TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------
KIỀU THỊ YẾN
SỰ DUNG HỢP PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN
TẠI HAI HUYỆN THẠCH THẤT – QUỐC OAI
(Qua khảo sát chùa Thầy và chùa Tây Phƣơng)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS TRẦN THỊ HẠNH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân
thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo và Quý thầy cô khoa Triết
học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Thị
Hạnh đã tận tình chỉ bảo, giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này một
cách tốt nhất theo khả năng của tôi.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song do nhận thức
còn hạn chế nên khóa luận còn nhiều sai sót là điều không thể tránh khỏi. Tôi
rất mong nhận được những đóng góp quý báu từ Quý thầy cô để rút ra bài học
cho những lần nghiên cứu sau này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2020
Người thực hiện
1
Kiều Thị Yến
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong khóa luận là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các
kết luận chưa được công bố ở bất cứ một công trình nào.
Tác giả khóa luận
2
Kiều Thị Yến
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 5
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 5
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 8
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 9
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận .............................................. 9
8. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 10
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT
GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ...... 11
1.1. Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc Bộ
qua các giai đoạn lịch sử ................................................................................. 11
1.2. Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất
– Quốc Oai ........................................................................................................ 17
1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai ............................... 17
1.2.2. Tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai ............ 26
1.3. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Thạch Thất –
Quốc Oai ........................................................................................................... 37
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ................................................................................. 42
CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ
TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN QUA KHẢO SÁT HAI NGỒI CHÙA:
CHÙA THẦY VÀ CHÙA TÂY PHƢƠNG. ................................................. 44
2.1. Biểu hiện qua nghi lễ của Phật giáo tại hai ngôi chùa ...................... 44
2.2. Biểu hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa ......................................... 50
3
2.3. Biểu hiện qua nghệ thuật bài trí tƣợng thờ trong hai ngôi chùa ..... 53
2.4. Một số vai trò xu hƣớng phát triển chủ yếu của sự dung hợp giữa
Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai . 58
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 65
4
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ I
TCN, từ đó đến nay, đã phát triển và nhanh chóng hòa nhập, trở thành tôn
giáo mang đậm sắc thái văn hóa Việt. Phật giáo với vai trò là một tôn giáo
lớn ở Việt Nam, có đóng góp đối với lịch sự dân tộc, đời sống văn hóa, xã
hội của người dân Việt, cùng với đó nó còn góp phần tạo nên những công
trình kiến trúc mang đậm tính nghệ thuật.
Trước khi Phật giáo du nhập vào, nước ta đã có những tín ngưỡng
dân gian mang đặc tính bản địa. Mỗi cộng đồng dân cư, mỗi khu vực riêng
lại có những loại hình tín ngưỡng riêng, mang bản sắc riêng của mình.
Nhưng khi Phật giáo tràn vào, với các giáo lý giải thoát, tinh thần từ bi, hỷ
xả thì nó đã nhanh chóng được quần chúng người Việt tiếp nhận trong sự
hòa quyện cùng với tín ngưỡng dân gian. Biểu hiện rõ nhất là các ngôi
chùa ở những làng quê ngày càng mọc lên nhiều, cho đến ngày nay, hầu
như mỗi thôn, mỗi làng nào cũng đều có một ngôi chùa của riêng mình.
Do tính chất hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, nên các ngôi
chùa hầu hết đều bị bản địa hóa, trong chùa không chỉ thờ Phật, mà còn
thờ cả Thần, Thánh, Mẫu, tổ tiên,…
Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của nền văn minh lúa nước, nên việc thờ
các vị thần tự nhiên như một lẽ tất yếu của cuộc sống người dân, chính vì
vậy, khi Phật giáo du nhập vào, hòa quyện, hỗn dung cùng với tín ngưỡng
dân gian, thì các vị thần tự nhiên này cũng được Phật hóa và được thờ tụng
trong chùa. Ngoài ra, sự dung hợp này còn dẫn đến việc trong chùa thờ cả
vong linh người đã khuất, người có công với đất nước được người dân tôn
lên làm Thánh (Đức Thánh Trần), thờ Sơn Thần,… Các ngôi chùa mang
5
sắc thái hỗn dung này đã đánh dấu bước chuyển biến về đời sống văn hóa,
tinh thần và tôn giáo của người dân Việt, đi kèm với đó là sự phát triển của
nghệ thuật kiến trúc dân gian của người Việt.
Tại những ngôi chùa này, người dân vừa đi lễ Phật, lại lễ cả Mẫu và
Thánh, đó là sự kết hợp để hình thành nên Phật giáo dân gian, không còn
các triết lý xa vời khó hiểu, mà nó được dân gian hóa, ngày càng gần gũi
với quần chúng, mang nặng tư tưởng nhập thế.
Thạch Thất – Quốc Oai là hai huyện giáp với trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa Thăng Long xưa, lại nằm trên nền văn hóa xứ Đoài, chính vì
vậy khu vực này cũng được tiếp nhận Phật giáo từ rất sớm. Phật giáo khu
vực này cũng từng ngày hòa nhập với các tín ngưỡng bản địa và phát triển
theo xu hướng chung của Phật giáo Việt Nam hiện nay, đó là xu hướng
dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Việc phát triển theo xu
hướng này giúp Phật giáo ngày càng gắn bó với người dân trong khu vực,
đồng thời ảnh hưởng tích cực lên đời sống nhân dân, giúp nâng cao tinh
thần đoàn kết, tạo tiềm lực cho sự phát triển về mọi mặt kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội của khu vực này nói riêng và cả đất nước nói chung.
Vì vậy, việc nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng
dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa:
Chùa Thầy và Chùa Tây Phương sẽ giúp chúng ta hiểu rõ các nét văn hóa
được biểu hiện qua các nghi lễ, lễ hội hay các thần tích liên quan đến các
nhân vật được thờ cùng với Phật trong chùa. Đây cũng là nét độc đáo đặc
sắc riêng biệt của Phật giáo Việt Nam nói chung và khu vực Thạch Thất –
Quốc Oai nói riêng.
Chính vì lý do như vậy, tôi chọn đề tài: “Dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai
ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương” làm công trình nghiên cứu
6
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề dung hợp, hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
cũng đã được nhắc tới không ít ở một số bài viết, vì từ lâu, do đặc điểm
tâm thức của người nông dân Đồng bằng Bắc Bộ, hầu như ít tôn giáo, tín
ngưỡng nào có thể tồn tại độc lập, mà thường có sự hỗn dung với nhau. Sự
dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian được đa số các nhà
nghiên cứu đồng thuận và nó cũng được nhắc nhiều trong các bài viết của
họ, tuy nhiên để đặt thành một vấn đề được nghiên cứu độc lập và cụ thể
thì lại không nhiều.
Theo như những tài liệu được biết, tôi mới chỉ thấy được công trình
nghiên cứu của Tiến sĩ tôn giáo học Thích Đồng Bổn nghiên cứu về
“Những tập tục dân gian chịu ảnh hưởng Phật giáo Đại Thừa” là nghiên
cứu tập chung đối tượng là mối quan hệ giữa Phật giáo Đại thừa và những
tập tục (tuy nhiên chủ yếu là ở các vùng Nam Bộ). Trong một số bài viết
của Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Hà Văn Tấn, Nguyễn Quốc Tuấn…
đều có nhắc đến sự dung hợp này, như: “Qua bước đi của di tích Hà Nam
Ninh”; “Về một vài yếu tố mang tính triết học của kiến trúc cổ truyền
Việt”, hay “Phật giáo với văn hóa Việt Nam và Nhật Bản qua một cách
tham chiếu” của Nguyễn Thanh Tuấn cũng đã bước đầu phân tích sự kết
hợp này, nhưng chỉ dừng lại ở những phân tích sơ lược, rời rạc.
Một số tạp chí cũng có những bài viết về mối quan hệ này như: Báo
Phật Giáo online, Đạo Phật ngày nay, Tạp chí Triết học, Tạp chí Nghiên
cứu Phật học,… Có thể kể đến những bài viết như: “Tìm hiểu về Phật giáo
và tín ngưỡng dân gian”; “Đạo Phật Và Tín Ngưỡng Nhân Gian!”; “Tín
ngưỡng thờ Mẫu trong mối quan hệ với tín ngưỡng, tôn giáo khác”,…
Nhìn một cách tổng thể, nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đã chạm
đến các khía cạnh khác nhau của đề tài, song nghiên cứu về sự kết hợp
7
giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian biểu hiện qua những ngôi chùa còn
khá ít và thiếu tính hệ thống. Chưa có một công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu một cách hệ thống mối quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín
ngưỡng dân gian thể hiện qua các ngôi chùa ở khu vực Thạch Thất – Quốc
Oai, để từ đó có được những đánh giá khách quan và khoa học về vai trò,
vị trí của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong đời sống văn hóa – xã hội
của người dân nơi đây. Đây cũng là mục đích chính mà khóa luận hướng
tới trong quá trình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở trình bày một số nội dung lý luận về mối quan hệ giữa Phật
giáo và tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ, khóa luận tập trung
khảo sát và phân tích những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai
ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương. Từ đó chỉ ra vai trò và xu
hướng phát triển của mối quan hệ này.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày hệ thống lý luận về sự dung hợp giữa Phật giáo và tín
ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ
- Phân tích và chỉ ra những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại hai ngôi chùa: Chùa Thầy và chùa Tây Phương.
- Đưa ra vai trò và xu hướng phát triển của sự dung hợp giữa Phật giáo
và tín ngưỡng dân gian.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch
Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây
8
Phương.
Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân
gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa:
Chùa Thầy và Chùa Tây Phương trên các lĩnh vực như: nghi lễ, kiến trúc
nghệ thuật,…
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Khóa luận dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử về tôn giáo và tín ngưỡng.
Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng một số phương pháp cơ bản của phép biện chứng
duy vật như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh; và một số
phương pháp của các khoa học khác như: điều tra, điền dã, khảo sát,…
6. Đóng góp của khóa luận
- Trình bày rõ một số nội dung lý luận của mối quan hệ giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ.
- Chỉ ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực
Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện trong hai ngôi chùa: Chùa Thầy và
Chùa Tây Phương. Đưa ra một số vai trò chủ yếu và xu hướng phát
triển của mối quan hệ này đối với xã hội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Ý nghĩa lý luận
Khóa luận góp phần làm rõ hơn giá trị văn hóa và bản sắc riêng của
những ngôi chùa thông qua việc tìm hiểu sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian, biểu hiện qua các lĩnh vực: nghi lễ, kiến trúc nghệ
9
thuật,… Kết quả của khóa luận đặt ra vấn đề mà các nhà quản lý văn hóa,
tôn giáo, tín ngưỡng cần quan tâm, đó là làm thế nào để bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa lành mạnh của văn hóa Việt.
Ý nghĩa thực tiễn
Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và
học tập về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
10
chính của khóa luận được bố cục thành 2 chương và 8 tiết.
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT
GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
1.1. Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc
Bộ qua các giai đoạn lịch sử
Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam,
vì vậy nơi đây còn lưu giữ được tính chất thuần tuý của văn hoá Việt Nam.
Đồng bằng Bắc bộ cũng chính là nơi Phật giáo lần đầu tiên du nhập vào Việt
Nam. Người dân nơi đây xem Phật giáo vừa thiêng liêng vừa gần gũi với họ,
nên trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chùa chiền được xây dựng khắp
mọi nơi, hầu như không một làng quê nào lại không có chùa thờ Phật. Chính
vì vậy, Phật giáo ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng có những nét riêng của mình, và
một trong số đó là sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian nơi
đây.
Phật giáo truyền vào nước ta rất sớm, từ những năm đầu Công nguyên.
Tại Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) đã có một trung tâm Phật
giáo và Phật học khá phồn thịnh. Từ đó đến thế kỷ 10 chính là giai đoạn
truyền đạo của Phật giáo. Ban đầu là sự ảnh hưởng của các nhà sư Ấn Độ,
nhưng sau đó, sự ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Trung Quốc lại tăng lên,
các phái Thiền Trung Quốc dần du nhập vào Việt Nam.
Bắt đầu từ thế kỷ 10, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ sau
1000 năm Bắc thuộc đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Trong thời kỳ
này, các vị vua nhà Đinh, Tiền Lê đã có chính sách nâng đỡ Phật giáo. Những
bước đệm này đã giúp cho Phật giáo phát triển đỉnh cao ở thời Lý và thời
Trần với tinh thần tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo,
nhập thế hành đạo nên đã sản sinh ra những thiền sư luôn luôn hướng về cuộc
sống, hoà nhập với cuộc đời. Lúc này từ vua tôi đến quần chúng nhân dân đều
tôn sùng đạo Phật, tư tưởng Phật giáo được lấy làm hệ tư tưởng xã hội. Phật
11
giáo đã kết hợp với tín ngưỡng dân gian, với yếu tố thần thuật của Đạo giáo
pháp thuật nên mới có câu chuyện những thiền sư tiên đoán việc xã tắc như
Vạn Hạnh, dùng pháp thuật để chữa bệnh trừ tà, để giáng long phục hổ, hay
bay trên không, đi dưới nước như Nguyễn Minh Không; để trả thù cho cha,
hay để đầu thai như Từ Đạo Hạnh v.v…
Tại Đồng bằng Bắc Bộ, nhiều chùa tháp được xây dựng trong thời kỳ
này, tiêu biểu như: Chùa Một Cột, Chùa Thầy, Chùa Dạm, Chùa Lý Triều
Quốc Sư,… Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong thời kỳ
này cũng được biểu hiện rất rõ qua những ngôi chùa này.
Chùa Một Cột: tọa lạc tại số 1 phố chùa Một Cột, phường Đội Cấn,
Quận Ba Đình, Hà Nội. Trước kia đây là thôn Phụ Bảo, tổng Yên Thành,
huyện Vĩnh Thuận, đến giữa thế kỷ 19, thôn Phụ Bảo đổi tên là Thanh Bảo.
Chùa được xây dựng năm 1049 sau giấc mơ của Lý Thái Tông thấy Quan Thế
Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen, sau đó dắt vua lên tòa. Nhưng theo tấm bia dựng
năm Cảnh trị đời thứ 3 (1665), đời vua Lê Huyền Tông do Lê Tấn Đạt ghi thì:
“năm đầu niên hiệu Hàm Thông đời Đường (860) dựng một cột đá ở giữa hồ.
Trên cột xây một tòa lầu ngọc trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ
cúng… Khi triều Lý xây dựng kinh đô ở đây, do vua Lý chưa có con, đến đây
cầu nguyện thấy linh ứng, vua sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa
Một Cột để mở rộng việc thờ cúng làm sáng rõ sự tôn sùng…”(14, Tr.115).
Ngay trong sự tích về ngôi chùa này đã cho thấy sự ước vọng của người dân
Đông bằng Bắc Bộ luôn cầu mong một cuộc sống không ngừng sinh sôi nảy
nở, một cuộc sống được che chở bởi Phật Bà Quan Âm. Chùa Một Cột và
Phật Bà Quan Âm giống như hình ảnh biểu trưng cho nguyên lý Mẹ, cho tín
ngưỡng phồn thực, cho ước mơi sinh sôi này nở, luôn luôn no đủ, và cả cho
tinh thần cứu khổ cứu nạn của Phật giáo.
Chùa Dạm (hay còn gọi là chùa Rặn, thuộc xã Nam Sơn, huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh) được vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) cho xây dựng vào
12
năm Quang Hựu thứ 2(1086). Đây là một ngôi chùa điển hình thể hiện sự hỗn
dung giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian của người Việt
ở Đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng trong thời kỳ này.
“Mười lăm trăng náu
Mười sáu trăng treo
Mười bẩy phẩy giường
Mười tám đóng cửa chùa Dạm.”
Những câu thơ lưu truyền kia đã nói lên sự bề thế của chùa Dạm, có
nghĩa là sau ngày Rằm người ta sẽ đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc
trăng lên cao mới đóng được hết tất cả các cửa chùa. Theo thuyết phong thủy,
chùa Dạm hội tụ đủ huyết mạch linh thông, chùa đặt ở sườn núi phía Nam của
dãy Lãm Sơn, chính giữa ngọn cao nhất, núi Rùa làm tiền án, ngòi Con Tên
làm minh đường, bên tả có Thanh Long, bên hữu có Bạch Hổ chầu về. Mối
quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại chùa Dạm không
chỉ thể hiện qua giáo lý của Phật giáo, mà còn thể hiện ước vọng sinh sôi nay
nở, mưa thuận gió hòa của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ.
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian cũng được thể hiện
rõ ngay trong nguồn gốc ra đời và thần tích của chùa Lý Triều Quốc Sư, bộc
lộ ra truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo” của người Việt
ta. Chùa Lý Triều Quốc Sư tọa lạc tại số 50, phố Lý Triều Quốc Sư, quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội (xưa thuộc thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ
Xương với tên gọi đền Lý Quốc Sư hay đền Tiên Thị). Nơi đây thờ thiền sư
Nguyễn Minh Không người đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông. Ông
được phong làm Quốc sư và được triều đình phong ấp ở làng Tiên Thị (nay là
Điềm Xá), huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Khi ông mất, dân làng lập đền
thờ gọi là "Lý Quốc Sư Tự". Năm 1932, thiền sư Nguyễn Văn Định trụ trì đã
13
bài trí thêm tượng Phật nên đền được gọi là chùa Lý Triều Quốc Sư.
