TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN
ĐỖ THỊ KIM OANH
NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN
ĐỖ THỊ KIM OANH
NHÂN VẬT NỮ TRONG
TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ NGỌC LAN
HÀ NỘI - 2018
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, được sự tận tình chỉ bảo của TS.
Nguyễn Thị Ngọc Lan, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến cô giáo!
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt
Nam cùng với các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn – Trường ĐHSP Hà Nội
2 đã dạy dỗ và tạo điều kiện thuận lợi nhất để em được hoàn thành khóa luận
này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Người thực hiện
Đỗ Thị Kim Oanh
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này chính là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng
tôi. Đề tài của khóa luận không trùng với kết quả nghiên cứu của công trình
nào đã được công bố. Tôi xin chịu trách nhiệm với những lời cam đoan của
mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Người thực hiện
Đỗ Thị Kim Oanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 5
7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
Chương 1. HỆ THỐNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT
DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT ............................................................................. 6
1.1. Khái niệm nhân vật và nhân vật nữ ............................................................ 6
1.2. Các kiểu nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt ................. 8
1.2.1. Nhân vật nữ trong kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất .................. 9
1.2.2. Nhân vật nữ trong chiến đấu ............................................................. 12
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 16
Chương 2. NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT CHỦ ĐỀ XÂY
DỰNG ĐẤT NƯỚC ...................................................................................... 17
2.1. Ngoại hình, diện mạo ............................................................................... 17
2.2. Phẩm chất, tài năng .................................................................................. 20
2.3. Hành trạng ................................................................................................ 25
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 33
Chương 3. NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT CHỦ ĐỀ BẢO
VỆ ĐẤT NƯỚC ............................................................................................. 35
3.1. Ngoại hình, diện mạo ............................................................................... 35
3.2. Phẩm chất, tài năng .................................................................................. 41
3.3. Hành trạng ................................................................................................ 47
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là thể
loại rất quan trọng. Truyền thuyết là truyện kể về những nhân vật và sự kiện
hư cấu hay xác thực, có liên quan ảnh hưởng tới sự trọng đại lịch sử của dân
tộc, qua đó nhân dân thể hiện thái độ đối với nhân vật và sự kiện lịch sử. Vì
thế mà thể loại truyền thuyết phát triển mạnh ở cả phương diện nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật. Truyền thuyết được sáng tạo theo suốt chiều
dài lịch sử dân tộc, vì vậy ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau các nhân vật lại
được sáng tạo dưới sự chi phối khác nhau của quan niệm thẩm mĩ của nhân
dân.
Nhân vật là yếu tố được coi như linh hồn của tác phẩm, đồng thời nó là
hình thức cơ bản để thông qua đó nhà văn miêu tả thế giới một cách hình
tượng. Vì thế mà trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta thấy
hình tượng nhân vật phụ nữ xuất hiện khá sớm và trở thành một đề tài quen
thuộc trong văn chương. Từ thể loại thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích
đến ca dao, tục ngữ, những sáng tác văn học trung đại cho đến văn học hiện
đại chưa bao giờ nhân vật phụ nữ vắng bóng. Nhân vật phụ nữ luôn là vấn đề
nổi bật trong các sáng tác nghệ thuật. Đây là một hình tượng thể hiện rõ giá trị
nhân văn và giàu mĩ cảm của nghệ thuật nước nhà.
1.2. Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt hiện lên vô
cùng sinh động và phong phú. Những trang văn về nhân vật nữ đem lại cho
độc giả những dấu ấn sâu đậm và khó phai. Họ là những người phụ nữ có vẻ
đẹp ngoại hình và đời sống tâm hồn, phẩm chất đáng ngưỡng mộ và ngợi ca.
Đó là những người con gái trẻ trung, xinh đẹp thông minh và anh dũng.
Người vợ, người mẹ đảm đang sinh ra những người con anh hùng tài giỏi,
hiên ngang. Những người phụ nữ ấy ghi danh trên những lĩnh vực khác nhau
1
và tạo dựng lịch sử, truyền thống của dân tộc. Truyền thuyết dân gian người
Việt về nhân vật nữ thực sự đã đem lại ấn tượng sâu sắc đối với chúng tôi. Đó
là những câu chuyện phần lớn thuộc thần tích các làng. Hiện nay nhiều xứ sở
vẫn còn lưu giữ những công trình mang văn hóa tâm linh. Khá nhiều nhân vật
nữ chính là những còn người bất tử trong các ngôi đền miếu linh thiêng ấy.
1.3. Truyền thuyết là một trong những thể loại văn học dân gian được
đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Việc nghiên cứu đề tài này giúp chúng
tôi thêm hiểu những giá trị của truyền thuyết trong đời sống văn hóa dân tộc,
đồng thời nâng cao kiến thức, phục vụ cho công tác giảng dạy ngữ văn sau
khi tốt nghiệp.
Vì những lý do trên nên chúng tôi lựa chọn: Nhân vật nữ trong truyền
thuyết dân gian người Việt, làm đề tài cho khóa luận của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thực tế, đã có nhiều công trình, tạp chí và các bài báo khoa học đã
lấy truyền thuyết làm đối tượng nghiên cứu và đã có nhiều phương diện được
đề cập trong đó có phương diện nhân vật. Tuy nhiên coi nhân vật nữ là trong
truyền thuyết dân gian các thời kì lịch sử, là đối tượng khám phá riêng biệt thì
chưa được quan tâm thỏa đáng. Một số bài viết mới chỉ tiếp cận vấn đề này ở
mức độ giới thuyết, khái quát mà chưa có những phân tích, đánh giá cụ thể.
Năm 1974, trong Tạp chí văn học, số 1, tác giả Vũ Tố Hảo có bài
“Bà Triệu qua một số tư liệu dân gian sưu tầm ở Thanh Hóa”. Trong bài
viết này tác giả đã đề cập đến “hình tượng Bà Triệu”, do khai thác “hình
ảnh Bà Triệu hiện lên từ hình dáng, tính tình hành động… cho tới cái chết
của Bà”. Tuy nhiên điểm hạn chế của bài viết trên là tác giả chỉ đề cập đến
hình tượng “Nữ anh hùng” mà chưa nghiên cứu về hình tượng tập thể nữ
anh hùng [3, tr. 34-39].
2
Năm 1978, trong công trình Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 1, Nxb
Giáo dục (Bùi Văn Nguyên làm chủ biên), tác giả đã đưa ra nhận định khi
nghiên cứu về nội dung và ý nghĩa của thể loại truyền thuyết “có thể nói, đấu
tranh chống ngoại xâm bảo vệ đất nước là chủ đề căn bản của “thần thoại đời
sau” của chúng ta”. Trong quá trình nghiên cứu về truyền thuyết lịch sử, tác
giả đã đưa ra khẳng định: “Trong số những vị anh hùng dân tộc thời xưa mà
truyền thuyết lưu lại còn phải kể đến những truyện Hai Bà Trưng, Bà Triệu”.
Như vậy trong công trình trên, tác giả đã đưa ra những khái quát về những
người anh hùng dân tộc là nữ giới [23, tr. 146].
Năm 1980 trong Tạp chí văn học, số 2, Trần Gia Linh có bài viết về
“Vai trò của người phụ nữ khai sáng đất nước và dân tộc trong truyền thuyết
dân gian”. Trần Gia Linh đã khẳng định về vai trò quan trọng của những
người phụ nữ trong xã hội. Tác giả đưa ra nhận định: “Tìm hiểu truyền thống
anh hùng của phụ nữ là tìm hiểu một bộ phận quan trọng của truyền thuyết
anh hùng dân tộc”. Nhà nghiên cứu cũng đề cập thêm: “Cùng với truyền
thuyết về người anh hùng khai sáng đất nước và dân tộc là nam giới, nhân dân
ta đã để lại một hệ thống truyền thuyết nói về người phụ nữ anh hùng
không kém phần lộng lẫy tươi đẹp”. Như vậy bài viết trên chỉ đề cập đến
vai trò của phụ nữ mà chưa đi tìm hiểu về những đặc điểm của các truyện
này [21, tr. 34- 40].
Năm 1998, trong Bình giảng truyện dân gian, Nxb Giáo dục, tác giả
Hoàng Tiến Hựu khi bàn về vấn đề “cốt truyện và nhân vật”, ông đã chỉ ra thế
giới của nhân vật nữ như sau: “Xét về giới tính, tỷ lệ nhân vật không đều giữa
các truyện, trong truyện truyền thuyết và cổ tích, nhân vật nữ xuất hiện tương
đối nhiều và ở nhiều truyện nhân vật nữ đóng vai trò quan trọng”.
Cùng theo hướng nghiên cứu đó thì năm 2013, trong khóa luận tốt
nghiệp đại học Truyền thuyết về nhân vật nữ trong thời kì Bắc thuộc, tác giả
3
Đào Thị Sen đã thống kê được các truyện viết về nhân vật nữ, khai thác các
đặc điểm truyện viết về nhân vật nữ. Tác giả viết: “Nhân vật nữ trong thời kì
Bắc thuộc hấp dẫn, lôi cuốn người đọc không chỉ ở những vẻ đẹp của ngoại
hình mà còn ở những tài năng và đời sống nội tâm vô cùng phong phú” [30,
tr. 57]. Tuy nhiên phương diện và phạm vi khai thác của khóa luận còn hạn
hẹp. Khóa luận mới chỉ khai thác ở phương diện thể loại truyền thuyết và
phạm vi khai thác truyện về nhân vật nữ chỉ giới hạn trong thời kì Bắc thuộc
mà chưa chú ý đến hình tượng nhân vật nữ trong truyền thuyết ở các thời kì
khác.
Đề tài nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt là một trong
những đề tài khoa học gây sự chú ý và quan tâm của các nhà nghiên cứu ở các
khía cạnh khác nhau. Mặc dù có đề cập đến nhân vật nữ nhưng những công
trình nghiên cứu vẫn chỉ mang tính chất nhỏ lẻ. Tuy nhiên đó chính là những
gợi ý quý báu giúp chúng tôi trong quá trình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
+ Thấy được những đặc điểm cơ bản về hình tượng nhân vật nữ trong
truyền thuyết dân gian người Việt.
+ Khẳng định giá trị những truyền thuyết viết về nhân vật nữ trong
dòng chảy thể loại.
+ Góp phần giáo dục về truyền thống lịch sử, nâng cao ý thức cho bản
thân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nắm được những kiến thức về đặc điểm của truyền thuyết.
+ Khóa luận làm rõ đặc điểm về nhân vật nữ trong truyền thuyết dân
gian người Việt.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tư liệu khảo sát: Các truyện về truyền thuyết dân gian người
Việt, qua công trình Tổng tập văn hóa dân gian người Việt, sáu tập do Kiều
Thu Hoạch (Chủ biên), Nxb KHXH, 2004.
- Phạm vi nội dung: Khóa luận tập trung khảo sát và phân tích các đặc
điểm nổi bật của hệ thống nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người
Việt, ở cả hai chủ đề: xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
Lựa chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn rút ra được những nhận
xét khoa học về đặc điểm nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt
và khẳng định được những nét đẹp của người phụ nữ cùng với giá trị lịch sử
của kiểu truyện này.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung của khóa luận có bố
cục ba chương như sau:
Chương 1: Hệ thống nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt
Chương 2: Nhân vật nữ trong truyền thuyết chủ đề xây dựng đất nước
Chương 3: Nhân vật nữ trong truyền thuyết chủ đề bảo vệ đất nước
5
NỘI DUNG
Chương 1. HỆ THỐNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT
DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT
1.1. Khái niệm nhân vật và nhân vật nữ
Từ trước đến nay nhân vật mang nhiều khái niệm khác nhau. Thuật ngữ
“nhân vật” xuất hiện khá sớm trong tiếng Hy Lạp cổ. Ban đầu nó mang ý
nghĩa là “cái mặt nạ” tức chỉ công cụ biểu diễn của diễn viên trên sân khấu.
Theo thời gian chúng ta sử dụng thuật ngữ này nhiều hơn để thể hiện nhân vật
trong tác phẩm văn học. Trong một số trường hợp khác nhau, người ta sử
dụng thuật ngữ “vai” và “tính cách” để thay thế cho nhân vật văn học. Thuật
ngữ “tính cách” tức chỉ những nhân vật có tính cách. Còn thuật ngữ “vai” thì
chỉ tính chất và hành động cá nhân. Trên thực tế, không phải nhân vật nào
cũng mang hành động và nhân vật nào cũng thể hiện tính cách rõ nét. Vì vậy
thuật ngữ “nhân vật” mang nội hàm phong phú và đa dạng hơn nên hai thuật
ngữ trên không thể bao quát hết được những biểu hiện khác nhau của các loại
nhân vật trong tác phẩm văn học.
Nhân vật là khái niệm được sử dụng nhiều trong văn chương nghệ
thuật. Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã đưa ra rất nhiều khái niệm
khác nhau về nhân vật văn học.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, định nghĩa khái niệm nhân vật như sau:
“Nhân vật văn học hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu
về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con
người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang
đường được gắn cho những đặc điểm giống con người” [32, tr. 41]. Tác giả Lại
Nguyên Ân đã đưa ra định nghĩa khá hoàn chỉnh về nhân vật văn học. Theo
tác giả thì nhân vật chính là yếu tố tạo ra phong cách cho nhà văn với một
màu sắc riêng trong từng trường phái văn học.
6
Còn trong Từ điển thuật ngữ văn học (nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) thì đưa ra định nghĩa “nhân vật văn học
là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học
có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng… nhân vật văn học là một đơn vị
nghệ thuật mang tính ước lệ không thể đồng nhất với con người có thật trong
đời sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách con
người. Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm
mĩ của nhà văn về con người. Vì thế nhân vật luôn luôn gắn với chủ thể tác
phẩm” [14, tr .235].
Trong cuốn Lý luận văn học (GS. Hà Minh Đức chủ biên), các tác giả
cho rằng: “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ,
đó không phải là sự sao chụp đầy đủ một chi tiết, biểu hiện đầy đủ của con
người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu
sử nghề nghiệp, tính cách… Cũng có khi đó không phải là những con người,
sự vật cụ thể mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc liên quan tới con
người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm” [30, tr. 126].
Mặc dù khái niệm nhân vật có rất nhiều những định nghĩa khác nhau
nhưng tất cả các định nghĩa đều có những điểm chung như sau: Nhân vật có
vị trí rất quan trọng trong tác phẩm. Nhân vật chính là đối tượng được nhà văn
miêu tả. Nhân vật có thể là con người cụ thể, cũng có thể là những sự vật, con
vật, hiện tượng mang bóng dáng và tính cách của con người. Nó được sử
dụng như những phương thức khác nhau để biểu hiện về con người. Nhân vật
chính là cầu nối truyền đạt nội dung, tư tưởng giữa bạn đọc và nhà văn.
Như vậy, mỗi nhân vật được thể hiện thành công trong tác phẩm ở các
thời đại khác nhau thì đều chứa đựng những khám phá to lớn. Qua những sự
khám phá ấy mà nhà văn đã khẳng định được lý tưởng thẩm mỹ của bản thân
và làm phong phú, đa dạng nền văn học dân tộc. Vì thế mà đã từng có nhận
7
định rằng: đối với các nhà văn lớn thì bạn đọc có thể quên đi chính tác giả
nhưng sẽ không quên được nhân vật mà tác giả đó xây dựng nên.
Vừa kể về những nhân vật và sự kiện hư cấu hoặc xác thực có liên quan
đến lịch sử trọng đại của dân tộc, giai cấp, truyền thuyết còn thể hiện ý thức
và thái độ của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện lịch sử. Vì thế mà truyền
thuyết thể hiện nhân vật không phải bằng sự sao chép nguyên mẫu, mà chỉ
dựa vào nguyên mẫu để “tái tạo” nên hình tượng nhân vật phù hợp với tâm
tình và thái độ của nhân dân.
Nhân vật nữ được coi như loại hình cụ thể của nhân vật. Hay nói theo
cách khác: Nhân vật nữ là hình ảnh, hình tượng người phụ nữ được xây dựng,
miêu tả và thể hiện ở trong tác phẩm văn học thông qua các phương tiện văn
học. Và nghiên cứu về nhân vật nữ chính là nghiên cứu về một kiểu cấu trúc
của nhân vật văn học đặc thù.
Nhân vật nữ luôn là biểu tượng, hiện thân của cái đẹp, là một nửa của
thế giới. Phụ nữ được sinh ra với sứ mệnh cao cả đó là duy trì sự sinh tồn,
luân chuyển sự sống. Từ xa xưa đến nay, phụ nữ luôn là một đề tài quen
thuộc, hấp dẫn, một nguồn cảm hứng dồi dào và bất tận đối với sự sáng tạo
của các nghệ sĩ. Trong văn học truyền thống, ở mỗi một thời kỳ, hình tượng
người phụ nữ luôn được coi là tâm điểm.
Trong truyền thuyết nhân vật nữ được hiện lên vô cùng sinh động và
phong phú. Nhân vật nữ đại diện cho ước mơ và lý tưởng thẩm mỹ của nhân
dân. Tuy nhiên, những chuẩn mực thẩm mỹ của buổi ban đầu vẫn chưa được
thể hiện cụ thể, rõ nét, đầy đủ diện mạo của người phụ nữ. Vì thế mà người
phụ nữ trong truyền thuyết chủ yếu được xây dựng và thể hiện qua hành trạng
và một vài nét tính cách đơn giản và nhất quán.
1.2. Các kiểu nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt
Như chúng ta đã thấy, truyền thuyết là một thể loại truyện kể dân gian
nằm trong loại hình tự sự dân gian. Đặc điểm cơ bản nhất và nổi bật nhất là
8
tính hư cấu lịch sử. Hình tượng nhân vật lịch sử được hình tượng hóa và kì ảo
hóa theo quan điểm của nhân dân. Các nhân vật dù có được hư cấu hay là đích
thực lịch sử thì cũng đều có tên tuổi, gốc gác,… có một lịch sử rõ ràng gắn
với địa phương hay thời đại. Nhân vật nữ được xây dựng khá nhiều trong hệ
thống truyền thuyết dân gian người Việt. Truyền thuyết được sáng tạo theo
suốt chiều dài lịch sử dân tộc, vì vậy ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, các
nhân vật nữ lại được sáng tạo dưới sự chi phối khác nhau của quan niệm thẩm
mĩ nhân dân. Chúng tôi qua quá trình tìm đọc và khảo sát đã thống kê được số
lượng truyện tái hiện nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt.
Như vậy, qua bảng thống kê ở phần Phụ lục [Bảng 1], chúng ta thấy
truyện viết về nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt là các
truyện mà nhan đề cũng như nhân vật chính trong truyện là nữ. Nhân vật nữ
được các nghệ sĩ dân gian xây dựng chủ yếu xuất hiện trong các thời kì Âu
Lạc và Bắc thuộc (gồm 49/106 truyện như bảng trên), thời kì Pháp thuộc
(gồm 38/106 truyện như bảng trên) và mức độ xuất hiện ít trong thời kỳ
phong kiến tự chủ (19/106 truyện). Việc xây dựng nhân vật nữ trong các thời
kỳ với tần số xuất hiện khác nhau thể hiện ý thức phản ánh và lý giải lịch sử
cũng như thái độ tình cảm của các nghệ sĩ dân gian đối với nhân vật nữ.
Qua khảo sát 106 truyện chúng tôi đã thống kê được có 118 nhân vật
nữ (không kể dị bản). Nhưng nhân vật nữ này có xuất thân, địa vị, nghề
nghiệp và độ tuổi, chiến công khác nhau. Để người đọc có cái nhìn tổng quát
về các nhân vật nữ, chúng tôi đã phân loại các nhân vật nữ ở phần Phụ lục
[Bảng 2].
1.2.1. Nhân vật nữ trong kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất
Truyền thuyết dân gian đã dành một khối lượng lớn trang văn để ca
ngợi vị trí và vai trò quan trọng của nhân vật nữ trong sự nghiệp kiến tạo văn
hóa và lao động sản xuất. Qua bảng thống kê ở phần Phụ lục [Bảng 1], cho ta
9
thấy ở mỗi một thời kỳ việc xây dựng hình tượng các nhân vật nữ ngoài ý
thức phản ánh lịch sử còn thể hiện dụng ý riêng của tác giả. Các nhân vật nữ
với những tài năng khác nhau đã đóng góp trí tuệ và công sức của mình vào
đa dạng các lĩnh vực nghề nghiệp nhưng chủ yếu là lĩnh vực nông nghiệp.
Các truyền thuyết trong buổi đầu dựng nước đã thể hiện niềm tự hào
của nhân dân về tổ tiên, giống nòi, về nguồn gốc các dân tộc người. Vì thế mà
nhân vật nữ trong thời kỳ này được các nghệ sĩ dân gian xây dựng để giải
thích về cội nguồn nòi giống thiêng liêng, cũng như ca ngợi những anh hùng
văn hóa đầu tiên của nước Việt. Các nhân vật nữ được ngợi ca đó là nàng Âu
Cơ (Âu Cơ), người mẹ của dân tộc Việt. Nàng đã sinh ra bọc trăm trứng và từ
ấy nở ra một trăm người con, chia nhau đi khai hoang ruộng đất, mở rộng
lãnh thổ, cai quản bốn phương. Không những thế nhân vật nữ còn được ca
ngợi là những người chăm chỉ, cần cù và tiên phong trong lĩnh vực lao động
sản xuất. Sau này mẹ Âu Cơ đã giúp dân trồng cấy, làm nghề,… hay đó còn là
những người con gái đã giúp cua Hùng dựng nước, mở mang bờ cõi, cai trị
dân chúng như: con gái Tiên Dung dạy dân làm ăn (Truyện Nhất Dạ Trạch),
mở mang bờ cõi; con gái Ngọc Hoa dạy dân trồng lúa, dệt vải, hát múa…
Đến truyền thuyết thời phong kiến độc lập tự chủ về sau, khi nước ta
chấm dứt ách nô lệ, mở ra một thời kỳ độc lập của dân tộc thì nhân vật nữ
được khắc họa một cách sinh động, phong phú và đa dạng trong những ngành
nghề khác nhau để giúp dân, góp công sức trong sự nghiệp xây dựng đất
nước. Các nghệ sĩ dân gian đã vẽ ra một bức tranh trong lao động sản xuất
đầy sống động và hăng say. Việt Nam là nước có nền văn minh thuần nông vì
vậy nghề nghiệp chính của con người là nghề nông tang. Do đó, ở hầu hết các
truyện, các nghệ sĩ dân gian đã xây dựng các nhân vật nữ xuất hiện trong
khung cảnh lao động. Bà chúa Tó đang làm cỏ lúa trên đồng thì bắt gặp nhà
vua đi ngang qua (Bà chúa Tó), nàng Khiết Nương vì đang say sưa hái dâu
10
trên tằm nên đã không yết kiến nhà vua (Sự tích Ỷ Lan phu nhân), hay nàng
Dương Vân Nga hiện lên với vẻ đẹp đầy sức sống trong con mắt của hai chú
cháu nhà Đinh Bộ Lĩnh lúc nàng đang mải mê cắt cỏ (Hoàng hậu thời thơ
ấu),… Số lượng các nhân vật nữ xuất hiện trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm
20.7% trong tổng số 106 truyện. Họ chính là một trong những nguồn lao động
chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp.
