TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC

-----------------------

KIỀU THỊ YẾN

SỰ DUNG HỢP PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN

TẠI HAI HUYỆN THẠCH THẤT – QUỐC OAI

(Qua khảo sát chùa Thầy và chùa Tây Phƣơng)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2016-X

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS TRẦN THỊ HẠNH

HÀ NỘI, 2020

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân

thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo và Quý thầy cô khoa Triết

học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.

Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Thị

Hạnh đã tận tình chỉ bảo, giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này một

cách tốt nhất theo khả năng của tôi.

Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song do nhận thức

còn hạn chế nên khóa luận còn nhiều sai sót là điều không thể tránh khỏi. Tôi

rất mong nhận được những đóng góp quý báu từ Quý thầy cô để rút ra bài học

cho những lần nghiên cứu sau này được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2020

Người thực hiện

1

Kiều Thị Yến

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong khóa luận là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các

kết luận chưa được công bố ở bất cứ một công trình nào.

Tác giả khóa luận

2

Kiều Thị Yến

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 5

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 5

2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 7

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 8

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 8

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 9

6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 9

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận .............................................. 9

8. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 10

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT

GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ...... 11

1.1. Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc Bộ

qua các giai đoạn lịch sử ................................................................................. 11

1.2. Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất

– Quốc Oai ........................................................................................................ 17

1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai ............................... 17

1.2.2. Tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai ............ 26

1.3. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Thạch Thất –

Quốc Oai ........................................................................................................... 37

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ................................................................................. 42

CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ

TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN QUA KHẢO SÁT HAI NGỒI CHÙA:

CHÙA THẦY VÀ CHÙA TÂY PHƢƠNG. ................................................. 44

2.1. Biểu hiện qua nghi lễ của Phật giáo tại hai ngôi chùa ...................... 44

2.2. Biểu hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa ......................................... 50

3

2.3. Biểu hiện qua nghệ thuật bài trí tƣợng thờ trong hai ngôi chùa ..... 53

2.4. Một số vai trò xu hƣớng phát triển chủ yếu của sự dung hợp giữa

Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai . 58

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 65

4

PHỤ LỤC ......................................................................................................... 67

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ I

TCN, từ đó đến nay, đã phát triển và nhanh chóng hòa nhập, trở thành tôn

giáo mang đậm sắc thái văn hóa Việt. Phật giáo với vai trò là một tôn giáo

lớn ở Việt Nam, có đóng góp đối với lịch sự dân tộc, đời sống văn hóa, xã

hội của người dân Việt, cùng với đó nó còn góp phần tạo nên những công

trình kiến trúc mang đậm tính nghệ thuật.

Trước khi Phật giáo du nhập vào, nước ta đã có những tín ngưỡng

dân gian mang đặc tính bản địa. Mỗi cộng đồng dân cư, mỗi khu vực riêng

lại có những loại hình tín ngưỡng riêng, mang bản sắc riêng của mình.

Nhưng khi Phật giáo tràn vào, với các giáo lý giải thoát, tinh thần từ bi, hỷ

xả thì nó đã nhanh chóng được quần chúng người Việt tiếp nhận trong sự

hòa quyện cùng với tín ngưỡng dân gian. Biểu hiện rõ nhất là các ngôi

chùa ở những làng quê ngày càng mọc lên nhiều, cho đến ngày nay, hầu

như mỗi thôn, mỗi làng nào cũng đều có một ngôi chùa của riêng mình.

Do tính chất hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, nên các ngôi

chùa hầu hết đều bị bản địa hóa, trong chùa không chỉ thờ Phật, mà còn

thờ cả Thần, Thánh, Mẫu, tổ tiên,…

Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của nền văn minh lúa nước, nên việc thờ

các vị thần tự nhiên như một lẽ tất yếu của cuộc sống người dân, chính vì

vậy, khi Phật giáo du nhập vào, hòa quyện, hỗn dung cùng với tín ngưỡng

dân gian, thì các vị thần tự nhiên này cũng được Phật hóa và được thờ tụng

trong chùa. Ngoài ra, sự dung hợp này còn dẫn đến việc trong chùa thờ cả

vong linh người đã khuất, người có công với đất nước được người dân tôn

lên làm Thánh (Đức Thánh Trần), thờ Sơn Thần,… Các ngôi chùa mang

5

sắc thái hỗn dung này đã đánh dấu bước chuyển biến về đời sống văn hóa,

tinh thần và tôn giáo của người dân Việt, đi kèm với đó là sự phát triển của

nghệ thuật kiến trúc dân gian của người Việt.

Tại những ngôi chùa này, người dân vừa đi lễ Phật, lại lễ cả Mẫu và

Thánh, đó là sự kết hợp để hình thành nên Phật giáo dân gian, không còn

các triết lý xa vời khó hiểu, mà nó được dân gian hóa, ngày càng gần gũi

với quần chúng, mang nặng tư tưởng nhập thế.

Thạch Thất – Quốc Oai là hai huyện giáp với trung tâm kinh tế, chính

trị, văn hóa Thăng Long xưa, lại nằm trên nền văn hóa xứ Đoài, chính vì

vậy khu vực này cũng được tiếp nhận Phật giáo từ rất sớm. Phật giáo khu

vực này cũng từng ngày hòa nhập với các tín ngưỡng bản địa và phát triển

theo xu hướng chung của Phật giáo Việt Nam hiện nay, đó là xu hướng

dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Việc phát triển theo xu

hướng này giúp Phật giáo ngày càng gắn bó với người dân trong khu vực,

đồng thời ảnh hưởng tích cực lên đời sống nhân dân, giúp nâng cao tinh

thần đoàn kết, tạo tiềm lực cho sự phát triển về mọi mặt kinh tế, văn hóa,

chính trị, xã hội của khu vực này nói riêng và cả đất nước nói chung.

Vì vậy, việc nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng

dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa:

Chùa Thầy và Chùa Tây Phương sẽ giúp chúng ta hiểu rõ các nét văn hóa

được biểu hiện qua các nghi lễ, lễ hội hay các thần tích liên quan đến các

nhân vật được thờ cùng với Phật trong chùa. Đây cũng là nét độc đáo đặc

sắc riêng biệt của Phật giáo Việt Nam nói chung và khu vực Thạch Thất –

Quốc Oai nói riêng.

Chính vì lý do như vậy, tôi chọn đề tài: “Dung hợp giữa Phật giáo và

tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai

ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương” làm công trình nghiên cứu

6

của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề dung hợp, hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian

cũng đã được nhắc tới không ít ở một số bài viết, vì từ lâu, do đặc điểm

tâm thức của người nông dân Đồng bằng Bắc Bộ, hầu như ít tôn giáo, tín

ngưỡng nào có thể tồn tại độc lập, mà thường có sự hỗn dung với nhau. Sự

dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian được đa số các nhà

nghiên cứu đồng thuận và nó cũng được nhắc nhiều trong các bài viết của

họ, tuy nhiên để đặt thành một vấn đề được nghiên cứu độc lập và cụ thể

thì lại không nhiều.

Theo như những tài liệu được biết, tôi mới chỉ thấy được công trình

nghiên cứu của Tiến sĩ tôn giáo học Thích Đồng Bổn nghiên cứu về

“Những tập tục dân gian chịu ảnh hưởng Phật giáo Đại Thừa” là nghiên

cứu tập chung đối tượng là mối quan hệ giữa Phật giáo Đại thừa và những

tập tục (tuy nhiên chủ yếu là ở các vùng Nam Bộ). Trong một số bài viết

của Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Hà Văn Tấn, Nguyễn Quốc Tuấn…

đều có nhắc đến sự dung hợp này, như: “Qua bước đi của di tích Hà Nam

Ninh”; “Về một vài yếu tố mang tính triết học của kiến trúc cổ truyền

Việt”, hay “Phật giáo với văn hóa Việt Nam và Nhật Bản qua một cách

tham chiếu” của Nguyễn Thanh Tuấn cũng đã bước đầu phân tích sự kết

hợp này, nhưng chỉ dừng lại ở những phân tích sơ lược, rời rạc.

Một số tạp chí cũng có những bài viết về mối quan hệ này như: Báo

Phật Giáo online, Đạo Phật ngày nay, Tạp chí Triết học, Tạp chí Nghiên

cứu Phật học,… Có thể kể đến những bài viết như: “Tìm hiểu về Phật giáo

và tín ngưỡng dân gian”; “Đạo Phật Và Tín Ngưỡng Nhân Gian!”; “Tín

ngưỡng thờ Mẫu trong mối quan hệ với tín ngưỡng, tôn giáo khác”,…

Nhìn một cách tổng thể, nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đã chạm

đến các khía cạnh khác nhau của đề tài, song nghiên cứu về sự kết hợp

7

giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian biểu hiện qua những ngôi chùa còn

khá ít và thiếu tính hệ thống. Chưa có một công trình nghiên cứu nào

nghiên cứu một cách hệ thống mối quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín

ngưỡng dân gian thể hiện qua các ngôi chùa ở khu vực Thạch Thất – Quốc

Oai, để từ đó có được những đánh giá khách quan và khoa học về vai trò,

vị trí của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong đời sống văn hóa – xã hội

của người dân nơi đây. Đây cũng là mục đích chính mà khóa luận hướng

tới trong quá trình nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở trình bày một số nội dung lý luận về mối quan hệ giữa Phật

giáo và tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ, khóa luận tập trung

khảo sát và phân tích những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và

tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai

ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương. Từ đó chỉ ra vai trò và xu

hướng phát triển của mối quan hệ này.

 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Trình bày hệ thống lý luận về sự dung hợp giữa Phật giáo và tín

ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ

- Phân tích và chỉ ra những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và

tín ngưỡng dân gian tại hai ngôi chùa: Chùa Thầy và chùa Tây Phương.

- Đưa ra vai trò và xu hướng phát triển của sự dung hợp giữa Phật giáo

và tín ngưỡng dân gian.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tƣợng nghiên cứu

Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch

Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây

8

Phương.

 Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân

gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa:

Chùa Thầy và Chùa Tây Phương trên các lĩnh vực như: nghi lễ, kiến trúc

nghệ thuật,…

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

 Cơ sở lý luận:

Khóa luận dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử về tôn giáo và tín ngưỡng.

 Phương pháp nghiên cứu:

Khóa luận sử dụng một số phương pháp cơ bản của phép biện chứng

duy vật như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh; và một số

phương pháp của các khoa học khác như: điều tra, điền dã, khảo sát,…

6. Đóng góp của khóa luận

- Trình bày rõ một số nội dung lý luận của mối quan hệ giữa Phật giáo và

tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ.

- Chỉ ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực

Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện trong hai ngôi chùa: Chùa Thầy và

Chùa Tây Phương. Đưa ra một số vai trò chủ yếu và xu hướng phát

triển của mối quan hệ này đối với xã hội.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận

 Ý nghĩa lý luận

Khóa luận góp phần làm rõ hơn giá trị văn hóa và bản sắc riêng của

những ngôi chùa thông qua việc tìm hiểu sự dung hợp giữa Phật giáo và

tín ngưỡng dân gian, biểu hiện qua các lĩnh vực: nghi lễ, kiến trúc nghệ

9

thuật,… Kết quả của khóa luận đặt ra vấn đề mà các nhà quản lý văn hóa,

tôn giáo, tín ngưỡng cần quan tâm, đó là làm thế nào để bảo tồn và phát

huy những giá trị văn hóa lành mạnh của văn hóa Việt.

 Ý nghĩa thực tiễn

Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và

học tập về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian.

8. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung

10

chính của khóa luận được bố cục thành 2 chương và 8 tiết.

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT

GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

1.1. Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc

Bộ qua các giai đoạn lịch sử

Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam,

vì vậy nơi đây còn lưu giữ được tính chất thuần tuý của văn hoá Việt Nam.

Đồng bằng Bắc bộ cũng chính là nơi Phật giáo lần đầu tiên du nhập vào Việt

Nam. Người dân nơi đây xem Phật giáo vừa thiêng liêng vừa gần gũi với họ,

nên trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chùa chiền được xây dựng khắp

mọi nơi, hầu như không một làng quê nào lại không có chùa thờ Phật. Chính

vì vậy, Phật giáo ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng có những nét riêng của mình, và

một trong số đó là sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian nơi

đây.

Phật giáo truyền vào nước ta rất sớm, từ những năm đầu Công nguyên.

Tại Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) đã có một trung tâm Phật

giáo và Phật học khá phồn thịnh. Từ đó đến thế kỷ 10 chính là giai đoạn

truyền đạo của Phật giáo. Ban đầu là sự ảnh hưởng của các nhà sư Ấn Độ,

nhưng sau đó, sự ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Trung Quốc lại tăng lên,

các phái Thiền Trung Quốc dần du nhập vào Việt Nam.

Bắt đầu từ thế kỷ 10, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ sau

1000 năm Bắc thuộc đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Trong thời kỳ

này, các vị vua nhà Đinh, Tiền Lê đã có chính sách nâng đỡ Phật giáo. Những

bước đệm này đã giúp cho Phật giáo phát triển đỉnh cao ở thời Lý và thời

Trần với tinh thần tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo,

nhập thế hành đạo nên đã sản sinh ra những thiền sư luôn luôn hướng về cuộc

sống, hoà nhập với cuộc đời. Lúc này từ vua tôi đến quần chúng nhân dân đều

tôn sùng đạo Phật, tư tưởng Phật giáo được lấy làm hệ tư tưởng xã hội. Phật

11

giáo đã kết hợp với tín ngưỡng dân gian, với yếu tố thần thuật của Đạo giáo

pháp thuật nên mới có câu chuyện những thiền sư tiên đoán việc xã tắc như

Vạn Hạnh, dùng pháp thuật để chữa bệnh trừ tà, để giáng long phục hổ, hay

bay trên không, đi dưới nước như Nguyễn Minh Không; để trả thù cho cha,

hay để đầu thai như Từ Đạo Hạnh v.v…

Tại Đồng bằng Bắc Bộ, nhiều chùa tháp được xây dựng trong thời kỳ

này, tiêu biểu như: Chùa Một Cột, Chùa Thầy, Chùa Dạm, Chùa Lý Triều

Quốc Sư,… Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong thời kỳ

này cũng được biểu hiện rất rõ qua những ngôi chùa này.

Chùa Một Cột: tọa lạc tại số 1 phố chùa Một Cột, phường Đội Cấn,

Quận Ba Đình, Hà Nội. Trước kia đây là thôn Phụ Bảo, tổng Yên Thành,

huyện Vĩnh Thuận, đến giữa thế kỷ 19, thôn Phụ Bảo đổi tên là Thanh Bảo.

Chùa được xây dựng năm 1049 sau giấc mơ của Lý Thái Tông thấy Quan Thế

Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen, sau đó dắt vua lên tòa. Nhưng theo tấm bia dựng

năm Cảnh trị đời thứ 3 (1665), đời vua Lê Huyền Tông do Lê Tấn Đạt ghi thì:

“năm đầu niên hiệu Hàm Thông đời Đường (860) dựng một cột đá ở giữa hồ.

Trên cột xây một tòa lầu ngọc trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ

cúng… Khi triều Lý xây dựng kinh đô ở đây, do vua Lý chưa có con, đến đây

cầu nguyện thấy linh ứng, vua sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa

Một Cột để mở rộng việc thờ cúng làm sáng rõ sự tôn sùng…”(14, Tr.115).

Ngay trong sự tích về ngôi chùa này đã cho thấy sự ước vọng của người dân

Đông bằng Bắc Bộ luôn cầu mong một cuộc sống không ngừng sinh sôi nảy

nở, một cuộc sống được che chở bởi Phật Bà Quan Âm. Chùa Một Cột và

Phật Bà Quan Âm giống như hình ảnh biểu trưng cho nguyên lý Mẹ, cho tín

ngưỡng phồn thực, cho ước mơi sinh sôi này nở, luôn luôn no đủ, và cả cho

tinh thần cứu khổ cứu nạn của Phật giáo.

Chùa Dạm (hay còn gọi là chùa Rặn, thuộc xã Nam Sơn, huyện Quế

Võ, tỉnh Bắc Ninh) được vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) cho xây dựng vào

12

năm Quang Hựu thứ 2(1086). Đây là một ngôi chùa điển hình thể hiện sự hỗn

dung giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian của người Việt

ở Đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng trong thời kỳ này.

“Mười lăm trăng náu

Mười sáu trăng treo

Mười bẩy phẩy giường

Mười tám đóng cửa chùa Dạm.”

Những câu thơ lưu truyền kia đã nói lên sự bề thế của chùa Dạm, có

nghĩa là sau ngày Rằm người ta sẽ đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc

trăng lên cao mới đóng được hết tất cả các cửa chùa. Theo thuyết phong thủy,

chùa Dạm hội tụ đủ huyết mạch linh thông, chùa đặt ở sườn núi phía Nam của

dãy Lãm Sơn, chính giữa ngọn cao nhất, núi Rùa làm tiền án, ngòi Con Tên

làm minh đường, bên tả có Thanh Long, bên hữu có Bạch Hổ chầu về. Mối

quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại chùa Dạm không

chỉ thể hiện qua giáo lý của Phật giáo, mà còn thể hiện ước vọng sinh sôi nay

nở, mưa thuận gió hòa của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ.

Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian cũng được thể hiện

rõ ngay trong nguồn gốc ra đời và thần tích của chùa Lý Triều Quốc Sư, bộc

lộ ra truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo” của người Việt

ta. Chùa Lý Triều Quốc Sư tọa lạc tại số 50, phố Lý Triều Quốc Sư, quận

Hoàn Kiếm, Hà Nội (xưa thuộc thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ

Xương với tên gọi đền Lý Quốc Sư hay đền Tiên Thị). Nơi đây thờ thiền sư

Nguyễn Minh Không người đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông. Ông

được phong làm Quốc sư và được triều đình phong ấp ở làng Tiên Thị (nay là

Điềm Xá), huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Khi ông mất, dân làng lập đền

thờ gọi là "Lý Quốc Sư Tự". Năm 1932, thiền sư Nguyễn Văn Định trụ trì đã

13

bài trí thêm tượng Phật nên đền được gọi là chùa Lý Triều Quốc Sư.

Năm 11 tuổi, ngài xuất gia tu Phật cầu đạo với Thiền sư Từ Đạo Hạnh,

được khen tài giỏi, thông minh và được ấn chứng sau sẽ trở thành “Pháp khí”

trong Thiền môn, ban pháp danh Minh Không, đời thứ 13 dòng Tỳ Ni Đa Lưu

Chi. Qua thời gian dài theo thầy học đạo, chứng ngộ chân không Bát nhã,

ngài về trụ trì chùa Giao Thủy (Nam Định). Minh Không là bậc đại sư thông

tuệ Phật pháp được giới tăng ni ngưỡng vọng, cũng như được Quốc vương

kính trọng. Tương truyền lúc còn đang học đạo, Từ Đạo Hạnh hóa hổ để dọa

ngài, ngài bèn nói: “Nếu thầy muốn vậy, sau này chắc sẽ phải chịu quả báo

như thế”. Từ Đạo Hạnh hối hận: “Xưa kia Đức Thế Tôn đạo quả viên thành

còn chịu báo kim sương, mã mạch, huống chi ta sinh thời mạt pháp đâu có thể

tránh được, đời sau sẽ làm Quốc chủ và sẽ chịu báo này, ông với ta có nhân

duyên thầy trò, lúc đó sẽ cứu ta”(14, Tr.108). Sau khi Từ Đạo Hạnh hóa, đầu

thai làm vua Lý Thần Tông, lên ngôi chưa được bao lâu, tháng 3 năm 1136,

vua bị bệnh nặng, lông lá đầy mình, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài

giỏi được triệu đến đều không chữa khỏi. Chính Đại sư Minh Không là người

chữa khỏi được cho vua. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, vua Lý Thần

Tông phong ngài làm Quốc Sư. Trong Quốc sử còn chép: “Tục truyển khi sư

Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại

cho học trò là Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu

thấy Quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này”(14, Tr.110).

Ngày 1 tháng 8, niên hiệu Đại Định thứ 2, Tân Dậu (1141), sau khi phó chúc

môn đồ, Quốc sư an nhiên ngồi hóa tại chùa Giao Thủy, thọ 76 tuổi. Để ghi

nhớ công ơn, vua Lý Anh Tông và nhân dân đã lập đền thờ ngài tại đền Tiên

Thị (nguyên là Tịnh xá vua Lý Thần Tông ban cho ngài).

Thêm nữa, đó là hệ thống chùa thờ Tứ pháp tại vùng Dâu bao gồm:

chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi,

chùa Dàn thờ Pháp Điện và chùa Tổ thờ Man Nương – mẹ của Tứ Pháp. Với

14

sự tiếp nhận Phật giáo, những vị thần nông nghiệp như bà Dâu, bà Đậu, bà

Tướng, bà Dàn đã trở thành những vị Phật bà (Tứ pháp). Có thể thấy sự hình

thành và phát triển của hệ thống chùa Tứ pháp chính là sự dug hợp giữa Phật

giáo và tín ngưỡng dân gian khi trong chùa những vị thần có nguồn gốc tự

nhiên được đẩy lên trên hệ thống tượng Phật. Sự kết hợp này làm nên nét đặc

sắc của Phật giáo dân gian Đồng bằng Bắc Bộ.

Như vậy, qua một số chùa vừa kể trên cho thấy các ngôi chùa đều có

một đặc điểm chung là không chỉ thờ Phật mà còn thờ cả Thần. Sự dung hợp

giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian người Việt ở Đồng

bằng Bắc Bộ giống như một thể hòa quyện vào nhau, từ trong những lịch sử

hình thành, thần tích, huyền thoại của mỗi ngôi chùa, đến nề nếp lối sinh hoạt

tâm linh của người dân.

Cũng trong thời kỳ này, bản lĩnh độc lập tự cường kết hợp truyền thống

chống ngoại xâm, kể cả chống về mặt tư tưởng, cùng tính uyển chuyển, linh

hoạt của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ nên khi Phật giáo du nhập và

phát triển tại đây, đã phục vụ cho cái đạo yêu nước yêu dân của dân tộc, phục

vụ những yêu cầu cuộc sống của dân tộc. Với tinh thần phá chấp triệt để và

khả năng dung hợp rộng mở, với tính phóng khoáng và dân chủ của mình,

Phật giáo Thiền tông đã bắt gặp tinh thần bình đ ng, dân chủ, lòng nhân ái

của người dân ở đây nên nó đã dễ dàng hòa hợp và bắt rễ nhanh chóng, đã ảnh

hưởng sâu rộng trong đời sống con người.

Khoảng từ thế kỷ 14, Phật giáo bắt đầu bước vào giai đoạn suy thoái do

nhiều nguyên nhân khác nhau: tầng lớp quý tộc nhà Trần ủng hộ Phật giáo

mạnh mẽ đang dần mất đi uy lực về chính trị và kinh tế bởi chế độ sở hữu

ruộng đất kiểu điền trang thái ấp khá phổ biến đã bắt đầu tan rã. Trong khi đó,

Nho giáo với chế độ thi cử đang dần chiếm thế thượng phong. Các quan lại

xuất thân từ Nho giáo đang dần nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy

nhà nước. Mặt khác, lúc này số lượng người xuất gia đã quá đông, lượng tăng

15

đồ trong các chùa rất lớn, điều này dẫn đến sự nảy sinh những vấn đề tiêu cực

tại cửa chùa, ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Đến thế kỷ 15, Phật giáo càng bị

hạn chế nặng nề, chùa quán bị cấm xây thêm, mất đi vai trò đối với tầng lớp

thống trị và chỉ còn những ảnh hưởng nhất định trong dân gian. Điều này

cũng một phần thúc đẩy Phật giáo đến sự hỗn dung với tín ngưỡng dân gian

để có thể tiếp tục phát triển và lan rộng trong quần chúng nhân dân.

Sang giai đoạn từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, đây là thời kỳ Phật giáo dần

như “sống lại” và phát triển mạnh mẽ. Sau khi nhà Mạc soán ngôi nhà Lê,

chiến tranh xảy ra liên miên làm cho đời sống nhân dân lầm than, khốn khổ,

chính quyền suy yếu, Nho sỹ suy thoái khiến niềm tin của các nhà tri thức,

nhà chính trị vào Nho giáo ngày càng lung lay, thì lúc này, Phật giáo vốn tiềm

tàng trong giới bình dân lại có chiều hướng phất lên. Ngoài ra, cảnh chiến

tranh loạn lạc với sự thống khổ triền miên cùng những nỗi oan trái đã khiến

con người tìm đến với tư tưởng và tình cảm của đạo Phật: “trong đau khổ

cùng cực, người ta lại quay trở về với đạo Phật – một đạo lấy đức từ bi làm

gốc và kỹ thuật trị thế chỉ là thứ yếu”(12). Kết quả là trong vùng Đồng bằng

Bắc Bộ, các ngôi chùa cũ được trùng tu, mở rộng và các chùa mới được xây

dựng khá nhiều mang nhiều nét đặc trưng của Phật giáo thời kỳ này. Có

những ngôi chùa giữ được nét kiến trúc tiêu biểu của thời kỳ này cho đến tận

ngày nay.

Dưới triều Nguyễn, Phật giáo phát triển khá mạnh mẽ dưới sự quan tâm

của triều đình, tuy nhiên từ giữa thế kỷ 19, Pháp xâm lược Việt Nam và đã có

những chính sách khai thác thuộc địa đã tác động không nhỏ đến Phật giáo.

Đến những năm đầu thế kỷ 20, phòng trào Chấn hưng Phật giáo diễn ra đã tạo

điều kiện cho Phật giáo trở mình, đánh dấu bằng sự ra đời của các tổ chức

giáo hội Phật giáo. Khi đất nước bị chia cắt trong hai cuộc kháng chiến chống

Pháp và Mỹ, Phật giáo đã kết hợp cùng các tín ngưỡng dân gian, với các giá

16

trị tốt đẹp của mình, lan tỏa trong đời sống nhân dân, góp không ít sức người

sức của vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều này đã thể hiện chủ

trương hòa bình, “Phật pháp bất ly thế gian” của đạo Phật.

Phật giáo sau ngày giải phóng đất nước thì cũng được thống nhất bởi sự

ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Với hệ thống quản lý quy mô, hiện

đại, đến nay Phật giáo đã có những bước đi lên mạnh mẽ, dần phát triển theo

xu hướng kết hợp cùng tín ngưỡng dân gian.

1.2. Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch

Thất – Quốc Oai

1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai

 Quá trình phát triển của Phật giáo tại Thạch Thất – Quốc Oai

Thạch Thất và Quốc Oai là hai huyện nằm ở phía Tây trung tâm thành phố

Hà Nội. Đây là hai huyện có địa hình trải rộng, thuận lợi để phát triển kinh tế

nông nghiệp, công nghiệp, du lịch văn hóa và các ngành nghề thủ công. Đi

cùng với sự phát triển của Phật giáo cả nước nói chung, thì Phật giáo tại hai

huyện Thạch Thất và Quốc Oai cũng phát triển và có ảnh hưởng tích cực đến

đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân tại đây.

Thạch Thất - Quốc Oai thuộc vùng đất xứ Đoài, cùng với các huyện khác

của xứ Đoài, những trung tâm Phật giáo nơi đây được hình thành từ thời Lý

với những ngôi chùa nổi tiếng như: chùa Tây Phương, chùa Trăm Gian, Chùa

Bối Khê, chùa Thầy. Trong đó chùa Thầy và chùa Tây Phương là hai ngôi

chùa nổi tiếng, được nhiều người biết đến, và cũng là hai ngôi chùa chiếm

một vị trí quan trọng, làm nên nét đặc trưng riêng của Phật giáo khu vực

Thạch Thất - Quốc Oai, cũng như Phật giáo xứ Đoài.

Chùa Thầy là một ngôi chùa nằm tại chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai,

tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội), cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km về

phía Tây Nam. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa có tên gọi là chùa

17

Thầy. Chùa Thầy là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội, ngôi

chùa gắn liền với quãng đời sau cùng và thoát xác của vị Thiền sư nổi tiếng

thế hệ thứ 12 của dòng Thiền Tì ni đa lưu chi, Thiền sư Từ Đạo Hạnh.

Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý (có tài liệu cho rằng chùa được xây

dựng vào thời Đinh). Nơi đây từng là nơi tu hành của thiền sư Từ Đạo Hạnh,

khi ấy, núi Thầy còn được gọi là núi Phật Tích. Chùa đã qua nhiều lần trùng

tu. Ban đầu, chùa Thầy chỉ là một am nhỏ, gọi là Hương Hải am, sau đó vua

Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại, gồm hai cụm chùa: chùa Cao( đỉnh Sơn

Tự) ở trên núi, và chùa Dưới( gọi là chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Vào

thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng

điện Phật, điện Thánh, sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Xét về phong

thủy, chùa được xây trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là

ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt

về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ nước

rộng mang tên Long Chiểu hoặc Long Trì, giữa hồ có một thủy đình nhỏ

vuông vắn, thường được dùng làm nơi múa rối nước (Từ Đạo Hạnh được cho

là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này). Hai bên chùa có hai chiếc cầu

có mái, do Hoàng giáp Phùng Khắc Khoan(1528-1613) xây dựng vào năm

1602. Cầu Nhật Tiên ở bên trái, nối vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ

giữa hồ. Bên phải là cầu Nguyệt Tiên, dẫn vào con đường lên núi.

Chùa Thầy gồm ba tòa nhà dài nằm song song với nhau. Tòa nhà ngoài

cùng gọi là nhà tiền tế hay còn gọi là chùa Hạ thờ các tượng Đức Ông, Thánh

Hiền, xung quanh để thờ các tượng Bát bộ Kim Cương. Tòa giữa là Trung

điện hay gọi là chùa Trung, thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp và Thiên

vương. Tòa trong cùng là Thượng điện hay gọi là chùa Thượng, thờ tượng Di

Đà tam tôn, tượng Thích ca, tượng các hóa thân của vị Thiền sư Từ Đạo

Hạnh. Gian giữa Thượng điện có một bệ đá hình chữ nhật, phần trên chạm

hình những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình

18

thần điểu Garuda. Đây là loại bệ đá xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIV. Ngay trước

bệ đá này là tượng Từ Đạo Hạnh khi đã đắc đạo, đội mũ hoa sen, tay chắp

trước ngực, khoác áo vàng, đặt trên một bệ tượng bằng đá thời Lý, có hình sư

tử đội tòa sen. Đây là di vật thời Lý duy nhất còn lại ở chùa Thầy. Bên trái là

tượng Từ Đạo Hạnh đặt trong khám. Tượng bằng gỗ, có khớp và có thể cử

động được (tuy nhiên hiện tại hệ thống khớp điện tự động đã bị tháo đi) và

được đặt trên ngai vàng, phía sau có chữ ghi năm Thiệu Phong thứ 6 đời Trần

Dụ Tông (1346). Bên phải là tượng của Lý Thần Tông, được coi là hậu thân

của Từ Đạo Hạnh.

Hai bên chùa là hành lang dài, phía sau là gác chuông và gác trống, tương

truyền do bà Chúa Chè Tuyên Phi Đặng Thị Huệ xin với Chúa Tĩnh đô vương

Trịnh Sâm xây dựng khi về thăm chùa. Qua cầu Nguyệt Tiên có con đường

bậc đá đi lên núi, tại đây có khắc bài thơ của Trịnh Căn (1682-1709) "như

viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động

trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến

siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải

lụa". Lên trên núi là chùa Cao, tương truyền rằng đây là nơi Thiền sư Từ Đạo

Hạnh đến tu đầu tiên. Sau chùa là hang “Thánh Hóa”, tương truyền đây là nơi

mà Thiền sư Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai thành vua Lý Thần Tông. Từ

chùa Cao đi vòng ra phía sau, đi theo lối mòn ở ven núi sẽ đến được hang Cắc

Cớ, xưa kia trai gái thường rủ nhau đến chơi ngày hội. Từ hang Cắc Cớ ngược

lên, đến đền Thượng. Cách một đoạn, đến hang Gió, ở đây gió thường xuyên

thổi mạnh qua hai cửa hang, ở chân núi phía tây có chùa Bối Am, còn gọi là

chùa Một Mái, chùa có tên như vậy vì chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa

vào vách núi. Có thể thấy, quanh núi Thầy, không phải chỉ có chùa Thầy,

thường được gọi là chùa Cả ở chân núi, mà có cả một cụm kiến trúc Phật giáo

được xây dựng trong những thời kỳ khác nhau.

Chùa Tây Phương, có tên chữ là Sùng Phúc Tự, được dựng trên một

19

ngọn núi tên là Tây Phương( xưa núi này có tên là Câu Lậu). Đây là một ngọn

núi cao khoảng 50m, nằm tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội (xưa là

Hà Tây), cách trung tâm Hà Nội khoảng 40km về phía Tây.

Chùa Tây Phương được xây dựng vào khoảng thế kỷ 8 và là chùa cổ

thứ 2 ở nước ta, sau chùa Dâu ở Bắc Ninh, và đã trải qua nhiều lần trùng tu.

Tuy nhiên, có một số thông tin cho rằng được xây dựng từ thời nhà Mạc,

nhưng lại không chứng minh. Tuy nhiên mốc thời gian này cũng có thể tin

được, vì đầu thế kỷ 17, vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, và hơn

nữa trong chùa còn có hai tấm bia đều bị mờ chữ nhưng còn đọc được rõ tên

bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi, còn mặt

trong áp vào tường hồi tòa chùa giữa nên không đọc được, các hoa văn trang

trí cũng thuộc cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17.

Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng Thượng điện 3 gian

và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657 – 1682, Tây

Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá bỏ chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan.

Đến năm 1794 dưới thời Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với cái tên

“Tây Phương cổ tự” với diện mạo còn đến tận bây giờ.

Từ dưới chân núi, leo qua 237 bậc đá ong thì đến cửa chùa. Chùa có ba

nếp nhà song song gồm: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp nhà có

hai tầng mái kiểu chồng diêm với các đầu đao cong vút lên. Đặc biệt, chùa

Tây Phương có hệ thống tượng gồm 64 pho tượng cùng với các phù điêu có

mặt tại mọi nơi. Các pho tượng đều được tạc bằng gỗ mít và được sơn son

thếp vàng. Mỗi pho tượng là một tác phẩm riêng biệt, vừa hiện thực, vừa giàu

tính nghệ thuật. Các pho tượng được chạm khắc với nhiều hình dáng và biểu

cảm đa dạng, tinh tế khác nhau. Những người thợ mộc của làng nghề mộc

truyền thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ

20

thuật Việt Nam.

Chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu

cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). . Chùa Tây Phương được

công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt và bộ tượng Phật giáo thời Tây Sơn tại

chùa được công nhận là Bảo vật Quốc gia.

Người có công lan tỏa Phật giáo tại xứ Đoài nói chung hay khu vực

Thạch Thất - Quốc Oai nói riêng, không ai khác chính là vị Thiền sư nổi tiếng

Từ Đạo Hạnh.

Thân thế và hành trạng của Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã được nhiều

thư tịch ghi chép lại, như: Thiền Uyển tập anh, Đại Việt sử lược, Lĩnh Nam

chích quái. Tuy mỗi thư tịch lại có những tình tiết ghi chép khác nhau, nhưng

tựu chung lại thì thân thế và hành trạng của Thiền sư đã khá rõ ràng. Thiền sư

họ Từ, tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, ở chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích. Cha ông là

quan Đô sát Từ Vinh, mẹ ông là Tăng Thị Loan. Do cha ông – Từ Vinh bị

giết bởi một pháp sư tên Đại Điên. Từ đó Từ Đạo Hành đã có ý đi sang Tây

Thiên tu luyện phép thuật để về giết Đại Điên, trả thù cho cha. Nhưng đi được

nửa đường, Ngài quay lại và chọn núi Sài Sơn, Chùa Phật Tích làm nơi tu

hành. Ngài chuyên trì kinh "Đại Bi Tâm Đà La Ni" của đức Quán thế Âm tới

khi cảm ứng, có vị thần tự xưng Trấn Thiên vương hiện lên và xin làm đệ tử

để cho ngài sai khiến. Sau đó ngài dùng gậy đánh chết Đại Điên.

Đại Điên cũng là người tu hành nên sau đó đã tái sinh thành đứa trẻ, tuy

mới 3 tuổi nhưng cái gì cũng biết, tự xưng là Giác Hoàng. Lúc ấy, vua Lý

Nhân Tông biết chuyện kỳ lạ bèn đón về Kinh Sư và cho nó ở chùa Báo

Thiên. Vua muốn nhận đứa trẻ làm con nhưng quần thần và dân chúng không

nghe, nên vua bèn lập đàn cầu nguyện pháp hội kéo dài 7 ngày, nhằm để đứa

trẻ linh dị này đầu thai vào trở lại vào nơi cấm cung. Từ Đạo Hạnh biết đứa

trẻ là do Đại Điên đầu thai vào để mê hoặc dân chúng, làm nhiễu loạn chính

21

pháp, nên đã nhờ người chị của mình mang lá bùa, giả làm người chơi hội rồi

treo ở tấm rèm nơi đứa bé ở. Tới ngày thứ 3, đứa trẻ này ốm và chết. Lý Nhân

Tông truy ra và bắt Từ Đạo Hạnh đem về giam tại Hưng thánh lâu.

Từ Đạo Hạnh xin với em vua là Sùng Hiền Hầu cứu thoát và hứa là

kiếp sau sẽ đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu để trả ơn. Tuy nhiên, phải

báo cho Ngài biết trước khi vợ của Sùng Hiền Hầu sắp sinh.

Sau này, khi vợ Sùng Hiền Hầu trở dạ mãi không sinh, liền báo cho Từ

Đạo Hạnh. Ngài nhận tin, liền tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, vào hang trút

xác mà qua đời. Ngài đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu. Do vua Lý Nhân

Tông không có con, truyền ngôi cho con của Sùng Hiền Hầu là Lý Dương

Hoán, người này chính là Từ Đạo Hạnh đầu thai, tức vua Lý Thần Tông.

Tại huyện Thạch Thất (2017) có tổng cộng 70 ngôi chùa, 40 vị Tăng

ni. Trong đó có 12 ngôi chùa được xếp hạng cấp Quốc gia, 19 ngôi chùa được

xếp hạng cấp Thành phố. Trong số các chùa tại Thạch Thất thì ngôi chùa nổi

tiếng nhất là chùa Tây Phương được xây dựng với lối kiến trúc hình chữ Tam

và những hoa văn tuyệt mỹ được xếp vào bậc nhất nước ta hiện nay.

Tại huyện Quốc Oai (2017) có tổng cộng 73 ngôi chùa, 81 vị Tăng ni,

với 34 chùa có sư trụ trì và 19 chùa chưa có sư trụ trì. Trong số các chùa tại

Quốc Oai thì ngôi chùa nổi tiếng nhất là chùa Thầy với tuổi đời lâu năm và

gắn với quãng đời sau cùng và thoát xác của Thiền sư Từ Đạo Hạnh.

Với số lượng chùa và số lượng Tăng ni, trụ trì như vậy có thể thấy được

tình trạng rằng Phật giáo trong khu vực hai huyện này còn gặp nhiều khó

khăn khi mà địa bàn thì rộng, nhân sự lại ít. Từ đó dẫn đến việc quản lý Tăng

ni – tự viện, Hoằng pháp hay phục vụ tín ngưỡng cho nhân dân còn gặp khó

khăn hơn rất nhiều.

Tuy nhiên, với sự nỗ lực của Ban trị sự Phật giáo thì Phật giáo trên cả

22

hai huyện đều đang không ngừng phát triển, hoàn thành xuất sắc các nhiệm

vụ được giao. Đặc biệt, với công tác giáo dục Tăng ni thì hiện trên địa bàn hai

huyện đã và đang có được lớp Tăng ni trẻ với trình độ chuyên sâu về Phật học

và thế học, tiếp cận được thời kỳ hội nhập của đất nước. Trong tương lai sẽ là

lớp đưa Phật giáo trong khu vực ngày càng cắm sâu rễ trong đời sống nhân

dân, từ đó phát triển đi lên.

Về việc xây dựng, trùng tu và bảo tồn, thì các chùa trong khu vực đã

được xây dựng, kiến thiết ngày càng trang nghiêm để phục vụ cho nhu cầu

giữ gìn, phát triển Phật giáo cũng như nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người

dân tại đây. Ví dụ như: chùa Thầy, chùa Long Đẩu, chùa Phúc Đức, chùa Cực

Lạc, chùa Am Thanh, chùa Hưng Sơn, Chùa Kim Quan, chùa Báo Ân,... với

kinh phí hàng trăm tỷ đồng.

Như vậy, Phật giáo khu vực này nhờ sự quan tâm của các cấp, chính

quyền cùng sự ủng hộ của quần chúng nhân dân nên ngày càng phát triển, và

có những ảnh hưởng tích cực đến đời sống văn hóa tâm linh của người dân

nơi đây.

 Đặc điểm Phật giáo khu vực Thạch Thất, Quốc Oai

Với vị trí địa lý đặc biệt, 2 huyện Thạch Thất - Quốc Oai thuộc trấn Đoài

xưa, một trong tứ trấn của Thăng Long, nên khu vực này cũng được tiếp nhận

sớm nền Phật giáo khi mà Phật giáo du nhập, hình thành và phát triển tại phía

Bắc nước ta. Tuy gần sát Thăng Long – Hà Nội - một trung tâm, đô thị nổi bật

trong lịch sử Việt Nam, nhưng dân cư trong khu vực này vẫn gắn bó với làng

quê của mình, vẫn xây dựng đình, chùa, cổng làng, vẫn giữ nét văn hóa làng

xã. Chính văn hóa làng xã của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước là mảnh đất

màu mỡ cho giáo lý của Phật giáo du nhập và bén rễ.

Kể từ khi Phật giáo được xem là Quốc giáo trong triều đại Lý – Trần,

23

thì Phật giáo nơi đây cũng phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng đến đời

sống nhân dân. Đây cũng là thời kỳ chùa chiền được xây dựng rất rầm rộ với

quy mô rộng lớn.

Do điều kiện hình thành và phát triển, Phật giáo tại khu vực này có ba

đặc điểm chính, đó là: Tính tổng hợp, Tính hài hòa âm dương, Tính linh họat.

Thứ nhất, Tính tổng hợp:

Cho đến nay, Phật giáo ở khu vực hai huyện này vẫn mang tính cổ

truyền, là sự tổng hợp giữa Phật giáo và các giáo phái khác, là kết quả của sự

dung hợp giữa cái “hữu nghĩa” của đạo Nho, cái “vô ngã” của đạo Phật, cái

“vô vi” của đạo Lão, và cái “phồn thực” và lòng trắc ẩn của đạo Mẫu.

Phật giáo nơi này còn có sự tổng hợp giữa các tông phái với nhau. Nổi

bật nhất có thể thấy là dòng Tỳ ni đa Lưu chi được pha trộn với Mật tông. Ví

dụ như Thiền sư Từ Đạo Hạnh rất giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến

hóa. Hay là sự kết hợp giữa Thiền tông và Tịnh độ tông khi tụng niệm Phật A

Di Đà và Bồ Tát. Ở các ngôi chùa trong khu vực này có thể thấy được trên

các điện thờ rất phong phú bởi có sự xuất hiện của các loại tượng Phật, Bồ

tát, La hán của các tông phái khác nhau. Hay trang phục của các sư, các Phật

tử, bên cạnh việc mặc áo vàng còn có áo nâu, áo lam.

Ngoài ra, Phật giáo còn có sự tổng hợp với Tín ngưỡng dân gian. Phật

giáo là thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng dân gian nơi đây là thờ Thần trong

miếu và thờ Mẫu trong phủ. Bốn vị Thần được thờ nhiều nhất đó là Tứ pháp:

Mây, mưa, sấm chớp. Và do đặc tính tổng hợp này nên bốn vị thần đã được

Phật hóa. Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật

Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện. Các hệ thống thờ phụ này tổng

hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu

Mẫu". Người dân nơi đây đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa,

anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát

24

nhang cho các linh hồn đã khuất.

Thứ hai, Tính hài hòa âm dƣơng:

Sự hài hòa âm dương là một trong những đặc tính của lối tư duy nông

nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo

khu vực này nói riêng, làm cho Phật giáo hơi thiên về phần nữ tính.

Các vị Phật trong Phật giáo nguyên thủy đều xuất thân là nam giới.

Nhưng ở Việt Nam lại xuất hiện cả Phật ông và Phật bà. Ví dụ như: Phật bà

Quan thế âm bồ tát, Man Nương Phật Mẫu(Phật mẫu), Quan Âm Thị

Kính(Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện(Phật bà chùa Hương, Bà

chúa Ba).

Sự hài hòa âm dương này còn được thể hiện trong kiến trúc của các

ngôi chùa trong khu vực này.

Thứ ba, đó là tính linh hoạt:

Cũng giống như Phật giáo Việt Nam nói chung, Phật giáo trong khu

vực này cũng rất linh hoạt. Chính vì vậy, nó mới dễ dàng xâm nhập, cắm rễ

để tồn tại và phát triển trong cộng đồng người dân nơi đây.

Tính linh hoạt này thường được nhà Phật gọi là "tùy duyên bất biến;

bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể

mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau, tuy nhiên

vẫn không được rời xa giáo lý nhà Phật. Ví dụ như các vị bồ tát, vị hòa

thượng đều được gọi chung là Phật. Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp

hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc

(chỉ Thích Ca Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc

đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

Trên đây là ba đặc điểm chính của Phật giáo tại khu vực hai huyện

Thạch Thất, Quốc Oai. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng, Phật giáo nơi đây

25

đã cùng phát triển với Phật giáo cả nước, tuy có những đặc điểm riêng biệt để

thích nghi và tồn tại cùng cộng đồng nhân dân nơi đây, nhưng những đặc

điểm đó không hề rời xa mà vẫn nghiêm ngặt chấp hành các giáo lý của nhà

Phật.

1.2.2. Tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai

 Cơ sở hình thành tín ngưỡng dân gian

Con người, ngoài những nhu cầu về đời sống vật chất thì cũng còn có nhu

cầu cấp thiết về đời sống tinh thần. Đây là nhu cầu cần phải có trong quá trình

phát triển sự sống của con người. Trong những buổi đầu sơ khai, con người

chưa hiểu biết nhiều dẫn đến sự khó lý giải về các hiện tượng thiên nhiên và

xã hội, do vậy con người dần đi đến sự sợ hãi và lệ thuộc vào các yếu tố tự

nhiên. Điều này khiến họ xây dựng nên những thần linh để cúng bái, cầu

mong sự che chở, bảo vệ và giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn và bất trắc

trong cuộc sống. Từ đó, tín ngưỡng dân gian hình thành và phát triển.

Ngoài ra, trong công cuộc dựng nước và giữ nước, đã có những con

người có công với đất nước nên việc thờ cúng thể hiện lòng biết ơn của thế hệ

đi sau đối với những người này cũng là một hình thức tín ngưỡng nữa làm

phong phú thêm các hình thức của tín ngưỡng dân gian.

Như vậy, cơ sở hình thành tín ngưỡng dân gian tại Việt Nam nói chung

chính là dựa trên niềm tin vào một thứ gì đó bảo vệ cuộc sống của con người,

mong muốn được yên lành, ngoài ra nó còn như một yếu tố bảo trợ cho việc

sản xuất của con người, mong muốn mùa màng được bội thu, đồng thời cũng

là một bức tường vững trãi mà người ta dựa vào đó để răn dạy, giáo huấn đạo

đức, luân lý. Chính niềm tin vào sự nhiệm màu của thần thánh, vào sự tốt đẹp

tuyệt đối mà không thể thấy ở cuộc sống thực tại đã giúp con người có được ý

chí và niềm tin để vượt qua mọi khó khăn gặp phải trong cuộc sống. Điều này

cho thấy được ý nghĩa về mặt đạo đức, chứ không phải chỉ mà sự mê tín của

26

các tín ngưỡng dân gian.

Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử xã hội, ra đời, tồn tại và phát triển

gắn liền với lịch sử phát triển của nhân loại.

Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen: Tín ngưỡng là một yếu tố của

đời sống xã hội, hơn nữa là sản phẩm của lịch sử xã hội do con người sáng tạo

ra. Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và

chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào

sự tồn tại và sự cứu giúp của một thực thể siêu nhiên nào đó được thể hiện

qua hệ thống lễ nghi.

Xét về phương diện từ nguyên, thứ nhất, tín ngưỡng là “Lòng ngưỡng mộ

mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa”(1, Tr.283) - theo Từ điển

Hán- Việt của học giả Đào Duy Anh. Thứ hai, trong quyển Từ điển Tiếng

Việt do Văn Tân (chủ biên), tín ngưỡng nghĩa là: “Tin tưởng vào một tôn

giáo: Tự do tín ngưỡng”(19, Tr.1209). Như vậy, ở nghĩa từ nguyên, tín

ngưỡng chính là niềm tin tôn giáo ở mỗi con người. Có thể thấy rằng không

thể tách rời tôn giáo và tín ngưỡng với nhau. Tín ngưỡng được hiểu nôm na

theo dân gian là đức tin hay niềm tin và sự ngưỡng mộ. Còn trong khoa học

với các văn bản pháp quy thì tín ngưỡng được hiểu là niềm tin hay đức tin tôn

giáo.

Trong quá trình tồn tại và phát triển mình, con người đã sáng tạo ra nhiều

tín ngưỡng khác nhau, đồng thời cũng xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau

về tín ngưỡng. Tuy nhiên, một trong những quan điểm cụ thể và tổng hợp

được nhất đó là: “Tín ngưỡng là một biểu hiện của ý thức về một hiện tượng

thiêng, một sức mạnh thiêng do con người tưởng tượng ra hoặc do con người

suy tôn, gán cho một hiện tượng, một sức mạnh chỉ cảm thụ được mà chưa

nhận thức được. Tín ngưỡng là một sản phẩm văn hóa của con người được

hình thành tự phát trong mối quan hệ của con người với chính mình, với

người khác và với giới tự nhiên”(17, Tr.7). Theo Từ điển Tôn giáo: “Tín

27

ngưỡng là lòng tin và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu

nhiên, thần bí; lực lượng siêu nhiên có thể mang hình thức biểu tượng là

“Trời”, “Phật”, “Chúa”, “Thánh”, “Thần”, hay một sức mạnh hư ảo, huyền bí,

vô hình nào đó tác động đến đời sống tâm linh của người ta, được con người

tin là có thật và tôn thờ”(7, Tr.634-635).

Như vậy, tín ngưỡng là một hình thái biểu thị đức tin, niềm tin của con

người và của cộng đồng người ở một trình độ phát triển xã hội và nhận thức

nhất định vào một đối tượng thiêng liêng, cái cao cả, cái đáng sùng kính trong

thế giới người hoặc thế giới siêu nhiên nào đó. Tín ngưỡng như một hệ thống

niềm tin mà con người tin vào để giải thích những điều họ chưa lý giải được,

thông qua đó tạo ra sự an ủi và cảm giác yên tâm cho chính bản thân họ. Và

tín ngưỡng là một hình thức biểu hiện của văn hóa.