Năm 11 tuổi, ngài xuất gia tu Phật cầu đạo với Thiền sư Từ Đạo Hạnh,
được khen tài giỏi, thông minh và được ấn chứng sau sẽ trở thành “Pháp khí”
trong Thiền môn, ban pháp danh Minh Không, đời thứ 13 dòng Tỳ Ni Đa Lưu
Chi. Qua thời gian dài theo thầy học đạo, chứng ngộ chân không Bát nhã,
ngài về trụ trì chùa Giao Thủy (Nam Định). Minh Không là bậc đại sư thông
tuệ Phật pháp được giới tăng ni ngưỡng vọng, cũng như được Quốc vương
kính trọng. Tương truyền lúc còn đang học đạo, Từ Đạo Hạnh hóa hổ để dọa
ngài, ngài bèn nói: “Nếu thầy muốn vậy, sau này chắc sẽ phải chịu quả báo
như thế”. Từ Đạo Hạnh hối hận: “Xưa kia Đức Thế Tôn đạo quả viên thành
còn chịu báo kim sương, mã mạch, huống chi ta sinh thời mạt pháp đâu có thể
tránh được, đời sau sẽ làm Quốc chủ và sẽ chịu báo này, ông với ta có nhân
duyên thầy trò, lúc đó sẽ cứu ta”(14, Tr.108). Sau khi Từ Đạo Hạnh hóa, đầu
thai làm vua Lý Thần Tông, lên ngôi chưa được bao lâu, tháng 3 năm 1136,
vua bị bệnh nặng, lông lá đầy mình, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài
giỏi được triệu đến đều không chữa khỏi. Chính Đại sư Minh Không là người
chữa khỏi được cho vua. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, vua Lý Thần
Tông phong ngài làm Quốc Sư. Trong Quốc sử còn chép: “Tục truyển khi sư
Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại
cho học trò là Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu
thấy Quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này”(14, Tr.110).
Ngày 1 tháng 8, niên hiệu Đại Định thứ 2, Tân Dậu (1141), sau khi phó chúc
môn đồ, Quốc sư an nhiên ngồi hóa tại chùa Giao Thủy, thọ 76 tuổi. Để ghi
nhớ công ơn, vua Lý Anh Tông và nhân dân đã lập đền thờ ngài tại đền Tiên
Thị (nguyên là Tịnh xá vua Lý Thần Tông ban cho ngài).
Thêm nữa, đó là hệ thống chùa thờ Tứ pháp tại vùng Dâu bao gồm:
chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi,
chùa Dàn thờ Pháp Điện và chùa Tổ thờ Man Nương – mẹ của Tứ Pháp. Với
14
sự tiếp nhận Phật giáo, những vị thần nông nghiệp như bà Dâu, bà Đậu, bà
Tướng, bà Dàn đã trở thành những vị Phật bà (Tứ pháp). Có thể thấy sự hình
thành và phát triển của hệ thống chùa Tứ pháp chính là sự dug hợp giữa Phật
giáo và tín ngưỡng dân gian khi trong chùa những vị thần có nguồn gốc tự
nhiên được đẩy lên trên hệ thống tượng Phật. Sự kết hợp này làm nên nét đặc
sắc của Phật giáo dân gian Đồng bằng Bắc Bộ.
Như vậy, qua một số chùa vừa kể trên cho thấy các ngôi chùa đều có
một đặc điểm chung là không chỉ thờ Phật mà còn thờ cả Thần. Sự dung hợp
giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian người Việt ở Đồng
bằng Bắc Bộ giống như một thể hòa quyện vào nhau, từ trong những lịch sử
hình thành, thần tích, huyền thoại của mỗi ngôi chùa, đến nề nếp lối sinh hoạt
tâm linh của người dân.
Cũng trong thời kỳ này, bản lĩnh độc lập tự cường kết hợp truyền thống
chống ngoại xâm, kể cả chống về mặt tư tưởng, cùng tính uyển chuyển, linh
hoạt của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ nên khi Phật giáo du nhập và
phát triển tại đây, đã phục vụ cho cái đạo yêu nước yêu dân của dân tộc, phục
vụ những yêu cầu cuộc sống của dân tộc. Với tinh thần phá chấp triệt để và
khả năng dung hợp rộng mở, với tính phóng khoáng và dân chủ của mình,
Phật giáo Thiền tông đã bắt gặp tinh thần bình đ ng, dân chủ, lòng nhân ái
của người dân ở đây nên nó đã dễ dàng hòa hợp và bắt rễ nhanh chóng, đã ảnh
hưởng sâu rộng trong đời sống con người.
Khoảng từ thế kỷ 14, Phật giáo bắt đầu bước vào giai đoạn suy thoái do
nhiều nguyên nhân khác nhau: tầng lớp quý tộc nhà Trần ủng hộ Phật giáo
mạnh mẽ đang dần mất đi uy lực về chính trị và kinh tế bởi chế độ sở hữu
ruộng đất kiểu điền trang thái ấp khá phổ biến đã bắt đầu tan rã. Trong khi đó,
Nho giáo với chế độ thi cử đang dần chiếm thế thượng phong. Các quan lại
xuất thân từ Nho giáo đang dần nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy
nhà nước. Mặt khác, lúc này số lượng người xuất gia đã quá đông, lượng tăng
15
đồ trong các chùa rất lớn, điều này dẫn đến sự nảy sinh những vấn đề tiêu cực
tại cửa chùa, ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Đến thế kỷ 15, Phật giáo càng bị
hạn chế nặng nề, chùa quán bị cấm xây thêm, mất đi vai trò đối với tầng lớp
thống trị và chỉ còn những ảnh hưởng nhất định trong dân gian. Điều này
cũng một phần thúc đẩy Phật giáo đến sự hỗn dung với tín ngưỡng dân gian
để có thể tiếp tục phát triển và lan rộng trong quần chúng nhân dân.
Sang giai đoạn từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, đây là thời kỳ Phật giáo dần
như “sống lại” và phát triển mạnh mẽ. Sau khi nhà Mạc soán ngôi nhà Lê,
chiến tranh xảy ra liên miên làm cho đời sống nhân dân lầm than, khốn khổ,
chính quyền suy yếu, Nho sỹ suy thoái khiến niềm tin của các nhà tri thức,
nhà chính trị vào Nho giáo ngày càng lung lay, thì lúc này, Phật giáo vốn tiềm
tàng trong giới bình dân lại có chiều hướng phất lên. Ngoài ra, cảnh chiến
tranh loạn lạc với sự thống khổ triền miên cùng những nỗi oan trái đã khiến
con người tìm đến với tư tưởng và tình cảm của đạo Phật: “trong đau khổ
cùng cực, người ta lại quay trở về với đạo Phật – một đạo lấy đức từ bi làm
gốc và kỹ thuật trị thế chỉ là thứ yếu”(12). Kết quả là trong vùng Đồng bằng
Bắc Bộ, các ngôi chùa cũ được trùng tu, mở rộng và các chùa mới được xây
dựng khá nhiều mang nhiều nét đặc trưng của Phật giáo thời kỳ này. Có
những ngôi chùa giữ được nét kiến trúc tiêu biểu của thời kỳ này cho đến tận
ngày nay.
Dưới triều Nguyễn, Phật giáo phát triển khá mạnh mẽ dưới sự quan tâm
của triều đình, tuy nhiên từ giữa thế kỷ 19, Pháp xâm lược Việt Nam và đã có
những chính sách khai thác thuộc địa đã tác động không nhỏ đến Phật giáo.
Đến những năm đầu thế kỷ 20, phòng trào Chấn hưng Phật giáo diễn ra đã tạo
điều kiện cho Phật giáo trở mình, đánh dấu bằng sự ra đời của các tổ chức
giáo hội Phật giáo. Khi đất nước bị chia cắt trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ, Phật giáo đã kết hợp cùng các tín ngưỡng dân gian, với các giá
16
trị tốt đẹp của mình, lan tỏa trong đời sống nhân dân, góp không ít sức người
sức của vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều này đã thể hiện chủ
trương hòa bình, “Phật pháp bất ly thế gian” của đạo Phật.
Phật giáo sau ngày giải phóng đất nước thì cũng được thống nhất bởi sự
ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Với hệ thống quản lý quy mô, hiện
đại, đến nay Phật giáo đã có những bước đi lên mạnh mẽ, dần phát triển theo
xu hướng kết hợp cùng tín ngưỡng dân gian.
1.2. Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch
Thất – Quốc Oai
1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai
Quá trình phát triển của Phật giáo tại Thạch Thất – Quốc Oai
Thạch Thất và Quốc Oai là hai huyện nằm ở phía Tây trung tâm thành phố
Hà Nội. Đây là hai huyện có địa hình trải rộng, thuận lợi để phát triển kinh tế
nông nghiệp, công nghiệp, du lịch văn hóa và các ngành nghề thủ công. Đi
cùng với sự phát triển của Phật giáo cả nước nói chung, thì Phật giáo tại hai
huyện Thạch Thất và Quốc Oai cũng phát triển và có ảnh hưởng tích cực đến
đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân tại đây.
Thạch Thất - Quốc Oai thuộc vùng đất xứ Đoài, cùng với các huyện khác
của xứ Đoài, những trung tâm Phật giáo nơi đây được hình thành từ thời Lý
với những ngôi chùa nổi tiếng như: chùa Tây Phương, chùa Trăm Gian, Chùa
Bối Khê, chùa Thầy. Trong đó chùa Thầy và chùa Tây Phương là hai ngôi
chùa nổi tiếng, được nhiều người biết đến, và cũng là hai ngôi chùa chiếm
một vị trí quan trọng, làm nên nét đặc trưng riêng của Phật giáo khu vực
Thạch Thất - Quốc Oai, cũng như Phật giáo xứ Đoài.
Chùa Thầy là một ngôi chùa nằm tại chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai,
tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội), cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km về
phía Tây Nam. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa có tên gọi là chùa
17
Thầy. Chùa Thầy là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội, ngôi
chùa gắn liền với quãng đời sau cùng và thoát xác của vị Thiền sư nổi tiếng
thế hệ thứ 12 của dòng Thiền Tì ni đa lưu chi, Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý (có tài liệu cho rằng chùa được xây
dựng vào thời Đinh). Nơi đây từng là nơi tu hành của thiền sư Từ Đạo Hạnh,
khi ấy, núi Thầy còn được gọi là núi Phật Tích. Chùa đã qua nhiều lần trùng
tu. Ban đầu, chùa Thầy chỉ là một am nhỏ, gọi là Hương Hải am, sau đó vua
Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại, gồm hai cụm chùa: chùa Cao( đỉnh Sơn
Tự) ở trên núi, và chùa Dưới( gọi là chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Vào
thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng
điện Phật, điện Thánh, sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Xét về phong
thủy, chùa được xây trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là
ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt
về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ nước
rộng mang tên Long Chiểu hoặc Long Trì, giữa hồ có một thủy đình nhỏ
vuông vắn, thường được dùng làm nơi múa rối nước (Từ Đạo Hạnh được cho
là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này). Hai bên chùa có hai chiếc cầu
có mái, do Hoàng giáp Phùng Khắc Khoan(1528-1613) xây dựng vào năm
1602. Cầu Nhật Tiên ở bên trái, nối vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ
giữa hồ. Bên phải là cầu Nguyệt Tiên, dẫn vào con đường lên núi.
Chùa Thầy gồm ba tòa nhà dài nằm song song với nhau. Tòa nhà ngoài
cùng gọi là nhà tiền tế hay còn gọi là chùa Hạ thờ các tượng Đức Ông, Thánh
Hiền, xung quanh để thờ các tượng Bát bộ Kim Cương. Tòa giữa là Trung
điện hay gọi là chùa Trung, thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp và Thiên
vương. Tòa trong cùng là Thượng điện hay gọi là chùa Thượng, thờ tượng Di
Đà tam tôn, tượng Thích ca, tượng các hóa thân của vị Thiền sư Từ Đạo
Hạnh. Gian giữa Thượng điện có một bệ đá hình chữ nhật, phần trên chạm
hình những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình
18
thần điểu Garuda. Đây là loại bệ đá xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIV. Ngay trước
bệ đá này là tượng Từ Đạo Hạnh khi đã đắc đạo, đội mũ hoa sen, tay chắp
trước ngực, khoác áo vàng, đặt trên một bệ tượng bằng đá thời Lý, có hình sư
tử đội tòa sen. Đây là di vật thời Lý duy nhất còn lại ở chùa Thầy. Bên trái là
tượng Từ Đạo Hạnh đặt trong khám. Tượng bằng gỗ, có khớp và có thể cử
động được (tuy nhiên hiện tại hệ thống khớp điện tự động đã bị tháo đi) và
được đặt trên ngai vàng, phía sau có chữ ghi năm Thiệu Phong thứ 6 đời Trần
Dụ Tông (1346). Bên phải là tượng của Lý Thần Tông, được coi là hậu thân
của Từ Đạo Hạnh.
Hai bên chùa là hành lang dài, phía sau là gác chuông và gác trống, tương
truyền do bà Chúa Chè Tuyên Phi Đặng Thị Huệ xin với Chúa Tĩnh đô vương
Trịnh Sâm xây dựng khi về thăm chùa. Qua cầu Nguyệt Tiên có con đường
bậc đá đi lên núi, tại đây có khắc bài thơ của Trịnh Căn (1682-1709) "như
viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động
trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến
siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải
lụa". Lên trên núi là chùa Cao, tương truyền rằng đây là nơi Thiền sư Từ Đạo
Hạnh đến tu đầu tiên. Sau chùa là hang “Thánh Hóa”, tương truyền đây là nơi
mà Thiền sư Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai thành vua Lý Thần Tông. Từ
chùa Cao đi vòng ra phía sau, đi theo lối mòn ở ven núi sẽ đến được hang Cắc
Cớ, xưa kia trai gái thường rủ nhau đến chơi ngày hội. Từ hang Cắc Cớ ngược
lên, đến đền Thượng. Cách một đoạn, đến hang Gió, ở đây gió thường xuyên
thổi mạnh qua hai cửa hang, ở chân núi phía tây có chùa Bối Am, còn gọi là
chùa Một Mái, chùa có tên như vậy vì chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa
vào vách núi. Có thể thấy, quanh núi Thầy, không phải chỉ có chùa Thầy,
thường được gọi là chùa Cả ở chân núi, mà có cả một cụm kiến trúc Phật giáo
được xây dựng trong những thời kỳ khác nhau.
Chùa Tây Phương, có tên chữ là Sùng Phúc Tự, được dựng trên một
19
ngọn núi tên là Tây Phương( xưa núi này có tên là Câu Lậu). Đây là một ngọn
núi cao khoảng 50m, nằm tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội (xưa là
Hà Tây), cách trung tâm Hà Nội khoảng 40km về phía Tây.
Chùa Tây Phương được xây dựng vào khoảng thế kỷ 8 và là chùa cổ
thứ 2 ở nước ta, sau chùa Dâu ở Bắc Ninh, và đã trải qua nhiều lần trùng tu.
Tuy nhiên, có một số thông tin cho rằng được xây dựng từ thời nhà Mạc,
nhưng lại không chứng minh. Tuy nhiên mốc thời gian này cũng có thể tin
được, vì đầu thế kỷ 17, vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, và hơn
nữa trong chùa còn có hai tấm bia đều bị mờ chữ nhưng còn đọc được rõ tên
bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi, còn mặt
trong áp vào tường hồi tòa chùa giữa nên không đọc được, các hoa văn trang
trí cũng thuộc cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17.
Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng Thượng điện 3 gian
và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657 – 1682, Tây
Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá bỏ chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan.
Đến năm 1794 dưới thời Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với cái tên
“Tây Phương cổ tự” với diện mạo còn đến tận bây giờ.
Từ dưới chân núi, leo qua 237 bậc đá ong thì đến cửa chùa. Chùa có ba
nếp nhà song song gồm: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp nhà có
hai tầng mái kiểu chồng diêm với các đầu đao cong vút lên. Đặc biệt, chùa
Tây Phương có hệ thống tượng gồm 64 pho tượng cùng với các phù điêu có
mặt tại mọi nơi. Các pho tượng đều được tạc bằng gỗ mít và được sơn son
thếp vàng. Mỗi pho tượng là một tác phẩm riêng biệt, vừa hiện thực, vừa giàu
tính nghệ thuật. Các pho tượng được chạm khắc với nhiều hình dáng và biểu
cảm đa dạng, tinh tế khác nhau. Những người thợ mộc của làng nghề mộc
truyền thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ
20
thuật Việt Nam.
Chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu
cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). . Chùa Tây Phương được
công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt và bộ tượng Phật giáo thời Tây Sơn tại
chùa được công nhận là Bảo vật Quốc gia.
