TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN

ĐỖ THỊ KIM OANH

NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2018

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN

ĐỖ THỊ KIM OANH

NHÂN VẬT NỮ TRONG

TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ NGỌC LAN

HÀ NỘI - 2018

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, được sự tận tình chỉ bảo của TS.

Nguyễn Thị Ngọc Lan, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến cô giáo!

Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt

Nam cùng với các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn – Trường ĐHSP Hà Nội

2 đã dạy dỗ và tạo điều kiện thuận lợi nhất để em được hoàn thành khóa luận

này.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Người thực hiện

Đỗ Thị Kim Oanh

LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này chính là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng

tôi. Đề tài của khóa luận không trùng với kết quả nghiên cứu của công trình

nào đã được công bố. Tôi xin chịu trách nhiệm với những lời cam đoan của

mình.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Người thực hiện

Đỗ Thị Kim Oanh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5

6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 5

7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 5

NỘI DUNG ....................................................................................................... 6

Chương 1. HỆ THỐNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT

DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT ............................................................................. 6

1.1. Khái niệm nhân vật và nhân vật nữ ............................................................ 6

1.2. Các kiểu nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt ................. 8

1.2.1. Nhân vật nữ trong kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất .................. 9

1.2.2. Nhân vật nữ trong chiến đấu ............................................................. 12

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 16

Chương 2. NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT CHỦ ĐỀ XÂY

DỰNG ĐẤT NƯỚC ...................................................................................... 17

2.1. Ngoại hình, diện mạo ............................................................................... 17

2.2. Phẩm chất, tài năng .................................................................................. 20

2.3. Hành trạng ................................................................................................ 25

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 33

Chương 3. NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT CHỦ ĐỀ BẢO

VỆ ĐẤT NƯỚC ............................................................................................. 35

3.1. Ngoại hình, diện mạo ............................................................................... 35

3.2. Phẩm chất, tài năng .................................................................................. 41

3.3. Hành trạng ................................................................................................ 47

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 61

KẾT LUẬN .................................................................................................... 62

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là thể

loại rất quan trọng. Truyền thuyết là truyện kể về những nhân vật và sự kiện

hư cấu hay xác thực, có liên quan ảnh hưởng tới sự trọng đại lịch sử của dân

tộc, qua đó nhân dân thể hiện thái độ đối với nhân vật và sự kiện lịch sử. Vì

thế mà thể loại truyền thuyết phát triển mạnh ở cả phương diện nội dung tư

tưởng và hình thức nghệ thuật. Truyền thuyết được sáng tạo theo suốt chiều

dài lịch sử dân tộc, vì vậy ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau các nhân vật lại

được sáng tạo dưới sự chi phối khác nhau của quan niệm thẩm mĩ của nhân

dân.

Nhân vật là yếu tố được coi như linh hồn của tác phẩm, đồng thời nó là

hình thức cơ bản để thông qua đó nhà văn miêu tả thế giới một cách hình

tượng. Vì thế mà trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta thấy

hình tượng nhân vật phụ nữ xuất hiện khá sớm và trở thành một đề tài quen

thuộc trong văn chương. Từ thể loại thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích

đến ca dao, tục ngữ, những sáng tác văn học trung đại cho đến văn học hiện

đại chưa bao giờ nhân vật phụ nữ vắng bóng. Nhân vật phụ nữ luôn là vấn đề

nổi bật trong các sáng tác nghệ thuật. Đây là một hình tượng thể hiện rõ giá trị

nhân văn và giàu mĩ cảm của nghệ thuật nước nhà.

1.2. Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt hiện lên vô

cùng sinh động và phong phú. Những trang văn về nhân vật nữ đem lại cho

độc giả những dấu ấn sâu đậm và khó phai. Họ là những người phụ nữ có vẻ

đẹp ngoại hình và đời sống tâm hồn, phẩm chất đáng ngưỡng mộ và ngợi ca.

Đó là những người con gái trẻ trung, xinh đẹp thông minh và anh dũng.

Người vợ, người mẹ đảm đang sinh ra những người con anh hùng tài giỏi,

hiên ngang. Những người phụ nữ ấy ghi danh trên những lĩnh vực khác nhau

1

và tạo dựng lịch sử, truyền thống của dân tộc. Truyền thuyết dân gian người

Việt về nhân vật nữ thực sự đã đem lại ấn tượng sâu sắc đối với chúng tôi. Đó

là những câu chuyện phần lớn thuộc thần tích các làng. Hiện nay nhiều xứ sở

vẫn còn lưu giữ những công trình mang văn hóa tâm linh. Khá nhiều nhân vật

nữ chính là những còn người bất tử trong các ngôi đền miếu linh thiêng ấy.

1.3. Truyền thuyết là một trong những thể loại văn học dân gian được

đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Việc nghiên cứu đề tài này giúp chúng

tôi thêm hiểu những giá trị của truyền thuyết trong đời sống văn hóa dân tộc,

đồng thời nâng cao kiến thức, phục vụ cho công tác giảng dạy ngữ văn sau

khi tốt nghiệp.

Vì những lý do trên nên chúng tôi lựa chọn: Nhân vật nữ trong truyền

thuyết dân gian người Việt, làm đề tài cho khóa luận của mình.

2. Lịch sử vấn đề

Trên thực tế, đã có nhiều công trình, tạp chí và các bài báo khoa học đã

lấy truyền thuyết làm đối tượng nghiên cứu và đã có nhiều phương diện được

đề cập trong đó có phương diện nhân vật. Tuy nhiên coi nhân vật nữ là trong

truyền thuyết dân gian các thời kì lịch sử, là đối tượng khám phá riêng biệt thì

chưa được quan tâm thỏa đáng. Một số bài viết mới chỉ tiếp cận vấn đề này ở

mức độ giới thuyết, khái quát mà chưa có những phân tích, đánh giá cụ thể.

Năm 1974, trong Tạp chí văn học, số 1, tác giả Vũ Tố Hảo có bài

“Bà Triệu qua một số tư liệu dân gian sưu tầm ở Thanh Hóa”. Trong bài

viết này tác giả đã đề cập đến “hình tượng Bà Triệu”, do khai thác “hình

ảnh Bà Triệu hiện lên từ hình dáng, tính tình hành động… cho tới cái chết

của Bà”. Tuy nhiên điểm hạn chế của bài viết trên là tác giả chỉ đề cập đến

hình tượng “Nữ anh hùng” mà chưa nghiên cứu về hình tượng tập thể nữ

anh hùng [3, tr. 34-39].

2

Năm 1978, trong công trình Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 1, Nxb

Giáo dục (Bùi Văn Nguyên làm chủ biên), tác giả đã đưa ra nhận định khi

nghiên cứu về nội dung và ý nghĩa của thể loại truyền thuyết “có thể nói, đấu

tranh chống ngoại xâm bảo vệ đất nước là chủ đề căn bản của “thần thoại đời

sau” của chúng ta”. Trong quá trình nghiên cứu về truyền thuyết lịch sử, tác

giả đã đưa ra khẳng định: “Trong số những vị anh hùng dân tộc thời xưa mà

truyền thuyết lưu lại còn phải kể đến những truyện Hai Bà Trưng, Bà Triệu”.

Như vậy trong công trình trên, tác giả đã đưa ra những khái quát về những

người anh hùng dân tộc là nữ giới [23, tr. 146].

Năm 1980 trong Tạp chí văn học, số 2, Trần Gia Linh có bài viết về

“Vai trò của người phụ nữ khai sáng đất nước và dân tộc trong truyền thuyết

dân gian”. Trần Gia Linh đã khẳng định về vai trò quan trọng của những

người phụ nữ trong xã hội. Tác giả đưa ra nhận định: “Tìm hiểu truyền thống

anh hùng của phụ nữ là tìm hiểu một bộ phận quan trọng của truyền thuyết

anh hùng dân tộc”. Nhà nghiên cứu cũng đề cập thêm: “Cùng với truyền

thuyết về người anh hùng khai sáng đất nước và dân tộc là nam giới, nhân dân

ta đã để lại một hệ thống truyền thuyết nói về người phụ nữ anh hùng

không kém phần lộng lẫy tươi đẹp”. Như vậy bài viết trên chỉ đề cập đến

vai trò của phụ nữ mà chưa đi tìm hiểu về những đặc điểm của các truyện

này [21, tr. 34- 40].

Năm 1998, trong Bình giảng truyện dân gian, Nxb Giáo dục, tác giả

Hoàng Tiến Hựu khi bàn về vấn đề “cốt truyện và nhân vật”, ông đã chỉ ra thế

giới của nhân vật nữ như sau: “Xét về giới tính, tỷ lệ nhân vật không đều giữa

các truyện, trong truyện truyền thuyết và cổ tích, nhân vật nữ xuất hiện tương

đối nhiều và ở nhiều truyện nhân vật nữ đóng vai trò quan trọng”.

Cùng theo hướng nghiên cứu đó thì năm 2013, trong khóa luận tốt

nghiệp đại học Truyền thuyết về nhân vật nữ trong thời kì Bắc thuộc, tác giả

3

Đào Thị Sen đã thống kê được các truyện viết về nhân vật nữ, khai thác các

đặc điểm truyện viết về nhân vật nữ. Tác giả viết: “Nhân vật nữ trong thời kì

Bắc thuộc hấp dẫn, lôi cuốn người đọc không chỉ ở những vẻ đẹp của ngoại

hình mà còn ở những tài năng và đời sống nội tâm vô cùng phong phú” [30,

tr. 57]. Tuy nhiên phương diện và phạm vi khai thác của khóa luận còn hạn

hẹp. Khóa luận mới chỉ khai thác ở phương diện thể loại truyền thuyết và

phạm vi khai thác truyện về nhân vật nữ chỉ giới hạn trong thời kì Bắc thuộc

mà chưa chú ý đến hình tượng nhân vật nữ trong truyền thuyết ở các thời kì

khác.

Đề tài nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt là một trong

những đề tài khoa học gây sự chú ý và quan tâm của các nhà nghiên cứu ở các

khía cạnh khác nhau. Mặc dù có đề cập đến nhân vật nữ nhưng những công

trình nghiên cứu vẫn chỉ mang tính chất nhỏ lẻ. Tuy nhiên đó chính là những

gợi ý quý báu giúp chúng tôi trong quá trình nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

+ Thấy được những đặc điểm cơ bản về hình tượng nhân vật nữ trong

truyền thuyết dân gian người Việt.

+ Khẳng định giá trị những truyền thuyết viết về nhân vật nữ trong

dòng chảy thể loại.

+ Góp phần giáo dục về truyền thống lịch sử, nâng cao ý thức cho bản

thân.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Nắm được những kiến thức về đặc điểm của truyền thuyết.

+ Khóa luận làm rõ đặc điểm về nhân vật nữ trong truyền thuyết dân

gian người Việt.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi tư liệu khảo sát: Các truyện về truyền thuyết dân gian người

Việt, qua công trình Tổng tập văn hóa dân gian người Việt, sáu tập do Kiều

Thu Hoạch (Chủ biên), Nxb KHXH, 2004.

- Phạm vi nội dung: Khóa luận tập trung khảo sát và phân tích các đặc

điểm nổi bật của hệ thống nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người

Việt, ở cả hai chủ đề: xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước.

5. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp tiếp cận hệ thống

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp phân tích, tổng hợp

6. Đóng góp của khóa luận

Lựa chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn rút ra được những nhận

xét khoa học về đặc điểm nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt

và khẳng định được những nét đẹp của người phụ nữ cùng với giá trị lịch sử

của kiểu truyện này.

7. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung của khóa luận có bố

cục ba chương như sau:

Chương 1: Hệ thống nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt

Chương 2: Nhân vật nữ trong truyền thuyết chủ đề xây dựng đất nước

Chương 3: Nhân vật nữ trong truyền thuyết chủ đề bảo vệ đất nước

5

NỘI DUNG

Chương 1. HỆ THỐNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT

DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT

1.1. Khái niệm nhân vật và nhân vật nữ

Từ trước đến nay nhân vật mang nhiều khái niệm khác nhau. Thuật ngữ

“nhân vật” xuất hiện khá sớm trong tiếng Hy Lạp cổ. Ban đầu nó mang ý

nghĩa là “cái mặt nạ” tức chỉ công cụ biểu diễn của diễn viên trên sân khấu.

Theo thời gian chúng ta sử dụng thuật ngữ này nhiều hơn để thể hiện nhân vật

trong tác phẩm văn học. Trong một số trường hợp khác nhau, người ta sử

dụng thuật ngữ “vai” và “tính cách” để thay thế cho nhân vật văn học. Thuật

ngữ “tính cách” tức chỉ những nhân vật có tính cách. Còn thuật ngữ “vai” thì

chỉ tính chất và hành động cá nhân. Trên thực tế, không phải nhân vật nào

cũng mang hành động và nhân vật nào cũng thể hiện tính cách rõ nét. Vì vậy

thuật ngữ “nhân vật” mang nội hàm phong phú và đa dạng hơn nên hai thuật

ngữ trên không thể bao quát hết được những biểu hiện khác nhau của các loại

nhân vật trong tác phẩm văn học.

Nhân vật là khái niệm được sử dụng nhiều trong văn chương nghệ

thuật. Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã đưa ra rất nhiều khái niệm

khác nhau về nhân vật văn học.

Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, định nghĩa khái niệm nhân vật như sau:

“Nhân vật văn học hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu

về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con

người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang

đường được gắn cho những đặc điểm giống con người” [32, tr. 41]. Tác giả Lại

Nguyên Ân đã đưa ra định nghĩa khá hoàn chỉnh về nhân vật văn học. Theo

tác giả thì nhân vật chính là yếu tố tạo ra phong cách cho nhà văn với một

màu sắc riêng trong từng trường phái văn học.

6

Còn trong Từ điển thuật ngữ văn học (nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần

Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) thì đưa ra định nghĩa “nhân vật văn học

là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học

có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng… nhân vật văn học là một đơn vị

nghệ thuật mang tính ước lệ không thể đồng nhất với con người có thật trong

đời sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách con

người. Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm

mĩ của nhà văn về con người. Vì thế nhân vật luôn luôn gắn với chủ thể tác

phẩm” [14, tr .235].

Trong cuốn Lý luận văn học (GS. Hà Minh Đức chủ biên), các tác giả

cho rằng: “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ,

đó không phải là sự sao chụp đầy đủ một chi tiết, biểu hiện đầy đủ của con

người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu

sử nghề nghiệp, tính cách… Cũng có khi đó không phải là những con người,

sự vật cụ thể mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc liên quan tới con

người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm” [30, tr. 126].

Mặc dù khái niệm nhân vật có rất nhiều những định nghĩa khác nhau

nhưng tất cả các định nghĩa đều có những điểm chung như sau: Nhân vật có

vị trí rất quan trọng trong tác phẩm. Nhân vật chính là đối tượng được nhà văn

miêu tả. Nhân vật có thể là con người cụ thể, cũng có thể là những sự vật, con

vật, hiện tượng mang bóng dáng và tính cách của con người. Nó được sử

dụng như những phương thức khác nhau để biểu hiện về con người. Nhân vật

chính là cầu nối truyền đạt nội dung, tư tưởng giữa bạn đọc và nhà văn.

Như vậy, mỗi nhân vật được thể hiện thành công trong tác phẩm ở các

thời đại khác nhau thì đều chứa đựng những khám phá to lớn. Qua những sự

khám phá ấy mà nhà văn đã khẳng định được lý tưởng thẩm mỹ của bản thân

và làm phong phú, đa dạng nền văn học dân tộc. Vì thế mà đã từng có nhận

7

định rằng: đối với các nhà văn lớn thì bạn đọc có thể quên đi chính tác giả

nhưng sẽ không quên được nhân vật mà tác giả đó xây dựng nên.

Vừa kể về những nhân vật và sự kiện hư cấu hoặc xác thực có liên quan

đến lịch sử trọng đại của dân tộc, giai cấp, truyền thuyết còn thể hiện ý thức

và thái độ của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện lịch sử. Vì thế mà truyền

thuyết thể hiện nhân vật không phải bằng sự sao chép nguyên mẫu, mà chỉ

dựa vào nguyên mẫu để “tái tạo” nên hình tượng nhân vật phù hợp với tâm

tình và thái độ của nhân dân.

Nhân vật nữ được coi như loại hình cụ thể của nhân vật. Hay nói theo

cách khác: Nhân vật nữ là hình ảnh, hình tượng người phụ nữ được xây dựng,

miêu tả và thể hiện ở trong tác phẩm văn học thông qua các phương tiện văn

học. Và nghiên cứu về nhân vật nữ chính là nghiên cứu về một kiểu cấu trúc

của nhân vật văn học đặc thù.

Nhân vật nữ luôn là biểu tượng, hiện thân của cái đẹp, là một nửa của

thế giới. Phụ nữ được sinh ra với sứ mệnh cao cả đó là duy trì sự sinh tồn,

luân chuyển sự sống. Từ xa xưa đến nay, phụ nữ luôn là một đề tài quen

thuộc, hấp dẫn, một nguồn cảm hứng dồi dào và bất tận đối với sự sáng tạo

của các nghệ sĩ. Trong văn học truyền thống, ở mỗi một thời kỳ, hình tượng

người phụ nữ luôn được coi là tâm điểm.

Trong truyền thuyết nhân vật nữ được hiện lên vô cùng sinh động và

phong phú. Nhân vật nữ đại diện cho ước mơ và lý tưởng thẩm mỹ của nhân

dân. Tuy nhiên, những chuẩn mực thẩm mỹ của buổi ban đầu vẫn chưa được

thể hiện cụ thể, rõ nét, đầy đủ diện mạo của người phụ nữ. Vì thế mà người

phụ nữ trong truyền thuyết chủ yếu được xây dựng và thể hiện qua hành trạng

và một vài nét tính cách đơn giản và nhất quán.

1.2. Các kiểu nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt

Như chúng ta đã thấy, truyền thuyết là một thể loại truyện kể dân gian

nằm trong loại hình tự sự dân gian. Đặc điểm cơ bản nhất và nổi bật nhất là

8

tính hư cấu lịch sử. Hình tượng nhân vật lịch sử được hình tượng hóa và kì ảo

hóa theo quan điểm của nhân dân. Các nhân vật dù có được hư cấu hay là đích

thực lịch sử thì cũng đều có tên tuổi, gốc gác,… có một lịch sử rõ ràng gắn

với địa phương hay thời đại. Nhân vật nữ được xây dựng khá nhiều trong hệ

thống truyền thuyết dân gian người Việt. Truyền thuyết được sáng tạo theo

suốt chiều dài lịch sử dân tộc, vì vậy ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, các

nhân vật nữ lại được sáng tạo dưới sự chi phối khác nhau của quan niệm thẩm

mĩ nhân dân. Chúng tôi qua quá trình tìm đọc và khảo sát đã thống kê được số

lượng truyện tái hiện nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt.

Như vậy, qua bảng thống kê ở phần Phụ lục [Bảng 1], chúng ta thấy

truyện viết về nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt là các

truyện mà nhan đề cũng như nhân vật chính trong truyện là nữ. Nhân vật nữ

được các nghệ sĩ dân gian xây dựng chủ yếu xuất hiện trong các thời kì Âu

Lạc và Bắc thuộc (gồm 49/106 truyện như bảng trên), thời kì Pháp thuộc

(gồm 38/106 truyện như bảng trên) và mức độ xuất hiện ít trong thời kỳ

phong kiến tự chủ (19/106 truyện). Việc xây dựng nhân vật nữ trong các thời

kỳ với tần số xuất hiện khác nhau thể hiện ý thức phản ánh và lý giải lịch sử

cũng như thái độ tình cảm của các nghệ sĩ dân gian đối với nhân vật nữ.

Qua khảo sát 106 truyện chúng tôi đã thống kê được có 118 nhân vật

nữ (không kể dị bản). Nhưng nhân vật nữ này có xuất thân, địa vị, nghề

nghiệp và độ tuổi, chiến công khác nhau. Để người đọc có cái nhìn tổng quát

về các nhân vật nữ, chúng tôi đã phân loại các nhân vật nữ ở phần Phụ lục

[Bảng 2].

1.2.1. Nhân vật nữ trong kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất

Truyền thuyết dân gian đã dành một khối lượng lớn trang văn để ca

ngợi vị trí và vai trò quan trọng của nhân vật nữ trong sự nghiệp kiến tạo văn

hóa và lao động sản xuất. Qua bảng thống kê ở phần Phụ lục [Bảng 1], cho ta

9

thấy ở mỗi một thời kỳ việc xây dựng hình tượng các nhân vật nữ ngoài ý

thức phản ánh lịch sử còn thể hiện dụng ý riêng của tác giả. Các nhân vật nữ

với những tài năng khác nhau đã đóng góp trí tuệ và công sức của mình vào

đa dạng các lĩnh vực nghề nghiệp nhưng chủ yếu là lĩnh vực nông nghiệp.

Các truyền thuyết trong buổi đầu dựng nước đã thể hiện niềm tự hào

của nhân dân về tổ tiên, giống nòi, về nguồn gốc các dân tộc người. Vì thế mà

nhân vật nữ trong thời kỳ này được các nghệ sĩ dân gian xây dựng để giải

thích về cội nguồn nòi giống thiêng liêng, cũng như ca ngợi những anh hùng

văn hóa đầu tiên của nước Việt. Các nhân vật nữ được ngợi ca đó là nàng Âu

Cơ (Âu Cơ), người mẹ của dân tộc Việt. Nàng đã sinh ra bọc trăm trứng và từ

ấy nở ra một trăm người con, chia nhau đi khai hoang ruộng đất, mở rộng

lãnh thổ, cai quản bốn phương. Không những thế nhân vật nữ còn được ca

ngợi là những người chăm chỉ, cần cù và tiên phong trong lĩnh vực lao động

sản xuất. Sau này mẹ Âu Cơ đã giúp dân trồng cấy, làm nghề,… hay đó còn là

những người con gái đã giúp cua Hùng dựng nước, mở mang bờ cõi, cai trị

dân chúng như: con gái Tiên Dung dạy dân làm ăn (Truyện Nhất Dạ Trạch),

mở mang bờ cõi; con gái Ngọc Hoa dạy dân trồng lúa, dệt vải, hát múa…

Đến truyền thuyết thời phong kiến độc lập tự chủ về sau, khi nước ta

chấm dứt ách nô lệ, mở ra một thời kỳ độc lập của dân tộc thì nhân vật nữ

được khắc họa một cách sinh động, phong phú và đa dạng trong những ngành

nghề khác nhau để giúp dân, góp công sức trong sự nghiệp xây dựng đất

nước. Các nghệ sĩ dân gian đã vẽ ra một bức tranh trong lao động sản xuất

đầy sống động và hăng say. Việt Nam là nước có nền văn minh thuần nông vì

vậy nghề nghiệp chính của con người là nghề nông tang. Do đó, ở hầu hết các

truyện, các nghệ sĩ dân gian đã xây dựng các nhân vật nữ xuất hiện trong

khung cảnh lao động. Bà chúa Tó đang làm cỏ lúa trên đồng thì bắt gặp nhà

vua đi ngang qua (Bà chúa Tó), nàng Khiết Nương vì đang say sưa hái dâu

10

trên tằm nên đã không yết kiến nhà vua (Sự tích Ỷ Lan phu nhân), hay nàng

Dương Vân Nga hiện lên với vẻ đẹp đầy sức sống trong con mắt của hai chú

cháu nhà Đinh Bộ Lĩnh lúc nàng đang mải mê cắt cỏ (Hoàng hậu thời thơ

ấu),… Số lượng các nhân vật nữ xuất hiện trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm

20.7% trong tổng số 106 truyện. Họ chính là một trong những nguồn lao động

chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp.