Trong truyền thuyết, các nghệ sĩ dân gian xây dựng nhân vật nữ hầu hết
đều xuất thân từ những người nông dân nên cuộc sống của họ thường gắn liền
với cái quốc, cái cày, dưa muối… Vì thế mà các nhân vật nữ không những
giỏi trong lĩnh vực nông tang mà họ còn tài năng trong các ngành nghề khác
như nghề dệt, nghề làm muối, bốc thuốc và nghề ca hát,… Họ hăng hái tham
gia vào công cuộc lao động sản xuất để tạo ra nguồn lương thực dồi dào phục
vụ cho cuộc sống no đủ và dự trữ cho đất nước khi có giặc ngoại xâm. Đó là
những “anh hùng trong sản xuất” và được ngợi ca là chúa Lẫm (Bà chúa
Lẫm), chúa Tó (Bà chúa Tó) hay đó còn là bà chúa dệt Thụ La (Bà chúa dệt:
Thụ La công chúa) rất khéo tay, nhanh nhẹn và bằng sự thông minh của mình
mà vải của nàng dệt ra vừa bền lại vừa đó, có những nghề mà rất ít các nhân
vật nữ tham gia như nghề làm muối của nàng Nguyệt Ánh (Bà chúa Muối)
(chiếm 0.94%), nghề chế biến thực phẩm của mẹ Âu Cơ (Mẹ Âu Cơ tổ nghề
nông tang và chế biến thực phẩm) (chiếm 0.94%), nghề bốc và làm thuốc của
nàng Ngọc Hoa (Đại Yên và chuyện Trần Ngọc) và bà chúa Vĩnh (Bà chúa
Vĩnh) (chiếm 1.89 %),… Không những chăm chỉ cần cù trong công việc lao
động sản xuất, các nhân vật nữ còn sáng tạo ra những lời ca tiếng hát để mang
lại những phút giây thư giãn vui vẻ sau những giờ làm việc mệt nhọc. Từ đó
nhân dân sáng tạo ra nghề hát với các làn điệu dân ca phong phú, đặc trưng
của từng vùng miền. Số lượng nhân vật nữ sáng tạo ra lời ca tiếng hát chiếm
số lượng 5 truyện trên tổng số 106 truyện (chiếm 4.72%). Đó là Vua Bà Nhữ
11
Nương là người đã sáng tạo ra những câu hát quan họ. “Tiếng hát của nàng…
bừng bừng như năn nỉ, nó khắc khoải, oán trách, lưu luyến vấn vương… Hiện
nay có đến 49 làng ở Hà Bắc hằng năm mở hội hát quan họ” (Vua Bà), hay đó
là Lầu Slam đã sáng tạo ra nhiều điệu hát cho dân tộc Cao Lan như véo ca,
cục tờ u, ú múng ca,... (Lầu Slam - Bà chúa thơ)…
Không những trực tiếp tham gia vào lĩnh vực sản xuất mà các nhân vật
nữ còn được ca ngợi như những danh nhân văn hóa, những người có công
khai sáng, phát minh ra những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của nhân
dân. Vì thế mà trong đời sống cộng đồng họ đã để lại những công trình kiến
trúc có giá trị văn hóa nghệ thuật cao. Trong Sự tích Ỷ Lan phu nhân, nàng Ỷ
Lan ở thời Lý đã cho xây dựng 72 ngôi chùa, xây tháp Bảo Thiên để trấn giữ
quốc gia trước giặc xâm lược.Trong dị bản Bà phù thánh linh nhân (Bà Ỷ
Lan) thì nàng Ỷ Lan đã sáng tạo ra nghi thức tắm Phật. Hay bà chúa Tó (Bà
chúa Tó) đã giúp nhân dân tạo ra món ăn mới để cung cấp lương thực cho
cuộc chiến. “Chúa Tó có sáng kiến làm bánh chè Lam, làm Cốm nếp nhào
mật để quân sỹ có lương khô ăn đường”… Món ăn đặc sản của vùng Kẻ Hữu
đã trở thành nét riêng biệt và hấp dẫn trong ẩm thực Việt Nam.
Như vậy để làm được những công việc như trên, các nhân vật nữ trong
truyền thuyết dân gian đã ý thức được sự phân chia về lãnh thổ bờ cõi của đất
nước cũng như ý thức được vai trò và vị trí của mình trong xã hội.
1.2.2. Nhân vật nữ trong chiến đấu
Hình ảnh nổi bật, gây ấn tượng mạnh mẽ của người phụ nữ Việt Nam
đó là sự dũng cảm hy sinh của họ trên chiến trường. Khi đất nước có giặc
ngoại xâm, những người phụ nữ sẵn sáng đứng dậy, xả thân vì nền độc lập
của dân tộc và họ chính là những người phải chịu nhiều thiệt thòi và đau
khổ nhất.
12
Qua bảng thống kê ở phần Phụ lục [Bảng 2], chúng tôi xin đưa ra
những nhận xét như sau:
Thứ nhất, trong tổng số 106 truyện kể về nhân vật nữ thì có tới 56
truyện ca ngợi những người phụ nữ với vai trò là những người những người
thông minh, tài giỏi, hiên ngang. Họ chính là những cô gái “đầu đội trời, chân
đạp đất”, hiên ngang sánh vai cùng cùng các bậc nam nhi, trực tiếp cầm vũ
khí chiến đấu xông pha trận mạc để đánh đuổi quân thù xâm lược, giành lại tự
do cho đất nước, cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Bằng tình yêu nước
nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc những người phụ nữ ấy đã làm nên
những chiến thắng oanh liệt cho dân tộc. Họ trở thành những “anh hùng chiến
đấu” cho dân tộc như hình ảnh người con gái ít tuổi, khỏe mạnh đã xuống núi,
xin vua được đi đánh giặc Ân. Nàng chỉ lấy đá mà ném đã giết được giặc
trong nhiều trận (Người con gái núi Tam Đảo), Hai Bà Trưng (Bà Trưng Nhị
và thành Dền) đã chống lại quân nhà Đông Hán để giành lại chủ quyền cho
nước nhà, nàng Thục Nương (Sự tích Bát Nàn công chúa) hai tay cầm hai
thanh kiếm chém mươi thủ cấp tỳ tướng của Tô Định… Sau này đó là hình
ảnh của kiên cường của cô bé Trần Ngọc Hoa, chín tuổi đã theo Lý Thường
Kiệt giết giặc Chế Ma Na ở Chiêm Thành vào năm 1103 (Đại Yên và chuyện
Trần Ngọc Hoa)…
Thứ hai, trong tổng số 106 truyện viết về nhân vật nữ thì có 32 truyện ca
ngợi nhân vật nữ là những người mẹ sinh ra những người con anh hùng, tài giỏi.
Trước sự biến động đầy cam go dữ dội của đất nước, trước sự xâm lăng
đô hộ từ kẻ thù thì những người phụ nữ đã hạ sinh cho quê hương, đất nước
các thế hệ anh hùng hào kiệt. Đó là năm anh em nhà chàng Vịt, Mộc Hoàn và
Lý Bí, Triệu Quang Phục… Họ là những người anh hùng hào kiệt đã dũng
cảm xông pha chiến trận để mang lại hòa bình cho đất nước.
13
Truyền thuyết đã ca ngợi bà mẹ Chiên Nương, người mẹ đã sinh ra
người con “thông minh thần vũ, có tài dẹp loạn, tích trữ binh lương, mưu đồ
đại sự”. Đó chính là Đinh Bộ Lĩnh trong lúc “đất nước không có vua, các hào
trưởng nổi lên xưng vương cát cứ mỗi người một phương” thì ông đã cùng
các tướng sĩ đi dẹp loạn được mười hai sứ quân, “thu gom non sông về một
mối”. Ngoài ra còn những người con tài giỏi khác như Phạm Thành, Đinh
Điền, Phạm Hạc, Lưu Công, Lĩnh Sát,… Họ đã đóng góp công sức và trí tuệ
của mình vào sự thắng lợi chung của đất nước (Sự tích bà mẹ Đinh Tiên
Hoàng và các công thần). Bà Lan Hoa đã sinh ra Trù Công, một người “học
một biết mười, không gì không tỏ tường”. Sau này Trù Công đã theo Bà
Trưng đánh đuổi giặc Tô Định (Sự tích anh em Trù Công và Thuận Nương
giúp bà Trưng đánh đuổi Tô Định). Hay đó là người mẹ Tạ Cận sinh ra anh
hùng Đường Hoàng. Đó là người “tướng mạo khôi ngô, thiên tư dĩnh ngộ,
thông minh khác thường, khi ngài lên ba tuổi đã biết lễ nghĩa, biết kính
nhường. Đến năm 13 tuổi ngài đã văn võ kiêm toàn, ai ai cũng khen là một
ông thánh” (Sự tích Đường Hoàng thời vua Trưng)…
Những người mẹ ấy không chỉ sinh ra những nam anh hùng thông minh
xuất chúng mà còn sinh ra những nữ anh hùng quả cảm và vô song. Đó là
những cô gái xinh đẹp, thông minh và đầy sự dũng cảm. Nàng Quế Nương và
Dung Nương con của ông bà Lý Châu ở đời Hậu Ngô đều có nhan sắc tuyệt
đẹp không những thế hai nàng còn am hiểu về thiên văn địa lý, võ nghệ cũng
thành thạo. Hai nàng đã cùng với các anh của mình đánh thắng giặc Ma Na
(Quế Nương và Dung Nương); đó là nàng Ngọc Xiêm dung mạo phi thường
đã giúp vua Trần Anh Tông đánh đuổi giặc Nguyên xâm lược (Truyện nàng
công chúa đời Trần); nàng Thục Nương con gái của ông Vũ Công Chất và bà
Hoàng Thị Mậu, người thành Phong Châu. Nhan sắc của nàng vào bậc “tuyệt
thế giai nhân, đọc sách khắp cả Chư tử Bách gia không sách nào không thiệp
14
liệp qua, lại giỏi đường gươm mũi giáo”. Vì thế Thục Nương được các bậc
anh hùng gọi là “Thánh nữ giáng trần”. Sau này Thục Nương đã tự xưng là
Bát Nàn đại tướng quân kêu gọi các anh em hào kiệt ở khắp nơi giết Tô Định.
Nàng đã trở thành nữ tướng tài ba dưới thời Hai Bà Trưng (Sự tích Bát Nàn
công chúa); đó còn là các nàng Ả Tú, Ả Huyền và Thượng Cát cùng với Hai
Bà Trưng đã đánh thắng quân Mã Viện (Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát
ba nữ tướng thời Hai Bà Trưng) hay là nàng Phật Nguyệt tài năng và nhan sắc
hơn người đã trở thành một vị nữ tướng giỏi đánh tan quân Mã Viện (Đinh
Thị Phật Nguyệt)… Tất cả những cô gái ấy đều trở thành những nữ anh hùng
hào kiệt có đóng góp to lớn vào nền hòa bình của đất nước.
Qua khảo sát trên chúng ta thấy mặc dù người mẹ không trực tiếp cầm
vũ khí đánh giặc trên chiến trận nhưng họ là những người gián tiếp góp công
sức của mình vào sự nghiệp chiến đấu của nước nhà là sinh ra các anh hùng
cho thời đại.
Thứ ba, trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi thấy rằng ngoài
những truyền thuyết viết về những nữ tướng có tên tuổi, quê quán trực tiếp
tham gia giết giặc cứu nước thì các nghệ sĩ dân gian còn kể về những người
dân thường, những người phụ nữ vô danh đã tham gia đánh giặc cứu nước
bằng mọi cách.
Trong truyện Người con gái núi Tam Đảo, nghệ sĩ dân gian đã ca ngợi
nhân vật nữ không tên gọi bằng cái tên chung là người con gái. Nàng mặc dù
nhỏ tuổi nhưng rất anh dũng đã xin vua xung phong đi đánh giặc Ân; đó còn
là người phụ nữ vô danh đã mang lương thực ủng hộ quân nhà Trần và mách
ngày con nước của sông Bạch Đằng cho Trần Hưng Đạo bố trí mai phục mà
nay còn có đền thờ ở gần sống Bạch Đằng, gọi là đền Vua Bà [6, tr. 71].
Trong truyện Cánh đồng mẫu hậu, ca ngợi người đàn bà không tên đã
giúp đoàn quân của Lê Lợi trong lúc quân của ông bị quân minh đuổi; hay đó
15
là mụ hàng dầu đã giúp Lê Lợi trong trận chiến với giặc Minh. Mụ hàng dầu
giàu lòng yêu nước, ngày ngày gánh dầu tiếp tế hàng ba bốn chuyến cho quân
đội (Sự tích núi dầu); trong truyện Bán cháo ca ngợi về người phụ nữ không
tên đã đóng góp công sức của mình vào công cuộc đánh đuổi bọn xâm lược
Mãn Thanh. Hàng ngày bà tất bật nấu cháo cho các quân sĩ;…
Tiểu kết chương 1
Như vậy, truyền thuyết là truyện kể về những nhân vật và sự kiện hư cấu
hay xác thực, có liên quan - ảnh hưởng tới lịch sử trọng đại của dân tộc. Qua đó
nhân dân thể hiện ý thức và thái độ đối với nhân vật và sự kiện lịch sử.
Nhân vật trong truyền thuyết được lựa chọn và phản ánh là những nhân
vật lịch sử thu hút được sự chú ý của nhân dân và những nhân vật này đều có
tầm vóc nhất định trong lịch sử dân tộc. Thông qua việc khắc họa hình tượng
nhân vật truyền thuyết, các tác giả dân gian đã thể hiện quan niệm nghệ thuật,
khuynh hướng phát triển của tư tưởng thẫm mỹ, mang đậm tính nhân dân
trong trường kỳ lịch sử dân tộc…
Trong truyền thuyết, thế giới nhân vật nữ hiện lên khá đa dạng và phong
phú. Đó là những người phụ nữ vừa có vẻ đẹp ngoại hình lẫn vẻ đẹp đời sống
và tính cách. Đó có thể là những cô gái còn rất trẻ, hay những người mẹ sinh ra
những người con anh hùng, những người vợ thông minh, thủy chung giúp
chồng dựng xây sự nghiệp nước nhà thậm chí là những người phụ nữ vô danh.
Tất cả những con người đó đều có vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội. Mỗi
người đều có trí tuệ tài năng, công việc khác nhau nhưng điểm chung của họ là
đều có lòng yêu nước và dũng cảm để hiên ngang chống trọi với kẻ thù gian ác.
Những người phụ nữ ấy chính là sự hóa thân của cộng đồng.
16
Chương 2
NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT CHỦ ĐỀ
XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
Theo Ph. Ăngghen: “Tất cả các dân tộc trong quá trình phát triển lịch
sử của nó đều phải trải qua thời đại anh hùng”. Đó là thời kì con người bứt ra
khỏi đời sống dã man, bước vào chế độ văn minh đầu tiên. Thời kì được đánh
dấu bằng những chiến công lao động và những biến đổi xã hội sâu sắc.
Nội dung chủ yếu của các truyền thuyết với chủ đề xây dựng đất nước
là ngợi ca chiến công thiên nhiên, lao động sản xuất, chống xâm lấn bảo vệ
cộng đồng, khẳng định sức mạnh và ý thức lịch sử của tập thể trong quá trình
phát triển lịch sử đó. Vì thế mà các nhân vật nữ được các nghệ sĩ dân gian xây
dựng trong thời kỳ này không những để giải thích về nguồn gốc con rồng
cháu tiên của nhân dân Việt mà còn ca ngợi họ trong vai trò kiến tạo văn hóa
và lao động sản xuất.
2.1. Ngoại hình, diện mạo
Phụ nữ chính là một nửa của thế giới, vậy nên hình tượng người phụ nữ
từ xưa cho tới nay đã đi vào văn học một cách hết sức tự nhiên với một vẻ đẹp
riêng, một sức hút riêng. Do đó mà trong cuốn danh ngôn viết về người phụ
nữ thì Lessinh đã khẳng định “đàn bà là kiệt tác của vũ trụ”. Vì thế vẻ đẹp của
những người phụ nữ trước hết được thể hiện ở ngoại hình với những đường
nét gợi cảm, như một kiệt tác của thiên nhiên ban tặng.
Ngoại hình là khái niệm chỉ hình dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ,
tác phong… tức toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài của nhân
vật. Có nhiều cách khắc họa ngoại hình nhân vật: thông qua ngôn ngữ người
kể chuyện; thông qua ngôn ngữ hoặc cái nhìn của nhân vật khác trong tác
17
phẩm; thông qua những tình huống và hoạt động của nhân vật được miêu tả…
Ngoại hình là một trong những yếu tố biểu hiện tính cách nhân vật, góp phần
tạo nên một nhân vật hoàn chỉnh. Trong văn học viết sự đa dạng trong việc
miêu tả ngoại hình của nhân vật tùy thuộc vào phong cách sáng tạo riêng của
mỗi nhà văn. Với chủ nghĩa lãng mạn thì các nhà văn thời kì này khi miêu tả
nhân vật thường lý tưởng hóa nhân vật. Còn sang với chủ nghĩa hiện thực thì
vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật được thể hiện một cách chân thực và sinh
động nhất.
Tuy nhiên trong văn học dân gian thì việc miêu tả ngoại hình, diện mạo
nhân vật chưa mang một “dụng ý nghệ thuật” và có nguyên tắc riêng như trong
văn học viết. Các nghệ sĩ nhân gian cũng chú trọng đến yếu tố ngoại hình nhưng
nó chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định nào đó. Và đối với thể loại truyền thuyết
thì việc miêu tả ngoại hình nhân vật cũng có thể là điểm nhấn của mạch trần
thuật.
Đến với truyền thuyết dân gian người Việt khi miêu tả về vẻ đẹp ngoại
hình, diện mạo của nhân vật nữ, ta bắt gặp đầu tiên là vẻ đẹp khỏe khoắn, tràn
đầy sức sống. Trong truyện Người con gái núi Tam Đảo, nhân vật nữ được
miêu tả là có vẻ ngoài trông “khỏe khoắn, che thân bằng vỏ cây… đi lại
chuyền nhảy nhanh như sóc, nhẹ như vượn”. Sau này khi đứng trước mặt
Lang Liêu thì người con gái ấy lại được miêu tả “mắt sáng long lanh, gương
mặt tươi tắn đỏ hồng, vóc dáng xinh đẹp khỏe mạnh, vua rất vui đón về kinh
đô làm lễ cưới”. Nhân vật Mụ giạ (Mụ giạ) cũng được giới thiệu với vẻ bề
ngoài “to cao, khỏe mạnh”. Chính sức vóc ấy mà bà đã được nhà vua tin
tưởng và giao cho trọng trách rất quan trọng đó là mở mang bờ cõi.
Truyền thuyết viết về nhân vật nữ còn ca ngợi họ với vẻ đẹp đoan trang
của người phụ nữ phương Đông. Nàng Khiết Nương tức Hoàng thái hậu sau
này (tên là Yến, lại có tên là Cám) có “dung mạo đoan chính lại gồm đủ tứ
18
đức (công, dung, ngôn, hạnh)”. Vẻ đẹp của nàng nhẹ nhàng hòa vào đất trời
bình yên lại thêm có mây ngũ sắc che đầu khiến vua càng mến mộ (Sự tích Ỷ
Lan phu nhân); nàng Nguyệt Ánh được miêu tả với vẻ đẹp “không những đẹp
người lại đẹp nết”. Không những thế nàng còn có “đôi tay đẹp, trên đầu lại có
đám mây che” khiến ai gặp mặt cũng phải yêu mến (Bà chúa Muối).
Các nhân vật nữ trong truyền thuyết còn sở hữu vẻ đẹp gợi cảm lôi
cuốn và đầy hấp dẫn. Trong truyện Bà chúa Lẫm đã khắc họa vẻ đẹp “lồ lộ
đương xuân” của nàng chúa Lẫm. Cảm vì nhan sắc cũng như trọng mến sự
thông minh ý tứ của nàng mà chàng hoàng tử nhà Lý đem lòng yêu nàng và
muốn cưới làm vợ. Và rồi duyên tình của “trai anh hùng sánh với gái thuyền
quyên” ngày càng khăng khít và nồng đậm. Sắc đẹp của nàng là khởi nguồn
của hạnh phúc. Hay đó là bà chúa Mía tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Liệu có
“sắc đẹp hơn người” vì thế mà bà được tuyển vào cung chúa Trịnh, dưới triều
Lê Thần Tông, đầu thế kỷ XVII (Bà chúa Mía).
Các nghệ sĩ dân gian còn thể hiện vẻ đẹp kì lạ khác thường ở các nhân
vật nữ trong truyền thuyết. Vẻ đẹp ấy được thể hiện sinh động qua bà chúa
Binh (May áo chồng bằng hơi thở ấm). Bà là một võ nữ nên sức vóc được
miêu tả là phi thường. Khi bà làm việc, “đôi vú to của bà đập vào đòn cào,
vào cán cào, cán cuốc nghe đồm độp cả ngày”. Chính vì sức vóc như vậy, nên
mùa đông đứng bên bà thì như đứng bên đống sưởi. Hay nàng Nhữ Nương
được các nghệ sĩ dân gian miêu tả diện mạo với vẻ khác thường so với các chị
em cùng trang lứa. Ai cũng môi son má đỏ, da trắng tóc dài, thân hình đầy
đặn thì nàng lại sở hữu vóc dáng “thấp gầy, da lại đen… trông cô gái lờ đờ
ngơ ngác… hồn vía để đi đâu mất rồi” (Vua Bà).
Vẻ đẹp ngoại hình, diện mạo của các nhân vật nữ còn được thể hiện
thông qua những câu khái quát ngắn gọn. Tác giả dân gian sử dụng vẻn vẹn
ba từ để nói về nhan sắc “rất xinh đẹp” của nàng Âu Cơ (Âu Cơ), bà chúa Vót
19
(Bà chúa Vót), bà chúa Tó (Bà chúa Tó) và Hoàng Phủ Thiếu Hoa (Bà tổ
nghề dệt lụa).Còn các nhân vật nữ như Ngọc Đài (Bà Ngọc Đài), Nguyễn Thị
La (Bà chúa dệt: Thụ La công chúa) thì được ca ngợi với vẻ bên ngoài là “tài
sắc tuyệt vời”. Vẻ đẹp ngoại hình diện mạo của Ngọc Đô thì được xếp vào
hàng “sắc nước hương trời” (Bà chúa thiên niên), còn nàng Quế Nương có
nhan sắc “nghiêng nước nghiêng thành” (Thánh mẫu thượng ngàn).