Về mối quan hệ giữa tín ngưỡng và tôn giao, có rất nhiều ý kiến khác

nhau. Có quan điểm cho rằng: tín ngưỡng và tôn giáo là một và đều gọi chung

là tôn giáo. Lại có những quan điểm cho rằng tín ngưỡng và tôn giáo là hai

hiện tượng riêng biệt. Tín ngưỡng có trước và là nền tảng để hình thành tôn

giáo, nói cách khác, tôn giáo là sự phát triển của tín ngưỡng mà thành. Sự

khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng được thể hiện ở một số điểm như: tôn

giáo có hệ thống giáo lý, kinh điển,… được truyền thụ và giảng dạy bài bản,

có tổ chức giáo hội, hội đoàn quy củ, có nơi thờ cúng riêng như nhà thờ, chùa

hay thánh đường, nghi lễ thờ cúng chặt chẽ. Còn tín ngưỡng mới chỉ dừng lại

ở sự sùng bái tự do, nó nằm trong tâm thức mỗi con người và được biểu hiện

qua sự sinh họat về phong tục tập quán, vì vậy nên nó chưa có giáo lý quy củ,

mà mới chỉ là các truyện cổ, truyền thuyết, thần tích. Tín ngưỡng mang tính

bản địa, gắn liền với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa

nhập giữa thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, không

cố định.

Như vậy, tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt tinh thần, ra đời

28

và phát triển cùng với đời sống con người từ thuở sơ khai. Với quan niệm cho

rằng bất kỳ vật gì cũng có linh tính nên con người đã thờ rất nhiều thần linh,

đặc biệt là cư dân nông nghiệp, thờ các sự vật như: mặt trăng, mặt trời, đất,

rừng, sông, núi, mưa, gió, sấm, chớp, mây,…

Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng được hình

thành từ lâu đời trong đời sống của người dân Việt Nam, mỗi dân tộc, vùng

miền lại có cho mình một tín ngưỡng riêng gắn với đời sống vật chất và tinh

thần của mình.

Tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất, Quốc Oai cũng được hình

thành trải qua nhiều thời đại. Địa hình, cũng như khí hậu tại khu vực này tạo

điều kiện cho thiên nhiên phát triển phong phú, đa dạng. Từ những ngày khai

hoang lập nên thôn làng, người dân nơi đây đã sống dựa vào khai thác thiên

nhiên, sau đó là sống dựa vào nên văn minh lúa nước đến tận bây giờ, phải

phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, điều này dẫn đến người dân nơi đây đã hình

thành tín ngưỡng thờ các vị thần tự nhiên. Hơn nữa, khu vực này nằm sát

sườn phía Tây kinh thành Thăng Long xưa, nơi hội tụ, giao lưu văn hóa của

nhiều tộc người, nhiều luồng văn minh. Chính vì vậy, nơi đây đã dần hình

thành đa tôn giáo, đa tín ngưỡng.

Các tín ngưỡng chủ yếu được hình thành, tồn tại và phát triển tại khu vực

này bao gồm:

 Tín ngƣỡng phồn thực

Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng

nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở.

Những trí tuệ sắc sảo thì tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ

xây dựng nên triết lý âm dương, còn những trí tuệ bình dân thì nhìn thấy ở

thực tiễn đó một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà họ sùng bái nó như thần

thánh và xây dựng nên tín ngưỡng phồn thực (phồn: nhiều, thực: nảy nở). Sự

29

khát vọng con đàn cháu đống và mùa màng bội thu là mong muốn mà người

nông dân khao khát nhất. Tín ngưỡng phồn thực từng tồn tại suốt chiều dài

lịch sử, được thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ và

thờ hành vi giao phối.

Phồn thực hay còn gọi là tín ngưỡng phồn thực, văn hóa phồn thực thật ra

là 1 văn hóa tôn thờ hành vi giao phối và bộ phận sinh dục. Đây là 1 nét văn

hóa , nó không phải là 1 tôn giáo . Nó là 1 nét văn hóa đặc trưng của không

những người Việt Nam mà còn rất nhiều nước trên thế giới. Tín ngưỡng

phồn thực gồm các loại: thờ sinh thực khí (Linga – nõ và Yoni – nường) và

thờ hành vi giao phối (múa tùng – dí hay linh tinh tình – phộc). Đây là một

loại hình tín ngưỡng cổ xuất hiện lâu đời trong đời sống con người, từ khi con

người chưa hiểu đến khi hiểu rõ về nguyên nhân sinh sản của muôn vật và

loại người, chính là sự kết hợp giữa âm – dương, đực – cái, nam -nữ,… Sự

sinh sản ấy khiến cuộc sống no đủ, tươi đẹp hơn, chính vì vậy nó trở nên linh

thiêng và trở thành một hiện tượng mà con người sùng bái.

Các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy tại khu di chỉ Văn Điển (Hà

Nội) tượng đá người đàn ông với bộ phận sinh dục được phóng to lên có niên

đại gần 4000 năm. Hay là tượng nam nữ với bộ phận sinh dục to hơn bình

thường được tìm thấy tại các nhà mồ ở Tây Nguyên. Việc thờ sinh thực khí

còn thể hiện ở việc thờ các loại cột (cột đá tự nhiên hoặc là được tạc ra, thể

hiện tính dương) và các loại hốc (hốc cây, hốc đá, các kẽ nứt, thể hiện tính

âm). Như ở chùa Dạm – Bắc Ninh có một cột đá hình sinh thực khí nam – có

khắc đôi rồng thời Lý, hay ngư dân Khánh Hòa có tục thờ kẽ nứt trên một

tảng đá gọi là lỗ Lường, và vị nữ thần ngự ở đây là Bà Lường. Và trên nắp

thạp đồng tìm được ở Đào Thịnh( Yên Bái), xung quanh hình mặt trời và các

tia sáng là tượng bốn đôi nam nữ đang giao hợp,… Đặc biệt phải kể đến trống

đồng – biểu tượng quan trọng nhất của tín ngưỡng phồn thực, hình dáng trống

là sự phát triển của chiếc cối giã gạo, cách đánh trống là mô tả động tác giã

30

gạo, cũng là động tác giao phối, hoa văn trên trống có hình mặt trời với các tia

sáng, hình lá, những biểu tượng về động vật hay mùa màng đều thể hiện lên

sự thờ sinh thực khí và hành vi giao phối.

Tại khu vực Thạch Thất, Quốc Oai, tín ngưỡng phồn thực tuy không được

thể hiện việc thờ bộ phận sinh dục hay thờ hành vi giao phối một cách rõ

ràng, nhưng loại hình tín ngưỡng này đã lan tỏa và hòa nhập vào trong cuộc

sống của người dân nơi đây dưới nhiều hình thức khác nhau.

Từ thời xa xưa, chày và cối – bộ công cụ thiết thân của người dân nông

nghiệp nơi đây, đồ vật này xuất hiện trong mỗi gia đình. Đây là những vật

tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ, còn việc giã gạo là tượng trưng cho

hành động giao phối. Hay việc thờ sinh thực khí còn được thể hiện bằng việc

thờ các loại cột (trong đình chùa, miếu mạo) hay các loại hốc (hốc cây, hốc

đá),… Ví dụ hốc cây đa tại thôn Hoàng Xá, xã Lại Thượng, Thạch Thất được

người dân nơi đây thờ phụng, cúng bái mỗi dịp lễ, tết. Hay trên mỗi hốc đá

trên ngọn núi Thầy (Quốc Oai) đều có đặt bát hương để người dân nơi đây

cúng bái quanh năm,…

Ngoài ra, tín ngưỡng phồn thực nơi đây còn được thể hiện trong những

hoa văn, họa tiết trang trí của những công trình kiến trúc xung quanh đời sống

nhân dân nơi đây. Ví dụ như: họa tiết cây lá phát triển tươi tốt, muông thú,

rồng phượng,… trên mỗi cột nhà, gác mái của những ngôi đình, hay ngôi nhà

của người dân ở,… Thể hiện trong các lễ hội qua các trò chơi dân gian, điển

hình như đấu vật: Sới vật ở bất cứ đâu cũng đều có hình tròn và thường được

đặt trước sân đình hình vuông. Đó không phải là sự sắp đặt ngẫu nhiên mà

đều có ý nghĩa sâu xa của nó, bởi vuông và tròn theo quan niệm của dân tộc

Việt là 2 hình toàn vẹn. Hình tròn tượng trưng cho trời, cho tính dương, hình

vuông tượng trưng cho đất, cho tính âm, vuông và tròn - âm và đương đặt

cạnh nhau nghĩa là một sự kết hợp hài hòa, trọn vẹn và mang lại những điều

tốt đẹp. Bởi vậy người Việt xưa không coi đấu vật là trò chơi đơn thuần mà

31

thông qua trò chơi này người ta mong cho dương vượng để có mưa thuận gió

hòa, cây cối, mùa màng tốt tươi. Nổi tiếng với trò chơi này tại Thạch Thất có

sới vật tại xã Hạ Bằng, hay tại Quốc Oai có lò vật tại xã Cấn Hữu, lò Yên Nội

(Đồng Quang), Ngô Sài (thị trấn Quốc Oai), Ngọc Than (Ngọc Mỹ), Nghĩa

Hương...

• Tín ngƣỡng sùng bái tự nhiên

Việt Nam là một quốc gia phát triển kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, nên

phải lệ thuộc và gắn bó với tự nhiên, điều đó dẫn đến việc sùng bái tự nhiên

của người dân nơi đây. Mọi sinh hoạt và lao động hằng ngày đều gắn với tự

nhiên, với tâm lý hay sợ hãi và sùng bái, từ đó người dân Việt Nam nhìn nhận

tự nhiên như những đấng linh thiêng, tôn nó thành thần, thánh, đưa tự nhiên

vào thờ cúng trong gia đình, miếu mạo, quán, điện,… Cùng với đó, người dân

Việt Nam theo tín ngưỡng đa thần và âm tính (trọng nữ giới), vì thế nên việc

thờ cúng tự nhiên cũng hết sức phong phú, mọi sự vật đều được họ thờ cúng,

bao gồm các hình thức như: thờ Tam phủ, Tứ phủ; thờ Tứ pháp; thờ động vật,

thực vật,… Có hai loại động vật phổ biến được thờ phụng là chim và rắn,

người Việt đã thần thánh hóa hai động vật này lên thành Tiên(Âu Cơ) và

Rồng (Lạc Long Quân) và cho rằng mình là con Rồng cháu Tiên.

Trong phong tục, tín ngưỡng dân gian tại Thạch Thất – Quốc Oai, việc thờ

cúng tự nhiên đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân.

Hình thức thờ Tam phủ, Tứ phủ phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng

người dân nơi đây. Tam phủ là để chỉ thờ ba vị thánh thần: Mẫu Thượng

Thiên cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng mây mưa, gió bão, sấm

chớp; Mẫu Thượng Nghàn trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho

chúng sinh; và Mẫu Thoải trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng

lúa nước và ngư nghiệp. Tứ phủ là bao gồm ba vị thánh thần trên và có thêm

Mẫu Địa Phủ quản lý vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống. Phủ thờ

32

các Mẫu được mở ra với mật độ khá nhiều tại địa bàn nơi đây. Người dân mở

Phủ thờ Mẫu với mong muốn làm ăn thuận buồm xuôi gió, phát tài phát lộc, đem lại yên ấm cho gia đình1,…

Ngoài ra, thờ từ những con vật mạnh mẽ như hổ, voi, ngựa, rắn,... đến các

con vật gần gũi với văn hóa nông nghiệp như cóc, chó, cá, hạc, dơi,... Đặc

biệt, người dân nơi đây cũng như nhân dân Việt Nam nói chung, họ thờ cả

những con vật mang tính biểu tượng hóa không có thật như rồng, lân.

Về cây cối, người dân nơi đây sinh ra từ làng, sống chủ yếu bằng việc

trồng lúa, nên họ tôn sùng nhất là cây lúa. Ngoài ra còn có các “thần cây đa,

ma cây gạo”, cây si, cây bàng, cây cau,... Các câu chuyện về thần thánh, ma

quỷ trú ngụ trên cây cũng khá phổ biến và có ảnh hưởng nhất định đến đời

sống sinh hoạt của người dân nơi đây.

• Tín ngƣỡng sùng bái con ngƣời

Việc thờ cúng, coi trọng con người là một trong những điểm đặc sắc nhất

của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Nó bắt nguồn từ niềm tin rằng linh hồn

người chết vẫn tồn tại trong thế giới của chúng ta, rằng người sống phải tôn

trọng và thể hiện sự biết ơn với những linh hồn đó. Việc coi trọng tổ tiên, coi

trọng các vị thần, coi trọng hồn vía của con người,… đã làm nên loại hình tín

ngưỡng đặc sắc như: thờ cúng tổ tiên, hồn vía, Thành hoàng làng, vua Tổ, Tổ

nghề,… Điều này còn thể hiện như một nền tảng đạo lý của người Việt Nam.

Thứ nhất là việc thờ cúng Tổ tiên, hay còn gọi được gọi khái quát là Đạo

Ông Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc biệt là tổ tiên. Thờ cúng

tổ tiên là một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống

tinh thần của người dân nơi đây. Đây là cách thể hiện lòng biết ơn và tri ân

những người đã khuất. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên

mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu,

1 Phụ lục 1, Tr. 72.

33

họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp

may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách

con cháu khi làm những điều tội lỗi.

Trong nhận thức của người Việt nói chung và người dân khu vực Thạch

Thất – Quốc Oai nói riêng, con người có hai phần: phần xác và phần hồn. Khi

con người còn sống, phần hồn nhập vào xác và điều khiển xác của con người,

khi con người chết, thì phần xác sẽ trở về với cát bụi, còn phần hồn sẽ rời

khỏi xác và chuyển sang sống ở một thế giới khác mà người ta gọi là cõi âm.

Ở cõi âm thì mọi nhu cầu của phần hồn đều giống như cuộc sống ở chốn trần

thế. Họ thờ cúng tổ tiên một mặt để thể hiện lòng biết ơn, lòng hiếu thảo kính

trọng của mình với những người bề trên, những người sinh thành ra mình, mặt

khác, họ cũng lo sợ rằng, nếu không thờ cúng ông bà tổ tiên những người đã

khuất một cách tử tế, thì những linh hồn này sẽ trở thành ma đói và quay trở

lại quấy nhiễu họ, mang lại đen đủi và rủi ro trong cuộc sống của họ.

Việc thờ cúng tổ tiên tại mỗi gia đình được tiến hành quanh năm, xuất phát

từ quan niệm, dù đã khuất nhưng linh hồn của họ vẫn ở bên cạnh con cháu.

Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới

xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết Nguyên đán, Thanh minh,

Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc (ngày mồng một), Vọng (ngày rằm)

theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi

chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ

gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ

tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc.

Ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình, người dân nơi đây còn thờ cúng

người có công với làng xã, được tôn vinh là Thành hoàng làng – vị thần cai

quản, che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng, được thờ cúng tại đình làng.

Và thờ cúng người có công dựng nước, đó là các vị vua Hùng. Ở một số gia

34

đình thờ cả Hồ Chủ tịch.

Ngoài ra còn có tục thờ Tứ bất tử (bốn người không bao giờ chết, gồm:

Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh) trong tín ngưỡng sùng

bái con người ở nước ta. Thánh Tản Viên( trong thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh)

thể hiện sức mạnh đoàn kết của con người trước thiên tai; Thánh Gióng thể

hiện sức mạnh của người dân đất nước trước giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử là

biểu tượng ước mơ về một cuộc sống vật chất phồn vinh, ấm no; còn Liễu

Hạnh là hiện thân của ước vọng về tự do, trí tuệ và hạnh phúc của con người.

Trong tâm thức của người dân Việt Nam, Liễu Hạnh là Mẹ, là thần chủ điện

thờ Tam phủ, Tứ phủ, Mẫu Liễu Hạnh cai quản nhân gian, thế giới loài người,

và có thể hóa thân vào các Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng nghàn, Mẫu

Thoải, Mẫu Địa và sai khiến, chỉ đạo các thế lực tự nhiên làm cho cuộc sống

của người dân Việt Nam trở nên ấm no hơn, mùa màng bội thu bởi mưa thuận

gió hòa,… Vì vậy, Liễu Hạnh là vị thần được người Việt nói chung và người

dân khu vực Thạch Thất – Quốc Oai đặc biệt tôn thờ.

Tục thờ Tổ nghề cũng là một hình thức trong tín ngưỡng sùng bái con

người xuất hiện tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai. Tổ nghề là một hoặc

nhiều người có công lớn đối với việc sáng lập và truyền bá một nghề nào đó.

Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập vì đã có

công tạo ra nghề, gọi là Tổ nghề (hoặc Thánh sư). Tổ nghề chỉ là những con

người bình thường, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng

tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau.