Trong truyền thuyết, các nghệ sĩ dân gian xây dựng nhân vật nữ hầu hết

đều xuất thân từ những người nông dân nên cuộc sống của họ thường gắn liền

với cái quốc, cái cày, dưa muối… Vì thế mà các nhân vật nữ không những

giỏi trong lĩnh vực nông tang mà họ còn tài năng trong các ngành nghề khác

như nghề dệt, nghề làm muối, bốc thuốc và nghề ca hát,… Họ hăng hái tham

gia vào công cuộc lao động sản xuất để tạo ra nguồn lương thực dồi dào phục

vụ cho cuộc sống no đủ và dự trữ cho đất nước khi có giặc ngoại xâm. Đó là

những “anh hùng trong sản xuất” và được ngợi ca là chúa Lẫm (Bà chúa

Lẫm), chúa Tó (Bà chúa Tó) hay đó còn là bà chúa dệt Thụ La (Bà chúa dệt:

Thụ La công chúa) rất khéo tay, nhanh nhẹn và bằng sự thông minh của mình

mà vải của nàng dệt ra vừa bền lại vừa đó, có những nghề mà rất ít các nhân

vật nữ tham gia như nghề làm muối của nàng Nguyệt Ánh (Bà chúa Muối)

(chiếm 0.94%), nghề chế biến thực phẩm của mẹ Âu Cơ (Mẹ Âu Cơ tổ nghề

nông tang và chế biến thực phẩm) (chiếm 0.94%), nghề bốc và làm thuốc của

nàng Ngọc Hoa (Đại Yên và chuyện Trần Ngọc) và bà chúa Vĩnh (Bà chúa

Vĩnh) (chiếm 1.89 %),… Không những chăm chỉ cần cù trong công việc lao

động sản xuất, các nhân vật nữ còn sáng tạo ra những lời ca tiếng hát để mang

lại những phút giây thư giãn vui vẻ sau những giờ làm việc mệt nhọc. Từ đó

nhân dân sáng tạo ra nghề hát với các làn điệu dân ca phong phú, đặc trưng

của từng vùng miền. Số lượng nhân vật nữ sáng tạo ra lời ca tiếng hát chiếm

số lượng 5 truyện trên tổng số 106 truyện (chiếm 4.72%). Đó là Vua Bà Nhữ

11

Nương là người đã sáng tạo ra những câu hát quan họ. “Tiếng hát của nàng…

bừng bừng như năn nỉ, nó khắc khoải, oán trách, lưu luyến vấn vương… Hiện

nay có đến 49 làng ở Hà Bắc hằng năm mở hội hát quan họ” (Vua Bà), hay đó

là Lầu Slam đã sáng tạo ra nhiều điệu hát cho dân tộc Cao Lan như véo ca,

cục tờ u, ú múng ca,... (Lầu Slam - Bà chúa thơ)…

Không những trực tiếp tham gia vào lĩnh vực sản xuất mà các nhân vật

nữ còn được ca ngợi như những danh nhân văn hóa, những người có công

khai sáng, phát minh ra những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của nhân

dân. Vì thế mà trong đời sống cộng đồng họ đã để lại những công trình kiến

trúc có giá trị văn hóa nghệ thuật cao. Trong Sự tích Ỷ Lan phu nhân, nàng Ỷ

Lan ở thời Lý đã cho xây dựng 72 ngôi chùa, xây tháp Bảo Thiên để trấn giữ

quốc gia trước giặc xâm lược.Trong dị bản Bà phù thánh linh nhân (Bà Ỷ

Lan) thì nàng Ỷ Lan đã sáng tạo ra nghi thức tắm Phật. Hay bà chúa Tó (Bà

chúa Tó) đã giúp nhân dân tạo ra món ăn mới để cung cấp lương thực cho

cuộc chiến. “Chúa Tó có sáng kiến làm bánh chè Lam, làm Cốm nếp nhào

mật để quân sỹ có lương khô ăn đường”… Món ăn đặc sản của vùng Kẻ Hữu

đã trở thành nét riêng biệt và hấp dẫn trong ẩm thực Việt Nam.

Như vậy để làm được những công việc như trên, các nhân vật nữ trong

truyền thuyết dân gian đã ý thức được sự phân chia về lãnh thổ bờ cõi của đất

nước cũng như ý thức được vai trò và vị trí của mình trong xã hội.

1.2.2. Nhân vật nữ trong chiến đấu

Hình ảnh nổi bật, gây ấn tượng mạnh mẽ của người phụ nữ Việt Nam

đó là sự dũng cảm hy sinh của họ trên chiến trường. Khi đất nước có giặc

ngoại xâm, những người phụ nữ sẵn sáng đứng dậy, xả thân vì nền độc lập

của dân tộc và họ chính là những người phải chịu nhiều thiệt thòi và đau

khổ nhất.

12

Qua bảng thống kê ở phần Phụ lục [Bảng 2], chúng tôi xin đưa ra

những nhận xét như sau:

Thứ nhất, trong tổng số 106 truyện kể về nhân vật nữ thì có tới 56

truyện ca ngợi những người phụ nữ với vai trò là những người những người

thông minh, tài giỏi, hiên ngang. Họ chính là những cô gái “đầu đội trời, chân

đạp đất”, hiên ngang sánh vai cùng cùng các bậc nam nhi, trực tiếp cầm vũ

khí chiến đấu xông pha trận mạc để đánh đuổi quân thù xâm lược, giành lại tự

do cho đất nước, cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Bằng tình yêu nước

nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc những người phụ nữ ấy đã làm nên

những chiến thắng oanh liệt cho dân tộc. Họ trở thành những “anh hùng chiến

đấu” cho dân tộc như hình ảnh người con gái ít tuổi, khỏe mạnh đã xuống núi,

xin vua được đi đánh giặc Ân. Nàng chỉ lấy đá mà ném đã giết được giặc

trong nhiều trận (Người con gái núi Tam Đảo), Hai Bà Trưng (Bà Trưng Nhị

và thành Dền) đã chống lại quân nhà Đông Hán để giành lại chủ quyền cho

nước nhà, nàng Thục Nương (Sự tích Bát Nàn công chúa) hai tay cầm hai

thanh kiếm chém mươi thủ cấp tỳ tướng của Tô Định… Sau này đó là hình

ảnh của kiên cường của cô bé Trần Ngọc Hoa, chín tuổi đã theo Lý Thường

Kiệt giết giặc Chế Ma Na ở Chiêm Thành vào năm 1103 (Đại Yên và chuyện

Trần Ngọc Hoa)…

Thứ hai, trong tổng số 106 truyện viết về nhân vật nữ thì có 32 truyện ca

ngợi nhân vật nữ là những người mẹ sinh ra những người con anh hùng, tài giỏi.

Trước sự biến động đầy cam go dữ dội của đất nước, trước sự xâm lăng

đô hộ từ kẻ thù thì những người phụ nữ đã hạ sinh cho quê hương, đất nước

các thế hệ anh hùng hào kiệt. Đó là năm anh em nhà chàng Vịt, Mộc Hoàn và

Lý Bí, Triệu Quang Phục… Họ là những người anh hùng hào kiệt đã dũng

cảm xông pha chiến trận để mang lại hòa bình cho đất nước.

13

Truyền thuyết đã ca ngợi bà mẹ Chiên Nương, người mẹ đã sinh ra

người con “thông minh thần vũ, có tài dẹp loạn, tích trữ binh lương, mưu đồ

đại sự”. Đó chính là Đinh Bộ Lĩnh trong lúc “đất nước không có vua, các hào

trưởng nổi lên xưng vương cát cứ mỗi người một phương” thì ông đã cùng

các tướng sĩ đi dẹp loạn được mười hai sứ quân, “thu gom non sông về một

mối”. Ngoài ra còn những người con tài giỏi khác như Phạm Thành, Đinh

Điền, Phạm Hạc, Lưu Công, Lĩnh Sát,… Họ đã đóng góp công sức và trí tuệ

của mình vào sự thắng lợi chung của đất nước (Sự tích bà mẹ Đinh Tiên

Hoàng và các công thần). Bà Lan Hoa đã sinh ra Trù Công, một người “học

một biết mười, không gì không tỏ tường”. Sau này Trù Công đã theo Bà

Trưng đánh đuổi giặc Tô Định (Sự tích anh em Trù Công và Thuận Nương

giúp bà Trưng đánh đuổi Tô Định). Hay đó là người mẹ Tạ Cận sinh ra anh

hùng Đường Hoàng. Đó là người “tướng mạo khôi ngô, thiên tư dĩnh ngộ,

thông minh khác thường, khi ngài lên ba tuổi đã biết lễ nghĩa, biết kính

nhường. Đến năm 13 tuổi ngài đã văn võ kiêm toàn, ai ai cũng khen là một

ông thánh” (Sự tích Đường Hoàng thời vua Trưng)…

Những người mẹ ấy không chỉ sinh ra những nam anh hùng thông minh

xuất chúng mà còn sinh ra những nữ anh hùng quả cảm và vô song. Đó là

những cô gái xinh đẹp, thông minh và đầy sự dũng cảm. Nàng Quế Nương và

Dung Nương con của ông bà Lý Châu ở đời Hậu Ngô đều có nhan sắc tuyệt

đẹp không những thế hai nàng còn am hiểu về thiên văn địa lý, võ nghệ cũng

thành thạo. Hai nàng đã cùng với các anh của mình đánh thắng giặc Ma Na

(Quế Nương và Dung Nương); đó là nàng Ngọc Xiêm dung mạo phi thường

đã giúp vua Trần Anh Tông đánh đuổi giặc Nguyên xâm lược (Truyện nàng

công chúa đời Trần); nàng Thục Nương con gái của ông Vũ Công Chất và bà

Hoàng Thị Mậu, người thành Phong Châu. Nhan sắc của nàng vào bậc “tuyệt

thế giai nhân, đọc sách khắp cả Chư tử Bách gia không sách nào không thiệp

14

liệp qua, lại giỏi đường gươm mũi giáo”. Vì thế Thục Nương được các bậc

anh hùng gọi là “Thánh nữ giáng trần”. Sau này Thục Nương đã tự xưng là

Bát Nàn đại tướng quân kêu gọi các anh em hào kiệt ở khắp nơi giết Tô Định.

Nàng đã trở thành nữ tướng tài ba dưới thời Hai Bà Trưng (Sự tích Bát Nàn

công chúa); đó còn là các nàng Ả Tú, Ả Huyền và Thượng Cát cùng với Hai

Bà Trưng đã đánh thắng quân Mã Viện (Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát

ba nữ tướng thời Hai Bà Trưng) hay là nàng Phật Nguyệt tài năng và nhan sắc

hơn người đã trở thành một vị nữ tướng giỏi đánh tan quân Mã Viện (Đinh

Thị Phật Nguyệt)… Tất cả những cô gái ấy đều trở thành những nữ anh hùng

hào kiệt có đóng góp to lớn vào nền hòa bình của đất nước.

Qua khảo sát trên chúng ta thấy mặc dù người mẹ không trực tiếp cầm

vũ khí đánh giặc trên chiến trận nhưng họ là những người gián tiếp góp công

sức của mình vào sự nghiệp chiến đấu của nước nhà là sinh ra các anh hùng

cho thời đại.

Thứ ba, trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi thấy rằng ngoài

những truyền thuyết viết về những nữ tướng có tên tuổi, quê quán trực tiếp

tham gia giết giặc cứu nước thì các nghệ sĩ dân gian còn kể về những người

dân thường, những người phụ nữ vô danh đã tham gia đánh giặc cứu nước

bằng mọi cách.

Trong truyện Người con gái núi Tam Đảo, nghệ sĩ dân gian đã ca ngợi

nhân vật nữ không tên gọi bằng cái tên chung là người con gái. Nàng mặc dù

nhỏ tuổi nhưng rất anh dũng đã xin vua xung phong đi đánh giặc Ân; đó còn

là người phụ nữ vô danh đã mang lương thực ủng hộ quân nhà Trần và mách

ngày con nước của sông Bạch Đằng cho Trần Hưng Đạo bố trí mai phục mà

nay còn có đền thờ ở gần sống Bạch Đằng, gọi là đền Vua Bà [6, tr. 71].

Trong truyện Cánh đồng mẫu hậu, ca ngợi người đàn bà không tên đã

giúp đoàn quân của Lê Lợi trong lúc quân của ông bị quân minh đuổi; hay đó

15

là mụ hàng dầu đã giúp Lê Lợi trong trận chiến với giặc Minh. Mụ hàng dầu

giàu lòng yêu nước, ngày ngày gánh dầu tiếp tế hàng ba bốn chuyến cho quân

đội (Sự tích núi dầu); trong truyện Bán cháo ca ngợi về người phụ nữ không

tên đã đóng góp công sức của mình vào công cuộc đánh đuổi bọn xâm lược

Mãn Thanh. Hàng ngày bà tất bật nấu cháo cho các quân sĩ;…

Tiểu kết chương 1

Như vậy, truyền thuyết là truyện kể về những nhân vật và sự kiện hư cấu

hay xác thực, có liên quan - ảnh hưởng tới lịch sử trọng đại của dân tộc. Qua đó

nhân dân thể hiện ý thức và thái độ đối với nhân vật và sự kiện lịch sử.

Nhân vật trong truyền thuyết được lựa chọn và phản ánh là những nhân

vật lịch sử thu hút được sự chú ý của nhân dân và những nhân vật này đều có

tầm vóc nhất định trong lịch sử dân tộc. Thông qua việc khắc họa hình tượng

nhân vật truyền thuyết, các tác giả dân gian đã thể hiện quan niệm nghệ thuật,

khuynh hướng phát triển của tư tưởng thẫm mỹ, mang đậm tính nhân dân

trong trường kỳ lịch sử dân tộc…

Trong truyền thuyết, thế giới nhân vật nữ hiện lên khá đa dạng và phong

phú. Đó là những người phụ nữ vừa có vẻ đẹp ngoại hình lẫn vẻ đẹp đời sống

và tính cách. Đó có thể là những cô gái còn rất trẻ, hay những người mẹ sinh ra

những người con anh hùng, những người vợ thông minh, thủy chung giúp

chồng dựng xây sự nghiệp nước nhà thậm chí là những người phụ nữ vô danh.

Tất cả những con người đó đều có vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội. Mỗi

người đều có trí tuệ tài năng, công việc khác nhau nhưng điểm chung của họ là

đều có lòng yêu nước và dũng cảm để hiên ngang chống trọi với kẻ thù gian ác.

Những người phụ nữ ấy chính là sự hóa thân của cộng đồng.

16

Chương 2

NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT CHỦ ĐỀ

XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC

Theo Ph. Ăngghen: “Tất cả các dân tộc trong quá trình phát triển lịch

sử của nó đều phải trải qua thời đại anh hùng”. Đó là thời kì con người bứt ra

khỏi đời sống dã man, bước vào chế độ văn minh đầu tiên. Thời kì được đánh

dấu bằng những chiến công lao động và những biến đổi xã hội sâu sắc.

Nội dung chủ yếu của các truyền thuyết với chủ đề xây dựng đất nước

là ngợi ca chiến công thiên nhiên, lao động sản xuất, chống xâm lấn bảo vệ

cộng đồng, khẳng định sức mạnh và ý thức lịch sử của tập thể trong quá trình

phát triển lịch sử đó. Vì thế mà các nhân vật nữ được các nghệ sĩ dân gian xây

dựng trong thời kỳ này không những để giải thích về nguồn gốc con rồng

cháu tiên của nhân dân Việt mà còn ca ngợi họ trong vai trò kiến tạo văn hóa

và lao động sản xuất.

2.1. Ngoại hình, diện mạo

Phụ nữ chính là một nửa của thế giới, vậy nên hình tượng người phụ nữ

từ xưa cho tới nay đã đi vào văn học một cách hết sức tự nhiên với một vẻ đẹp

riêng, một sức hút riêng. Do đó mà trong cuốn danh ngôn viết về người phụ

nữ thì Lessinh đã khẳng định “đàn bà là kiệt tác của vũ trụ”. Vì thế vẻ đẹp của

những người phụ nữ trước hết được thể hiện ở ngoại hình với những đường

nét gợi cảm, như một kiệt tác của thiên nhiên ban tặng.

Ngoại hình là khái niệm chỉ hình dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ,

tác phong… tức toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài của nhân

vật. Có nhiều cách khắc họa ngoại hình nhân vật: thông qua ngôn ngữ người

kể chuyện; thông qua ngôn ngữ hoặc cái nhìn của nhân vật khác trong tác

17

phẩm; thông qua những tình huống và hoạt động của nhân vật được miêu tả…

Ngoại hình là một trong những yếu tố biểu hiện tính cách nhân vật, góp phần

tạo nên một nhân vật hoàn chỉnh. Trong văn học viết sự đa dạng trong việc

miêu tả ngoại hình của nhân vật tùy thuộc vào phong cách sáng tạo riêng của

mỗi nhà văn. Với chủ nghĩa lãng mạn thì các nhà văn thời kì này khi miêu tả

nhân vật thường lý tưởng hóa nhân vật. Còn sang với chủ nghĩa hiện thực thì

vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật được thể hiện một cách chân thực và sinh

động nhất.

Tuy nhiên trong văn học dân gian thì việc miêu tả ngoại hình, diện mạo

nhân vật chưa mang một “dụng ý nghệ thuật” và có nguyên tắc riêng như trong

văn học viết. Các nghệ sĩ nhân gian cũng chú trọng đến yếu tố ngoại hình nhưng

nó chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định nào đó. Và đối với thể loại truyền thuyết

thì việc miêu tả ngoại hình nhân vật cũng có thể là điểm nhấn của mạch trần

thuật.

Đến với truyền thuyết dân gian người Việt khi miêu tả về vẻ đẹp ngoại

hình, diện mạo của nhân vật nữ, ta bắt gặp đầu tiên là vẻ đẹp khỏe khoắn, tràn

đầy sức sống. Trong truyện Người con gái núi Tam Đảo, nhân vật nữ được

miêu tả là có vẻ ngoài trông “khỏe khoắn, che thân bằng vỏ cây… đi lại

chuyền nhảy nhanh như sóc, nhẹ như vượn”. Sau này khi đứng trước mặt

Lang Liêu thì người con gái ấy lại được miêu tả “mắt sáng long lanh, gương

mặt tươi tắn đỏ hồng, vóc dáng xinh đẹp khỏe mạnh, vua rất vui đón về kinh

đô làm lễ cưới”. Nhân vật Mụ giạ (Mụ giạ) cũng được giới thiệu với vẻ bề

ngoài “to cao, khỏe mạnh”. Chính sức vóc ấy mà bà đã được nhà vua tin

tưởng và giao cho trọng trách rất quan trọng đó là mở mang bờ cõi.

Truyền thuyết viết về nhân vật nữ còn ca ngợi họ với vẻ đẹp đoan trang

của người phụ nữ phương Đông. Nàng Khiết Nương tức Hoàng thái hậu sau

này (tên là Yến, lại có tên là Cám) có “dung mạo đoan chính lại gồm đủ tứ

18

đức (công, dung, ngôn, hạnh)”. Vẻ đẹp của nàng nhẹ nhàng hòa vào đất trời

bình yên lại thêm có mây ngũ sắc che đầu khiến vua càng mến mộ (Sự tích Ỷ

Lan phu nhân); nàng Nguyệt Ánh được miêu tả với vẻ đẹp “không những đẹp

người lại đẹp nết”. Không những thế nàng còn có “đôi tay đẹp, trên đầu lại có

đám mây che” khiến ai gặp mặt cũng phải yêu mến (Bà chúa Muối).

Các nhân vật nữ trong truyền thuyết còn sở hữu vẻ đẹp gợi cảm lôi

cuốn và đầy hấp dẫn. Trong truyện Bà chúa Lẫm đã khắc họa vẻ đẹp “lồ lộ

đương xuân” của nàng chúa Lẫm. Cảm vì nhan sắc cũng như trọng mến sự

thông minh ý tứ của nàng mà chàng hoàng tử nhà Lý đem lòng yêu nàng và

muốn cưới làm vợ. Và rồi duyên tình của “trai anh hùng sánh với gái thuyền

quyên” ngày càng khăng khít và nồng đậm. Sắc đẹp của nàng là khởi nguồn

của hạnh phúc. Hay đó là bà chúa Mía tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Liệu có

“sắc đẹp hơn người” vì thế mà bà được tuyển vào cung chúa Trịnh, dưới triều

Lê Thần Tông, đầu thế kỷ XVII (Bà chúa Mía).

Các nghệ sĩ dân gian còn thể hiện vẻ đẹp kì lạ khác thường ở các nhân

vật nữ trong truyền thuyết. Vẻ đẹp ấy được thể hiện sinh động qua bà chúa

Binh (May áo chồng bằng hơi thở ấm). Bà là một võ nữ nên sức vóc được

miêu tả là phi thường. Khi bà làm việc, “đôi vú to của bà đập vào đòn cào,

vào cán cào, cán cuốc nghe đồm độp cả ngày”. Chính vì sức vóc như vậy, nên

mùa đông đứng bên bà thì như đứng bên đống sưởi. Hay nàng Nhữ Nương

được các nghệ sĩ dân gian miêu tả diện mạo với vẻ khác thường so với các chị

em cùng trang lứa. Ai cũng môi son má đỏ, da trắng tóc dài, thân hình đầy

đặn thì nàng lại sở hữu vóc dáng “thấp gầy, da lại đen… trông cô gái lờ đờ

ngơ ngác… hồn vía để đi đâu mất rồi” (Vua Bà).