Như vậy, chúng ta thấy rằng vẻ đẹp ngoại hình, diện mạo của các nhân
vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề xây dựng đất nước được miêu tả một
cách khái quát. Và dù được miêu tả, khắc họa theo cách nào đi chăng nữa thì
trong truyền thuyết, các nhân vật nữ đều có ngoại hình đẹp.
2.2. Phẩm chất, tài năng
Truyền thuyết dân gian người Việt không những ca ngợi vẻ đẹp ngoại
hình của nhân vật nữ mà còn dành những trang văn để miêu tả vẻ đẹp phẩm
chất và tài năng của họ. Họ là những người đẹp về cả ngoại hình lẫn tâm hồn,
tài năng.
Viết về tài năng của các nhân vật nữ, truyền thuyết ca ngợi họ với tài
năng văn học, ca hát. Trong truyện Bà pháp tính: bà chúa Kim Cương có ghi
lại bà Trịnh Thị Ngọc Trúc nguyên là một vị quận chúa, con gái của Trịnh
Tráng, sống vào thế kỷ XVII ở nước ta. Bà thông hiểu cổ kim, nhất là có
nhiều suy nghĩ về tiếng nói và chữ viết của nước nhà. Bà đã biên soạn được
một cuốn sách đặc sắc, là cuốn “Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa”. Chữ Nôm
được sử dụng vào thơ phú từ đời Trần và sang đời Lê thì rất thịnh. Nhưng
chưa có ai làm sách từ vị, thu thập giải nghĩa các tiếng và cách viết. Cuốn
sách của bà là một đóng góp cho nền văn hóa Việt Nam. Mãi cho đến nhiều
năm về sau, vẫn chưa ai lưu tâm viết những loại sách như thế.
Nàng Nguyễn Thị Kể sinh ra trong gia đình nghệ thuật ca xướng. Vì
thế khi lớn lên nàng Kể trở thành một ca nữ có giọng hát hay, tài sắc nổi danh
20
khắp cả một vùng. Chính tài năng ấy đã làm nao lòng chúa Trịnh và nàng
được làm cung phi. Ở trong cung vì tinh thông âm luật, nàng luôn bày vẽ cho các
đội nữ nhạc tiếng đàn dạy hát, gây được không khí hồ hởi, lan rộng ra cả ngoài
đô thành Thăng Long. Được chúa Trịnh yêu quý nên sau này nàng cũng đã dành
những lời khuyên giúp chúa cai quản đất nước hợp lòng dân (Bà Tri Chỉ).
Tài năng ca hát còn thể hiện rõ ở bà Ngọc Đài (Bà Ngọc Đài). Bà là
người con gái họ Phùng, là một đào nương danh tiếng hồi đầu thế kỷ XVII ở
nước ta. Bà nghĩ ra một trò vui cho dân đó là cho họ vác mai cuốc, xếp hàng
lại với nhau thành những chữ Hán như “Quốc Thái dân an”, “Thiên hạ thái
bình”… Người này cầm cờ, người kia múa hát, sắp thành các điếm, các đội,
một người điều khiển cả đội gọi là “Tổng Cờ”. Từ đó đến ngày hội, để cho
đẹp mắt người dân đã thay những cán cuốc cán mai bằng những cây gậy quấn
giấy xanh đỏ, buộc tua ở đầu và những cây cờ ngũ sắc. Họ cũng xếp thành
những chữ để múa hát. Bà Ngọc Đài đã tạo ra trò chơi bổ ích để giải lao cho
nhân dân sau những giờ lao động mệt nhọc. Sau này nhân dân tôn bà làm
thành hoàng làng Bảo Ngũ. Chính bà là người đã sáng kiến ra hội kéo chữ,
một trò diễn đẹp mắt mà mang đậm ý nghĩa văn hóa.
Hay nàng Bạch Hoa (Mãn đào hoa công chúa) con của viên quan châu
Bạch Đình Sa. Nàng có nhan sắc đẹp tuyệt trần, giọng hát hay điệu múa dẻo.
Bạch Hoa cùng với chồng của mình chăm chú dạy nghề đàn hát cho lớp trẻ ở
trong vùng khiến quan khách ai ai cũng phải trầm trồ khen ngợi. Từ tài năng
ca hát của hai vợ chồng mà Cổ Đạm làng quê của hai người trở thành đất
thanh lịch, thịnh hành lối hát ả đào từ xưa đến nay chưa hề có trên đất nước
ta. Dân làng Cổ Đạm lập đền thờ tôn là Mãn Đào Hoa công chúa – là vị tổ của
ngành hát ả đào.
Trong truyện Sự tích hát xoan đã ca ngợi nàng Quế Hoa xinh đẹp bằng
tài năng ca hát của mình nàng đã giúp cho vợ của vua Hùng quên đi cơn đau
21
mà sinh được ba người con trai khôi ngô đẹp đẽ. Quế Hoa ở gần thành Phong
Châu, nàng múa giỏi hát hay, tay uốn chân đưa, người mềm như tơ, dẻo như
bún ai cũng phải mê. Vua Hùng đã vô cùng vui mừng, mới bảo các mỹ nương
học lấy điệu múa hát của nàng và gọi là hát Xuân hay chính là hát Xoan; nàng
Nhữ Nương (Vua Bà) mặc dù không sở hữu vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân giống
như những cô gái khác nhưng khi nhập vào cuộc ca hát thì Nhữ Nương trông
rất linh hoạt, duyên dáng hẳn lên. Khi nàng cất lên tiếng hát thì lời ca vừa bay
bổng vừa chân thực, khi ngộ nghĩnh, hồn nhiên, khi thấm thía ân tình. Giọng
hát, lời ca của Nhữ Nương đã tạo cho cô một khuôn mặt mới, kỳ ảo và mê
đắm lòng người. Nàng đam mê hát đến nỗi vừa làm nàng vừa nhẩm những
câu hát chợt nghĩ ra. Giọng ca của nàng âm vang trên mặt sóng đồng không.
Từ những sườn đồi cỏ mọc lút đầu, tiếng ca Nhữ Nương vút lên hòa với tiếng
líu lo chim ngàn, tiếng rì rào bờ sông nước chảy… Nàng có thể cất lời ca
tiếng hát ở khắp mọi nơi lúc rảnh rỗi cũng như làm việc trên cánh đồng. Tiếng
hát của nàng khiến người già nghe thấy trẻ lại, người trẻ nghe thấy chân tay tự
nhiên gõ nhịp, miệng mấp máy hát theo… Nhữ Nương thường khuyến khích
các bạn trong làng: “Cứ hát đi, đừng ngại không có giọng. Cốt nhất trong lòng
mình muốn hát lên… ”. Nàng còn dạy các bạn tập hát, chẳng bao lâu khắp
làng đều vang lên tiếng hát. Bên gái bên trai họp thành bọn, hát đối đáp thâu
đêm. Giọng hát đầy huyền bí ấy đã làm mê mẩn vị hoàng tử con út của vua
Thủy Tề. Bao nhiêu lần nàng hát chàng cũng đều ở dưới lắng nghe. Sau này
mỗi một cuộc hát quan họ đều được mở đầu bằng câu:
“Thủy tổ quan họ làng ta
Những lời ca xướng Vua Bà sinh nên… ”
Các nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những người thông
minh và tài giỏi. Nàng chúa Lẫm (Bà chúa Lẫm) không chỉ là người thông
minh mà còn là người tinh tế và chủ động. Khi hoàng tử đang lang thang giữa
22
cánh đồng bộn bề nước trắng, trời lại đang tối và chàng đói bụng nên đành
tìm nơi nghỉ trọ. Khi thấy túp lều nhỏ, hoàng tử lên tiếng gọi. Nhưng trong
túp lều chỉ có người con gái nên hoàng tử lúng túng và định quay đầu ra về.
Đứng trước sự ngại ngùng lúng túng của hoàng tử, nàng đã nhanh ý tiếp lời:
“Xin chàng chớ ngại, ở đây đâu chỉ có chàng với thiếp, mà còn có ngọn đèn
này nữa”. Ngọn đèn là vật vô tri vô giác nhưng bằng sự nhạy cảm và tinh tế
nàng đã biến nó giống như vật thể sống. Nàng khuyên hoàng tử đừng ngại vì
trong phòng không chỉ có chàng với nàng mà còn có cả ngọn đèn nữa. Thấy
cô gái sáng ý và tha thiết nên hoàng tử đã vui lòng ở lại.
Trong truyện Bà Kiệt Đặc, ca ngợi người con gái Nguyễn Thị Duệ
thông minh và học giỏi. Năm mười tuổi, cô bé chưa được đi học mà đã biết
đọc sách, truyện và viết tập làm văn. Nguyễn Thị Duệ có tinh thần ham học
hỏi, để được đi học thì nàng đã xin cha mẹ được cải trang thành con trai “mặc
quần áo nam giới, không xêu lỗ tai” và cô đã đỗ tiến sĩ. Với tấm lòng thật thà
và tài năng của bản thân thì nàng được giữ lại trong cung để dạy dỗ cho cung
nữ. Thậm chí khi bà giao thiệp với các nhà khoa bảng cùng các trọng thần
uyên bác, ai cũng phải công nhận bà có trình độ học vấn sâu sắc và có đạo
đức thanh cao. Khi được vua Lê chúa Trịnh hỏi ý kiến về các việc liên quan
đến chính sự, Nguyễn Thị Duệ tìm ngay được những câu chuyện hoặc tấm
gương tương tự trong sử sách đời xưa để trả lời, ngụ ý khuyên răn vua chúa
cần phải theo đường chính học, chăm sóc đời sống của nhân dân. Trong triều
đình ai cũng ngượng mộ và kính phục nàng.
Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những con người có
đời sống tâm hồn cao đẹp. Nét đẹp chịu thương chịu khó, nết na và hiếu nghĩa
chính là vẻ đẹp chung của các nhân vật nữ trong truyền thuyết.Đó là nàng
Khiết (Sự tích Ỷ Lan phu nhân), người con rất đảm đang. Khi mẹ mắc bệnh,
cha thì đi phục dịch quan chưa về, ở nhà nàng lo toan mọi việc. Nàng Khiết
23
ngày ngày cơm cháo thuốc thang cho mẹ, hết sức lo tròn đạo hiếu. Nhà vua
Lý Thánh Tông đã từng ca ngợi nàng: “Đây quả là người có đức, có lẽ là
người có một không hai trong thiên hạ”. Chính bởi đức tính tốt ấy mà nhà vua
phong nàng làm Ỷ Lan phu nhân.
Sự chịu thương chịu khó còn được tái hiện rõ nét ở nàng Nhữ Nương
(Vua Bà). Rời quê nhà Nhữ Nương đi mọi nơi để kiếm sống. Nhiều người ái
ngại trước cảnh sống của cô nhưng cô đã nói: “Ta tuy tứ cố vô thân, nhưng
không muốn làm con chim hót tiếng đau xót trong lồng giam… Ai thương ta
trơ trọi độc, liệu có đông bầu bạn thân thích bằng ta không? Ta có trời đất làm
cha mẹ, có núi sông làm anh chị, còn chim bướm hoa cỏ đều làm bạn bè…
Còn ai sướng hơn ta nữa”. Nhữ Nương không hề than phiền hay sợ cuộc sống
nghèo khổ. Nàng lặn lội khắp đồng xa đồng gần mò tôm bắt cá, kiếm con cua
con ốc mang về đổi lấy lẻ gạo sống qua bữa. Suốt ngày làm lụng vất vả, quần
áo ướt sũng, lấm lem bùn đất nhưng Nhữ Nương vẫn vui. Bằng tinh thần chịu
thương chịu khó mà nàng Nhữ Nương đã vượt qua được sự nghèo khổ trong
cuộc sống.
Đó còn là bà Chúa Binh, một võ nữ có sức vóc phi thường và rất chăm
chỉ, chịu khó. Bố mẹ mất sớm, một mình bà vỡ đồi, cuốc bãi hoang hàng chục
mẫu ruộng mà chẳng nhờ và thuê mượn một ai cả. Bà làm một mình tất cả các
công việc đồng áng từ gặt lúa, gánh lúa cứ quần quật hết cánh đồng này sang
cánh đồng khác. Bà làm rất giỏi và nhanh. Tác giả dân gian đã ghi “đôi vú to
của bà đập vào đòn cào, vào cán cào, cán cuốc nghe đồm độp cả ngày”. Vơi
sự chịu thương chịu khó ấy sau này bà đã có công rất lớn trong cuộc chiến
chống giặc ngoại xâm phương Bắc (May áo cho chồng bằng hơi thở ấm).
Trong truyện Dương Vân Nga, đó là hình ảnh chăm chỉ cần cù của
nàng đã được chú cháu Đinh Bộ Lĩnh bắt gặp khi nàng đang cắt cỏ và hát:
“Tay cầm bán nguyệt xênh xang
24
Muôn ngàn ngọn cỏ hai hàng tay ta”.
Lao động không khiến nàng thấy vất vả, ngược lại càng làm cho cuộc
sống của nàng có ý nghĩa và tinh thần phấn chấn hơn.
Nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ còn thể hiện qua tầm nhìn xa trông
rộng của mỗi người. Ta bắt gặp điều đó qua hình ảnh bà chúa Lẫm (Bà chúa
Lẫm). Bố mẹ nàng mất sớm, sống trong cảnh nghèo khó thế nhưng nàng lại
không muốn nương tựa nhờ cậy ai mà tự mình làm túp lều có chỗ ở để kiếm
sống. Hoàn cảnh càng khó khăn thì nàng lại càng mạnh mẽ vượt lên trên số
phận. Những lời nàng tâm sự khiến cho hoàng tử rất ngưỡng mộ. “Thiếp nghĩ
giàu nghèo là tự tay mình làm ra. Cứ chăm chỉ rồi sẽ khá lên, phải không
chàng? Người ta đi gặt ăn tuồng bỏ vãi, thiếp cứ đi cóp nhặt lại của họ mà lại
được nhiều thóc hơn. Gần đây có kho lương, thiếp cứ đào hang chuột cũng
khối thóc…
Hoàng tử không ngờ người con gái quê mùa chân thực lại có tâm sự
hơn người đến thế”.
Như vậy, truyền thuyết dân gian đã khắc họa tài năng và đời sống
tâm hồn của những người phụ nữ rất phong phú và đẹp đẽ. Họ xuất thân từ
tầng lớp bình dân vì thế mà sớm sớm đã phải chịu nhiều khổ sở, vất vả.
Chính trong những hoàn cảnh khốn khó đó mà những người phụ nữ mới
hình thành những tài năng và phẩm chất, đạo đức cao quý. Sự vất vả, nghèo
khổ không làm cho con người đầu hàng trước số phận. Nhân vật nữ vẫn
yêu đời và lạc quan trong cuộc sống. Đó chính là một trong những phẩm
chất đáng quý của người phụ nữ.
2.3. Hành trạng
Những nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những người
anh hùng trong kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất. Đó là những người phụ
nữ chăm chỉ cần cù, chịu thương chịu khó lao động sản xuất, những người
25
sáng tạo ra những giá trị tinh thần mang đậm văn hóa Việt. Khi đất nước có
giặc ngoại xâm các nam giới đều ra chiến trận khi đó những người phụ nữ trở
thành lực lượng nòng cốt trong lao động sản xuất. Họ trở thành nguồn lao
động chủ yếu và quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Vì thế mà hành trạng
của các nhân vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề xây dựng đất nước gắn
liền với công cuộc kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất.
Các nhân vật nữ đã tham gia rất tích cực vào lĩnh vực lao động sản
xuất. Đó là cô gái ở ấp Hoa Xá, tả Thanh Oai (nay thuộc huyện Thanh Trì,
ngoại thành Hà Nội) đang làm việc chăm chỉ giữa trưa. Khi vua Lê Đại Hành
thấy vậy đến hỏi thì nàng dõng dạc trả lời: “Nhà vua có việc của nhà vua,
chúng em có việc của chúng em. Nhà vua dẹp giặc nước, chúng em dẹp giặc
cỏ”. Trước lời nói của cô gái nông dân ấy nhà vua rất lấy làm nể phục. Hình
ảnh của nàng chúa Tó đang hăng say làm cỏ lúa giữa ruộng cũng chính là
hình ảnh của các cô gái thời chiến. Cho dù có khó khăn, vất vả thì họ luôn
hăng say miệt mài lao động. Họ chính là những người trực tiếp làm ra lương
thực thực phẩm để cung ứng cho các quân sĩ ngoài chiến trận (Bà chúa Tó).
Nhân vật nữ chính là những người giúp dân tạo dựng nghề nghiệp và
truyền nghề cho nhân dân. Đó là mẹ Âu Cơ, dân gian ca ngợi nàng là bà tổ
nghề nông tang và chế biến thực phẩm (Mẹ Âu Cơ tổ nghề nông tang và chế
biến thực phẩm). Khi nàng Âu Cơ sinh ra được bọc trăm trứng, trứng nở ra
thành một trăm người con trai thì các con đã chia tay nhau. Năm mươi người
con theo mẹ Âu Cơ về núi Phong Sơn nay là huyện Bạch Vạc Vĩnh Phú. Từ
đây Âu Cơ đã kiếm giống lúa cho dân chỉ cho dân cách đốt cây rẫy cỏ để
trồng lúa nương. Ngoài ra Âu Cơ còn dạy dân trồng dâu ở các bãi ven sông,
nuôi tằm để dệt tơ lụa và dạy dân trồng lúa; hay đó là những người con gái
giúp vua Hùng dựng nước, mở mang bờ cõi, cai trị dân chúng như: con gái
26
Tiên Dung dạy dân làm ăn (Truyện Nhất Dạ Trạch), mở mang bờ cõi; con gái
Ngọc Hoa dạy dần trồng lúa, dệt vải, hát múa…
Những người phụ nữ ấy còn chính là những người tạo ra nghề nghiệp
mới cho đất nước. Chẳng hạn như nghề dệt. Đây là ngành tiểu thủ công mới
phát triển ở thời kì phong kiến tự chủ. Đó là nàng La (Nàng chúa dệt: Thụ La
công chúa), không những là người thợ giỏi mà còn là người thầy nhiệt tình và
tận tụy. Nàng La rất khéo tay, dệt vải rất đẹp. Nàng La đã cùng với chồng của
mình tự mở xưởng dệt và chủ động đi dạy người dân dệt vải. Tiếng đồn lan
rộng, nhà vua nhiều lần mời nàng vào cung, dạy cho công chúa và các cung
nữ. Các tiểu thư nhà quan cũng đua nhau mời nàng về nhà để dạy. Ai ai cũng
phục cái tài của nàng La và gọi nàng là bà chúa dệt.
Trong truyện Bà tổ nghề dệt lụa đã ca ngợi nàng công chúa xinh đẹp
Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Công chúa không ưa cuộc sống nhung lụa mà lại ưa
cuộc sống nông tang, chỉ một lòng chuyên nghề canh cửi. Đến Cổ Sắt nàng
dạy dân trồng dâu, nuôi tằm và dệt lụa. Nàng không những dạy cho dân làng
Cổ Đô, Vân Sa lại còn mang nghề sang truyền bảo cho hơn sáu mươi làng
xung quanh. Vì vậy mà sau này, làng Cổ Đô và Vân Sa dệt lụa nổi tiếng là
đẹp và bền, nhân dân vùng Sơn Tây cũ còn truyền tụng lại câu ca:
“Lụa này thật lụa Cổ Đô
Chính tông lụa cống, các cô ưa dùng”.
Dưới sự dạy dỗ tận tình, người dân đã thành thạo với việc dệt lụa.
Tương truyền nghề canh cửi dần dần được lan truyền sang các vùng khác
trong đất Hà Tây và truyền tới nhiều làng thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định,
Ninh Bình, Thái Bình ngày nay. Các làng có nghề dệt cửi đều coi bà Hoàng
Phủ Thiếu Hoa là thủy tổ nghề dệt lụa của mình.
Hay nàng Quỳnh Hoa con gái của ông Trần Vỹ (Bà chúa nghề tằm)
không những thông minh, xinh đẹp mà lại có tài và khéo tay. Bà thường dạy
27
các cung nữ nghề nuôi tằm dệt vải. Khi chồng mất bà về quê chồng giúp dân
địa phương về nghề tằm tang; bà Phạm Thị Ngọc Đô hay còn gọi là bà chúa
dệt lĩnh, bà chúa Thiên Niên chính là người đã truyền lại nghề dệt lĩnh cho
nhân dân làng Trích Sài, Bái Ân, Nghĩa Đô (Bà chúa Thiên Niên). Nàng có
hai mươi bốn nữ tỳ cũng đều thông minh nhanh nhẹn và thành thạo kim chỉ vá
may như chủ. Nàng tụ tập người dân và chiêu mộ thêm người, cùng các nữ tỳ
của mình dạy dỗ nghề dệt lĩnh cho dân chúng. Vì thế Lĩnh Bưởi nổi tiếng ở
thủ đô và ở khắp nước ta những ngày trước cách mạng tháng Tám. Có được
nghề thủ công quý báu như thế, là vì nhân dân đã được:
“Nhờ đức thiên tôn, dạy nết cửi canh
Chân giày tay dệt đã nhanh
Văn chương có chữ rành rành bởi ai
Việc cung chức tiên tài đủ vẻ
Dạy nữ công văn nghệ cho tường
Quay tơ lụa chỉ nhiều đường
Dọc theo đậm mắt, dệt ngang có mành”.
Đó còn là nghề trồng mía của nhân dân ở nàng Sơn Tây. Công lao vun
đắp cho nghề trồng mía là một tay bà Nguyễn Thị Ngọc Liệu tạo nên. Bà là
người có trí thông minh và sắc đẹp hơn người nên được tuyển vào cung chúa
Trịnh dưới triều Lê Thần Tông. Mặc dù được tuyển làm cung phi thế nhưng
bà không hay ở trong cung mà thường xin phép chùa trở về làng để khuyến
khích dân làng trồng mía. Bà kêu gọi mọi người trồng, thậm chí bà còn tự tay
mình chăm sóc lấy bãi mía của nhà mình. Được sự săn sóc và khuyến khích
nghề nghiệp trồng mía mà nhân dân ở Đông Sàng, Mông Phụ và rộng ra cả
Sơn Tây đều làm ăn phát đạt. Nhân dân kính trọng bà và tôn bà là bà chúa
Mía. Cho đến tận ngày nay thì nơi đó vẫn giữ nghề trồng mía (Bà chúa Mía).