Ở khu vực Thạch Thất, Quốc Oai có một số làng nghề truyền thống thờ tổ

nghề như: Làng Ra(thôn Phú Hòa, Bình Phú, Thạch Thất) thờ Thủy tổ múa

rối nước là Thiền sư Từ Đạo Hạnh,

Như vậy thì quá trình hình thành và phát triển của những tín ngưỡng dân

gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai cũng đi cùng với lịch sử phát triển

chung của Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn phát triển nhất định. Từ thuở

35

khai sơ, khi nhận thức con người chưa phát triển nhiều, họ thờ các hiện tượng

tự nhiên, động vật, cây cối, khi nhận thức phát triển, hình thức kinh tế nông

nghiệp xuất hiện thì tín ngưỡng phồn thực cũng xuất hiện, rồi từ đó các loại

hình tín ngưỡng cũng dần xuất hiện xoay quanh cuộc sống nông nghiệp và tác

động lại đến đời sống sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần của người dân nơi

đây.

 Đặc điểm của tín ngưỡng dân gian

Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp lúa nước là chủ yếu và

người dân đa số là nông dân, vì vậy tín ngưỡng dân gian nơi đây được hình

thành từ rất sớm. Nó là sản phẩm tinh thần, văn hóa trong mối quan hệ giữa

con người với tự nhiên và xã hội. Vì vậy, tín ngưỡng dân gian Việt Nam

mang đậm những đặc trưng của văn minh nông nghiệp.

Tín ngưỡng dân gian của khu vực Thạch Thất, Quốc Oai cũng là một phần

trong Tín ngưỡng dân gian của Việt Nam nói chung, vì vậy, nó cũng mang

một số đặc điểm chính như sau:

Thứ nhất, tín ngưỡng dân gian tôn trọng và có mối quan hệ mật thiết với

thiên nhiên. Điều này có thể thấy rõ trong tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.

Thứ hai, trong mỗi tín ngưỡng đều có sự hài hòa âm dương: Trời – Đất, Cô

– Cậu, Ông đồng – Bà đồng, Rồng – Tiên…

Thứ ba, các tín ngưỡng đa phần mang tính âm, đối tượng đa số là nữ. Ví

dụ như hệ thống Tam phủ, Tứ phủ, hay hệ thồng Tứ pháp(Pháp Vân, Pháp

Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện),…

Thứ tư, các tín ngưỡng có sự đan xen, dung hợp và hòa đồng lẫn nhau,

không mâu thuẫn gay gắt, kỳ thị, xung đột hay bài trừ nhau. Các tín ngưỡng

truyền thống phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung,

độ lượng, nhân ái và tinh thần đoàn kết của người dân nơi đây. Ví dụ như một

36

gia đình có thể có bàn thờ cúng tổ tiên, trong góc nhà có đặt bàn thờ cúng Thổ

địa và ba ông thần Phúc Lộc Thọ, đồng thời cũng lập thêm một Phủ thờ Tam

phủ, Tứ phủ. Hình thức này khá phổ biến trong cộng đồng người dân nơi đây.

Thứ năm, mỗi tín ngưỡng đều mang những nét văn hóa riêng biệt, nhưng

đều hướng đến sự Chân – Thiện – Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân

tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về

bản sắc của dân tộc.

1.3. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Thạch Thất

– Quốc Oai

Mỗi một tôn giáo lại có nguồn gốc và đặc điểm riêng của mình. Tuy nhiên,

trong quá trình phát triển, nó lại giao lưu và thâm nhập vào các mảnh đất văn

hóa màu mỡ khác cắm rễ, từ đó xảy ra sự tiếp biến, dung hợp lẫn nhau. Và

mức độ hỗn dung, hòa hợp của mỗi loại tôn giáo cũng khác nhau, có tôn giáo

dù đã du nhập cả mấy trăm năm thì cũng chỉ là một bộ phận riêng biệt so với

văn hóa dân tộc, tuy nhiên cũng có tôn giáo, từ khi du nhập, đã dần lan tỏa và

hòa vào văn hóa dân tộc như một phần không thể thiếu của nó.

Với đặc trưng tư duy và văn hóa của nền nông nghiệp lúa nước, người dân

Thạch Thất – Quốc Oai cũng như người Việt nói chung, trong quá trình phát

triển thì dần tiếp nhận những giá trị văn hóa từ bên ngoài vào, từ đó chọn lọc

và phát triển nên những nét văn hóa riêng cho mình, thể hiện được bản sắc

văn hóa của dân tộc. Và sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian

chính là một trong những nét văn hóa riêng đặc sắc ấy.

Từ xa xưa, trước khi Phật giáo du nhập vào, thì người dân nơi đây đã dần

hình thành cho mình những tín ngưỡng riêng. Tuy không phát triển những tín

ngưỡng này thành một tôn giáo có giáo lý cũng như tổ chức bài bản, nhưng

nó đã ngày càng ăn sâu và ảnh hưởng tới cuộc sống của mỗi người dân. Cho

đến khi Phật giáo đi vào với chủ trương hòa bình, từ bi, hỷ xả,… những chủ

37

trương này rất gần gũi với tinh thần bao dung đùm bọc, vị tha trong đạo đức

truyền thống của người Việt. Chính vì vậy mà Phật giáo đã nhanh chóng có

cơ sở để hòa nhập với tín ngưỡng dân gian, từ đó lan rộng và cắm rễ sâu tại

đất Việt. Điển hình có thể thấy là tín ngưỡng thờ Mẫu trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt khi được Phật giáo tiếp nhận đã trở thành những vị Phật

bà như: Tứ pháp, Phật bà chùa Hương, Quan âm Tống tử,…

Ngay từ khi du nhập, Phật giáo đã hỗn dung, hòa hợp với tín ngưỡng dân

gian một cách nhanh chóng. Dân ta đón nhận về những triết lý, về luật nhân

quả luân hồi, về con đường giải thoát đau khổ,… bằng sự cởi mở và gần gũi

nhất. Vì vậy, không khó để thấy những tín ngưỡng dân gian có phảng phất

màu sắc của Phật giáo. Phật giáo với hệ thống lý luận phong phú đi cùng với

triết lý từ bi, hỷ xả, đã góp phần làm cho văn hóa người Việt đa dạng và mang

một bản sắc riêng.

Sự dung hợp giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch

Thất – Quốc Oai có thể thấy qua những biểu hiện sau:

Thứ nhất, đó là hiện tượng thờ đá. Ở những nơi cầu tự, cầu duyên như ở

Hang Cắc Cớ của chùa Thầy(Tượng Cậu), tục thờ đá cũng thể hiện sự kết hợp

giữa văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Việc ban phát sự sống và tạo

ra sự sinh sôi nảy nở vốn là việc của các vị thần linh. Tuy nhiên tín ngưỡng

dân gian cùng với các vị thần linh dần ngày càng mất đi sự gần gũi, tin tưởng,

thân thiết khi con người ngày càng hiểu rõ được các quy luật của tự nhiên. Do

đó, họ không còn tôn sùng các vị thần tự nhiên nhiều nữa. Mặt khác thì Phật

giáo lại ngày càng gần gũi với người dân, hiện hữu trong đời sống của nhân

dân. Trước tình hình này, sự kết hợp của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian

chính là sự kết nối thiết yếu của con người với các vị thần tự nhiên thông qua

các nghi lễ thờ cúng, làm cho con người có thêm niềm tin vào các vị Thần

Phật. Chính vì vậy, các nơi cầu tự, cầu duyên của người dân dần được chuyển

vào các ngôi chùa và việc đi cầu tự, cầu duyên là một hình thức độc đáo trong

38

đời sống tín ngưỡng của người dân.

Thứ hai, có thể thấy sự kết hợp rõ nhất giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân

gian qua cách sắp xếp, tên gọi, cách bài bố trang trí các kiến trúc hay các

tượng thờ và di vật trong một số ngôi chùa tại khu vực này. Phần lớn các chùa

ở khu vực Thạch Thất – Quốc Oai đều thờ tự hết sức đa dạng: Từ các vị Phật,

Thần, Thánh, Mẫu đến các vị Thổ địa cũng được thờ chung trong chùa.

Các chùa trong khu vực này đa số đều có ban thờ Tam tòa Thánh Mẫu.

Với tư tưởng Âm Dương - Tam Tài - Ngũ Hành, nhất sinh nhị, nhị sinh tam,

tam sinh vạn vật, thì Mẫu là nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam. Điều đó có

nghĩa là từ Mẫu Thiên mà tự đối ứng hoá thành Mẫu Địa (Mẫu Thượng Ngàn)

– thứ hai, rồi lại hoá thành Mẫu Thoải (Mẫu Thuỷ) – thứ ba, chính vì thế mới

có tên là Tam toà Thánh Mẫu. Trong các vị Thánh Mẫu được thờ thì đứng đầu

là Mẫu Liễu Hạnh. Liễu Hạnh công chúa là một trong những vị thần quan

trọng trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, là người đứng đầu trong hệ thống

Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu,

Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi

ngắn gọn là Thánh Mẫu.

Tại chùa Thầy còn có đền thờ Tam phủ, thờ ba vị: Vua cha Ngọc Hoàng,

Đức Đế Thích, Đức Thủy Tiên. Ba vị này chính là ba vị đứng đầu trong Tam

giới: Thiên, Địa, Thủy.

Ngoài ra, ta có thể thấy sự gắn bó của những ngôi chùa Việt nói chung và

những ngôi chùa trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng với các hình

thức biểu diễn dân gian như: Hát chèo đò. Hình thức này thường thấy ở các

buổi lễ hay hội tại các sân chùa hay sân tổ của những ngôi chùa. Các nghệ

nhân được thuê về hay thường là các Vãi có giọng hay đứng dậy làm động tác

chèo đò và hát những đoạn thơ trên sáu dưới tám liên quan đến tích nhà Phật.

39

Các Vãi khác nghe hát chắp tay thành kình và xướng lại theo lời.

Một hình thức biểu diễn khác là hát quan họ - một hình thức dân ca đặc

sắc bắt nguồn từ vùng Kinh Bắc xưa ( Bắc Ninh ngày nay), và sau đó lan

truyền rộng ra các vùng lân cận. Các điệu hát quan họ rất phong phú, được

biểu diễn bởi các nhóm nam nữ hay còn gọi là các “liền anh”, “liền chị”. Các

nhóm hát quan họ này có mối quan hệ chặt chẽ với các ngôi chùa. Họ thường

được mời về biểu diễn tại các ngôi chùa trong các dịp lễ, hội trọng đại. Tại

Thạch Thất – Quốc Oai có nhiều nhóm hát quan họ như: CLB quan họ xã Đại

Đồng (Thạch Thất), CLB xã Đại Thành (Quốc Oai),…

Đặc biệt phải kể đến là sân khấu múa rồi nước, một loại hình múa rối độc

đáo của người Việt bắt nguồn từ khu vực này, mà Tổ nghề là Thiền sư Từ

Đạo Hạnh. Trước mặt chùa Thầy có một Thủy đình ở giữa hồ Long Chiểu để biểu diễn múa rối nước2. Thậm chí, ở chùa Thầy, tượng của nhà sư Từ Đạo

Hạnh cũng làm theo kiểu con rối có thể cử động được. Hay tại chùa Tây

Phương, trước cổng chùa, ngay dưới chân núi cũng có một hồ mà ở giữa hồ

có xây dựng Thủy đình nhằm phục vụ biểu diễn múa rối nước.

Qua những điều trên, chúng ta có thể thấy được những ngôi chùa và tư

tưởng Phật giáo đã phần nào ảnh hưởng rất quan trọng đến lối sống sinh hoạt

văn hóa của người dân nơi đây.

Thứ ba, đó là sự giống nhau về tinh thần từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn, tự

do, bình đ ng giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người Việt nói

chung. Phật giáo khi đi vào Việt Nam dễ dàng được đón nhập và ngày càng

cắm rễ sâu trong đời sống nhân dân là bởi sự gần gũi về mặc tư tưởng và giáo

lý. Người nông dân quanh năm cúi mặt xuống đất, bán lưng cho trời, không

đủ trình độ để hiểu được những giáo lý cao siêu, nhưng trong cuộc sống, họ

biết thế nào là thiện, thế nào là ác. Họ hiểu rằng cần phải làm điều thiện, tránh

điều ác, họ quan niệm “thương người như thể thương thân”, “ở hiền gặp lành”

40

“gieo gió gặt bão” hay “ác giả ác báo, thiện giả thiện báo”,… nhưng điều này 2 Phụ lục 2, Tr.72.

hơn bao giờ hết lại cực kỳ gần với triết lý từ bi, nhân quả của Phật giáo. Hay

hình tượng Đức Phật cũng được dân gian Việt hóa thành hình tượng ông Bụt

(nói lái đi của Buddha – tức Đức Phật) hiền lành, nhân từ, luôn giúp đỡ những

41

người khó khăn.

Tiểu kết chƣơng 1

Đồng bằng Bắc Bộ là nơi có nền văn minh lúa nước phát triển, đồng

thời cũng là nơi Phật giáo lần đầu tiên du nhập vào Việt Nam. Chính vì vậy,

Phật giáo sớm hòa nhập cùng các tín ngưỡng dân gian nơi đây để phát triển

mạnh mẽ qua từng thời kỳ lịch sử của dân tộc. Từ thế kỷ X, Việt Nam chấm

dứt 1000 năm Bắc thuộc, bước vào thời kỳ độc lập, Phật giáo với các giáo lý

từ bi, hỷ xả, cứu khổ cứu nạn cùng chủ trương hòa bình đã được nhân dân coi

trọng. Đến thời Lý, Trần, đây là thời kỳ Phật giáo phát triển đỉnh cao tại Việt

Nam nói chung và Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Trong thời kỳ này, nhiều

ngôi chùa được xây dựng và biểu hiện rõ nét sự dung hợp giữa Phật giáo và

tín ngưỡng dân gian. Khoảng thời gian từ thế kỷ XIV – thế kỷ XV, Phật giáo

bước vào giai đoạn suy yếu do Nho giáo được đề cao, vì vậy, nó mất đi vị trí

quan trọng trong tầng lớp thống trị, chỉ còn len lỏi trong dân gian. Sang thế kỷ

XVI – XVII, Phật giáo dần trở lại mạnh mẽ và có nhiều ảnh hưởng đến quần

chúng nhân dân, nhiều ngôi chùa được xây dựng và trùng tu, giữ lại được

những nét đặc sắc đến tận bây giờ, điển hình như chùa Tây Phương. Thế kỷ

XIX đến nay, Phật giáo tuy không tham gia vào chính trị nhưng lại có ảnh

hưởng sâu rộng đến quần chúng nhân dân, nó thấm sâu vào máu thịt con

người Việt nói chung, người dân Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, nó hỗn dung,

đồng hành cùng các tín ngưỡng dân gian tạo cho nhân dân một đời sống tâm

linh phong phú, đa dạng và có nét đặc sắc riêng.

Thạch Thất – Quốc Oai là hai huyện nằm ở phía Tây trung tâm thành

phố Hà Nội( Kinh thành Thăng Long xưa), lại nằm trên mảnh đất văn hóa xứ

Đoài, là một vùng đất thuận lợi trong việc ảnh hưởng và giao lưu văn hóa của

các khu vực. Chính vì thế, khi Phật giáo phát triển tại Đồng bằng Bắc Bộ, thì

Phật giáo cũng đã dần cắm dễ trên mảnh đất này. Phật giáo tuy là một tôn

giáo lớn với hệ thống tư tưởng triết học sâu rộng, nhưng Phật giáo vẫn rất phù

42

hợp và gần gũi với văn hóa truyền thống của người Việt nói chung. Vì vậy,

khi du nhập vào, Phật giáo dễ dàng bén rễ và phát triển mạnh mẽ trong đời

sống nhân dân. Và người đặt nền móng cho Phật giáo khu vực Thạch Thất –

Quốc Oai không ai khác chính là Thiền sư Từ Đạo Hạnh.

Với tính linh hoạt, tổng hợp và hài hòa âm dương sẵn có, Phật giáo tại đây

đã tự động dung hợp với các tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực,

tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người. Tín ngưỡng dân

gian ở Việt Nam hết sức phong phú với nhiều loại hình khác nhau, nhưng đều

chung mục đích đó là vì con người. Điều này ta có thể thấy rõ trong các ngôi

chùa ở Đồng bằng Bắc Bộ, cụ thể hơn là hai ngôi chùa Thầy và chùa Tây

Phương. Sự dung hợp này có thể thấy qua những biểu hiện như: hiện tượng

thờ đá, hang, hốc, qua kiến trúc hay cách sắp xếp tượng phật trọng chùa, qua

các hình thức biểu diễn dân gian, hay là sự giống nhau về tinh thần từ bi, hỷ

xả, tinh thần bác ái “lá lành đùm lá rách”,…

Qua những điều trên, chúng ta có thể thấy được sự dung hợp giữa Phật

giáo và tín ngưỡng dân gian đã được hình thành từ rất lâu và dần phát triển

mạnh mẽ, có những ảnh hưởng nhất định đến lối sống sinh hoạt văn hóa của

43

người dân Thạch Thất – Quốc Oai.

CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ

TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN QUA KHẢO SÁT HAI NGỒI CHÙA:

CHÙA THẦY VÀ CHÙA TÂY PHƢƠNG.