Vẻ đẹp ngoại hình, diện mạo của các nhân vật nữ còn được thể hiện

thông qua những câu khái quát ngắn gọn. Tác giả dân gian sử dụng vẻn vẹn

ba từ để nói về nhan sắc “rất xinh đẹp” của nàng Âu Cơ (Âu Cơ), bà chúa Vót

19

(Bà chúa Vót), bà chúa Tó (Bà chúa Tó) và Hoàng Phủ Thiếu Hoa (Bà tổ

nghề dệt lụa).Còn các nhân vật nữ như Ngọc Đài (Bà Ngọc Đài), Nguyễn Thị

La (Bà chúa dệt: Thụ La công chúa) thì được ca ngợi với vẻ bên ngoài là “tài

sắc tuyệt vời”. Vẻ đẹp ngoại hình diện mạo của Ngọc Đô thì được xếp vào

hàng “sắc nước hương trời” (Bà chúa thiên niên), còn nàng Quế Nương có

nhan sắc “nghiêng nước nghiêng thành” (Thánh mẫu thượng ngàn).

Như vậy, chúng ta thấy rằng vẻ đẹp ngoại hình, diện mạo của các nhân

vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề xây dựng đất nước được miêu tả một

cách khái quát. Và dù được miêu tả, khắc họa theo cách nào đi chăng nữa thì

trong truyền thuyết, các nhân vật nữ đều có ngoại hình đẹp.

2.2. Phẩm chất, tài năng

Truyền thuyết dân gian người Việt không những ca ngợi vẻ đẹp ngoại

hình của nhân vật nữ mà còn dành những trang văn để miêu tả vẻ đẹp phẩm

chất và tài năng của họ. Họ là những người đẹp về cả ngoại hình lẫn tâm hồn,

tài năng.

Viết về tài năng của các nhân vật nữ, truyền thuyết ca ngợi họ với tài

năng văn học, ca hát. Trong truyện Bà pháp tính: bà chúa Kim Cương có ghi

lại bà Trịnh Thị Ngọc Trúc nguyên là một vị quận chúa, con gái của Trịnh

Tráng, sống vào thế kỷ XVII ở nước ta. Bà thông hiểu cổ kim, nhất là có

nhiều suy nghĩ về tiếng nói và chữ viết của nước nhà. Bà đã biên soạn được

một cuốn sách đặc sắc, là cuốn “Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa”. Chữ Nôm

được sử dụng vào thơ phú từ đời Trần và sang đời Lê thì rất thịnh. Nhưng

chưa có ai làm sách từ vị, thu thập giải nghĩa các tiếng và cách viết. Cuốn

sách của bà là một đóng góp cho nền văn hóa Việt Nam. Mãi cho đến nhiều

năm về sau, vẫn chưa ai lưu tâm viết những loại sách như thế.

Nàng Nguyễn Thị Kể sinh ra trong gia đình nghệ thuật ca xướng. Vì

thế khi lớn lên nàng Kể trở thành một ca nữ có giọng hát hay, tài sắc nổi danh

20

khắp cả một vùng. Chính tài năng ấy đã làm nao lòng chúa Trịnh và nàng

được làm cung phi. Ở trong cung vì tinh thông âm luật, nàng luôn bày vẽ cho các

đội nữ nhạc tiếng đàn dạy hát, gây được không khí hồ hởi, lan rộng ra cả ngoài

đô thành Thăng Long. Được chúa Trịnh yêu quý nên sau này nàng cũng đã dành

những lời khuyên giúp chúa cai quản đất nước hợp lòng dân (Bà Tri Chỉ).

Tài năng ca hát còn thể hiện rõ ở bà Ngọc Đài (Bà Ngọc Đài). Bà là

người con gái họ Phùng, là một đào nương danh tiếng hồi đầu thế kỷ XVII ở

nước ta. Bà nghĩ ra một trò vui cho dân đó là cho họ vác mai cuốc, xếp hàng

lại với nhau thành những chữ Hán như “Quốc Thái dân an”, “Thiên hạ thái

bình”… Người này cầm cờ, người kia múa hát, sắp thành các điếm, các đội,

một người điều khiển cả đội gọi là “Tổng Cờ”. Từ đó đến ngày hội, để cho

đẹp mắt người dân đã thay những cán cuốc cán mai bằng những cây gậy quấn

giấy xanh đỏ, buộc tua ở đầu và những cây cờ ngũ sắc. Họ cũng xếp thành

những chữ để múa hát. Bà Ngọc Đài đã tạo ra trò chơi bổ ích để giải lao cho

nhân dân sau những giờ lao động mệt nhọc. Sau này nhân dân tôn bà làm

thành hoàng làng Bảo Ngũ. Chính bà là người đã sáng kiến ra hội kéo chữ,

một trò diễn đẹp mắt mà mang đậm ý nghĩa văn hóa.

Hay nàng Bạch Hoa (Mãn đào hoa công chúa) con của viên quan châu

Bạch Đình Sa. Nàng có nhan sắc đẹp tuyệt trần, giọng hát hay điệu múa dẻo.

Bạch Hoa cùng với chồng của mình chăm chú dạy nghề đàn hát cho lớp trẻ ở

trong vùng khiến quan khách ai ai cũng phải trầm trồ khen ngợi. Từ tài năng

ca hát của hai vợ chồng mà Cổ Đạm làng quê của hai người trở thành đất

thanh lịch, thịnh hành lối hát ả đào từ xưa đến nay chưa hề có trên đất nước

ta. Dân làng Cổ Đạm lập đền thờ tôn là Mãn Đào Hoa công chúa – là vị tổ của

ngành hát ả đào.

Trong truyện Sự tích hát xoan đã ca ngợi nàng Quế Hoa xinh đẹp bằng

tài năng ca hát của mình nàng đã giúp cho vợ của vua Hùng quên đi cơn đau

21

mà sinh được ba người con trai khôi ngô đẹp đẽ. Quế Hoa ở gần thành Phong

Châu, nàng múa giỏi hát hay, tay uốn chân đưa, người mềm như tơ, dẻo như

bún ai cũng phải mê. Vua Hùng đã vô cùng vui mừng, mới bảo các mỹ nương

học lấy điệu múa hát của nàng và gọi là hát Xuân hay chính là hát Xoan; nàng

Nhữ Nương (Vua Bà) mặc dù không sở hữu vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân giống

như những cô gái khác nhưng khi nhập vào cuộc ca hát thì Nhữ Nương trông

rất linh hoạt, duyên dáng hẳn lên. Khi nàng cất lên tiếng hát thì lời ca vừa bay

bổng vừa chân thực, khi ngộ nghĩnh, hồn nhiên, khi thấm thía ân tình. Giọng

hát, lời ca của Nhữ Nương đã tạo cho cô một khuôn mặt mới, kỳ ảo và mê

đắm lòng người. Nàng đam mê hát đến nỗi vừa làm nàng vừa nhẩm những

câu hát chợt nghĩ ra. Giọng ca của nàng âm vang trên mặt sóng đồng không.

Từ những sườn đồi cỏ mọc lút đầu, tiếng ca Nhữ Nương vút lên hòa với tiếng

líu lo chim ngàn, tiếng rì rào bờ sông nước chảy… Nàng có thể cất lời ca

tiếng hát ở khắp mọi nơi lúc rảnh rỗi cũng như làm việc trên cánh đồng. Tiếng

hát của nàng khiến người già nghe thấy trẻ lại, người trẻ nghe thấy chân tay tự

nhiên gõ nhịp, miệng mấp máy hát theo… Nhữ Nương thường khuyến khích

các bạn trong làng: “Cứ hát đi, đừng ngại không có giọng. Cốt nhất trong lòng

mình muốn hát lên… ”. Nàng còn dạy các bạn tập hát, chẳng bao lâu khắp

làng đều vang lên tiếng hát. Bên gái bên trai họp thành bọn, hát đối đáp thâu

đêm. Giọng hát đầy huyền bí ấy đã làm mê mẩn vị hoàng tử con út của vua

Thủy Tề. Bao nhiêu lần nàng hát chàng cũng đều ở dưới lắng nghe. Sau này

mỗi một cuộc hát quan họ đều được mở đầu bằng câu:

“Thủy tổ quan họ làng ta

Những lời ca xướng Vua Bà sinh nên… ”

Các nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những người thông

minh và tài giỏi. Nàng chúa Lẫm (Bà chúa Lẫm) không chỉ là người thông

minh mà còn là người tinh tế và chủ động. Khi hoàng tử đang lang thang giữa

22

cánh đồng bộn bề nước trắng, trời lại đang tối và chàng đói bụng nên đành

tìm nơi nghỉ trọ. Khi thấy túp lều nhỏ, hoàng tử lên tiếng gọi. Nhưng trong

túp lều chỉ có người con gái nên hoàng tử lúng túng và định quay đầu ra về.

Đứng trước sự ngại ngùng lúng túng của hoàng tử, nàng đã nhanh ý tiếp lời:

“Xin chàng chớ ngại, ở đây đâu chỉ có chàng với thiếp, mà còn có ngọn đèn

này nữa”. Ngọn đèn là vật vô tri vô giác nhưng bằng sự nhạy cảm và tinh tế

nàng đã biến nó giống như vật thể sống. Nàng khuyên hoàng tử đừng ngại vì

trong phòng không chỉ có chàng với nàng mà còn có cả ngọn đèn nữa. Thấy

cô gái sáng ý và tha thiết nên hoàng tử đã vui lòng ở lại.

Trong truyện Bà Kiệt Đặc, ca ngợi người con gái Nguyễn Thị Duệ

thông minh và học giỏi. Năm mười tuổi, cô bé chưa được đi học mà đã biết

đọc sách, truyện và viết tập làm văn. Nguyễn Thị Duệ có tinh thần ham học

hỏi, để được đi học thì nàng đã xin cha mẹ được cải trang thành con trai “mặc

quần áo nam giới, không xêu lỗ tai” và cô đã đỗ tiến sĩ. Với tấm lòng thật thà

và tài năng của bản thân thì nàng được giữ lại trong cung để dạy dỗ cho cung

nữ. Thậm chí khi bà giao thiệp với các nhà khoa bảng cùng các trọng thần

uyên bác, ai cũng phải công nhận bà có trình độ học vấn sâu sắc và có đạo

đức thanh cao. Khi được vua Lê chúa Trịnh hỏi ý kiến về các việc liên quan

đến chính sự, Nguyễn Thị Duệ tìm ngay được những câu chuyện hoặc tấm

gương tương tự trong sử sách đời xưa để trả lời, ngụ ý khuyên răn vua chúa

cần phải theo đường chính học, chăm sóc đời sống của nhân dân. Trong triều

đình ai cũng ngượng mộ và kính phục nàng.

Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những con người có

đời sống tâm hồn cao đẹp. Nét đẹp chịu thương chịu khó, nết na và hiếu nghĩa

chính là vẻ đẹp chung của các nhân vật nữ trong truyền thuyết.Đó là nàng

Khiết (Sự tích Ỷ Lan phu nhân), người con rất đảm đang. Khi mẹ mắc bệnh,

cha thì đi phục dịch quan chưa về, ở nhà nàng lo toan mọi việc. Nàng Khiết

23

ngày ngày cơm cháo thuốc thang cho mẹ, hết sức lo tròn đạo hiếu. Nhà vua

Lý Thánh Tông đã từng ca ngợi nàng: “Đây quả là người có đức, có lẽ là

người có một không hai trong thiên hạ”. Chính bởi đức tính tốt ấy mà nhà vua

phong nàng làm Ỷ Lan phu nhân.

Sự chịu thương chịu khó còn được tái hiện rõ nét ở nàng Nhữ Nương

(Vua Bà). Rời quê nhà Nhữ Nương đi mọi nơi để kiếm sống. Nhiều người ái

ngại trước cảnh sống của cô nhưng cô đã nói: “Ta tuy tứ cố vô thân, nhưng

không muốn làm con chim hót tiếng đau xót trong lồng giam… Ai thương ta

trơ trọi độc, liệu có đông bầu bạn thân thích bằng ta không? Ta có trời đất làm

cha mẹ, có núi sông làm anh chị, còn chim bướm hoa cỏ đều làm bạn bè…

Còn ai sướng hơn ta nữa”. Nhữ Nương không hề than phiền hay sợ cuộc sống

nghèo khổ. Nàng lặn lội khắp đồng xa đồng gần mò tôm bắt cá, kiếm con cua

con ốc mang về đổi lấy lẻ gạo sống qua bữa. Suốt ngày làm lụng vất vả, quần

áo ướt sũng, lấm lem bùn đất nhưng Nhữ Nương vẫn vui. Bằng tinh thần chịu

thương chịu khó mà nàng Nhữ Nương đã vượt qua được sự nghèo khổ trong

cuộc sống.

Đó còn là bà Chúa Binh, một võ nữ có sức vóc phi thường và rất chăm

chỉ, chịu khó. Bố mẹ mất sớm, một mình bà vỡ đồi, cuốc bãi hoang hàng chục

mẫu ruộng mà chẳng nhờ và thuê mượn một ai cả. Bà làm một mình tất cả các

công việc đồng áng từ gặt lúa, gánh lúa cứ quần quật hết cánh đồng này sang

cánh đồng khác. Bà làm rất giỏi và nhanh. Tác giả dân gian đã ghi “đôi vú to

của bà đập vào đòn cào, vào cán cào, cán cuốc nghe đồm độp cả ngày”. Vơi

sự chịu thương chịu khó ấy sau này bà đã có công rất lớn trong cuộc chiến

chống giặc ngoại xâm phương Bắc (May áo cho chồng bằng hơi thở ấm).

Trong truyện Dương Vân Nga, đó là hình ảnh chăm chỉ cần cù của

nàng đã được chú cháu Đinh Bộ Lĩnh bắt gặp khi nàng đang cắt cỏ và hát:

“Tay cầm bán nguyệt xênh xang

24

Muôn ngàn ngọn cỏ hai hàng tay ta”.

Lao động không khiến nàng thấy vất vả, ngược lại càng làm cho cuộc

sống của nàng có ý nghĩa và tinh thần phấn chấn hơn.

Nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ còn thể hiện qua tầm nhìn xa trông

rộng của mỗi người. Ta bắt gặp điều đó qua hình ảnh bà chúa Lẫm (Bà chúa

Lẫm). Bố mẹ nàng mất sớm, sống trong cảnh nghèo khó thế nhưng nàng lại

không muốn nương tựa nhờ cậy ai mà tự mình làm túp lều có chỗ ở để kiếm

sống. Hoàn cảnh càng khó khăn thì nàng lại càng mạnh mẽ vượt lên trên số

phận. Những lời nàng tâm sự khiến cho hoàng tử rất ngưỡng mộ. “Thiếp nghĩ

giàu nghèo là tự tay mình làm ra. Cứ chăm chỉ rồi sẽ khá lên, phải không

chàng? Người ta đi gặt ăn tuồng bỏ vãi, thiếp cứ đi cóp nhặt lại của họ mà lại

được nhiều thóc hơn. Gần đây có kho lương, thiếp cứ đào hang chuột cũng

khối thóc…

Hoàng tử không ngờ người con gái quê mùa chân thực lại có tâm sự

hơn người đến thế”.

Như vậy, truyền thuyết dân gian đã khắc họa tài năng và đời sống

tâm hồn của những người phụ nữ rất phong phú và đẹp đẽ. Họ xuất thân từ

tầng lớp bình dân vì thế mà sớm sớm đã phải chịu nhiều khổ sở, vất vả.

Chính trong những hoàn cảnh khốn khó đó mà những người phụ nữ mới

hình thành những tài năng và phẩm chất, đạo đức cao quý. Sự vất vả, nghèo

khổ không làm cho con người đầu hàng trước số phận. Nhân vật nữ vẫn

yêu đời và lạc quan trong cuộc sống. Đó chính là một trong những phẩm

chất đáng quý của người phụ nữ.

2.3. Hành trạng

Những nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những người

anh hùng trong kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất. Đó là những người phụ

nữ chăm chỉ cần cù, chịu thương chịu khó lao động sản xuất, những người

25

sáng tạo ra những giá trị tinh thần mang đậm văn hóa Việt. Khi đất nước có

giặc ngoại xâm các nam giới đều ra chiến trận khi đó những người phụ nữ trở

thành lực lượng nòng cốt trong lao động sản xuất. Họ trở thành nguồn lao

động chủ yếu và quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Vì thế mà hành trạng

của các nhân vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề xây dựng đất nước gắn

liền với công cuộc kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất.

Các nhân vật nữ đã tham gia rất tích cực vào lĩnh vực lao động sản

xuất. Đó là cô gái ở ấp Hoa Xá, tả Thanh Oai (nay thuộc huyện Thanh Trì,

ngoại thành Hà Nội) đang làm việc chăm chỉ giữa trưa. Khi vua Lê Đại Hành

thấy vậy đến hỏi thì nàng dõng dạc trả lời: “Nhà vua có việc của nhà vua,

chúng em có việc của chúng em. Nhà vua dẹp giặc nước, chúng em dẹp giặc

cỏ”. Trước lời nói của cô gái nông dân ấy nhà vua rất lấy làm nể phục. Hình

ảnh của nàng chúa Tó đang hăng say làm cỏ lúa giữa ruộng cũng chính là

hình ảnh của các cô gái thời chiến. Cho dù có khó khăn, vất vả thì họ luôn

hăng say miệt mài lao động. Họ chính là những người trực tiếp làm ra lương

thực thực phẩm để cung ứng cho các quân sĩ ngoài chiến trận (Bà chúa Tó).

Nhân vật nữ chính là những người giúp dân tạo dựng nghề nghiệp và

truyền nghề cho nhân dân. Đó là mẹ Âu Cơ, dân gian ca ngợi nàng là bà tổ

nghề nông tang và chế biến thực phẩm (Mẹ Âu Cơ tổ nghề nông tang và chế

biến thực phẩm). Khi nàng Âu Cơ sinh ra được bọc trăm trứng, trứng nở ra

thành một trăm người con trai thì các con đã chia tay nhau. Năm mươi người

con theo mẹ Âu Cơ về núi Phong Sơn nay là huyện Bạch Vạc Vĩnh Phú. Từ

đây Âu Cơ đã kiếm giống lúa cho dân chỉ cho dân cách đốt cây rẫy cỏ để

trồng lúa nương. Ngoài ra Âu Cơ còn dạy dân trồng dâu ở các bãi ven sông,

nuôi tằm để dệt tơ lụa và dạy dân trồng lúa; hay đó là những người con gái

giúp vua Hùng dựng nước, mở mang bờ cõi, cai trị dân chúng như: con gái

26

Tiên Dung dạy dân làm ăn (Truyện Nhất Dạ Trạch), mở mang bờ cõi; con gái

Ngọc Hoa dạy dần trồng lúa, dệt vải, hát múa…

Những người phụ nữ ấy còn chính là những người tạo ra nghề nghiệp

mới cho đất nước. Chẳng hạn như nghề dệt. Đây là ngành tiểu thủ công mới

phát triển ở thời kì phong kiến tự chủ. Đó là nàng La (Nàng chúa dệt: Thụ La

công chúa), không những là người thợ giỏi mà còn là người thầy nhiệt tình và

tận tụy. Nàng La rất khéo tay, dệt vải rất đẹp. Nàng La đã cùng với chồng của

mình tự mở xưởng dệt và chủ động đi dạy người dân dệt vải. Tiếng đồn lan

rộng, nhà vua nhiều lần mời nàng vào cung, dạy cho công chúa và các cung

nữ. Các tiểu thư nhà quan cũng đua nhau mời nàng về nhà để dạy. Ai ai cũng

phục cái tài của nàng La và gọi nàng là bà chúa dệt.

Trong truyện Bà tổ nghề dệt lụa đã ca ngợi nàng công chúa xinh đẹp

Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Công chúa không ưa cuộc sống nhung lụa mà lại ưa

cuộc sống nông tang, chỉ một lòng chuyên nghề canh cửi. Đến Cổ Sắt nàng

dạy dân trồng dâu, nuôi tằm và dệt lụa. Nàng không những dạy cho dân làng

Cổ Đô, Vân Sa lại còn mang nghề sang truyền bảo cho hơn sáu mươi làng

xung quanh. Vì vậy mà sau này, làng Cổ Đô và Vân Sa dệt lụa nổi tiếng là

đẹp và bền, nhân dân vùng Sơn Tây cũ còn truyền tụng lại câu ca:

“Lụa này thật lụa Cổ Đô

Chính tông lụa cống, các cô ưa dùng”.

Dưới sự dạy dỗ tận tình, người dân đã thành thạo với việc dệt lụa.

Tương truyền nghề canh cửi dần dần được lan truyền sang các vùng khác

trong đất Hà Tây và truyền tới nhiều làng thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định,

Ninh Bình, Thái Bình ngày nay. Các làng có nghề dệt cửi đều coi bà Hoàng

Phủ Thiếu Hoa là thủy tổ nghề dệt lụa của mình.

Hay nàng Quỳnh Hoa con gái của ông Trần Vỹ (Bà chúa nghề tằm)

không những thông minh, xinh đẹp mà lại có tài và khéo tay. Bà thường dạy

27

các cung nữ nghề nuôi tằm dệt vải. Khi chồng mất bà về quê chồng giúp dân

địa phương về nghề tằm tang; bà Phạm Thị Ngọc Đô hay còn gọi là bà chúa

dệt lĩnh, bà chúa Thiên Niên chính là người đã truyền lại nghề dệt lĩnh cho

nhân dân làng Trích Sài, Bái Ân, Nghĩa Đô (Bà chúa Thiên Niên). Nàng có

hai mươi bốn nữ tỳ cũng đều thông minh nhanh nhẹn và thành thạo kim chỉ vá

may như chủ. Nàng tụ tập người dân và chiêu mộ thêm người, cùng các nữ tỳ

của mình dạy dỗ nghề dệt lĩnh cho dân chúng. Vì thế Lĩnh Bưởi nổi tiếng ở

thủ đô và ở khắp nước ta những ngày trước cách mạng tháng Tám. Có được

nghề thủ công quý báu như thế, là vì nhân dân đã được:

“Nhờ đức thiên tôn, dạy nết cửi canh

Chân giày tay dệt đã nhanh

Văn chương có chữ rành rành bởi ai

Việc cung chức tiên tài đủ vẻ

Dạy nữ công văn nghệ cho tường

Quay tơ lụa chỉ nhiều đường

Dọc theo đậm mắt, dệt ngang có mành”.

Đó còn là nghề trồng mía của nhân dân ở nàng Sơn Tây. Công lao vun

đắp cho nghề trồng mía là một tay bà Nguyễn Thị Ngọc Liệu tạo nên. Bà là

người có trí thông minh và sắc đẹp hơn người nên được tuyển vào cung chúa

Trịnh dưới triều Lê Thần Tông. Mặc dù được tuyển làm cung phi thế nhưng

bà không hay ở trong cung mà thường xin phép chùa trở về làng để khuyến

khích dân làng trồng mía. Bà kêu gọi mọi người trồng, thậm chí bà còn tự tay

mình chăm sóc lấy bãi mía của nhà mình. Được sự săn sóc và khuyến khích

nghề nghiệp trồng mía mà nhân dân ở Đông Sàng, Mông Phụ và rộng ra cả

Sơn Tây đều làm ăn phát đạt. Nhân dân kính trọng bà và tôn bà là bà chúa

Mía. Cho đến tận ngày nay thì nơi đó vẫn giữ nghề trồng mía (Bà chúa Mía).