28
Quế Nương (Thánh mẫu thượng ngàn) sở hữu vẻ đẹp nghiêng nước
nghiêng thành. Nàng lại nổi tiếng là người khéo tay hay làm, nết na thùy mị.
Vì thế mà theo nếp mẹ truyền, nàng công chúa tài khéo sớm hơn, chuyên cần
dạy dân làm đủ các việc: cày ruộng, phát nương, dệt vải, chăn thú rèn vàng
luyện kim cương, làm đồ gốm, chống thú rừng… Những người nghèo khó
đều đươc công chúa cưu mang hết lòng. Chẳng bao lâu nơi dây trở nên trù
phú. Lúa vàng khắp ruộng, sắn ngô xanh mướt trên nương, chim chóc đưa
nhau bay về núi rừng quanh bản, rộn hót suốt đêm ngày… Bởi thế cả trăm họ
trong vùng đều vô cùng kính trọng Quý Nương.
Trong truyện Bà chúa Vĩnh, tương truyền Bà chúa Vĩnh là con gái của
bà Tổ Cô. Bà rất thông minh khi bà đã nghĩ ra cách đi nhặt phân về bón cho
lúa. Bà bắt tay vào làm và hướng dẫn cho những người dân trong vùng làm
theo. Quả nhiên vụ mùa năm ấy, bông thóc nào cũng uốn câu, nặng trĩu hạt
mẩy. Khi đó những bầy thú, bầy chim rừng đua nhau kéo đến cắn phá thì Bà
Vĩnh lại nảy ra ý định gọi mọi người ra săn bắt, đuổi đánh chim thú đi. Là
người tỉ mỉ và cẩn thận, bà quan sát các loài thú vật, chim chóc chữa vết
thương cho nhau mà bà đã học được rất nhiều phương thức quý. Trong làng
ngoài xóm ai có bệnh gì bà đều chữa khỏi, danh tiếng của bà được khắp vùng
biết tới. Tấm lòng nhân hậu của bà đã mang lại cuộc sống yên bình, ấm no
cho người dân khỏi nghèo đói và bệnh tật; hay bà Chóa, cũng là con gái của
bà Tổ Cô là người đi đến vùng xa nhất để truyền nghề (Bà Chóa tổ nghề trồng
dâu nuôi tằm). Mẹ con bà Chóa đã đi vào bãi phá hoang và chặt giống dâu về
trồng. Khi dâu đã mọc xanh tốt thì ba mẹ con đã hái lá dâu về chăn tằm rồi
kéo tơ để dệt vải. Người dân đều khen tơ lụa của bà mịn mát và mong bà
truyền nghề cho. Từ đó ba mẹ con bà hăng say đi truyền nghề trồng dâu, nuôi
tằm, dệt vải cho dân làng.
29
Vạn Vót là một xóm làm nghề chài lưới hoặc buôn bán trên sông nước,
kèm theo nghề đan lát. Có câu ca dao cổ trẻ em thường hay hát:
“Đồn rằng vạn Vót vui thay
Trên thì vạn Thúng, dưới may vạn Thuyền”
Người phụ nữ tạo ra nghề vót cho dân đó chính là bà Chúa. Bà đã bỏ
tiền ra chiêu mộ dân chúng và cùng bà con chăm lo một nghề thủ công mới.
Đó là nghề vót tre, vót nan, đan thúng mủng, rổ rá, đan cả loại thuyền thúng,
thuyền nan để làm phương tiện đi lại, hoặc chuyên chở khoai lúa ở những nơi
đồng trũng, có nhiều kênh rạch. Lâu dần nghề đó trở nên phát đạt. Làng được
gọi tên là Vạn Vót (Bà chúa Vót).
Không chỉ dừng lại ở đó, nhân vật nữ còn giúp dân tạo dựng ra nghề
làm muối. Đó là nàng Nguyệt Ánh quê huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đã
truyền cho dân cách làm muối. Nàng sinh ra trong gia đình chuyên nghề làm
muối. Và điều thú vị ở nàng mà dân gian đã ghi lại là “những nơi Nguyệt Ánh
đi qua muối bị lâu khô mà sau này lại rất tốt. Muối trắng như bong, độ mặn rất
cao”. Hễ thuyền muối của nàng đi đến đâu thì đều đắt khách đến đó. Sau này
khi nàng mất, nhân dân tôn kính nàng gọi là bà chúa Muối (Bà chúa Muối).
Những nhân vật nữ trong truyền thuyết còn là những người giúp dân
khai hoang ruộng đất, mở mang diện tích đất canh tác. Bà chúa Lẫm (Bà
chúa Lẫm) cùng dân mở rộng diện tích đất canh tác. Bà đã dõng dạc nói với
người dân: “Giàu nghèo là ở tay mình. Sao cứ chịu mãi thế này? Vùng này
còn bao nhiêu đất bỏ hoang, ta phải cày xới lên mà ăn chứ”. Bà không những
là người trực tiếp chỉ đạo việc khai hoang đất trống mà bà còn tuyên truyền
khai sáng tư tưởng cho nhân dân rằng cuộc sống giàu hay nghèo là phụ thuộc
vào chính sự chăm chỉ của mỗi người. “Lúc đó vào mùa nước tháng tám,
tháng chín, khắp các ngả đồng bằng trắng băng một mầu, bà chúa Lẫm tay
đeo bị trấu, đi dọc từ Quả Cảm theo triền sông Cầu xuống tới vùng núi Bài
30
thuộc dãy Nham Biền. Vừa đi bà vừa vung trấu vãi xuống mặt nước. Gió
Đông Bắc đưa trấu đi tới đâu, bà chúa Lẫm cho cắm đồn điền tới đó. Khi có
được đất rồi, bà chúa Lẫm phân người đi các nơi, lập nên bảy mươi hai trang
ấp trong vùng, cùng lo cai quản cày cấy”. Cứ như vậy sau mỗi vụ thu hoạch
thì cảnh trí ngày càng hưng thịnh lên. Dân gian không ngớt lời ca tụng công
đức bà chúa Lẫm.
Nàng Nguyễn Thị Kể (Bà Tri Chỉ) sau mười hai năm ở trong phủ chúa
Trịnh, nàng xin trở về quê mình. Bà đã bỏ tiền mua ruộng, mời các chức dịch
đến phân chia. Lời bia ở đền còn ghi rõ là bà đã chia các sở ruộng ấy thành:
“Học điền, ruộng giúp đỡ cho người đi học. Binh điền, ruộng trợ cấp cho các
gia đình quân nhân. Lão điền, ruộng giúp đỡ người già cả. Kỵ điền, ruộng để
tế tự.” Những việc làm của bà Kể chứng tỏ bà rất lưu tâm đến việc mở mang
và xây đắp cho phong hóa ở thôn xã.
Người có công trong việc mở mang bờ cõi còn thể hiện qua nhân vật
mụ Giạ (Mụ Giạ). Thuở ấy nước ta gọi là nước Văn Lang do vua Hùng làm
chủ. Ở phía Nam, nước ta giáp với nước Tiết Hầu. Để phân chia lãnh thổ, hai
nước đã đưa ra giải pháp hòa bình: “mỗi bên cử ra một người, cùng một giờ,
một ngày, ra đi từ nước mình sang phía nước bên kia. Hễ hai người này gặp
nhau ở đâu thì lấy nơi đó làm giới hạn biên cương của mỗi nước”. Chính vì
vậy mà mụ Giạ đại diện cho nước Văn Lang đảm nhận trọng trách quan trọng
này. Bà đi nhanh như chim bay. Chưa đầy nửa buổi mà đã đi được mấy trăm
dặm đường. Đến quá trưa, chân bà đã đặt tới dãy Khai Trướng ở Nghệ An, và
cuối cùng bà đã gặp người của nước bên kia ở phía Nam một con đèo. Từ đó
ngọn đèo trở thành biên giới phía Tây Nam của nước Văn Lang. Ngọn đèo ấy
thuộc dãy núi Nam Giới, nằm giữa đất Tân Ấp của Hà Tĩnh và đất bản Thong
Kham của nước Lào ngày nay. Bà đã có công lớn trong việc mở mang bờ cõi
31
và để tỏ lòng biết ơn, vua đã lấy tên bà đặt luôn cho ngọn đèo ấy. Chính là
đèo Mụ Giạ ngày nay.
Bằng trí tuệ và tài năng của mình thì những người phụ nữ ấy đã để lại
những công trình kiến trúc có giá trị văn hóa nghệ thuật cao. Trong Sự tích Ỷ
Lan phu nhân thì nàng Ỷ Lan ở thời Lý đã cho xây dựng 72 ngôi chùa, xây
tháp Bảo Thiên để trấn giữ quốc gia trước giặc xâm lược. Tháp gồm 12 tầng
và cao 12 trượng. Nó được xây dựng trên khuôn viên tháp Sùng Khánh ở phía
Tây hồ Lục Thủy (tức Hồ Gươm, Hà Nội ngày nay) nguyên vật liệu bằng đá
và gạch, riêng ở tầng hai thì đúc bằng đồng.
Trong dị bản Bà phù thánh linh nhân (Bà Ỷ Lan) thì nàng Ỷ Lan đã đi
du ngoạn nhiều nơi núi sông trong nước xem chỗ để xây dựng các chùa tháp.
Bà cho sửa sang các hồ như hồ Linh Chiểu, hồ Bích Tri, dựng tháp ở các chùa
Diên Hựu, chùa Lãm Sơn. Nàng Ỷ Lan còn đại diện cho những người phụ nữ
có công sáng tạo ra những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Bà là
người rất giỏi về lễ nghi nên bà đã sáng tạo ra nghi thức tắm Phật. Sau này trở
thành tục lệ chung của các hội hè cầu đảo trong cả nước. Với việc làm ấy của
bà đã mang lại nét đặc sắc văn hóa cho dân tộc Việt.
Hay bà chúa Tó (Bà chúa Tó) đã giúp nhân dân tạo ra món ăn mới để
cung cấp lương thực cho cuộc chiến. “Chúa Tó có sáng kiến làm bánh chè
Lam, làm Cốm nếp nhào mật để quân sỹ có lương khô ăn đường”; hay là con
gái Đế Lai dòng dõi thần nông, Âu Cơ đã biết chế ra rất nhiều thứ bánh trong
đó có bánh Uôi làm bằng bột nếp giã kỹ, trộn với nước mía làm thành hình
tròn, hấp trong chõ cho kín. Những món ăn giản dị ấy đã trở thành nét đẹp
trong ẩm thực người Việt.
Bà Cống Kỷ người làng La Xuyên, xã Đông Ngạc, Nam Sách (Cầu
chẹm và khối vàng của bà Cống Kỷ). Bà là người phụ nữ xinh đẹp, nết na,
sống trong gia đình giàu có. Bà thi đỗ Hương cống nhưng biết mình là nữ, nếu
32
làm quan sẽ phạm tội khi quân nên bà đã chọn con đường buôn bán. Bà bỏ
tiền mua dải đất lia làng Đồng Khê làm đường đi và bắc chiếc cầu đá mười
nhịp để nối liền La Xuyên với chợ Thanh Lâm. Cầu ấy mang tên cầu Chẹm.
Nhờ có cây cầu Chẹm, mà cả làng La Xuyên đi lại dễ dàng, thoải mái. Bà
không chỉ làm cầu, mà còn có công đức làm đình, chùa, văn miếu. Đời đời
dân ghi nhớ những việc làm tốt đẹp ấy của bà. Đã có câu ca dao nói về bà
Cống Kỉ như một biểu tượng của gái La Xuyên:
“Gái La Xuyên như hoa thiên lý
Trai thiên hạ có ý thì trông”.
Như vậy, hành trạng của nhân vật nữ trong truyền thuyết về chủ đề xây
dựng đất nước đã có vai trò và đóng góp vô cùng to lớn trong việc kiến tạo
văn hóa và lao động sản xuất. Nhân vật nữ không những là người đi dạy nghề
cho dân chúng mà còn trực tiếp tham gia vào lĩnh vực lao động sản xuất nâng
cao đời sống cho nhân dân. Qua đó, tác giả dân gian bày tỏ thái độ cảm phục
và ngợi ca đến những người phụ nữ tài giỏi mà chịu thương chịu khó.
Tiểu kết chương 2
Truyền thuyết dân gian người Việt viết về nhân vật nữ chính là bài ca
toàn diện để ca ngợi về người phụ nữ. Người phụ nữ trong truyền thuyết với
chủ đề xây dựng đất nước không những đẹp ở diện mạo, ngoại hình mà còn
đẹp ở cả tài năng, phẩm chất và hành trạng.
Tác giả dân gian không đi sâu vào việc miêu tả chi tiết, cụ thể vẻ đẹp từ
làn da, khuôn mặt, mái tóc của nhân vật nữ mà chỉ khái quát diện mạo bằng
những câu nói ngắn gọn. Phải chăng đây chính là dụng ý nghệ thuật của các
nghệ sĩ dân gian, cố ý xây dựng nhân vật từ những chi tiết bình dị trong mối
quan hệ với nhân dân để khắc họa nhân vật nữ gần với hiện thực. Tác giả dân
33
gian tập trung miêu tả hành trạng của nhân vật để thấy được những đóng góp
to lớn của các nhân vật nữ trong công cuộc kiến tạo văn hóa và lao động sản
xuất. Những người phụ nữ đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho gia đình và
nguồn lao động dồi dào cho sự phát triển của xã hội. Họ tham gia tích cực vào
lĩnh vực lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nuôi sống gia đình và duy
trì sự sống cho xã hội. Bằng chính tài năng của bản thân, những người phụ nữ
ấy đã tạo ra những giá trị văn hóa tốt đẹp và được lưu truyền cho tới mãi
muôn đời sau.
Nhân vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề xây dựng đất nước được
các nghệ sĩ dân gian khắc họa như để giải thích nguồn gốc con rồng cháu tiên
của nhân dân Việt cũng như khẳng định vị trí và vai trò to lớn của họ trong
công cuộc kiến tạo văn hóa và lao động sản xuất. Qua đó, truyền thuyết đã thể
hiện tình cảm và thái độ trân trọng biết ơn của các nghệ sĩ dân gian đến các
nhân vật nữ.
34
Chương 3
NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN THUYẾT CHỦ ĐỀ
BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
Vừa xây dựng đất nước, vừa bảo vệ đất nước, đó là hai chủ đề chính
xuyên suốt trong truyền thuyết dân gian người Việt. Nếu như chủ đề thứ nhất
đề cao công cuộc xây dựng đất nước, mở mang văn hóa, xây dựng chế định,
luật lệ mà nổi bật là những danh nhân văn hóa đã góp trí tuệ, công sức của
mình làm quốc thịnh dân khang. Thì đến với chủ đề bảo vệ đất nước, truyền
thuyết ngợi ca chiến công chống xâm lược khi đất nước có giặc ngoại xâm.
Từ những ông vua, các tướng lĩnh đến những người dân thường đều chung tay
góp sức mình bảo vệ “đất nước muôn đời”. Trong thời kì này, truyện viết về
nhân vật nữ xuất hiện khá đa dạng. Họ có thể là những cô gái anh dũng,
những người vợ, người mẹ, những người phụ nữ vô danh sẵn sàng đứng dậy
khi đất nước cần, xả thân vì cuộc sống ấm no, độc lập dân tộc.
3.1. Ngoại hình, diện mạo
Cũng giống như nhân vật nữ trong thời kì xây dựng đất nước, truyền
thuyết dân gian người Việt khi viết về các nhân vật nữ trong thời kỳ bảo vệ
đất nước cũng chú ý tới vẻ đẹp ngoại hình đầy nữ tính của họ. Vẻ đẹp ấy được
ví giống như “tiên nữ giáng trần”.
Trước tiên vẻ đẹp ngoại hình của các nhân vật nữ là vẻ đẹp rực rỡ của
tuổi trẻ. Trong truyền thuyết Sự tích anh em Trù Công và Thuận Nương giúp
35
Bà Trưng đánh đuổi Tô Định, nàng Thuận Nương được miêu tả với vẻ đẹp
khuynh nước khuynh thành với “mày ngài mắt phượng, mặt tựa mai hoa”.
Không những thế vẻ đẹp của Thuận Nương còn khiến “chim sa cá lặn, trăng
thẹn hoa hờn”. Một vẻ đẹp cao quý và thanh nhã tựa như hoa mai.
Nàng A Nương họ Quách thì lại mang một vẻ đẹp với “dung nhan
nghiêm chỉnh, mặt mũi phương phi, má phấn môi son, mắt phượng mày
ngài”. Nhân dân hết sức ca ngợi vẻ đẹp của nàng là “một trang mỹ nữ” (Khâu
Ni công chúa). Nàng Trinh Hoa (Hoàng hậu nước Vạn Xuân), ngay từ thuở
còn bé đã được miêu tả có diện mạo khác thường. Mắt của Trinh Hòa “trong
như nước mùa thu, hai hàng mi nàng cong đẹp như vầng trăng mới mọc, tóc
nàng dài mướt óng ả như dòng suối mùa xuân… Nàng thực là một trang má
đào diễm sắc, khiến cho cá lặn, chim sa, hoa nhường vẻ đẹp”. Tác giả dân
gian đã dùng ngòi bút phóng đại ước lệ của mình để khắc họa vẻ đẹp đến phi
thường của nàng Ngọc Xiêm (Truyện nàng công chúa đời Trần) với “dung
mạo phương phi, dáng hình yểu điệu, môi hồng má phấn, mắt phượng mày
rồng, đều đáng là thần thánh trên cõi đời”. Nét đẹp của nàng khiến “chim sa
cá lặn, dáng nên nguyệt thẹn hoa nhường”. Vẻ đẹp ấy khiến Nghiêu Thuấn
phải thốt lên “trần gian nào có được người như thế”. Phải chăng vẻ đẹp của
nàng là “tinh khí của thủy đế long vương”, hội tụ những tinh tú của đất trời,…
mà không phải ai cũng sở hữu được?.
Nàng Quý Minh (Sự tích bà Quý Minh thời Trần) cũng mang trong
mình một vẻ đẹp hoa tuyết khác thường “mặt mũi tựa như hoa điểm tuyết”.
Vẻ đẹp ấy khiến cho tác giả dân gian phải ca ngợi là thần tiên giáng thế. Đó
còn là nhan sắc của nàng Càn Nương (Truyện tứ vị Thánh Nương) con gái của
ông bà Triệu Công Bình và Dương Thị Phấn được ví như “hoa đào mới nở
như nhụy ngọc thơm tươi”. Vẻ đẹp của nàng nhẹ nhàng và cao quý, chan chứa
hương thơm ngọt ngào của hoa đào. Hay trong Sự tích Nguyệt Nga công chúa
36
đã khắc họa vẻ đẹp của nàng Nguyệt Nga là con của bà Trần Thị Đạt và ông
Gia Công họ Nguyễn với “nhan sắc tuyệt trần”, “da ngài mắt phượng, tư cách
khác trần”. Và khi nàng được sinh ra đó là một điều kỳ diệu và tươi đẹp khi
“ngài sinh ra hoa thơm rực nhà”.
Truyền thuyết về nhân vật nữ còn thể hiện rõ nét vẻ đẹp sáng trong của
những người phụ nữ. Đó là nhan sắc của nàng Trắc Nương và Nhị Nương (Sự
tích Hai Bà Trưng), được dân gian ca ngợi là một nhan sắc nghiêng thành, “tư
dung tuyệt thế làm say hoa đắm nguyệt, cá lặn chim sa”. Cả hai nàng sở hữu
vẻ đẹp hoàn hảo và cân đối từ khuôn mặt cho đến dáng hình. Khuôn mặt của
hai nàng được so sánh như “mặt như gương ngọc, sắc tựa bình vàng, mày
ngài, mắt phượng, má phấn, môi son”. Vẻ đẹp ấy quả là xứng với tiên nữ
chốn Bồng Lai, chúa hoa ở Lãng Uyển, không phải là những người con gái
bình thường. Trong Sự tích hai anh em Uyên Mặc đại vương và Quang Dung
công chúa thời Hai Bà Trưng thì nàng Chu Nương mang một vẻ đẹp tuyệt mĩ
với “mặt tươi như kính ngọc, không hề vương một chút bụi, nhan sắc tựa hoa
mai”; còn nàng Xuân Nương thì sở hữu “mặt sáng như gương, môi son má
phấn, mắt phượng mày ngài, cổ cao ba ngấn”. Càng lớn lên thì diện mạo của
nàng càng khôi ngô, sắc đẹp tuyệt vời, một vẻ đẹp cân đối và hài hòa (Xuân
Nương công chúa). Trong truyện Sự tích Bát Nàn công chúa thì nhan sắc của
Thục Nương hay chính là Bát Nàn công chúa cũng giống như nhan sắc của
Xuân Nương. Đó là “mặt sáng như gương, mắt phượng mày ngài”. Nhan sắc
của nàng được dân gian xếp vào bậc tuyệt thế giai nhân, khiến cho những bậc
anh hùng thời ấy đều phải tấm tắc khen là: “Thánh nữ giáng trần”.
Không những sở hữu nét đẹp sáng trong mà các nhân vật nữ trong
truyền thuyết còn sở hữu vẻ đẹp gợi cảm lôi cuốn và đầy hấp dẫn. Đó là người
con gái họ Phùng tên Vĩnh Hoa được miêu tả với “dung mạo đoan trang,
gương mặt như bông phù dung tươi tắn, con mắt long lanh như ánh nước hồ
37
thu”. Nàng được tác giả dân gian ví như “cây xuân nẩy lộc” (Vĩnh Hoa công
chúa); hay nàng Tứ có “nhan sắc thắm tươi, hình dung yểu điệu, mặt tròn như
vành nguyệt, miệng cười như hoa nở, má phấn môi son” (Sự tích tướng quân
Lũ Lũy). Trong truyện Sự tích Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn thì nàng Lê Ả Lan có
vẻ đẹp “xinh tươi như hoa mới nở”. Khi trưởng thành nhan sắc của nàng càng
tuyệt đẹp “mặt hoa da phấn, mày ngài mắt phượng”.
Nàng Đào Nương có vẻ đẹp hấp dẫn nao lòng người “sắc đẹp của nàng
ví không như tiên nữ ở chốn bồng lai, cũng chẳng khác nào hoa thơm trong
vườn vua chúa… ” (Doãn Công – Đào Nương).