Người có công lan tỏa Phật giáo tại xứ Đoài nói chung hay khu vực
Thạch Thất - Quốc Oai nói riêng, không ai khác chính là vị Thiền sư nổi tiếng
Từ Đạo Hạnh.
Thân thế và hành trạng của Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã được nhiều
thư tịch ghi chép lại, như: Thiền Uyển tập anh, Đại Việt sử lược, Lĩnh Nam
chích quái. Tuy mỗi thư tịch lại có những tình tiết ghi chép khác nhau, nhưng
tựu chung lại thì thân thế và hành trạng của Thiền sư đã khá rõ ràng. Thiền sư
họ Từ, tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, ở chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích. Cha ông là
quan Đô sát Từ Vinh, mẹ ông là Tăng Thị Loan. Do cha ông – Từ Vinh bị
giết bởi một pháp sư tên Đại Điên. Từ đó Từ Đạo Hành đã có ý đi sang Tây
Thiên tu luyện phép thuật để về giết Đại Điên, trả thù cho cha. Nhưng đi được
nửa đường, Ngài quay lại và chọn núi Sài Sơn, Chùa Phật Tích làm nơi tu
hành. Ngài chuyên trì kinh "Đại Bi Tâm Đà La Ni" của đức Quán thế Âm tới
khi cảm ứng, có vị thần tự xưng Trấn Thiên vương hiện lên và xin làm đệ tử
để cho ngài sai khiến. Sau đó ngài dùng gậy đánh chết Đại Điên.
Đại Điên cũng là người tu hành nên sau đó đã tái sinh thành đứa trẻ, tuy
mới 3 tuổi nhưng cái gì cũng biết, tự xưng là Giác Hoàng. Lúc ấy, vua Lý
Nhân Tông biết chuyện kỳ lạ bèn đón về Kinh Sư và cho nó ở chùa Báo
Thiên. Vua muốn nhận đứa trẻ làm con nhưng quần thần và dân chúng không
nghe, nên vua bèn lập đàn cầu nguyện pháp hội kéo dài 7 ngày, nhằm để đứa
trẻ linh dị này đầu thai vào trở lại vào nơi cấm cung. Từ Đạo Hạnh biết đứa
trẻ là do Đại Điên đầu thai vào để mê hoặc dân chúng, làm nhiễu loạn chính
21
pháp, nên đã nhờ người chị của mình mang lá bùa, giả làm người chơi hội rồi
treo ở tấm rèm nơi đứa bé ở. Tới ngày thứ 3, đứa trẻ này ốm và chết. Lý Nhân
Tông truy ra và bắt Từ Đạo Hạnh đem về giam tại Hưng thánh lâu.
Từ Đạo Hạnh xin với em vua là Sùng Hiền Hầu cứu thoát và hứa là
kiếp sau sẽ đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu để trả ơn. Tuy nhiên, phải
báo cho Ngài biết trước khi vợ của Sùng Hiền Hầu sắp sinh.
Sau này, khi vợ Sùng Hiền Hầu trở dạ mãi không sinh, liền báo cho Từ
Đạo Hạnh. Ngài nhận tin, liền tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, vào hang trút
xác mà qua đời. Ngài đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu. Do vua Lý Nhân
Tông không có con, truyền ngôi cho con của Sùng Hiền Hầu là Lý Dương
Hoán, người này chính là Từ Đạo Hạnh đầu thai, tức vua Lý Thần Tông.
Tại huyện Thạch Thất (2017) có tổng cộng 70 ngôi chùa, 40 vị Tăng
ni. Trong đó có 12 ngôi chùa được xếp hạng cấp Quốc gia, 19 ngôi chùa được
xếp hạng cấp Thành phố. Trong số các chùa tại Thạch Thất thì ngôi chùa nổi
tiếng nhất là chùa Tây Phương được xây dựng với lối kiến trúc hình chữ Tam
và những hoa văn tuyệt mỹ được xếp vào bậc nhất nước ta hiện nay.
Tại huyện Quốc Oai (2017) có tổng cộng 73 ngôi chùa, 81 vị Tăng ni,
với 34 chùa có sư trụ trì và 19 chùa chưa có sư trụ trì. Trong số các chùa tại
Quốc Oai thì ngôi chùa nổi tiếng nhất là chùa Thầy với tuổi đời lâu năm và
gắn với quãng đời sau cùng và thoát xác của Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Với số lượng chùa và số lượng Tăng ni, trụ trì như vậy có thể thấy được
tình trạng rằng Phật giáo trong khu vực hai huyện này còn gặp nhiều khó
khăn khi mà địa bàn thì rộng, nhân sự lại ít. Từ đó dẫn đến việc quản lý Tăng
ni – tự viện, Hoằng pháp hay phục vụ tín ngưỡng cho nhân dân còn gặp khó
khăn hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, với sự nỗ lực của Ban trị sự Phật giáo thì Phật giáo trên cả
22
hai huyện đều đang không ngừng phát triển, hoàn thành xuất sắc các nhiệm
vụ được giao. Đặc biệt, với công tác giáo dục Tăng ni thì hiện trên địa bàn hai
huyện đã và đang có được lớp Tăng ni trẻ với trình độ chuyên sâu về Phật học
và thế học, tiếp cận được thời kỳ hội nhập của đất nước. Trong tương lai sẽ là
lớp đưa Phật giáo trong khu vực ngày càng cắm sâu rễ trong đời sống nhân
dân, từ đó phát triển đi lên.
Về việc xây dựng, trùng tu và bảo tồn, thì các chùa trong khu vực đã
được xây dựng, kiến thiết ngày càng trang nghiêm để phục vụ cho nhu cầu
giữ gìn, phát triển Phật giáo cũng như nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người
dân tại đây. Ví dụ như: chùa Thầy, chùa Long Đẩu, chùa Phúc Đức, chùa Cực
Lạc, chùa Am Thanh, chùa Hưng Sơn, Chùa Kim Quan, chùa Báo Ân,... với
kinh phí hàng trăm tỷ đồng.
Như vậy, Phật giáo khu vực này nhờ sự quan tâm của các cấp, chính
quyền cùng sự ủng hộ của quần chúng nhân dân nên ngày càng phát triển, và
có những ảnh hưởng tích cực đến đời sống văn hóa tâm linh của người dân
nơi đây.
Đặc điểm Phật giáo khu vực Thạch Thất, Quốc Oai
Với vị trí địa lý đặc biệt, 2 huyện Thạch Thất - Quốc Oai thuộc trấn Đoài
xưa, một trong tứ trấn của Thăng Long, nên khu vực này cũng được tiếp nhận
sớm nền Phật giáo khi mà Phật giáo du nhập, hình thành và phát triển tại phía
Bắc nước ta. Tuy gần sát Thăng Long – Hà Nội - một trung tâm, đô thị nổi bật
trong lịch sử Việt Nam, nhưng dân cư trong khu vực này vẫn gắn bó với làng
quê của mình, vẫn xây dựng đình, chùa, cổng làng, vẫn giữ nét văn hóa làng
xã. Chính văn hóa làng xã của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước là mảnh đất
màu mỡ cho giáo lý của Phật giáo du nhập và bén rễ.
Kể từ khi Phật giáo được xem là Quốc giáo trong triều đại Lý – Trần,
23
thì Phật giáo nơi đây cũng phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng đến đời
sống nhân dân. Đây cũng là thời kỳ chùa chiền được xây dựng rất rầm rộ với
quy mô rộng lớn.
Do điều kiện hình thành và phát triển, Phật giáo tại khu vực này có ba
đặc điểm chính, đó là: Tính tổng hợp, Tính hài hòa âm dương, Tính linh họat.
Thứ nhất, Tính tổng hợp:
Cho đến nay, Phật giáo ở khu vực hai huyện này vẫn mang tính cổ
truyền, là sự tổng hợp giữa Phật giáo và các giáo phái khác, là kết quả của sự
dung hợp giữa cái “hữu nghĩa” của đạo Nho, cái “vô ngã” của đạo Phật, cái
“vô vi” của đạo Lão, và cái “phồn thực” và lòng trắc ẩn của đạo Mẫu.
Phật giáo nơi này còn có sự tổng hợp giữa các tông phái với nhau. Nổi
bật nhất có thể thấy là dòng Tỳ ni đa Lưu chi được pha trộn với Mật tông. Ví
dụ như Thiền sư Từ Đạo Hạnh rất giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến
hóa. Hay là sự kết hợp giữa Thiền tông và Tịnh độ tông khi tụng niệm Phật A
Di Đà và Bồ Tát. Ở các ngôi chùa trong khu vực này có thể thấy được trên
các điện thờ rất phong phú bởi có sự xuất hiện của các loại tượng Phật, Bồ
tát, La hán của các tông phái khác nhau. Hay trang phục của các sư, các Phật
tử, bên cạnh việc mặc áo vàng còn có áo nâu, áo lam.
Ngoài ra, Phật giáo còn có sự tổng hợp với Tín ngưỡng dân gian. Phật
giáo là thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng dân gian nơi đây là thờ Thần trong
miếu và thờ Mẫu trong phủ. Bốn vị Thần được thờ nhiều nhất đó là Tứ pháp:
Mây, mưa, sấm chớp. Và do đặc tính tổng hợp này nên bốn vị thần đã được
Phật hóa. Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật
Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện. Các hệ thống thờ phụ này tổng
hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu
Mẫu". Người dân nơi đây đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa,
anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát
24
nhang cho các linh hồn đã khuất.
Thứ hai, Tính hài hòa âm dƣơng:
Sự hài hòa âm dương là một trong những đặc tính của lối tư duy nông
nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo
khu vực này nói riêng, làm cho Phật giáo hơi thiên về phần nữ tính.
Các vị Phật trong Phật giáo nguyên thủy đều xuất thân là nam giới.
Nhưng ở Việt Nam lại xuất hiện cả Phật ông và Phật bà. Ví dụ như: Phật bà
Quan thế âm bồ tát, Man Nương Phật Mẫu(Phật mẫu), Quan Âm Thị
Kính(Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện(Phật bà chùa Hương, Bà
chúa Ba).
Sự hài hòa âm dương này còn được thể hiện trong kiến trúc của các
ngôi chùa trong khu vực này.
Thứ ba, đó là tính linh hoạt:
Cũng giống như Phật giáo Việt Nam nói chung, Phật giáo trong khu
vực này cũng rất linh hoạt. Chính vì vậy, nó mới dễ dàng xâm nhập, cắm rễ
để tồn tại và phát triển trong cộng đồng người dân nơi đây.
Tính linh hoạt này thường được nhà Phật gọi là "tùy duyên bất biến;
bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể
mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau, tuy nhiên
vẫn không được rời xa giáo lý nhà Phật. Ví dụ như các vị bồ tát, vị hòa
thượng đều được gọi chung là Phật. Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp
hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc
(chỉ Thích Ca Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc
đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Trên đây là ba đặc điểm chính của Phật giáo tại khu vực hai huyện
Thạch Thất, Quốc Oai. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng, Phật giáo nơi đây
25
đã cùng phát triển với Phật giáo cả nước, tuy có những đặc điểm riêng biệt để
thích nghi và tồn tại cùng cộng đồng nhân dân nơi đây, nhưng những đặc
điểm đó không hề rời xa mà vẫn nghiêm ngặt chấp hành các giáo lý của nhà
Phật.
1.2.2. Tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai
Cơ sở hình thành tín ngưỡng dân gian
Con người, ngoài những nhu cầu về đời sống vật chất thì cũng còn có nhu
cầu cấp thiết về đời sống tinh thần. Đây là nhu cầu cần phải có trong quá trình
phát triển sự sống của con người. Trong những buổi đầu sơ khai, con người
chưa hiểu biết nhiều dẫn đến sự khó lý giải về các hiện tượng thiên nhiên và
xã hội, do vậy con người dần đi đến sự sợ hãi và lệ thuộc vào các yếu tố tự
nhiên. Điều này khiến họ xây dựng nên những thần linh để cúng bái, cầu
mong sự che chở, bảo vệ và giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn và bất trắc
trong cuộc sống. Từ đó, tín ngưỡng dân gian hình thành và phát triển.
Ngoài ra, trong công cuộc dựng nước và giữ nước, đã có những con
người có công với đất nước nên việc thờ cúng thể hiện lòng biết ơn của thế hệ
đi sau đối với những người này cũng là một hình thức tín ngưỡng nữa làm
phong phú thêm các hình thức của tín ngưỡng dân gian.
Như vậy, cơ sở hình thành tín ngưỡng dân gian tại Việt Nam nói chung
chính là dựa trên niềm tin vào một thứ gì đó bảo vệ cuộc sống của con người,
mong muốn được yên lành, ngoài ra nó còn như một yếu tố bảo trợ cho việc
sản xuất của con người, mong muốn mùa màng được bội thu, đồng thời cũng
là một bức tường vững trãi mà người ta dựa vào đó để răn dạy, giáo huấn đạo
đức, luân lý. Chính niềm tin vào sự nhiệm màu của thần thánh, vào sự tốt đẹp
tuyệt đối mà không thể thấy ở cuộc sống thực tại đã giúp con người có được ý
chí và niềm tin để vượt qua mọi khó khăn gặp phải trong cuộc sống. Điều này
cho thấy được ý nghĩa về mặt đạo đức, chứ không phải chỉ mà sự mê tín của
26
các tín ngưỡng dân gian.
Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử xã hội, ra đời, tồn tại và phát triển
gắn liền với lịch sử phát triển của nhân loại.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen: Tín ngưỡng là một yếu tố của
đời sống xã hội, hơn nữa là sản phẩm của lịch sử xã hội do con người sáng tạo
ra. Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và
chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào
sự tồn tại và sự cứu giúp của một thực thể siêu nhiên nào đó được thể hiện
qua hệ thống lễ nghi.
Xét về phương diện từ nguyên, thứ nhất, tín ngưỡng là “Lòng ngưỡng mộ
mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa”(1, Tr.283) - theo Từ điển
Hán- Việt của học giả Đào Duy Anh. Thứ hai, trong quyển Từ điển Tiếng
Việt do Văn Tân (chủ biên), tín ngưỡng nghĩa là: “Tin tưởng vào một tôn
giáo: Tự do tín ngưỡng”(19, Tr.1209). Như vậy, ở nghĩa từ nguyên, tín
ngưỡng chính là niềm tin tôn giáo ở mỗi con người. Có thể thấy rằng không
thể tách rời tôn giáo và tín ngưỡng với nhau. Tín ngưỡng được hiểu nôm na
theo dân gian là đức tin hay niềm tin và sự ngưỡng mộ. Còn trong khoa học
với các văn bản pháp quy thì tín ngưỡng được hiểu là niềm tin hay đức tin tôn
giáo.
Trong quá trình tồn tại và phát triển mình, con người đã sáng tạo ra nhiều
tín ngưỡng khác nhau, đồng thời cũng xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau
về tín ngưỡng. Tuy nhiên, một trong những quan điểm cụ thể và tổng hợp
được nhất đó là: “Tín ngưỡng là một biểu hiện của ý thức về một hiện tượng
thiêng, một sức mạnh thiêng do con người tưởng tượng ra hoặc do con người
suy tôn, gán cho một hiện tượng, một sức mạnh chỉ cảm thụ được mà chưa
nhận thức được. Tín ngưỡng là một sản phẩm văn hóa của con người được
hình thành tự phát trong mối quan hệ của con người với chính mình, với
người khác và với giới tự nhiên”(17, Tr.7). Theo Từ điển Tôn giáo: “Tín
27
ngưỡng là lòng tin và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu
nhiên, thần bí; lực lượng siêu nhiên có thể mang hình thức biểu tượng là
“Trời”, “Phật”, “Chúa”, “Thánh”, “Thần”, hay một sức mạnh hư ảo, huyền bí,
vô hình nào đó tác động đến đời sống tâm linh của người ta, được con người
tin là có thật và tôn thờ”(7, Tr.634-635).
Như vậy, tín ngưỡng là một hình thái biểu thị đức tin, niềm tin của con
người và của cộng đồng người ở một trình độ phát triển xã hội và nhận thức
nhất định vào một đối tượng thiêng liêng, cái cao cả, cái đáng sùng kính trong
thế giới người hoặc thế giới siêu nhiên nào đó. Tín ngưỡng như một hệ thống
niềm tin mà con người tin vào để giải thích những điều họ chưa lý giải được,
thông qua đó tạo ra sự an ủi và cảm giác yên tâm cho chính bản thân họ. Và
tín ngưỡng là một hình thức biểu hiện của văn hóa.
