ được phép thực hiện nghi lễ an táng. Giáo hội cũng quy định chỉ được cử
hành nghi lễ tiễn biệt người chết khi có thi hài người đó, điều này không cho
phép cử hành nghi lễ tiến biệt một nơi, xác một nơi (RM 384).
Thánh lễ an táng bị cấm vào những ngày: Tam Nhật Vượt Qua, các lễ
trọng buộc và các chúa nhật mùa vọng, mùa chay và mùa phục sinh. Nếu cử
hành an táng vào các ngày này, trong thánh lễ buộc phải dùng bản văn phụng
vụ và các bài đọc Kinh Thánh của ngày lễ đó. Ngoài các lễ trọng và mùa
32
phụng vụ kể trên, người ta có thể cử hành thánh lễ an táng vào những ngày
khác kể cả vào những ngày chúa nhật mùa thường niên hay mùa giáng sinh
(RM 380).
Trong thánh lễ án táng của người Công giáo gia chủ không đặt nặng
vấn đề cúng kiến, mà chủ yếu là đọc kinh cầu cho linh hồn người mất. Linh
mục cùng với Cộng đoàn sẽ chuẩn bị các nghi thức trong tang lễ, gia đình chỉ
cần chuẩn bị sẵn đồ tang phục (có một số người mặc đồ tang trườc khi nhập
liệm). Bàn thờ diễn ra trong ngày an táng chỉ có một bảng tên thánh, bình
bông huệ trắng, cây thánh giá … phía sau quan tài treo một tấm vải có thiêu
tên giáo xứ, tên thánh của người chết. Trước nhà có treo bốn lá cờ nhỏ có
thiêu chử. Ví dụ: Sống gửi thác về.
2.2. Các nghi thức diễn ra trong tang lễ ở giáo xứ Thái Hà
Đối với người Việt Nam theo Công giáo nói chung và người giáo dân
Công giáo tại Giáo xứ Thái Hà nói riêng đều có những điểm tương đồng, thể
hiện theo đúng tinh thần quy định trong giáo lý, giáo luật của Công giáo do
Tòa Thánh và Giáo hội Công giáo Việt Nam ban hành. Tuy nhiên, là một giáo
xứ nằm ở trung tâm Thủ đô Hà Nội, người giáo dân Công giáo trong việc tổ
chức tang lễ của gia đình mình còn có những sự ảnh hưởng nhất định bởi
những truyền thống văn hóa, nghi thức tang lễ miền Bắc cổ truyền, thể hiện
sự hội nhập giữa văn hóa Công giáo với văn hóa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt Nam nói chung và tang lễ của người Việt nói riêng trên tinh
thần “đổi mới, canh tân, thích nghi và hội nhập” của Công đồng Vatican II
về sự hội nhập văn hóa Công giáo đối với vấn đề văn hóa Á Châu. Các quy
trình, nghi thức tang lễ được diễn ra theo trình tự như sau:
2.2.1. Những nghi thức trước khi chôn cất người chết
❖ Nghi thức phát tang, tẩm liệm
Nghi thức phát tang và tẩn liệm thể hiện nét đặc trưng củanghi thức
tang lễ miền Bắc cổ truyền, là thời điểm để thân quyến, con cháu trong gia
đình tới tiễn đưa người quá cố.Trước giờ tẩn liệm người quá cố được đặt trên
33
giường, xung quanh rắc hoa tươi. Đồ dùng tẩm liệm chỉ đơn giản là: vải trắng
(không sữ dụng chiếu, vải đỏ…)
Khi tín đồ sắp qua đời (hấp hối) người thân phải báo cho linh mục
chính xứ và Ban giáo xứ, họ đạo. Lúc này, linh mục được mời đến làm lễ
sức dầu cho bệnh nhân trước khi họ ra đi.Sau đó linh mục làm phép xác, làm
phép quan trước khi thực hiện nghi thức nhập quan rồi di chuyển đến nhà
thờ làm lễ.
Mở đầu nghi thức phát tang, chủ sự rảy nước Thánh lên thi hài (làm
phép xác) và cầu nguyện: “Lạy Cha, xin thánh hóa người anh (chị) em chúng
con đây, kẻ trong cuộc sống trần gian đã tin cậy vào Cha, đã phó thác cuộc
đời cho Cha, đã tin cậy vào lời hứa cứu độ của Cha. Xin cho người anh (chị)
em chúng con đây được sống lại như Con Cha. Người hằng sống và hiển trị
muôn đời. Amen” [54. tr. 221].Người Công giáo tin rằng, khi sinh ra, con
người là một bản thể phải chết, nhưng khi chết thì con người sống mãi. Con
người là bất diệt, chết là lúc họ được mời gọi đến sự hiệp thông trong tình yêu
muôn đời với Chúa Ba Ngôi. “Con hãy nhớ rằng: Đức Giêsu Ki-tô từ trong
cõi chết. Ngài đã phục sinh. Chúa là ơn cứu độ chúng ta, nguồn vinh quang
muôn đời của ta”. Đó là ấn tích đã được Thiên Chúa khắc sâu vào bản thể con
người khi tạo dựng: “Ai tin vào Ta sẽ không chết bao giờ” (Ga 11, 26). Như
vậy, theo kế hoạch của Thiên Chúa, cái chết của con người không mang tính
chết chóc, nhưng là một định hướng cho cuộc sống mới. Là người Kitô hữu,
chúng ta “chết cho Chúa” cũng như đã sống cho Ngài (x. Rm 14, 7).
Sau khi đọc lời nguyện, linh mục hay chủ sự làm phép quan, phép khăn
tang, bộ đồ tang và làm lễ nhập quan“Lạy cha, chúng con biết rằng khi thân
xác của chúng con là ngôi nhà tạm ở dưới đất này bị sự chết phá hủy, thì
chúng con lại có nơi cư ngụ do Chúa dựng lên. Đó là ngôi nhà vĩnh cửu trên
trời, không do tay người phàm làm ra. Lạy Cha, xin thánh hóa và chúc phúc
cho chiếc quan tài này, cũng là chiếc áo, là nhà tạm cho thân xác yếu hèn hay
hư nát của người anh (chị) em chúng con đây cư ngụ để chờ ngày phục sinh
34
trong quyền năng của Cha…” (2Cr.5,1). Khăn tang không chỉ tượng trưng
cho nỗi buồn mất mát một người thân mà đối với người tín hữu Ki-tô màu
tang còn biểu lộ niềm hy vọng, vì chúa đã hứa, ngày cách chung, Người sẽ cất
chiếc khăn tang của buồn đau và chết chóc. Trong thân phận con người, trong
tình liên đới ruột thịt, khăn tang là chia sẻ nỗi buồn trong cuộc chia ly, nhất là
để nhớ đến tình thương của người quá cố để báo hiếu, để nhắc nhở con người
một ngày kia sẽ đến phiên ta cũng phải nhắm mắt xuôi tay lìa đời, chũng phải
vùi dưới lớp vải liệm, chết đi từ bỏ thói ích kỷ và những đam mê xác thịt, để
được sống lại vinh hiển với Chúa Phục Sinh. Màu trắng khăn tang cũng còn
nhắc nhở mỗi người phải nhớ đến chiếc áo trắng tinh tuyền mà họ đã được
mặc trong ngày chịu Phép Rửa Tội. Và ta có bổn phận phải giữ mãi màu trắng
ấy cho đến ngày ra trình diện trước Chúa Ki-tô Cứu Thế.
“Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa, Cha đã tạo dựng muôn vật tốt đẹp và đã
thành toán chúng. Xin Cha ban phúc lành cho những tang phục này, để người
thân trong tang quyền khi mặc vào thì được an ủi, được sự bình an của Cha
trong tâm hồn, biết biến đau thương quẫn bách thời lời Kinh nguyên chân
thành, tha thiết dâng lên trước tôn nhan uy linh của Cha, để Cha thương xót,
tuôn đổ muôn hồng ân xuống cho tang quyến và cộng đoàn chúng con. Chúng
con cầu xin Chúa.Xin chúa cho những người trong thân bằng quyến thuộc
mặc trang phục này, biết hiệp thông với nhau để đền ơn đáp nghĩa người đã
ra đi và để tha thứ, yêu thương, gắn bó, đùm bọc nhau giữa những người con
ở lại, như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Chúng con cầu xin Chúa. Chúng ta
cùng dâng lời cầu nguyện. Lạy Cha, tang phục mầu trắng này đối với truyền
thống dân tộc Việt Nam chúng con, còn là màu tang chế, đau thương, ly biệt,
nói lên sự đau đớn tột cùng của nỗi long kẻ ở người đi. Nhưng đối với người
tin vào Đức Ki-tô Tử Nạn và Phục Sinh, thì màu trắng cũng là màu tinh
tuyền, trong trắng, thanh sạch, vĩnh cửu, gợi nhớ cho chúng con chiếc áo mới
mà chúng con được lãnh nhận trong ngày chịu Phép Rửa Tội, để trở thành
con người mới, trở nên chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Ki-tô, luôn tin cậy Cha
35
và phó thác cả cuộc đời chúng con cho Cha. Xin cho tang quyến khi mặc màu
tang phục trắng này luôn biết quy hướng về Cha, biến nhận Cha là lẽ sống, là
gia nghiệp, biết sống trong sạch tinh tuyền và luôn sẵn sàng canh thức chờ
đón giờ Chúa đến. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.
Amen” [18; tr. 10 – 11]. Sau khi thực hiện xong nghi thức làm phép xác, phép
quan và nghi thức rảy nước thánh lên tang phục. Thì vị trưởng gia tộc vào
phát tang phục cho những người thân quyến, trong thời gian đó cộng đoàn hát
một trong những bài khác thích hợp với tang lễ như: Đâu có tình yêu thương
(tr.123), cầu cho cha mẹ (tr.116), con tìm đến nương nhờ (tr.120).
Xong nghi thức phát tang cộng đoàn và thân quyến sẽ nghỉ một lúc
hoặc bắt đầu ngay nghi thức Tẩn liệm. “Giờ đây cộng đoàn chúng ta khởi dự
nghi thức tẩn liệm. Chúng ta thành khẩn cầu nguyện cho OBACE.T mới qua
đời. Xin Chúa ban thưởng cho OBACE sau khi kết thức cuộc đời trần thế,
được về quê trời, vui hưởng cuộc sống đời đời. Vì chúng ta tin chắc rằng: sự
chết chưa phải là kết thúc tất cả, nhưng là cửa ngõ tiến vào sự sống đời đời.
Đối với những người tin vào Chúa Ki-tô, sự sống con người chỉ biến đổi chứ
không bị tiêu tan. OBACE.T đã được chịu phép Rửa, đã khởi sự đời sống vĩnh
hằng ngay khi còn sống ở trần gian này. Chúng ta cầu nguyên cho OOBACE
được hưởng vinh quang Phục Sinh với Đức Ki-tô” [18; tr. 17 – 18].
