ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài: Phương pháp quy nạp của Francis Bacon

Sinh viên :

Phan Hoàng Hoàng

MSSV: 15031545

Lớp:

K60 Triết học

Hà Nội – 05/2019

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3

NỘI DUNG ........................................................................................................... 7

CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH NẢY SINH PHƯƠNG PHÁP QUY NẠP CỦA FRANCIS BACON ................................................................................................................ 7 1.1. Francis Bacon và tác phẩm “Bộ công cụ mới” ..................................... 7 1.2. Nội dung chính trong triết học Bacon ................................................... 9 1.2.1. Quan niệm của Bacon về bản chất, nhiệm vụ của triết học và khoa học. 9 1.2.2. Quan niệm của Bacon về thế giới .................................................... 10 1.2.3. Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo .......................................... 12 1.3. Khái niệm về quy nạp và những đặc điểm của phương pháp quy nạp 13

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG PHƯƠNG PHÁP QUY NẠP CỦA FRANCIS BACON .............................................................................................................. 17 2.1. Phương pháp quy nạp của Aristotle và sự phê phán tam đoạn luận – diễn dịch của Francis Bacon ................................................................................. 17 2.1.1. Phương pháp quy nạp của Aristotle ................................................. 17 2.1.2. Sự phê phán tam đoạn luận – diễn dịch của Francis Bacon ............ 20 2.2. Học thuyết về ngẫu tượng ...................................................................... 22 2.2.1. Các loại ngẫu tượng ......................................................................... 22 2.2.2. Giá trị của học thuyết ngẫu tượng của Bacon.................................. 33 2.3. Phương pháp ba bảng của Francis Bacon .............................................. 34

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 77

2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 80

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài khóa luận

Đúng như tiên đoán của C.Mác, khoa học ngày nay đã trở thành “ lực

lượng sản xuất trực tiếp”, trở thành nhân tố mang tính quyết định đối với sự phát

triển của xã hội hiện đại. Tiến bộ khoa học đã và đang trở thành một trong

những vấn đề triết học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, cấp bách.

Nghiên cứu vấn đề này, chúng ta không thể không quay lại với di sản lý luận

của F.Bacon. Chính Ông được C.Mác coi là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh

và khoa học thực nghiệm hiện đại. F.Bacon chính là người có đóng góp lớn lao

trong việc phát triển khoa học và triết học của thời kỳ cận hiện đại nói riêng và

của nhân loại nói chung. Tinh thần hăng say khám phá và phục hưng khoa học

của F.Bacon đã ảnh hưởng lớn và sâu rộng đến các trào lưu triết học Anh - Tây

Âu thế kỷ XVII – XVIII với những tác phẩm có giá trị và ý nghĩa vạch thời đại.

Với tuyên bố: “Tri thức là sức mạnh” có ý nghĩa quan trọng và trở thành

tuyên ngôn của thời đại lịch sử mới – thời đại văn minh khoa học và công nghệ,

F.Bacon đã khẳng định vai trò của tri thức là không thể thiếu được trong đời

sống xã hội hiện nay, vai trò ấy vẫn đã và đang là đề tài được tranh luận trong

các suy lý triết học phương Tây hiện đại.

Ngày nay, khi khoa học và kỹ thuật đã trở thành yếu tố quyết định của sự

phát triển xã hội, là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu, khoa

học càng trở thành đối tượng quan trọng trong nghiên cứu của nhiều ngành khoa

học (xã hội học, kinh tế học, chính trị học, v.v.), trong đó có triết học với tên gọi

là “triết học về khoa học”. Điều này được phản ánh rõ trong việc hoạch định các

chính sách và chiến lược phát triển khoa học, kỹ thuật và kinh tế của nhiều nước

trên thế giới. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển cụ thể của từng nước

mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển khoa học kỹ thuật mang tính đa

3

dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể phù hợp với hoàn cảnh,

điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia. Và điều nổi bật rút ra ở các chiến

lược, chính sách đó ở tất cả các nước trên thế giới từ những nước có nền kinh tế

hiện đại đứng hàng đầu thế giới, như Mỹ, Nhật, Pháp, v.v. cho đến những nước

có nền kinh tế chậm phát triển và lạc hậu như Việt Nam, Lào , Campuchia, một

số nước Trung Đông, - đó chính là quan điểm rằng, sự phát triển khoa học và kỹ

thuật là một định hướng quan trọng mới, có tính quyết định trong việc phát triển

kinh tế quốc gia. Bởi vậy việc nghiên cứu, tổng kết, xác định vị trí và vai trò của

khoa học trong xã hội hiện đại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước

trên con đường công nghiệp hoá - hiên đại hoá.