28

Quế Nương (Thánh mẫu thượng ngàn) sở hữu vẻ đẹp nghiêng nước

nghiêng thành. Nàng lại nổi tiếng là người khéo tay hay làm, nết na thùy mị.

Vì thế mà theo nếp mẹ truyền, nàng công chúa tài khéo sớm hơn, chuyên cần

dạy dân làm đủ các việc: cày ruộng, phát nương, dệt vải, chăn thú rèn vàng

luyện kim cương, làm đồ gốm, chống thú rừng… Những người nghèo khó

đều đươc công chúa cưu mang hết lòng. Chẳng bao lâu nơi dây trở nên trù

phú. Lúa vàng khắp ruộng, sắn ngô xanh mướt trên nương, chim chóc đưa

nhau bay về núi rừng quanh bản, rộn hót suốt đêm ngày… Bởi thế cả trăm họ

trong vùng đều vô cùng kính trọng Quý Nương.

Trong truyện Bà chúa Vĩnh, tương truyền Bà chúa Vĩnh là con gái của

bà Tổ Cô. Bà rất thông minh khi bà đã nghĩ ra cách đi nhặt phân về bón cho

lúa. Bà bắt tay vào làm và hướng dẫn cho những người dân trong vùng làm

theo. Quả nhiên vụ mùa năm ấy, bông thóc nào cũng uốn câu, nặng trĩu hạt

mẩy. Khi đó những bầy thú, bầy chim rừng đua nhau kéo đến cắn phá thì Bà

Vĩnh lại nảy ra ý định gọi mọi người ra săn bắt, đuổi đánh chim thú đi. Là

người tỉ mỉ và cẩn thận, bà quan sát các loài thú vật, chim chóc chữa vết

thương cho nhau mà bà đã học được rất nhiều phương thức quý. Trong làng

ngoài xóm ai có bệnh gì bà đều chữa khỏi, danh tiếng của bà được khắp vùng

biết tới. Tấm lòng nhân hậu của bà đã mang lại cuộc sống yên bình, ấm no

cho người dân khỏi nghèo đói và bệnh tật; hay bà Chóa, cũng là con gái của

bà Tổ Cô là người đi đến vùng xa nhất để truyền nghề (Bà Chóa tổ nghề trồng

dâu nuôi tằm). Mẹ con bà Chóa đã đi vào bãi phá hoang và chặt giống dâu về

trồng. Khi dâu đã mọc xanh tốt thì ba mẹ con đã hái lá dâu về chăn tằm rồi

kéo tơ để dệt vải. Người dân đều khen tơ lụa của bà mịn mát và mong bà

truyền nghề cho. Từ đó ba mẹ con bà hăng say đi truyền nghề trồng dâu, nuôi

tằm, dệt vải cho dân làng.

29

Vạn Vót là một xóm làm nghề chài lưới hoặc buôn bán trên sông nước,

kèm theo nghề đan lát. Có câu ca dao cổ trẻ em thường hay hát:

“Đồn rằng vạn Vót vui thay

Trên thì vạn Thúng, dưới may vạn Thuyền”

Người phụ nữ tạo ra nghề vót cho dân đó chính là bà Chúa. Bà đã bỏ

tiền ra chiêu mộ dân chúng và cùng bà con chăm lo một nghề thủ công mới.

Đó là nghề vót tre, vót nan, đan thúng mủng, rổ rá, đan cả loại thuyền thúng,

thuyền nan để làm phương tiện đi lại, hoặc chuyên chở khoai lúa ở những nơi

đồng trũng, có nhiều kênh rạch. Lâu dần nghề đó trở nên phát đạt. Làng được

gọi tên là Vạn Vót (Bà chúa Vót).

Không chỉ dừng lại ở đó, nhân vật nữ còn giúp dân tạo dựng ra nghề

làm muối. Đó là nàng Nguyệt Ánh quê huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đã

truyền cho dân cách làm muối. Nàng sinh ra trong gia đình chuyên nghề làm

muối. Và điều thú vị ở nàng mà dân gian đã ghi lại là “những nơi Nguyệt Ánh

đi qua muối bị lâu khô mà sau này lại rất tốt. Muối trắng như bong, độ mặn rất

cao”. Hễ thuyền muối của nàng đi đến đâu thì đều đắt khách đến đó. Sau này

khi nàng mất, nhân dân tôn kính nàng gọi là bà chúa Muối (Bà chúa Muối).

Những nhân vật nữ trong truyền thuyết còn là những người giúp dân

khai hoang ruộng đất, mở mang diện tích đất canh tác. Bà chúa Lẫm (Bà

chúa Lẫm) cùng dân mở rộng diện tích đất canh tác. Bà đã dõng dạc nói với

người dân: “Giàu nghèo là ở tay mình. Sao cứ chịu mãi thế này? Vùng này

còn bao nhiêu đất bỏ hoang, ta phải cày xới lên mà ăn chứ”. Bà không những

là người trực tiếp chỉ đạo việc khai hoang đất trống mà bà còn tuyên truyền

khai sáng tư tưởng cho nhân dân rằng cuộc sống giàu hay nghèo là phụ thuộc

vào chính sự chăm chỉ của mỗi người. “Lúc đó vào mùa nước tháng tám,

tháng chín, khắp các ngả đồng bằng trắng băng một mầu, bà chúa Lẫm tay

đeo bị trấu, đi dọc từ Quả Cảm theo triền sông Cầu xuống tới vùng núi Bài

30

thuộc dãy Nham Biền. Vừa đi bà vừa vung trấu vãi xuống mặt nước. Gió

Đông Bắc đưa trấu đi tới đâu, bà chúa Lẫm cho cắm đồn điền tới đó. Khi có

được đất rồi, bà chúa Lẫm phân người đi các nơi, lập nên bảy mươi hai trang

ấp trong vùng, cùng lo cai quản cày cấy”. Cứ như vậy sau mỗi vụ thu hoạch

thì cảnh trí ngày càng hưng thịnh lên. Dân gian không ngớt lời ca tụng công

đức bà chúa Lẫm.

Nàng Nguyễn Thị Kể (Bà Tri Chỉ) sau mười hai năm ở trong phủ chúa

Trịnh, nàng xin trở về quê mình. Bà đã bỏ tiền mua ruộng, mời các chức dịch

đến phân chia. Lời bia ở đền còn ghi rõ là bà đã chia các sở ruộng ấy thành:

“Học điền, ruộng giúp đỡ cho người đi học. Binh điền, ruộng trợ cấp cho các

gia đình quân nhân. Lão điền, ruộng giúp đỡ người già cả. Kỵ điền, ruộng để

tế tự.” Những việc làm của bà Kể chứng tỏ bà rất lưu tâm đến việc mở mang

và xây đắp cho phong hóa ở thôn xã.

Người có công trong việc mở mang bờ cõi còn thể hiện qua nhân vật

mụ Giạ (Mụ Giạ). Thuở ấy nước ta gọi là nước Văn Lang do vua Hùng làm

chủ. Ở phía Nam, nước ta giáp với nước Tiết Hầu. Để phân chia lãnh thổ, hai

nước đã đưa ra giải pháp hòa bình: “mỗi bên cử ra một người, cùng một giờ,

một ngày, ra đi từ nước mình sang phía nước bên kia. Hễ hai người này gặp

nhau ở đâu thì lấy nơi đó làm giới hạn biên cương của mỗi nước”. Chính vì

vậy mà mụ Giạ đại diện cho nước Văn Lang đảm nhận trọng trách quan trọng

này. Bà đi nhanh như chim bay. Chưa đầy nửa buổi mà đã đi được mấy trăm

dặm đường. Đến quá trưa, chân bà đã đặt tới dãy Khai Trướng ở Nghệ An, và

cuối cùng bà đã gặp người của nước bên kia ở phía Nam một con đèo. Từ đó

ngọn đèo trở thành biên giới phía Tây Nam của nước Văn Lang. Ngọn đèo ấy

thuộc dãy núi Nam Giới, nằm giữa đất Tân Ấp của Hà Tĩnh và đất bản Thong

Kham của nước Lào ngày nay. Bà đã có công lớn trong việc mở mang bờ cõi

31

và để tỏ lòng biết ơn, vua đã lấy tên bà đặt luôn cho ngọn đèo ấy. Chính là

đèo Mụ Giạ ngày nay.

Bằng trí tuệ và tài năng của mình thì những người phụ nữ ấy đã để lại

những công trình kiến trúc có giá trị văn hóa nghệ thuật cao. Trong Sự tích Ỷ

Lan phu nhân thì nàng Ỷ Lan ở thời Lý đã cho xây dựng 72 ngôi chùa, xây

tháp Bảo Thiên để trấn giữ quốc gia trước giặc xâm lược. Tháp gồm 12 tầng

và cao 12 trượng. Nó được xây dựng trên khuôn viên tháp Sùng Khánh ở phía

Tây hồ Lục Thủy (tức Hồ Gươm, Hà Nội ngày nay) nguyên vật liệu bằng đá

và gạch, riêng ở tầng hai thì đúc bằng đồng.

Trong dị bản Bà phù thánh linh nhân (Bà Ỷ Lan) thì nàng Ỷ Lan đã đi

du ngoạn nhiều nơi núi sông trong nước xem chỗ để xây dựng các chùa tháp.

Bà cho sửa sang các hồ như hồ Linh Chiểu, hồ Bích Tri, dựng tháp ở các chùa

Diên Hựu, chùa Lãm Sơn. Nàng Ỷ Lan còn đại diện cho những người phụ nữ

có công sáng tạo ra những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Bà là

người rất giỏi về lễ nghi nên bà đã sáng tạo ra nghi thức tắm Phật. Sau này trở

thành tục lệ chung của các hội hè cầu đảo trong cả nước. Với việc làm ấy của

bà đã mang lại nét đặc sắc văn hóa cho dân tộc Việt.

Hay bà chúa Tó (Bà chúa Tó) đã giúp nhân dân tạo ra món ăn mới để

cung cấp lương thực cho cuộc chiến. “Chúa Tó có sáng kiến làm bánh chè

Lam, làm Cốm nếp nhào mật để quân sỹ có lương khô ăn đường”; hay là con

gái Đế Lai dòng dõi thần nông, Âu Cơ đã biết chế ra rất nhiều thứ bánh trong

đó có bánh Uôi làm bằng bột nếp giã kỹ, trộn với nước mía làm thành hình

tròn, hấp trong chõ cho kín. Những món ăn giản dị ấy đã trở thành nét đẹp

trong ẩm thực người Việt.

Bà Cống Kỷ người làng La Xuyên, xã Đông Ngạc, Nam Sách (Cầu

chẹm và khối vàng của bà Cống Kỷ). Bà là người phụ nữ xinh đẹp, nết na,

sống trong gia đình giàu có. Bà thi đỗ Hương cống nhưng biết mình là nữ, nếu

32

làm quan sẽ phạm tội khi quân nên bà đã chọn con đường buôn bán. Bà bỏ

tiền mua dải đất lia làng Đồng Khê làm đường đi và bắc chiếc cầu đá mười

nhịp để nối liền La Xuyên với chợ Thanh Lâm. Cầu ấy mang tên cầu Chẹm.

Nhờ có cây cầu Chẹm, mà cả làng La Xuyên đi lại dễ dàng, thoải mái. Bà

không chỉ làm cầu, mà còn có công đức làm đình, chùa, văn miếu. Đời đời

dân ghi nhớ những việc làm tốt đẹp ấy của bà. Đã có câu ca dao nói về bà

Cống Kỉ như một biểu tượng của gái La Xuyên:

“Gái La Xuyên như hoa thiên lý

Trai thiên hạ có ý thì trông”.

Như vậy, hành trạng của nhân vật nữ trong truyền thuyết về chủ đề xây

dựng đất nước đã có vai trò và đóng góp vô cùng to lớn trong việc kiến tạo

văn hóa và lao động sản xuất. Nhân vật nữ không những là người đi dạy nghề

cho dân chúng mà còn trực tiếp tham gia vào lĩnh vực lao động sản xuất nâng

cao đời sống cho nhân dân. Qua đó, tác giả dân gian bày tỏ thái độ cảm phục

và ngợi ca đến những người phụ nữ tài giỏi mà chịu thương chịu khó.

Tiểu kết chương 2

Truyền thuyết dân gian người Việt viết về nhân vật nữ chính là bài ca

toàn diện để ca ngợi về người phụ nữ. Người phụ nữ trong truyền thuyết với

chủ đề xây dựng đất nước không những đẹp ở diện mạo, ngoại hình mà còn

đẹp ở cả tài năng, phẩm chất và hành trạng.

Tác giả dân gian không đi sâu vào việc miêu tả chi tiết, cụ thể vẻ đẹp từ

làn da, khuôn mặt, mái tóc của nhân vật nữ mà chỉ khái quát diện mạo bằng

những câu nói ngắn gọn. Phải chăng đây chính là dụng ý nghệ thuật của các

nghệ sĩ dân gian, cố ý xây dựng nhân vật từ những chi tiết bình dị trong mối

quan hệ với nhân dân để khắc họa nhân vật nữ gần với hiện thực. Tác giả dân

33

gian tập trung miêu tả hành trạng của nhân vật để thấy được những đóng góp

to lớn của các nhân vật nữ trong công cuộc kiến tạo văn hóa và lao động sản

xuất. Những người phụ nữ đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho gia đình và

nguồn lao động dồi dào cho sự phát triển của xã hội. Họ tham gia tích cực vào

lĩnh vực lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nuôi sống gia đình và duy

trì sự sống cho xã hội. Bằng chính tài năng của bản thân, những người phụ nữ

ấy đã tạo ra những giá trị văn hóa tốt đẹp và được lưu truyền cho tới mãi

muôn đời sau.

Nhân vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề xây dựng đất nước được

các nghệ sĩ dân gian khắc họa như để giải thích nguồn gốc con rồng cháu tiên

của nhân dân Việt cũng như khẳng định vị trí và vai trò to lớn của họ trong

công cuộc kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất. Qua đó, truyền thuyết đã thể

hiện tình cảm và thái độ trân trọng biết ơn của các nghệ sĩ dân gian đến các

nhân vật nữ.

34

Chương 3

NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT CHỦ ĐỀ

BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC

Vừa xây dựng đất nước, vừa bảo vệ đất nước, đó là hai chủ đề chính

xuyên suốt trong truyền thuyết dân gian người Việt. Nếu như chủ đề thứ nhất

đề cao công cuộc xây dựng đất nước, mở mang văn hóa, xây dựng chế định,

luật lệ mà nổi bật là những danh nhân văn hóa đã góp trí tuệ, công sức của

mình làm quốc thịnh dân khang. Thì đến với chủ đề bảo vệ đất nước, truyền

thuyết ngợi ca chiến công chống xâm lược khi đất nước có giặc ngoại xâm.

Từ những ông vua, các tướng lĩnh đến những người dân thường đều chung tay

góp sức mình bảo vệ “đất nước muôn đời”. Trong thời kì này, truyện viết về

nhân vật nữ xuất hiện khá đa dạng. Họ có thể là những cô gái anh dũng,

những người vợ, người mẹ, những người phụ nữ vô danh sẵn sàng đứng dậy

khi đất nước cần, xả thân vì cuộc sống ấm no, độc lập dân tộc.

3.1. Ngoại hình, diện mạo

Cũng giống như nhân vật nữ trong thời kì xây dựng đất nước, truyền

thuyết dân gian người Việt khi viết về các nhân vật nữ trong thời kỳ bảo vệ

đất nước cũng chú ý tới vẻ đẹp ngoại hình đầy nữ tính của họ. Vẻ đẹp ấy được

ví giống như “tiên nữ giáng trần”.

Trước tiên vẻ đẹp ngoại hình của các nhân vật nữ là vẻ đẹp rực rỡ của

tuổi trẻ. Trong truyền thuyết Sự tích anh em Trù Công và Thuận Nương giúp

35

Bà Trưng đánh đuổi Tô Định, nàng Thuận Nương được miêu tả với vẻ đẹp

khuynh nước khuynh thành với “mày ngài mắt phượng, mặt tựa mai hoa”.

Không những thế vẻ đẹp của Thuận Nương còn khiến “chim sa cá lặn, trăng

thẹn hoa hờn”. Một vẻ đẹp cao quý và thanh nhã tựa như hoa mai.

Nàng A Nương họ Quách thì lại mang một vẻ đẹp với “dung nhan

nghiêm chỉnh, mặt mũi phương phi, má phấn môi son, mắt phượng mày

ngài”. Nhân dân hết sức ca ngợi vẻ đẹp của nàng là “một trang mỹ nữ” (Khâu

Ni công chúa). Nàng Trinh Hoa (Hoàng hậu nước Vạn Xuân), ngay từ thuở

còn bé đã được miêu tả có diện mạo khác thường. Mắt của Trinh Hòa “trong

như nước mùa thu, hai hàng mi nàng cong đẹp như vầng trăng mới mọc, tóc

nàng dài mướt óng ả như dòng suối mùa xuân… Nàng thực là một trang má

đào diễm sắc, khiến cho cá lặn, chim sa, hoa nhường vẻ đẹp”. Tác giả dân

gian đã dùng ngòi bút phóng đại ước lệ của mình để khắc họa vẻ đẹp đến phi

thường của nàng Ngọc Xiêm (Truyện nàng công chúa đời Trần) với “dung

mạo phương phi, dáng hình yểu điệu, môi hồng má phấn, mắt phượng mày

rồng, đều đáng là thần thánh trên cõi đời”. Nét đẹp của nàng khiến “chim sa

cá lặn, dáng nên nguyệt thẹn hoa nhường”. Vẻ đẹp ấy khiến Nghiêu Thuấn

phải thốt lên “trần gian nào có được người như thế”. Phải chăng vẻ đẹp của

nàng là “tinh khí của thủy đế long vương”, hội tụ những tinh tú của đất trời,…

mà không phải ai cũng sở hữu được?.

Nàng Quý Minh (Sự tích bà Quý Minh thời Trần) cũng mang trong

mình một vẻ đẹp hoa tuyết khác thường “mặt mũi tựa như hoa điểm tuyết”.

Vẻ đẹp ấy khiến cho tác giả dân gian phải ca ngợi là thần tiên giáng thế. Đó

còn là nhan sắc của nàng Càn Nương (Truyện tứ vị Thánh Nương) con gái của

ông bà Triệu Công Bình và Dương Thị Phấn được ví như “hoa đào mới nở

như nhụy ngọc thơm tươi”. Vẻ đẹp của nàng nhẹ nhàng và cao quý, chan chứa

hương thơm ngọt ngào của hoa đào. Hay trong Sự tích Nguyệt Nga công chúa

36

đã khắc họa vẻ đẹp của nàng Nguyệt Nga là con của bà Trần Thị Đạt và ông

Gia Công họ Nguyễn với “nhan sắc tuyệt trần”, “da ngài mắt phượng, tư cách

khác trần”. Và khi nàng được sinh ra đó là một điều kỳ diệu và tươi đẹp khi

“ngài sinh ra hoa thơm rực nhà”.

Truyền thuyết về nhân vật nữ còn thể hiện rõ nét vẻ đẹp sáng trong của

những người phụ nữ. Đó là nhan sắc của nàng Trắc Nương và Nhị Nương (Sự

tích Hai Bà Trưng), được dân gian ca ngợi là một nhan sắc nghiêng thành, “tư

dung tuyệt thế làm say hoa đắm nguyệt, cá lặn chim sa”. Cả hai nàng sở hữu

vẻ đẹp hoàn hảo và cân đối từ khuôn mặt cho đến dáng hình. Khuôn mặt của

hai nàng được so sánh như “mặt như gương ngọc, sắc tựa bình vàng, mày

ngài, mắt phượng, má phấn, môi son”. Vẻ đẹp ấy quả là xứng với tiên nữ

chốn Bồng Lai, chúa hoa ở Lãng Uyển, không phải là những người con gái

bình thường. Trong Sự tích hai anh em Uyên Mặc đại vương và Quang Dung

công chúa thời Hai Bà Trưng thì nàng Chu Nương mang một vẻ đẹp tuyệt mĩ

với “mặt tươi như kính ngọc, không hề vương một chút bụi, nhan sắc tựa hoa

mai”; còn nàng Xuân Nương thì sở hữu “mặt sáng như gương, môi son má

phấn, mắt phượng mày ngài, cổ cao ba ngấn”. Càng lớn lên thì diện mạo của

nàng càng khôi ngô, sắc đẹp tuyệt vời, một vẻ đẹp cân đối và hài hòa (Xuân

Nương công chúa). Trong truyện Sự tích Bát Nàn công chúa thì nhan sắc của

Thục Nương hay chính là Bát Nàn công chúa cũng giống như nhan sắc của

Xuân Nương. Đó là “mặt sáng như gương, mắt phượng mày ngài”. Nhan sắc

của nàng được dân gian xếp vào bậc tuyệt thế giai nhân, khiến cho những bậc

anh hùng thời ấy đều phải tấm tắc khen là: “Thánh nữ giáng trần”.

Không những sở hữu nét đẹp sáng trong mà các nhân vật nữ trong

truyền thuyết còn sở hữu vẻ đẹp gợi cảm lôi cuốn và đầy hấp dẫn. Đó là người

con gái họ Phùng tên Vĩnh Hoa được miêu tả với “dung mạo đoan trang,

gương mặt như bông phù dung tươi tắn, con mắt long lanh như ánh nước hồ

37

thu”. Nàng được tác giả dân gian ví như “cây xuân nẩy lộc” (Vĩnh Hoa công

chúa); hay nàng Tứ có “nhan sắc thắm tươi, hình dung yểu điệu, mặt tròn như

vành nguyệt, miệng cười như hoa nở, má phấn môi son” (Sự tích tướng quân

Lũ Lũy). Trong truyện Sự tích Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn thì nàng Lê Ả Lan có

vẻ đẹp “xinh tươi như hoa mới nở”. Khi trưởng thành nhan sắc của nàng càng

tuyệt đẹp “mặt hoa da phấn, mày ngài mắt phượng”.

Nàng Đào Nương có vẻ đẹp hấp dẫn nao lòng người “sắc đẹp của nàng

ví không như tiên nữ ở chốn bồng lai, cũng chẳng khác nào hoa thơm trong

vườn vua chúa… ” (Doãn Công – Đào Nương).