Thánh ca cho nghi thức tẩn liệm có thể là bài: Sự sống thay đổi mà
không mất đi (tr.136), Trong gian truân (tr.144), Chúa gọi con (tr.117). Cuộc
hành trình của mỗi Kitô hữu trên dương thế dài hay ngắn, lâu hay mau, tất cả
đều được kết thúc bằng cái chết. Khi bước vào biên giới vĩnh cửu, con người
phải bỏ lại tất cả những gì mình có thuộc về thế giới vật chất. Vì vậy, những
bài hát, lời cầu nguyện trong suốt thánh lễ an táng nói chung và trong nghi
thức tẩn liệm nói riêng không chỉ nhằm xác nhận một thực tại xa cách mà còn
nói lên "mối giây liên đới giữa người sống và kẻ chết", và quan trọng hơn
nữa, với niềm hy vọng nơi Ðức Ki-tô phục sinhrằng sau này tất cả các tín đồ
36
đều sẽ được đoàn tụ trên thiên đàng nếu cùng chết với Đức Ki-tô thì sẽ cùng
sống với Người.
Mỗi tín hữu ki-tô khẳng định rằng: một khi Đức Ki-tô đã chỗi dậy từ
cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, tử thần chẳng còn quyền chi đối
đến Người. Kết thúc nghi thức tẩm liệm, Chủ sự: “Lạy Cha, Cha đã gọi
OBACE.T ra khỏi thế gian này trở về Cha. Xin cho người con Cha đây ngày
từ giờ phút này, được thoát vòng tội lỗi, được đón nhận vào nước Cha, chung
hưởng vinh phúc với các người Cha chọn, chờ đợi ngày thân xác phục sinh.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Ki-tô Chúa chúng con” [18; tr. 17]. Sau đó
những người có nhiệm vụ tẩn liệm, đến quan tài làm nhiệm vụ di chuyển quan
đến nhà thờ.
❖ Nghi thức cầu nguyện, phó dâng và từ biệt
Tại nhà thờ, Linh mục (chủ sự) xuống đứng trước quan tài làm lễ cầu
nguyện, cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt. Đây là giây phút thiêng liêng
gây ấn tượng sâu sắc nhất và cũng là lúc thân quyến bày tỏ tình cảm với tang
gia cũng như đối với người mất, làm sao cho phút giây từ biệt dù có hàm súc
sự chia ly đầy tiếc nuối giữa kẻ ở người đi, kẻ còn lưu lạc nơi dương thế cũng
như kẻ về chốn vĩnh hằng, có phiền muộn đau đớn đến đâu cũng không làm
mất niềm hy vọng vào Đức Ki-tô tử nạn và phục sinh. Vì vậy nghi thức này
được cử hành vô cùng trang trọng, linh thiêng.
Đối với hình thức hỏa táng thi hài, chủ sự sẽ thực hiện mời gọi: “Anh
chị em thân mến, trong khi thi hành nhiệm vụ hỏa táng thi hài này, chúng ta
nài xin cho tôi tớ Chúa là… mà chúng ta hỏa táng, nhờ quyền năng Chúa,
được sống lại trong hàng ngũ các thánh, và cho linh hồn tôi tớ Chúa được
sum họp với các thánh và những người đã tin Chúa. Nguyện xin Chúa mở
lượng nhân từ trong khi xét xử, để tôi tớ Chúa là… được cứu độ và giải thoát
khỏi hình phạt tội lỗi, được giao hòa với Chúa Cha, được Đấng chăn chiên
lành ôm vào lòng, đưa về đoàn tụ cùng Vua muôn đời, để đáng được hưởng
nguồn vui bất diệt làm một với cộng đoàn các Thánh”. Kế đó linh mục rảy
37
nước thánh và xông hương trên quan tài, trong lúc đó ca đoàn hát: “Lạy các
Thánh của Chúa…” Rảy nước thánh và xông hương xong, chủ tế đọc lời
nguyện: “Lạy Cha rất nhân từ, chúng con xin phó dân linh hồn… trong tay
Cha. Xin cho chúng con được hy vọng chắc chắn linh hồn… sẽ được sống lại
cùng Chúa Ki-tô trong ngày sau hết, cũng như mọi người đã qua đời trong ơn
nghĩa Chúa Ki-tô. Vậy xin Chúa lấy lòng nhân từ nghe lời chúng tôi khẩn
nguyện và mở cửa thiên đàng cho tôi tớ Chúa là…, và cho chúng tôi đang còn
ở lại, được dùng lời lẽ đức tin mà an ủi nhau, đợi ngày mọi người tại ngô
trọng Chúa Ki-tô, được sống mãi, với Chúa và bên cạnh tôi tớ Chúa là…
Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con”[45; tr. 148].
Tín lý Ki-tô giáo cho rằng, khi chết hồn lìa khỏi xác, việc chôn cất
người qua đời gọi là đưa xác. Bí tích xức dầu thánh được gọi là phép xác. Tín
lý này khác với quan niệm về cái chết của người Việt. Đưa người chết ra
nghĩa địa, người Việt không theo Công giáo gọi là đưa ma. Ngoài đưa xác,
còn đưa linh hồn cùng đi. Sau lễ an táng mới đưa linh hồn trở lại nhà thân chủ
đề thờ cùng.
Trước giờ từ biệt 15 phút, tang chủ đặt tiền thưởng trên đầu quan tài
thưởng cho anh em đạo tỳ, số tiền bao nhiêu là tùy vào điều kiện của tang
chủ. Và ca đoàn hát một bài kết thúc rồi di quan đến nơi hỏa táng. Khi di quan
người cầm bát hương đi trước, tiếp theo là di ảnh, tiếp theo là quan tài, con
cháu còn lại không có nhiệm vụ thì đi sau quan tài, tiếp theo là bà con đi đưa.
❖ Nghi thức hỏa táng người quá cố
Trước khi đưa thi hài vào lò hỏa táng, chủ sự đọc kinh cầu nguyện cho
người ra đi và nhắc nhở về trách nhiệm của người còn sống “Anh chị em thân
mến, Trong niềm hy vọng và lòng tin đời sống vĩnh cửu, chúng ta cử hành
nghi thức hỏa táng OBACE.T việc hỏa táng nhắc nhở chúng ta một cách sống
động về thân phận mỏng dòn của con người. Thiên Chúa dựng lên con người
từ bụi tro rồi lại cho họ trở về tro bụi, đời mai sau sẽ tái tạo nên một thân xác
mới mẻ diễm lệ hơn trong thế giới mới. Nhờ Bí Tích Rửa Tội, khi còn sống,
38
OBACE.T đã được chia sẻ sự sống của Chúa Ki-tô. Giờ đây đã hoàn tất cuộc
lữ hành trần thế, trong bình an của Chúa Ki-tô, OBACE trở về quê trời tốt
đẹp và vĩnh cửu. Cậy nhờ vào lòng từ bi của Chúa Cha, chúng ta cầu xin cho
OBACE.T đồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho nhau để khi Chúa Ki-tô
trở lại, chúng ta có thể đoàn tụ trong ánh sáng vĩnh cửu của Chúa”. “Lạy
Cha, Cha đã tạo dựng nên lửa và ban nó cho chúng con. Lửa đã sưởi ấm khi
chúng con sinh ra, đã tạo thuận lợi cho cuộc sống hang ngày, và khi chúng
con qua đời, lửa còn làm thân xác này chóng về lại cát bụi. Xin Cha chúc
lành và thánh hóa ngon lửa chúng con sắp dung để hỏa táng thân xác người
anh (chị) em tín hữu chúng con là OBACE.T chúng con cầu xin nhờ Đức
Giêsu Ki-tô Chúa chúng con” [44; tr. 70].
Trước khi kết thúc Chủ sự đọc lời Chúa, lời nguyện giáo dân và rảy
nước Thánh lên quan tài lần cuối “xin cho đời sống chúng con và mọi lời
chúng con cầu nguyện cũng được như hương khói chân thành tỏa bay trước
Nhan Cha để cầu cho OBACE.T và mọi người đã qua đời trong ơn nghĩa Cha
được hưởng vinh quang Cha muôn đời…”[31; tr. 73]. Tất cả cộng đoàn, thân
quyến tiễn biệt người quá cố “Lạy chúa, xin cho linh hồn OBACE.T được an
nghỉ ngàn thu.” [31; tr. 74]. Và cuối cùng đại diện tang quyến cám ơn lần
cuối và đưa thi hài vào lò hỏa thiêu.
Người chết sau khi hỏa táng, tro cốt của người chết sẽ được đựng trong
hũ sành sứ và mang về phần mộ tại nhà thờ, nó biểu tượng cho niềm tin chờ
ngày sống lại của thân xác con người. Do đó mồ mả hay hộp tro đựng xác hỏa
thiêu phải được giữ gìn cách kính trọng trong nhà, ở nơi thờ phượng hay
ngoài nghĩa trang. Hàng năm vào dịp Lễ các Thánh và các Linh hồn, Giáo
Hội sẽ viếng nghĩa trang và cầu nguyện cho các linh hồn mà thân xác đang
nằm nghỉ nơi đó.
2.2.2. Những nghi thức sau khi chôn cất người chết
❖ Nghi thức kinh nguyện sau an táng
Người Kitô hữu ngày nay, vẫn luôn cậy trông phó thác vào Tình Yêu
Cứu Độ của Thiên Chúa. Sau khi an táng, gia đình và người thân vẫn tiếp tục
39
tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố qua thánh lễ cầu hồn và nghi thức
cầu nguyện, đọc kinh trong tuần cửu nhật và bốn mươi.
Suốt 3 ngày sau lễ an táng, thân quyến trong gia đình đọc kinh cầu
nguyện cho người quá cố. Giờ đọc kinh 3 ngày đầu cho người mới qua đời
phải dùng theo đúng thứ tự.
Đêm ngày thứ nhất, nghi thức cầu nguyện được diễn ra trong tình liên
đới của những người tin Chúa Ki-tô, là lúc để anhem, bạn bè gửi những tâm
tình luyến nhớ đến kẻ qua đời và cảm thương đối với tang quyến, dành những
phút cầu nguyện ngắn ngủi để hướng về người đã khuất, cầu xin Chúa thương
xót linh hồn, nâng đỡ nơi Cha và an ủi những người đang sầu khổ vì cuộc ly
biệt do cái chết “biến thương nhớ thành thái độ sống”. Gia đình tang gia đọc
kinh nguyện Lời Chúa trích từ Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo Thánh Gioan
“Khi ấy Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: Như Cha đã yêu mến Ta, Ta đã
yêu mến các ngươi. Hãy lưu lại trong lòng yêu mến Ta. Nếu các người giữ
các lệnh truyền của Ta, các ngươi sẽ lưu lại trong lòng yêu mến của Ta, cũng
như Ta đã giữ các lệnh truyền của Cha Ta, và lưu lại trong lòng yêu mến của
Người. Các điều ấy Ta đã nói với các người rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta
có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn. Này là lệnh
truyền của Ta: Các ngươi hãy yêu mến nhau, như Ta đã yêu mến các ngươi.