Về mối quan hệ giữa tín ngưỡng và tôn giao, có rất nhiều ý kiến khác
nhau. Có quan điểm cho rằng: tín ngưỡng và tôn giáo là một và đều gọi chung
là tôn giáo. Lại có những quan điểm cho rằng tín ngưỡng và tôn giáo là hai
hiện tượng riêng biệt. Tín ngưỡng có trước và là nền tảng để hình thành tôn
giáo, nói cách khác, tôn giáo là sự phát triển của tín ngưỡng mà thành. Sự
khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng được thể hiện ở một số điểm như: tôn
giáo có hệ thống giáo lý, kinh điển,… được truyền thụ và giảng dạy bài bản,
có tổ chức giáo hội, hội đoàn quy củ, có nơi thờ cúng riêng như nhà thờ, chùa
hay thánh đường, nghi lễ thờ cúng chặt chẽ. Còn tín ngưỡng mới chỉ dừng lại
ở sự sùng bái tự do, nó nằm trong tâm thức mỗi con người và được biểu hiện
qua sự sinh họat về phong tục tập quán, vì vậy nên nó chưa có giáo lý quy củ,
mà mới chỉ là các truyện cổ, truyền thuyết, thần tích. Tín ngưỡng mang tính
bản địa, gắn liền với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa
nhập giữa thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, không
cố định.
Như vậy, tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt tinh thần, ra đời
28
và phát triển cùng với đời sống con người từ thuở sơ khai. Với quan niệm cho
rằng bất kỳ vật gì cũng có linh tính nên con người đã thờ rất nhiều thần linh,
đặc biệt là cư dân nông nghiệp, thờ các sự vật như: mặt trăng, mặt trời, đất,
rừng, sông, núi, mưa, gió, sấm, chớp, mây,…
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng được hình
thành từ lâu đời trong đời sống của người dân Việt Nam, mỗi dân tộc, vùng
miền lại có cho mình một tín ngưỡng riêng gắn với đời sống vật chất và tinh
thần của mình.
Tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất, Quốc Oai cũng được hình
thành trải qua nhiều thời đại. Địa hình, cũng như khí hậu tại khu vực này tạo
điều kiện cho thiên nhiên phát triển phong phú, đa dạng. Từ những ngày khai
hoang lập nên thôn làng, người dân nơi đây đã sống dựa vào khai thác thiên
nhiên, sau đó là sống dựa vào nên văn minh lúa nước đến tận bây giờ, phải
phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, điều này dẫn đến người dân nơi đây đã hình
thành tín ngưỡng thờ các vị thần tự nhiên. Hơn nữa, khu vực này nằm sát
sườn phía Tây kinh thành Thăng Long xưa, nơi hội tụ, giao lưu văn hóa của
nhiều tộc người, nhiều luồng văn minh. Chính vì vậy, nơi đây đã dần hình
thành đa tôn giáo, đa tín ngưỡng.
Các tín ngưỡng chủ yếu được hình thành, tồn tại và phát triển tại khu vực
này bao gồm:
Tín ngƣỡng phồn thực
Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng
nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở.
Những trí tuệ sắc sảo thì tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ
xây dựng nên triết lý âm dương, còn những trí tuệ bình dân thì nhìn thấy ở
thực tiễn đó một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà họ sùng bái nó như thần
thánh và xây dựng nên tín ngưỡng phồn thực (phồn: nhiều, thực: nảy nở). Sự
29
khát vọng con đàn cháu đống và mùa màng bội thu là mong muốn mà người
nông dân khao khát nhất. Tín ngưỡng phồn thực từng tồn tại suốt chiều dài
lịch sử, được thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ và
thờ hành vi giao phối.
Phồn thực hay còn gọi là tín ngưỡng phồn thực, văn hóa phồn thực thật ra
là 1 văn hóa tôn thờ hành vi giao phối và bộ phận sinh dục. Đây là 1 nét văn
hóa , nó không phải là 1 tôn giáo . Nó là 1 nét văn hóa đặc trưng của không
những người Việt Nam mà còn rất nhiều nước trên thế giới. Tín ngưỡng
phồn thực gồm các loại: thờ sinh thực khí (Linga – nõ và Yoni – nường) và
thờ hành vi giao phối (múa tùng – dí hay linh tinh tình – phộc). Đây là một
loại hình tín ngưỡng cổ xuất hiện lâu đời trong đời sống con người, từ khi con
người chưa hiểu đến khi hiểu rõ về nguyên nhân sinh sản của muôn vật và
loại người, chính là sự kết hợp giữa âm – dương, đực – cái, nam -nữ,… Sự
sinh sản ấy khiến cuộc sống no đủ, tươi đẹp hơn, chính vì vậy nó trở nên linh
thiêng và trở thành một hiện tượng mà con người sùng bái.
Các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy tại khu di chỉ Văn Điển (Hà
Nội) tượng đá người đàn ông với bộ phận sinh dục được phóng to lên có niên
đại gần 4000 năm. Hay là tượng nam nữ với bộ phận sinh dục to hơn bình
thường được tìm thấy tại các nhà mồ ở Tây Nguyên. Việc thờ sinh thực khí
còn thể hiện ở việc thờ các loại cột (cột đá tự nhiên hoặc là được tạc ra, thể
hiện tính dương) và các loại hốc (hốc cây, hốc đá, các kẽ nứt, thể hiện tính
âm). Như ở chùa Dạm – Bắc Ninh có một cột đá hình sinh thực khí nam – có
khắc đôi rồng thời Lý, hay ngư dân Khánh Hòa có tục thờ kẽ nứt trên một
tảng đá gọi là lỗ Lường, và vị nữ thần ngự ở đây là Bà Lường. Và trên nắp
thạp đồng tìm được ở Đào Thịnh( Yên Bái), xung quanh hình mặt trời và các
tia sáng là tượng bốn đôi nam nữ đang giao hợp,… Đặc biệt phải kể đến trống
đồng – biểu tượng quan trọng nhất của tín ngưỡng phồn thực, hình dáng trống
là sự phát triển của chiếc cối giã gạo, cách đánh trống là mô tả động tác giã
30
gạo, cũng là động tác giao phối, hoa văn trên trống có hình mặt trời với các tia
sáng, hình lá, những biểu tượng về động vật hay mùa màng đều thể hiện lên
sự thờ sinh thực khí và hành vi giao phối.
Tại khu vực Thạch Thất, Quốc Oai, tín ngưỡng phồn thực tuy không được
thể hiện việc thờ bộ phận sinh dục hay thờ hành vi giao phối một cách rõ
ràng, nhưng loại hình tín ngưỡng này đã lan tỏa và hòa nhập vào trong cuộc
sống của người dân nơi đây dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ thời xa xưa, chày và cối – bộ công cụ thiết thân của người dân nông
nghiệp nơi đây, đồ vật này xuất hiện trong mỗi gia đình. Đây là những vật
tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ, còn việc giã gạo là tượng trưng cho
hành động giao phối. Hay việc thờ sinh thực khí còn được thể hiện bằng việc
thờ các loại cột (trong đình chùa, miếu mạo) hay các loại hốc (hốc cây, hốc
đá),… Ví dụ hốc cây đa tại thôn Hoàng Xá, xã Lại Thượng, Thạch Thất được
người dân nơi đây thờ phụng, cúng bái mỗi dịp lễ, tết. Hay trên mỗi hốc đá
trên ngọn núi Thầy (Quốc Oai) đều có đặt bát hương để người dân nơi đây
cúng bái quanh năm,…
Ngoài ra, tín ngưỡng phồn thực nơi đây còn được thể hiện trong những
hoa văn, họa tiết trang trí của những công trình kiến trúc xung quanh đời sống
nhân dân nơi đây. Ví dụ như: họa tiết cây lá phát triển tươi tốt, muông thú,
rồng phượng,… trên mỗi cột nhà, gác mái của những ngôi đình, hay ngôi nhà
của người dân ở,… Thể hiện trong các lễ hội qua các trò chơi dân gian, điển
hình như đấu vật: Sới vật ở bất cứ đâu cũng đều có hình tròn và thường được
đặt trước sân đình hình vuông. Đó không phải là sự sắp đặt ngẫu nhiên mà
đều có ý nghĩa sâu xa của nó, bởi vuông và tròn theo quan niệm của dân tộc
Việt là 2 hình toàn vẹn. Hình tròn tượng trưng cho trời, cho tính dương, hình
vuông tượng trưng cho đất, cho tính âm, vuông và tròn - âm và đương đặt
cạnh nhau nghĩa là một sự kết hợp hài hòa, trọn vẹn và mang lại những điều
tốt đẹp. Bởi vậy người Việt xưa không coi đấu vật là trò chơi đơn thuần mà
31
thông qua trò chơi này người ta mong cho dương vượng để có mưa thuận gió
hòa, cây cối, mùa màng tốt tươi. Nổi tiếng với trò chơi này tại Thạch Thất có
sới vật tại xã Hạ Bằng, hay tại Quốc Oai có lò vật tại xã Cấn Hữu, lò Yên Nội
(Đồng Quang), Ngô Sài (thị trấn Quốc Oai), Ngọc Than (Ngọc Mỹ), Nghĩa
Hương...
• Tín ngƣỡng sùng bái tự nhiên
Việt Nam là một quốc gia phát triển kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, nên
phải lệ thuộc và gắn bó với tự nhiên, điều đó dẫn đến việc sùng bái tự nhiên
của người dân nơi đây. Mọi sinh hoạt và lao động hằng ngày đều gắn với tự
nhiên, với tâm lý hay sợ hãi và sùng bái, từ đó người dân Việt Nam nhìn nhận
tự nhiên như những đấng linh thiêng, tôn nó thành thần, thánh, đưa tự nhiên
vào thờ cúng trong gia đình, miếu mạo, quán, điện,… Cùng với đó, người dân
Việt Nam theo tín ngưỡng đa thần và âm tính (trọng nữ giới), vì thế nên việc
thờ cúng tự nhiên cũng hết sức phong phú, mọi sự vật đều được họ thờ cúng,
bao gồm các hình thức như: thờ Tam phủ, Tứ phủ; thờ Tứ pháp; thờ động vật,
thực vật,… Có hai loại động vật phổ biến được thờ phụng là chim và rắn,
người Việt đã thần thánh hóa hai động vật này lên thành Tiên(Âu Cơ) và
Rồng (Lạc Long Quân) và cho rằng mình là con Rồng cháu Tiên.
Trong phong tục, tín ngưỡng dân gian tại Thạch Thất – Quốc Oai, việc thờ
cúng tự nhiên đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân.
Hình thức thờ Tam phủ, Tứ phủ phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng
người dân nơi đây. Tam phủ là để chỉ thờ ba vị thánh thần: Mẫu Thượng
Thiên cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng mây mưa, gió bão, sấm
chớp; Mẫu Thượng Nghàn trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho
chúng sinh; và Mẫu Thoải trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng
lúa nước và ngư nghiệp. Tứ phủ là bao gồm ba vị thánh thần trên và có thêm
Mẫu Địa Phủ quản lý vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống. Phủ thờ
32
các Mẫu được mở ra với mật độ khá nhiều tại địa bàn nơi đây. Người dân mở
Phủ thờ Mẫu với mong muốn làm ăn thuận buồm xuôi gió, phát tài phát lộc, đem lại yên ấm cho gia đình1,…
Ngoài ra, thờ từ những con vật mạnh mẽ như hổ, voi, ngựa, rắn,... đến các
con vật gần gũi với văn hóa nông nghiệp như cóc, chó, cá, hạc, dơi,... Đặc
biệt, người dân nơi đây cũng như nhân dân Việt Nam nói chung, họ thờ cả
những con vật mang tính biểu tượng hóa không có thật như rồng, lân.
Về cây cối, người dân nơi đây sinh ra từ làng, sống chủ yếu bằng việc
trồng lúa, nên họ tôn sùng nhất là cây lúa. Ngoài ra còn có các “thần cây đa,
ma cây gạo”, cây si, cây bàng, cây cau,... Các câu chuyện về thần thánh, ma
quỷ trú ngụ trên cây cũng khá phổ biến và có ảnh hưởng nhất định đến đời
sống sinh hoạt của người dân nơi đây.
• Tín ngƣỡng sùng bái con ngƣời
Việc thờ cúng, coi trọng con người là một trong những điểm đặc sắc nhất
của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Nó bắt nguồn từ niềm tin rằng linh hồn
người chết vẫn tồn tại trong thế giới của chúng ta, rằng người sống phải tôn
trọng và thể hiện sự biết ơn với những linh hồn đó. Việc coi trọng tổ tiên, coi
trọng các vị thần, coi trọng hồn vía của con người,… đã làm nên loại hình tín
ngưỡng đặc sắc như: thờ cúng tổ tiên, hồn vía, Thành hoàng làng, vua Tổ, Tổ
nghề,… Điều này còn thể hiện như một nền tảng đạo lý của người Việt Nam.
Thứ nhất là việc thờ cúng Tổ tiên, hay còn gọi được gọi khái quát là Đạo
Ông Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc biệt là tổ tiên. Thờ cúng
tổ tiên là một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống
tinh thần của người dân nơi đây. Đây là cách thể hiện lòng biết ơn và tri ân
những người đã khuất. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên
mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu,
1 Phụ lục 1, Tr. 72.
33
họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp
may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách
con cháu khi làm những điều tội lỗi.
Trong nhận thức của người Việt nói chung và người dân khu vực Thạch
Thất – Quốc Oai nói riêng, con người có hai phần: phần xác và phần hồn. Khi
con người còn sống, phần hồn nhập vào xác và điều khiển xác của con người,
khi con người chết, thì phần xác sẽ trở về với cát bụi, còn phần hồn sẽ rời
khỏi xác và chuyển sang sống ở một thế giới khác mà người ta gọi là cõi âm.
Ở cõi âm thì mọi nhu cầu của phần hồn đều giống như cuộc sống ở chốn trần
thế. Họ thờ cúng tổ tiên một mặt để thể hiện lòng biết ơn, lòng hiếu thảo kính
trọng của mình với những người bề trên, những người sinh thành ra mình, mặt
khác, họ cũng lo sợ rằng, nếu không thờ cúng ông bà tổ tiên những người đã
khuất một cách tử tế, thì những linh hồn này sẽ trở thành ma đói và quay trở
lại quấy nhiễu họ, mang lại đen đủi và rủi ro trong cuộc sống của họ.
Việc thờ cúng tổ tiên tại mỗi gia đình được tiến hành quanh năm, xuất phát
từ quan niệm, dù đã khuất nhưng linh hồn của họ vẫn ở bên cạnh con cháu.
Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới
xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết Nguyên đán, Thanh minh,
Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc (ngày mồng một), Vọng (ngày rằm)
theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi
chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ
gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ
tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc.
Ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình, người dân nơi đây còn thờ cúng
người có công với làng xã, được tôn vinh là Thành hoàng làng – vị thần cai
quản, che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng, được thờ cúng tại đình làng.
Và thờ cúng người có công dựng nước, đó là các vị vua Hùng. Ở một số gia
34
đình thờ cả Hồ Chủ tịch.
Ngoài ra còn có tục thờ Tứ bất tử (bốn người không bao giờ chết, gồm:
Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh) trong tín ngưỡng sùng
bái con người ở nước ta. Thánh Tản Viên( trong thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh)
thể hiện sức mạnh đoàn kết của con người trước thiên tai; Thánh Gióng thể
hiện sức mạnh của người dân đất nước trước giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử là
biểu tượng ước mơ về một cuộc sống vật chất phồn vinh, ấm no; còn Liễu
Hạnh là hiện thân của ước vọng về tự do, trí tuệ và hạnh phúc của con người.
Trong tâm thức của người dân Việt Nam, Liễu Hạnh là Mẹ, là thần chủ điện
thờ Tam phủ, Tứ phủ, Mẫu Liễu Hạnh cai quản nhân gian, thế giới loài người,
và có thể hóa thân vào các Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng nghàn, Mẫu
Thoải, Mẫu Địa và sai khiến, chỉ đạo các thế lực tự nhiên làm cho cuộc sống
của người dân Việt Nam trở nên ấm no hơn, mùa màng bội thu bởi mưa thuận
gió hòa,… Vì vậy, Liễu Hạnh là vị thần được người Việt nói chung và người
dân khu vực Thạch Thất – Quốc Oai đặc biệt tôn thờ.
Tục thờ Tổ nghề cũng là một hình thức trong tín ngưỡng sùng bái con
người xuất hiện tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai. Tổ nghề là một hoặc
nhiều người có công lớn đối với việc sáng lập và truyền bá một nghề nào đó.
Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập vì đã có
công tạo ra nghề, gọi là Tổ nghề (hoặc Thánh sư). Tổ nghề chỉ là những con
người bình thường, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng
tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau.
Ở khu vực Thạch Thất, Quốc Oai có một số làng nghề truyền thống thờ tổ
nghề như: Làng Ra(thôn Phú Hòa, Bình Phú, Thạch Thất) thờ Thủy tổ múa
rối nước là Thiền sư Từ Đạo Hạnh,
Như vậy thì quá trình hình thành và phát triển của những tín ngưỡng dân
gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai cũng đi cùng với lịch sử phát triển
chung của Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn phát triển nhất định. Từ thuở
35
khai sơ, khi nhận thức con người chưa phát triển nhiều, họ thờ các hiện tượng
tự nhiên, động vật, cây cối, khi nhận thức phát triển, hình thức kinh tế nông
nghiệp xuất hiện thì tín ngưỡng phồn thực cũng xuất hiện, rồi từ đó các loại
hình tín ngưỡng cũng dần xuất hiện xoay quanh cuộc sống nông nghiệp và tác
động lại đến đời sống sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần của người dân nơi
đây.