Vẻ đẹp gợi cảm hấp dẫn ấy còn được miêu tả đậm nét ở nàng Dương

Vân Nga trong truyện Hoàng hậu thời thơ ấu. Vẻ đẹp ngoại hình của nàng

không được khắc họa trực tiếp thông qua ngôn từ mà thông qua sự nhận xét

đánh giá của các nhân vật khác trong truyện. Qua cái nhìn của Đinh Bộ Lĩnh

và chú của ông thì Dương Vân Nga có “dáng người thon thả, gương mặt xinh

đẹp, thông minh, phúc hậu”. Nàng càng lớn càng xinh đẹp, trở thành một

thiếu nữ nổi tiếng xinh đẹp nhất vùng. Chính vẻ đẹp hấp dẫn ấy của nàng đã

khiến ông chú Đinh Bộ Lĩnh không kìm nổi vui mừng và thốt lên: “Trăm năm

duyên phận đây rồi!”.

Nhân vật nữ trong truyền thuyết còn mang vẻ đẹp đoan trang của người

phụ nữ phương Đông. Hai nàng Ả Tú và Ả Huyền “đều là người đức hạnh

đoan trang. Tinh thần trác lạc, dung mạo đẹp như tiên giáng trần, tinh thần nết

đất và có tướng lạ ai cũng thấy kì”. Vẻ đẹp đoan trang ấy đã làm say lòng biết

bao nhiêu anh hùng hào kiệt (Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ tướng

thời Hai Bà Trưng).

Vẻ đẹp đoan trang ấy là sự cân đối hài hòa từ khuôn mặt đến hình dáng

của nàng Ả Lã. Nàng Ả Lã là người con thứ hai của vua Trần Thánh Tông có

“vẻ mặt đoan trang, dáng người yểu điệu”. Vẻ đẹp ấy được nghệ sĩ dân gian

38

ca ngợi là sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành (Sự tích Ả Lã – đệ nhị công

chúa đời Trần).

Các nghệ sĩ dân gian còn thể hiện vẻ đẹp kì lạ khác thường ở các nhân

vật nữ trong truyền thuyết. Vẻ đẹp ấy được thể hiện sinh động qua bà Triệu

Thị Trinh (Bài ký về Lệ Hải bà Vương). Nếu như nhan sắc của các nàng Lê Ả

Lan, Nguyệt Nga, Thục Nương được ví von với ngọc với hoa, mắt phượng

mày ngài như tiên nữ giáng trần… thì ở nhân vật Bà Triệu lại thể hiện vẻ đẹp

lạ khác thường. Đó là “mặt hoa, tóc mây, mắt chậu, môi đào, mũi hổ, hàm én,

tay dài quá gối, tiếng như chuông lớn, mình cao chín thước, vú dài ba thước,

vòng lung rộng mười người ôm”. Vẻ đẹp của Bà Triệu còn phản ánh tín

ngưỡng phồn thực của nhân dân ta.

Đó là vẻ đẹp kì lạ khác thường của nàng Quế Nương và nàng Dung

Nương (Quế Nương và Dung Nương). Không giống như những cô gái khác

mang vẻ đẹp hồng hào của hoa đào của tuyết trắng mà hai nàng xuất hiện với

“mặt đỏ mày xanh” nhưng “nhan sắc rất đẹp”. Phải chăng vẻ đẹp kì lạ khác

thường của các nàng đã báo hiệu cho tương lai trong thiên hạ sẽ xuất hiện một

nữ tướng anh hùng tài ba?.

Để khắc họa chân dung nhan sắc của nhân vật nữ, các nghệ sĩ dân gian

còn thể hiện rõ vẻ đẹp trường tồn bất diệt của họ. Đó là nhan sắc không bị tàn

phai hủy hoại bởi giới hạn của thời gian của tuổi trẻ. Bà Man Thiện, mẹ đẻ

của hai vị nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng Nhị (Sự tích bà Man

Thiện) “nổi tiếng là người tài sắc song toàn, không những xinh đẹp mà còn

tinh thông võ nghệ, am hiểu quân cơ binh pháp”. Khi giặc đến mặc dù tuổi già

sức yếu vẫn trực tiếp chỉ huy tướng sĩ ra trận để chi viện cho các con chống

giặc. Tuy nhiên bị quân giặc đánh úp bà Man Thiện đã hi sinh bằng cách nhảy

xuống sông tự vẫn. Dân làng vớt lên vẫn thấy: “sắc diện hồng hào như khi

còn sống”. Như vậy dù là còn sống hay đã chết thì nhan sắc của bà vẫn giữ

39

nguyên, trọn vẹn, không hề thay đổi; đó còn là nàng Ý Hạnh (Bà Chén). Thuở

sinh ra nàng là cô gái rất xinh đẹp. Một hôm nàng đang làm cỏ ở ngoài ruộng

bỗng nhiên nước sông dâng lên rất nhanh tràn vào ruộng và cuốn Ý Hạnh đi

mất. Khi nước rút, người dân thấy nàng “hình dung vẫn tươi tắn như khi còn

sống, đặc biệt là bỗng dưng trên trán nàng có in hình một chiếc chén ngọc”.

Mặc dù đã chết nhưng những nhân vật nữ vẫn giữ được nguyên vẹn

nhan sắc của mình như khi còn trẻ thậm chí là còn xinh đẹp hơn nữa. Đó là

nàng Ngọc Xiêm (Truyện nàng công chúa đời Trần) mang vẻ đẹp “chim sa cá

lặn, dáng nên nguyệt thẹn hoa nhường”. Khi nàng chết đi từ đời nhà Lý đến

nhà Trần mà vẻ đẹp ngoại hình của nàng vẫn không thay đổi. Ở thôn Đống

Nước, già trẻ toàn dân đều mộng thấy thấy “một mỹ nhân xiêm y màu trắng”,

truyền bảo dân rằng mình là con của Long Vương Thủy phủ. Đến đời vua

Anh Tông nhan sắc của nàng vẫn xinh đẹp và sáng trong như thế. Vua lại mơ

thấy một “mỹ nhân xiêm ý toàn sắc trắng”, đứng trước mặt vua tâu rằng mình

là con của Long Vương Thủy phủ.

Trong truyện Đền cửa Càn Hải, ba mẹ con phu nhân họ Triệu do để

bảo toàn phẩm tiết mà đã cùng gieo mình xuống bể tự tử. Xác trôi đến cửa

Càn Hải thì vẻ mặt của họ vẫn tươi như lúc còn sống. “Thổ dân lấy làm lạ, vớt

lên tang, thấy rất hiển linh mới lập đền thờ”. Ở phần dị bản Truyện tứ vị

Thánh nương nàng Càn Nương cũng sở hữu vẻ đẹp như “hoa đào mới nở, như

nhụy ngọc thơm tươi” và khi chết đi rồi thì “nhan sắc vẫn như còn sống”; hay

nàng Nguyệt Nga cũng vì giữ trọn danh tiết của mình mà chọn cái chết nhảy

xuống cửa Càn Môn tự tử. Khi vớt xác lên thì “thi thể nàng xinh đẹp hơn lúc

còn sống” (Sự tích Nguyệt Nga công chúa).

Vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ có khi được khắc họa một cách rõ

nét chi tiết từ ngoại hình, khuôn mặt cho đến làn da nhưng cũng có khi chỉ

được miêu tả qua những câu khái quát ngắn gọn. Như khi nói về nhan sắc của

40

nàng Kiều Hoa, tác giả dân gian chỉ đưa ra nhận định: “thiên hương quốc sắc”

(Sự tích ba anh em một nhà làm tướng của Hai Bà Trưng); hay Phương Dung

được miêu tả “có vẻ đẹp đẽ, nhan sắc không ai sánh tầy” (Sự tích Phương

Dung công chúa thời vua Trưng); nàng Vũ Nương lại được khắc họa là

“người có nhan sắc” (Truyện nàng Vũ ở huyện Nam Xương). Dù được miêu tả

chi tiết hay khái quát thì các nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian đều

mang vẻ đẹp khuynh nước khuynh thành, vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân.

Như vậy, thông qua việc miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của các nhân vật

nữ, các nghệ sĩ dân gian đã bày tỏ quan niệm của mình về cái đẹp. Cái đẹp là

sự kết hợp hài hòa các yếu tố tự nhiên và thể hiện ý nghĩa của cuộc sống. Vẻ

đẹp của những người phụ nữ chính là hiện thân của vẻ đẹp cuộc sống.

3.2. Phẩm chất, tài năng

Cũng giống như trong thời kì xây dựng đất nước thì nhân vật nữ trong

thời kì bảo vệ đất nước không những nổi bật ở vẻ đẹp ngoại hình, diện mạo

mà còn được các nghệ sĩ dân gian ca ngợi, thán phục về phẩm chất và tài năng

của họ.

Truyền thuyết dân gian đã ca ngợi và khẳng định tài năng vô song của

những người phụ nữ. Trước hết là tài năng quân sự và chiến đấu. Hai Bà

Trưng (Truyện Hai Bà Trinh linh phu nhân họ Trưng) khi chứng kiến cảnh

giặc thi hành những chính sách độc ác và tàn bạo để chà đạp, đàn áp nhân dân

ta thì hai Bà đã quyết đứng dậy khởi nghĩa. Bằng trí tuệ, khả năng nhìn xa

trông rộng, tài cầm quân mà Hai Bà Trưng đã kêu gọi được các anh hùng hào

kiệt đến từ khắp mọi ngả của đất nước cùng chung tay góp sức để giết giặc.

Ai có tội thì phải chịu phạt, người lập công thì sẽ được thưởng. Vì vậy khi các

tướng lĩnh đánh thắng trận trở về bà đều phong cho họ các chức danh. Một

mặt để khích lệ tinh thần các thủ lĩnh, mặt khác tránh tình trạng các tướng

tranh giành quyền lực, mâu thuẫn nội bộ, ảnh hưởng đến cuộc chiến chống

41

xâm lược của đất nước. Được sự ủng hộ của nhân dân, quân sĩ đồng lòng mà

Hai Bà Trưng đã giành được 65 thành ở Lĩnh ngoại, tự tôn làm vua và lấy

hiệu là Trưng Vương, đóng đô ở thành Ô Diên. Trong dị bản Trưng Vương,

tác giả dân gian đã ca ngợi tài năng của Hai Bà Trưng: “Than ôi! Một đôi nữ

anh hùng nước Nam, tuy vì tài liễu yếu đào tơ, không làm được công nghiệp

oanh oanh liệt liệt, nhưng biết giận kẻ tàn ác, khởi binh đánh đuổi đi, cùng

lừng lẫy được một thời mà lưu danh thiên cổ, gây dựng nền độc lập cho đời

sau; khá khen thay! khá khen thay!”.

Nàng Xuân Nương (Xuân Nương công chúa) được tác giả dân gian ca

ngợi là diện mạo khôi ngô sắc đẹp tuyệt vời. Tuy là con gái nhưng võ nghệ lại

rất tài, có sức khỏe, bắn cung giỏi, múa kiếm sành so sánh với bậc con trai thì

khó có người theo kịp. Nàng khiến cho mọi người trong làng đều tôn phục mà

gọi nàng là con gái họ Hùng, tiếng tăm lừng lẫy. Tài năng của nàng còn khiến

các tù trưởng, thổ hào ở các nơi châu động đều mến phục tài ba. Vì thế mà

trong nhà nàng thường có tới chục thị nữ cùng học tập và tôi luyện võ nghệ để

trở nên người tài giỏi.

Nàng Vĩnh Hoa người con gái họ Phùng, dưới thời thuộc Hán từ nhỏ đã

được học tập võ nghệ lại đọc sách ngâm thơ, người người biết tiếng. Tuy là

phận gái nhưng Vĩnh Hoa chỉ ham thích ruổi ngựa bắn cung, tìm hào kiệt trong

đời để kết bạn. Nàng thường nói: “Lưỡi kiếm trong tay phải tắm máu giặc, có

ngày quét sạch giặc Hán ra khỏi bờ cõi, chí lớn của ta là như thế!”. Vì thế mà

khi cha mẹ qua đời, Vĩnh Hoa đã trao cả gia sản cho ông cậu, nàng một ngựa

một kiếm lần bước ra đi. Sau này Vĩnh Hoa đã đi theo Hai Bà Trưng phất cờ

khởi nghĩa và làm nên những chiến thắng lớn (Vĩnh Hoa công chúa).

Trong truyện Dị bản: Bà thiếu phó, ca ngợi bà Bùi Thị Xuân quê ở

Bình Định một nữ tướng anh hùng. Bà sống trong gia đình có truyền thống võ

nghệ, nên bà được tập luyện thành thạo nhiều môn võ bí truyền, giỏi bắn

42

cung, cưỡi ngựa và biết huấn luyện cả voi. Hai vợ chồng bà đều được cháu

Tây Sơn rất tin cậy. Bùi Thị Xuân là nữ tướng tài ba, lúc đầu làm chức Đô

Đốc trong quân, sau thăng lên làm thiếu phó, cùng tước vị với chồng. Đến khi

bị giết bà vẫn hiên ngang và đầy sự thách thức.

Viết về tài năng của các nhân vật nữ, truyền thuyết còn ca ngợi họ với

tài năng văn học, ca hát. Đó là nàng Xuân Nương (Xuân Nương công chúa),

“tuy còn ít tuổi nhưng nàng có những tính tình khác thường hay chơi đàn hát,

hay đánh cờ và ham đọc thơ ca”. Ở nàng có đầy đủ bốn đức tốt của người con

gái đó là “công, dung, ngôn, hạnh”.

Đó còn là nàng Côn Nương (Nữ tướng Côn Nương), mới có mười hai

tuổi nhưng nàng đã thông suốt văn chương. “Chỉ cần đi bảy bước nàng có thể

làm xong một ánh thơ tuyệt tác”. Đến tuổi mười năm, trí thông minh và vẻ

anh hùng của Côn Nương thật chẳng mấy đấng nam nhi theo kịp. Ai cũng cho

rằng nàng hẳn không phải người thường.

Tài năng văn học ca hát còn thể hiện ở nàng Hát trong truyện Nàng Hát

hay làm quay muôn giáo. Khi nàng cất tiếng hát nên làm trái tim bao người

thổn thức. Tiếng hát ấy làm say mê muôn người. Tương truyền , “khi nàng cất

tiếng hát thì chim khắp nơi về đậu quanh hội vật, nàng hát làm tắt nắng, làm

trăng chao đảo, làm sao vật vờ, làm người sắp chết sống lại, làm trai gái mê

mệt lắm cổ tay nhau… Nàng có thể hát đêm này qua đêm khác, ngày này qua

ngày khác. Các đạo, các lộ đều nghe thấy, vì rằng không riêng miệng nàng hát

mà cả mái tóc dài mượt như nhung sực nức mùi thơm của nàng, mỗi sợi đều

cất lên những âm thanh tuyệt vời hòa theo”. Tài năng ca hát của nàng không

chỉ để khắc họa thêm vẻ đẹp chân dung của nàng mà còn góp phần vào sự

nghiệp đánh giặc của dân tộc. “Nàng hát làm giặc ngơ, bàng hoàng, buông

gươm hàng phục hoặc quay giáo chạy dài”. Tiếng hát và sắc đẹp của nàng

43

khiến chúng mê mệt bàng hoàng thua chạy. Tài năng ca hát ấy chính là một

trong những vũ khí sắc bén để tiêu diệt giặc.

Truyện Liễu Hạnh tiên chúa kể về nàng Giáng Tiên không những có

nhan sắc lạ thường mà còn rất thông minh, tài nghề âm nhạc, thường làm ra

ca từ bốn mùa, lựa vào khúc đàn để chơi. Đó là “Xuân Từ, Hạ Từ, Thu Từ,

Đông Từ”. Trong Xuân Từ nàng đã viết: “Cảnh như vẽ, khéo ai bày? Hoa đào

mỉm miệng liễu giương mày. Bướm nhởn nhơ bay, oang vàng líu lo trong bụi,

én đỏ ríu rít trên cây. Buồng xuân dìu dặt mối tình ngây, đề thơ này!”.

Các nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những người thông

minh và tài giỏi. Đó là những nàng Ả Tú, Ả Huyền và Thượng Cát (Sự tích Ả

Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ tướng thời Hai Bà Trưng). Cả ba bà không

chỉ được ca ngợi đẹp như tiên giáng trần mà còn là những bậc “phong tư tuấn

nhã, khí bẩm hơn người”. Năm mười tám tuổi, cả ba bà đều kết bạn học tập,

ngày thường ở riêng một nhà học tập, xem sách, học một biết mười, thực sự là

bậc sinh ra đã biết lại hay đàn sáo, tinh thông âm luật, giỏi võ nghệ thuộc trận

môn, mấy bộ binh thư đều thuộc làu. Tài năng của các bà đã được tác giả dân

gian ca ngợi: “Đích nhiên là những bậc trên giời họa có, dưới đất hẳn không”.

Nàng Thục Nương (Sự tích Bát Nàn công chúa) không những khiến

mọi người mê mệt vì nhan sắc mà người ta còn ngưỡng mộ về trí thông minh

của nàng. Thục Nương càng lớn lại càng thông minh một cách kì lạ. Nàng đọc

sách khắp cả Chư tử Bách gia không sách nào không thiệp liệp qua, lại giỏi

đường gươm mũi giáo, khiến cho những bậc anh hùng thời ấy đều phải tấm

tắc khen.

Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những con người có

đời sống tâm hồn cao đẹp. Họ là những người rất dịu dàng nhưng cũng rất

thẳng thắn và cương trực. Bà Triệu, tên húy là Trinh, người đất Trung Sơn,

huyện Cửu Chân (Bài ký về Lệ Hải Bà Vương) là người tài giỏi xuất chúng

44

“chân đi một ngày năm trăm dặm, sức có thể khua gió bạt cây, tay đánh chân

đá như thần, lại có sắc đẹp làm động lòng người”. Thế nhưng bà cũng là

người ngang tàng và thẳng thắn. Mỗi khi và phật ý thì chẳng có ai cưỡng lại

nổi. Khi cha mẹ qua đời, bà Triệu ở cùng với anh trai. Gặp phải chị dâu là

người không tốt tính, bà tức giận giết chết luôn. Người anh lúc đó giận lắm,

bà bèn chia bếp, vào rừng ở tự làm kiếm sống. Đến năm hai mươi tuổi bà vẫn

chưa muốn lấy chồng, có chí mưu việc lớn. Bà bỏ tiền của ra cấp cho tân

khách, chiêu kết hội đảng. Do đó, người anh trai đã khuyên bà là con gái thì

không nên hào phóng. Bà ngang tang không chịu nghe theo và đáp lại:

“Người ta sống trong cõi bụi hồng, như mầm cây như nhánh cỏ vậy, từ tươi

đến héo chỉ trong nháy mắt, từ lúc thanh xuân đến khi già cỗi nhanh chóng

như bay, hà tất phải bận tâm”. Người con gái Triệu Trị Trinh khẳng định:

“Em chỉ muốn cưỡi gió đạp sóng, chém cá kình ở biển Đông, quét sạch giặc ở

bờ cõi, cứu dân ra khỏi cảnh chìm đắm. Há lại bắt chước người đời, cúi đầu

khom lưng làm tỳ thiếp kẻ khác, can tâm phục dịch ở trong nhà hay sao?”.

Đó là nàng Nguyệt Nga (Sự tích Nguyệt Nga công chúa) đệ tam cung

phi triều Tống. Khi nghe tin vua Nghệ Tông bị nước Tề đem binh mã tới đánh

và bị thua phải đem gia quyến chạy trốn đi các nơi thì nàng vô cùng đau lòng

đành phải cùng với một bọn thị nữ thuê thuyền trở lại nước Nam nhà. Khi đi

về đến cửa Càn Môn, nàng cùng thị nữ đóng thuyền lại vào chùa xem cảnh và

xin nước uống. Trời sắp tối và nàng tạm biệt sư thầy để về. Nàng đi được vài

dặm thì gặp bọn côn đồ hơn mười đứa đi săn. Thấy nàng nhan sắc tuyệt vời,

chúng nhảy xuống thuyền chực hãm hiếp. Ban đầu nàng cố dụ chúng bằng

những lời ngon ngọt với ý định cảm hóa bọn chúng. Nhưng thấy chúng là một

loại ác thú nên nàng đã xỉ mắng chúng và nhảy xuống cửa bể Càn Môn tự tử.

Nàng thà chọn cái chết, giữ trọn trinh tiết chứ không thể để mình bị ô nhục.

45

Trong truyện Quế Nương và Dung Nương, hai nàng Quế Nương và

Dung Nương không những “thông minh tài giỏi, thiên văn địa lý am tường võ

nghệ cũng thành thạo”. Khi giặc Ma Na sang xấm lấn nước ta thì hai nàng đã

quả cảm đi đầu “hai dũng tướng Quế Nương và Dung Nương đem quân đi

đường bộ, ra trước để khiêu chiến”; nàng Châu Nương (Châu Nương phu nhân)

mặc dù bị giặc vây hãm nhưng nàng vẫn tỏ ra thản nhiên và ngoan cường “bình

tĩnh, gan dạ không hề nao núng cùng chồng bảo vệ thành Diễn Châu”.

Sau khi thu phục được sơn hà, vua Gia Long ra lệnh xử tử Trần Quang

Diệu và vợ của ông là Bùi Thị Xuân. Trước khi nhận cái chết mặt bà không

hề bị thay đổi sắc mặt. Tương truyền rằng lúc bà bị đem ra hành quyết, bà

Xuân vẫn thắt dải lụa điều, uy nghi lẫm liệt tiến ra làm mấy con voi phải sợ,

co vòi lại không dám hại bà. Bọn đao phủ ra lệnh cho bà phải quỳ xuống để

con voi dễ quấn nhưng bà quyết không quỳ, cứ bước tới như hăm dọa. Mặc

dù thanh danh của bà bị bôi nhọ thế nhưng nhân dân vẫn bày tỏ lòng kính

phục bà (Dị bản: Bà thiếu phó).

Nét đẹp chịu thương chịu khó, nết na và hiếu nghĩa còn là vẻ đẹp chung

của các nhân vật nữ trong truyền thuyết. Nàng Thiều Hoa (Sự tích Thiều Hoa

công chúa) thật khiến chúng ta kính trọng bởi tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ.