Không có lòng mến nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu. Các ngươi
là bạn hữu của Ta, nếu các ngươi làm điều Ta truyền dạy các ngươi, Ta không
còn gọi các ngươi là tôi tới, vì tôi tới không biết việc chủ mình làm, Ta đã gọi
các ngươi là bạn hữu, vì mọi điều Ta đã nghe nơi Cha Ta, Ta đã tỏ cho các
ngươi biết. Không phải các ngươi đã Chọn Ta, nhưng chính Ta đã Chọn các
ngươi, và đặt các ngươi ra, rõ hầu các ngươi đi và sinh trái, và trái của các
ngươi còn mãi, ngõ hầu các ngươi xin gì cùng Cha nhân danh Ta, thì Người
sẽ ban cho các ngươi. Điều Ta truyền cho các ngươi là hãy yêu mến nhau. Đó
là lời Chúa.” (Ga 15, 9 – 17).
40
Đêm ngày thứ hai, tang gia tiếp tục đọc kinh nguyện nhằm bày tỏ với
Chúa tinh thần sống đạo của mình và bày tỏ với nhau sự liên đới thương thân
tương trợ. Biến cố này cũng là dịp để hết thảy các tính hữu ý thức lại về sự
mau qua của mọi sự trên đời, vừa rút ra những bài học thiết thực cho mình từ
sự phù vân của cuộc sống “dùng hiện tại xây kho vĩnh cửu”. Lời Chúa trích
Lời Chúa theo Thánh Luca “Có người trong dân chúng nói với Đức Giêsu:
Thưa thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi. Ngài nói với nó: Này anh,
ai đã đặt Ta làm thẩm phán, hay làm trọng tài trên các anh. Rồi Ngài nói cùng
họ: Hãy coi chùng, hãy lo giữ mình tránh mọi thứ tham lam, vì không phải ai
cũng được sung túc, là đời sống người ấy được chắc chắn nhờ nơi của cải.
Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: Có người phù hộ, ruộng nương được mùa,
nên suy tính với mình rằng: Ta phải làm gì? Vì ta không còn chỗ nào mà tích
trữ hoa mầu nữa. Đoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này, phá quách các lẫm đi
làm xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa má và của cải vào đó, rồi ta sẽ nhủ
hồn ta: hồn ơi, mày có chán của cải, sẵn đó cho nhiều năm, nghỉ đi, ăn uống
đi, hưởng đi. Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Đồ ngốc, ngay đêm nay, người ra sẽ
đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ta? Như thế
đó, kẻ lo chất kho cho mình, mà không biết làm giầu nơi Thiên Chúa. Đó là
lời Chúa” (Mt 12, 13 – 21).
Đêm ngày thứ ba, Trích Lời Chúa theo Thánh Mattheu “Khi ấy, Chúa
Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên
mặt đất. Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để
chia rẽ người ta với cha mình, con cái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng
mình, và kẻ thù của người ta là những người nhà mình. Kẻ yêu Cha mẹ hơn
Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với
Ta. Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta. Kẻ cố
tìm mạng sống mình thì sẽ mất. Còn kẻ đánh mất sự sống mình vì Ta thì sẽ
gặp lại… Đó là lời Chúa” (Mt, 34 – 11,1). Trong suốt giờ cầu nguyện và đọc
kinh đêm thứ ba các thành viên trong gia đình người quá cố thành thực với
41
Chúa về những đau buồn khi chứng kiến sự ra đi của người thân. Đây cũng là
cơ hội để mỗi người ý thức hơn về sự mau qua của kiếp người và ý thức rằng
điều cần nhất trong mỗi đời người đó là cứu rỗi, đó là đạt đến sự sống bất diệt
“thành thực theo Chúa”. Giờ kinh ngày thứ ba không chỉ để tưởng nhớ người
thân đã qua đời mà còn để xác định hướng đi cho đời mình.
❖ Nghi thức viếng đất thánh lễ các linh hồn
Sau khi người quá cố đã an nghỉ trong phần mộ được ba ngày. Linh
mục sẽ thực hiện nghi thức viếng đất thánh lễ linh hồn để cầu nguyện cho tín
hữu đã qua đời trong niềm tin “Trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời
sau”, trích đọc Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Roma
“Anh chị em thân mến, không ai trong chúng ta được sống cho mình, và
cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, nếu
chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy dù chúng ta sống hay chết, chúng ta
đều thuộc về Chúa. Vì lẽ ấy, nếu Đức Ki-tô đã chết và sống lại, là để cai trị
kẻ sống và kẻ chết. Vì tất cả chúng ta đều sẽ phải ra trước tòa án của Đức
Ki-tô, bởi có lời chép: “Chúa phán: Ta lấy sự sống ta mà thề rằng: mọi
người sẽ phải quỳ lạy Ta, và mọi miệng lưỡi sẽ ngợi khen Thiên Chúa”. Vì
vậy mỗi người chúng ta sẽ phải trả lẽ về mình với Thiên Chúa. Đó là lời
Chúa”. (Rom 14,7 - 9, 10b -12)
Sau lời nguyện và dẫn lời Chúa Linh mục sẽ thực hiện nghi thức Thánh
hóa phần mộ“Giờ đây chúng ta hãy cầu xin Chúa Ki-tô thánh hóa phần mộ
của các tín hữu Chúa. Lạy Chúa Ki-tô, chúa là Đấng làm cho chung con sống
lại và là sự sống của chúng con. Khi an nghỉ trong mộ ba ngày, Chúa đã
thánh hóa phần mộ của mọi tín hữu, khiến họ càng tin tưởng sẽ được phục
sinh, mặc dù nay còn mang thân cát bụi. Xin thương những người con của
Chúa là các tín hữu đã qua đời được an nghỉ trong những phần mộ này cho
tới khi Chúa tỏa ánh Tôn Nhan, làm cho họ sống lại, để hưởng hạnh phúc và
vinh quan trên trời. Chúng con cầu xin Chúa là Đắng hằng sống và hiển trị
muôn đời.Amen”[31; tr.99 - 100].
42
❖ Nghi thức tiếp nhận di cốt về gia đình
Sau nghi thức thánh hóa phần mộ, chủ sự là người đứng ra “Nhân danh
ChúaCha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” đón nhận di cốt của người quá cố
về lại với gia đình. “Con cái Chúa là OBACE.T đã qua đời năm 19… được an
táng tại đất thánh… cho đến năm 20… đã được gia đình cải táng và hỏa thiêu
hà cốt ngày…Hôm nay, chúng ta đón nhận di cốt OBACE.T về lại trong gia
đình. Sự sống và sự chết thật gần gũi. Di cốt OBACE.T cũng nhắc chúng ta
nhớ Thiên Chúa đã dựng nên con người từ tro bụi, để sẽ được Ngài tái tạo
thành thân xác mới mẻ diễm lệ hơn trong thế giới mới sau này. Nhân dịp này,
chúng ta hãy suy niệm một chút về thân phận con người”.
Hài cốt của người quá cố dù đã hỏa thiêu “trải qua một cuộc thanh
luyện” thì những người thân, người con trong gia đình vẫn luôn cầu nguyện
trước Thiên Chúa trong ngày tiếp nhận di cốt, xin Cha rửa sạch mọi lỗi lầm
cho người đã mất, yêu thương lấy cả ngon lửa đã thiêu và thanh tẩy người mất
ngày hỏa táng “đón nhận di cốt của OBACE.T chúng con tuyên xưng đức tin
của chúng con, tin rằng đến ngày cuối cùng, xác mọi người sẽ sống lại. Xin
Cha làm cho đức tin chúng con thêm vững mạnh; Xin Cha cho chúng con một
ngày kia được đoàn tụ ấm cúng trong nhà Cha trên trời” [31; tr. 106].
Có thể nói các gia đình Công giáo Việt Nam đều ý thức những giá trị
của các nghi thức diễn ra trong suốt Thánh lễ an táng đối với người quá cố,
mỗi một nghi thức đều được chuẩn bị kỹ lưỡng. Thậm chí, những dịp kỷ niệm
người thân qua đời, con cháu dành ra một số tiền để xin lễ giỗ tại Nhà Thờ và
cùng nhau tham dự Thánh lễ để cầu nguyện cho người thân qua đời trước khi
về ăn giỗ tại tang gia. Người thân quyến trong gia đình thường xin lễ ngay sau
ngày an táng gọi là lễ giỗ tuần ba tuần bảy, nghĩa là 3 ngày và 7 ngày sau khi
an táng. Trong ngày giỗ, con cháu cùng nhau tham dự Thánh lễ tại nhà thờ,
rồi về tang gi ăn bữa cơm giỗ để tưởng nhớ người quá cố là cha mẹ hay người
thân. Và buổi tối cùng tổ chức đọc buổi kinh giỗ tại gia.
43
Đây là việc nhằm cảm tạ Chúa đã cho các bậc Tổ tiên được hưởng Tôn
Nhan Chúa, vừa để xin Chúa ban cho các linh hồn trong luyện ngục sớm được
sạch tội. Đối với người mới qua đời, người thân thường xuyên xin lễ cầu
nguyện, bởi các tín hữu ki-tô tin rằng Thiên Chúa nhân từ và quyền năng có
thể có cách cứu vớt được linh hồn người quá cố khỏi sự đau khổ.
2.3. Giá trị và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ
của người Công giáo Việt Nam
2.3.1. Giá trị
Dựa theo tài liệu thu thập được ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và khu
vực Tổng Giáo Phận Hà Nội cho thấy nửa cuối thế kỷ XIX, người Công giáo
khi qua đời gọi là sinh thì, người hấp hối gọi là rình sinh thì. Nghiêng về lời
giải thích của một số bậc cao niên rằng, vì người Công giáo quan niệm chết
nơi trần thế, nhưng lại bắt đầu một cuộc sống mới nơi Thiên đàng. Giờ phút
hấp hối cũng có nghĩa là thời (thì) điểm khai sinh một cuộc sống hoàn toàn
mới. Chuông nhà xứ dành cho người chết là chuông sinh thì (còn gọi là
chuông tử).
Thánh lễ an táng của người Việt theo Công giáo chính là sự kết hợp
giữa tập tục dân gian và nghi thức phụng vụ Thánh Lễ, vì vậy tang lễ của
người Việt theo Công giáo đều mang những hình thức và nội dung gần giống
với tang phục, tang chế của người Việt không theo Công giáo. Đối với người
qua đời thì tín đồ Công giáo được thực hành tương tự như người không theo
Công giáo. Song về mặt tang lễ thì có nhiều điều khác biệt, thể hiện rõ màu
sắc Công giáo.