Vẻ đẹp gợi cảm hấp dẫn ấy còn được miêu tả đậm nét ở nàng Dương
Vân Nga trong truyện Hoàng hậu thời thơ ấu. Vẻ đẹp ngoại hình của nàng
không được khắc họa trực tiếp thông qua ngôn từ mà thông qua sự nhận xét
đánh giá của các nhân vật khác trong truyện. Qua cái nhìn của Đinh Bộ Lĩnh
và chú của ông thì Dương Vân Nga có “dáng người thon thả, gương mặt xinh
đẹp, thông minh, phúc hậu”. Nàng càng lớn càng xinh đẹp, trở thành một
thiếu nữ nổi tiếng xinh đẹp nhất vùng. Chính vẻ đẹp hấp dẫn ấy của nàng đã
khiến ông chú Đinh Bộ Lĩnh không kìm nổi vui mừng và thốt lên: “Trăm năm
duyên phận đây rồi!”.
Nhân vật nữ trong truyền thuyết còn mang vẻ đẹp đoan trang của người
phụ nữ phương Đông. Hai nàng Ả Tú và Ả Huyền “đều là người đức hạnh
đoan trang. Tinh thần trác lạc, dung mạo đẹp như tiên giáng trần, tinh thần nết
đất và có tướng lạ ai cũng thấy kì”. Vẻ đẹp đoan trang ấy đã làm say lòng biết
bao nhiêu anh hùng hào kiệt (Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ tướng
thời Hai Bà Trưng).
Vẻ đẹp đoan trang ấy là sự cân đối hài hòa từ khuôn mặt đến hình dáng
của nàng Ả Lã. Nàng Ả Lã là người con thứ hai của vua Trần Thánh Tông có
“vẻ mặt đoan trang, dáng người yểu điệu”. Vẻ đẹp ấy được nghệ sĩ dân gian
38
ca ngợi là sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành (Sự tích Ả Lã – đệ nhị công
chúa đời Trần).
Các nghệ sĩ dân gian còn thể hiện vẻ đẹp kì lạ khác thường ở các nhân
vật nữ trong truyền thuyết. Vẻ đẹp ấy được thể hiện sinh động qua bà Triệu
Thị Trinh (Bài ký về Lệ Hải bà Vương). Nếu như nhan sắc của các nàng Lê Ả
Lan, Nguyệt Nga, Thục Nương được ví von với ngọc với hoa, mắt phượng
mày ngài như tiên nữ giáng trần… thì ở nhân vật Bà Triệu lại thể hiện vẻ đẹp
lạ khác thường. Đó là “mặt hoa, tóc mây, mắt chậu, môi đào, mũi hổ, hàm én,
tay dài quá gối, tiếng như chuông lớn, mình cao chín thước, vú dài ba thước,
vòng lung rộng mười người ôm”. Vẻ đẹp của Bà Triệu còn phản ánh tín
ngưỡng phồn thực của nhân dân ta.
Đó là vẻ đẹp kì lạ khác thường của nàng Quế Nương và nàng Dung
Nương (Quế Nương và Dung Nương). Không giống như những cô gái khác
mang vẻ đẹp hồng hào của hoa đào của tuyết trắng mà hai nàng xuất hiện với
“mặt đỏ mày xanh” nhưng “nhan sắc rất đẹp”. Phải chăng vẻ đẹp kì lạ khác
thường của các nàng đã báo hiệu cho tương lai trong thiên hạ sẽ xuất hiện một
nữ tướng anh hùng tài ba?.
Để khắc họa chân dung nhan sắc của nhân vật nữ, các nghệ sĩ dân gian
còn thể hiện rõ vẻ đẹp trường tồn bất diệt của họ. Đó là nhan sắc không bị tàn
phai hủy hoại bởi giới hạn của thời gian của tuổi trẻ. Bà Man Thiện, mẹ đẻ
của hai vị nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng Nhị (Sự tích bà Man
Thiện) “nổi tiếng là người tài sắc song toàn, không những xinh đẹp mà còn
tinh thông võ nghệ, am hiểu quân cơ binh pháp”. Khi giặc đến mặc dù tuổi già
sức yếu vẫn trực tiếp chỉ huy tướng sĩ ra trận để chi viện cho các con chống
giặc. Tuy nhiên bị quân giặc đánh úp bà Man Thiện đã hi sinh bằng cách nhảy
xuống sông tự vẫn. Dân làng vớt lên vẫn thấy: “sắc diện hồng hào như khi
còn sống”. Như vậy dù là còn sống hay đã chết thì nhan sắc của bà vẫn giữ
39
nguyên, trọn vẹn, không hề thay đổi; đó còn là nàng Ý Hạnh (Bà Chén). Thuở
sinh ra nàng là cô gái rất xinh đẹp. Một hôm nàng đang làm cỏ ở ngoài ruộng
bỗng nhiên nước sông dâng lên rất nhanh tràn vào ruộng và cuốn Ý Hạnh đi
mất. Khi nước rút, người dân thấy nàng “hình dung vẫn tươi tắn như khi còn
sống, đặc biệt là bỗng dưng trên trán nàng có in hình một chiếc chén ngọc”.
Mặc dù đã chết nhưng những nhân vật nữ vẫn giữ được nguyên vẹn
nhan sắc của mình như khi còn trẻ thậm chí là còn xinh đẹp hơn nữa. Đó là
nàng Ngọc Xiêm (Truyện nàng công chúa đời Trần) mang vẻ đẹp “chim sa cá
lặn, dáng nên nguyệt thẹn hoa nhường”. Khi nàng chết đi từ đời nhà Lý đến
nhà Trần mà vẻ đẹp ngoại hình của nàng vẫn không thay đổi. Ở thôn Đống
Nước, già trẻ toàn dân đều mộng thấy thấy “một mỹ nhân xiêm y màu trắng”,
truyền bảo dân rằng mình là con của Long Vương Thủy phủ. Đến đời vua
Anh Tông nhan sắc của nàng vẫn xinh đẹp và sáng trong như thế. Vua lại mơ
thấy một “mỹ nhân xiêm ý toàn sắc trắng”, đứng trước mặt vua tâu rằng mình
là con của Long Vương Thủy phủ.
Trong truyện Đền cửa Càn Hải, ba mẹ con phu nhân họ Triệu do để
bảo toàn phẩm tiết mà đã cùng gieo mình xuống bể tự tử. Xác trôi đến cửa
Càn Hải thì vẻ mặt của họ vẫn tươi như lúc còn sống. “Thổ dân lấy làm lạ, vớt
lên tang, thấy rất hiển linh mới lập đền thờ”. Ở phần dị bản Truyện tứ vị
Thánh nương nàng Càn Nương cũng sở hữu vẻ đẹp như “hoa đào mới nở, như
nhụy ngọc thơm tươi” và khi chết đi rồi thì “nhan sắc vẫn như còn sống”; hay
nàng Nguyệt Nga cũng vì giữ trọn danh tiết của mình mà chọn cái chết nhảy
xuống cửa Càn Môn tự tử. Khi vớt xác lên thì “thi thể nàng xinh đẹp hơn lúc
còn sống” (Sự tích Nguyệt Nga công chúa).
Vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ có khi được khắc họa một cách rõ
nét chi tiết từ ngoại hình, khuôn mặt cho đến làn da nhưng cũng có khi chỉ
được miêu tả qua những câu khái quát ngắn gọn. Như khi nói về nhan sắc của
40
nàng Kiều Hoa, tác giả dân gian chỉ đưa ra nhận định: “thiên hương quốc sắc”
(Sự tích ba anh em một nhà làm tướng của Hai Bà Trưng); hay Phương Dung
được miêu tả “có vẻ đẹp đẽ, nhan sắc không ai sánh tầy” (Sự tích Phương
Dung công chúa thời vua Trưng); nàng Vũ Nương lại được khắc họa là
“người có nhan sắc” (Truyện nàng Vũ ở huyện Nam Xương). Dù được miêu tả
chi tiết hay khái quát thì các nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian đều
mang vẻ đẹp khuynh nước khuynh thành, vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân.
Như vậy, thông qua việc miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của các nhân vật
nữ, các nghệ sĩ dân gian đã bày tỏ quan niệm của mình về cái đẹp. Cái đẹp là
sự kết hợp hài hòa các yếu tố tự nhiên và thể hiện ý nghĩa của cuộc sống. Vẻ
đẹp của những người phụ nữ chính là hiện thân của vẻ đẹp cuộc sống.
3.2. Phẩm chất, tài năng
Cũng giống như trong thời kì xây dựng đất nước thì nhân vật nữ trong
thời kì bảo vệ đất nước không những nổi bật ở vẻ đẹp ngoại hình, diện mạo
mà còn được các nghệ sĩ dân gian ca ngợi, thán phục về phẩm chất và tài năng
của họ.
Truyền thuyết dân gian đã ca ngợi và khẳng định tài năng vô song của
những người phụ nữ. Trước hết là tài năng quân sự và chiến đấu. Hai Bà
Trưng (Truyện Hai Bà Trinh linh phu nhân họ Trưng) khi chứng kiến cảnh
giặc thi hành những chính sách độc ác và tàn bạo để chà đạp, đàn áp nhân dân
ta thì hai Bà đã quyết đứng dậy khởi nghĩa. Bằng trí tuệ, khả năng nhìn xa
trông rộng, tài cầm quân mà Hai Bà Trưng đã kêu gọi được các anh hùng hào
kiệt đến từ khắp mọi ngả của đất nước cùng chung tay góp sức để giết giặc.
Ai có tội thì phải chịu phạt, người lập công thì sẽ được thưởng. Vì vậy khi các
tướng lĩnh đánh thắng trận trở về bà đều phong cho họ các chức danh. Một
mặt để khích lệ tinh thần các thủ lĩnh, mặt khác tránh tình trạng các tướng
tranh giành quyền lực, mâu thuẫn nội bộ, ảnh hưởng đến cuộc chiến chống
41
xâm lược của đất nước. Được sự ủng hộ của nhân dân, quân sĩ đồng lòng mà
Hai Bà Trưng đã giành được 65 thành ở Lĩnh ngoại, tự tôn làm vua và lấy
hiệu là Trưng Vương, đóng đô ở thành Ô Diên. Trong dị bản Trưng Vương,
tác giả dân gian đã ca ngợi tài năng của Hai Bà Trưng: “Than ôi! Một đôi nữ
anh hùng nước Nam, tuy vì tài liễu yếu đào tơ, không làm được công nghiệp
oanh oanh liệt liệt, nhưng biết giận kẻ tàn ác, khởi binh đánh đuổi đi, cùng
lừng lẫy được một thời mà lưu danh thiên cổ, gây dựng nền độc lập cho đời
sau; khá khen thay! khá khen thay!”.
Nàng Xuân Nương (Xuân Nương công chúa) được tác giả dân gian ca
ngợi là diện mạo khôi ngô sắc đẹp tuyệt vời. Tuy là con gái nhưng võ nghệ lại
rất tài, có sức khỏe, bắn cung giỏi, múa kiếm sành so sánh với bậc con trai thì
khó có người theo kịp. Nàng khiến cho mọi người trong làng đều tôn phục mà
gọi nàng là con gái họ Hùng, tiếng tăm lừng lẫy. Tài năng của nàng còn khiến
các tù trưởng, thổ hào ở các nơi châu động đều mến phục tài ba. Vì thế mà
trong nhà nàng thường có tới chục thị nữ cùng học tập và tôi luyện võ nghệ để
trở nên người tài giỏi.
Nàng Vĩnh Hoa người con gái họ Phùng, dưới thời thuộc Hán từ nhỏ đã
được học tập võ nghệ lại đọc sách ngâm thơ, người người biết tiếng. Tuy là
phận gái nhưng Vĩnh Hoa chỉ ham thích ruổi ngựa bắn cung, tìm hào kiệt trong
đời để kết bạn. Nàng thường nói: “Lưỡi kiếm trong tay phải tắm máu giặc, có
ngày quét sạch giặc Hán ra khỏi bờ cõi, chí lớn của ta là như thế!”. Vì thế mà
khi cha mẹ qua đời, Vĩnh Hoa đã trao cả gia sản cho ông cậu, nàng một ngựa
một kiếm lần bước ra đi. Sau này Vĩnh Hoa đã đi theo Hai Bà Trưng phất cờ
khởi nghĩa và làm nên những chiến thắng lớn (Vĩnh Hoa công chúa).
Trong truyện Dị bản: Bà thiếu phó, ca ngợi bà Bùi Thị Xuân quê ở
Bình Định một nữ tướng anh hùng. Bà sống trong gia đình có truyền thống võ
nghệ, nên bà được tập luyện thành thạo nhiều môn võ bí truyền, giỏi bắn
42
cung, cưỡi ngựa và biết huấn luyện cả voi. Hai vợ chồng bà đều được cháu
Tây Sơn rất tin cậy. Bùi Thị Xuân là nữ tướng tài ba, lúc đầu làm chức Đô
Đốc trong quân, sau thăng lên làm thiếu phó, cùng tước vị với chồng. Đến khi
bị giết bà vẫn hiên ngang và đầy sự thách thức.
Viết về tài năng của các nhân vật nữ, truyền thuyết còn ca ngợi họ với
tài năng văn học, ca hát. Đó là nàng Xuân Nương (Xuân Nương công chúa),
“tuy còn ít tuổi nhưng nàng có những tính tình khác thường hay chơi đàn hát,
hay đánh cờ và ham đọc thơ ca”. Ở nàng có đầy đủ bốn đức tốt của người con
gái đó là “công, dung, ngôn, hạnh”.
Đó còn là nàng Côn Nương (Nữ tướng Côn Nương), mới có mười hai
tuổi nhưng nàng đã thông suốt văn chương. “Chỉ cần đi bảy bước nàng có thể
làm xong một ánh thơ tuyệt tác”. Đến tuổi mười năm, trí thông minh và vẻ
anh hùng của Côn Nương thật chẳng mấy đấng nam nhi theo kịp. Ai cũng cho
rằng nàng hẳn không phải người thường.
Tài năng văn học ca hát còn thể hiện ở nàng Hát trong truyện Nàng Hát
hay làm quay muôn giáo. Khi nàng cất tiếng hát nên làm trái tim bao người
thổn thức. Tiếng hát ấy làm say mê muôn người. Tương truyền , “khi nàng cất
tiếng hát thì chim khắp nơi về đậu quanh hội vật, nàng hát làm tắt nắng, làm
trăng chao đảo, làm sao vật vờ, làm người sắp chết sống lại, làm trai gái mê
mệt lắm cổ tay nhau… Nàng có thể hát đêm này qua đêm khác, ngày này qua
ngày khác. Các đạo, các lộ đều nghe thấy, vì rằng không riêng miệng nàng hát
mà cả mái tóc dài mượt như nhung sực nức mùi thơm của nàng, mỗi sợi đều
cất lên những âm thanh tuyệt vời hòa theo”. Tài năng ca hát của nàng không
chỉ để khắc họa thêm vẻ đẹp chân dung của nàng mà còn góp phần vào sự
nghiệp đánh giặc của dân tộc. “Nàng hát làm giặc ngơ, bàng hoàng, buông
gươm hàng phục hoặc quay giáo chạy dài”. Tiếng hát và sắc đẹp của nàng
43
khiến chúng mê mệt bàng hoàng thua chạy. Tài năng ca hát ấy chính là một
trong những vũ khí sắc bén để tiêu diệt giặc.
Truyện Liễu Hạnh tiên chúa kể về nàng Giáng Tiên không những có
nhan sắc lạ thường mà còn rất thông minh, tài nghề âm nhạc, thường làm ra
ca từ bốn mùa, lựa vào khúc đàn để chơi. Đó là “Xuân Từ, Hạ Từ, Thu Từ,
Đông Từ”. Trong Xuân Từ nàng đã viết: “Cảnh như vẽ, khéo ai bày? Hoa đào
mỉm miệng liễu giương mày. Bướm nhởn nhơ bay, oang vàng líu lo trong bụi,
én đỏ ríu rít trên cây. Buồng xuân dìu dặt mối tình ngây, đề thơ này!”.
Các nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những người thông
minh và tài giỏi. Đó là những nàng Ả Tú, Ả Huyền và Thượng Cát (Sự tích Ả
Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ tướng thời Hai Bà Trưng). Cả ba bà không
chỉ được ca ngợi đẹp như tiên giáng trần mà còn là những bậc “phong tư tuấn
nhã, khí bẩm hơn người”. Năm mười tám tuổi, cả ba bà đều kết bạn học tập,
ngày thường ở riêng một nhà học tập, xem sách, học một biết mười, thực sự là
bậc sinh ra đã biết lại hay đàn sáo, tinh thông âm luật, giỏi võ nghệ thuộc trận
môn, mấy bộ binh thư đều thuộc làu. Tài năng của các bà đã được tác giả dân
gian ca ngợi: “Đích nhiên là những bậc trên giời họa có, dưới đất hẳn không”.
Nàng Thục Nương (Sự tích Bát Nàn công chúa) không những khiến
mọi người mê mệt vì nhan sắc mà người ta còn ngưỡng mộ về trí thông minh
của nàng. Thục Nương càng lớn lại càng thông minh một cách kì lạ. Nàng đọc
sách khắp cả Chư tử Bách gia không sách nào không thiệp liệp qua, lại giỏi
đường gươm mũi giáo, khiến cho những bậc anh hùng thời ấy đều phải tấm
tắc khen.
Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian còn là những con người có
đời sống tâm hồn cao đẹp. Họ là những người rất dịu dàng nhưng cũng rất
thẳng thắn và cương trực. Bà Triệu, tên húy là Trinh, người đất Trung Sơn,
huyện Cửu Chân (Bài ký về Lệ Hải Bà Vương) là người tài giỏi xuất chúng
44
“chân đi một ngày năm trăm dặm, sức có thể khua gió bạt cây, tay đánh chân
đá như thần, lại có sắc đẹp làm động lòng người”. Thế nhưng bà cũng là
người ngang tàng và thẳng thắn. Mỗi khi và phật ý thì chẳng có ai cưỡng lại
nổi. Khi cha mẹ qua đời, bà Triệu ở cùng với anh trai. Gặp phải chị dâu là
người không tốt tính, bà tức giận giết chết luôn. Người anh lúc đó giận lắm,
bà bèn chia bếp, vào rừng ở tự làm kiếm sống. Đến năm hai mươi tuổi bà vẫn
chưa muốn lấy chồng, có chí mưu việc lớn. Bà bỏ tiền của ra cấp cho tân
khách, chiêu kết hội đảng. Do đó, người anh trai đã khuyên bà là con gái thì
không nên hào phóng. Bà ngang tang không chịu nghe theo và đáp lại:
“Người ta sống trong cõi bụi hồng, như mầm cây như nhánh cỏ vậy, từ tươi
đến héo chỉ trong nháy mắt, từ lúc thanh xuân đến khi già cỗi nhanh chóng
như bay, hà tất phải bận tâm”. Người con gái Triệu Trị Trinh khẳng định:
“Em chỉ muốn cưỡi gió đạp sóng, chém cá kình ở biển Đông, quét sạch giặc ở
bờ cõi, cứu dân ra khỏi cảnh chìm đắm. Há lại bắt chước người đời, cúi đầu
khom lưng làm tỳ thiếp kẻ khác, can tâm phục dịch ở trong nhà hay sao?”.
Đó là nàng Nguyệt Nga (Sự tích Nguyệt Nga công chúa) đệ tam cung
phi triều Tống. Khi nghe tin vua Nghệ Tông bị nước Tề đem binh mã tới đánh
và bị thua phải đem gia quyến chạy trốn đi các nơi thì nàng vô cùng đau lòng
đành phải cùng với một bọn thị nữ thuê thuyền trở lại nước Nam nhà. Khi đi
về đến cửa Càn Môn, nàng cùng thị nữ đóng thuyền lại vào chùa xem cảnh và
xin nước uống. Trời sắp tối và nàng tạm biệt sư thầy để về. Nàng đi được vài
dặm thì gặp bọn côn đồ hơn mười đứa đi săn. Thấy nàng nhan sắc tuyệt vời,
chúng nhảy xuống thuyền chực hãm hiếp. Ban đầu nàng cố dụ chúng bằng
những lời ngon ngọt với ý định cảm hóa bọn chúng. Nhưng thấy chúng là một
loại ác thú nên nàng đã xỉ mắng chúng và nhảy xuống cửa bể Càn Môn tự tử.
Nàng thà chọn cái chết, giữ trọn trinh tiết chứ không thể để mình bị ô nhục.
45
Trong truyện Quế Nương và Dung Nương, hai nàng Quế Nương và
Dung Nương không những “thông minh tài giỏi, thiên văn địa lý am tường võ
nghệ cũng thành thạo”. Khi giặc Ma Na sang xấm lấn nước ta thì hai nàng đã
quả cảm đi đầu “hai dũng tướng Quế Nương và Dung Nương đem quân đi
đường bộ, ra trước để khiêu chiến”; nàng Châu Nương (Châu Nương phu nhân)
mặc dù bị giặc vây hãm nhưng nàng vẫn tỏ ra thản nhiên và ngoan cường “bình
tĩnh, gan dạ không hề nao núng cùng chồng bảo vệ thành Diễn Châu”.
Sau khi thu phục được sơn hà, vua Gia Long ra lệnh xử tử Trần Quang
Diệu và vợ của ông là Bùi Thị Xuân. Trước khi nhận cái chết mặt bà không
hề bị thay đổi sắc mặt. Tương truyền rằng lúc bà bị đem ra hành quyết, bà
Xuân vẫn thắt dải lụa điều, uy nghi lẫm liệt tiến ra làm mấy con voi phải sợ,
co vòi lại không dám hại bà. Bọn đao phủ ra lệnh cho bà phải quỳ xuống để
con voi dễ quấn nhưng bà quyết không quỳ, cứ bước tới như hăm dọa. Mặc
dù thanh danh của bà bị bôi nhọ thế nhưng nhân dân vẫn bày tỏ lòng kính
phục bà (Dị bản: Bà thiếu phó).
Nét đẹp chịu thương chịu khó, nết na và hiếu nghĩa còn là vẻ đẹp chung
của các nhân vật nữ trong truyền thuyết. Nàng Thiều Hoa (Sự tích Thiều Hoa
công chúa) thật khiến chúng ta kính trọng bởi tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ.