Đặc điểm của tín ngưỡng dân gian
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp lúa nước là chủ yếu và
người dân đa số là nông dân, vì vậy tín ngưỡng dân gian nơi đây được hình
thành từ rất sớm. Nó là sản phẩm tinh thần, văn hóa trong mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên và xã hội. Vì vậy, tín ngưỡng dân gian Việt Nam
mang đậm những đặc trưng của văn minh nông nghiệp.
Tín ngưỡng dân gian của khu vực Thạch Thất, Quốc Oai cũng là một phần
trong Tín ngưỡng dân gian của Việt Nam nói chung, vì vậy, nó cũng mang
một số đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, tín ngưỡng dân gian tôn trọng và có mối quan hệ mật thiết với
thiên nhiên. Điều này có thể thấy rõ trong tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.
Thứ hai, trong mỗi tín ngưỡng đều có sự hài hòa âm dương: Trời – Đất, Cô
– Cậu, Ông đồng – Bà đồng, Rồng – Tiên…
Thứ ba, các tín ngưỡng đa phần mang tính âm, đối tượng đa số là nữ. Ví
dụ như hệ thống Tam phủ, Tứ phủ, hay hệ thồng Tứ pháp(Pháp Vân, Pháp
Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện),…
Thứ tư, các tín ngưỡng có sự đan xen, dung hợp và hòa đồng lẫn nhau,
không mâu thuẫn gay gắt, kỳ thị, xung đột hay bài trừ nhau. Các tín ngưỡng
truyền thống phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung,
độ lượng, nhân ái và tinh thần đoàn kết của người dân nơi đây. Ví dụ như một
36
gia đình có thể có bàn thờ cúng tổ tiên, trong góc nhà có đặt bàn thờ cúng Thổ
địa và ba ông thần Phúc Lộc Thọ, đồng thời cũng lập thêm một Phủ thờ Tam
phủ, Tứ phủ. Hình thức này khá phổ biến trong cộng đồng người dân nơi đây.
Thứ năm, mỗi tín ngưỡng đều mang những nét văn hóa riêng biệt, nhưng
đều hướng đến sự Chân – Thiện – Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân
tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về
bản sắc của dân tộc.
1.3. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Thạch Thất
– Quốc Oai
Mỗi một tôn giáo lại có nguồn gốc và đặc điểm riêng của mình. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển, nó lại giao lưu và thâm nhập vào các mảnh đất văn
hóa màu mỡ khác cắm rễ, từ đó xảy ra sự tiếp biến, dung hợp lẫn nhau. Và
mức độ hỗn dung, hòa hợp của mỗi loại tôn giáo cũng khác nhau, có tôn giáo
dù đã du nhập cả mấy trăm năm thì cũng chỉ là một bộ phận riêng biệt so với
văn hóa dân tộc, tuy nhiên cũng có tôn giáo, từ khi du nhập, đã dần lan tỏa và
hòa vào văn hóa dân tộc như một phần không thể thiếu của nó.
Với đặc trưng tư duy và văn hóa của nền nông nghiệp lúa nước, người dân
Thạch Thất – Quốc Oai cũng như người Việt nói chung, trong quá trình phát
triển thì dần tiếp nhận những giá trị văn hóa từ bên ngoài vào, từ đó chọn lọc
và phát triển nên những nét văn hóa riêng cho mình, thể hiện được bản sắc
văn hóa của dân tộc. Và sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
chính là một trong những nét văn hóa riêng đặc sắc ấy.
Từ xa xưa, trước khi Phật giáo du nhập vào, thì người dân nơi đây đã dần
hình thành cho mình những tín ngưỡng riêng. Tuy không phát triển những tín
ngưỡng này thành một tôn giáo có giáo lý cũng như tổ chức bài bản, nhưng
nó đã ngày càng ăn sâu và ảnh hưởng tới cuộc sống của mỗi người dân. Cho
đến khi Phật giáo đi vào với chủ trương hòa bình, từ bi, hỷ xả,… những chủ
37
trương này rất gần gũi với tinh thần bao dung đùm bọc, vị tha trong đạo đức
truyền thống của người Việt. Chính vì vậy mà Phật giáo đã nhanh chóng có
cơ sở để hòa nhập với tín ngưỡng dân gian, từ đó lan rộng và cắm rễ sâu tại
đất Việt. Điển hình có thể thấy là tín ngưỡng thờ Mẫu trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt khi được Phật giáo tiếp nhận đã trở thành những vị Phật
bà như: Tứ pháp, Phật bà chùa Hương, Quan âm Tống tử,…
Ngay từ khi du nhập, Phật giáo đã hỗn dung, hòa hợp với tín ngưỡng dân
gian một cách nhanh chóng. Dân ta đón nhận về những triết lý, về luật nhân
quả luân hồi, về con đường giải thoát đau khổ,… bằng sự cởi mở và gần gũi
nhất. Vì vậy, không khó để thấy những tín ngưỡng dân gian có phảng phất
màu sắc của Phật giáo. Phật giáo với hệ thống lý luận phong phú đi cùng với
triết lý từ bi, hỷ xả, đã góp phần làm cho văn hóa người Việt đa dạng và mang
một bản sắc riêng.
Sự dung hợp giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch
Thất – Quốc Oai có thể thấy qua những biểu hiện sau:
Thứ nhất, đó là hiện tượng thờ đá. Ở những nơi cầu tự, cầu duyên như ở
Hang Cắc Cớ của chùa Thầy(Tượng Cậu), tục thờ đá cũng thể hiện sự kết hợp
giữa văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Việc ban phát sự sống và tạo
ra sự sinh sôi nảy nở vốn là việc của các vị thần linh. Tuy nhiên tín ngưỡng
dân gian cùng với các vị thần linh dần ngày càng mất đi sự gần gũi, tin tưởng,
thân thiết khi con người ngày càng hiểu rõ được các quy luật của tự nhiên. Do
đó, họ không còn tôn sùng các vị thần tự nhiên nhiều nữa. Mặt khác thì Phật
giáo lại ngày càng gần gũi với người dân, hiện hữu trong đời sống của nhân
dân. Trước tình hình này, sự kết hợp của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
chính là sự kết nối thiết yếu của con người với các vị thần tự nhiên thông qua
các nghi lễ thờ cúng, làm cho con người có thêm niềm tin vào các vị Thần
Phật. Chính vì vậy, các nơi cầu tự, cầu duyên của người dân dần được chuyển
vào các ngôi chùa và việc đi cầu tự, cầu duyên là một hình thức độc đáo trong
38
đời sống tín ngưỡng của người dân.
Thứ hai, có thể thấy sự kết hợp rõ nhất giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân
gian qua cách sắp xếp, tên gọi, cách bài bố trang trí các kiến trúc hay các
tượng thờ và di vật trong một số ngôi chùa tại khu vực này. Phần lớn các chùa
ở khu vực Thạch Thất – Quốc Oai đều thờ tự hết sức đa dạng: Từ các vị Phật,
Thần, Thánh, Mẫu đến các vị Thổ địa cũng được thờ chung trong chùa.
Các chùa trong khu vực này đa số đều có ban thờ Tam tòa Thánh Mẫu.
Với tư tưởng Âm Dương - Tam Tài - Ngũ Hành, nhất sinh nhị, nhị sinh tam,
tam sinh vạn vật, thì Mẫu là nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam. Điều đó có
nghĩa là từ Mẫu Thiên mà tự đối ứng hoá thành Mẫu Địa (Mẫu Thượng Ngàn)
– thứ hai, rồi lại hoá thành Mẫu Thoải (Mẫu Thuỷ) – thứ ba, chính vì thế mới
có tên là Tam toà Thánh Mẫu. Trong các vị Thánh Mẫu được thờ thì đứng đầu
là Mẫu Liễu Hạnh. Liễu Hạnh công chúa là một trong những vị thần quan
trọng trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, là người đứng đầu trong hệ thống
Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu,
Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi
ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Tại chùa Thầy còn có đền thờ Tam phủ, thờ ba vị: Vua cha Ngọc Hoàng,
Đức Đế Thích, Đức Thủy Tiên. Ba vị này chính là ba vị đứng đầu trong Tam
giới: Thiên, Địa, Thủy.
Ngoài ra, ta có thể thấy sự gắn bó của những ngôi chùa Việt nói chung và
những ngôi chùa trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng với các hình
thức biểu diễn dân gian như: Hát chèo đò. Hình thức này thường thấy ở các
buổi lễ hay hội tại các sân chùa hay sân tổ của những ngôi chùa. Các nghệ
nhân được thuê về hay thường là các Vãi có giọng hay đứng dậy làm động tác
chèo đò và hát những đoạn thơ trên sáu dưới tám liên quan đến tích nhà Phật.
39
Các Vãi khác nghe hát chắp tay thành kình và xướng lại theo lời.
Một hình thức biểu diễn khác là hát quan họ - một hình thức dân ca đặc
sắc bắt nguồn từ vùng Kinh Bắc xưa ( Bắc Ninh ngày nay), và sau đó lan
truyền rộng ra các vùng lân cận. Các điệu hát quan họ rất phong phú, được
biểu diễn bởi các nhóm nam nữ hay còn gọi là các “liền anh”, “liền chị”. Các
nhóm hát quan họ này có mối quan hệ chặt chẽ với các ngôi chùa. Họ thường
được mời về biểu diễn tại các ngôi chùa trong các dịp lễ, hội trọng đại. Tại
Thạch Thất – Quốc Oai có nhiều nhóm hát quan họ như: CLB quan họ xã Đại
Đồng (Thạch Thất), CLB xã Đại Thành (Quốc Oai),…
Đặc biệt phải kể đến là sân khấu múa rồi nước, một loại hình múa rối độc
đáo của người Việt bắt nguồn từ khu vực này, mà Tổ nghề là Thiền sư Từ
Đạo Hạnh. Trước mặt chùa Thầy có một Thủy đình ở giữa hồ Long Chiểu để biểu diễn múa rối nước2. Thậm chí, ở chùa Thầy, tượng của nhà sư Từ Đạo
Hạnh cũng làm theo kiểu con rối có thể cử động được. Hay tại chùa Tây
Phương, trước cổng chùa, ngay dưới chân núi cũng có một hồ mà ở giữa hồ
có xây dựng Thủy đình nhằm phục vụ biểu diễn múa rối nước.
Qua những điều trên, chúng ta có thể thấy được những ngôi chùa và tư
tưởng Phật giáo đã phần nào ảnh hưởng rất quan trọng đến lối sống sinh hoạt
văn hóa của người dân nơi đây.
Thứ ba, đó là sự giống nhau về tinh thần từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn, tự
do, bình đ ng giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người Việt nói
chung. Phật giáo khi đi vào Việt Nam dễ dàng được đón nhập và ngày càng
cắm rễ sâu trong đời sống nhân dân là bởi sự gần gũi về mặc tư tưởng và giáo
lý. Người nông dân quanh năm cúi mặt xuống đất, bán lưng cho trời, không
đủ trình độ để hiểu được những giáo lý cao siêu, nhưng trong cuộc sống, họ
biết thế nào là thiện, thế nào là ác. Họ hiểu rằng cần phải làm điều thiện, tránh
điều ác, họ quan niệm “thương người như thể thương thân”, “ở hiền gặp lành”
40
“gieo gió gặt bão” hay “ác giả ác báo, thiện giả thiện báo”,… nhưng điều này 2 Phụ lục 2, Tr.72.
hơn bao giờ hết lại cực kỳ gần với triết lý từ bi, nhân quả của Phật giáo. Hay
hình tượng Đức Phật cũng được dân gian Việt hóa thành hình tượng ông Bụt
(nói lái đi của Buddha – tức Đức Phật) hiền lành, nhân từ, luôn giúp đỡ những
41
người khó khăn.
Tiểu kết chƣơng 1
Đồng bằng Bắc Bộ là nơi có nền văn minh lúa nước phát triển, đồng
thời cũng là nơi Phật giáo lần đầu tiên du nhập vào Việt Nam. Chính vì vậy,
Phật giáo sớm hòa nhập cùng các tín ngưỡng dân gian nơi đây để phát triển
mạnh mẽ qua từng thời kỳ lịch sử của dân tộc. Từ thế kỷ X, Việt Nam chấm
dứt 1000 năm Bắc thuộc, bước vào thời kỳ độc lập, Phật giáo với các giáo lý
từ bi, hỷ xả, cứu khổ cứu nạn cùng chủ trương hòa bình đã được nhân dân coi
trọng. Đến thời Lý, Trần, đây là thời kỳ Phật giáo phát triển đỉnh cao tại Việt
Nam nói chung và Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Trong thời kỳ này, nhiều
ngôi chùa được xây dựng và biểu hiện rõ nét sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian. Khoảng thời gian từ thế kỷ XIV – thế kỷ XV, Phật giáo
bước vào giai đoạn suy yếu do Nho giáo được đề cao, vì vậy, nó mất đi vị trí
quan trọng trong tầng lớp thống trị, chỉ còn len lỏi trong dân gian. Sang thế kỷ
XVI – XVII, Phật giáo dần trở lại mạnh mẽ và có nhiều ảnh hưởng đến quần
chúng nhân dân, nhiều ngôi chùa được xây dựng và trùng tu, giữ lại được
những nét đặc sắc đến tận bây giờ, điển hình như chùa Tây Phương. Thế kỷ
XIX đến nay, Phật giáo tuy không tham gia vào chính trị nhưng lại có ảnh
hưởng sâu rộng đến quần chúng nhân dân, nó thấm sâu vào máu thịt con
người Việt nói chung, người dân Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, nó hỗn dung,
đồng hành cùng các tín ngưỡng dân gian tạo cho nhân dân một đời sống tâm
linh phong phú, đa dạng và có nét đặc sắc riêng.
Thạch Thất – Quốc Oai là hai huyện nằm ở phía Tây trung tâm thành
phố Hà Nội( Kinh thành Thăng Long xưa), lại nằm trên mảnh đất văn hóa xứ
Đoài, là một vùng đất thuận lợi trong việc ảnh hưởng và giao lưu văn hóa của
các khu vực. Chính vì thế, khi Phật giáo phát triển tại Đồng bằng Bắc Bộ, thì
Phật giáo cũng đã dần cắm dễ trên mảnh đất này. Phật giáo tuy là một tôn
giáo lớn với hệ thống tư tưởng triết học sâu rộng, nhưng Phật giáo vẫn rất phù
42
hợp và gần gũi với văn hóa truyền thống của người Việt nói chung. Vì vậy,
khi du nhập vào, Phật giáo dễ dàng bén rễ và phát triển mạnh mẽ trong đời
sống nhân dân. Và người đặt nền móng cho Phật giáo khu vực Thạch Thất –
Quốc Oai không ai khác chính là Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Với tính linh hoạt, tổng hợp và hài hòa âm dương sẵn có, Phật giáo tại đây
đã tự động dung hợp với các tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực,
tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người. Tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam hết sức phong phú với nhiều loại hình khác nhau, nhưng đều
chung mục đích đó là vì con người. Điều này ta có thể thấy rõ trong các ngôi
chùa ở Đồng bằng Bắc Bộ, cụ thể hơn là hai ngôi chùa Thầy và chùa Tây
Phương. Sự dung hợp này có thể thấy qua những biểu hiện như: hiện tượng
thờ đá, hang, hốc, qua kiến trúc hay cách sắp xếp tượng phật trọng chùa, qua
các hình thức biểu diễn dân gian, hay là sự giống nhau về tinh thần từ bi, hỷ
xả, tinh thần bác ái “lá lành đùm lá rách”,…
Qua những điều trên, chúng ta có thể thấy được sự dung hợp giữa Phật
giáo và tín ngưỡng dân gian đã được hình thành từ rất lâu và dần phát triển
mạnh mẽ, có những ảnh hưởng nhất định đến lối sống sinh hoạt văn hóa của
43
người dân Thạch Thất – Quốc Oai.
CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ
TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN QUA KHẢO SÁT HAI NGỒI CHÙA:
CHÙA THẦY VÀ CHÙA TÂY PHƢƠNG.
2.1. Biểu hiện qua nghi lễ của Phật giáo tại hai ngôi chùa
Văn hóa hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong khu vực
Thạch Thất – Quốc Oai được thể hiện rõ qua các nghi lễ, lễ hội. Phật giáo có
thể nói là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lễ hội ở Việt Nam nói
chung và khu vực này nói riêng. Lễ và hội của Phật giáo gắn bó thân thiết với
người dân, trở thành lễ hội dân gian có ảnh hưởng rộng. Đi hành hương,
chiêm bái thánh tích, tham gia vào các lễ hội đã trở thành hoạt động, nhu cầu
ko thể thiếu của người dân nơi đây. Tham gia các hoạt động này, con người
như tạm thoát khỏi những lo toan thường nhật, coi đây là quãng thời gian để
tâm an yên, thanh thản, trở về với thiên nhiên, cội nguồn tâm linh. Lễ hội và
các nghi lễ, trò chơi dân gian,… của tín ngưỡng dân gian đã trở thành một
hình thức sinh hoạt văn hóa và món ăn tinh thần không thể thiếu từ xưa đến
này của người dân trong khu vực.