Thiều Hoa nhất đinh không chịu đi lấy chồng mà ở nhà phụng dưỡng cha mẹ

cho trọn đạo hiếu để đền ơn sinh thành. Sau khi cha mẹ mất, nàng an táng

xong cho cha mẹ thì bỏ nhà và tìm chỗ danh lam để tu hành. Thiều Hoa rất

siêng năng thành kính về việc thờ cúng, ngày hai buổi sớm tối tụng kinh niệm

Phật nhưng ban đêm thì học tập binh thư. Nàng còn cần kiệm làm giàu cho

nhà chùa và làm phúc cho những người nghèo khó. Vì nàng có hằng tâm như

thế nên dân gian ai cũng có lòng kính ái; nàng Bầu (Bà chúa Bầu) được sinh

ra từ quả bầu thần kì. Nàng đã xin nhận bà cụ trồng cây bầu là mẹ nuôi. Từ đó

hai mẹ con sống với nhau rất êm ấm, bà cụ ở nhà chăn nuôi gà lợn nấu cơm

46

còn nàng Bầu thì đi nương đi rẫy tỉa lúa trồng khoai. Những đêm trăng tỏ

tiếng sáo của bọn trai làng cứ rộn rã quanh nhà. Nhưng hình như nàng không

bao giờ để ý đến tiếng sáo của bất cứ ai gọi đi chơi đi hát. Nàng chỉ biết ở nhà

chăm lo và phụng dưỡng cho mẹ già; đó còn là nàng Dưỡng (Ba chị em bà

Dưỡng) sinh ra trong gia đình nghèo khó. Công việc của gia đình bà là lên

rừng hái củi đem bán làm kế độ thân. Leo đồi, trèo cây, vác củi nhiều nên

nàng Dưỡng càng thêm khỏe mạnh. Khi cha mất nàng trở thành trụ cột gia

đình, thay mẹ chăm sóc các em. Chính hoàn cảnh nghèo khó ấy mà đã tôi

luyện ý chí, sự chịu thương chịu khó của người phụ nữ.

Như vậy, những nhân vật nữ trong truyền thuyết về chủ đề bảo vệ đất

nước được ngợi ca ngợi cả về tài năng và phẩm chất. Họ tài giỏi, thông minh,

đảm đang và biết chăm lo cho gia đình. Ở mỗi nhân vật nữ ta thấy có sự kết hợp

hài hòa giữa tài năng đức độ và đời sống tâm hồn cao quý. Những nhân vật nữ

vẫn sống vui vẻ và hạnh phúc trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Chính

những điều ấy đã làm nên phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

3.3. Hành trạng

Khi đất nước có giặc ngoại xâm thì toàn dân cùng đứng dậy khởi nghĩa

tham gia đánh giặc. Đó là ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần quật

cường dân tộc mạnh mẽ của nhân dân ta mà tiêu biểu là các anh hùng chống

giặc ngoại xâm. Bên cạnh các nam anh hùng hào kiệt như Thánh Gióng, Trần

Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Nguyễn Huệ,… thì thời đại còn xuất hiện

những nữ anh hùng. Họ đã có những đóng góp to lớn và quan trọng góp phần

làm nên chiến thắng cho lịch sử nước nhà.

Mở đầu sự nghiệp chống xâm lược ở thời Bắc thuộc đó là cuộc khởi

nghĩa đầy gian nan và hào hùng của nhân dân ta cùng Hai Bà Trưng chống lại

quân nhà Đông Hán để giành lại chủ quyền cho nước nhà. Sau đó là hệ thống

các truyền thuyết về cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng là biểu hiện điển hình

47

của tinh thần đoàn kết chiến đấu, chủ nghĩa anh hùng tập thể và truyền thống

toàn dân đánh giặc. Điều đặc biệt là đứng đầu các cuộc khởi nghĩa này là phụ

nữ. Đây là một điều hết sức vẻ vang cho phụ nữ Việt Nam như Hồ Chủ tịch

đã nói “Hai Bà Trưng đã để lại cho phụ nữ Việt Nam một truyền thống vẻ

vang là dũng cảm chiến đấu” (Thư Hồ Chủ tịch gửi phụ nữ nhân kỷ niệm Hai

Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ 8/3/1952). Truyền thống vẻ vang đó cũng

là truyền thống “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, một truyền thống vô cùng

độc đáo của dân tộc Việt Nam mà Hai Bà có vinh dự mở đầu.

Lời thề thứ nhất của Bà Trưng trước khi xuất quân đánh quân xâm

lược nhà Hán là quyết rửa sạch mối thù của Tổ quốc, trước là đền nợ nước,

sau mới trả thù chồng:

“Một xin rửa sạch nước thù

Hai xin đem lại nghiệp xưa họ hùng

Ba kẻo oan ức lòng chồng… ”

Hành động đầu tiên của Bà trước khi lên đường giết giặc cứu nước là

bỏ khăn tang để ba quân khỏi xúc động về cái chết của chồng bà. Những lời

nói và hành động ấy chính là biểu hiện cao độ ý chí quyết chiến quyết thắng

quân xâm lược. Nếu ta lại biết thêm rằng những lời nói và hành động ấy chỉ

có ở trong truyền thuyết dân gian mà không có ở trong chính sử, thì ta càng

thấy ý nghĩa tư tưởng của những biểu hiện ấy còn được nhân lên biết bao

nhiêu lần.

Những trận đánh liên tiếp từ Lãng Bạc đến thành Mê Linh, thành Dền,

sau đó lui về đất Cẩm Khê đều có sự tham gia nhiệt tình của các nữ tướng.

Hai Bà Trưng không chỉ có tài chỉ huy mà khi ra chiến trận họ là những anh

hùng dũng mãnh và quả cảm. Cuộc chiến đấu ở Lãng Bạc đã gây thiệt hại cho

cả hai bên vì thế mà bà Trưng Trắc đã lui về thành Mê Linh còn bà Trưng Nhị

lại đưa quân trấn giữ ở thành Dền. Thành Dền là một đồn quân quan trọng

48

được củng cố vững chắc để bảo vệ cả hai thành Mê Linh và thành Dền. Giặc

Hán muốn chiến thắng được thì phải đánh đổ được hai thành này. Chính vì

thế bọn chúng đã tăng cường lực lượng vây hãm ở thành. Nhân dân ta cùng

Hai Bà Trưng chống trả quyết liệt và bảo vệ được thành Dền. Tuy nhiên trong

nhiều ngày tháng kéo dài, các trận chiến đấu liên tiếp xảy ra, quân địch bị

thiệt hại và quân ta cũng suy yếu. Hai bà quyết định rút quân khỏi thành Dền

và lui về đất Cẩm Khê để định mưu kế đánh giặc lâu dài (Bà Trưng Nhị và

thành Dền). Hai bà đã thắp lên ngọn lửa chống ngoại xâm của dân tộc Việt

Nam. Quyền tự chủ đất nước do hai bà mang lại dù ngắn ngủi song hai bà đã

khắc hoạ vào lịch sử và tâm thức người dân Việt Nam tấm gương trung nghĩa,

anh hùng làm vẻ vang cho nữ giới và dân tộc.

Nối tiếp tinh thần truyền thuyết Hai Bà Trưng, là tinh thần yêu nước

chiến đấu của nàng A Nương (Khâu Ni công chúa). Khi nàng mười sáu tuổi

thì cha mẹ đều mất, nàng không muốn lấy chồng mà dốc lòng mộ đạo Phật.

Khi thấy Tô Định làm nhiều điều càn rỡ đối với nhân dân thì nàng quyết đi

theo lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, đứng trong hàng ngũ chờ ngày giết giặc:

“Cà sa đổi lấy giáp chinh,

Quanh vùng chiêu nạp nghĩa binh mấy ngàn”

Từ là một cô gái hiền dịu mặc áo cà sa giờ đây A Nương đã trở thành

nữ tướng hùng dũng trên chiến trận. Trận đánh của nàng khiến đồn giặc tan

vỡ, quân giặc chạy tán loạn, chúng bị chết rất nhiều. Sau khi đất nước được

thanh bình thì nàng được phong là “Khâu Ni công chúa”. Nhân dân đã lưu

truyền câu ca kể về chiến tích của bà ở thành Luy Lâu khiến giặc vô cùng

hoảng sợ:

“Từ Bạch Hạc ngã ba sông,

Quách A tả tướng tiên phong cờ đầu.

Tiến quân về Luy Lâu vây hãm,

49

Cùng hữu tướng dũng cảm lập công”.

Tinh thần yêu nước ấy còn được thể hiện ở nàng Thục Nương (Sự tích

Bát Nàn công chúa). Đứng trước cái chết của cha và chồng của mình do quân

Tô Định giết thì nàng đã tỏ thái độ căm phẫn. “Thục Nương hai tay cầm hai

thanh kiếm chém mươi thủ cấp tỳ tướng của Tô Định” trốn chạy ra khỏi vòng

vây. Nàng giả làm người tu hành, ra sức hô hào tập hợp anh tài bốn phương,

tích trữ lương thực khí giới để giết Tô Định trả nợ nước thù nhà. Thục Nương

từng nói rằng: “Nếu con mà không báo thù được cho cha thì không phải là

người con có hiếu. Không lấy nghĩa mà trả thù cho chồng thì tất là lỗi đạo làm

vợ”. Nàng tự xưng là Bát Nàn đại tướng quân, đánh nhau với Tô Định mấy

chục trận, trận nào cũng khiến giặc thất bại. Ngay khi gặp Bà Trưng đứng dậy

phất cờ khởi nghĩa thì Thục Nương bèn đem quân gia nhập đoàn quân của Hai

Bà đi diệt thù. Từ ấy, quân đội của Thục Nương càng mạnh khiếp quân giặc

ra trận là khiếp sợ (Sự tích Bát Nàn công chúa).

Nàng Thiều Hoa (Thiều Hoa công chúa) sống trong thời đại khói lửa,

nàng đã từng cầm lao xông tới đám giặc đang hãm hại, tàn sát dân lành. Từ là

một ni cô nàng đã trở thành nữ tướng hào kiệt theo Hai Bà Trưng phất cờ khởi

nghĩa. Bà được phong là “Đông cung tướng quân” trong trận chiến Luy Lâu.

Trận đánh thắng lợi, quân Tô Định thất bại thảm hại.

Trong truyện Xuân Nương công chúa, nàng Xuân Nương khi chứng

kiến chính sách bạo ngược, tham tàn, nhiễu hại nhân dân của nhà Hán thì

nàng vô cùng căm giận. Nàng đã quyết định trở thành một ni sư để chiêu dụ

các anh hùng hào kiệt. Xuân Nương là người có tài, có đức, có lòng rộng

lượng, kính già yêu trẻ vì thế mà được nhân dân yêu mến: “Nàng tu ở chùa

này chưa đầy một năm trời, nhân dân trong vùng biết tiếng đều quý mến đạo

đức và tài năng của nàng. Người ta ví công đức của nàng như trời cao biển

rộng”. Nàng ở trong chùa giả làm sư tu đạo nhưng kì thực là luyện tập binh cơ

50

chờ thời khởi sự. Xuân Nương tổ chức các cuộc thi bách nghệ, cho quân

luyện tập ở trên bãi Già bến Đông. Nàng cho thiết lập hai ngôi cung sở, nơi

thượng cung là nơi ở của nữ binh, còn hạ cung thì thập bộ và nam binh đóng.

Nàng lại cho lập thêm bốn đòn nhỏ, chính cung của nàng ở giữa, trước cửa

cung có hồ bán nguyệt, đằng sau có gò cao để nàng tắm gội. Nơi đây an toàn

và thuận lợi để bà cùng các nhân tài nghĩa sĩ hội ngộ gặp mặt. Nhờ lấy được

lòng dân mà các trận đánh của bà đều thắng lợi. Tuy nhiên đất nước mới

thanh bình được hơn hai năm thì nhà Đông Hán lại sang xâm lược nước ta lần

nữa. Nàng tấn công giặc đầy hiên ngang “xông thẳng vào giữa trung quân của

giặc… chém được hàng trăm đầu giặc… Nàng phi ngựa múa gươm như vũ

bão”. Vào ngày mười năm tháng hai âm lịch nàng đã hóa trên lưng ngựa.

Nàng Côn Nương là con của vợ chồng Ngô Hoàng và Cao Nương khi

chứng kiến bọn giặc mà đứng đầu là Thái thú Tô Định, một kẻ mặt người dạ

thú sang cướp bóc và ức hiếp dân làng thì nàng đã quyết tâm giết chúng. Càng

căm tức hơn khi nghe tin Tô Định đã giết cha mình, lòng uất hận của Côn

Nương bốc cao rừng rực như lửa cháy ngàn khô. Trước toàn thể dân làng,

Côn Nương đã tuyên bố: “Thù giặc Hán lúc nào cũng treo trước mặt tôi. Thế

cùng trời đất, nếu không rửa được thù, thì một mai tôi chết, xin không được

nhắm mắt”. Côn Nương đã giả làm sư trông coi chùa làng để có chỗ yên ổn

mà chiêu mộ anh tài. Đội quân của Côn Nương chẳng mấy chốc mà lên tới

hàng vạn người. Nghĩa quân đi đến đâu đất nước giải phóng đến đó. Tô Định

khiếp đảm, bỏ cả quân sĩ mà lê về Bắc quốc (Nữ tướng Côn Nương).

Tinh thần chiến đấu quật cường giết giặc vì nước nhà còn được khắc

họa rõ nét ở nàng Phật Nguyệt (Đinh Thị Phật Nguyệt). Năm mười bảy tuổi,

Phật Nguyệt đã thể hiện rõ mình là người dũng cảm khí phách. Khi thấy chính

sách cai trị của Tô Định bạo ngược khiến nhân dân cực khổ thì nàng lập tức

chiêu mộ được hai nghìn người lập thành một đội nghĩa quân mang về đất Mê

51

Linh để yết kiến Hai Bà Trưng, và được phong là “Phật Nguyệt chức Thao

giang thượng Tả đạo tướng quân”. Quân nàng đi tới đâu thì giặc tan tác tới

đó. Khi dẹp xong Tô Định thì nàng được vua phong tước công chúa. Hàng

ngày, Phật Nguyệt cho luyện tập thủy binh từ ngòi cái ra tới sông Hồng. Khi

Mã Viện sang xâm lược nước ta lần nữa thì Phật Nguyệt cùng các tướng sĩ đã

anh dũng chiến đấu hết mình. Nhân dân ta đã ca ngợi chiến công của bà:

“Từ Hanh Cù vòng sang Vũ Yển,

Nàng Phật Nguyệt giữ tuyến Thanh Ba.

Chống giặc Tô, Viện gian tà,

Thủy binh tả tướng xông pha vẫy vùng.”

Khi nói đến gương anh hùng liệt nữ, đến truyền thống đấu tranh xâm

lược của ngoại bang, người Việt Nam qua nhiều thời đại không quên nhắc đến

cái tên Bà Triệu bên cạnh các gương liệt nữ khác như Hai Bà Trưng...

“Muốn coi lên núi mà coi

Có Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng”.

Bà họ Triệu, tên húy là Trinh, sức của bà có thể “khuya gió bạt cây, tay

đánh chân đá như thần”. Bà là người rất ngang tàng và khảng khái. Bà đã từng

nói với anh của mình: “Em chỉ muốn cưỡi gió đạp sóng, chém cá kình ở biển

Đông, quét sạch giặc ở bờ cõi, cứu dân ra khỏi cảnh chìm đắm. Há lại bắt

chước người đời, cúi đầu khom lưng làm tỳ thiếp kẻ khác, can tâm phục dịch

ở trong nhà hay sao?”. Sau khi anh trai bà mất thì mọi người tôn bà Triệu làm

chúa để chống quân Ngô. Trong đại hội để chấn chỉnh quân đội, bà đã nói với

các tướng rằng: “Các ông thấy anh ta mất, không hiểm ta là phận gái mà lập

ta là chúa, ấy là vì thấy ta có đôi chút khả thủ. Nay ra ra mệnh lệnh trọng yếu

trong quân ngũ. Ai nghe theo mệnh lệnh thì có trọng thủ, ai trái lại mệnh lệnh

thì có nghiêm hình. Làm việc gì đã có quân pháp thì nên giữ gìn”. Dân gian

đã khắc họa hình ảnh của Bà Triệu khi ra trận đầy oanh liệt. Bà thường vắt vú

52

ra sau vai, dùng lụa quấn chặt vào lưng, mặc váy vàng, đi guốc ngà, đứng trên

đầu voi, thanh thế dũng liệt, chẳng kẻ nào dám chống chọi. Bà được đặt tên

hiệu là Nhụy Kiều tướng quân và dân gian có câu hát rằng:

“Kiều Kiều nữ tướng quân

Tiếng tăm động phong trần

Làm tướng Ngô mất vía

Sắc đẹp động nhân tâm”.

Khi ra trận, Bà Triệu đi trước quân lính. Bà hướng vào đâu thì như đi

vào nơi không người. Giặc Ngô bấy giờ mới sợ và không dám hứng lấy mũi

tiến công nhọn sắc ấy nữa. Chúng kêu lên “Lệ Hải Bà Vương” rồi bỏ chạy mà

không dám nhìn. “Ngang con mắt nhìn cọp thì dễ, e rằng hướng nhìn lên Bà

Vương thì khó” đó là câu nói mà giặc truyền tai nhau khi nhận xét về Bà

Triệu (Bài ký về Lệ Hải Bà Vương).

Đất nước đang thanh bình bổng lại nổi cơn gió bụi. Giặc Lương lại ồ ạt

kéo quân sang xâm lấn nước ta. Hoàng hậu Hứa Trinh Hòa cũng được giao

binh quyền tham gia trận mạc. Mỗi lần giáp trận người ta đều thấy vị nữ

tướng đi tiên phong. Kẻ thì trông thấy bóng quần hồng nhiều phen đã phải

hồn xiêu phách lạc (Hoàng hậu nước Vạn Xuân). Nàng Ả Tú, Ả Huyền,

Thượng Cát (Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ tướng thời Hai Bà

Trưng). Ngay khi nghe tin Bà Trưng chiêu mộ tướng tài để đánh Tô Định thì

ba bà đã hội họp thầy tớ trong nhà được 52 người, tới ứng mộ lập công. Họ

chính là những nữ anh hùng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đó còn là nàng

Ả Lan (Sự tích anh hùng của hai chị em Ả Lan và Lê Anh Tuấn), nàng Hát

(Nàng Hát hay làm quay muôn giáo)… đã dùng tài năng và ý chí góp sức

mình vào vận mệnh chung của đất nước.

Nối tiếp tinh thần quả cảm kiên cường của Hai Bà Trưng, Bà Triệu là

hình ảnh kiên cường của cô bé Trần Ngọc Hoa, chín tuổi. Tinh thần yêu nước,

53

ý chí chiến đấu của Ngọc Hoa thật đáng để người đời ngưỡng mộ khi người ta

tương truyền rằng cô đã theo Lý Thường Kiệt vào dẹp giặc Chế Ma Na ở

Chiêm Thành vào năm 1103. Đặc biệt hơn nữa khi không ai biết được dòng

dõi, gia thế của cô “chỉ biết cô ở trại Đại Bi, sau đó có tên là Đại Yên. Cô tha

thiết xin theo việc quân cho được”. Trước thái độ kiên quyết ấy thì Lý

Thường Kiệt không thể nào từ chối mặc dù ông còn không biết với độ tuổi

nhỏ như thế thì Ngọc Hoa sẽ làm được việc gì giúp nước nhà. Mặc dù nhỏ

tuổi nhưng bằng sự lanh lợi và thông minh, Ngọc Hoa trở thành người dẫn

đầu trong trận chiến. Cô giả trang đóng vai bán trầu cau và thuốc lào, liên lạc

làm mê hoặc bọn quân địch rồi phát ám hiệu để quân ta tập kích thành công.

Với sự mưu trí đó mà quân ta đã toàn thắng. Tuy nhiên trên đường khải hoàn

cô bé đã hóa mà không để lại dấu vết hay lời dặn dò gì. Và để bày tỏ tấm lòng

biết ơn thành kính đến Ngọc Hoa, ở đình Đại Yên đã khắc tượng và có một số

câu đối ca ngợi công trạng đánh giặc cứu nước của cô bé:

“Nhất trận hoàn quân, điện Yên vũ trụ;

Cửu linh phá tặc, phù Lý giang sơn”.

(Một trận thắng hồi quân, giữ vững bờ cõi Đại Yên

Chín tuổi thơ dẹp giặc, phò trợ non sông nhà Lý).

Hay

“Tuế ký Long phù, hách tán Ma Na tặc;

Sắc tuyên Phượng các, vinh diệu Đại bi khu”.

(Tuổi chép thuở Long phù, dẹp tan giặc Ma Ná

Sắc truyền từ gác phượng, rạng rỡ khu Đại Bi).

Hình ảnh của cô bé Ngọc Hoa đầy sức sống và kiên trung như vượt lên

giữa bão táp của chiến tranh, thức tỉnh nhân dân cùng hòa mình vào trận chiến

của dân tộc để làm nên những chiến thắng oanh liệt, vẻ vang (Đại Yên và

chuyện Trần Ngọc Hoa).

54

Trong Châu Nương phu nhân, ta bắt gặp nàng Châu Nương đã vượt lên

bị kịch mất đi người thân mà sẵn sàng xả thân vì nước nhà. Bị giặc vây riết,

tình hình rất nguy nan nhưng nàng vẫn “bình tĩnh, gan dạ không hề nao núng,

giúp chồng bảo vệ chắc thành Diễn Châu, làm một hậu phương tốt. Do đó

Thái Bảo có điều kiện chuẩn bị phản công”. Tuy nhiên khi nghe tin Thái Bảo

tử trận thì nàng khóc lóc thảm thiết. Nhưng nỗi đau ấy không khiến nàng bi

lụy mà càng tiếp thêm sức mạnh quật cường quyết tâm chiến đấu để cứu nước

trả thù cho chồng. Nàng tâm niệm “trời sinh ta là gái nhưng ta nguyện vì dân,

vì nước, dù thịt nát xương tan mong được tiếng thơm muôn đời”. Vì thế ngay

cả khi chết đi rồi, Châu Nương cũng hiện về báo mộng giúp dân giúp nước.

Tại đình làng Giảng Võ hiện nay, còn đôi câu đố ghi lại sự tích đó:

“Tài chính túc sung quân, khổn nổi mệnh văn thiên tử chiếu;

Âm mưu năng thoái lỗ, quốc trung danh chấn nữ thần quyền”.

Nghĩa là:

“Của cải đủ nuôi thân, khăn yếm ra tay vâng chiếu chỉ;

Hồn thiêng còn đuổi giặc, non sông vang dậy tiếng thần nương”.

Với sự xuất hiện của những người phụ nữ trên chiến trận đã giáng một

đòn oanh liệt vào sự coi khinh của giặc. Vì thế khi hai nữ tướng Quế Nương

và Dung Nương đi đường bộ ra khiêu chiến trước với bọn Ma Na thì thái độ

của chúng tỏ ra khinh thường với quân ta: “Bọn giặc thấy là tướng gái thì có ý

xem thường, việc cầm cự cũng như canh gác đều có ý trễ nải”. Kết quả của sự

xem thường đó là bọn chúng đã thất bại “giặc không kịp trở tay, bị đuổi

xuống sông chết đuối quá nửa, số còn sống sót phải xin hàng” (Quế Nương và

Dung Nương).