Khi trong gia đình có người bệnh nặng sắp không qua khỏi, gia đình đã
phải báo cho vị Trùm chính. Hoặc báo cho một vị trong bạn Phụng vụ Giáo
họ gần nhà nhất, để mời cha Chính xứ hay cha Phụ tá đến nhà ban phép xức
dầu bệnh nhân. Trường hợp khẩn cấp, gia đình phải đưa bệnh nhân đến bệnh
viện cấp cấu trước, rồi mời cha đến bệnh viện ba các phép sau. Tuy nhiên,
bình thường khi thấy người nhà đau nặng còn đang tính táo, người thân trong
44
gia đình đã mời cha xứ đến nhà ban các bí tích như Giải tội, Thêm sức (nếu
chưa chịu), xức dầu bệnh nhân và Mình Thánh Chúa. Nhờ đó bệnh nhân
(người hấp hối) được tham dự một cách chủ động và sẽ nhận được nhiều ơn
Thánh Chúa hơn, khi họ còn ý thức được cũng là thời gian để họ tự xám hối,
nhìn lại những việc mình đã làm và sẵn sàng “từ bỏ” trần thế.
Ý nghĩa “từ bỏ” ở đây là họ đã phải sẵn sàng để bất cứ lúc nào Thiên
Chúa muốn, Chúa sẽ đến đón chúng ta đi bất kỳ lúc nào. Ta phải chuẩn bị giờ
chết bằng cách suy ngắm về cái chết của Đức Kitô trên thánh giá. Ngài đã
chết và sống lại cho ta. Do đó, ta cũng sẽ chết và sống lại cho Ngài. Nếu trong
khi suy niệm về sự chết của Ngài ta sống với Ngài trong giờ chết của Ngài,
Ngài và Đức Trinh Nữ Maria cũng sẽ ở bên ta trong giờ chết của ta.
Từ đó, có thể lý giải được vì sao Giáo Hội ngoài việc dậy các tín hữu
cầu nguyện trong suốt giờ thánh lễ, còn xin với Đức Trinh Nữ Maria để được
Mẹ cầu nguyện cho người mất trong giờ chết: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa
Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Vì người
Công giáo tin rằng, Đức Mẹ Maria đã đứng dưới chân thập giá Đức Kitô, và
đã chứng kiến cái chết đau đớn của Con Mẹ cho các linh hồn, nên hiểu rõ hơn
ai hết giá trị cao quí của một linh hồn, cũng như tầm quan trọng của giây phút
linh hồn đó giã từ trần gian để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
Khi một tín đồ trong giờ lâm tử, thân nhân và bà con thân quyến cùng
nhau đến để đọc kinh “kinh cầu cho những người hấp hối mong sinh thì” hoặc
những lời cầu nguyện phù hợp để giúp người sắp qua đời dọn mình chết lành
trong giờ phút cuối cùng này. Điều này giúp người sắp qua đời vượt qua được
sự sợ hãi, bằng cách noi gương Chúa Ki-tô, vui lòng cùng chết với Chúa để
cùng phục sinh với sống đời đời với Chúa. Hay dù bệnh nhân đã bất tỉnh, vẫn
giúp người trong gia đình tìm được sự an ủi nhờ thấu hiểu được ý nghĩa vượt
qua của sự chết nơi người tín hữu.
Người Công giáo không có quan niệm chết vào giờ lành hay giờ dữ,
không chọn ngày, giờ tốt đưa tang; không thiết hồn bạch, làm nhà táng, minh
45
tin, không có linh xa (kiệu hay xe) đưa rước linh hồn người qua đời giống như
phong tục của tang lễ cổ truyền của người Việt. Tuy nhiên, luật buộc một số
ngày như chủ nhật mùa vọng, mùa chay, phục sinh, các lễ trọng, thứ 4 lễ Tro
và Tam Nhật vượt qua không được làm lễ an táng người qua đời, mà phải đổi
qua ngày khác.
Tang lễ của người Việt theo Công giáo ngày nay cũng không còn rườm
rà, cầu kỳ “Tang ma của hầu hết giáo dân Công giáo tại giáo xứ Thái Hà
những năm trở lại đây được đơn giản hóa khá nhiều và tôi nghĩ sự thay đổi
này là tích cực.Một số những nghi thức truyền thống rườm rà, thời gian kéo
dài, tốn nhiều chi phí đã được điều chỉnh để phù hợp hơn, ví dụ: trong nghi
thức chia buồn và đáp lễ thay vì phải quỳ 3 lần, đáp lễ uống rượu 3 lần thì
giờ đây chỉ cần hành lễ và uống chút rượu tượng trưng, hay những lễ vật
cúng cũng đã được lược giản đi khá nhiều…” [ Biên bản phỏng vấn số 2].
Khi có một tín đồ qua đời là nam giới, Nhà thờ sẽ cho chuông rung bảy
tiếng rời, sau đó rung ba hồi, còn khi tín đồ quá cố là nữ giới sẽ rung chín
tiếng rời, sau đó rung ba hồi (theo quan niệm trong dân gian nam thất (7) nữ
cửu (9).) Lúc này, những người đồng đạo nghe tiếng chuông sẽ biết ngay có
người qua đời và là nam hay nữ. Khi nghe chuông sầu, tín đồ ngừng việc
đang làm hướng về phía nhà thờ đọc Kinh Lạy Cha, tỏ lòng thương tiếc người
đồng đạo.
Trong xứ đạo sẽ tổ chức lễ chồng mồ trong nhà thờ cho tín đồ qua đời.
Quan tài được đặt chính giữa giáp với cung thánh, đầu hướng về cung thánh.
Trên quan tài người ta phủ một tấm vải đen, thêu hình thập giá màu trắng.
Các góc quan tài được thắp nến, tùy tiền xin lễ nhiều, ít mà số nến được thắp.
Lễ mồ diễn ra lâu hay chóng, trang trọng hay đơn giản, hội hát hát nhiều hay
ít đều phụ thuộc vào tiền xin lễ của thân chủ. Tín đồ lỗi đạo phạm tội trọng
khi chết không được đưa vào nhà thờ làm lễ mồ, an táng ở góc vườn thánh nơi
được xem là “mảnh đất bị nguyền rủa”. Tín đồ phạm tội nhẹ được đưa vào
46
nhà thờ làm lễ mồ nhưng quan tài chỉ được quàn ở gian cuối, hình thức tiến
hành đơn giản.
Nghi lễ chồng mồ có từ bao giờ, hiện chưa có tài liệu đích xác. Trong
Thư chung gửi bổn đạo đại phận Tây Đàng Ngoài năm 1903, giám mục Phero
Maria có nhắc đến lễ chồng mồ. Song theo các tín đồ ở đây, nghi lễ này chắc
đã có từ trước đó một thời gian dài.
Nghi lễ an táng cho người qua đời được quy định trong cuốn Sách an ủi
kẻ liệt. Tuy nhiên, cuốn sách này có từ bao giờ và nội dung ra sao, thì hiện
nay không tìm thấy văn bản gốc. Trong Thư chung gửi bổn đạo Địa phận Tây
Đàng Ngoài đề tháng 12/1895, giám mục Phero Maria Đông có nhắc tới cuốn
sách này, nhưng cho rằng: loại sách này chỉ ghi chép ít nhiều những kinh
nghiệm quen đọc lúc hấp hối, và kể được qua mấy lễ an ủi kẻ hấp hối, mà
không dẫn chỉ cách cất xác như phép đạo đã dạy. Có lẽ vì thế mà sau này
hàng loạt các Thư chung của giám mục các địa phận phải quy định cụ thể về
việc thực hiện lễ mồ như Thư chung đề ngày 21/5/1796 của giám mục địa
phận Đông.
Sau lễ chồng mồ diễn ra ở nhà thờ, người qua đời được đưa đi an táng.
Thứ tự thường là: cờ tang, ba quan viên cầm thánh giá nến cao, trẻ nam, trung
nam, bát âm, vòng hoa, quan tài, thân chủ người qua đời, bổ đạo đưa
tiễn…Tuy nhiên, ngày nay những nghi thức này dần được lược bỏ. Song
trong đám tang vẫn thực hiện đúng với quy định của nghi thức như: Việc
chôn cất thường được tiến hành vào buổi trưa, khi ra khỏi nhà người chết
được đưa chân ra trước, đầu ra sau, xác được đưa đến nhà thờ giáo xứ làm lễ,
người chết được đặt trước cung thánh, đầu quay ra hướng cửa chính, mặt
hướng vào bàn thờ lễ. Sau khi làm lễ ở nhà thờ xong thì đưa thẳng ra nghĩa
địa, và đi theo thứ tự là chân đi trước, đầu đi sau. Việc diễn ra nghi thức này
có hai cách giải thích, cách giải thích thứ nhất: Hướng về Thánh giá ở phía
trước, cách giải thích thứ hai: người Công giáo chết là về với Chúa (một đi
không trở lại). Đoàn đưa tang bao gồm một người cầm cây Thánh giá đi
47
trước, 2 bên là 2 người cầm đèn cầy hoặc hoa, tiếp đến là các em thanh thiếu
niên, sau đó là bà con trong làng, rồi đến quan tài và cuối cùng là thân nhân
người quá cố.
Người Công giáo không có tục “cha đưa mẹ đón” (nghĩa là: tiễn bố qua
đời đi phía sau, tiễn mẹ qua đời đi giật lùi phía trước quan tài) giống như nghi
thức truyền thống của người Việt. Các hình thức trong đám tang hay lúc đưa
tang như: khóc lóc, lăn đường, cắt tóc tang… như trong nghi thức tang lễ
truyền thống của người Việt đều bị giáo hội cấm nghiêm ngặt.
Xứ, họ đạo không có nghĩa địa riêng, gia chủ phải mời linh mục về làm
phép huyệt. Khi xác được đến đến nghĩa địa, huyệt đã được đào sẵn, tại đây
trước khi hạ quan tài xuống huyệt người ta đọc kinh một lần nữa, sau đó mới
dùng dây thả quan tài xuống huyệt đầu hướng đông, chân hướng tây (tục lệ
truyền thống của người Phương Đông tin vào hướng xấu và hướng tốt).
Người Công giáo không có tục bốc mộ. Người qua đời được “đào sâu
chôn chặt”, mộ được xây kiên cố. Bởi người Công giáo cho rằng sự ra đi ấy
chính là lúc họ được về với Chúa, việc cải táng, hay bốc mộ đi ngược lại với
lời răn của Chúa. Ngay cả khi thực hiện nghi thức hỏa táng, thì tro cốt người
quá cố cũng được giữ cẩn thận trong lọ, bình đựng. Có thể nói, đây là một
trong những tư tưởng tiến bộ của người Công giáo, theo bà Nguyễn Thị A, trả
lời phỏng vấn: “Hiện nay, với sự phát triển của đời sống kinh tế, văn hóa và
môi trường xã hội có nhiều biến động, đã tác động không nhỏ đến nghi thức
tang lễ của người Công giáo chúng tôi tại chính giáo xứ Thái Hà. Trước kia,
trong điều kiện đất rộng, và còn ảnh hưởng nặng nề bởi truyền thống tang lễ
cổ truyền của người Việt. Do đó, phần lớn các gia đình Công giáo chúng tôi
khi có người qua đời đều được trôn cất theo hình thức địa táng. Tuy nhiên,
hiện nay, dưới sự tác động của quá trình đô thị hóa, đất đai thu hẹp, giá cả
đất cát đắt đỏ, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình mà có thể
quyết định theo hình thức địa táng hoặc hỏa táng. Nếu có điều kiện thì địa
táng ở các khu nghĩa trang xa dành riêng cho người Công giáo ở khu vực
48
ngoại thành, còn không thì hỏa táng rồi lấy xương cốt, hoặc tro...” [Biên bản
phỏng vấn số 1]
Tín đồ qua đời ở xa nơi thờ tự có thể được làm nghi lễ đưa xác tại nhà.