Xuất hiện cùng với các loại hình tín ngưỡng dân gian gắn liền với văn hóa
nông nghiệp trồng lúa nước thì những cư dân nơi đây cũng nảy nở ra những
nghi lễ thờ cúng các hiện tượng tự nhiên. Họ thờ các vị thần mây, mưa, sấm,
chớp, thờ Mẹ, thờ Mẫu, thờ cha trời, mẹ đất,… Các nghi lễ thờ cúng này cũng
đã tác động vào trong chùa, không ngôi chùa nào là không có bàn thờ Thổ
Địa, Thiên Lôi, Thờ thần làng, thần núi,… Việc này còn được thể hiện mạnh
mẽ bằng cách biến một số nhà sự thành Thần thánh và được tôn thờ trong
chùa, như Thiền sư Từ Đạo Hạnh được thờ tại chùa Thầy.
Về cơ bản, có bốn ngày đại lễ là lễ chính của đạo Phật trong năm, đó là:
44
Lễ Phật đản (Phật sinh), Lễ Phật xuất gia, Lễ Phật thành đạo và Lễ Phật nhập
Niết bàn. Tuy nhiên, tại hai ngôi chùa Thầy và chùa Tây Phương thì còn có
hai ngày lễ hội riêng của hai ngồi chùa.
Lễ Phật Đản, còn gọi là lễ tắm Phật, lễ té nước, hay lễ hoa. Đây là ngày
Lễ kỷ niệm ngày sinh của Thích Ca Mâu Ni. Theo Phật thoại “khi Phật sinh
có rồng phun nước thơm tắm cho Phật”, vì vậy trong lễ Phật Đản, đều có
những hoạt động như hành pháp hội, lấy nước thơm tắm rửa cho Phật, sau đó
lau bằng một khăn lụa đỏ, rồi xé ra chia cho mỗi người một mảnh để làm
“khước”, trừ ốm đau bệnh tật và chống lại ma quỷ, cúng dàng tăng chúng, bái
Phật, té tổ, té nước hay xin nước tắm Phật,…Ngày Lễ Phật Đản được tổ chức
vào ngày rằm tháng Tư Âm lịch. Theo truyền thuyết, ngày Đức Phật sinh ra,
Ngài vững vàng bước đi bảy bước và tuyên bố:
“Trên thiên giới, dưới người trần thế,
Chỉ có ta cao quý phi thường
Thân này kiếp chót Pháp Vương,
Không còn trở lại con đường tử sinh”(6, Tr.152)
Ở Việt Nam nói chung thì lễ tắm Phật còn được gắn liền với tín ngưỡng
cầu mưa của người nông dân. Người ta tin rằng cứ đúng ngày Phật đản, thời
tiết thế nào cũng mưa để lấy nước tắm Phật. Và tắm Phật bằng cách dội nước
cũng là một hình thức cầu mưa, để cho mùa màng bội thu. Với người dân nơi
đây, lấy nghề nông trồng lúa nước làm nghề chính, mà trong đó có 4 nhu cầu
thiết yếu là “nước, phân, cần, giống”. Được xếp trong vị trí hàng đầu nên có
thể thấy yếu tố nước quan trọng như thế nào. Như vậy, có thể thấy được vị trí
45
của ngôi chùa trong cộng đồng làng xã là hết sức quan trọng.
Ngày Lễ Phật xuất gia3 được tổ chức vào ngày 8 tháng 2 Âm lịch. Đây là
ngày mà Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ ngôi vị Thái tử, từ bỏ cuộc sống hoàng
cung, gia đình để xuất gia tu hành, tìm con đường giải thoát cho con người.
Để kỷ niệm ngày lễ này, hầu hết các chùa Tăng, Ni, Phật tử đều tổ chức đọc
kinh tụng niệm.
Ngày Lễ Phật thành đạo là ngày kỷ niệm Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo
Vô thượng chính đ ng chính giác. Trải qua 49 ngày Thiền định dưới gôc cây
Bồ Đề. Trước khi ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề, Ngài đã đổi phương pháp tu
“khổ hạnh” nhận bát sữa dân cúng của nàng Su Gia Ta.
Sau khi thành đạo, Ngài đến Vườn Nai xứ Ba La Nại độ cho 5 anh em ông
Kiều Trần Như vốn là những người trước đây đã tu “khổ hạnh” với Ngài. Bài
Thuyết pháp đầu tiên mà Đức Phật giảng đó là giáo lý “Tứ thánh đế” hay còn
gọi là “Tứ diệu đế” – bốn chân lý cao cả là: khổ(Khổ), nguyên nhân sinh
khổ(Tập), sự dứt khổ(Diệt), con đường đưa đến nơi chấm dứt khổ đau(Đạo).
Đây cũng là ngày mà các chùa tổ chức lễ quy y cho các giới trong tín đồ
Phật giáo.
Ngày Lễ Phật nhập Niết bàn được tổ chứ vào ngày 15 tháng 2 Âm lịch.
Đây là ngày lễ tưởng nhớ ngày mất của Đức Phật, hay gọi nôm na là ngày giỗ
của Phật. Tương truyền bốn mươi năm sau, khi đức Phật được tám mươi tuổi,
ngài nhập Niết bàn trước sự chứng kiến của rất nhiều thánh nhân đệ tử của
Ngài, loài người lẫn chư thiên. Trong ngày lễ Phật nhập Niết bàn, hầu hết các
chùa đều tổ chức pháp hội Niết bàn, đọc kinh “Di giáo kinh”…
Các Lễ Phật đản, Lễ Phật xuất gia, Lễ Phật thành đạo, Lễ Phạt nhập Niết
3 Có 2 thuyết xuất gia: Đại thừa cho rằng Đức Phật xuất gia năm 19 tuổi, trải qua 6 năm tu hành khổ luyện và 5 năm tìm thầy học đạo, đến năm 30 tuổi Ngài mới đắc đạo và đi Thuyết pháp 49 năm. Còn theo Tiểu thừa, Ngài xuất gia năm 29 tuổi, trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh, Ngài thành đạo lúc 35 tuổi và Thuyết pháp trong 45 năm.
46
bàn đều kỷ niệm những cột mốc lớn trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni. Qua đây giúp mọi người nhận thức rõ rằng trong mỗi bản thân con
người, ai ai cũng có tính Phật, ai cũng có thể trở thành Phật nếu tu hành tinh
tiến theo Phật pháp.
Dưới ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian, mỗi ngôi chùa lại có một ngày
lễ hội chính hằng năm. Trong hội chùa, có những nghi kễ Phật giáo như tụng
kinh, lễ Phật, chạy đàn, phóng sinh,… Nhưng vì nhiều ngôi chùa Việt Nam
không chỉ có thờ Phật mà còn thờ cả Thần, Mẫu nên thông qua hội chùa ta sẽ
thấy rõ sự dung hợp tín ngưỡng tôn giáo được biểu hiện rõ ràng. Các vị thần
được thờ trong chùa kiểu “tiền Phật hậu Thánh”, và các chùa thờ kiểu này
thường tổ chức hội trong cùng một ngày. Chùa Thầy và chùa Tây Phương
cùng tổ chức khai hội vào ngày 6 tháng 3 Âm lịch và kéo dài ba ngày sau đó.
Các hội chùa này không chỉ có ảnh hưởng đến thôn làng quanh đó mà còn có
ảnh hưởng tầm rộng, thu hút sự quan tâm của người dân quanh xã, thậm chí là
quanh huyện và các vùng lân cận về tham dự. Qua đây có thể thấy được rằng,
hội chùa không chỉ gắn bó với sinh hoạt văn hóa làng, mà còn ảnh hưởng đến
cả văn hóa vùng.
Ngoài ra còn có Lễ Vu Lan được tổ chức dựa trên kinh Vu Lan Bồn. Lễ
Vu Lan là một lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của nhân dân Việt
Nam, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”,… Lễ hội này trở
thành lễ hội của Phật giáo và được tổ chức vào 15 tháng 7 Âm lịch hằng năm.
Đây là ngày để con cháu báo hiểu cho ông bà, cha mẹ, những đấng sinh
thành. Ngoài ra thì đây cũng là ngày lễ cúng cô hồn, phổ độ chúng sinh, người
ta dâng lễ vật để cúng với mục đích cầu xin cho vòng hồn của người thân
mình được thoát khỏi địa ngục và được siêu độ. Lễ này thể hiện tư tưởng từ
bi, hỷ xả của Phật giáo cùng với sự lương thiện, tu nhân tích đức , đạo hiếu tốt
đẹp của người dân nơi đây.
Thêm nữa, mỗi năm trong chùa còn diễn ra các ngày lễ khác của dân, như
47
Lễ dâng sao giải hạn. Người dân nơi đây cho rằng, hàng năm mỗi người đều
có một sao chiếu mệnh, tất cả có chín ngôi sao và cứ chín năm lại luân phiên
trở lại. Và chín ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định
trong tháng, từ đó hình thành tục dân sao giải hạn. Các sao chiếu mệnh gồm:
Thái Dương, Thái Âm, Mộc Đức, Vân Hán, Thổ Tú, Thái Bạch, Thủy Diệu,
La Hầu và Kế Đô. Dưới ảnh hưởng của Đạo giáo, Lễ dâng sao giải hạn được
các chùa tổ chức vào đầu năm, cầu bình an, giải hạn cho các tín đồ Phật giáo.
Tại chùa Tây Phương và chùa Thầy, lễ dâng sao được tổ chức vào ngày Rằm
tháng Giêng hằng năm.
Bên cạnh đó thì các ngày lễ tết trong năm, rằm, mồng một hàng tháng,
người dân trong vùng cũng thường lên chùa đi lễ.
Trong lễ Phật, người ta chỉ dâng lục cúng: hương, hoa, đăng, trà, quả,
thực. Và các lễ này hoàn toàn là đồ chay. Tuy nhiên, trong hai ngôi chùa này
còn có ban thờ Mẫu, Sơn Thần, nên người đi lễ chùa còn thêm cả lễ mặn.
Ví như ban thờ Mẫu thì được tiến hành theo các nghi thức như sau:
Ban thờ Mẫu có thể sắm lễ chay: hương, hoa, quả, oản. Hay lễ mặn
gồm: xôi, thịt, lợn, gà,… nấu chín, hay lễ đồ sống như trứng sống, thịt lợn
sống, gạo, muối,… để đặt tại ban Ngũ hổ, Thanh xà, Bạch xà. Lễ mặn Sơn
Trang gồm: cua, ốc, bún, chanh, ớt, mắm tôm, gừng, măng tươi,… lại thường
được sắm theo con số 15 phần và đây là số lượng các vị thần thuộc ban Sơn
Trang( chúa Thượng Ngàn Bạch Anh công chúa, 2 chầu hầu cận, 12 cô Sơn
Trang). Lễ ban thờ cô, cậu: gồm hương hoa, oản quả… còn có cả đồ làm bằng
giấy, tượng trưng cho các đồ chơi của trẻ con như cành hóa, con chim, chiếc
kèn, trống,… Tuy lễ vật có là gì, thì đều không câu nệ, cốt yếu là thành tâm
và giữ điều thanh tịnh.
Việc tiến hàng các nghi lễ trong chùa cũng được diễn ra theo một trình
48
tự nhất định:
Thường thì người ta dâng lễ ở chính điện trước, rồi mới đến các ban
Đức Ông, ban Thánh Hiền… Nhưng cũng có người nhận thấy được vai trò
quan trọng của Đức Ông, vì theo quan niệm của tín ngưỡng dân gian thì Đức
Ông là người cai quản ngôi chùa nên đã thỉnh lễ Đức Ông trước, rồi mới đặt
lễ dâng hương tại chính điện và các ban thờ khác.
Đặt lễ vật và thắp hương làm lễ tại ban Đức Ông trước. Vì theo giáo lý
của Phật giáo, Đức Ông là vị cai quản tất cả các công việc của chùa. Đồng
thời khi làm lễ ở ban Đức Ông cũng xin phép được vào làm lễ ở chính điện.
Cũng tương tự như trình tự thờ cúng tổ tiên, trước tiên người ta phải thắp
nhang làm lễ tại bàn thờ Thổ Công để xin phép cho tổ tiên của mình được về.
Vì dân gian quan niệm “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”.
Tiếp theo là đặt lễ vật lên hương án ở chính điện. Thắp đèn, nhang rồi
thỉnh ba hồi chuông, vái ba vái hoặc năm lạy.
Tiếp đến là xuống điện Mẫu lễ, dâng hương và cầu nguyện. Người dân
đến điện Mẫu thường cầu tài lộc, con cái, sức khỏe. Lễ vật dâng Mẫu có thể là
đồ chay hoặc đồ mặn.
Cuối cùng là lễ ở nhà Tổ. Lễ ở nhà tổ thì các lễ phẩm cũng tùy tâm
người đến lễ.
Điểm đặc biệt thể hiện sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân
gian, cụ thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chính là trong chùa còn có nhà vong4. Nhiều gia đình có người thân mất từ 35 đến 49 ngày thường làm lễ cầu
siêu đưa vong linh của người quá cố vào chùa để “thính pháp văn kinh”, qua
đó mà giác ngộ vạn vật vô thường, tu tâm dưỡng tính, xóa bỏ tham sân si để
được giải thoát, siêu sinh. Tại chùa Thầy có nhà vong, nên những người đi lễ
chùa nếu có thân nhân quá cố gửi tại chùa, sẽ xuống thắp hương và cầu lễ
4 Phụ lục 3, Tr.73.
49
mong người quá cố “phù hộ độ trì” cho gia đình mình.
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong khu vực
Thạch Thất – Quốc Oai được thể hiện trong nghi lễ chùa rất linh thiêng và
được người dân coi trọng, nó đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân nơi
đây. Họ đi chùa cầu mong được Phật, Thánh phù hộ cho bình an, tài lộc, cầu
xin khỏi bệnh. Ngoài ra họ còn bán khoán trẻ nhỏ lên chùa để mong con cháu
mau lớn, khỏe. Đây là một tập tục thường làm ở đền thờ, nhưng trong chùa
cũng xuất hiện lên này. Tức là làm lễ cầu Phật, cầu Đức Ông nhận trẻ nhỏ làm
con cái, bảo vệ và phù hộ cho trẻ khỏe mạnh, thông minh cho đến lúc trưởng
thành. Thường trẻ sẽ được làm lễ bán khoán cho đến hết một giáp (13 tuổi),
hết thời gian bán khoán thì có thể chuộc khoán hoặc tiếp tục làm lễ bán khoán
đến hết đời.
Như vậy, tuy trong giáo lý của Phật giáo nguyên thủy vốn mang tinh
thần xuất thế gian, nhưng trong quá trình phát triển, với tính linh động và sự
tùy duyên của mình, Phật giáo đã thể hiện tinh thần nhập thế một cách khá
toàn diện đến với quần chúng nhân dân Việt nói chung và người dân khu vực
Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng. Thông qua tinh thần nhập thế đó, ta có thể
thấy được chính là sự hòa hợp, hỗn dung của Phật giáo với tín ngưỡng dân
gian của người dân nơi đây trong từng nghi lễ trong chùa.
2.2. Biểu hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa
Sự hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian không chỉ thể hiện
qua nghi lễ, mà còn thể hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa Tây Phương và
chùa Thầy. Những kiến trúc này thể hiện được đặc điểm riêng biệt về kiểu
dáng của các ngôi chùa vùng Đồng bằng Bắc Bộ nói chung và khu vực Thạch
Thất – Quốc Oai nói riêng.
Kiến trúc của hai ngôi chùa này không cao lớn, đồ sộ và lộng lẫy như
các ngôi chùa mới được xây dựng gần đây. Lý giải về điều này, là do tư duy
muốn hài hòa với cảnh sắc thiên nhiên, tạo cho con người cảm giác thanh tao,
50
thoát tục.
Kiến trúc của chùa Thầy đã thể hiện rõ sự kết hợp giữa Phật giáo và tín
ngưỡng dân gian. Với khởi đầu là lối tu theo dòng Thiền Mật tông huyền bí
(Mật tông khi được truyền vào Việt Nam đã nhanh chóng hòa nhập cùng tín
ngưỡng dân gian cùng với những hình thức như yểm bùa, cầu hồn, chân
thế,…) với huyền tích của Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã tạo nên những điểm
riêng biệt trong kiến trúc, không gian và bố cục của chùa.
Chùa Thầy là nơi khởi nguồn của lối kiến trúc “tiền Phật hậu Thánh”,
cụm kiến trúc này nằm trên trục chính dọc phía sau tòa nhà Tam bảo. Cung
thánh là một không gian đóng kín với diện tích nhỏ nhằm tạo sự linh thiêng .