Đó còn là hình ảnh của những phụ nữ giả trai để ra chiến trận. Nàng

Quỳnh Hoa con của ông Trần Vỹ (Bà chúa nghề tằm). Khi quân Chiêm

55

Thành tiến ra uy hiếp Thăng Long thì Quỳnh Hoa đã “búi tóc giả trai, chỉ huy

trai gái gia nhân giúp chồng đánh tập hậu quân giặc”.

Trong truyện Vợ ba Cai Vàng, tác giả dân gian ca ngợi người vợ thứ ba

của Cai Vàng, mới hai mươi tuổi mà võ nghệ tuyệt trần. Đứng trước ý định

của chồng muốn một phen chọc trời khuấy nước, diệt cho hết lũ tham tàn để

vẫy vùng riêng một cõi thì vợ cả và vợ hai tỏ ra sợ hãi còn nàng cương quyết

nói: “Chim không bay được, cây không mọc lên vì bọn chúng. Hiện nay bốn

phương nhao nhác còn chờ thượng công. Những lời yếu đuối của hai chị nên

mang về xó bếp. Thiếp tôi nhất thua nhì được, quyết xin theo chàng đến cùng,

diệt phường Kiệt Trụ, gây dựng cơ đồ. Người nào thương mẹ, nhớ cha cứ cho

về”. Trong trận đánh chiếm phủ Lạng Giang, nàng hai tay cầm hai thanh

gươm ngồi trên mình ngựa xông ra giữa hàng trận, quan quân chỉ còn biết rẽ

ra mà chạy. Nàng thách thức kẻ địch: “Thằng nào dám cả gan như vậy? Ta chỉ

vén váy diệt một trận thì e chúng mày chạy bằng bay cũng không thoát”.

Thậm chí khi Cai Vàng bị quân nhà vua bắn chết thì người vợ ba vẫn hiên

ngang tự điều khiển quân sĩ chống cự quân triều.

Góp sức vào trong sự nghiệp chống xâm lược của dân tộc, truyền

thuyết không chỉ ghi danh những nhân vật nữ có tên tuổi, quê quán mà các

nghệ sĩ dân gian còn ghi lại những nhân vật nữ vô danh. Người đời có thể

không biết đến tên, nguồn gốc xuất thân của họ nhưng hành trạng và chiến

công của họ khi đất nước có giặc ngoại xâm thì được lưu danh muôn đời.

Đó còn là người con gái không tên đã có công trong cuộc chiến chống

giặc Hán. Từ là một cái đống, cứ vào những đêm có trăng thì hình dáng nhan

sắc cô càng lộng lẫy. Đến khi có giặc Hán xâm lược, cô gái vụt biến thành

một nữ tướng oai phong, giơ cao chiếc lược lên thành thanh gươm sáng cả

một góc trời, chiêu tập binh sĩ giết giặc. Trai tài gái giỏi đến nhập quân đông

như nước. Thế rồi cô cùng thiên hạ đi đánh giặc cứu nước. Khi đất nước

56

thanh bình cô lại trở về làm cái đống giữa hồ. Đêm đêm cô lại chải tóc mượt

mà cho thiên hạ đàn ca nhảy múa (Đống chải đầu); cô gái không tên, người

đất vùng Chanh, Đùng, Truật, nổi tiếng là đất thượng võ. Cô là người duy

nhất trong vùng đuổi kịp được ngựa trời. Từ khi có ngựa trời cô càng dốc

lòng rèn luyện tài năng võ nghệ. Cô trở thành tấm gương sáng cho các cô gái

trong làng, và cùng nhau ao ước có ngày được đền nợ nước. Ra trận, người

con gái ấy cưỡi ngựa trắng, phi như gió lốc vào trận giặc. Giặc bâu lấy cô gái

như ong, tên bắn, giáo lao tối trời tối đất. Mặc dù thương tích máu me đầy

người, cô vẫn kiêu dũng xông pha, cho đến lúc lực cùng sức kiệt ngã nhào

xuống ngựa. Sau này trên khúc sông mà cô biến mất có một bông sen to đẹp

dị thường tỏa hương thơm trên làn nước sóng xanh. Vì thế dân làng gọi cô là

Liên Hương (Nàng Liên Hương).

Trong truyện Cánh đồng mẫu hậu, ca ngợi người đàn bà không tên đã

giúp đoàn quân của Lê Lợi trong lúc quân của ông bị quân minh đuổi. Đã mấy

ngày ròng rã cả đoàn đói, khát, cơm nước thất thường. Người đàn bà ấy khi

biết được đây là những nghĩa sĩ Lam Sơn, bà vui vẻ đặt mâm xuống: “Tôi đi

đơm mâm đầu họ. Nhưng cứu một người phúc đẳng hà sa. Xin các ông đừng

khách khí”. Không những thế, người đàn bà ấy còn khẩn khoản mời mọi

người về nhà mình, nấu cơm thiết đãi.

Hay đó là mụ hàng dầu đã giúp Lê Lợi trong trận chiến với giặc Minh.

Mụ hàng dầu giàu lòng yêu nước, ngày ngày gánh dầu tiếp tế hàng ba bốn

chuyến. Bọn quân nhà Minh dần dần để ý và bắt mụ tra khảo. Nhưng mụ với

một lòng yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc, mụ đã không “hé

răng nửa lời”. Cuối cùng chúng đã hèn hạ giết mụ. Biết ơn người đàn bà bán

dầu đã tỏ lòng trung thành với nghĩa quân, lại luôn nhớ đến ngọn đèn khai

sinh chờ ngày khởi nghĩa, Lê Lợi đã đặt tên quả núi ấy là núi dầu và ra lệnh

57

giỗ mụ hàng dầu sau ngày giỗ mình. Vì thế dân gian ta mới có câu: “Hăm mốt

Lê Lai, hăm hai Lê Lợi, hăm ba giỗ mụ hàng dầu” (Sự tích núi dầu).

Trong truyện Bán cháo ca ngợi về người phụ nữ không tên đã đóng góp

công sức của mình vào công cuộc đánh đuổi bọn xâm lược Mãn Thanh. Bà

lão bán nước cũng như nhân dân ta hồi bấy giờ rất căm ghét bọn ngoại xâm

đang giày xéo quê hương đất nước. Chúng là bọn giặc Mãn Thanh tàn bạo

chúng đi đến đâu gây tang tóc đau thương đến đấy. Vì vậy khi nghe tin Quang

Trung kéo quân đi dẹp giặc mọi người nô nức đi theo. Mặc dù đã già không

thể theo vua đi đánh giặc nhưng bà lão bán nước tìm mọi cách để giúp đỡ các

nghĩa quân. Bà lão bèn đem số tiền đã giành dụm trong nhiều năm trời đong

gạo nuôi nghĩa quân. Đó là số tiền mà tích cóp để sau này dưỡng lão. Thế

nhưng người phụ nữ ấy vì đại cuộc, vì cuộc chiến của đất nước mà hi sinh bản

thân mình. Bà nấu những nồi cháo thật lớn đợi những người lính của vua

Quang Trung hành quân qua và vào quán nghỉ để ăn cháo. Hành động ấy của

bà khiến các quân sĩ rất cảm động. Thậm chí “có người lính nào không may bị

ốm, bà cho nghỉ lại và ân cần chăm sóc như con cái trong nhà”.

Nhân vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề bảo vệ đất nước, họ sánh

bước hiên ngang với chồng, gan dạ đối mặt với kẻ thù. Họ giúp chồng tạo

dựng sự nghiệp. Đó là nàng Đào Nương, vợ của Doãn Công trong truyện Sự

tích Doãn Công dẹp giặc Tô Định. Nàng không những là người có nhan sắc

mà còn giúp chồng tạo dựng sự nghiệp báo thù cho cha, cho quê hương. Đào

Nương và Doãn Công đã lập dinh trại ở khu Bảo Tháp và đi chiêu mộ quân

dân ở các quận huyện. Do đó, tiếng tăm của hai vợ chồng loan đi khắp

vùng.Hay đó còn là nàng La, là người có tài sắc và thông hiểu chữ nghĩa.

Nàng đã cùng chồng của mình là Trần Thưởng tạo ra cơ sở may vững vàng.

Không những thế, nàng La còn khuyên Trần Thưởng “ôn tập sách vở để đi

thi”. Nhờ lời khuyên và sự chăm sóc của vợ thì Trần Thưởng đã thi đỗ và

58

được bổ làm quan, chuyên coi về nghề nghiệp thủ công. Khi nghe tin Trần

Thưởng đi thuyền bị sóng cuốn đi mất tích thì nàng đã uống rượu thuốc độc

và chết theo chồng (Bà chúa dệt: Thụ La công chúa).

Trong truyện Ngô Thị Nương Nương, bà Ngô Thị Nương đã báo mộng

cho chồng, giúp chồng và quân sĩ đánh thắng giặc: “Xin lang quân mau mau

đánh ra, có thiếp dẫn đường”. Ông cùng với nghĩa quân đi theo đàn ong đang

bay trước mặt tiến về phía quân giặc. Lũ giặc lồng vào trong tay áo, cắn cả

vào cổ tay, cánh tay giặc. Khiến chúng nháo nhác, gươm rơi giáo rụng, hàng

ngũ hỗn loạn, tan tác bỏ chạy. Nhờ sự báo mộng của Ngô Thị Nương mà quân

ta đã toàn thắng.

Cứ như vậy, truyền thống phụ nữ Việt Nam “anh hùng bất khuất”

trong truyền thống toàn dân đánh giặc còn được nối tiếp mãi trong các truyền

thống chống xâm lược sau này. Ngoài những truyền thuyết viết về các nhân

vật nữ trực tiếp cầm vũ khí giết giặc thì trong truyền thuyết người Việt còn đề

cập và ca ngợi những người phụ nữ gián tiếp đóng góp công sức của mình

góp phần làm nên chiến thắng quân địch.

Bà Hiển Nhân nguyên tên là Trần Thị Ngọc Trần (Truyện Bà Hiển

Nhân) đã có công vô cùng to lớn trong cuộc chiến chống giặc Minh. Bà Ngọc

Trần là một nữ chiến sĩ trong trong nghĩa quân của Lê Lợi. Bà chịu trách

nhiệm chăm lo thu xếp trang trại, coi sóc lương thực, may vá quần áo cho

quân sĩ. Bà cũng tập hợp một đội nghĩa binh, không phải ra giao chiến, nhưng

đã tham gia việc bảo vệ cơ sở, cung cấp hậu cần rất là chu đáo. Thậm chí để

giúp Lê Lợi chiến thắng giặc bà đã nguyện nhận lấy cái chết. Lê Lợi mộng

thấy thần nói rằng: “Xin được cho một người thiếp, thì nguyện xin giúp đỡ

đắng giặc thành công”. Bà Trần vì nghĩa lớn mà gieo mình xuống sông để bảo

toàn cho đoàn chiến thuyền của Lê Lợi; công chúa Mai Châu (Công chúa Mai

Châu) con của vua Lê Thánh Tông, mặc dù mới có mười ba tuổi nhưng cô bé

59

rất dũng cảm và kiên cường. Khi các bộ lạc mọi ở vùng Ngũ nổi dậy chống

người Việt thì nàng xin vua cha cho ra trận. Khi thuyền đến bờ Quảng Bình

thì gặp sóng to gió lớn, các binh sĩ đoán là điềm của Long thần muốn bắt công

chúa. Mai Châu thay vì được sống thì nàng quyết định hiến mạng cho Long

thần để cứu quân sĩ: “Nếu nàng không nhảy xuống cho Long thần ăn thịt thì

tất cả mười chiến thuyền này bị đắm”. Tấm lòng trượng nghĩa của nàng trong

cuộc chiến thật đáng ngượng mộ.

Đó còn là nàng Ỷ Lan (Sự tích Ỷ Lan phu nhân), nàng ở nhà giúp việc

triều chính khi chồng nàng là Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm

Thành. Bằng sự thông minh, nhân hậu nàng trị dân rất có phép tắc giúp “bốn

phương yên tĩnh, mọi người vui vẻ làm ăn, rất biết ơn bà, gọi bà là Phật Quan

Âm tái sinh”. Ỷ Lan không những đã giúp dân có được đời sống ồn định mà

nàng còn là tấm gương sáng, động lực giúp chồng đánh bại được vua Chiêm là

Chế Củ: “Nàng là một người đàn bà ở nhà mà lại có tài như thế, ta đường đường

là một trang nam nhi mà lại chịu là người vô công?”. Sau này khi vua mất, bà đã

có công lao to lớn trong việc phò giúp vua Lý Càn Đức mới có bảy tuổi lên nối

ngôi, chăm lo việc triều chính và đánh tan quân xâm lược nhà Tống.

Qua truyền thuyết viết về nhân vật nữ, ta thấy họ không những thông

minh, có tài năng hiểu biết mà còn là những con người khẳng định được vị trí

quan trọng của mình trong đời sống xã hội. Những người phụ nữ ấy là những

người yêu nước thuộc các tầng lớp xã hội và các thành phần dân tộc khác

nhau đã dựng nên bức tranh toàn dân kháng chiến hoành tráng nhiều màu sắc.

Khi đất nước có giặc ngoại xâm thì họ chính là những nữ anh hùng trên chiến

trận. Qua đó, tác giả dân gian muốn bảy tỏ thái độ ngượng mộ, kính trọng tới

các nữ anh hùng. Họ chính là những người làm nên màu sắc đất nước trong

truyền thống đánh giặc của người Việt.

60

Tiểu kết chương 3

Nhân vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề bảo vệ đất nước được các

nghệ sĩ dân gian xây dựng một cách hoàn mĩ. Những người phụ nữ trong thời

kỳ này hiện lên thật hấp dẫn từ ngoại hình, diện mạo cho đến tài năng và đời

sống tâm hồn. Đặc biệt, hành trạng của họ trong cuộc chiến chống xâm lược

được tái hiện lại đầy sống động và phi thường. Họ là những nhân vật lịch sự

được hình tượng hóa và mĩ hóa. Chính vì vậy khi so sánh đối chiếu ngoại

hình, diện mạo, hành trạng của các nhân vật nữ trong thời kì xây dựng đất

nước ta thấy họ chỉ được miêu tả một cách khái quát, ngắn gọn thì ngoại hình,

hành trạng, tài năng của nhân vật nữ trong thời kì này được miêu tả một cách

chi tiết, khổng lồ từ hình dáng, khuôn mặt đến mái tóc. Phải chăng nhân dân

trong khi tô điểm cho các nhân vật nữ đã dồn tụ vai trò đại diện cho tập thể,

tầm vóc của vũ trụ và lịch sử cho họ, khiến họ không thể không trở nên khổng

lồ, đậm màu sắc hư cấu hơn màu sắc hiện thực.

Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt với chủ đề bảo vệ

đất nước chính là thế hệ những người phụ nữ tiên phong cho truyền thống

“giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Sự đóng

góp to lớn, những công lao của các bà các mẹ, những nữ anh hùng trực tiếp

cầm vũ khí chiến đấu trên chiến trường đã thể hiện trí tuệ, tài năng, sức vóc

của họ đối với sự nghiệp bảo vệ đất nước. Hình ảnh của những người phụ nữ,

tên tuổi của họ mãi khắc ghi cùng sự bất tử phồn vinh của đất nước. Nhân dân

ta đã ghi chép sáng tạo và lưu truyền lại những mẩu truyền thuyết viết về

những người phụ nữ với một tấm lòng thành kính biết ơn và ngợi ca.

61

KẾT LUẬN

1.1. Truyền thuyết dân gian Việt Nam vừa là một tác phẩm văn học

nghệ thuật vừa là các sáng tác lưu lại những giá trị văn hóa vốn tồn tại lâu đời

của dân tộc. Những truyền thuyết dân gian vừa có một cái lõi là sự thực lịch

sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gắm vào đó những tâm

tình tha thiết của mình. Những nhân vật lịch sử khi vào truyện đã được hình

tượng hóa để phản ánh lịch sử một cách nghệ thuật. Theo cách ấy, dân gian đã

sáng tạo ra những những tác phẩm văn hóa lôi cuốn, hấp dẫn bạn đọc cho đến

thế hệ ngày nay. Lịch sử dân tộc đã trải qua những buổi đầu dựng nước và giữ

nước đầy hi sinh và hào hùng nhưng truyền thuyết dân gian vẫn sánh bước

cùng chủ thể văn hóa Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển, gìn giữ

bản sắc dân tộc.

1.2. Có lẽ do lịch sử đặc biệt của Việt Nam là phải đấu tranh chống

ngoại xâm từ sớm và trong quá trình dựng nước vẫn phải liên tục chống ngoại

xâm giữ nước, nên những truyền thuyết về lịch sử bảo vệ đất nước dường như

được nhân dân quan tâm ghi nhớ nhiều hơn lịch sử xây dựng đất nước, anh

hùng chiến trận được biết đến nhiều hơn danh nhân văn hóa.

1.3. Viết về những nhân vật nữ, truyền thuyết dân gian đã thể hiện thái

độ ngưỡng mộ trân trọng, ngợi ca của các nghệ sĩ dân gian đến tài năng, đời

sống tâm hồn và phẩm chất của những con người bình thường và phi thường

trong lịch sử dân tộc. Sự phản ánh lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch

sử khác nhau sẽ có những đặc trưng khác nhau. Vì thế mà nhân vật nữ trong

truyền thuyết dân gian được tái hiện và xây dựng lại tùy thuộc vào cảm quan

thẩm mỹ của nhân dân qua từng thời kì. Người phụ nữ hiện lên qua các tác

phẩm là những người phụ nữ hoàn mĩ. Họ không những có vẻ đẹp ngoại hình

62

mà tài năng và đời sống tâm hồn của họ thật đáng ngưỡng mộ và ngợi ca. Họ

có thể là những người mẹ tảo tần, người vợ chung thủy, hoặc là những cô gái

gan dạ, dũng cảm trên chiến trường. Họ tích cực tham gia vào công cuộc kiến

tạo văn hóa và lao động sản xuất. Họ là những con người bình thường nhưng

lại làm nên những chiến công phi thường. Họ xứng đáng là những anh hùng

dân tộc những người đã góp phần làm nên lịch sử dân tộc.

Truyền thuyết dân gian viết về nhân vật nữ chính là sự kết hợp hài hòa

giữa truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc cùng với những quan niệm

truyền thống văn hóa tốt đẹp; các tín ngưỡng tư tưởng tôn giáo khác nhau

hiện lên trong đời sống tinh thần người Việt. Chẳng hạn như tín ngưỡng thờ

thần, tư tưởng Phật giáo,…

1.4. Truyền thuyết dân gian về nhân vật nữ cũng thể hiện tài kể chuyện

của những nghệ sĩ dân gian. Họ đã xây dựng lại bức tranh về đời sống của

người phụ nữ từ thời dựng nước đến những cuộc chiến đấu để giữ nước. Tất

cả được tái hiện một cách sinh động và sâu sắc nhất. Qua đó các nghệ sĩ dân

gian muốn thể hiện rõ nét tư tưởng tình cảm và thái độ công bằng đối với

những người phụ nữ.

Từ truyền thống đến hiện tại và tương lai sau này luôn là một dòng chảy

liên tục. Nghiên cứu truyền thuyết dân gian về nhân vật nữ chính là mong muốn

của khóa luận này trong ý thức gìn giữ giá trị văn hóa của cha ông để lại.

63

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (2017), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Văn học, Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Đổng Chi (1957), Sơ thảo lịch sử Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, Hà

Nội.

3. Bạch Ngọc Chiến và Vương Quân Hoàng (2015), “Bằng chứng cuộc sống suy

ngẫm và phát triển bền vững”, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội.

4. Cao Huy Đỉnh (1967), “Người anh hùng làng Gióng trong lòng nhân dân”,

Tạp chí văn học, (7).

5. Vũ Tố Hảo (1974), “Bà Triệu qua một số tư liệu văn học dân gian sưu tầm ở

Thanh Hóa”, Tạp chí văn học, (1), tr. 34-39.

6. Hoàng Xuân Hãn (1995), “Giới thiệu chuyện Ỷ Lan”, trong sách Thiên tình sử

Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, Hà Nội.

7. Kiều Thu Hoạch (1976), Truyền thuyết anh hùng trong loại hình tự sự dân

gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 1,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 2,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

10. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 3,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 4,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 5,

63

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 6,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

14. Đỗ Đức Hùng (1997), Nữ chúa Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

15. Hoàng Tiến Hựu (1998), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, tập 2, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Bích Hà, Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Sư phạm, Hà

Nội.

17. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2013), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua

truyện Tấm Cám, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

19. PGS Vũ Ngọc Khánh, Trần Thị An, Phạm Minh Thảo (nhóm biên soạn)

(1998), Truyền thuyết Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

20. Đặng Thanh Lê (1968), “Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm”, Tạp chí

văn học (2;3).

21. Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội.

22. Trần Gia Linh (1980), “Vai trò của người phụ nữ khai sáng đất nước và dân

tộc trong truyền thuyết dân gian”, Tạp chí văn học, (2), tr 34-40.

23. Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Bùi Văn Nguyên (chủ biên) (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

24. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Lê Chí Quý (1900), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học và Giáo dục

64

chuyên nghiệp.

26. Đỗ Bình Trị (1991), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân

gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27. Bùi Quang Thanh (1984), “Truyền thuyết và lịch sử”, Nghiên cứu văn học, (2).

28. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Bùi Quang Thanh (1979), “Về một số thể loại văn học dân gian”, Tạp chí văn

học, (4).