2.1. Biểu hiện qua nghi lễ của Phật giáo tại hai ngôi chùa

Văn hóa hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong khu vực

Thạch Thất – Quốc Oai được thể hiện rõ qua các nghi lễ, lễ hội. Phật giáo có

thể nói là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lễ hội ở Việt Nam nói

chung và khu vực này nói riêng. Lễ và hội của Phật giáo gắn bó thân thiết với

người dân, trở thành lễ hội dân gian có ảnh hưởng rộng. Đi hành hương,

chiêm bái thánh tích, tham gia vào các lễ hội đã trở thành hoạt động, nhu cầu

ko thể thiếu của người dân nơi đây. Tham gia các hoạt động này, con người

như tạm thoát khỏi những lo toan thường nhật, coi đây là quãng thời gian để

tâm an yên, thanh thản, trở về với thiên nhiên, cội nguồn tâm linh. Lễ hội và

các nghi lễ, trò chơi dân gian,… của tín ngưỡng dân gian đã trở thành một

hình thức sinh hoạt văn hóa và món ăn tinh thần không thể thiếu từ xưa đến

này của người dân trong khu vực.

Xuất hiện cùng với các loại hình tín ngưỡng dân gian gắn liền với văn hóa

nông nghiệp trồng lúa nước thì những cư dân nơi đây cũng nảy nở ra những

nghi lễ thờ cúng các hiện tượng tự nhiên. Họ thờ các vị thần mây, mưa, sấm,

chớp, thờ Mẹ, thờ Mẫu, thờ cha trời, mẹ đất,… Các nghi lễ thờ cúng này cũng

đã tác động vào trong chùa, không ngôi chùa nào là không có bàn thờ Thổ

Địa, Thiên Lôi, Thờ thần làng, thần núi,… Việc này còn được thể hiện mạnh

mẽ bằng cách biến một số nhà sự thành Thần thánh và được tôn thờ trong

chùa, như Thiền sư Từ Đạo Hạnh được thờ tại chùa Thầy.

Về cơ bản, có bốn ngày đại lễ là lễ chính của đạo Phật trong năm, đó là:

44

Lễ Phật đản (Phật sinh), Lễ Phật xuất gia, Lễ Phật thành đạo và Lễ Phật nhập

Niết bàn. Tuy nhiên, tại hai ngôi chùa Thầy và chùa Tây Phương thì còn có

hai ngày lễ hội riêng của hai ngồi chùa.

Lễ Phật Đản, còn gọi là lễ tắm Phật, lễ té nước, hay lễ hoa. Đây là ngày

Lễ kỷ niệm ngày sinh của Thích Ca Mâu Ni. Theo Phật thoại “khi Phật sinh

có rồng phun nước thơm tắm cho Phật”, vì vậy trong lễ Phật Đản, đều có

những hoạt động như hành pháp hội, lấy nước thơm tắm rửa cho Phật, sau đó

lau bằng một khăn lụa đỏ, rồi xé ra chia cho mỗi người một mảnh để làm

“khước”, trừ ốm đau bệnh tật và chống lại ma quỷ, cúng dàng tăng chúng, bái

Phật, té tổ, té nước hay xin nước tắm Phật,…Ngày Lễ Phật Đản được tổ chức

vào ngày rằm tháng Tư Âm lịch. Theo truyền thuyết, ngày Đức Phật sinh ra,

Ngài vững vàng bước đi bảy bước và tuyên bố:

“Trên thiên giới, dưới người trần thế,

Chỉ có ta cao quý phi thường

Thân này kiếp chót Pháp Vương,

Không còn trở lại con đường tử sinh”(6, Tr.152)

Ở Việt Nam nói chung thì lễ tắm Phật còn được gắn liền với tín ngưỡng

cầu mưa của người nông dân. Người ta tin rằng cứ đúng ngày Phật đản, thời

tiết thế nào cũng mưa để lấy nước tắm Phật. Và tắm Phật bằng cách dội nước

cũng là một hình thức cầu mưa, để cho mùa màng bội thu. Với người dân nơi

đây, lấy nghề nông trồng lúa nước làm nghề chính, mà trong đó có 4 nhu cầu

thiết yếu là “nước, phân, cần, giống”. Được xếp trong vị trí hàng đầu nên có

thể thấy yếu tố nước quan trọng như thế nào. Như vậy, có thể thấy được vị trí

45

của ngôi chùa trong cộng đồng làng xã là hết sức quan trọng.

Ngày Lễ Phật xuất gia3 được tổ chức vào ngày 8 tháng 2 Âm lịch. Đây là

ngày mà Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ ngôi vị Thái tử, từ bỏ cuộc sống hoàng

cung, gia đình để xuất gia tu hành, tìm con đường giải thoát cho con người.

Để kỷ niệm ngày lễ này, hầu hết các chùa Tăng, Ni, Phật tử đều tổ chức đọc

kinh tụng niệm.

Ngày Lễ Phật thành đạo là ngày kỷ niệm Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo

Vô thượng chính đ ng chính giác. Trải qua 49 ngày Thiền định dưới gôc cây

Bồ Đề. Trước khi ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề, Ngài đã đổi phương pháp tu

“khổ hạnh” nhận bát sữa dân cúng của nàng Su Gia Ta.

Sau khi thành đạo, Ngài đến Vườn Nai xứ Ba La Nại độ cho 5 anh em ông

Kiều Trần Như vốn là những người trước đây đã tu “khổ hạnh” với Ngài. Bài

Thuyết pháp đầu tiên mà Đức Phật giảng đó là giáo lý “Tứ thánh đế” hay còn

gọi là “Tứ diệu đế” – bốn chân lý cao cả là: khổ(Khổ), nguyên nhân sinh

khổ(Tập), sự dứt khổ(Diệt), con đường đưa đến nơi chấm dứt khổ đau(Đạo).

Đây cũng là ngày mà các chùa tổ chức lễ quy y cho các giới trong tín đồ

Phật giáo.

Ngày Lễ Phật nhập Niết bàn được tổ chứ vào ngày 15 tháng 2 Âm lịch.

Đây là ngày lễ tưởng nhớ ngày mất của Đức Phật, hay gọi nôm na là ngày giỗ

của Phật. Tương truyền bốn mươi năm sau, khi đức Phật được tám mươi tuổi,

ngài nhập Niết bàn trước sự chứng kiến của rất nhiều thánh nhân đệ tử của

Ngài, loài người lẫn chư thiên. Trong ngày lễ Phật nhập Niết bàn, hầu hết các

chùa đều tổ chức pháp hội Niết bàn, đọc kinh “Di giáo kinh”…

Các Lễ Phật đản, Lễ Phật xuất gia, Lễ Phật thành đạo, Lễ Phạt nhập Niết

3 Có 2 thuyết xuất gia: Đại thừa cho rằng Đức Phật xuất gia năm 19 tuổi, trải qua 6 năm tu hành khổ luyện và 5 năm tìm thầy học đạo, đến năm 30 tuổi Ngài mới đắc đạo và đi Thuyết pháp 49 năm. Còn theo Tiểu thừa, Ngài xuất gia năm 29 tuổi, trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh, Ngài thành đạo lúc 35 tuổi và Thuyết pháp trong 45 năm.

46

bàn đều kỷ niệm những cột mốc lớn trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca

Mâu Ni. Qua đây giúp mọi người nhận thức rõ rằng trong mỗi bản thân con

người, ai ai cũng có tính Phật, ai cũng có thể trở thành Phật nếu tu hành tinh

tiến theo Phật pháp.

Dưới ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian, mỗi ngôi chùa lại có một ngày

lễ hội chính hằng năm. Trong hội chùa, có những nghi kễ Phật giáo như tụng

kinh, lễ Phật, chạy đàn, phóng sinh,… Nhưng vì nhiều ngôi chùa Việt Nam

không chỉ có thờ Phật mà còn thờ cả Thần, Mẫu nên thông qua hội chùa ta sẽ

thấy rõ sự dung hợp tín ngưỡng tôn giáo được biểu hiện rõ ràng. Các vị thần

được thờ trong chùa kiểu “tiền Phật hậu Thánh”, và các chùa thờ kiểu này

thường tổ chức hội trong cùng một ngày. Chùa Thầy và chùa Tây Phương

cùng tổ chức khai hội vào ngày 6 tháng 3 Âm lịch và kéo dài ba ngày sau đó.

Các hội chùa này không chỉ có ảnh hưởng đến thôn làng quanh đó mà còn có

ảnh hưởng tầm rộng, thu hút sự quan tâm của người dân quanh xã, thậm chí là

quanh huyện và các vùng lân cận về tham dự. Qua đây có thể thấy được rằng,

hội chùa không chỉ gắn bó với sinh hoạt văn hóa làng, mà còn ảnh hưởng đến

cả văn hóa vùng.

Ngoài ra còn có Lễ Vu Lan được tổ chức dựa trên kinh Vu Lan Bồn. Lễ

Vu Lan là một lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của nhân dân Việt

Nam, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”,… Lễ hội này trở

thành lễ hội của Phật giáo và được tổ chức vào 15 tháng 7 Âm lịch hằng năm.

Đây là ngày để con cháu báo hiểu cho ông bà, cha mẹ, những đấng sinh

thành. Ngoài ra thì đây cũng là ngày lễ cúng cô hồn, phổ độ chúng sinh, người

ta dâng lễ vật để cúng với mục đích cầu xin cho vòng hồn của người thân

mình được thoát khỏi địa ngục và được siêu độ. Lễ này thể hiện tư tưởng từ

bi, hỷ xả của Phật giáo cùng với sự lương thiện, tu nhân tích đức , đạo hiếu tốt

đẹp của người dân nơi đây.

Thêm nữa, mỗi năm trong chùa còn diễn ra các ngày lễ khác của dân, như

47

Lễ dâng sao giải hạn. Người dân nơi đây cho rằng, hàng năm mỗi người đều

có một sao chiếu mệnh, tất cả có chín ngôi sao và cứ chín năm lại luân phiên

trở lại. Và chín ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định

trong tháng, từ đó hình thành tục dân sao giải hạn. Các sao chiếu mệnh gồm:

Thái Dương, Thái Âm, Mộc Đức, Vân Hán, Thổ Tú, Thái Bạch, Thủy Diệu,

La Hầu và Kế Đô. Dưới ảnh hưởng của Đạo giáo, Lễ dâng sao giải hạn được

các chùa tổ chức vào đầu năm, cầu bình an, giải hạn cho các tín đồ Phật giáo.

Tại chùa Tây Phương và chùa Thầy, lễ dâng sao được tổ chức vào ngày Rằm

tháng Giêng hằng năm.

Bên cạnh đó thì các ngày lễ tết trong năm, rằm, mồng một hàng tháng,

người dân trong vùng cũng thường lên chùa đi lễ.

Trong lễ Phật, người ta chỉ dâng lục cúng: hương, hoa, đăng, trà, quả,

thực. Và các lễ này hoàn toàn là đồ chay. Tuy nhiên, trong hai ngôi chùa này

còn có ban thờ Mẫu, Sơn Thần, nên người đi lễ chùa còn thêm cả lễ mặn.

Ví như ban thờ Mẫu thì được tiến hành theo các nghi thức như sau:

Ban thờ Mẫu có thể sắm lễ chay: hương, hoa, quả, oản. Hay lễ mặn

gồm: xôi, thịt, lợn, gà,… nấu chín, hay lễ đồ sống như trứng sống, thịt lợn

sống, gạo, muối,… để đặt tại ban Ngũ hổ, Thanh xà, Bạch xà. Lễ mặn Sơn

Trang gồm: cua, ốc, bún, chanh, ớt, mắm tôm, gừng, măng tươi,… lại thường

được sắm theo con số 15 phần và đây là số lượng các vị thần thuộc ban Sơn

Trang( chúa Thượng Ngàn Bạch Anh công chúa, 2 chầu hầu cận, 12 cô Sơn

Trang). Lễ ban thờ cô, cậu: gồm hương hoa, oản quả… còn có cả đồ làm bằng

giấy, tượng trưng cho các đồ chơi của trẻ con như cành hóa, con chim, chiếc

kèn, trống,… Tuy lễ vật có là gì, thì đều không câu nệ, cốt yếu là thành tâm

và giữ điều thanh tịnh.

Việc tiến hàng các nghi lễ trong chùa cũng được diễn ra theo một trình

48

tự nhất định:

Thường thì người ta dâng lễ ở chính điện trước, rồi mới đến các ban

Đức Ông, ban Thánh Hiền… Nhưng cũng có người nhận thấy được vai trò

quan trọng của Đức Ông, vì theo quan niệm của tín ngưỡng dân gian thì Đức

Ông là người cai quản ngôi chùa nên đã thỉnh lễ Đức Ông trước, rồi mới đặt

lễ dâng hương tại chính điện và các ban thờ khác.

Đặt lễ vật và thắp hương làm lễ tại ban Đức Ông trước. Vì theo giáo lý

của Phật giáo, Đức Ông là vị cai quản tất cả các công việc của chùa. Đồng

thời khi làm lễ ở ban Đức Ông cũng xin phép được vào làm lễ ở chính điện.

Cũng tương tự như trình tự thờ cúng tổ tiên, trước tiên người ta phải thắp

nhang làm lễ tại bàn thờ Thổ Công để xin phép cho tổ tiên của mình được về.

Vì dân gian quan niệm “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”.

Tiếp theo là đặt lễ vật lên hương án ở chính điện. Thắp đèn, nhang rồi

thỉnh ba hồi chuông, vái ba vái hoặc năm lạy.

Tiếp đến là xuống điện Mẫu lễ, dâng hương và cầu nguyện. Người dân

đến điện Mẫu thường cầu tài lộc, con cái, sức khỏe. Lễ vật dâng Mẫu có thể là

đồ chay hoặc đồ mặn.

Cuối cùng là lễ ở nhà Tổ. Lễ ở nhà tổ thì các lễ phẩm cũng tùy tâm

người đến lễ.

Điểm đặc biệt thể hiện sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân

gian, cụ thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chính là trong chùa còn có nhà vong4. Nhiều gia đình có người thân mất từ 35 đến 49 ngày thường làm lễ cầu

siêu đưa vong linh của người quá cố vào chùa để “thính pháp văn kinh”, qua

đó mà giác ngộ vạn vật vô thường, tu tâm dưỡng tính, xóa bỏ tham sân si để

được giải thoát, siêu sinh. Tại chùa Thầy có nhà vong, nên những người đi lễ

chùa nếu có thân nhân quá cố gửi tại chùa, sẽ xuống thắp hương và cầu lễ

4 Phụ lục 3, Tr.73.

49

mong người quá cố “phù hộ độ trì” cho gia đình mình.

Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong khu vực

Thạch Thất – Quốc Oai được thể hiện trong nghi lễ chùa rất linh thiêng và

được người dân coi trọng, nó đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân nơi

đây. Họ đi chùa cầu mong được Phật, Thánh phù hộ cho bình an, tài lộc, cầu

xin khỏi bệnh. Ngoài ra họ còn bán khoán trẻ nhỏ lên chùa để mong con cháu

mau lớn, khỏe. Đây là một tập tục thường làm ở đền thờ, nhưng trong chùa

cũng xuất hiện lên này. Tức là làm lễ cầu Phật, cầu Đức Ông nhận trẻ nhỏ làm

con cái, bảo vệ và phù hộ cho trẻ khỏe mạnh, thông minh cho đến lúc trưởng

thành. Thường trẻ sẽ được làm lễ bán khoán cho đến hết một giáp (13 tuổi),

hết thời gian bán khoán thì có thể chuộc khoán hoặc tiếp tục làm lễ bán khoán

đến hết đời.

Như vậy, tuy trong giáo lý của Phật giáo nguyên thủy vốn mang tinh

thần xuất thế gian, nhưng trong quá trình phát triển, với tính linh động và sự

tùy duyên của mình, Phật giáo đã thể hiện tinh thần nhập thế một cách khá

toàn diện đến với quần chúng nhân dân Việt nói chung và người dân khu vực

Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng. Thông qua tinh thần nhập thế đó, ta có thể

thấy được chính là sự hòa hợp, hỗn dung của Phật giáo với tín ngưỡng dân

gian của người dân nơi đây trong từng nghi lễ trong chùa.

2.2. Biểu hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa

Sự hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian không chỉ thể hiện

qua nghi lễ, mà còn thể hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa Tây Phương và

chùa Thầy. Những kiến trúc này thể hiện được đặc điểm riêng biệt về kiểu

dáng của các ngôi chùa vùng Đồng bằng Bắc Bộ nói chung và khu vực Thạch

Thất – Quốc Oai nói riêng.

Kiến trúc của hai ngôi chùa này không cao lớn, đồ sộ và lộng lẫy như

các ngôi chùa mới được xây dựng gần đây. Lý giải về điều này, là do tư duy

muốn hài hòa với cảnh sắc thiên nhiên, tạo cho con người cảm giác thanh tao,

50

thoát tục.

Kiến trúc của chùa Thầy đã thể hiện rõ sự kết hợp giữa Phật giáo và tín

ngưỡng dân gian. Với khởi đầu là lối tu theo dòng Thiền Mật tông huyền bí

(Mật tông khi được truyền vào Việt Nam đã nhanh chóng hòa nhập cùng tín

ngưỡng dân gian cùng với những hình thức như yểm bùa, cầu hồn, chân

thế,…) với huyền tích của Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã tạo nên những điểm

riêng biệt trong kiến trúc, không gian và bố cục của chùa.

Chùa Thầy là nơi khởi nguồn của lối kiến trúc “tiền Phật hậu Thánh”,

cụm kiến trúc này nằm trên trục chính dọc phía sau tòa nhà Tam bảo. Cung

thánh là một không gian đóng kín với diện tích nhỏ nhằm tạo sự linh thiêng .