Linh mục có công với xứ đạo, nếu được phép của giám mục, được an táng
trong khuôn viên nhà xứ. Giám mục qua đời được án táng trong thánh nhà thờ
chính tòa hoặc một cơ sở tôn giáo khác.
Trải qua quá trình của lịch sử, dần dần xuất hiện các loại kinh cầu
nguyện liên quan đến người qua đời như:
Kinh cầu cho bệnh nhân
Kinh cầu cho người hấp hối
Kinh cầu cho người tắt thở
Kinh cầu nguyện lúc tẩm liệm
Kinh cầu cho các linh hồn.
…
Lời văn của các kinh tùy theo việc soạn thảo của giám mục giáo phận
và theo từng giai đoạn khác nhau, nhưng nội dung về cơ bản là giống nhau và
không có nhiều sự thay đổi.
Tuy không thực hành nghi lễ an táng và thờ cúng theo nghi lễ truyền
thống của người Việt, nhưng ít nhiều những nghi thức diễn ra trước và sau lễ
an táng đều mang âm hưởng của nghi lễ truyền thống của người Việt. Những
hình thức này dựa trên những tập tục cổ truyền, nhưng đưa nội dung tôn giáo
– công giáo vào nghi thức, chẳng hạn như: 3 ngày: đi thăm mộ, cầu kinh, 49
ngày: lễ và đọc kinh cầu nguyện; 100 ngày: lễ và đọc kinh cầu nguyện; cũng
có nghi thức giỗ đầu: đọc kinh cầu nguyện và giỗ hết đọc kinh cầu nguyện.
Chết là một sự dứt bỏ mang tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người
bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình,
một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những
gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị
được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta
49
đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng
hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, những người Kitô hữu đã nhìn cái chết dưới ánh sáng đức
tin. Dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một chấm dứt mà là một
khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là
một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó mang đến
cho những người theo Công giáo hay người không theo công giáo những bài
học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Những trải
nghiệm khốc liệt trước cái chết đã khiến con người hiểu được giới hạn của
mình, hiểu được quyền uy của tạo hóa. Cái chết không chỉ phá hủy sự kiêu
ngạo, khiến người ta phải khiêm nhường mà cái chết còn là bài học khiến
những người còn sống biết trân trọng những gì mình đang có “hãy sống như
là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục. Vì
chúng ta lo sợ cái chết, nên chúng ta ngay khi còn sống hãy làm mọi thứ bằng
sự nhiệt thành” (một câu nói của một hoạ sĩ Tây Ban Nha tên là Murillo).
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy
chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ
quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối với Thiên
Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài
và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong cuộc sống thường
ngày, hãy biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích,
đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh, những con người
đáng thương trong kiếp người. Khi tâm hồn chúng ta được bình yên nhân,
cũng là lúc chúng ta giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ cái chết không
còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái
chết, nhưng với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống
là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn
đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
50
2.3.2. Những tồn tại cần khắc phục
Hầu hết các nghi thức diễn ra trong tang lễ của người Việt theo Công
giáo tại Giáo xứ Thái Hà vẫn còn nguyên vẹn giá trị gốc không thay đổi ở
hiện tại là mấy. Giáo hội Công giáo Việt Nam đã có văn bản quy định chuẩn
dựa trên Nghi lễ Roma và việc thực hành được thống nhất trong tất cả các địa
phận. Vì vậy, nghi thức tang ma của tín hữu Ki-tô sau Công đồng Vatican II
mang nhiều yếu tố hội nhập, đặc biệt là sau sự kiện Năm Thánh 2010.
Thế nhưng “Các giáo dân cho đến hiện nay, vẫn chỉ sống đạo theo kiểu
gắn đời mình vào cỗ xe của những sinh hoạt trong giáo xứ hay đoàn thể. Mặc
dù, tất cả đều tham gia đầy đủ hoặc tích cực vào sinh hoạt đạo, nhưng lại
không một chút bận tâm về thái độ cá nhân của mình đối với Chúa, họ tranh
luận và bàn cãi sôi nổi với nhau về giáo lý, về cách tổ chức, nhưng lại không
bao giờ có được sự chọn lựa của đức Tin, họ giữ đúng giới luật của Chúa và
Hội Thánh nhưng lại không có khả năng chấp nhận Thánh ý Chúa khi gặp
một hoàn cảnh trái ý, hoặc chẳng bao giờ tự mình khám phá ý nghĩa siêu
nhiên trước những biến cố trong cuộc sống thường ngày” [Biên bản phỏng
vấn số 4].
Có lẽ vì điều đó, mà những nghi thức diễn ra trong các thánh lễ an táng
ngày nay dần mất đi sự thanh tịnh, trang nghiêm vốn có. Mặc dù các nghi
thức diễn ra đúng quy định của Thánh lễ, nhưng lại không thể hiện được cách
sống thấm nhuần Tin Mừng. Sách Các Nghi Thức viết: "Việc cử hành tang lễ
Ki-tô Giáo đem lại niềm hy vọng và an ủi cho người sống”. Ðây là một điều
quan trọng, thế nhưng ngày nay, nhiều tín hữu lại chỉ quan tâm đến sự mất
mát của cá nhân, gia đình mà quên đi sứ mệnh của tín hữu ki-tô trước Chúa.
“Dù biết cái chết của người thân là sự mất mát quá lớn đối với người ở
lại. Thế nhưng, tang lễ có bi thương, có rình rang cách mấy thì người chết
cũng không thể sống lại để nghe những bài điếu văn ca tụng dài lê thê, để
thấy được những hàng nước mắt xót thương. Bài điếu văn càng bi ai thì thân
nhân sống sót càng đau khổ, càng tiếc nuối người quá cố. Bạn bè tham dự
51
tang lễ có ngậm ngùi kể lể về những việc người chết lúc còn sống đã làm thì
sau khi nắm đất cuối cùng phủ lên quan tài cũng chỉ còn lại tang quyến là
những người phải sống với đau thương âm ỉ ấy. Nhận định như thế không có
nghĩa chúng ta sẽ quên đi "hiếu nghĩa" đối với người chết để nhỏ lệ xót
thương hay một đôi phút ngậm ngùi, nhưng mỗi tin đồ Công giáo đều cần
thay đổi một thói quen. Thay vì quá chú ý đến các biểu lộ bên ngoài đến độ
giả dối mà nhiều khi có ảnh hưởng xấu đến người còn sống, thì mỗi người
cần để ý đến thực chất bên trong. Một hy sinh, dù nhỏ bé cũng có giá trị hơn
những câu kinh ê a qua lần chiếu lệ. Và nếu hy sinh ấy được dâng lên Thiên
Chúa để đền bù cho những lỗi lầm của người quá cố, thì đó mới là điều hiếu
nghĩa đối với người chết” [Biên bản phỏng vấn số 4].
Ngày nay, các nghi thức Tang lễ dần được đơn giản hóa, thân nhân
trong gia đình chỉ cần liên hệ dịch vụ mai táng (nhà quàn) để chọn Quan Tài
(Áo Quan), gói dịch vụ mai táng và bên dịch vụ sẽ lo thay gia đình, điều này
cũng phần nào làm mất đi nét đẹp trong nghi lễ tang ma và cũng phần nào làm
giảm đi tinh thần Phụng vụ Thánh lễ. Thậm chí, kinh cầu trong tang lễ ở
nhiều giáo xứ cũng dần được quy chuẩn hóa, giản lược hóa các bước thực
hành nghi lễ an táng người qua đời.
Người Việt theo Công giáo bị ảnh hưởng ít nhiều bởi văn hóa bản xứ,
họ cho rằng một người bình thường, không phạm những tội ác hiển nhiên, khi
chết họ sẽ lên thiên đường. Giáo Hội Công Giáo dạy rằng sau cái chết, linh
hồn sẽ ở vào một trong ba tình trạng: hoặc bị luận phạt ở hỏa ngục, hoặc được
thanh tẩy ở luyện tội, hoặc được thưởng ở thiên đường, và chỉ có Thiên Chúa
mới biết được linh hồn ấy đang trong tình trạng nào.
Giáo Hội tin rằng mọi người đều có những bất toàn cần được thanh tẩy
trước khi được diện kiến Thiên Chúa. Do đó mới có luyện tội. Khi tang quyến
“phong thánh” cho người chết, hậu quả mà họ không nghĩ đến là người tham
dự tang lễ sẽ nghĩ rằng nếu người chết đã lên thiên đường thì còn cần gì đến
lời cầu nguyện của họ. Thực sự thì chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được
52
con người thật của chúng ta như thế nào. Có khi quãng đời còn trẻ thì bê bối,
tội lỗi, đến khi về già mới ăn năn hoán cải, nhưng tội lỗi gây ra thì vẫn còn đó
mà chưa được đền trả. Và một linh hồn trong luyện tội thì không còn khả
năng đền bù tội lỗi của mình mà họ cần đến lời cầu nguyện – nhất là những
hy sinh hãm mình – của người còn sống. Bởi đó mới có đọc kinh cầu nguyện
ở nhà quàn và Thánh Lễ an táng.
Giáo hội Việt Nam khuyên các tang gia không nên làm áp lực với các
linh mục chủ tế dưới bất cứ hình thức nào, dù là sự thân quen hay tài chính,
để được thi hành các ý định riêng tư của mình trong Thánh Lễ An Táng, hoặc
trong phần Lời Nguyện Chung hoặc trong phần cảm tạ cuối lễ. Chúng ta có
thể thi hành bất cứ gì chúng ta muốn trong nhà quàn, trong buổi tiệc trà sau
tang lễ, v.v., nhưng không phải là diễn ra trong Thánh Lễ. Trong kinh Tin
Kính, ngoài đức tin nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta còn phải tin vào Giáo
Hội. Niềm tin này phải được thể hiện cách thực tế trong đời sống giáo dân về
nhiều khía cạnh, một trong những khía cạnh đó là vâng phục các quy tắc của
Giáo Hội về Thánh Lễ An Táng.
53
TIỂU KẾT:
Sự kiện qua đời của một con người sẽ là dấu tích quan trọng nhất, thể
hiện niềm tin tuyệt đối của con người khi phó thác thân xác mình trong sự
chết để được phục sinh trong cuộc sống vĩnh cữu ở Nước Trời. Các nghi lễ
diễn ra trong thánh lễ an táng và việc đọc kinh cầu nguyện không những chủ
đích giúp cho người sắp ra đi trong cảm nhận được tình yêu thương và mong
đợi của Thiên Chúa và sự quay quần đỡ nâng của những người thân, gia đình,
cộng đoàn dân Chúa, mà còn giúp cho những người còn ở lại cảm nhận được
sự bình an trong sự cậy trông vào tình yêu của Thiên Chúa và sự hy vọng của
ngày gặp lại người thân thương của mình trên Nước Trời. Thánh Lễ An Táng
để thánh hiến người thân trong tình yêu Cứu độ của Thiên Chúa. Và qua nghi
thức hạ huyệt, người Kitô hữu xin phó thác người quá cố vào lòng đất trong
sự cây trông vào ơn Cứu Độ và Phục Sinh qua chính sự hy sinh mạng sống
của Chúa Giêsu.