Thiều Hoa nhất đinh không chịu đi lấy chồng mà ở nhà phụng dưỡng cha mẹ
cho trọn đạo hiếu để đền ơn sinh thành. Sau khi cha mẹ mất, nàng an táng
xong cho cha mẹ thì bỏ nhà và tìm chỗ danh lam để tu hành. Thiều Hoa rất
siêng năng thành kính về việc thờ cúng, ngày hai buổi sớm tối tụng kinh niệm
Phật nhưng ban đêm thì học tập binh thư. Nàng còn cần kiệm làm giàu cho
nhà chùa và làm phúc cho những người nghèo khó. Vì nàng có hằng tâm như
thế nên dân gian ai cũng có lòng kính ái; nàng Bầu (Bà chúa Bầu) được sinh
ra từ quả bầu thần kì. Nàng đã xin nhận bà cụ trồng cây bầu là mẹ nuôi. Từ đó
hai mẹ con sống với nhau rất êm ấm, bà cụ ở nhà chăn nuôi gà lợn nấu cơm
46
còn nàng Bầu thì đi nương đi rẫy tỉa lúa trồng khoai. Những đêm trăng tỏ
tiếng sáo của bọn trai làng cứ rộn rã quanh nhà. Nhưng hình như nàng không
bao giờ để ý đến tiếng sáo của bất cứ ai gọi đi chơi đi hát. Nàng chỉ biết ở nhà
chăm lo và phụng dưỡng cho mẹ già; đó còn là nàng Dưỡng (Ba chị em bà
Dưỡng) sinh ra trong gia đình nghèo khó. Công việc của gia đình bà là lên
rừng hái củi đem bán làm kế độ thân. Leo đồi, trèo cây, vác củi nhiều nên
nàng Dưỡng càng thêm khỏe mạnh. Khi cha mất nàng trở thành trụ cột gia
đình, thay mẹ chăm sóc các em. Chính hoàn cảnh nghèo khó ấy mà đã tôi
luyện ý chí, sự chịu thương chịu khó của người phụ nữ.
Như vậy, những nhân vật nữ trong truyền thuyết về chủ đề bảo vệ đất
nước được ngợi ca ngợi cả về tài năng và phẩm chất. Họ tài giỏi, thông minh,
đảm đang và biết chăm lo cho gia đình. Ở mỗi nhân vật nữ ta thấy có sự kết hợp
hài hòa giữa tài năng đức độ và đời sống tâm hồn cao quý. Những nhân vật nữ
vẫn sống vui vẻ và hạnh phúc trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Chính
những điều ấy đã làm nên phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
3.3. Hành trạng
Khi đất nước có giặc ngoại xâm thì toàn dân cùng đứng dậy khởi nghĩa
tham gia đánh giặc. Đó là ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần quật
cường dân tộc mạnh mẽ của nhân dân ta mà tiêu biểu là các anh hùng chống
giặc ngoại xâm. Bên cạnh các nam anh hùng hào kiệt như Thánh Gióng, Trần
Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Nguyễn Huệ,… thì thời đại còn xuất hiện
những nữ anh hùng. Họ đã có những đóng góp to lớn và quan trọng góp phần
làm nên chiến thắng cho lịch sử nước nhà.
Mở đầu sự nghiệp chống xâm lược ở thời Bắc thuộc đó là cuộc khởi
nghĩa đầy gian nan và hào hùng của nhân dân ta cùng Hai Bà Trưng chống lại
quân nhà Đông Hán để giành lại chủ quyền cho nước nhà. Sau đó là hệ thống
các truyền thuyết về cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng là biểu hiện điển hình
47
của tinh thần đoàn kết chiến đấu, chủ nghĩa anh hùng tập thể và truyền thống
toàn dân đánh giặc. Điều đặc biệt là đứng đầu các cuộc khởi nghĩa này là phụ
nữ. Đây là một điều hết sức vẻ vang cho phụ nữ Việt Nam như Hồ Chủ tịch
đã nói “Hai Bà Trưng đã để lại cho phụ nữ Việt Nam một truyền thống vẻ
vang là dũng cảm chiến đấu” (Thư Hồ Chủ tịch gửi phụ nữ nhân kỷ niệm Hai
Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ 8/3/1952). Truyền thống vẻ vang đó cũng
là truyền thống “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, một truyền thống vô cùng
độc đáo của dân tộc Việt Nam mà Hai Bà có vinh dự mở đầu.
Lời thề thứ nhất của Bà Trưng trước khi xuất quân đánh quân xâm
lược nhà Hán là quyết rửa sạch mối thù của Tổ quốc, trước là đền nợ nước,
sau mới trả thù chồng:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng… ”
Hành động đầu tiên của Bà trước khi lên đường giết giặc cứu nước là
bỏ khăn tang để ba quân khỏi xúc động về cái chết của chồng bà. Những lời
nói và hành động ấy chính là biểu hiện cao độ ý chí quyết chiến quyết thắng
quân xâm lược. Nếu ta lại biết thêm rằng những lời nói và hành động ấy chỉ
có ở trong truyền thuyết dân gian mà không có ở trong chính sử, thì ta càng
thấy ý nghĩa tư tưởng của những biểu hiện ấy còn được nhân lên biết bao
nhiêu lần.
Những trận đánh liên tiếp từ Lãng Bạc đến thành Mê Linh, thành Dền,
sau đó lui về đất Cẩm Khê đều có sự tham gia nhiệt tình của các nữ tướng.
Hai Bà Trưng không chỉ có tài chỉ huy mà khi ra chiến trận họ là những anh
hùng dũng mãnh và quả cảm. Cuộc chiến đấu ở Lãng Bạc đã gây thiệt hại cho
cả hai bên vì thế mà bà Trưng Trắc đã lui về thành Mê Linh còn bà Trưng Nhị
lại đưa quân trấn giữ ở thành Dền. Thành Dền là một đồn quân quan trọng
48
được củng cố vững chắc để bảo vệ cả hai thành Mê Linh và thành Dền. Giặc
Hán muốn chiến thắng được thì phải đánh đổ được hai thành này. Chính vì
thế bọn chúng đã tăng cường lực lượng vây hãm ở thành. Nhân dân ta cùng
Hai Bà Trưng chống trả quyết liệt và bảo vệ được thành Dền. Tuy nhiên trong
nhiều ngày tháng kéo dài, các trận chiến đấu liên tiếp xảy ra, quân địch bị
thiệt hại và quân ta cũng suy yếu. Hai bà quyết định rút quân khỏi thành Dền
và lui về đất Cẩm Khê để định mưu kế đánh giặc lâu dài (Bà Trưng Nhị và
thành Dền). Hai bà đã thắp lên ngọn lửa chống ngoại xâm của dân tộc Việt
Nam. Quyền tự chủ đất nước do hai bà mang lại dù ngắn ngủi song hai bà đã
khắc hoạ vào lịch sử và tâm thức người dân Việt Nam tấm gương trung nghĩa,
anh hùng làm vẻ vang cho nữ giới và dân tộc.
Nối tiếp tinh thần truyền thuyết Hai Bà Trưng, là tinh thần yêu nước
chiến đấu của nàng A Nương (Khâu Ni công chúa). Khi nàng mười sáu tuổi
thì cha mẹ đều mất, nàng không muốn lấy chồng mà dốc lòng mộ đạo Phật.
Khi thấy Tô Định làm nhiều điều càn rỡ đối với nhân dân thì nàng quyết đi
theo lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, đứng trong hàng ngũ chờ ngày giết giặc:
“Cà sa đổi lấy giáp chinh,
Quanh vùng chiêu nạp nghĩa binh mấy ngàn”
Từ là một cô gái hiền dịu mặc áo cà sa giờ đây A Nương đã trở thành
nữ tướng hùng dũng trên chiến trận. Trận đánh của nàng khiến đồn giặc tan
vỡ, quân giặc chạy tán loạn, chúng bị chết rất nhiều. Sau khi đất nước được
thanh bình thì nàng được phong là “Khâu Ni công chúa”. Nhân dân đã lưu
truyền câu ca kể về chiến tích của bà ở thành Luy Lâu khiến giặc vô cùng
hoảng sợ:
“Từ Bạch Hạc ngã ba sông,
Quách A tả tướng tiên phong cờ đầu.
Tiến quân về Luy Lâu vây hãm,
49
Cùng hữu tướng dũng cảm lập công”.
Tinh thần yêu nước ấy còn được thể hiện ở nàng Thục Nương (Sự tích
Bát Nàn công chúa). Đứng trước cái chết của cha và chồng của mình do quân
Tô Định giết thì nàng đã tỏ thái độ căm phẫn. “Thục Nương hai tay cầm hai
thanh kiếm chém mươi thủ cấp tỳ tướng của Tô Định” trốn chạy ra khỏi vòng
vây. Nàng giả làm người tu hành, ra sức hô hào tập hợp anh tài bốn phương,
tích trữ lương thực khí giới để giết Tô Định trả nợ nước thù nhà. Thục Nương
từng nói rằng: “Nếu con mà không báo thù được cho cha thì không phải là
người con có hiếu. Không lấy nghĩa mà trả thù cho chồng thì tất là lỗi đạo làm
vợ”. Nàng tự xưng là Bát Nàn đại tướng quân, đánh nhau với Tô Định mấy
chục trận, trận nào cũng khiến giặc thất bại. Ngay khi gặp Bà Trưng đứng dậy
phất cờ khởi nghĩa thì Thục Nương bèn đem quân gia nhập đoàn quân của Hai
Bà đi diệt thù. Từ ấy, quân đội của Thục Nương càng mạnh khiếp quân giặc
ra trận là khiếp sợ (Sự tích Bát Nàn công chúa).
Nàng Thiều Hoa (Thiều Hoa công chúa) sống trong thời đại khói lửa,
nàng đã từng cầm lao xông tới đám giặc đang hãm hại, tàn sát dân lành. Từ là
một ni cô nàng đã trở thành nữ tướng hào kiệt theo Hai Bà Trưng phất cờ khởi
nghĩa. Bà được phong là “Đông cung tướng quân” trong trận chiến Luy Lâu.
Trận đánh thắng lợi, quân Tô Định thất bại thảm hại.
Trong truyện Xuân Nương công chúa, nàng Xuân Nương khi chứng
kiến chính sách bạo ngược, tham tàn, nhiễu hại nhân dân của nhà Hán thì
nàng vô cùng căm giận. Nàng đã quyết định trở thành một ni sư để chiêu dụ
các anh hùng hào kiệt. Xuân Nương là người có tài, có đức, có lòng rộng
lượng, kính già yêu trẻ vì thế mà được nhân dân yêu mến: “Nàng tu ở chùa
này chưa đầy một năm trời, nhân dân trong vùng biết tiếng đều quý mến đạo
đức và tài năng của nàng. Người ta ví công đức của nàng như trời cao biển
rộng”. Nàng ở trong chùa giả làm sư tu đạo nhưng kì thực là luyện tập binh cơ
50
chờ thời khởi sự. Xuân Nương tổ chức các cuộc thi bách nghệ, cho quân
luyện tập ở trên bãi Già bến Đông. Nàng cho thiết lập hai ngôi cung sở, nơi
thượng cung là nơi ở của nữ binh, còn hạ cung thì thập bộ và nam binh đóng.
Nàng lại cho lập thêm bốn đòn nhỏ, chính cung của nàng ở giữa, trước cửa
cung có hồ bán nguyệt, đằng sau có gò cao để nàng tắm gội. Nơi đây an toàn
và thuận lợi để bà cùng các nhân tài nghĩa sĩ hội ngộ gặp mặt. Nhờ lấy được
lòng dân mà các trận đánh của bà đều thắng lợi. Tuy nhiên đất nước mới
thanh bình được hơn hai năm thì nhà Đông Hán lại sang xâm lược nước ta lần
nữa. Nàng tấn công giặc đầy hiên ngang “xông thẳng vào giữa trung quân của
giặc… chém được hàng trăm đầu giặc… Nàng phi ngựa múa gươm như vũ
bão”. Vào ngày mười năm tháng hai âm lịch nàng đã hóa trên lưng ngựa.
Nàng Côn Nương là con của vợ chồng Ngô Hoàng và Cao Nương khi
chứng kiến bọn giặc mà đứng đầu là Thái thú Tô Định, một kẻ mặt người dạ
thú sang cướp bóc và ức hiếp dân làng thì nàng đã quyết tâm giết chúng. Càng
căm tức hơn khi nghe tin Tô Định đã giết cha mình, lòng uất hận của Côn
Nương bốc cao rừng rực như lửa cháy ngàn khô. Trước toàn thể dân làng,
Côn Nương đã tuyên bố: “Thù giặc Hán lúc nào cũng treo trước mặt tôi. Thế
cùng trời đất, nếu không rửa được thù, thì một mai tôi chết, xin không được
nhắm mắt”. Côn Nương đã giả làm sư trông coi chùa làng để có chỗ yên ổn
mà chiêu mộ anh tài. Đội quân của Côn Nương chẳng mấy chốc mà lên tới
hàng vạn người. Nghĩa quân đi đến đâu đất nước giải phóng đến đó. Tô Định
khiếp đảm, bỏ cả quân sĩ mà lê về Bắc quốc (Nữ tướng Côn Nương).
Tinh thần chiến đấu quật cường giết giặc vì nước nhà còn được khắc
họa rõ nét ở nàng Phật Nguyệt (Đinh Thị Phật Nguyệt). Năm mười bảy tuổi,
Phật Nguyệt đã thể hiện rõ mình là người dũng cảm khí phách. Khi thấy chính
sách cai trị của Tô Định bạo ngược khiến nhân dân cực khổ thì nàng lập tức
chiêu mộ được hai nghìn người lập thành một đội nghĩa quân mang về đất Mê
51
Linh để yết kiến Hai Bà Trưng, và được phong là “Phật Nguyệt chức Thao
giang thượng Tả đạo tướng quân”. Quân nàng đi tới đâu thì giặc tan tác tới
đó. Khi dẹp xong Tô Định thì nàng được vua phong tước công chúa. Hàng
ngày, Phật Nguyệt cho luyện tập thủy binh từ ngòi cái ra tới sông Hồng. Khi
Mã Viện sang xâm lược nước ta lần nữa thì Phật Nguyệt cùng các tướng sĩ đã
anh dũng chiến đấu hết mình. Nhân dân ta đã ca ngợi chiến công của bà:
“Từ Hanh Cù vòng sang Vũ Yển,
Nàng Phật Nguyệt giữ tuyến Thanh Ba.
Chống giặc Tô, Viện gian tà,
Thủy binh tả tướng xông pha vẫy vùng.”
Khi nói đến gương anh hùng liệt nữ, đến truyền thống đấu tranh xâm
lược của ngoại bang, người Việt Nam qua nhiều thời đại không quên nhắc đến
cái tên Bà Triệu bên cạnh các gương liệt nữ khác như Hai Bà Trưng...
“Muốn coi lên núi mà coi
Có Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng”.
Bà họ Triệu, tên húy là Trinh, sức của bà có thể “khuya gió bạt cây, tay
đánh chân đá như thần”. Bà là người rất ngang tàng và khảng khái. Bà đã từng
nói với anh của mình: “Em chỉ muốn cưỡi gió đạp sóng, chém cá kình ở biển
Đông, quét sạch giặc ở bờ cõi, cứu dân ra khỏi cảnh chìm đắm. Há lại bắt
chước người đời, cúi đầu khom lưng làm tỳ thiếp kẻ khác, can tâm phục dịch
ở trong nhà hay sao?”. Sau khi anh trai bà mất thì mọi người tôn bà Triệu làm
chúa để chống quân Ngô. Trong đại hội để chấn chỉnh quân đội, bà đã nói với
các tướng rằng: “Các ông thấy anh ta mất, không hiểm ta là phận gái mà lập
ta là chúa, ấy là vì thấy ta có đôi chút khả thủ. Nay ra ra mệnh lệnh trọng yếu
trong quân ngũ. Ai nghe theo mệnh lệnh thì có trọng thủ, ai trái lại mệnh lệnh
thì có nghiêm hình. Làm việc gì đã có quân pháp thì nên giữ gìn”. Dân gian
đã khắc họa hình ảnh của Bà Triệu khi ra trận đầy oanh liệt. Bà thường vắt vú
52
ra sau vai, dùng lụa quấn chặt vào lưng, mặc váy vàng, đi guốc ngà, đứng trên
đầu voi, thanh thế dũng liệt, chẳng kẻ nào dám chống chọi. Bà được đặt tên
hiệu là Nhụy Kiều tướng quân và dân gian có câu hát rằng:
“Kiều Kiều nữ tướng quân
Tiếng tăm động phong trần
Làm tướng Ngô mất vía
Sắc đẹp động nhân tâm”.
Khi ra trận, Bà Triệu đi trước quân lính. Bà hướng vào đâu thì như đi
vào nơi không người. Giặc Ngô bấy giờ mới sợ và không dám hứng lấy mũi
tiến công nhọn sắc ấy nữa. Chúng kêu lên “Lệ Hải Bà Vương” rồi bỏ chạy mà
không dám nhìn. “Ngang con mắt nhìn cọp thì dễ, e rằng hướng nhìn lên Bà
Vương thì khó” đó là câu nói mà giặc truyền tai nhau khi nhận xét về Bà
Triệu (Bài ký về Lệ Hải Bà Vương).
Đất nước đang thanh bình bổng lại nổi cơn gió bụi. Giặc Lương lại ồ ạt
kéo quân sang xâm lấn nước ta. Hoàng hậu Hứa Trinh Hòa cũng được giao
binh quyền tham gia trận mạc. Mỗi lần giáp trận người ta đều thấy vị nữ
tướng đi tiên phong. Kẻ thì trông thấy bóng quần hồng nhiều phen đã phải
hồn xiêu phách lạc (Hoàng hậu nước Vạn Xuân). Nàng Ả Tú, Ả Huyền,
Thượng Cát (Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ tướng thời Hai Bà
Trưng). Ngay khi nghe tin Bà Trưng chiêu mộ tướng tài để đánh Tô Định thì
ba bà đã hội họp thầy tớ trong nhà được 52 người, tới ứng mộ lập công. Họ
chính là những nữ anh hùng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đó còn là nàng
Ả Lan (Sự tích anh hùng của hai chị em Ả Lan và Lê Anh Tuấn), nàng Hát
(Nàng Hát hay làm quay muôn giáo)… đã dùng tài năng và ý chí góp sức
mình vào vận mệnh chung của đất nước.
Nối tiếp tinh thần quả cảm kiên cường của Hai Bà Trưng, Bà Triệu là
hình ảnh kiên cường của cô bé Trần Ngọc Hoa, chín tuổi. Tinh thần yêu nước,
53
ý chí chiến đấu của Ngọc Hoa thật đáng để người đời ngưỡng mộ khi người ta
tương truyền rằng cô đã theo Lý Thường Kiệt vào dẹp giặc Chế Ma Na ở
Chiêm Thành vào năm 1103. Đặc biệt hơn nữa khi không ai biết được dòng
dõi, gia thế của cô “chỉ biết cô ở trại Đại Bi, sau đó có tên là Đại Yên. Cô tha
thiết xin theo việc quân cho được”. Trước thái độ kiên quyết ấy thì Lý
Thường Kiệt không thể nào từ chối mặc dù ông còn không biết với độ tuổi
nhỏ như thế thì Ngọc Hoa sẽ làm được việc gì giúp nước nhà. Mặc dù nhỏ
tuổi nhưng bằng sự lanh lợi và thông minh, Ngọc Hoa trở thành người dẫn
đầu trong trận chiến. Cô giả trang đóng vai bán trầu cau và thuốc lào, liên lạc
làm mê hoặc bọn quân địch rồi phát ám hiệu để quân ta tập kích thành công.
Với sự mưu trí đó mà quân ta đã toàn thắng. Tuy nhiên trên đường khải hoàn
cô bé đã hóa mà không để lại dấu vết hay lời dặn dò gì. Và để bày tỏ tấm lòng
biết ơn thành kính đến Ngọc Hoa, ở đình Đại Yên đã khắc tượng và có một số
câu đối ca ngợi công trạng đánh giặc cứu nước của cô bé:
“Nhất trận hoàn quân, điện Yên vũ trụ;
Cửu linh phá tặc, phù Lý giang sơn”.
(Một trận thắng hồi quân, giữ vững bờ cõi Đại Yên
Chín tuổi thơ dẹp giặc, phò trợ non sông nhà Lý).
Hay
“Tuế ký Long phù, hách tán Ma Na tặc;
Sắc tuyên Phượng các, vinh diệu Đại bi khu”.
(Tuổi chép thuở Long phù, dẹp tan giặc Ma Ná
Sắc truyền từ gác phượng, rạng rỡ khu Đại Bi).
Hình ảnh của cô bé Ngọc Hoa đầy sức sống và kiên trung như vượt lên
giữa bão táp của chiến tranh, thức tỉnh nhân dân cùng hòa mình vào trận chiến
của dân tộc để làm nên những chiến thắng oanh liệt, vẻ vang (Đại Yên và
chuyện Trần Ngọc Hoa).
54
Trong Châu Nương phu nhân, ta bắt gặp nàng Châu Nương đã vượt lên
bị kịch mất đi người thân mà sẵn sàng xả thân vì nước nhà. Bị giặc vây riết,
tình hình rất nguy nan nhưng nàng vẫn “bình tĩnh, gan dạ không hề nao núng,
giúp chồng bảo vệ chắc thành Diễn Châu, làm một hậu phương tốt. Do đó
Thái Bảo có điều kiện chuẩn bị phản công”. Tuy nhiên khi nghe tin Thái Bảo
tử trận thì nàng khóc lóc thảm thiết. Nhưng nỗi đau ấy không khiến nàng bi
lụy mà càng tiếp thêm sức mạnh quật cường quyết tâm chiến đấu để cứu nước
trả thù cho chồng. Nàng tâm niệm “trời sinh ta là gái nhưng ta nguyện vì dân,
vì nước, dù thịt nát xương tan mong được tiếng thơm muôn đời”. Vì thế ngay
cả khi chết đi rồi, Châu Nương cũng hiện về báo mộng giúp dân giúp nước.
Tại đình làng Giảng Võ hiện nay, còn đôi câu đố ghi lại sự tích đó:
“Tài chính túc sung quân, khổn nổi mệnh văn thiên tử chiếu;
Âm mưu năng thoái lỗ, quốc trung danh chấn nữ thần quyền”.
Nghĩa là:
“Của cải đủ nuôi thân, khăn yếm ra tay vâng chiếu chỉ;
Hồn thiêng còn đuổi giặc, non sông vang dậy tiếng thần nương”.
Với sự xuất hiện của những người phụ nữ trên chiến trận đã giáng một
đòn oanh liệt vào sự coi khinh của giặc. Vì thế khi hai nữ tướng Quế Nương
và Dung Nương đi đường bộ ra khiêu chiến trước với bọn Ma Na thì thái độ
của chúng tỏ ra khinh thường với quân ta: “Bọn giặc thấy là tướng gái thì có ý
xem thường, việc cầm cự cũng như canh gác đều có ý trễ nải”. Kết quả của sự
xem thường đó là bọn chúng đã thất bại “giặc không kịp trở tay, bị đuổi
xuống sông chết đuối quá nửa, số còn sống sót phải xin hàng” (Quế Nương và
Dung Nương).