Toàn bộ kiến trúc chùa trải dài, cao dần theo sườn núi, hình thành theo bố cục
nội công ngoại quốc – đây là kiểu kiến trúc Phật giáo phổ biến bào thế kỷ
XVII. Khu Tam bảo gồm cả tòa nhà Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện
được thiết kế theo kiểu chữ Công. Hai bên có hai dãy hành lang nối gác
chuông, gác chống, nhà Hậu tạo nên một khung chữ Nhất làm cho chùa có
một không gian thoáng bên trong nhưng nhìn từ ngoài vào lại rất kín đáo. Và
việc Phật hóa miếu thờ Thần tại đây chính là điểm đặc sắc nhất thể hiện sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Hang Thánh hóa5 trước đây
chỉ là một cái am nhỏ (Hương Hải am), ứng với Bồ đề viện của Từ Đạo Hạnh.
Ngoài ra, bố cục của chùa còn chú trọng đến vấn đề âm dương hài hòa. Hai
cây cầu đá Nhật tiên và Nguyệt tiên cong cong hai bên trái phải, là biểu tượng
của mặt trời và mặt trăng.
Ngoài không gian kiến trúc cảnh quan, chùa Thầy còn sử dụng tổng
hợp các yếu tố sắp đặt kiến trúc không gian ánh sáng để truyền tải một cách rõ
ràng nhất giáo lý Phật giáo đến với Phật tử. Đó là yếu tố phong thủy với sự
hòa hợp của con người, thiên nhiên và vạn vật. Khi đặt chân vào chùa, là đã
chuyển từ cuộc sống ồn ào, thế tục sang một trạng thái yên tĩnh, thanh tịnh.
5 Phụ lục 4, Tr.74.
51
Tiền đường là nơi yên tĩnh, không gian thoáng đãng, ít tượng. Tượng Hộ pháp
oai phong với vai trò như trấn giữ những sự phàm tục, không phù hợp với nơi
cửa Phật. Đi sâu vào trong chùa, không gian càng thêm thanh tịnh, với ánh
sáng thiên nhiên bên ngoài hiên cùng với ánh sáng đèn nến trong các gian thờ
đã giúp cho con người có được sự an yên, tĩnh tâm, tạm rời xa cuộc sống thế
tục bon chen ngoài kia. Đây chính là một trong những giá trị nhân văn làm
nên giá trị của ngôi chùa trong lòng người dân nơi đây.
Tại chùa Tây Phương, ngôi chùa nổi tiếng với lối kiến trúc độc đáo, thì
ta có thể dễ dàng nhận ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
được thể hiện trong đó. Bước qua khoảng sân, là vào chùa Hạ đại diện của
chữ Nhân, tiếp đến là chùa Trung - chữ Thiên, chùa Thượng - chữ Địa. Vì
được thiết kế theo hình chữ Tam, nên ở giữa chùa Thượng – Trung – Hạ có
hai sân thiên tỉnh (giếng trời) hẹp và dài xen giữa để lấy ánh sáng từ trên trời
cao dọi xuống. Ánh sáng trời tỏa vào bên trong các ngôi chùa, tạo được sự
trong trẻo tĩnh mịch cho thị giác cũng như trong tâm thức của con người.
Phật giáo không chỉ kết hợp với tín ngưỡng thờ thần tự nhiên, mà còn
kết hợp với cả tín ngưỡng thờ nhân thần (thờ cúng tổ tiên, thờ thành hoàng,
thờ những người có công với đất nước, thờ thầy chữa bệnh,…)
Ở hai ngôi chùa này, các bộ cột thường được xây dựng bằng gỗ lim,
được bào tròn hình trụ, để mộc hoặc sơn. Kiến trúc của chùa Tây Phương có
tường bao quanh được xây kín, chỉ để hở những cửa thông khí ở hai bên có
hình tượng “sắc sắc, không không” (bán âm, bán dương).
Hầu như trong chùa chính, khắp nơi đều có chạm trổ rất tinh xảo. Các
đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... được trang trí bằng những đề tài
quen thuộc ở miền đồng bằng sông Hồng với hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa
cúc, hổ phù, tứ linh v.v,… hài hòa, tô điểm cho kiến trúc, làm cho công trình
kiến trúc mang tính nghệ thuật cao. Xung quanh diềm mái của 3 toà nhà trong
52
chùa Tây Phương đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn
nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường
nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng, biểu tượng cho sự sinh sôi này nở của
vạn vật.
Như vậy, sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của khu
vực Thạch Thất – Quốc Oai đã ảnh hưởng đến lối kiến trúc của chùa Thầy và
chùa Tây Phương, từ đó tạo nên nét đặc sắc trong Phật giáo của khu vực này
nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.
2.3. Biểu hiện qua nghệ thuật bài trí tƣợng thờ trong hai ngôi chùa
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người dân
trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai là vô cùng đa dạng, không chỉ biểu
hiện qua kiến trúc của hai ngồi chùa, mà cụ thể chi tiết hơn, mối quan hệ này
còn được thể hiện trong từng cách sắp xếp tượng trong hai ngôi chùa này.
Trong hai ngôi chùa, hệ thống tượng Phật vô cùng phong phú, thể hiện được
sự sáng tạo của trí tưởng tượng vô cùng phong phú của người dân lao động
nơi đây.
Hai chùa này đều là hai chùa theo Đại Thừa nên chính điện và các tòa
nhà khác trong chùa đều thờ rất nhiều Phật, Bồ tát cùng các vị thần Phật giáo
khác. Nhìn chung thì hệ thống tượng Phật tại hai ngôi chùa này khá đa dạng
và phong phú.
Cách sắp xếp tượng Phật của chùa Thầy và chùa Tây Phương cơ bản là
giống nhau, chia trên hai chục chính: Trục ngang (thời gian) là bộ tượng Tam
Thế (Quá khứ, hiện tại, tương lai) và trục dọc (không gian) gồm tượng Tuyết
Sơn – Di Lặc – Thích Ca sơ sinh. Bộ tượng Tam Thế tượng trưng cho ba ngàn
đức Phật trong ba kiếp, cho tính bình đ ng về Phật tính, do đó ba pho tượng
hình dáng, kích thước tư thế tọa thiền tương tự nhau chỉ khác thế tay và một
vài chi tiết trang trí. Ba vị Phật này là đại biểu cho vô số Phật trong mọi thời
53
gian và không gian theo quan niệm của Phật giáo Đại Thừa. Tượng Tuyết
Sơn-Di Lặc-Thích Ca sơ sinh tượng trưng cho ba đoạn đời tu hành của Phật.
Tuyết Sơn là Phật ở giai đoạn tu khổ hành, chưa thành Phật, còn đau đáu về
cuộc đời, với hình dạng một nhà sư gầy gò, ngồi an tịnh, trầm mặc, khuôn mặt
đầy suy tư. Di Lặc được coi là vị Phật của tương lai, đấng Từ Tôn cứu thế,
người ta cho rằng “Di Lặc xuất thế thiên hạ thái bình”. Bởi vậy tượng Di Lặc
thường béo tốt, mặt tròn, bụng phệ, chân tay ngắn, tư thế một chân co, một
chân chống, khuôn mặt tượng luôn cười hớn hở bắt nguồn từ đại tâm từ bi hỉ
xả của ngài. Cuối cùng là tượng Thích Ca sơ sinh một tay chỉ lên trời, một tay
chỉ xuống đất ý nghĩa “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”, xung quanh có
chín con rồng tượng trưng cho mây trời linh thiêng hội tụ lấy nước thiêng tẩy
trừ những uế trọc cho đức Phật. Dưới các chân bệ tượng đều có những hoa
văn trang trí tinh xảo với những chủ đề hoa, lá, các hoa văn liên quan đến lực
lượng tự nhiên.
Phía dưới Tam thế xếp ba pho tượng, gọi là “Di Đà Tam Tôn” bao gồm
Bồ Tát Đại Thế Chí – A di đà – Bồ Tát Quan Âm. Ba tượng này có thế ngồi
tọa thiền kiết già (yoga), khiến tâm không thể lay động. Tượng Phật A di đà
có kích cỡ lớn hơn các tượng khác. Với vị trí đăc biệt, sự có mặc của tượng
Phật A di đà cùng các vị Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ Tát Quan Âm đã nói lên tín
ngưỡng Tịnh độ trong Phật giáo Bắc Bộ nói chung. Tuy ở Bắc Bộ ko có phái
Tịnh độ riêng biệt, nhưng tín ngưỡng Tịnh độ lại phổ biến rộng rãi, làm nên
một cơ tầng bình dân cho Phật giáo. Theo tín ngưỡng này, con người tin rằng
có một cõi gọi là cõi Tịnh độ, hay Tây Phương Cực Lạc, nơi đó có Phật A di
đà ngự trị, các Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí đã tiếp dẫn
những linh hồn về đó. Người ta chỉ cần nhất tâm niệm Phật A Di Đà là có thể
vãng sinh ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Tên “A Di Đà Phật” từ đó đã trở thành
câu chào của các tín đồ Phật giáo tại Việt Nam. Bộ tượng Di Đà Tam Tôn vừa
biểu đạt triết lý Phật giáo, lại vừa mang những đặc điểm thể hiện sự dung hòa
54
giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Tạo hình của các pho tượng mang
nhiều yếu tố nữ giới: Tượng Bồ Tát với hình dáng, y phục mang nhân dạng
nữ nhân của tầng lớp trên, nhưng yếu tố nữ giới được nhấn mạnh hơn nữa ở
những chi tiết: Tóc của tượng Bồ Tát Đại Thế Chí kết theo hình nút không
đầu không cuối và xõa rủ xuống vai. Cấu trúc bộ phận hai pho tượng Bồ Tát
theo tỷ lệ và đặc điểm của nữ giới như eo thon, bụng hẹp, ngực đầy, vai xuôi,
cổ cao ba ngấn,… Tượng Phật A Di Đà thể hiện trong nhân dạng nam giới
nhưng một số chi tiết trên cơ thể như trang sức ở thùy tai kết hoa sen bằng hạt
bảo châu, hay những nếp quần áo cũng uốn lượn cho gần với tính chất nữ
giới. Thêm nữa, các tượng này thường được trang trí bởi các hoa văn liên
quan đến lực lượng tự nhiên như văn xoắn, lửa, bảo châu, đồ án lửa tam muội,
cây thiên mệnh,…
Bàn đến chùa Tây Phương, không thể không nhắc đến 18 pho tượng
của 18 vị Tổ kế đăng (18 vị La Hán), bao gồm: Tượng Ma Ha Ca Diếp,
Tượng A nan đà, Tượng Thương Na Hòa Tu, Tượng Đề Đa Ca, Tượng Bà Tu
Mật, Tượng Đà Nan Đề, Tượng Đà Mật Đa, Tượng Hiếp Tôn Giả, Tượng Bồ
tát Mã Minh, Tượng Ca Tỳ Ma La, Tượng Long Thụ Tôn Giả, Tượng La
Hầu La Đa, Tượng Tăng Già Nan Đề, Tượng Già Da Đa Xá, Tượng Cưu Ma
La Đa, Tượng Xà Dạ Đa, Tượng Bát Nhã Đa La, Tượng Bồ Đề Đạt Ma. Các
vị tổ được chọn ở đây là những nhân vật đại diện cho mọi thành phần của xã
hội, nhằm nói lên tính chất rộng mở hòa đồng, trên cơ sở Đại Từ Đại Bi, lấy
giác ngộ Phật pháp làm trung tâm ứng xử. Đồng thời các vị tổ này cũng đại
diện cho những khâu phát triển cốt yếu của lịch sử Phật giáo.
Trong hai chùa còn có tượng của 8 vị thần Hộ pháp Bát bộ Kim Cương
gồm: Thanh Trì Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích
Thanh Hỏa, Đinh Trì Tai, Tử Hiền, Đại Lực Thần. Đây là mẫu hình đích thực
của các võ tướng với nhiều dáng vẻ trong một nguyên tắc thể hiện giống
nhau, xây dựng trên cơ sở “âm dương” luận. Cụ thể là các động tác tay của
55
tượng trong hình thức bao giờ cũng một cao một thấp, một động một tĩnh…
để biểu hiện sự điều hòa của hai lực đối đãi nhau, tạo thành một cường lực
xung mãn trong các thế võ của Kim Cương.
Đặc biệt ở chùa Thầy, đặc trưng thể hiện mối quan hệ giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian được thể hiện ở trong điện Thánh, thờ Thiền sư Từ Đạo
Hạnh ở ba kiếp khác nhau: tượng kiếp tu tiên đặt trong khám thờ bên trái,
giữa là tượng chân thân của họ Từ, bên phải là tượng Lý Thần Tông, hóa thân
Từ Đạo Hạnh. Nếu pho chân thân Từ Đạo Hạnh mang tính chân dung thể hiện
khuôn mặt khắc khổ gân guốc, trong trang phục áo cà sa, mũ pháp sư, ngồi
thiền định thì tượng Lý Thần Tông mang nhiều yếu tố tượng trưng, kích
thước lớn hơn người thực. Sinh động, độc đáo nhất là tượng Từ Đạo Hạnh ở
kiếp tu tiên đặt trong khám thờ với kích thước bằng người thật, làm bằng gỗ
chiên đàn.
Ngoài ra, gian thờ Mẫu cũng chính là điểm đặc trưng thể hiện sự dung
hợp giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian trong hai ngôi chùa này. Cách
trang trí bàn thờ Mẫu đã thể hiển rõ mối quan hệ này. Ở trên bàn thờ Mẫu có
treo rất nhiều đồ vàng mã như: nón, hài, thuyền rồng, đèn lồng,… đủ các loại
và kích cỡ khác nhau với màu sắc sặc sỡ. Sở dĩ như vậy vì các vị thần được
thờ ở ban Mẫu từ các Thánh Mẫu cho đến các hàng quan, hàng chầu, ông
Hoàng, các cô, các cậu đều gồm các vị thần linh có gốc gác từ mọi miền trên
đất nước, vì vậy đồ thờ mới có sự đa dạng và phong phú như vậy. Cách bài trí
các vị thần trên bàn thờ Mẫu cũng rất đặc trưng: Cung đệ nhất, còn gọi là hậu
cung, đây là ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, mà Mẫu Liễu Hạnh là Đệ nhất
Thánh Mẫu mặc áo đỏ, trùm khăn đỏ ngồi ở chính giữa, ở vị trí trang trọng
nhất, là Mẫu chủ thể của tín ngưỡng thờ Mẫu trong dân gian. Hai bên Mẫu đệ
nhất là Mẫu đệ nhị và Mẫu đệ tam. Mẫu đệ nhị mặc áo xanh, khăn xanh, tức
Mẫu Thượng Ngàn, còn Mẫu đệ tam mặc áo trắng, khăn trắng, tưc Mẫu
56
Thoải.
Cung đệ nhị: ban chính giữa thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu. Tiếp
đến là ban thờ Ngũ vị quan lớn (Quan thượng thiên mặc áo đỏ, Quan giám sát
mặc áo xanh, Quan thủy phủ mặc áo trắng, Quan khâm sai mặc áo vàng, Quan
tuần chanh mặc áo màu tím đen). Đây là màu sắc thuộc ngũ hành tương ứng
với: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ.
Cung đệ tam: ban chính giữa thờ các quan Hoàng Bảy, Hoàng Mười.
Hai gian bên thờ Đức Thánh Trần và Nhị vị Vương cô, tức là Nhâm từ Hoàng
hậu – vợ của vua Trần Nhân Tông và Thủy Tiên Đại hoàng công chúa – vợ
của Thượng tướng Phạm Ngũ Lão.
Cung đệ tứ: Gian giữa nhà Mẫu là ban Công đồng, hai bên có ban cô và
ban cậu, trên cao có Thanh xà, Bạch xà.
Gian bên là động Sơn Trang hoặc Thổ thần, Chầu Thủ đền.
Nhìn chung, chùa là một quần thể kiến trúc, không gian tâm linh khá đa
dạng và phong phú, ngoài thờ Phật ra thì còn có cả ban thờ Mẫu, thờ Thánh,
thờ Tổ. Bộc lộ ra sự dung hợp khá mật thiết giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân
gian.
Như vậy, việc sắp xếp và bố trí các vị thần trong hai ngôi chùa này đã
thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, đó cũng
là kết quả của quá trình tác động và điều chỉnh lẫn nhau của Phật giáo và nhu
cầu xã hội của người dân. Sự thờ mang tính dung hợp này được diễn qua
trong suốt quá trình phát triển của Phật giáo khu vực này nói riêng và Phật
giáo Bắc Bộ nói chung. Đặc biệt là những năm gần đây, khi mà Phật giáo phát
triển, nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người, thì việc phối thờ Thần,
Thánh ngày càng được chú trọng, và hình thức này giống như một chiếc cầu
nối để đưa quần chúng nhân dân ngày càng đến gần với giáo lý nhà Phật. Tất
57
cả những điều này đã cho chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết, khăng
khít giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của khu vực Thạch Thất – Quốc
Oai nói riêng và của Việt Nam nói chung.