Ngày nay do điều kiện an táng ở đô thị đông đúc không còn phù hợp, thì
hình thức hỏa táng được chấp nhận như một sự thúc đẩy nhanh chóng để “linh
hồn được về với Chúa”. Từ sau khi khu vực Giáo xứ Thái Hà bị thu hẹp về
diện tích, thì toàn bộ các thi hài của người quá cố đều được an táng bằng hình
thức hỏa táng và mang về nghĩa trang Thanh Tước, hoặc nghĩa trang do gia
đình lựa chọn "Giáo Hội cho phép hỏa táng, nếu việc này không động đến
niềm tin vào sự sống lại của xác kẻ chết". (x. SGLGHCG, số 2301), bởi dù
được chôn cất và bị tiêu tan trong lòng đất hay được hỏa thiêu thành tro bụi,
xác kẻ chết vẫn được quyền năng của Thiên Chúa cho sống lại, kết hợp cùng
với linh hồn để hoặc được vào an nghỉ muôn đời với Thiên Chúa trong Nước
Hằng Sống hay bị xa lìa Thiên Chúa vĩnh viễn trong nơi gọi là hỏa ngục.
Cả về khía cạnh tâm lý con người, và khía cạnh tâm linh của đức tin, các
nghi lễ và cầu nguyện đều hướng đến niềm an ủi trước sự ra đi của người thân
thương qua sự cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa và sự đỡ nâng và
yêu thương trong sự hợp nhất của gia đình,thân quyến, cộng đoàn dân Chúa
qua những nghi lễ, cầu kinh của truyền thống đức tin của người Công Giáo.
54
KẾT LUẬN
Dựa theo niềm tin của tín hữu Ki-tô, nếu như con người đã một lần từ
lòng mẹ được sinh ra và bắt đầu cuộc hành trình của mình, thì qua Bí tích Rửa
tội con người một lần nữa “sinh vào đạo” để bắt đầu cuộc hành trình trở về lại
lòng Cha, Đấng đã tạo nên sự hiện thân của mình trong vũ trụ. Dù theo định
luật tự nhiên của mọi sinh vật “sinh, lão, bệnh, tử”, thân xác con người sẽ hư
thoái và tiêu hủy theo thời gian, cuộc sống của con người không chấm dứt ở
sự chết của thân xác, mà vẫn luôn mãi tồn tại trong cuộc sống tâm linh của
linh hồn mình. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời của mình, người Kitô hữu
luôn được nuôi dưỡng tâm hồn mình qua lương thực tình yêu của Bí Tích
Thánh thể; được hoàn chỉnh tâm hồn mình qua sự từ bi và hoán cãi của Bí
Tích Giao Hoà; được thêm sức kiên cường trung can của ơn Chúa Thánh
Thần qua Bí Tích Thêm Sức; được trọn vẹn trong tình yêu sáng tạo vũ trụ qua
Bí Tích Hôn Phối; và khi hoàn thành sứ mạng trên thế gian, người Kitô hữu
một lần nữa được thanh liệm trong ân sủng qua Bí Tích Xức Dầu.
"Khi đối diện với cái chết, Giáo Hội mạnh mẽ tuyên xưng rằng Thiên
Chúa đã dựng nên mỗi một người để được sống đời đời, và Ðức Giêsu - Con
Thiên Chúa - qua sự chết và sự phục sinh, Người đã phá vỡ xiềng xích tội lỗi
cũng như sự chết từng ràng buộc nhân loại." Niềm tin về sự sống khi đứng
trước cái chết mang đến nhiều ý nghĩa sâu xa hơn chúng vẫn tưởng, nếu
chúng ta tin rằng con người được dựng nên để sống đời đời thì cái chết không
chấm dứt sự hiện hữu của chúng ta. Chết không phải là hết. "Khi chúng ta rửa
tội là chúng ta đi vào ngôi mộ với Người và cùng tham dự với Người trong sự
chết, để khi Ðức Kitô được nâng lên từ kẻ chết nhờ vinh hiển của Chúa Cha,
thì chúng ta cũng có thể sống đời sống mới. Nếu trong sự hợp nhất với Ðức
Kitô chúng ta đã bắt chước cái chết của Người thì chúng ta cũng sẽ được
giống như Người trong sự phục sinh" (Rôma 6:4-5). Nói cách khác, thân xác
chúng ta sẽ được phục sinh nếu khi còn sống chúng ta đã cố gắng noi gương
55
Ðức Kitô trong đời sống đạo. Có lẽ đây là mục đích tối hậu của một người
theo Ðức Kitô.
Cuộc hành trình của mỗi Kitô hữu trên dương thế dài hay ngắn, lâu hay
mau, tất cả đều được kết thúc bằng cái chết. Khi bước vào biên giới vĩnh cửu,
con người phải bỏ lại tất cả những gì mình có thuộc về thế giới vật chất. Sự
tước đoạt trần trụi này chỉ cái chết mới có thể làm được. Ứng dụng ý nghĩa
của sự chết vào cuộc sống và để chuẩn bị cho mình một giờ chết tốt lành, sẽ
giúp ta hăng hái và kiên trì sống đạo giữa muôn thách đố của cuộc đời.
Những bài hát, lời cầu nguyện, nói chung là phụng vụ trong Thánh Lễ
An Táng không chỉ nhằm xác nhận một thực tại xa cách mà còn nói lên "mối
giây liên đới giữa người sống và kẻ chết", và quan trọng hơn nữa, với niềm hy
vọng nơi Ðức Kitô phục sinh, chúng ta tin tưởng rằng sau này, "tất cả chúng
ta cũng sẽ được đoàn tụ trên thiên đàng".
Tín hữu Kitô, trong cuộc sống mỗi ngày trên dương thế, cũng phải lo
hoàn tất Thánh Ý của Thiên Chúa. Hành động như vậy, như Đức Kitô, ta tôn
vinh Thiên Chúa trong cuộc đời của mình. Ta phải chuẩn bị cho giờ chết của
mình bằng đời sống cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa. Nhờ kết hợp với
Ngài qua tâm tình và đời sống cầu nguyện, ta sẽ được ngọn lửa tình yêu đốt
nóng, như tác giả Thánh Vịnh đã thưa lên với Chúa: “Vì Ngài thân xác tôi hao
mòn và linh hồn tôi khao khát”. Ta chuẩn bị giờ chết bằng cách nhận thức
như Thánh Ambrôsiô, cho rằng Thiên Chúa định liệu sự chết như một phương
thuốc để chữa tội lỗi. Một thứ thuốc mà ta không nên sợ hãi, bởi vì Vị Lương
Y Tốt Lành đã cho toa đúng liều lượng vì lợi ích của mỗi người.
Chúa Kitô đã đến qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Ngài đang đến qua các bí
tích ta lãnh nhận thường ngày trong Giáo Hội. Người sẽ đến để kêu gọi ta về
với Ngài bằng cái chết của mỗi cá nhân, cũng như ngày thế mạt chung cho
toàn thể nhân loại. Hãy chuẩn bị dâng tặng Ngài niềm vui do hành động sẵn
sàng của ta. Đây là ý nghĩa từ bỏ trọn vẹn nhất của một Kitô hữu qua việc
thực hành đức tin trong đời sống.
56
Người Việt Nam chúng ta rất thực tế khi "an ủi người sống" đó là sự
đóng góp tài chính cho tang gia. Nhưng còn sự an ủi tinh thần thì sao? Có một
vài nhận định cần nêu lên ở đây. Thứ nhất, không ai có người thân yêu qua
đời mà lại nghĩ rằng người ấy đang ở trong "vực sâu tối tăm". Dù người từ
trần có lối sống bê bối đi chăng nữa, thì người thân yêu của họ vẫn hy vọng sẽ
được Thiên Chúa thứ tha và cho hưởng phúc thiên đàng. Hình ảnh "vực sâu u
tối" không đem lại niềm an ủi cho người sống mà ngược lại, rất có thể phản
Tin Mừng. Thay vì trưng ra một Thiên Chúa đầy nhân ái, đầy từ bi thì rất có
thể, vì vô tình, qua các bài hát, câu kinh, chúng ta đã trưng ra hình ảnh một
Thiên Chúa "quan toà", thích trừng phạt hơn thích tha thứ. Thứ hai, vì thiếu
suy nghĩ nên nhiều khi chúng ta máy móc lập lại những câu an ủi phổ thông,
như "đó là ý Chúa," "Chúa thương gọi về." Rất có thể, những câu an ủi ấy gây
ảnh hưởng tai hại hơn là xoa dịu người còn sống.
Thí dụ, trước cái chết của một người cha trong gia đình nheo nhóc con
thơ mà sự ra đi của ông là một mất mát vô cùng lớn lao cho vợ con ông, thì
khi chúng ta cho "đó là ý Chúa," hoặc mở đầu tang lễ bằng "Khi Chúa thương
gọi tôi về" thì chẳng khác nào chúng ta muốn nói với tang gia rằng Chúa
không thương yêu gì đến bà và các cháu đâu! Và trong tâm hồn non nớt của
các em, rất có thể các em nghĩ Chúa là người độc ác. Vì Chúa không màng
đến người còn sống! Thứ ba, vấn đề chia buồn. Cũng vì thiếu suy nghĩ nên
nhiều người Công Giáo đã "vô cùng đau đớn khi được tin ông/bà ... đã được
Chúa gọi về"! Mục đích tối hậu của người Công Giáo là được hiệp nhất vĩnh
viễn với Thiên Chúa thì tại sao chúng ta lại "vô cùng đau đớn" khi được
"Chúa gọi về"? Thay vì truyền đạo qua bất cứ biến cố nào trong đời sống, thì
chúng ta lại trưng ra một hình ảnh Thiên Chúa đáng sợ hơn đáng kính mến.