Đó còn là hình ảnh của những phụ nữ giả trai để ra chiến trận. Nàng
Quỳnh Hoa con của ông Trần Vỹ (Bà chúa nghề tằm). Khi quân Chiêm
55
Thành tiến ra uy hiếp Thăng Long thì Quỳnh Hoa đã “búi tóc giả trai, chỉ huy
trai gái gia nhân giúp chồng đánh tập hậu quân giặc”.
Trong truyện Vợ ba Cai Vàng, tác giả dân gian ca ngợi người vợ thứ ba
của Cai Vàng, mới hai mươi tuổi mà võ nghệ tuyệt trần. Đứng trước ý định
của chồng muốn một phen chọc trời khuấy nước, diệt cho hết lũ tham tàn để
vẫy vùng riêng một cõi thì vợ cả và vợ hai tỏ ra sợ hãi còn nàng cương quyết
nói: “Chim không bay được, cây không mọc lên vì bọn chúng. Hiện nay bốn
phương nhao nhác còn chờ thượng công. Những lời yếu đuối của hai chị nên
mang về xó bếp. Thiếp tôi nhất thua nhì được, quyết xin theo chàng đến cùng,
diệt phường Kiệt Trụ, gây dựng cơ đồ. Người nào thương mẹ, nhớ cha cứ cho
về”. Trong trận đánh chiếm phủ Lạng Giang, nàng hai tay cầm hai thanh
gươm ngồi trên mình ngựa xông ra giữa hàng trận, quan quân chỉ còn biết rẽ
ra mà chạy. Nàng thách thức kẻ địch: “Thằng nào dám cả gan như vậy? Ta chỉ
vén váy diệt một trận thì e chúng mày chạy bằng bay cũng không thoát”.
Thậm chí khi Cai Vàng bị quân nhà vua bắn chết thì người vợ ba vẫn hiên
ngang tự điều khiển quân sĩ chống cự quân triều.
Góp sức vào trong sự nghiệp chống xâm lược của dân tộc, truyền
thuyết không chỉ ghi danh những nhân vật nữ có tên tuổi, quê quán mà các
nghệ sĩ dân gian còn ghi lại những nhân vật nữ vô danh. Người đời có thể
không biết đến tên, nguồn gốc xuất thân của họ nhưng hành trạng và chiến
công của họ khi đất nước có giặc ngoại xâm thì được lưu danh muôn đời.
Đó còn là người con gái không tên đã có công trong cuộc chiến chống
giặc Hán. Từ là một cái đống, cứ vào những đêm có trăng thì hình dáng nhan
sắc cô càng lộng lẫy. Đến khi có giặc Hán xâm lược, cô gái vụt biến thành
một nữ tướng oai phong, giơ cao chiếc lược lên thành thanh gươm sáng cả
một góc trời, chiêu tập binh sĩ giết giặc. Trai tài gái giỏi đến nhập quân đông
như nước. Thế rồi cô cùng thiên hạ đi đánh giặc cứu nước. Khi đất nước
56
thanh bình cô lại trở về làm cái đống giữa hồ. Đêm đêm cô lại chải tóc mượt
mà cho thiên hạ đàn ca nhảy múa (Đống chải đầu); cô gái không tên, người
đất vùng Chanh, Đùng, Truật, nổi tiếng là đất thượng võ. Cô là người duy
nhất trong vùng đuổi kịp được ngựa trời. Từ khi có ngựa trời cô càng dốc
lòng rèn luyện tài năng võ nghệ. Cô trở thành tấm gương sáng cho các cô gái
trong làng, và cùng nhau ao ước có ngày được đền nợ nước. Ra trận, người
con gái ấy cưỡi ngựa trắng, phi như gió lốc vào trận giặc. Giặc bâu lấy cô gái
như ong, tên bắn, giáo lao tối trời tối đất. Mặc dù thương tích máu me đầy
người, cô vẫn kiêu dũng xông pha, cho đến lúc lực cùng sức kiệt ngã nhào
xuống ngựa. Sau này trên khúc sông mà cô biến mất có một bông sen to đẹp
dị thường tỏa hương thơm trên làn nước sóng xanh. Vì thế dân làng gọi cô là
Liên Hương (Nàng Liên Hương).
Trong truyện Cánh đồng mẫu hậu, ca ngợi người đàn bà không tên đã
giúp đoàn quân của Lê Lợi trong lúc quân của ông bị quân minh đuổi. Đã mấy
ngày ròng rã cả đoàn đói, khát, cơm nước thất thường. Người đàn bà ấy khi
biết được đây là những nghĩa sĩ Lam Sơn, bà vui vẻ đặt mâm xuống: “Tôi đi
đơm mâm đầu họ. Nhưng cứu một người phúc đẳng hà sa. Xin các ông đừng
khách khí”. Không những thế, người đàn bà ấy còn khẩn khoản mời mọi
người về nhà mình, nấu cơm thiết đãi.
Hay đó là mụ hàng dầu đã giúp Lê Lợi trong trận chiến với giặc Minh.
Mụ hàng dầu giàu lòng yêu nước, ngày ngày gánh dầu tiếp tế hàng ba bốn
chuyến. Bọn quân nhà Minh dần dần để ý và bắt mụ tra khảo. Nhưng mụ với
một lòng yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc, mụ đã không “hé
răng nửa lời”. Cuối cùng chúng đã hèn hạ giết mụ. Biết ơn người đàn bà bán
dầu đã tỏ lòng trung thành với nghĩa quân, lại luôn nhớ đến ngọn đèn khai
sinh chờ ngày khởi nghĩa, Lê Lợi đã đặt tên quả núi ấy là núi dầu và ra lệnh
57
giỗ mụ hàng dầu sau ngày giỗ mình. Vì thế dân gian ta mới có câu: “Hăm mốt
Lê Lai, hăm hai Lê Lợi, hăm ba giỗ mụ hàng dầu” (Sự tích núi dầu).
Trong truyện Bán cháo ca ngợi về người phụ nữ không tên đã đóng góp
công sức của mình vào công cuộc đánh đuổi bọn xâm lược Mãn Thanh. Bà
lão bán nước cũng như nhân dân ta hồi bấy giờ rất căm ghét bọn ngoại xâm
đang giày xéo quê hương đất nước. Chúng là bọn giặc Mãn Thanh tàn bạo
chúng đi đến đâu gây tang tóc đau thương đến đấy. Vì vậy khi nghe tin Quang
Trung kéo quân đi dẹp giặc mọi người nô nức đi theo. Mặc dù đã già không
thể theo vua đi đánh giặc nhưng bà lão bán nước tìm mọi cách để giúp đỡ các
nghĩa quân. Bà lão bèn đem số tiền đã giành dụm trong nhiều năm trời đong
gạo nuôi nghĩa quân. Đó là số tiền mà tích cóp để sau này dưỡng lão. Thế
nhưng người phụ nữ ấy vì đại cuộc, vì cuộc chiến của đất nước mà hi sinh bản
thân mình. Bà nấu những nồi cháo thật lớn đợi những người lính của vua
Quang Trung hành quân qua và vào quán nghỉ để ăn cháo. Hành động ấy của
bà khiến các quân sĩ rất cảm động. Thậm chí “có người lính nào không may bị
ốm, bà cho nghỉ lại và ân cần chăm sóc như con cái trong nhà”.
Nhân vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề bảo vệ đất nước, họ sánh
bước hiên ngang với chồng, gan dạ đối mặt với kẻ thù. Họ giúp chồng tạo
dựng sự nghiệp. Đó là nàng Đào Nương, vợ của Doãn Công trong truyện Sự
tích Doãn Công dẹp giặc Tô Định. Nàng không những là người có nhan sắc
mà còn giúp chồng tạo dựng sự nghiệp báo thù cho cha, cho quê hương. Đào
Nương và Doãn Công đã lập dinh trại ở khu Bảo Tháp và đi chiêu mộ quân
dân ở các quận huyện. Do đó, tiếng tăm của hai vợ chồng loan đi khắp
vùng.Hay đó còn là nàng La, là người có tài sắc và thông hiểu chữ nghĩa.
Nàng đã cùng chồng của mình là Trần Thưởng tạo ra cơ sở may vững vàng.
Không những thế, nàng La còn khuyên Trần Thưởng “ôn tập sách vở để đi
thi”. Nhờ lời khuyên và sự chăm sóc của vợ thì Trần Thưởng đã thi đỗ và
58
được bổ làm quan, chuyên coi về nghề nghiệp thủ công. Khi nghe tin Trần
Thưởng đi thuyền bị sóng cuốn đi mất tích thì nàng đã uống rượu thuốc độc
và chết theo chồng (Bà chúa dệt: Thụ La công chúa).
Trong truyện Ngô Thị Nương Nương, bà Ngô Thị Nương đã báo mộng
cho chồng, giúp chồng và quân sĩ đánh thắng giặc: “Xin lang quân mau mau
đánh ra, có thiếp dẫn đường”. Ông cùng với nghĩa quân đi theo đàn ong đang
bay trước mặt tiến về phía quân giặc. Lũ giặc lồng vào trong tay áo, cắn cả
vào cổ tay, cánh tay giặc. Khiến chúng nháo nhác, gươm rơi giáo rụng, hàng
ngũ hỗn loạn, tan tác bỏ chạy. Nhờ sự báo mộng của Ngô Thị Nương mà quân
ta đã toàn thắng.
Cứ như vậy, truyền thống phụ nữ Việt Nam “anh hùng bất khuất”
trong truyền thống toàn dân đánh giặc còn được nối tiếp mãi trong các truyền
thống chống xâm lược sau này. Ngoài những truyền thuyết viết về các nhân
vật nữ trực tiếp cầm vũ khí giết giặc thì trong truyền thuyết người Việt còn đề
cập và ca ngợi những người phụ nữ gián tiếp đóng góp công sức của mình
góp phần làm nên chiến thắng quân địch.
Bà Hiển Nhân nguyên tên là Trần Thị Ngọc Trần (Truyện Bà Hiển
Nhân) đã có công vô cùng to lớn trong cuộc chiến chống giặc Minh. Bà Ngọc
Trần là một nữ chiến sĩ trong trong nghĩa quân của Lê Lợi. Bà chịu trách
nhiệm chăm lo thu xếp trang trại, coi sóc lương thực, may vá quần áo cho
quân sĩ. Bà cũng tập hợp một đội nghĩa binh, không phải ra giao chiến, nhưng
đã tham gia việc bảo vệ cơ sở, cung cấp hậu cần rất là chu đáo. Thậm chí để
giúp Lê Lợi chiến thắng giặc bà đã nguyện nhận lấy cái chết. Lê Lợi mộng
thấy thần nói rằng: “Xin được cho một người thiếp, thì nguyện xin giúp đỡ
đắng giặc thành công”. Bà Trần vì nghĩa lớn mà gieo mình xuống sông để bảo
toàn cho đoàn chiến thuyền của Lê Lợi; công chúa Mai Châu (Công chúa Mai
Châu) con của vua Lê Thánh Tông, mặc dù mới có mười ba tuổi nhưng cô bé
59
rất dũng cảm và kiên cường. Khi các bộ lạc mọi ở vùng Ngũ nổi dậy chống
người Việt thì nàng xin vua cha cho ra trận. Khi thuyền đến bờ Quảng Bình
thì gặp sóng to gió lớn, các binh sĩ đoán là điềm của Long thần muốn bắt công
chúa. Mai Châu thay vì được sống thì nàng quyết định hiến mạng cho Long
thần để cứu quân sĩ: “Nếu nàng không nhảy xuống cho Long thần ăn thịt thì
tất cả mười chiến thuyền này bị đắm”. Tấm lòng trượng nghĩa của nàng trong
cuộc chiến thật đáng ngượng mộ.
Đó còn là nàng Ỷ Lan (Sự tích Ỷ Lan phu nhân), nàng ở nhà giúp việc
triều chính khi chồng nàng là Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm
Thành. Bằng sự thông minh, nhân hậu nàng trị dân rất có phép tắc giúp “bốn
phương yên tĩnh, mọi người vui vẻ làm ăn, rất biết ơn bà, gọi bà là Phật Quan
Âm tái sinh”. Ỷ Lan không những đã giúp dân có được đời sống ồn định mà
nàng còn là tấm gương sáng, động lực giúp chồng đánh bại được vua Chiêm là
Chế Củ: “Nàng là một người đàn bà ở nhà mà lại có tài như thế, ta đường đường
là một trang nam nhi mà lại chịu là người vô công?”. Sau này khi vua mất, bà đã
có công lao to lớn trong việc phò giúp vua Lý Càn Đức mới có bảy tuổi lên nối
ngôi, chăm lo việc triều chính và đánh tan quân xâm lược nhà Tống.
Qua truyền thuyết viết về nhân vật nữ, ta thấy họ không những thông
minh, có tài năng hiểu biết mà còn là những con người khẳng định được vị trí
quan trọng của mình trong đời sống xã hội. Những người phụ nữ ấy là những
người yêu nước thuộc các tầng lớp xã hội và các thành phần dân tộc khác
nhau đã dựng nên bức tranh toàn dân kháng chiến hoành tráng nhiều màu sắc.
Khi đất nước có giặc ngoại xâm thì họ chính là những nữ anh hùng trên chiến
trận. Qua đó, tác giả dân gian muốn bảy tỏ thái độ ngượng mộ, kính trọng tới
các nữ anh hùng. Họ chính là những người làm nên màu sắc đất nước trong
truyền thống đánh giặc của người Việt.
60
Tiểu kết chương 3
Nhân vật nữ trong truyền thuyết với chủ đề bảo vệ đất nước được các
nghệ sĩ dân gian xây dựng một cách hoàn mĩ. Những người phụ nữ trong thời
kỳ này hiện lên thật hấp dẫn từ ngoại hình, diện mạo cho đến tài năng và đời
sống tâm hồn. Đặc biệt, hành trạng của họ trong cuộc chiến chống xâm lược
được tái hiện lại đầy sống động và phi thường. Họ là những nhân vật lịch sự
được hình tượng hóa và mĩ hóa. Chính vì vậy khi so sánh đối chiếu ngoại
hình, diện mạo, hành trạng của các nhân vật nữ trong thời kì xây dựng đất
nước ta thấy họ chỉ được miêu tả một cách khái quát, ngắn gọn thì ngoại hình,
hành trạng, tài năng của nhân vật nữ trong thời kì này được miêu tả một cách
chi tiết, khổng lồ từ hình dáng, khuôn mặt đến mái tóc. Phải chăng nhân dân
trong khi tô điểm cho các nhân vật nữ đã dồn tụ vai trò đại diện cho tập thể,
tầm vóc của vũ trụ và lịch sử cho họ, khiến họ không thể không trở nên khổng
lồ, đậm màu sắc hư cấu hơn màu sắc hiện thực.
Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt với chủ đề bảo vệ
đất nước chính là thế hệ những người phụ nữ tiên phong cho truyền thống
“giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Sự đóng
góp to lớn, những công lao của các bà các mẹ, những nữ anh hùng trực tiếp
cầm vũ khí chiến đấu trên chiến trường đã thể hiện trí tuệ, tài năng, sức vóc
của họ đối với sự nghiệp bảo vệ đất nước. Hình ảnh của những người phụ nữ,
tên tuổi của họ mãi khắc ghi cùng sự bất tử phồn vinh của đất nước. Nhân dân
ta đã ghi chép sáng tạo và lưu truyền lại những mẩu truyền thuyết viết về
những người phụ nữ với một tấm lòng thành kính biết ơn và ngợi ca.
61
KẾT LUẬN
1.1. Truyền thuyết dân gian Việt Nam vừa là một tác phẩm văn học
nghệ thuật vừa là các sáng tác lưu lại những giá trị văn hóa vốn tồn tại lâu đời
của dân tộc. Những truyền thuyết dân gian vừa có một cái lõi là sự thực lịch
sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gắm vào đó những tâm
tình tha thiết của mình. Những nhân vật lịch sử khi vào truyện đã được hình
tượng hóa để phản ánh lịch sử một cách nghệ thuật. Theo cách ấy, dân gian đã
sáng tạo ra những những tác phẩm văn hóa lôi cuốn, hấp dẫn bạn đọc cho đến
thế hệ ngày nay. Lịch sử dân tộc đã trải qua những buổi đầu dựng nước và giữ
nước đầy hi sinh và hào hùng nhưng truyền thuyết dân gian vẫn sánh bước
cùng chủ thể văn hóa Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển, gìn giữ
bản sắc dân tộc.
1.2. Có lẽ do lịch sử đặc biệt của Việt Nam là phải đấu tranh chống
ngoại xâm từ sớm và trong quá trình dựng nước vẫn phải liên tục chống ngoại
xâm giữ nước, nên những truyền thuyết về lịch sử bảo vệ đất nước dường như
được nhân dân quan tâm ghi nhớ nhiều hơn lịch sử xây dựng đất nước, anh
hùng chiến trận được biết đến nhiều hơn danh nhân văn hóa.
1.3. Viết về những nhân vật nữ, truyền thuyết dân gian đã thể hiện thái
độ ngưỡng mộ trân trọng, ngợi ca của các nghệ sĩ dân gian đến tài năng, đời
sống tâm hồn và phẩm chất của những con người bình thường và phi thường
trong lịch sử dân tộc. Sự phản ánh lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch
sử khác nhau sẽ có những đặc trưng khác nhau. Vì thế mà nhân vật nữ trong
truyền thuyết dân gian được tái hiện và xây dựng lại tùy thuộc vào cảm quan
thẩm mỹ của nhân dân qua từng thời kì. Người phụ nữ hiện lên qua các tác
phẩm là những người phụ nữ hoàn mĩ. Họ không những có vẻ đẹp ngoại hình
62
mà tài năng và đời sống tâm hồn của họ thật đáng ngưỡng mộ và ngợi ca. Họ
có thể là những người mẹ tảo tần, người vợ chung thủy, hoặc là những cô gái
gan dạ, dũng cảm trên chiến trường. Họ tích cực tham gia vào công cuộc kiến
tạo văn hóa và lao động sản xuất. Họ là những con người bình thường nhưng
lại làm nên những chiến công phi thường. Họ xứng đáng là những anh hùng
dân tộc những người đã góp phần làm nên lịch sử dân tộc.
Truyền thuyết dân gian viết về nhân vật nữ chính là sự kết hợp hài hòa
giữa truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc cùng với những quan niệm
truyền thống văn hóa tốt đẹp; các tín ngưỡng tư tưởng tôn giáo khác nhau
hiện lên trong đời sống tinh thần người Việt. Chẳng hạn như tín ngưỡng thờ
thần, tư tưởng Phật giáo,…
1.4. Truyền thuyết dân gian về nhân vật nữ cũng thể hiện tài kể chuyện
của những nghệ sĩ dân gian. Họ đã xây dựng lại bức tranh về đời sống của
người phụ nữ từ thời dựng nước đến những cuộc chiến đấu để giữ nước. Tất
cả được tái hiện một cách sinh động và sâu sắc nhất. Qua đó các nghệ sĩ dân
gian muốn thể hiện rõ nét tư tưởng tình cảm và thái độ công bằng đối với
những người phụ nữ.
Từ truyền thống đến hiện tại và tương lai sau này luôn là một dòng chảy
liên tục. Nghiên cứu truyền thuyết dân gian về nhân vật nữ chính là mong muốn
của khóa luận này trong ý thức gìn giữ giá trị văn hóa của cha ông để lại.
63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2017), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Văn học, Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Đổng Chi (1957), Sơ thảo lịch sử Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, Hà
Nội.
3. Bạch Ngọc Chiến và Vương Quân Hoàng (2015), “Bằng chứng cuộc sống suy
ngẫm và phát triển bền vững”, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội.
4. Cao Huy Đỉnh (1967), “Người anh hùng làng Gióng trong lòng nhân dân”,
Tạp chí văn học, (7).
5. Vũ Tố Hảo (1974), “Bà Triệu qua một số tư liệu văn học dân gian sưu tầm ở
Thanh Hóa”, Tạp chí văn học, (1), tr. 34-39.
6. Hoàng Xuân Hãn (1995), “Giới thiệu chuyện Ỷ Lan”, trong sách Thiên tình sử
Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, Hà Nội.
7. Kiều Thu Hoạch (1976), Truyền thuyết anh hùng trong loại hình tự sự dân
gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 1,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 2,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 3,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 4,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 5,
63
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Truyền thuyết dân gian người Việt, tập 6,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Đỗ Đức Hùng (1997), Nữ chúa Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
15. Hoàng Tiến Hựu (1998), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, tập 2, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Bích Hà, Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Sư phạm, Hà
Nội.
17. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2013), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua
truyện Tấm Cám, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
19. PGS Vũ Ngọc Khánh, Trần Thị An, Phạm Minh Thảo (nhóm biên soạn)
(1998), Truyền thuyết Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
20. Đặng Thanh Lê (1968), “Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm”, Tạp chí
văn học (2;3).
21. Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội.
22. Trần Gia Linh (1980), “Vai trò của người phụ nữ khai sáng đất nước và dân
tộc trong truyền thuyết dân gian”, Tạp chí văn học, (2), tr 34-40.
23. Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Bùi Văn Nguyên (chủ biên) (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
24. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Lê Chí Quý (1900), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học và Giáo dục
64
chuyên nghiệp.
26. Đỗ Bình Trị (1991), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân
gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Bùi Quang Thanh (1984), “Truyền thuyết và lịch sử”, Nghiên cứu văn học, (2).
28. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Bùi Quang Thanh (1979), “Về một số thể loại văn học dân gian”, Tạp chí văn
học, (4).