2.4. Một số vai trò xu hƣớng phát triển chủ yếu của sự dung hợp giữa
Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai
Vai trò
Phật giáo tuy là một tôn giáo ngoại lai, nhưng đã du nhập vào Việt Nam từ
rất lâu. Nó kết hợp với tín ngưỡng dân gian để dần hòa mình vào nền văn hóa
của cư dân lúa nước Việt. Vì vậy, sự dung hợp này cũng có những vai trò ảnh
hưởng đến xã hội người Việt nói chung và người dân khu vực Thạch Thất –
Quốc Oai nói riêng.
Thứ nhất, tạo cho người dân một đời sống tâm linh sâu sắc và hướng thiện.
Giáo lý của Phật giáo kết hợp cùng triết lý của tín ngưỡng dân gian tạo nên
nét văn hóa có nhiều điểm gần gũi với tâm tư, tình cảm của người dân Việt
nói chung và mang những ý nghĩa nhân văn sâu sắc, có giá trị trong đời sống
xã hội. Trước hết đó là việc luôn hướng con người đến những giá trị tốt đẹp,
lương thiện, bài trừ những mê lầm cố chấp, những ham muốn trái đạo lý để tự
hoàn thiện bản thân mình trong mối quan hệ với mọi người, với xã hội.
Những tư tưởng từ bi, hỷ xả, khoan dung, hòa bình, khuyến thiện, ngừa ác
của Phật giáo hòa cùng những tư tưởng “uống nước nhớ nguồn”, truyển thống
yêu nước, tôn sư trọng đạo, hay mưu cầu những điều tốt đẹp của tín ngưỡng
dân gian đã làm phong phú hơn đời sống tâm linh của người dân nơi đây, thức
tỉnh lương tri con người để hướng tới hòa bình và hạnh phúc, đem lại sự an
lạc cho tâm hồn.
Thứ hai, bảo tồn giá trị văn hóa, góp phần tạo nên sự phong phú và đa
58
dạng trong kiến trúc và lễ hội.
Giá trị văn hóa của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
được thể hiện rõ nhất ở trong không gian các ngôi chùa. Với một hệ thống
chùa tháp có mặt ở hầu hết từng thôn, xã trong hai huyện, đã làm giàu đẹp,
phong phú thêm nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của khu vực Thạch Thất –
Quốc Oai.
Đa phần các ngôi chùa đều được xây dựng trong một phong cảnh thiên
nhiên trữ tình, thanh tịnh, có tính chuẩn mực, hệ thống và tổng hợp, gắn bó
hữu cơ giữa kiến trúc, điêu khắc, hội họa và cảnh trí thiên nhiên tạo thành
những danh lam thắng cảnh. Hai ngôi chùa Thầy và chùa Tây Phương cũng là
hai trong số các danh lam thắng cảnh nổi tiếng cả nước.
Xen với những ngôi chùa thuần Việt, tại khu vực này còn xuất hiện những
loại kiến trúc khác như “tiền Thần hậu Phật”, “tiền Phật hậu Thánh”, mà điển
hình là lối kiến trúc của chùa Thầy như đã trình bày, góp phần làm phong phú
thêm các loại hình kiến trúc tín ngưỡng – tôn giáo nói riêng, kiến trúc dân
gian truyền thống nói chung.
Chùa cũng là nơi hình thành nên những không gian văn hóa điển hình,
biểu hiện sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian như: Lễ Vu Lan,
Lễ Phật đản, đàn tràng giải oan, chạy đàn cầu mưa, cầu an giải hạn, hay còn
cả nhảy đồng,… Ngoài ra, trong lễ hội còn có sự kết hợp nhiều hình thức
nghệ thuật độc đáo khác như nghệ thuật sân khấu (chèo) gắn với các Phật
thoại, các huyền tích, Thánh thoại,…tạo nên hình thức sinh hoạt tinh thần rất
phong phú. Mặt khác, có nhiều ngôi chùa có những pho tượng mang tính nghệ
thuật cao, điển hình như pho tượng Tuyết Sơn, bộ tượng La hán tại chủa Tây
Phương. Đây cũng là một điểm để thu hút khách thập phương, các Phật tử về
chùa một mặt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các pho tượng, mặt khác thông qua
59
đó để cảm nhận được cái nhìn soi thấu của Đức Phật.
Thứ ba, góp phần điều chỉnh các hành vi xã hội theo chuẩn mực của đạo
đức truyền thống.
Vai trò của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dan gian đối với đạo
đức trước hết là định hướng, giáo dục con người theo những chuẩn mực đạo
đức tốt đẹp. Từ bi, hỷ xả, cứu khổ cứu nạn của tư tưởng Phật giáo kết hợp
cùng những tư tưởng đạo hiếu, “uống nước nhớ nguồn”, “ở hiền gặp lành”…
của tín ngưỡng dân gian tạo nên một nền tảng đạo đức phù hợp với mong
muốn của xã hội Việt Nam nói chung, của khu vực Thạch Thất nói riêng
trong việc xây dựng nền đạo đức mới. Những tư tưởng này cũng chính là
những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp khi mà xã hội hiện nay, cơ chế thị trường
mở cửa đã góp phần làm phát triển chủ nghĩa cá nhân, sự vô tâm và ích kỷ ở
một số cá nhân.
“Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu” Phật giáo kêu
gọi mọi người, các tín đồ Phật tử hãy hành đạo vì lợi ích chung, chứ không
phải vì bản thân mình, và hãy hành đạo bằng cái tâm, chứ không phải bằng
hình thức. “Phật pháp bất ly thế gian”, tức Phật pháp lan tỏa, không tách rời
với xã hội, hướng con người đến những hành động tu thân, giúp đời một cách
cụ thể, thiết thực, chứ không dừng lại ở việc tụng kinh, gõ mõ.
Một vai trò to lớn về mặt đạo đức của mối quan hệ này chính là nâng cao
tinh thần đoàn kết của quần chúng nhân dân. Phật giáo là tôn giáo với chủ
trương bình đ ng con người, là tôn giáo yêu nước đồng hành cùng dân tộc,
được kết hợp với tư tưởng “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta, hướng người
dân đi đến khối đại đoàn kết.
Như vậy, sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian mang một
vai trò, ý nghĩa to lớn, đáp ứng nhu cầu về văn hóa, tâm linh của quần chúng
trong khu vực này, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa ngàn đời của
60
dân tộc, tạo ra một đời sống tâm linh hết sức phong phú cho nhân.
Xu hướng phát triển
Trong thời đại toàn cầu hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm
vi toàn thế giới, thì khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, hai huyện thuộc thành
phố Hà Nội – trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị quan trọng của cả nước,
không thể đứng ngoài xu hướng này. Và đây cũng là khu vực đang chịu ảnh
hưởng bởi trào lưu biến đổi mạnh mẽ của các luồng văn hóa nội sinh, sao cho
phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn nhân loại, nhưng đồng thời cũng
chịu không ít những luông tư tương của văn hóa ngoại lai du nhập vào.
Những điều kiện đó đã tác động mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian nơi đây và dần làm biến đổi nó. Nhu cầu về tinh thần của
xã hội ngày càng cao và biến đổi mỗi ngày, tạo động lực cho mối quan hệ
giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian cũng xảy ra biến đổi liên tục, phong
phú và đa dạng hơn. Nó ngày càng biến đổi theo xu hướng bản địa hóa, hòa
nhập và thích ứng với từng hoàn cảnh cụ thể. Xét thêm, trước xu thế phát
triển chung của các tôn giáo cũng với sự ảnh hưởng nhất định của các luồng
tư tưởng mới thì Phật giáo cũng như tín ngưỡng dân gian trong khu vực này
cũng có những thay đổi để trở nên hòa nhập với sự phát triển chung. Từ đó
dẫn đến hai xu thế phát triển như sau:
Thứ nhất, đó là xu hướng muốn tách Phật giáo ra khỏi tín ngưỡng dân
gian, đưa Phật giáo trở về cái gốc của nó là Phật giáo chính thống. Sau một
thời gian dài Phật giáo hòa mình vào lối sống của cộng đồng, và chịu nhiều sự
ảnh hưởng của xã hội, ngay lúc này Phật giáo đã chuyển mình và dần tách
khỏi sự chi phối của xã hội, để trở về với những giao lý nguyên thủy vốn có
của nó. Phật giáo trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai cũng có biểu hiện
dần muốn trở về cội nguồn của mình, tuy nhiên xu hướng này chỉ diễn ra
mang tính cục bộ, trong phạm vi một số tu sĩ và một số bộ phận cư sĩ tân học,
điều này cũng để lại hệ quả đến cách nhận thức lại về Phật giáo của con
61
người, tuy không lớn.
Thứ hai, đó là xu hướng dung hợp Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, điều
này được thể hiện rất rõ trong các ngôi chùa tại khu vực này. Mối quan hệ này
đặt ra nhiều vấn đề cần suy nghĩ bởi sự đa chiều của nó. Hỗn dung Phật giáo
và tín ngưỡng dân gian sao cho vẫn giữ gìn được văn hóa, bản sắc dân tộc mà
ngược lại vẫn thể hiện được tốt những giáo lý, triết lý nhân sinh của nhà Phật.
Chính vì vậy, việc hỗn dung Phật giáo và tín ngưỡng dân gian không đơn lẻ
chỉ mang ý nghĩa về cuộc sống tâm linh, tôn giáo, mà nó còn mang cả ý nghĩa
về vấn đề văn hóa, dấu lịch sử của vùng đất nơi đây.
Với những điều kiện thuận lợi, Phật giáo và tín ngưỡng dân gian đã hỗn
dung theo các phương thức:
Thứ nhất, đó là hỗn dung một cách “tự phát”. Phật giáo tiếp nhận và hòa
nhập các tín ngưỡng dân gian vào trong chùa với mục đích thu hút đông đảo
quần chúng đến với Phật giáo. Cùng với đó, gắn các hoạt động của tín ngưỡng
dân gian vào lối sinh hoạt của Phật giáo, ví dụ như: dân sao giải hạn, đốt vàng
mã, lễ lên đồng, cúng sóc vọng,…
Thứ hai, đó là hỗn dung theo phương thức “tự giác”. Đó là việc phổ cập
hóa tư tưởng của Phật giáo vào trong những sinh hoạt văn hóa của quần
chúng nhân dân thông qua các hình thức của tín ngưỡng dân gian. Các tập tục
như là: ăn chay, phóng sinh, bố thí,… chính là những tập tục văn hóa dân gian
của Trung Quốc mà khi vào đến Việt Nam thì đã được biến đổi thành những
ảnh hưởng của Phật giáo.
Tuy nhiên, trong hai xu hướng phát triển của Phật giáo kể trên thì xu
hướng thứ hai, xu hướng dung hợp Phật giáo và tín ngưỡng dân gian phát
triển mạnh mẽ và vượt trội hơn h n. Xu hướng này có tầm ảnh hưởng mạnh
62
mẽ đến hầu hết các ngôi chùa trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai.
KẾT LUẬN
Phật giáo và tín ngưỡng dân gian có sự dung hợp với nhau tạo ra mối
quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau. Phật giáo du nhập vào Việt Nam
khi người Việt đã có các tín ngưỡng, phong tục bản địa vô cùng phong phú,
tuy vậy đạo Phật đi vào bằng con đường hòa bình, cùng với các giáo lý từ bi,
hỷ xả và giải thoát, vị tha có nhiều nét tương đồng với đạo lý của người Việt,
vì vậy nó đã nhanh chóng hòa nhập cùng với tín ngưỡng dân gian, đi sâu cắm
rễ vào thế giới tinh thần của quần chúng nhân dân Việt Nam. Trong quá trình
du nhập và tồn tại ở nước ta, Phật giáo đã dần hòa mình và phát triển với dòng
chảy văn hóa để từ “Phật giáo ở Việt Nam” trở thành “Phật giáo Việt Nam”.
Sự hỗn dung Phật giáo với các tín ngưỡng dân gian đã khiến nó trở nên thân
thuộc, gần gũi và gắn bó với văn hóa dân tộc ta, khiến cho người thời nay
không còn coi Phật giáo là một tôn giáo ngoại lai nữa, mà cho rằng nó chính
là cơ tầng văn hóa truyền thống của người Việt. Trong mối quan hệ này thì
Phật giáo nắm vai trò là chủ thể chính. Ta có thể thấy sự dung hợp này được
thể hiện rõ nét trong những ngôi chùa ở Đồng bằng Bắc Bộ.
Tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, sự hỗn dung giữa Phật giáo và tín
ngưỡng dân gian diễn ra mạnh mẽ là lan tỏa sâu rộng trong đời sống tâm linh
của người dân nơi đây. Cả đạo Phật và tín ngưỡng dân gian nơi đây đều mở
cửa và biết thu nhận lẫn nhau một cách tích cực nhất. Vì thế, Phật giáo ngày
càng xuất hiện và ảnh hưởng mạnh mẽ đến quần chúng, cũng như các tín
ngưỡng như: thờ cúng tổ tiên, thờ Thần, thờ Thánh, thờ Mẫu,… cũng đã trở
thành một bộ phận cấu thành của Phật giáo Việt Nam. Các ngôi chùa trong
khu vực này được xây dựng và sắp xếp theo lối “tiền Phật hậu Thánh” đã biểu
hiện rõ sự dung hợp này.
Tóm lại, sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Đồng bằng
Bắc Bộ nói chung và khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng đã và đang
63
góp phần làm cho đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân ngày càng
phong phú, hoàn thiện hơn. Một mặt, giúp cho tín ngưỡng dân gian trở nên
giàu thêm về giá trị văn hóa, có thêm những diện mạo mới, mặt khác cũng
giúp Phật giáo trở thành kim chỉ nam cho đạo lý quần chúng, xây dựng nền
văn hóa nơi đây đầy nét nhân văn, mang đậm giáo lý từ bi, hỷ xả, nâng cao
tinh thần đoàn kết dân tộc. Trong xu hướng toàn cầu hóa ngày nay, nó giúp
con người định hình được đạo đức và lối sống, phải tu tâm tích đức, chăm làm
điều thiện, diệt trừ cái ác, học cách tha thứ, luôn giữ cho tâm trong sáng để
bản thân không bị tha hóa giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy rẫy những vấn
64
đề.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1950), Từ điển Việt – Hán, NXB. Minh Tân, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2006), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
3. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt Nam, NXB. Văn hóa Thông tin, Hà
Nội
4. Đặng Minh Châu (2016), Mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng
dân gian tại Việt nam (Qua nghiên cứu một số ngôi chùa tiêu biểu của
Phật giáo Bắc tông), Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học
KHXH&NV (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
5. “Hệ thống Tượng Phật Chùa Thầy với Phật Giáo Mật Tông” (2017),
Cúng dường tượng Phật.
6. Khai Đăng (2009), Tìm hiều các ngày lễ ở Việt Nam, NXB. VĂn hóa
Thông tin, Hà Nội.
7. Mai Thanh Hải(2002), Từ điển Tôn giáo, NXB. Từ điển Bách khoa, Hà
Nội.
8. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
10. TS. Nguyễn Thị Thu Hường (2017), “Đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay - Một số giải pháp cơ bản”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước.
11. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa
dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (số 5), Tr. 5-13.
12. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, 2 tập, NXB. Văn
học, Hà Nội.
13. PGS.TS. Nguyễn Công Lý (2010), “Phật giáo thời Lý – Trần với bản
sắc dân tộc Đại Việt”, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường
65
ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP. HCM.
14. Thích Bảo Nghiêm (2003), Hà Nội Danh Lam cổ tự, NXB. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
15. Pierre Gourou, Người Nông dân châu thổ Bắc Kỳ, NXB Trẻ, Viện
Viễn đông Bác cổ Pháp.
16. Vũ Quỳnh – Kiều Phú (1960), Lĩnh Nam chích quái, NXB. Văn hóa,
Hà Nội.
17. Nguyễn Minh San(1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
18. Thích Nguyên Tạng (2012), “Ảnh Hưởng Phật Giáo Trong Đời Sống
Người Việt”, Thư viện Hoa Sen.
19. Văn Tân (chủ biên) (1991), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
20. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (1990), Thiền uyển tập anh, NXB. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
21. Tô Tuấn (2017), “Chùa và Văn hóa làng”, Chuyện của làng.
22. TS. Triệu Thế Việt – Th.s Nguyễn Thu Thủy (2013), Triết lý Phật giáo
và bản sắc văn hóa Việt qua tượng thờ trong chùa Việt ở châu thổ Bắc
Bộ (Nghiên cứu trường hợp một số bộ tượng điển hình), Hội thảo Tôn
66
giáo.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Ảnh một Phủ thờ mẫu tại gia của người dân Thạch Thất.
67
Phụ lục 2: Ảnh múa rối nước tại chùa Thầy vào ngày hội 7/3 Âm lịch.
68
Phụ lục 3: Ảnh nhà vong tại chùa Thầy.
69
Phụ lục 4: Ảnh Hang Thánh Hóa tại chùa Thầy.