30. Phạm Thu Yến (chủ biên), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Đại học sư

65

phạm, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 1. Thống kê số lượng truyện về nhân vật nữ trong truyền thuyết dân

gian người Việt

TT Tên truyện Nhân vật nữ

Âu Cơ 1 Truyện Họ Hồng Bàng

2 Truyện Nhất Dạ Trạch

Dị bản:

Sự tích Chử Đồng Tử, Tiên Dung công chúa và Tiên Dung

Tây Dung tiên nữ

Sự tích Tiên Dung – Chử Đồng Tử

3 Sự tích Bà Man Thiện Bà Man Thiện

4 Truyện Hai Bà Trinh linh phu nhân họ Trưng

Dị bản:

Chế thắng Nhị Trưng phu nhân Trưng Trắc, Trưng Nói về sự tích bà Trưng Trắc, Trưng Nhị Nhị Trưng Vương

Truyện Trưng Vương

Sự tích Hai Bà

5 Bà Trưng Nhị thành Dền Trưng Nhị

Sự tích năm anh em chàng Vịt Triệu Khoan Hòa 6

Sự tích anhem Trù Công và Thuận Nương giúp Bà Lan Hoa 7

Trưng đánh đuổi Tô Định

Sự tích Đào Kỳ thời vua Trưng Trần Thị Tốt 8

1

Sự tích Đường Hoàng thời vua Trưng Tạ Cận 9

10 Sự tích Thủy Hải và Đằn Giang thời vua Trưng Phùng Lan

11 Sự tích Mộc Hoàn thời vua Trưng Đặng Thị Phàn

12 Sự tích Doãn Công dẹp giặc Tô Định Cao Nguyên

13 Sự tích Học Công, Nga Nương, Hồng Nương thời Nga Nương, Hồng

Hai Bà Trưng Nương

14 Sự tích Phương Dung công chúa thời vua Trưng Phương Dung

15 Sự tích đức thánh Hưng Phúc thời Hai Bà Trưng Tạ Thị Cẩn

16 Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ tướng Ả Tú, Ả Huyền,

thời Hai Bà Trưng Thượng Cát

17 Sự tích Phạm Đống Hoàng Thị Từ

18 Sự tích Bát Nàn công chúa Bát Nàn

Dị bản:

Bát Nàn công chúa

19 Sự tích hai anh em Uyên Mặc đại vương và Quang Chu Thị Phương

Dung công chúa thời Hai Bà Trưng

20 Truyện hai mẹ con theo vua Trưng đánh giặc Tô Nguyễn Thị Cầu

Định

21 Sự tích Cao Thiên Hoàng Bà Cao Nhự

22 Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Vương Nguyễn Thị Hiển

23 Sự tích ba anh em một nhà làm tướng của Hai Bà

Trưng

Dị bản: Kiều Hoa

Sự tích Hách Thanh, Hương Trản và Kiều Hoa

2

thời vua Trung

24 Sự tích Thiều Hoa công chúa Thiều Hoa

25 Khâu Ni công chúa Quách À Nương

26 Vĩnh Hoa công chúa Vĩnh Hoa

27 Xuân Nương công chúa Xuân Nương

28 Doãn Công – Đào Nương Đào Nương

29 Nữ tướng Côn Nương Côn Nương

30 Ba anh em họ Nguyễn và Thục Nương Thục Nương

31 Đinh Thị Phật Nguyệt Đinh Thị Phật

Nguyệt

32 Sự tích các ông Cả Lợi, Hai Lợi Tả Ả Nương

33 Ba chị em Bà Dưỡng Bà Dưỡng

34 Sự tích của hai anh em Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn Đặng Thị Sách

35 Bà chúa Bầu Bà Bầu

36 Sự tích tướng quân Lũ Lũy Nàng Tứ

37 Sự tích hai anh em đánh giặc Tô Định Lan Hoa

38 Nàng Hát hay làm quay muôn giáo Nàng Hát

39 Sự tích thần Đình Tào Tạ Cần

40 Truyện Man Nương

Dị bản:

Sự tích Man Nương Man Nương

Tích truyện Man Nương

Man Nương và tứ pháp

3

41 Bài ký về Lệ Hải bà Vương Triệu Thị Trinh Dị bản:

Nói về sự tích bà Triệu Ẩu

42 Sự tích Lý Bí

Dị bản: Lã Phương Sự tích tiền Lý Nam Đế

Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế

43 Hoàng hậu nước Vạn Xuân Triệu Trinh Hòa

44 Bà Chén Ý Hạnh

45 Ba anh em họ Nguyễn Đinh Thị Châu

46 Sự tích Triệu Việt Vương và Cảo Nương

Dị bản:

Sự tích Triệu Quang Phục Châu Thị Hoa Truyện tích Triệu Quang Phục

Triệu Quang Phục

Truyện Triệu Quang Phục

47 Sự tích Đại Lang, Nhị Lang thời Triệu Việt Vương Trần Thị Hòa

48 Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương A Dung Nương

49 Truyện hai anh em thủy thần sinh đôi đánh giặc Hoàng Hoa Liên

Lương

50 Sự tích bà mẹ Đinh Tiên Hoàng và các công thần Đoàn Thị Cao

Đào Thị

Chiên Nương

51 Hoàng hậu thời thơ ấu Dương Vân Nga

52 Cha dỗ đó, mẹ lá chùa Đặng Thị

4

53 Bà chúa Tó Chúa Tó

54 Đại Yên và chuyện Trần Ngọc Hoa Ngọc Xiêm

Dị bản: Trần Ngọc Hoa

Nữ thần chin tuổi: Trần Ngọc Hoa

55 Sự tích Ỷ Lan phu nhân Vũ Thị Tĩnh

(Lý triều đệ tam hoàng đế - hoàng thái hậu) Khiết Nương (Nàng

Yến – Nàng Cám) Dị bản:

Sự tích Ỷ Lan thời Lý

Bà Phù thánh Linh Nhân (bà Ỷ Lan)

56 Bà chúa dệt: Thụ La công chúa

Dị bản: Nguyễn Thị La

Bà chúa dệt

57 Quế Nương và Dung Nương Lý Châu

Quế Nương, Dung

Nương

Chúa Lẫm 58 Bà chúa Lẫm

59 Thần Hậu Thổ

(Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ thần kỳ Hậu Thổ phu nhân

địa nguyên quân)

60 Truyện nàng cồng chúa đời Trần Hoàng Thị Tuân

Ngọc Xiêm

61 Truyện nàng Vũ ở huyện Nam Xương Vũ Nương

62 Châu Nương phu nhân Lý Châu Nương

Dị bản: Bà chúa giữ kho

5

63 Sự tích Ả Lã đệ nhị công chúa đời Trần Ả Lã

64 Sự tích bà Quý Minh thời Trần Lý Huệ Nương

Quý Minh

65 Bà Mỵ Châu Mỵ Châu

66 Ngọc Nương, Bảo Nương Ngọc Nương

Bảo Nương

67 Đền cửa Càn Hải

(Ở xã Hướng Cẩn, huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn

Châu, Nghệ An)

Dị bản: Phu nhân họ Triệu Sự tích tứ vị thánh nương

Sự tích Càn Hải Tống Hậu Phu nhân

Truyện Tứ vị thánh nương

Truyện về một bà hoàng hậu Tống triều

68 Sự tích Nguyệt Nga công chúa Trần Thị Đạt

Dị bản: Nguyệt Nga Công

Sự tích Nguyệt Nương Chúa

Sự tích bà chúa Phương Phi (Nguyệt Nương,

Nguyệt Minh)

69 Sự tích bà vợ cả của Lê Lợi Phạm Thị Ngọc

Trần

70 Sự tích công chúa Lê Ngọc Bái con gái Lê Lợi Lê Ngọc Bái

71 Truyện Đào Nương Đào Nương

Dị bản: Đào Huệ

6

Truyện Ả Đào Nương Lương Thị Huệ

Truyện Ả Đào

Thôn Ả Đào

Người Ả Đào với Giặc Minh

Ả Đào Nương dùng mưu đánh giặc

Sự tích cây cói

Sự tích tháp bà

72 Truyện nàng chim Thước Nàng Phương

73 Sự tích công chúa Thượng Ngàn Thượng Ngàn

(La Bình)

74 Truyện bà Hiển Nhân Ngọc Trần

75 Công chúa Mai Châu Mai Châu

76 Bà Tri Chỉ Nguyễn Thị Kể

77 Bà Kiệt Đặc Nguyễn Thị Duệ

78 Tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh (Quỳnh

Hoa)

79 Liễu Hạnh tiên chúa Giáng Tiên

80 Bà chúa nghề tằm Quỳnh Hoa

81 Bà chúa Thiên Niên Phạm Thị Ngọc Đô

82 Sự tích Mai Hoa công chúa thời Lê Mai Hoa

83 Bà chúa Mía Nguyễn Thị Ngọc

Liệu

84 Bà Ngọc Đài Ngọc Đài

85 Mãn Đào Hoa công chúa Bạch Hoa

7

86 Nữ anh hùng Bùi Thị Xuân Bùi Thị Xuân

87 Bà tổ nghề dệt lụa Hoàng Phủ Thiếu

Hoa

Ngọc Trúc 88 Bà pháp tính: bà chúa Kim Cương

Quế Hoa 89 Sự tích hát xoan

Bà Tăng Má 90 Bà Tăng Má

Mụ Giạ 91 Mụ Giạ

Nhữ Nương 92 Vua Bà

Quế Nương 93 Thánh mẫu thượng ngàn

Liên Nương 94 Nàng Liên Hương

Bà chúa Vĩnh 95 Bà chúa Vĩnh

96 Cầu chẹm và khối vàng của bà Cống Kỷ Bà Kỷ

97 Truyền thuyết về Thiên Ya Na

Dị bản:

Truyện nữ thần Đăng Giai

Thiên Ya Na Sư tích đền Cờn

Truyện Man Nương

Truyện nàng Mưjưk

Thiên Ya Na thánh mẫu

Bà chúa Binh 98 May áo chồng bằng hơi thở ấm

Bà chúa Vót 99 Bà chúa Vót

Ngô Thị Nương 100 Ngô Thị Nương Nương

Bà Vạn 101 Truyện bà Vạn

Bà Sở 102 Bà Sở

8

103 Bà chúa khoai lang Dương Ngọc tổ nghề trồng Dương Ngọc

khoai

104 Bà chúa Muối Nguyệt Ánh

105 Bà chóa tổ nghề trồng dâu nuôi tằm Bà chóa

106 Lầu Slam – Bà chúa thơ Lầu Slam

Bảng 2: Phân loại nhân vật nữ trong truyền thuyết

Bảng 2.1. Phân loại nhân vật nữ là những người thông minh, tài giỏi, hiên

ngang

STT Tên truyện Nhân vật chính

1 Truyện Họ Hồng Bàng Âu Cơ

2 Sự tích Bà Man Thiện Bà Man Thiện

3 Truyện Nhất Dạ Trạch Tiên Dung

Dị bản:

Sự tích Chử Đồng Tử, Tiên Dung công chúa

và Tây Dung tiên nữ

Sự tích Tiên Dung – Chử Đồng Tử

4 Truyện Hai Bà Trinh linh phu nhân họ Trưng Trưng Trắc, Trưng Nhị

Dị bản:

Chế thắng Nhị Trưng phu nhân

Nói về sự tích bà Trưng Trắc, Trưng Nhị

Trưng Vương

Truyện Trưng Vương

Sự tích Hai Bà

9

5 Bà Trưng Nhị thành Dền Trưng Nhị

6 Sự tích Học Công, Nga Nương, Hồng Nương Nga Nương, Hồng

thời Hai Bà Trưng Nương

7 Sự tích Phương Dung công chúa thời vua Phương Dung

Trưng

8 Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ Ả Tú, Ả Huyền,

tướng thời Hai Bà Trưng Thượng Cát

9 Sự tích Bát Nàn công chúa Bát Nàn

Dị bản:

Bát Nàn công chúa

10 Truyện hai mẹ con theo vua Trưng đánh giặc Nguyễn Thị Cầu

Tô Định

11 Sự tích Cao Thiên Hoàng Bà Cao Nhự

12 Sự tích ba anh em một nhà làm tướng của Hai Kiều Hoa

Bà Trưng

Dị bản:

Sự tích Hách Thanh, Hương Trản và Kiều

Hoa thời vua Trung

13 Sự tích Thiều Hoa công chúa Thiều Hoa

14 Khâu Ni công chúa Quách À Nương

15 Vĩnh Hoa công chúa Vĩnh Hoa

16 Xuân Nương công chúa Xuân Nương

17 Doãn Công – Đào Nương Đào Nương

18 Nữ tướng Côn Nương Côn Nương

10

19 Ba anh em họ Nguyễn và Thục Nương Thục Nương

20 Đinh Thị Phật Nguyệt Đinh Thị Phật Nguyệt

21 Ba chị em Bà Dưỡng Bà Dưỡng

22 Bà chúa Bầu Bà Bầu

23 Nàng Hát hay làm quay muôn giáo Nàng Hát

24 Truyện Man Nương Man Nương

Dị bản:

Sự tích Man Nương

Tích truyện Man Nương

Man Nương và tứ pháp

25 Bài ký về Lệ Hải bà Vương Triệu Thị Trinh

Dị bản:

Nói về sự tích bà Triệu Ẩu

26 Hoàng hậu nước Vạn Xuân Triệu Trinh Hòa

27 Bà Chén Ý Hạnh

28 Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương A Dung Nương

29 Hoàng hậu thời thơ ấu Dương Vân Nga

30 Bà chúa Tó Chúa Tó

31 Bà Mỵ Châu Mỵ Châu

32 Ngọc Nương, Bảo Nương Ngọc Nương

Bảo Nương

33 Bà chúa dệt: Thụ La công chúa Nguyễn Thị La

Dị bản:

Bà chúa dệt

11

34 Bà chúa Lẫm Chúa Lẫm

35 Châu Nương phu nhân Lý Châu Nương

Dị bản: Bà chúa giữ kho

36 Sự tích Nguyệt Nga công chúa Nguyệt Nga Công Chúa

Dị bản:

Sự tích Nguyệt Nương

Sự tích bà chúa Phương Phi

37 Đại Yên và chuyện Trần Ngọc Hoa Ngọc Xiêm

Dị bản: Trần Ngọc Hoa

Nữ thần chin tuổi: Trần Ngọc Hoa

38 Sự tích Ỷ Lan phu nhân Vũ Thị Tĩnh

(Lý triều đệ tam hoàng đế - hoàng thái hậu) Khiết Nương

Dị bản: (Nàng Yến – Nàng

Sự tích Ỷ Lan thời Lý Cám)

Bà Phù thánh Linh Nhân (bà Ỷ Lan)

39 Bà chúa dệt: Thụ La công chúa Nguyễn Thị La

Dị bản:

Bà chúa dệt

40 Sự tích Ả Lã đệ nhị công chúa đời Trần Ả Lã

41 Quế Nương và Dung Nương Quế nương

Dung Nương

42 Sự tích công chúa Lê Ngọc Bái con gái Lê Lê Ngọc Bái

Lợi

Đào Nương 43 Truyện Đào Nương

12

Đào Huệ Dị bản:

Truyện Ả Đào Nương Lương Thị Huệ

Truyện Ả Đào

Thôn Ả Đào

Người Ả Đào với Giặc Minh

Ả Đào Nương dùng mưu đánh giặc

Sự tích cây cói

Sự tích tháp bà

44 Truyện nàng chim Thước Nàng Phương

45 Sự tích công chúa Thượng Ngàn Thượng Ngàn

(La Bình)

46 Truyện bà Hiển Nhân Ngọc Trần

47 Công chúa Mai Châu Mai Châu

48 Bà Chi Trỉ Nguyễn Thị Kể

49 Bà Kiệt Đặc Nguyễn Thị Duệ

50 Tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh (Quỳnh

Hoa)

51 Liễu Hạnh tiên chúa Giáng Tiên

52 Sự tích Mai Hoa công chúa thời Lê Mai Hoa

53 Nữ anh hùng Bùi Thị Xuân Bùi Thị Xuân

54 Nàng Liên Hương Liên Nương

55 May áo chồng bằng hơi thở ấm Bà chúa Binh

13

56 Ngô Thị Nương Nương Ngô Thị Nương

Bảng 2.2. Thống kê nhân vật nữ là người mẹ sinh ra những người con anh

hùng

Số lượng

TT Tên truyện Nhân vật truyện và tỷ

lệ phần trăm

1 Sự tích năm anh em chàng Vịt Triệu Khoan Hòa

2 Sự tích anh em Trù Công và Thuận Lan Hoa

Nương giúp Bà Trưng đánh đuổi Tô

Định

3 Sự tích Đào Kỳ thời vua Trưng Trần Thị Tốt

4 Sự tích Đường Hoàng thời vua Trưng Tạ Cận

5 Sự tích Thủy Hải và Đằn Giang thời Phùng Lan

vua Trưng

6 Sự tích Mộc Hoàn thời vua Trưng Đặng Thị Phàn

7 Sự tích Doãn Công dẹp giặc Tô Định Cao Nguyên 32-30.2% 8 Sự tích đức thánh Hưng Phúc thời Hai Tạ Thị Cẩn

Bà Trưng

9 Sự tích Phạm Đống Hoàng Thị Từ

10 Sự tích hai anh em Uyên Mặc đại Chu Thị Phương

vương và Quang Dung công chúa thời

Hai Bà Trưng

11 Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Nguyễn Thị Hiền

Vương

12 Sự tích hai anh em đánh giặc Tô Định Lan Hoa

14

13 Sự tích các ông Cả Lợi, Hai Lợi Tả Ả Nương

14 Sự tích của hai anh em Lê Ả Lan và Lê Đặng Thị Sách

Anh Tuấn

15 Sự tích tướng quân Lũ Lũy Nàng Tứ

16 Sự tích thần Đình Tào Tạ Cần

17 Sự tích Lý Bí Lã Hương

Dị bản:

Sự tích tiền Lý Nam Đế

Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế

18 Ba anh em họ Nguyễn Đinh Thị Châu

19 Sự tích Triệu Việt Vương và Cảo Châu Thị Hoa

Nương

Dị bản:

Sự tích Triệu Quang Phục

Truyện tích Triệu Quang Phục

Triệu Quang Phục

Truyện Triệu Quang Phục

20 Sự tích Đại Lang, Nhị Lang thời Triệu Trần Thị Hòa

Việt Vương

21 Truyện hai anh em thủy thần sinh đôi Hoàng Hoa Liên

đánh giặc Lương

22 Sự tích bà mẹ Đinh Tiên Hoàng và các Đoàn Thị Cao

công thần Đào Thị

Chiên Nương

Hậu Thổ phu 23 Thần Hậu Thổ

15

(Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu nhân

thổ thần kỳ địa nguyên quân)

24 Truyện nàng Vũ ở huyện Nam Xương Vũ Nương

25 Sự tích bà Quý Minh thời Trần Lý Huệ Nương

Quý Minh

26 Đền cửa Càn Hải Phu nhân họ

(Ở xã Hướng Cẩn, huyện Quỳnh Lưu, Triệu

phủ Diễn Châu, Nghệ An)

Dị bản:

Sự tích tứ vị thánh nương

Sự tích Càn Hải Tống Hậu Phu nhân

Truyện Tứ vị thánh nương

Truyện về một bà hoàng hậu Tống triều

27 Sự tích Nguyệt Nga công chúa Trần Thị Đạt

Dị bản: Nguyệt Nga

Sự tích Nguyệt Nương Công Chúa

Sự tích bà chúa Phương Phi (Nguyệt Nương,

Nguyệt Minh)

28 Truyện nàng cồng chúa đời Trần Hoàng Thị Tuân

29 Sự tích bà vợ cả của Lê Lợi Phạm Thị Ngọc

Trần

30 Bà Sở Bà Sở

31 Bà Tăng Má Bà Tăng Má

16

32 Bà Vạn Bà Vạn

Bảng 2.3. Phân loại nhân vật nữ trong lao động sản xuất và sáng tạo văn hóa

Phân loại dựa vào công việc nghề nghiệp của các nhân vật nữ

Công Số lượng

TT Truyện Nhân vật việc nghề truyện và tỷ

nghiệp lệ phần trăm

1 Truyện Họ Hồng Bàng Âu Cơ

2 Truyện Nhất Dạ Trạch Tiên Dung

Dị bản:

Sự tích Chử Đồng Tử, Tiên

Dung công chúa và Tây

Dung tiên nữ

Sự tích Tiên Dung – Chử

Đồng Tử

3 Vĩnh Hoa công chúa Vĩnh Hoa Nông

nghiệp 22-20.7% 4 Sự tích bà mẹ Đinh Tiên Đoàn Thị Cao

Hoàng và các công thần Đoàn Thị

5 Cha dỗ đó, mẹ lá chùa Đặng Thị

6 Sự tích Ỷ Lan phu nhân Vũ Thị Tĩnh

(Lý triều đệ tam hoàng đế - Khiết Nương

hoàng thái hậu)

Dị bản:

Sự tích Ỷ Lan thời Lý

Bà Phù thánh Linh Nhân (bà

17

Ỷ Lan)

7 Truyện nàng công chúa đời Hoàng Thị Tuân

Trần

8 Truyện nàng Vũ ở huyện Vũ Nương

Nam Xương

9 Sự tích bà Quý Minh thời Lý Huệ Nương

Trần Quý Minh

10 Quế Nương và Dung Nương Quế Nương

11 Bà chúa Vĩnh Bà chúa Vĩnh

12 May áo chồng bằng hơi thở Bà chúa Binh

ấm

13 Bà chúa Vót Bà chúa Vót

14 Bà Sở Bà Sở

15 Truyện bà Hiển Nhân Ngọc Trần

16 Mụ Giạ Mụ Giạ

17 Thánh mẫu thượng ngàn Quế Nương

18 Bà Tri Chỉ Nguyễn Thị Kể

19 Bà chúa Mía Nguyễn Thị Ngọc

Liệu

20 Bà Ngọc Đài Ngọc Đài

21 Bà Tăng Má Bà Tăng Má

22 Bà chúa khoai lang Dương Dương Ngọc

Ngọc tổ nghề trồng khoai

18

23 Đại Yên và chuyện Trần Trần Ngọc Hoa Bốc và 2-1.89% Ngọc Hoa làm thuốc

Dị bản:

Nữ thần chín tuổi: Trần Ngọc

Hoa

24 Bà chúa Vĩnh Bà chúa Vĩnh

25 Châu Nương phu nhân Lý Châu Nương

Dị bản: Giữ kho Bà chúa giữ kho 3-2.83% thóc 26 Bà chúa Lẫm Chúa Lẫm

27 Bà chúa Tó Chúa Tó

28 Bà chúa dệt: Thụ La công Nguyễn Thị La

chúa

Dị bản:

Bà chúa dệt vải

29 Bà chúa Thiên Niên Phạm Thị Ngọc Nghề dệt 4-3.78%

Đô

30 Bà tổ nghề dệt lụa Hoàng Phủ Thiếu

Hoa

31 Bà chúa nghề tằm Quỳnh Hoa

32 Bà Ngọc Đài Ngọc Đài

33 Vua Bà Nhữ Nương Nghề ca 34 Sự tích hát xoan 5-4.72% Quế Hoa hát 35 Mãn đào hoa công chúa Bạch Hoa

36 Lầu Slam – Bà chúa thơ Lầu Slam

19

37 Bà chúa Muối Nguyệt Ánh Nghề 1-0.94%

muối

38 Bà chóa tổ nghề trồng dâu Bà chóa Nghề

nuôi tằm trồng dâu 2-1.89%

nuôi tằm 39 Bà Chén Ý Hạnh

40 Mẹ Âu Cơ tổ nghề nông tang Âu Cơ Chế biến

và chế biến thực phẩm 1-0.94% thực

20

phẩm