Chết là lẽ tự nhiên và khó chấp nhận. Không chết vì già thì chết vì
bệnh. Không chết vì bệnh thì chết vì tai nạn. Trước cái chết của một người,
điều quan trọng là thông cảm sự đau buồn của thân nhân hơn là đưa ra lời
nhận định. Chẳng ai biết được ý Chúa. Và lời an ủi mạnh mẽ nhất là im lặng
57
lắng nghe tâm tình của người còn sống và những giúp đỡ thực tế. Tang lễ của
người Công Giáo ngày nay mang nhiều màu sắc truyền thống Việt Nam, sự
pha trộn đó đôi khi mâu thuẫn với Tin Mừng trong Kinh Thánh, những tín đồ
ki-tô hữu dần quên đi niềm hy vọng phục sinh nơi Ðức Kitô, thậm chí nhiều
người tuyệt vọng cho rằng "chết là hết" và thờ ơ việc cầu nguyện cho linh hồn
người thân yêu đã từ trần. Vì vậy tôi mong rằng với đề tài của mình phần nào
bước đầu giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về thế giới tâm linh, làm thay
đổi cái nhìn đang dần bị lệch lạc của các tín hữu kitô giáo nói chung và tín đồ
tại giáo xứ Thái Hà nói riêng. Đồng thời, sự thay đổi đó theo đúng tinh thần
của Đảng và pháp luật Nhà nước Việt Nam về những quy định thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Góp phần hoàn thành mục
tiêu xây dựng nếp sống văn hóa mới, cải thiện những điều còn lãng phí và đẩy
lùi những hủ tục lạc hậu nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, ổn định an
ninh trật tự, phát triển kinh tế - xã hội.
58
PHỤ LỤC
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 1
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Người thực hiện
Nguyễn Thị Trang
Khóa K60 Triết Học – Chuyên ngành Tôn giáo
Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn
2. Người được phỏng vấn
Nguyễn Thị A – 45 tuổi – Kinh doanh buôn bản nhỏ tại khu vực gần
nhà thờ Thái Hà – Hà Nội
3. Địa điểm phỏng vấn
180/2 Nguyễn Lương Bằng, Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
4. Thời gian phỏng vấn
Ngày 2 tháng 3 năm 2019
5. Chủ đề phỏng vấn
“Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” (Nghiên cứu tại
Giáo xứ Thái Hà – Hà Nội).
6. Chữ kí xác nhận
II. NỘI DUNG
Hỏi: Ông (bà) nhận định thế nào về nghi thức tang lễ của người Công
giáo Việt Nam hiện nay nói chung và nghi thức tang lễ của người giáo dân
Công giáo tại giáo xứ Thái Hà nói riêng?
Trả lời: Hiện nay, với sự phát triển của đời sống kinh tế, văn hóa và
môi trường xã hội có nhiều biến động, đã tác động không nhỏ đến nghi thức
tang lễ của người Công giáo chúng tôi tại chính giáo xứ Thái Hà. Trước kia,
trong điều kiện đất rộng, và còn ảnh hưởng nặng nề bởi truyền thống tang lễ
cổ truyền của người Việt. Do đó, phần lớn các gia đình Công giáo chúng tôi
59
khi có người qua đời đều được trôn cất theo hình thức địa táng. Tuy nhiên,
hiện nay, dưới sự tác động của quá trình đô thị hóa, đất đai thu hẹp, giá cả đất
cát đắt đỏ, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình mà có thể quyết
định theo hình thức địa táng hoặc hỏa táng. Nếu có điều kiện thì địa táng ở
các khu nghĩa trang xa dành riêng cho người Công giáo ở khu vực ngoại
thành, còn không thì hỏa táng rồi lấy xương cốt, hoặc tro...
Hỏi: Ông (bà) nhận định thế nào về ảnh hưởng của yếu tố nghi thức
tang lễ truyền thống của người Việt đến nghi thức tang lễ của người Công
giáo Việt Nam hiện nay?
Trả lời: Người Công giáo chúng tôi không bị lụy, hay quá đau buồn
trước cái chết của người thân, anh em bạn bè. Bởi chúng tôi tin vào sự phán
xét của Chúa, Chúa đã chọn người anh em của chúng tôi trở về bên Chúa thì
theo đúng lý chúng tôi phải vui mừng. Thế nhưng, cá nhân tôi nhận thấy Công
giáo ở Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều bởi phong tục tang ma truyền thống của
người Việt, vì thế mà trong tang ma ngày nay mọi người thay vì cầu nguyện,
đọc kinh cho người mất thì lại khóc cho sự mất mát của cá nhân mà quên đi
tinh thần của Chúa. Trong đám ma của những người chết vì già có phần đỡ
hơn đám ma của những người chết đột ngột, người trẻ bị tai nạn, hay trẻ nhỏ
chết sớm…
60
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 2
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Người thực hiện
Nguyễn Thị Trang
Khóa K60 Triết Học – Chuyên ngành Tôn giáo
Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn
2. Người được phỏng vấn
Đỗ Thị B – 55 tuổi – Kinh doanh buôn bán nhỏ đối diện nhà thời Thái
Hà, Hà Nội
3. Địa điểm phỏng vấn
180/2 Nguyễn Lương Bằng, Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
4. Thời gian phỏng vấn
Ngày 2 tháng 3 năm 2019
5. Chủ đề phỏng vấn
“Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” (Nghiên cứu tại
Giáo xứ Thái Hà – Hà Nội).
6. Chữ kí xác nhận
II. NỘI DUNG
Hỏi: Ông (bà) nhận định thế nào về nghi thức tang lễ của người Công
giáo Việt Nam hiện nay nói chung và nghi thức tang lễ của người giáo dân
Công giáo tại giáo xứ Thái Hà nói riêng?
Trả lời: Đứng từ góc độ cá nhân, tôi nhận thấy tang ma của hầu hết
giáo dân Công giáo tại giáo xứ Thái Hà những năm trở lại đây được đơn giản
hóa khá nhiều và tôi nghĩ sự thay đổi này là tích cực. Một số những nghi thức
truyền thống rườm rà, thời gian kéo dài, tốn nhiều chi phí đã được điều chỉnh
để phù hợp hơn, ví dụ: trong nghi thức chia buồn và đáp lễ thay vì phải quỳ 3
lần, đáp lễ uống rượu 3 lần thì giờ đây chỉ cần hành lễ và uống chút rượu
tượng trưng, hay những lễ vật cúng cũng đã được lược giản đi khá nhiều. Tuy
61
nhiên, không tránh được việc nhiều gia đình giáo dân vẫntổ chức những đám
tang lớn hơn bình thường để khẳng định vai vế của mình trong cộng đồng.
Hỏi: Ông (bà) nhận định thế nào về ảnh hưởng của yếu tố nghi thức
tang lễ truyền thống của người Việt đến nghi thức tang lễ của người Công
giáo Việt Nam hiện nay?
Trả lời: Ảnh hưởng nghi thức truyền thống là khá rõ ràng, có thể dễ
dàng nhận thấy ở trong bất kỳ giáo xứ giáo họ nào tại Việt Nam khi người
chết qua đời, con cháu, anh em họ hàng đều có làm nghi thức Viếng để những
người còn sống là con cháu, anh em, bạn bè, hàng xóm những người có quan
hệ gần gũi với gia đình người đã khuất tới Viếng linh hồn người đã khuất lần
cuối. Hay phần tiền lễ, theo đúng nghi thức tang ma công giáo trước đây thì
tiền lễ chỉ là một chút tiền lễ nhỏ mà tang gia gửi linh mục người sẽ giúp xin
lễ cho linh hồn người đã khuất, nhưng do ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống
nên người đến thăm viêng lại có thêm phần tiền lễ riêng gửi cho gia đình…
62
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 3
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Người thực hiện
Nguyễn Thị Trang
Khóa K60 Triết Học – Chuyên ngành Tôn giáo
Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn
2. Người được phỏng vấn
Hà Đăng A – 30 tuổi – Nhân viên Văn Phòng.
3. Địa điểm phỏng vấn
180/2 Nguyễn Lương Bằng, Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
4. Thời gian phỏng vấn
Ngày 2 tháng 3 năm 2019
5. Chủ đề phỏng vấn
“Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” (Nghiên cứu tại
Giáo xứ Thái Hà – Hà Nội).
6. Chữ kí xác nhận
II. NỘI DUNG
Hỏi: Theo Ông (bà), nghi thức tang lễ của người Công giáo nói chung
và tại giáo xứ Thái Hà nơi ông bà đang sinh hoạt đạo nói riêng có những điểm
gì thuận lợi và những gì khó khăn, thách thức?
Trả lời: Thuận lợi là việc tổ chức ma chay có sự kết hợp của cả lương
và giáo, những người thân, bạn bè không phân biệt tôn giáo cùng nhau giúp lo
việc ma chay cho gia đình người có đám, thể hiện tinh thần đoàn kết tôn giáo
và gắn kết chặt chẽ với nhau hơn và ở khu vực Hà Nội các giáo họ giáo xứ rất
gần nhau, các cha quản xứ cũng dễ dàng đến những gia đình có người khuất
để làm các nghi thức tôn giáo. Còn về khó khăn và thách thức có lẽ là nơi
chôn cất, vì không có đất để chôn cất người mất, nên hầu hết các gia đình lựa
63
chọn hỏa táng mà hình thức này lên đến vài chục triệu đồng, với nhiều gia
đình không có điều kiện thì đây cũng là một con số đang để lo lắng.
Hỏi: Ông (bà) có góp ý, kiến nghị gì cho việc tổ chức nghi thức tang lễ
của người Việt Công giáo tại Việt Nam nói chung và tại giáo xứ Thái Hà nói
riêng?
Trả lời: Nhiềugia đình vẫn giữ đạo, sống đạo bình thường, nhưng cuộc
sống nơi đô thị hối hả, vội vã không tránh khỏi việc nhiều giáo dân nơi đây có
xu hướng giảm bớt các nghi thức lễ lạy, một mặt nó thể hiện điểm tích cực
khi bớt đi những tập tục không cần thiết, nhưng một mặt nó bộc lộ sự qua loa,
coi nhẹ những tập tục văn hoá cũng như nghi lễ tôn giáo chung. Và tôi nghĩ là
điều này cần phải được thay đổi.
64
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 4
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Người thực hiện
Nguyễn Thị Trang
Khóa K60 Triết Học – Chuyên ngành Tôn giáo
Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn
2. Người được phỏng vấn
Hoàng Hà D – 23 tuổi – Sinh viên năm cuối trường Đại Học Kinh Tế
Quốc Dân (là giáo dân, sống gần khu vực nhà thời Thái Hà).
3. Địa điểm phỏng vấn
180/2 Nguyễn Lương Bằng, Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
4. Thời gian phỏng vấn
Ngày 2 tháng 3 năm 2019
5. Chủ đề phỏng vấn
“Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” (Nghiên cứu tại
Giáo xứ Thái Hà – Hà Nội).
6. Chữ kí xác nhận
II. NỘI DUNG
Hỏi: Theo Ông (bà), nghi thức tang lễ của người Công giáo nói chung
và tại giáo xứ Thái Hà nơi ông bà đang sinh hoạt đạo nói riêng có những điểm
gì thuận lợi và những gì khó khăn, thách thức?