Toàn bộ kiến trúc chùa trải dài, cao dần theo sườn núi, hình thành theo bố cục

nội công ngoại quốc – đây là kiểu kiến trúc Phật giáo phổ biến bào thế kỷ

XVII. Khu Tam bảo gồm cả tòa nhà Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện

được thiết kế theo kiểu chữ Công. Hai bên có hai dãy hành lang nối gác

chuông, gác chống, nhà Hậu tạo nên một khung chữ Nhất làm cho chùa có

một không gian thoáng bên trong nhưng nhìn từ ngoài vào lại rất kín đáo. Và

việc Phật hóa miếu thờ Thần tại đây chính là điểm đặc sắc nhất thể hiện sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Hang Thánh hóa5 trước đây

chỉ là một cái am nhỏ (Hương Hải am), ứng với Bồ đề viện của Từ Đạo Hạnh.

Ngoài ra, bố cục của chùa còn chú trọng đến vấn đề âm dương hài hòa. Hai

cây cầu đá Nhật tiên và Nguyệt tiên cong cong hai bên trái phải, là biểu tượng

của mặt trời và mặt trăng.

Ngoài không gian kiến trúc cảnh quan, chùa Thầy còn sử dụng tổng

hợp các yếu tố sắp đặt kiến trúc không gian ánh sáng để truyền tải một cách rõ

ràng nhất giáo lý Phật giáo đến với Phật tử. Đó là yếu tố phong thủy với sự

hòa hợp của con người, thiên nhiên và vạn vật. Khi đặt chân vào chùa, là đã

chuyển từ cuộc sống ồn ào, thế tục sang một trạng thái yên tĩnh, thanh tịnh.

5 Phụ lục 4, Tr.74.

51

Tiền đường là nơi yên tĩnh, không gian thoáng đãng, ít tượng. Tượng Hộ pháp

oai phong với vai trò như trấn giữ những sự phàm tục, không phù hợp với nơi

cửa Phật. Đi sâu vào trong chùa, không gian càng thêm thanh tịnh, với ánh

sáng thiên nhiên bên ngoài hiên cùng với ánh sáng đèn nến trong các gian thờ

đã giúp cho con người có được sự an yên, tĩnh tâm, tạm rời xa cuộc sống thế

tục bon chen ngoài kia. Đây chính là một trong những giá trị nhân văn làm

nên giá trị của ngôi chùa trong lòng người dân nơi đây.

Tại chùa Tây Phương, ngôi chùa nổi tiếng với lối kiến trúc độc đáo, thì

ta có thể dễ dàng nhận ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian

được thể hiện trong đó. Bước qua khoảng sân, là vào chùa Hạ đại diện của

chữ Nhân, tiếp đến là chùa Trung - chữ Thiên, chùa Thượng - chữ Địa. Vì

được thiết kế theo hình chữ Tam, nên ở giữa chùa Thượng – Trung – Hạ có

hai sân thiên tỉnh (giếng trời) hẹp và dài xen giữa để lấy ánh sáng từ trên trời

cao dọi xuống. Ánh sáng trời tỏa vào bên trong các ngôi chùa, tạo được sự

trong trẻo tĩnh mịch cho thị giác cũng như trong tâm thức của con người.

Phật giáo không chỉ kết hợp với tín ngưỡng thờ thần tự nhiên, mà còn

kết hợp với cả tín ngưỡng thờ nhân thần (thờ cúng tổ tiên, thờ thành hoàng,

thờ những người có công với đất nước, thờ thầy chữa bệnh,…)

Ở hai ngôi chùa này, các bộ cột thường được xây dựng bằng gỗ lim,

được bào tròn hình trụ, để mộc hoặc sơn. Kiến trúc của chùa Tây Phương có

tường bao quanh được xây kín, chỉ để hở những cửa thông khí ở hai bên có

hình tượng “sắc sắc, không không” (bán âm, bán dương).

Hầu như trong chùa chính, khắp nơi đều có chạm trổ rất tinh xảo. Các

đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... được trang trí bằng những đề tài

quen thuộc ở miền đồng bằng sông Hồng với hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa

cúc, hổ phù, tứ linh v.v,… hài hòa, tô điểm cho kiến trúc, làm cho công trình

kiến trúc mang tính nghệ thuật cao. Xung quanh diềm mái của 3 toà nhà trong

52

chùa Tây Phương đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn

nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường

nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng, biểu tượng cho sự sinh sôi này nở của

vạn vật.

Như vậy, sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của khu

vực Thạch Thất – Quốc Oai đã ảnh hưởng đến lối kiến trúc của chùa Thầy và

chùa Tây Phương, từ đó tạo nên nét đặc sắc trong Phật giáo của khu vực này

nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.

2.3. Biểu hiện qua nghệ thuật bài trí tƣợng thờ trong hai ngôi chùa

Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người dân

trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai là vô cùng đa dạng, không chỉ biểu

hiện qua kiến trúc của hai ngồi chùa, mà cụ thể chi tiết hơn, mối quan hệ này

còn được thể hiện trong từng cách sắp xếp tượng trong hai ngôi chùa này.

Trong hai ngôi chùa, hệ thống tượng Phật vô cùng phong phú, thể hiện được

sự sáng tạo của trí tưởng tượng vô cùng phong phú của người dân lao động

nơi đây.

Hai chùa này đều là hai chùa theo Đại Thừa nên chính điện và các tòa

nhà khác trong chùa đều thờ rất nhiều Phật, Bồ tát cùng các vị thần Phật giáo

khác. Nhìn chung thì hệ thống tượng Phật tại hai ngôi chùa này khá đa dạng

và phong phú.

Cách sắp xếp tượng Phật của chùa Thầy và chùa Tây Phương cơ bản là

giống nhau, chia trên hai chục chính: Trục ngang (thời gian) là bộ tượng Tam

Thế (Quá khứ, hiện tại, tương lai) và trục dọc (không gian) gồm tượng Tuyết

Sơn – Di Lặc – Thích Ca sơ sinh. Bộ tượng Tam Thế tượng trưng cho ba ngàn

đức Phật trong ba kiếp, cho tính bình đ ng về Phật tính, do đó ba pho tượng

hình dáng, kích thước tư thế tọa thiền tương tự nhau chỉ khác thế tay và một

vài chi tiết trang trí. Ba vị Phật này là đại biểu cho vô số Phật trong mọi thời

53

gian và không gian theo quan niệm của Phật giáo Đại Thừa. Tượng Tuyết

Sơn-Di Lặc-Thích Ca sơ sinh tượng trưng cho ba đoạn đời tu hành của Phật.

Tuyết Sơn là Phật ở giai đoạn tu khổ hành, chưa thành Phật, còn đau đáu về

cuộc đời, với hình dạng một nhà sư gầy gò, ngồi an tịnh, trầm mặc, khuôn mặt

đầy suy tư. Di Lặc được coi là vị Phật của tương lai, đấng Từ Tôn cứu thế,

người ta cho rằng “Di Lặc xuất thế thiên hạ thái bình”. Bởi vậy tượng Di Lặc

thường béo tốt, mặt tròn, bụng phệ, chân tay ngắn, tư thế một chân co, một

chân chống, khuôn mặt tượng luôn cười hớn hở bắt nguồn từ đại tâm từ bi hỉ

xả của ngài. Cuối cùng là tượng Thích Ca sơ sinh một tay chỉ lên trời, một tay

chỉ xuống đất ý nghĩa “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”, xung quanh có

chín con rồng tượng trưng cho mây trời linh thiêng hội tụ lấy nước thiêng tẩy

trừ những uế trọc cho đức Phật. Dưới các chân bệ tượng đều có những hoa

văn trang trí tinh xảo với những chủ đề hoa, lá, các hoa văn liên quan đến lực

lượng tự nhiên.

Phía dưới Tam thế xếp ba pho tượng, gọi là “Di Đà Tam Tôn” bao gồm

Bồ Tát Đại Thế Chí – A di đà – Bồ Tát Quan Âm. Ba tượng này có thế ngồi

tọa thiền kiết già (yoga), khiến tâm không thể lay động. Tượng Phật A di đà

có kích cỡ lớn hơn các tượng khác. Với vị trí đăc biệt, sự có mặc của tượng

Phật A di đà cùng các vị Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ Tát Quan Âm đã nói lên tín

ngưỡng Tịnh độ trong Phật giáo Bắc Bộ nói chung. Tuy ở Bắc Bộ ko có phái

Tịnh độ riêng biệt, nhưng tín ngưỡng Tịnh độ lại phổ biến rộng rãi, làm nên

một cơ tầng bình dân cho Phật giáo. Theo tín ngưỡng này, con người tin rằng

có một cõi gọi là cõi Tịnh độ, hay Tây Phương Cực Lạc, nơi đó có Phật A di

đà ngự trị, các Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí đã tiếp dẫn

những linh hồn về đó. Người ta chỉ cần nhất tâm niệm Phật A Di Đà là có thể

vãng sinh ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Tên “A Di Đà Phật” từ đó đã trở thành

câu chào của các tín đồ Phật giáo tại Việt Nam. Bộ tượng Di Đà Tam Tôn vừa

biểu đạt triết lý Phật giáo, lại vừa mang những đặc điểm thể hiện sự dung hòa

54

giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Tạo hình của các pho tượng mang

nhiều yếu tố nữ giới: Tượng Bồ Tát với hình dáng, y phục mang nhân dạng

nữ nhân của tầng lớp trên, nhưng yếu tố nữ giới được nhấn mạnh hơn nữa ở

những chi tiết: Tóc của tượng Bồ Tát Đại Thế Chí kết theo hình nút không

đầu không cuối và xõa rủ xuống vai. Cấu trúc bộ phận hai pho tượng Bồ Tát

theo tỷ lệ và đặc điểm của nữ giới như eo thon, bụng hẹp, ngực đầy, vai xuôi,

cổ cao ba ngấn,… Tượng Phật A Di Đà thể hiện trong nhân dạng nam giới

nhưng một số chi tiết trên cơ thể như trang sức ở thùy tai kết hoa sen bằng hạt

bảo châu, hay những nếp quần áo cũng uốn lượn cho gần với tính chất nữ

giới. Thêm nữa, các tượng này thường được trang trí bởi các hoa văn liên

quan đến lực lượng tự nhiên như văn xoắn, lửa, bảo châu, đồ án lửa tam muội,

cây thiên mệnh,…

Bàn đến chùa Tây Phương, không thể không nhắc đến 18 pho tượng

của 18 vị Tổ kế đăng (18 vị La Hán), bao gồm: Tượng Ma Ha Ca Diếp,

Tượng A nan đà, Tượng Thương Na Hòa Tu, Tượng Đề Đa Ca, Tượng Bà Tu

Mật, Tượng Đà Nan Đề, Tượng Đà Mật Đa, Tượng Hiếp Tôn Giả, Tượng Bồ

tát Mã Minh, Tượng Ca Tỳ Ma La, Tượng Long Thụ Tôn Giả, Tượng La

Hầu La Đa, Tượng Tăng Già Nan Đề, Tượng Già Da Đa Xá, Tượng Cưu Ma

La Đa, Tượng Xà Dạ Đa, Tượng Bát Nhã Đa La, Tượng Bồ Đề Đạt Ma. Các

vị tổ được chọn ở đây là những nhân vật đại diện cho mọi thành phần của xã

hội, nhằm nói lên tính chất rộng mở hòa đồng, trên cơ sở Đại Từ Đại Bi, lấy

giác ngộ Phật pháp làm trung tâm ứng xử. Đồng thời các vị tổ này cũng đại

diện cho những khâu phát triển cốt yếu của lịch sử Phật giáo.

Trong hai chùa còn có tượng của 8 vị thần Hộ pháp Bát bộ Kim Cương

gồm: Thanh Trì Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích

Thanh Hỏa, Đinh Trì Tai, Tử Hiền, Đại Lực Thần. Đây là mẫu hình đích thực

của các võ tướng với nhiều dáng vẻ trong một nguyên tắc thể hiện giống

nhau, xây dựng trên cơ sở “âm dương” luận. Cụ thể là các động tác tay của

55

tượng trong hình thức bao giờ cũng một cao một thấp, một động một tĩnh…

để biểu hiện sự điều hòa của hai lực đối đãi nhau, tạo thành một cường lực

xung mãn trong các thế võ của Kim Cương.

Đặc biệt ở chùa Thầy, đặc trưng thể hiện mối quan hệ giữa Phật giáo và

tín ngưỡng dân gian được thể hiện ở trong điện Thánh, thờ Thiền sư Từ Đạo

Hạnh ở ba kiếp khác nhau: tượng kiếp tu tiên đặt trong khám thờ bên trái,

giữa là tượng chân thân của họ Từ, bên phải là tượng Lý Thần Tông, hóa thân

Từ Đạo Hạnh. Nếu pho chân thân Từ Đạo Hạnh mang tính chân dung thể hiện

khuôn mặt khắc khổ gân guốc, trong trang phục áo cà sa, mũ pháp sư, ngồi

thiền định thì tượng Lý Thần Tông mang nhiều yếu tố tượng trưng, kích

thước lớn hơn người thực. Sinh động, độc đáo nhất là tượng Từ Đạo Hạnh ở

kiếp tu tiên đặt trong khám thờ với kích thước bằng người thật, làm bằng gỗ

chiên đàn.

Ngoài ra, gian thờ Mẫu cũng chính là điểm đặc trưng thể hiện sự dung

hợp giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian trong hai ngôi chùa này. Cách

trang trí bàn thờ Mẫu đã thể hiển rõ mối quan hệ này. Ở trên bàn thờ Mẫu có

treo rất nhiều đồ vàng mã như: nón, hài, thuyền rồng, đèn lồng,… đủ các loại

và kích cỡ khác nhau với màu sắc sặc sỡ. Sở dĩ như vậy vì các vị thần được

thờ ở ban Mẫu từ các Thánh Mẫu cho đến các hàng quan, hàng chầu, ông

Hoàng, các cô, các cậu đều gồm các vị thần linh có gốc gác từ mọi miền trên

đất nước, vì vậy đồ thờ mới có sự đa dạng và phong phú như vậy. Cách bài trí

các vị thần trên bàn thờ Mẫu cũng rất đặc trưng: Cung đệ nhất, còn gọi là hậu

cung, đây là ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, mà Mẫu Liễu Hạnh là Đệ nhất

Thánh Mẫu mặc áo đỏ, trùm khăn đỏ ngồi ở chính giữa, ở vị trí trang trọng

nhất, là Mẫu chủ thể của tín ngưỡng thờ Mẫu trong dân gian. Hai bên Mẫu đệ

nhất là Mẫu đệ nhị và Mẫu đệ tam. Mẫu đệ nhị mặc áo xanh, khăn xanh, tức

Mẫu Thượng Ngàn, còn Mẫu đệ tam mặc áo trắng, khăn trắng, tưc Mẫu

56

Thoải.

Cung đệ nhị: ban chính giữa thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu. Tiếp

đến là ban thờ Ngũ vị quan lớn (Quan thượng thiên mặc áo đỏ, Quan giám sát

mặc áo xanh, Quan thủy phủ mặc áo trắng, Quan khâm sai mặc áo vàng, Quan

tuần chanh mặc áo màu tím đen). Đây là màu sắc thuộc ngũ hành tương ứng

với: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ.

Cung đệ tam: ban chính giữa thờ các quan Hoàng Bảy, Hoàng Mười.

Hai gian bên thờ Đức Thánh Trần và Nhị vị Vương cô, tức là Nhâm từ Hoàng

hậu – vợ của vua Trần Nhân Tông và Thủy Tiên Đại hoàng công chúa – vợ

của Thượng tướng Phạm Ngũ Lão.

Cung đệ tứ: Gian giữa nhà Mẫu là ban Công đồng, hai bên có ban cô và

ban cậu, trên cao có Thanh xà, Bạch xà.

Gian bên là động Sơn Trang hoặc Thổ thần, Chầu Thủ đền.

Nhìn chung, chùa là một quần thể kiến trúc, không gian tâm linh khá đa

dạng và phong phú, ngoài thờ Phật ra thì còn có cả ban thờ Mẫu, thờ Thánh,

thờ Tổ. Bộc lộ ra sự dung hợp khá mật thiết giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân

gian.

Như vậy, việc sắp xếp và bố trí các vị thần trong hai ngôi chùa này đã

thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, đó cũng

là kết quả của quá trình tác động và điều chỉnh lẫn nhau của Phật giáo và nhu

cầu xã hội của người dân. Sự thờ mang tính dung hợp này được diễn qua

trong suốt quá trình phát triển của Phật giáo khu vực này nói riêng và Phật

giáo Bắc Bộ nói chung. Đặc biệt là những năm gần đây, khi mà Phật giáo phát

triển, nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người, thì việc phối thờ Thần,

Thánh ngày càng được chú trọng, và hình thức này giống như một chiếc cầu

nối để đưa quần chúng nhân dân ngày càng đến gần với giáo lý nhà Phật. Tất

57

cả những điều này đã cho chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết, khăng

khít giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của khu vực Thạch Thất – Quốc

Oai nói riêng và của Việt Nam nói chung.