30. Phạm Thu Yến (chủ biên), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Đại học sư
65
phạm, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Bảng 1. Thống kê số lượng truyện về nhân vật nữ trong truyền thuyết dân
gian người Việt
TT Tên truyện Nhân vật nữ
Âu Cơ 1 Truyện Họ Hồng Bàng
2 Truyện Nhất Dạ Trạch
Dị bản:
Sự tích Chử Đồng Tử, Tiên Dung công chúa và Tiên Dung
Tây Dung tiên nữ
Sự tích Tiên Dung – Chử Đồng Tử
3 Sự tích Bà Man Thiện Bà Man Thiện
4 Truyện Hai Bà Trinh linh phu nhân họ Trưng
Dị bản:
Chế thắng Nhị Trưng phu nhân Trưng Trắc, Trưng Nói về sự tích bà Trưng Trắc, Trưng Nhị Nhị Trưng Vương
Truyện Trưng Vương
Sự tích Hai Bà
5 Bà Trưng Nhị thành Dền Trưng Nhị
Sự tích năm anh em chàng Vịt Triệu Khoan Hòa 6
Sự tích anhem Trù Công và Thuận Nương giúp Bà Lan Hoa 7
Trưng đánh đuổi Tô Định
Sự tích Đào Kỳ thời vua Trưng Trần Thị Tốt 8
1
Sự tích Đường Hoàng thời vua Trưng Tạ Cận 9
10 Sự tích Thủy Hải và Đằn Giang thời vua Trưng Phùng Lan
11 Sự tích Mộc Hoàn thời vua Trưng Đặng Thị Phàn
12 Sự tích Doãn Công dẹp giặc Tô Định Cao Nguyên
13 Sự tích Học Công, Nga Nương, Hồng Nương thời Nga Nương, Hồng
Hai Bà Trưng Nương
14 Sự tích Phương Dung công chúa thời vua Trưng Phương Dung
15 Sự tích đức thánh Hưng Phúc thời Hai Bà Trưng Tạ Thị Cẩn
16 Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ tướng Ả Tú, Ả Huyền,
thời Hai Bà Trưng Thượng Cát
17 Sự tích Phạm Đống Hoàng Thị Từ
18 Sự tích Bát Nàn công chúa Bát Nàn
Dị bản:
Bát Nàn công chúa
19 Sự tích hai anh em Uyên Mặc đại vương và Quang Chu Thị Phương
Dung công chúa thời Hai Bà Trưng
20 Truyện hai mẹ con theo vua Trưng đánh giặc Tô Nguyễn Thị Cầu
Định
21 Sự tích Cao Thiên Hoàng Bà Cao Nhự
22 Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Vương Nguyễn Thị Hiển
23 Sự tích ba anh em một nhà làm tướng của Hai Bà
Trưng
Dị bản: Kiều Hoa
Sự tích Hách Thanh, Hương Trản và Kiều Hoa
2
thời vua Trung
24 Sự tích Thiều Hoa công chúa Thiều Hoa
25 Khâu Ni công chúa Quách À Nương
26 Vĩnh Hoa công chúa Vĩnh Hoa
27 Xuân Nương công chúa Xuân Nương
28 Doãn Công – Đào Nương Đào Nương
29 Nữ tướng Côn Nương Côn Nương
30 Ba anh em họ Nguyễn và Thục Nương Thục Nương
31 Đinh Thị Phật Nguyệt Đinh Thị Phật
Nguyệt
32 Sự tích các ông Cả Lợi, Hai Lợi Tả Ả Nương
33 Ba chị em Bà Dưỡng Bà Dưỡng
34 Sự tích của hai anh em Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn Đặng Thị Sách
35 Bà chúa Bầu Bà Bầu
36 Sự tích tướng quân Lũ Lũy Nàng Tứ
37 Sự tích hai anh em đánh giặc Tô Định Lan Hoa
38 Nàng Hát hay làm quay muôn giáo Nàng Hát
39 Sự tích thần Đình Tào Tạ Cần
40 Truyện Man Nương
Dị bản:
Sự tích Man Nương Man Nương
Tích truyện Man Nương
Man Nương và tứ pháp
3
41 Bài ký về Lệ Hải bà Vương Triệu Thị Trinh Dị bản:
Nói về sự tích bà Triệu Ẩu
42 Sự tích Lý Bí
Dị bản: Lã Phương Sự tích tiền Lý Nam Đế
Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế
43 Hoàng hậu nước Vạn Xuân Triệu Trinh Hòa
44 Bà Chén Ý Hạnh
45 Ba anh em họ Nguyễn Đinh Thị Châu
46 Sự tích Triệu Việt Vương và Cảo Nương
Dị bản:
Sự tích Triệu Quang Phục Châu Thị Hoa Truyện tích Triệu Quang Phục
Triệu Quang Phục
Truyện Triệu Quang Phục
47 Sự tích Đại Lang, Nhị Lang thời Triệu Việt Vương Trần Thị Hòa
48 Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương A Dung Nương
49 Truyện hai anh em thủy thần sinh đôi đánh giặc Hoàng Hoa Liên
Lương
50 Sự tích bà mẹ Đinh Tiên Hoàng và các công thần Đoàn Thị Cao
Đào Thị
Chiên Nương
51 Hoàng hậu thời thơ ấu Dương Vân Nga
52 Cha dỗ đó, mẹ lá chùa Đặng Thị
4
53 Bà chúa Tó Chúa Tó
54 Đại Yên và chuyện Trần Ngọc Hoa Ngọc Xiêm
Dị bản: Trần Ngọc Hoa
Nữ thần chin tuổi: Trần Ngọc Hoa
55 Sự tích Ỷ Lan phu nhân Vũ Thị Tĩnh
(Lý triều đệ tam hoàng đế - hoàng thái hậu) Khiết Nương (Nàng
Yến – Nàng Cám) Dị bản:
Sự tích Ỷ Lan thời Lý
Bà Phù thánh Linh Nhân (bà Ỷ Lan)
56 Bà chúa dệt: Thụ La công chúa
Dị bản: Nguyễn Thị La
Bà chúa dệt
57 Quế Nương và Dung Nương Lý Châu
Quế Nương, Dung
Nương
Chúa Lẫm 58 Bà chúa Lẫm
59 Thần Hậu Thổ
(Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ thần kỳ Hậu Thổ phu nhân
địa nguyên quân)
60 Truyện nàng cồng chúa đời Trần Hoàng Thị Tuân
Ngọc Xiêm
61 Truyện nàng Vũ ở huyện Nam Xương Vũ Nương
62 Châu Nương phu nhân Lý Châu Nương
Dị bản: Bà chúa giữ kho
5
63 Sự tích Ả Lã đệ nhị công chúa đời Trần Ả Lã
64 Sự tích bà Quý Minh thời Trần Lý Huệ Nương
Quý Minh
65 Bà Mỵ Châu Mỵ Châu
66 Ngọc Nương, Bảo Nương Ngọc Nương
Bảo Nương
67 Đền cửa Càn Hải
(Ở xã Hướng Cẩn, huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn
Châu, Nghệ An)
Dị bản: Phu nhân họ Triệu Sự tích tứ vị thánh nương
Sự tích Càn Hải Tống Hậu Phu nhân
Truyện Tứ vị thánh nương
Truyện về một bà hoàng hậu Tống triều
68 Sự tích Nguyệt Nga công chúa Trần Thị Đạt
Dị bản: Nguyệt Nga Công
Sự tích Nguyệt Nương Chúa
Sự tích bà chúa Phương Phi (Nguyệt Nương,
Nguyệt Minh)
69 Sự tích bà vợ cả của Lê Lợi Phạm Thị Ngọc
Trần
70 Sự tích công chúa Lê Ngọc Bái con gái Lê Lợi Lê Ngọc Bái
71 Truyện Đào Nương Đào Nương
Dị bản: Đào Huệ
6
Truyện Ả Đào Nương Lương Thị Huệ
Truyện Ả Đào
Thôn Ả Đào
Người Ả Đào với Giặc Minh
Ả Đào Nương dùng mưu đánh giặc
Sự tích cây cói
Sự tích tháp bà
72 Truyện nàng chim Thước Nàng Phương
73 Sự tích công chúa Thượng Ngàn Thượng Ngàn
(La Bình)
74 Truyện bà Hiển Nhân Ngọc Trần
75 Công chúa Mai Châu Mai Châu
76 Bà Tri Chỉ Nguyễn Thị Kể
77 Bà Kiệt Đặc Nguyễn Thị Duệ
78 Tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh (Quỳnh
Hoa)
79 Liễu Hạnh tiên chúa Giáng Tiên
80 Bà chúa nghề tằm Quỳnh Hoa
81 Bà chúa Thiên Niên Phạm Thị Ngọc Đô
82 Sự tích Mai Hoa công chúa thời Lê Mai Hoa
83 Bà chúa Mía Nguyễn Thị Ngọc
Liệu
84 Bà Ngọc Đài Ngọc Đài
85 Mãn Đào Hoa công chúa Bạch Hoa
7
86 Nữ anh hùng Bùi Thị Xuân Bùi Thị Xuân
87 Bà tổ nghề dệt lụa Hoàng Phủ Thiếu
Hoa
Ngọc Trúc 88 Bà pháp tính: bà chúa Kim Cương
Quế Hoa 89 Sự tích hát xoan
Bà Tăng Má 90 Bà Tăng Má
Mụ Giạ 91 Mụ Giạ
Nhữ Nương 92 Vua Bà
Quế Nương 93 Thánh mẫu thượng ngàn
Liên Nương 94 Nàng Liên Hương
Bà chúa Vĩnh 95 Bà chúa Vĩnh
96 Cầu chẹm và khối vàng của bà Cống Kỷ Bà Kỷ
97 Truyền thuyết về Thiên Ya Na
Dị bản:
Truyện nữ thần Đăng Giai
Thiên Ya Na Sư tích đền Cờn
Truyện Man Nương
Truyện nàng Mưjưk
Thiên Ya Na thánh mẫu
Bà chúa Binh 98 May áo chồng bằng hơi thở ấm
Bà chúa Vót 99 Bà chúa Vót
Ngô Thị Nương 100 Ngô Thị Nương Nương
Bà Vạn 101 Truyện bà Vạn
Bà Sở 102 Bà Sở
8
103 Bà chúa khoai lang Dương Ngọc tổ nghề trồng Dương Ngọc
khoai
104 Bà chúa Muối Nguyệt Ánh
105 Bà chóa tổ nghề trồng dâu nuôi tằm Bà chóa
106 Lầu Slam – Bà chúa thơ Lầu Slam
Bảng 2: Phân loại nhân vật nữ trong truyền thuyết
Bảng 2.1. Phân loại nhân vật nữ là những người thông minh, tài giỏi, hiên
ngang
STT Tên truyện Nhân vật chính
1 Truyện Họ Hồng Bàng Âu Cơ
2 Sự tích Bà Man Thiện Bà Man Thiện
3 Truyện Nhất Dạ Trạch Tiên Dung
Dị bản:
Sự tích Chử Đồng Tử, Tiên Dung công chúa
và Tây Dung tiên nữ
Sự tích Tiên Dung – Chử Đồng Tử
4 Truyện Hai Bà Trinh linh phu nhân họ Trưng Trưng Trắc, Trưng Nhị
Dị bản:
Chế thắng Nhị Trưng phu nhân
Nói về sự tích bà Trưng Trắc, Trưng Nhị
Trưng Vương
Truyện Trưng Vương
Sự tích Hai Bà
9
5 Bà Trưng Nhị thành Dền Trưng Nhị
6 Sự tích Học Công, Nga Nương, Hồng Nương Nga Nương, Hồng
thời Hai Bà Trưng Nương
7 Sự tích Phương Dung công chúa thời vua Phương Dung
Trưng
8 Sự tích Ả Tú, Ả Huyền, Thượng Cát ba nữ Ả Tú, Ả Huyền,
tướng thời Hai Bà Trưng Thượng Cát
9 Sự tích Bát Nàn công chúa Bát Nàn
Dị bản:
Bát Nàn công chúa
10 Truyện hai mẹ con theo vua Trưng đánh giặc Nguyễn Thị Cầu
Tô Định
11 Sự tích Cao Thiên Hoàng Bà Cao Nhự
12 Sự tích ba anh em một nhà làm tướng của Hai Kiều Hoa
Bà Trưng
Dị bản:
Sự tích Hách Thanh, Hương Trản và Kiều
Hoa thời vua Trung
13 Sự tích Thiều Hoa công chúa Thiều Hoa
14 Khâu Ni công chúa Quách À Nương
15 Vĩnh Hoa công chúa Vĩnh Hoa
16 Xuân Nương công chúa Xuân Nương
17 Doãn Công – Đào Nương Đào Nương
18 Nữ tướng Côn Nương Côn Nương
10
19 Ba anh em họ Nguyễn và Thục Nương Thục Nương
20 Đinh Thị Phật Nguyệt Đinh Thị Phật Nguyệt
21 Ba chị em Bà Dưỡng Bà Dưỡng
22 Bà chúa Bầu Bà Bầu
23 Nàng Hát hay làm quay muôn giáo Nàng Hát
24 Truyện Man Nương Man Nương
Dị bản:
Sự tích Man Nương
Tích truyện Man Nương
Man Nương và tứ pháp
25 Bài ký về Lệ Hải bà Vương Triệu Thị Trinh
Dị bản:
Nói về sự tích bà Triệu Ẩu
26 Hoàng hậu nước Vạn Xuân Triệu Trinh Hòa
27 Bà Chén Ý Hạnh
28 Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương A Dung Nương
29 Hoàng hậu thời thơ ấu Dương Vân Nga
30 Bà chúa Tó Chúa Tó
31 Bà Mỵ Châu Mỵ Châu
32 Ngọc Nương, Bảo Nương Ngọc Nương
Bảo Nương
33 Bà chúa dệt: Thụ La công chúa Nguyễn Thị La
Dị bản:
Bà chúa dệt
11
34 Bà chúa Lẫm Chúa Lẫm
35 Châu Nương phu nhân Lý Châu Nương
Dị bản: Bà chúa giữ kho
36 Sự tích Nguyệt Nga công chúa Nguyệt Nga Công Chúa
Dị bản:
Sự tích Nguyệt Nương
Sự tích bà chúa Phương Phi
37 Đại Yên và chuyện Trần Ngọc Hoa Ngọc Xiêm
Dị bản: Trần Ngọc Hoa
Nữ thần chin tuổi: Trần Ngọc Hoa
38 Sự tích Ỷ Lan phu nhân Vũ Thị Tĩnh
(Lý triều đệ tam hoàng đế - hoàng thái hậu) Khiết Nương
Dị bản: (Nàng Yến – Nàng
Sự tích Ỷ Lan thời Lý Cám)
Bà Phù thánh Linh Nhân (bà Ỷ Lan)
39 Bà chúa dệt: Thụ La công chúa Nguyễn Thị La
Dị bản:
Bà chúa dệt
40 Sự tích Ả Lã đệ nhị công chúa đời Trần Ả Lã
41 Quế Nương và Dung Nương Quế nương
Dung Nương
42 Sự tích công chúa Lê Ngọc Bái con gái Lê Lê Ngọc Bái
Lợi
Đào Nương 43 Truyện Đào Nương
12
Đào Huệ Dị bản:
Truyện Ả Đào Nương Lương Thị Huệ
Truyện Ả Đào
Thôn Ả Đào
Người Ả Đào với Giặc Minh
Ả Đào Nương dùng mưu đánh giặc
Sự tích cây cói
Sự tích tháp bà
44 Truyện nàng chim Thước Nàng Phương
45 Sự tích công chúa Thượng Ngàn Thượng Ngàn
(La Bình)
46 Truyện bà Hiển Nhân Ngọc Trần
47 Công chúa Mai Châu Mai Châu
48 Bà Chi Trỉ Nguyễn Thị Kể
49 Bà Kiệt Đặc Nguyễn Thị Duệ
50 Tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh (Quỳnh
Hoa)
51 Liễu Hạnh tiên chúa Giáng Tiên
52 Sự tích Mai Hoa công chúa thời Lê Mai Hoa
53 Nữ anh hùng Bùi Thị Xuân Bùi Thị Xuân
54 Nàng Liên Hương Liên Nương
55 May áo chồng bằng hơi thở ấm Bà chúa Binh
13
56 Ngô Thị Nương Nương Ngô Thị Nương
Bảng 2.2. Thống kê nhân vật nữ là người mẹ sinh ra những người con anh
hùng
Số lượng
TT Tên truyện Nhân vật truyện và tỷ
lệ phần trăm
1 Sự tích năm anh em chàng Vịt Triệu Khoan Hòa
2 Sự tích anh em Trù Công và Thuận Lan Hoa
Nương giúp Bà Trưng đánh đuổi Tô
Định
3 Sự tích Đào Kỳ thời vua Trưng Trần Thị Tốt
4 Sự tích Đường Hoàng thời vua Trưng Tạ Cận
5 Sự tích Thủy Hải và Đằn Giang thời Phùng Lan
vua Trưng
6 Sự tích Mộc Hoàn thời vua Trưng Đặng Thị Phàn
7 Sự tích Doãn Công dẹp giặc Tô Định Cao Nguyên 32-30.2% 8 Sự tích đức thánh Hưng Phúc thời Hai Tạ Thị Cẩn
Bà Trưng
9 Sự tích Phạm Đống Hoàng Thị Từ
10 Sự tích hai anh em Uyên Mặc đại Chu Thị Phương
vương và Quang Dung công chúa thời
Hai Bà Trưng
11 Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Nguyễn Thị Hiền
Vương
12 Sự tích hai anh em đánh giặc Tô Định Lan Hoa
14
13 Sự tích các ông Cả Lợi, Hai Lợi Tả Ả Nương
14 Sự tích của hai anh em Lê Ả Lan và Lê Đặng Thị Sách
Anh Tuấn
15 Sự tích tướng quân Lũ Lũy Nàng Tứ
16 Sự tích thần Đình Tào Tạ Cần
17 Sự tích Lý Bí Lã Hương
Dị bản:
Sự tích tiền Lý Nam Đế
Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế
18 Ba anh em họ Nguyễn Đinh Thị Châu
19 Sự tích Triệu Việt Vương và Cảo Châu Thị Hoa
Nương
Dị bản:
Sự tích Triệu Quang Phục
Truyện tích Triệu Quang Phục
Triệu Quang Phục
Truyện Triệu Quang Phục
20 Sự tích Đại Lang, Nhị Lang thời Triệu Trần Thị Hòa
Việt Vương
21 Truyện hai anh em thủy thần sinh đôi Hoàng Hoa Liên
đánh giặc Lương
22 Sự tích bà mẹ Đinh Tiên Hoàng và các Đoàn Thị Cao
công thần Đào Thị
Chiên Nương
Hậu Thổ phu 23 Thần Hậu Thổ
15
(Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu nhân
thổ thần kỳ địa nguyên quân)
24 Truyện nàng Vũ ở huyện Nam Xương Vũ Nương
25 Sự tích bà Quý Minh thời Trần Lý Huệ Nương
Quý Minh
26 Đền cửa Càn Hải Phu nhân họ
(Ở xã Hướng Cẩn, huyện Quỳnh Lưu, Triệu
phủ Diễn Châu, Nghệ An)
Dị bản:
Sự tích tứ vị thánh nương
Sự tích Càn Hải Tống Hậu Phu nhân
Truyện Tứ vị thánh nương
Truyện về một bà hoàng hậu Tống triều
27 Sự tích Nguyệt Nga công chúa Trần Thị Đạt
Dị bản: Nguyệt Nga
Sự tích Nguyệt Nương Công Chúa
Sự tích bà chúa Phương Phi (Nguyệt Nương,
Nguyệt Minh)
28 Truyện nàng cồng chúa đời Trần Hoàng Thị Tuân
29 Sự tích bà vợ cả của Lê Lợi Phạm Thị Ngọc
Trần
30 Bà Sở Bà Sở
31 Bà Tăng Má Bà Tăng Má
16
32 Bà Vạn Bà Vạn
Bảng 2.3. Phân loại nhân vật nữ trong lao động sản xuất và sáng tạo văn hóa
Phân loại dựa vào công việc nghề nghiệp của các nhân vật nữ
Công Số lượng
TT Truyện Nhân vật việc nghề truyện và tỷ
nghiệp lệ phần trăm
1 Truyện Họ Hồng Bàng Âu Cơ
2 Truyện Nhất Dạ Trạch Tiên Dung
Dị bản:
Sự tích Chử Đồng Tử, Tiên
Dung công chúa và Tây
Dung tiên nữ
Sự tích Tiên Dung – Chử
Đồng Tử
3 Vĩnh Hoa công chúa Vĩnh Hoa Nông
nghiệp 22-20.7% 4 Sự tích bà mẹ Đinh Tiên Đoàn Thị Cao
Hoàng và các công thần Đoàn Thị
5 Cha dỗ đó, mẹ lá chùa Đặng Thị
6 Sự tích Ỷ Lan phu nhân Vũ Thị Tĩnh
(Lý triều đệ tam hoàng đế - Khiết Nương
hoàng thái hậu)
Dị bản:
Sự tích Ỷ Lan thời Lý
Bà Phù thánh Linh Nhân (bà
17
Ỷ Lan)
7 Truyện nàng công chúa đời Hoàng Thị Tuân
Trần
8 Truyện nàng Vũ ở huyện Vũ Nương
Nam Xương
9 Sự tích bà Quý Minh thời Lý Huệ Nương
Trần Quý Minh
10 Quế Nương và Dung Nương Quế Nương
11 Bà chúa Vĩnh Bà chúa Vĩnh
12 May áo chồng bằng hơi thở Bà chúa Binh
ấm
13 Bà chúa Vót Bà chúa Vót
14 Bà Sở Bà Sở
15 Truyện bà Hiển Nhân Ngọc Trần
16 Mụ Giạ Mụ Giạ
17 Thánh mẫu thượng ngàn Quế Nương
18 Bà Tri Chỉ Nguyễn Thị Kể
19 Bà chúa Mía Nguyễn Thị Ngọc
Liệu
20 Bà Ngọc Đài Ngọc Đài
21 Bà Tăng Má Bà Tăng Má
22 Bà chúa khoai lang Dương Dương Ngọc
Ngọc tổ nghề trồng khoai
18
23 Đại Yên và chuyện Trần Trần Ngọc Hoa Bốc và 2-1.89% Ngọc Hoa làm thuốc
Dị bản:
Nữ thần chín tuổi: Trần Ngọc
Hoa
24 Bà chúa Vĩnh Bà chúa Vĩnh
25 Châu Nương phu nhân Lý Châu Nương
Dị bản: Giữ kho Bà chúa giữ kho 3-2.83% thóc 26 Bà chúa Lẫm Chúa Lẫm
27 Bà chúa Tó Chúa Tó
28 Bà chúa dệt: Thụ La công Nguyễn Thị La
chúa
Dị bản:
Bà chúa dệt vải
29 Bà chúa Thiên Niên Phạm Thị Ngọc Nghề dệt 4-3.78%
Đô
30 Bà tổ nghề dệt lụa Hoàng Phủ Thiếu
Hoa
31 Bà chúa nghề tằm Quỳnh Hoa
32 Bà Ngọc Đài Ngọc Đài
33 Vua Bà Nhữ Nương Nghề ca 34 Sự tích hát xoan 5-4.72% Quế Hoa hát 35 Mãn đào hoa công chúa Bạch Hoa
36 Lầu Slam – Bà chúa thơ Lầu Slam
19
37 Bà chúa Muối Nguyệt Ánh Nghề 1-0.94%
muối
38 Bà chóa tổ nghề trồng dâu Bà chóa Nghề
nuôi tằm trồng dâu 2-1.89%
nuôi tằm 39 Bà Chén Ý Hạnh
40 Mẹ Âu Cơ tổ nghề nông tang Âu Cơ Chế biến
và chế biến thực phẩm 1-0.94% thực
20
phẩm