Trả lời: Thách thức hiện nay thể hiện khá cụ thể, các giáo dân cho đến
hiện nay, vẫn chỉ sống đạo theo kiểu gắn đời mình vào cỗ xe của những sinh
hoạt trong giáo xứ hay đoàn thể. Mặc dù, tất cả đều tham gia đầy đủ hoặc tích
cực vào sinh hoạt đạo, nhưng lại không một chút bận tâm về thái độ cá nhân
của mình đối với Chúa, họ tranh luận và bàn cãi sôi nổi với nhau về giáo lý,
về cách tổ chức, nhưng lại không bao giờ có được sự chọn lựa của đức Tin, họ
giữ đúng giới luật của Chúa và Hội Thánh nhưng lại không có khả năng chấp
65
nhận Thánh ý Chúa khi gặp một hoàn cảnh trái ý, hoặc chẳng bao giờ tự mình
khám phá ý nghĩa siêu nhiên trước những biến cố trong cuộc sống thường
ngày. Có lẽ vì điều đó, mà những nghi thức diễn ra trong các thánh lễ an táng
ngày nay dần mất đi sự thanh tịnh, trang nghiêm vốn có.
Hỏi: Ông (bà) có góp ý, kiến nghị gì cho việc tổ chức nghi thức tang lễ
của người Việt Công giáo tại Việt Nam nói chung và tại giáo xứ Thái Hà nói
riêng?
Trả lời: Dù biết cái chết của người thân là sự mất mát quá lớn đối với
người ở lại. Thế nhưng, tang lễ có bi thương, có rình rang cách mấy thì người
chết cũng không thể sống lại để nghe những bài điếu văn ca tụng dài lê thê, để
thấy được những hàng nước mắt xót thương. Bài điếu văn càng bi ai thì thân
nhân sống sót càng đau khổ, càng tiếc nuối người quá cố. Bạn bè tham dự
tang lễ có ngậm ngùi kể lể về những việc người chết lúc còn sống đã làm thì
sau khi nắm đất cuối cùng phủ lên quan tài cũng chỉ còn lại tang quyến là
những người phải sống với đau thương âm ỉ ấy. Nhận định như thế không có
nghĩa chúng ta sẽ quên đi "hiếu nghĩa" đối với người chết để nhỏ lệ xót
thương hay một đôi phút ngậm ngùi, nhưng mỗi tin đồ Công giáo đều cần
thay đổi một thói quen. Thay vì quá chú ý đến các biểu lộ bên ngoài đến độ
giả dối mà nhiều khi có ảnh hưởng xấu đến người còn sống, thì mỗi người cần
để ý đến thực chất bên trong. Một hy sinh, dù nhỏ bé cũng có giá trị hơn
những câu kinh ê a qua lần chiếu lệ. Và nếu hy sinh ấy được dâng lên Thiên
Chúa để đền bù cho những lỗi lầm của người quá cố, thì đó mới là điều hiếu
nghĩa đối với người chết.
66
HÌNH ẢNH TƯ LIỆU
Nghi thức phát tang và tẩn liệm thể hiện nét đặc trưng của nghi thức tang lễ miền Bắc cổ truyền, là thời điểm để thân quyến, con cháu trong gia đình tới tiễn đưa người quá cố.
67
Tại nhà thờ, Linh mục (chủ sự) xuống đứng trước quan tài làm lễ cầu nguyện, cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt.
Trước giờ từ biệt 15 phút, tang chủ đặt tiền thưởng trên đầu quan tài thưởng cho anh em đạo tỳ, số tiền bao nhiêu là tùy vào điều kiện của tang chủ. Và ca đoàn hát một bài kết thúc rồi di quan đến nơi hỏa táng. Khi di quan người cầm bát hương đi trước, tiếp theo là di ảnh, tiếp theo là quan tài, con cháu còn lại không có nhiệm vụ thì đi sau quan tài, tiếp theo là bà con đi đưa.
68
Trước khi kết thúc Chủ sự đọc lời Chúa, lời nguyện giáo dân và rảy
nước Thánh lên quan tài lần cuối, tất cả cộng đoàn, thân quyến tiễn biệt
người quá cố. Và cuối cùng đại diện tang quyến cám ơn lần cuối và đưa thi
hài vào lò hỏa thiêu.
69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Ad limina (2009), Huấn từ của Đức Thánh Cha Benedicto XVI
27/6/2009, Năm Thánh 2010.
2. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong thục, Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp.
3. Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ
thị số 24 Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới (1990),
chỉ thị số 37 Về công tác tôn giáo trong tình hình mới (1998).
4. Linh mục Leopold Cadiere, Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo
người Việt (Đỗ Trinh Huệ biên dịch), Nxb. Thuận Hóa.
5. Các giám mục Việt Nam: Thư Chung 1950, 1952, 1980
6. Linh mục Trương Bá Cần (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt
Nam, Nxb. Tôn giáo Hà Nội.
7. Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm, 1990.
8. PGS.TS Nguyễn Hồng Dương (2001), Công giáo trong văn hóa Việt
Nam, Nxb. Văn hóa – Thông tin.
9. PGS.TS Nguyễn Hồng Dương (2001), Nghi lễ và lối sống Công giáo
trong văn hoá Việt Nam, Nxb. KHXH, HN.
10. PGS.TS Nguyễn Hồng Dương (2011), Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở
Việt Nam, lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra, Nxb. KHXH, HN.
11. PGS.TS Nguyễn Hồng Dương (2012), Một số vấn đề cơ bản của Công
giáo ở Việt Nam hiện nay, Viên KHXH VN Viện nghiên cứu Tôn Giáo,
Nxb. Từ Điển Bách Khoa.
12. PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương (2016), Công giáo Việt Nam đối với sự
phát triển bền vững đất nước, Nxb. Công An Nhân Dân.
13. Đối thoại và rao truyền Ki-tô giáo và các tôn giáo (1998).Định hướng,
Tùng Thư.
14. Giáo Hội Công Giáo, Các nghi thức, Nxb Tôn giáo.
70
15. Giáo luật. In Roneo
16. Giáo luật giải thích và áp dụng (1992). Q.4. Nhiệm vụ thánh hóa của
giáo hội. Roma.
17. Giáo xứ Bùi Chu (1992), Sống niềm tin.
18. Giờ Chúa gọi nghi thức viếng xác và cầu hồn, Nxb. Tôn Giáo 2010.
19. Huynh đoàn Giáo dân ĐAMINH. GP. Xuân Lộc, Về nhà Cha.
20. Đỗ Quang Hưng (1991), Một số vấn đề lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt
Nam, ĐH Tổng hợp, Hà Nội.
21. Phạm Thị Bích Hằng (1998), Vấn đề thờ kính tổ tiên trong nền văn hóa
đương đại Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp đại học chuyên ngành văn hóa
Đông Nam Á, ĐH KHXH&NV, Hà Nội.
22. Hội đồng giám mục Bỉ (1997): Đức tin Công giáo. Nxb. DESCLEE.
23. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2004), Bộ giáo luật 1983, Nxb. Tôn
Giáo Hà Nội.
24. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2008), Kinh Thánh Cựu Ước và Tân
Ước, Nxb. Tôn Giáo.
25. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Bốn mươi năm sau Vatican II nhìn lại.
26. Linh mục Phaolo Nguyễn Luật Khoa. OFM biên dịch (2010),Nhân học
Ki-tô KARL RAHNER, Nxb. Từ Điển Bách Khoa.
27. Kinh Nghĩa đức tin (1991), Sách Kinh bổn, Nxb. Tòa giám mục Phát Diệm.
28. Kinh Tín Kính, Sách Kinh bổn.
29. Làm thần học từ lòng dân tộc, Tuyển tập thần học. 1992. UBĐK Công
giáo thành phố Hồ Chí Minh, Bản in roneo.
30. Jeffrey Long & Paul Perry (2019), Sự sống bất tử (Nguyễn Đức
Nhật dịch), Nxb. Tổng hợp Hồ Chí Minh.
31. Lời Chúa gọi Nghi thức viếng xác – an táng và cầu hồn, nhà xuất bản tôn
giáo 2010.
32. C. Mác. Ph. Angghen(1965), Bàn về tôn giáo, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
71
33. C. Mác. Ph. Angghen(1999), Về vấn đề tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
34. TS Michael Newton (2016),Hành trình của linh hồn (Thanh Huyển
dịch), Nxb. Hồng Đức.
35. Sherwin B. Nuland (2016), Hiểu về sự chết (Đặng Ly dịch), Nxb. Thế giới.
36. Don Piper, Cecil Murphey (2004), Khi đức tin chiến thắng (GS. TS. Đỗ
Quang Hưng dịch), Nxb. Văn hóa thông tin.
37. Lm. An-rê Đỗ Xuân Quế O.P (2005), Bên người quá cố, Nxb. Đức Tin
và Văn Hóa.
38. Quyết định số 308/2005/QĐ - TTG, của Thủ tướng Chính Phủ về Ban
hành quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và
lễ hội.
39. Sứ điệp của Đức Thánh Cga Benedicto XVI gửi giáo hội Công giáo Việt
Nam nhân dụp khai mạc Năm Thánh 2010, trong Năm Thánh 2010.
40. Lâm Văn Sỹ. O.P người dịch (2009), Nhập môn nhân học hướng thần
LUIS F. LADARIA, TTHVĐM.
41. Tân Yên (1975), Phụng vụ bí tích, Sài Gòn.
42. Thần học từ lòng mẹ Á Châu, (10 – 1989),UBĐK Công giáo thành phố
Hồ Chí Minh.
43. Nguyễn Thị Thúy (2010), Tìm hiểu nghi lễ tang ma của người Việt Công
giáo đô thị hiện nay, Luận văn Thạc sỹ, ĐH Khoa học xã hội và nhân văn.
44. Linh mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ (2003), Cẩm nang các nghi thức Bí
Tích và Á Bí Tích, Giáo Phận TP. HCM.
45. Tiểu sử dòng Mến Thánh giá Đức Chúa Giêsu (1949), Phát Diệm.
46. Nguyễn Bình Tĩnh (1993), Biết yêu và biết sống lời Chúa, Tập I, II,
Nxb, Thuận Hóa.
47. Tòa tổng giám mục Hà Nội (1994 – 1999), Những chặng đường mục vụ
tại tòa tổng giám mục Hà Nội.
72
48. Hoàng Minh Tuấn (1993), Đọc tin mừng theo thánh Matheo, tập I,
chương I – XIII, UBĐK Công giáo thành phố Hồ Chí Minh.
49. Từ điển Tôn giáo (2000), Nxb. Từ điển Bách Khoa.
50. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam – Ban tôn giáo của Chính phủ Một số
vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
51. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn
tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
52. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1998), Về tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng (1998), Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
54. Linh mục Đan Vinh (2009), Cẩm nang sinh hoạt đạo đức gia đình, Nxb.
Tôn Giáo.
55. Vượt qua (1975) Nghi thức cầu hồn.
B. Tài liệu tiếng anh
56. Xc. Spicq (1961), Dieu et l’homme selon le Nouveau Testament, Paris.
C. Các nguồn tham khảo trên Internet
57. Trích "Sống đạo giữa đời" Tiến Sỹ Trần Mỹ Duyệt (2011), Công Giáo và
Khái Niệm về sự Chết,
Nguồn:https://hoangfamily.biz/a957/conggiaovakhainiemvesuchet
58. Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, Hiểu đạo và Sống đạo,
Nguồn:http://www.cdmedongcong.net/HieuDaoSongDao