2.4. Một số vai trò xu hƣớng phát triển chủ yếu của sự dung hợp giữa

Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai

 Vai trò

Phật giáo tuy là một tôn giáo ngoại lai, nhưng đã du nhập vào Việt Nam từ

rất lâu. Nó kết hợp với tín ngưỡng dân gian để dần hòa mình vào nền văn hóa

của cư dân lúa nước Việt. Vì vậy, sự dung hợp này cũng có những vai trò ảnh

hưởng đến xã hội người Việt nói chung và người dân khu vực Thạch Thất –

Quốc Oai nói riêng.

Thứ nhất, tạo cho người dân một đời sống tâm linh sâu sắc và hướng thiện.

Giáo lý của Phật giáo kết hợp cùng triết lý của tín ngưỡng dân gian tạo nên

nét văn hóa có nhiều điểm gần gũi với tâm tư, tình cảm của người dân Việt

nói chung và mang những ý nghĩa nhân văn sâu sắc, có giá trị trong đời sống

xã hội. Trước hết đó là việc luôn hướng con người đến những giá trị tốt đẹp,

lương thiện, bài trừ những mê lầm cố chấp, những ham muốn trái đạo lý để tự

hoàn thiện bản thân mình trong mối quan hệ với mọi người, với xã hội.

Những tư tưởng từ bi, hỷ xả, khoan dung, hòa bình, khuyến thiện, ngừa ác

của Phật giáo hòa cùng những tư tưởng “uống nước nhớ nguồn”, truyển thống

yêu nước, tôn sư trọng đạo, hay mưu cầu những điều tốt đẹp của tín ngưỡng

dân gian đã làm phong phú hơn đời sống tâm linh của người dân nơi đây, thức

tỉnh lương tri con người để hướng tới hòa bình và hạnh phúc, đem lại sự an

lạc cho tâm hồn.

Thứ hai, bảo tồn giá trị văn hóa, góp phần tạo nên sự phong phú và đa

58

dạng trong kiến trúc và lễ hội.

Giá trị văn hóa của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian

được thể hiện rõ nhất ở trong không gian các ngôi chùa. Với một hệ thống

chùa tháp có mặt ở hầu hết từng thôn, xã trong hai huyện, đã làm giàu đẹp,

phong phú thêm nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của khu vực Thạch Thất –

Quốc Oai.

Đa phần các ngôi chùa đều được xây dựng trong một phong cảnh thiên

nhiên trữ tình, thanh tịnh, có tính chuẩn mực, hệ thống và tổng hợp, gắn bó

hữu cơ giữa kiến trúc, điêu khắc, hội họa và cảnh trí thiên nhiên tạo thành

những danh lam thắng cảnh. Hai ngôi chùa Thầy và chùa Tây Phương cũng là

hai trong số các danh lam thắng cảnh nổi tiếng cả nước.

Xen với những ngôi chùa thuần Việt, tại khu vực này còn xuất hiện những

loại kiến trúc khác như “tiền Thần hậu Phật”, “tiền Phật hậu Thánh”, mà điển

hình là lối kiến trúc của chùa Thầy như đã trình bày, góp phần làm phong phú

thêm các loại hình kiến trúc tín ngưỡng – tôn giáo nói riêng, kiến trúc dân

gian truyền thống nói chung.

Chùa cũng là nơi hình thành nên những không gian văn hóa điển hình,

biểu hiện sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian như: Lễ Vu Lan,

Lễ Phật đản, đàn tràng giải oan, chạy đàn cầu mưa, cầu an giải hạn, hay còn

cả nhảy đồng,… Ngoài ra, trong lễ hội còn có sự kết hợp nhiều hình thức

nghệ thuật độc đáo khác như nghệ thuật sân khấu (chèo) gắn với các Phật

thoại, các huyền tích, Thánh thoại,…tạo nên hình thức sinh hoạt tinh thần rất

phong phú. Mặt khác, có nhiều ngôi chùa có những pho tượng mang tính nghệ

thuật cao, điển hình như pho tượng Tuyết Sơn, bộ tượng La hán tại chủa Tây

Phương. Đây cũng là một điểm để thu hút khách thập phương, các Phật tử về

chùa một mặt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các pho tượng, mặt khác thông qua

59

đó để cảm nhận được cái nhìn soi thấu của Đức Phật.

Thứ ba, góp phần điều chỉnh các hành vi xã hội theo chuẩn mực của đạo

đức truyền thống.

Vai trò của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dan gian đối với đạo

đức trước hết là định hướng, giáo dục con người theo những chuẩn mực đạo

đức tốt đẹp. Từ bi, hỷ xả, cứu khổ cứu nạn của tư tưởng Phật giáo kết hợp

cùng những tư tưởng đạo hiếu, “uống nước nhớ nguồn”, “ở hiền gặp lành”…

của tín ngưỡng dân gian tạo nên một nền tảng đạo đức phù hợp với mong

muốn của xã hội Việt Nam nói chung, của khu vực Thạch Thất nói riêng

trong việc xây dựng nền đạo đức mới. Những tư tưởng này cũng chính là

những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp khi mà xã hội hiện nay, cơ chế thị trường

mở cửa đã góp phần làm phát triển chủ nghĩa cá nhân, sự vô tâm và ích kỷ ở

một số cá nhân.

“Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu” Phật giáo kêu

gọi mọi người, các tín đồ Phật tử hãy hành đạo vì lợi ích chung, chứ không

phải vì bản thân mình, và hãy hành đạo bằng cái tâm, chứ không phải bằng

hình thức. “Phật pháp bất ly thế gian”, tức Phật pháp lan tỏa, không tách rời

với xã hội, hướng con người đến những hành động tu thân, giúp đời một cách

cụ thể, thiết thực, chứ không dừng lại ở việc tụng kinh, gõ mõ.

Một vai trò to lớn về mặt đạo đức của mối quan hệ này chính là nâng cao

tinh thần đoàn kết của quần chúng nhân dân. Phật giáo là tôn giáo với chủ

trương bình đ ng con người, là tôn giáo yêu nước đồng hành cùng dân tộc,

được kết hợp với tư tưởng “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta, hướng người

dân đi đến khối đại đoàn kết.

Như vậy, sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian mang một

vai trò, ý nghĩa to lớn, đáp ứng nhu cầu về văn hóa, tâm linh của quần chúng

trong khu vực này, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa ngàn đời của

60

dân tộc, tạo ra một đời sống tâm linh hết sức phong phú cho nhân.

 Xu hướng phát triển

Trong thời đại toàn cầu hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm

vi toàn thế giới, thì khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, hai huyện thuộc thành

phố Hà Nội – trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị quan trọng của cả nước,

không thể đứng ngoài xu hướng này. Và đây cũng là khu vực đang chịu ảnh

hưởng bởi trào lưu biến đổi mạnh mẽ của các luồng văn hóa nội sinh, sao cho

phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn nhân loại, nhưng đồng thời cũng

chịu không ít những luông tư tương của văn hóa ngoại lai du nhập vào.

Những điều kiện đó đã tác động mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa Phật giáo và

tín ngưỡng dân gian nơi đây và dần làm biến đổi nó. Nhu cầu về tinh thần của

xã hội ngày càng cao và biến đổi mỗi ngày, tạo động lực cho mối quan hệ

giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian cũng xảy ra biến đổi liên tục, phong

phú và đa dạng hơn. Nó ngày càng biến đổi theo xu hướng bản địa hóa, hòa

nhập và thích ứng với từng hoàn cảnh cụ thể. Xét thêm, trước xu thế phát

triển chung của các tôn giáo cũng với sự ảnh hưởng nhất định của các luồng

tư tưởng mới thì Phật giáo cũng như tín ngưỡng dân gian trong khu vực này

cũng có những thay đổi để trở nên hòa nhập với sự phát triển chung. Từ đó

dẫn đến hai xu thế phát triển như sau:

Thứ nhất, đó là xu hướng muốn tách Phật giáo ra khỏi tín ngưỡng dân

gian, đưa Phật giáo trở về cái gốc của nó là Phật giáo chính thống. Sau một

thời gian dài Phật giáo hòa mình vào lối sống của cộng đồng, và chịu nhiều sự

ảnh hưởng của xã hội, ngay lúc này Phật giáo đã chuyển mình và dần tách

khỏi sự chi phối của xã hội, để trở về với những giao lý nguyên thủy vốn có

của nó. Phật giáo trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai cũng có biểu hiện

dần muốn trở về cội nguồn của mình, tuy nhiên xu hướng này chỉ diễn ra

mang tính cục bộ, trong phạm vi một số tu sĩ và một số bộ phận cư sĩ tân học,

điều này cũng để lại hệ quả đến cách nhận thức lại về Phật giáo của con

61

người, tuy không lớn.

Thứ hai, đó là xu hướng dung hợp Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, điều

này được thể hiện rất rõ trong các ngôi chùa tại khu vực này. Mối quan hệ này

đặt ra nhiều vấn đề cần suy nghĩ bởi sự đa chiều của nó. Hỗn dung Phật giáo

và tín ngưỡng dân gian sao cho vẫn giữ gìn được văn hóa, bản sắc dân tộc mà

ngược lại vẫn thể hiện được tốt những giáo lý, triết lý nhân sinh của nhà Phật.

Chính vì vậy, việc hỗn dung Phật giáo và tín ngưỡng dân gian không đơn lẻ

chỉ mang ý nghĩa về cuộc sống tâm linh, tôn giáo, mà nó còn mang cả ý nghĩa

về vấn đề văn hóa, dấu lịch sử của vùng đất nơi đây.

Với những điều kiện thuận lợi, Phật giáo và tín ngưỡng dân gian đã hỗn

dung theo các phương thức:

Thứ nhất, đó là hỗn dung một cách “tự phát”. Phật giáo tiếp nhận và hòa

nhập các tín ngưỡng dân gian vào trong chùa với mục đích thu hút đông đảo

quần chúng đến với Phật giáo. Cùng với đó, gắn các hoạt động của tín ngưỡng

dân gian vào lối sinh hoạt của Phật giáo, ví dụ như: dân sao giải hạn, đốt vàng

mã, lễ lên đồng, cúng sóc vọng,…

Thứ hai, đó là hỗn dung theo phương thức “tự giác”. Đó là việc phổ cập

hóa tư tưởng của Phật giáo vào trong những sinh hoạt văn hóa của quần

chúng nhân dân thông qua các hình thức của tín ngưỡng dân gian. Các tập tục

như là: ăn chay, phóng sinh, bố thí,… chính là những tập tục văn hóa dân gian

của Trung Quốc mà khi vào đến Việt Nam thì đã được biến đổi thành những

ảnh hưởng của Phật giáo.

Tuy nhiên, trong hai xu hướng phát triển của Phật giáo kể trên thì xu

hướng thứ hai, xu hướng dung hợp Phật giáo và tín ngưỡng dân gian phát

triển mạnh mẽ và vượt trội hơn h n. Xu hướng này có tầm ảnh hưởng mạnh

62

mẽ đến hầu hết các ngôi chùa trong khu vực Thạch Thất – Quốc Oai.

KẾT LUẬN

Phật giáo và tín ngưỡng dân gian có sự dung hợp với nhau tạo ra mối

quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau. Phật giáo du nhập vào Việt Nam

khi người Việt đã có các tín ngưỡng, phong tục bản địa vô cùng phong phú,

tuy vậy đạo Phật đi vào bằng con đường hòa bình, cùng với các giáo lý từ bi,

hỷ xả và giải thoát, vị tha có nhiều nét tương đồng với đạo lý của người Việt,

vì vậy nó đã nhanh chóng hòa nhập cùng với tín ngưỡng dân gian, đi sâu cắm

rễ vào thế giới tinh thần của quần chúng nhân dân Việt Nam. Trong quá trình

du nhập và tồn tại ở nước ta, Phật giáo đã dần hòa mình và phát triển với dòng

chảy văn hóa để từ “Phật giáo ở Việt Nam” trở thành “Phật giáo Việt Nam”.

Sự hỗn dung Phật giáo với các tín ngưỡng dân gian đã khiến nó trở nên thân

thuộc, gần gũi và gắn bó với văn hóa dân tộc ta, khiến cho người thời nay

không còn coi Phật giáo là một tôn giáo ngoại lai nữa, mà cho rằng nó chính

là cơ tầng văn hóa truyền thống của người Việt. Trong mối quan hệ này thì

Phật giáo nắm vai trò là chủ thể chính. Ta có thể thấy sự dung hợp này được

thể hiện rõ nét trong những ngôi chùa ở Đồng bằng Bắc Bộ.

Tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, sự hỗn dung giữa Phật giáo và tín

ngưỡng dân gian diễn ra mạnh mẽ là lan tỏa sâu rộng trong đời sống tâm linh

của người dân nơi đây. Cả đạo Phật và tín ngưỡng dân gian nơi đây đều mở

cửa và biết thu nhận lẫn nhau một cách tích cực nhất. Vì thế, Phật giáo ngày

càng xuất hiện và ảnh hưởng mạnh mẽ đến quần chúng, cũng như các tín

ngưỡng như: thờ cúng tổ tiên, thờ Thần, thờ Thánh, thờ Mẫu,… cũng đã trở

thành một bộ phận cấu thành của Phật giáo Việt Nam. Các ngôi chùa trong

khu vực này được xây dựng và sắp xếp theo lối “tiền Phật hậu Thánh” đã biểu

hiện rõ sự dung hợp này.

Tóm lại, sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Đồng bằng

Bắc Bộ nói chung và khu vực Thạch Thất – Quốc Oai nói riêng đã và đang

63

góp phần làm cho đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân ngày càng

phong phú, hoàn thiện hơn. Một mặt, giúp cho tín ngưỡng dân gian trở nên

giàu thêm về giá trị văn hóa, có thêm những diện mạo mới, mặt khác cũng

giúp Phật giáo trở thành kim chỉ nam cho đạo lý quần chúng, xây dựng nền

văn hóa nơi đây đầy nét nhân văn, mang đậm giáo lý từ bi, hỷ xả, nâng cao

tinh thần đoàn kết dân tộc. Trong xu hướng toàn cầu hóa ngày nay, nó giúp

con người định hình được đạo đức và lối sống, phải tu tâm tích đức, chăm làm

điều thiện, diệt trừ cái ác, học cách tha thứ, luôn giữ cho tâm trong sáng để

bản thân không bị tha hóa giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy rẫy những vấn

64

đề.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1950), Từ điển Việt – Hán, NXB. Minh Tân, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (2006), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB. Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

3. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt Nam, NXB. Văn hóa Thông tin, Hà

Nội

4. Đặng Minh Châu (2016), Mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng

dân gian tại Việt nam (Qua nghiên cứu một số ngôi chùa tiêu biểu của

Phật giáo Bắc tông), Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học

KHXH&NV (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.

5. “Hệ thống Tượng Phật Chùa Thầy với Phật Giáo Mật Tông” (2017),

Cúng dường tượng Phật.

6. Khai Đăng (2009), Tìm hiều các ngày lễ ở Việt Nam, NXB. VĂn hóa

Thông tin, Hà Nội.

7. Mai Thanh Hải(2002), Từ điển Tôn giáo, NXB. Từ điển Bách khoa, Hà

Nội.

8. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

10. TS. Nguyễn Thị Thu Hường (2017), “Đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam

hiện nay - Một số giải pháp cơ bản”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước.

11. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa

dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (số 5), Tr. 5-13.

12. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, 2 tập, NXB. Văn

học, Hà Nội.

13. PGS.TS. Nguyễn Công Lý (2010), “Phật giáo thời Lý – Trần với bản

sắc dân tộc Đại Việt”, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường

65

ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP. HCM.

14. Thích Bảo Nghiêm (2003), Hà Nội Danh Lam cổ tự, NXB. Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

15. Pierre Gourou, Người Nông dân châu thổ Bắc Kỳ, NXB Trẻ, Viện

Viễn đông Bác cổ Pháp.

16. Vũ Quỳnh – Kiều Phú (1960), Lĩnh Nam chích quái, NXB. Văn hóa,

Hà Nội.

17. Nguyễn Minh San(1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb

Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

18. Thích Nguyên Tạng (2012), “Ảnh Hưởng Phật Giáo Trong Đời Sống

Người Việt”, Thư viện Hoa Sen.

19. Văn Tân (chủ biên) (1991), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Khoa học xã

hội, Hà Nội.

20. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (1990), Thiền uyển tập anh, NXB. Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

21. Tô Tuấn (2017), “Chùa và Văn hóa làng”, Chuyện của làng.

22. TS. Triệu Thế Việt – Th.s Nguyễn Thu Thủy (2013), Triết lý Phật giáo

và bản sắc văn hóa Việt qua tượng thờ trong chùa Việt ở châu thổ Bắc

Bộ (Nghiên cứu trường hợp một số bộ tượng điển hình), Hội thảo Tôn

66

giáo.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Ảnh một Phủ thờ mẫu tại gia của người dân Thạch Thất.

67

Phụ lục 2: Ảnh múa rối nước tại chùa Thầy vào ngày hội 7/3 Âm lịch.

68

Phụ lục 3: Ảnh nhà vong tại chùa Thầy.

69

Phụ lục 4: Ảnh Hang Thánh Hóa tại chùa Thầy.