Nghiên cứu triết học của F.Bacon nói chung và tư tưởng triết học về khoa

học của ông nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ngoài việc tái hiện và chỉ

ra những luận điểm tích cực của F.Bacon, với việc khẳng định khoa học là chìa

khóa, là điểm khởi đầu cho việc sử dụng khoa học như là: “Lực lượng sản xuất

trực tiếp” quyết định sự thành bại của một quốc gia, mà còn thông qua đó để

khẳng định vị trí, vai trò của khoa học kỹ thuật là yếu tố cốt tử đối với sự phát

triển của xã hội và chỉ ra những hạn chế của F.Bacon trong tác phẩm “Công cụ

mới” dưới ánh sáng của xã hội hiện đại, kể cả những vấn đề của xã hội việt nam

đang tồn tại.

Triết học của F.Bacon nói chung và đặc biệt là tư tưởng triết học về khoa

học của ông trong tác phẩm “Công cụ mới” chưa được nghiên cứu đầy đủ và

sâu sắc ở ta, do vậy việc tìm hiểu nó trở thành một nhiệm vụ tất yếu và quan

trọng đối với những người nghiên cứu và giảng dạy triết học.

Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn chủ đề

“Phương pháp quy nạp của Francis Bacon” làm đề tài nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Các công trình có nghiên cứu và đề cập đến tiền đề khoa học tự nhiên cho

sự ra đời của triết học F.Bacon có thể khái quát ở một số tác phẩm sau: Cuốn “

4

những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây”, tác giả Phạm Minh Lăng, Nxb.

Văn hóa thông tin, Hn, 2001, tr121 -122; Lịch sử triết học phương Tây trước

Mác, của tác giả Trần Văn Phòng- Dương minh Đức, Nxb. Đại học sư phạm,

2003, tr 68;

Những công trình đề cập đến tiền đề triết học bao gồm: Luận văn “ học

thuyết của F.bacon về nhận thức” của Nguyễn Thị Hồng Diệp, khoa triết học –

Đại học khoa học xã hội nhân văn, 2012, tr 22- 25; Cuốn Lịch sử triết học của

tác giả Phương kỳ Sơn, NXB chính trị quốc gia, HN, 2000; Lịch sử triết học

của tác giả Nguyễn Hùng Hậu, NXB Chính trị - Hành chính, 2010.

Có thể nói, cho dù có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học

của F.Bacon trên các phương diện khác nhau của nó, song có một nghịch lý là

cho tới nay chưa có công trình nghiên cứu nào đi vào phân tích giải pháp của

F.Bacon cho một trong những vấn đề cấu thành nội dung cơ bản của triết học

trung cổ và có tác động không nhỏ đến quá trình hình thành và phát triển của

triết học Phục hưng, - đó là vấn đề quan hệ giữa khoa học với tôn giáo trong tư

tưởng triết học về khoa học của F.Bacon. Khi có tính đến lịch sử của vấn đề này

trong triết học trung cổ, triết học Phục hưng và bản thân triết học đương thời với

F.Bacon, cũng như tính cấp bách của nó trong điều kiện hiện nay

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục tiêu nghiên cứu:

Phân tích nội dung về Phương pháp quy nạp của Francis Bacon, đặc

biệt trong tác phẩm “Bộ công cụ mới”.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

Làm rõ điều kiện lịch sử - xã hội ra đời về phương pháp quy nạp trong

tư tưởng của Bacon.

Làm rõ nội dung cơ bản của các loại ngẫu tượng đó trong tác phẩm “Bộ

công cụ mới”.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:

Nội dung phương pháp quy nạp trong tư tưởng của Francis Bacon. 5

- Phạm vi nghiên cứu:

Phương pháp quy nạp của Bacon, đặc biệt được thể hiện trong tác phẩm

“Bộ công cụ mới” và các tài liệu đã được nghiên cứu trước đây.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận:

Lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử. Lý luận cơ bản của tư tưởng triết học hiện đại.

- Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp phân tích và tổng hợp

lý thuyết; phương pháp lịch sử. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu, người

nghiên cứu còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, tham khảo các

nguồn tài liệu có liên quan để nhận định rõ hơn về đối tượng nghiên cứu rồi

tiến hành đánh giá đối tượng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài niên luận

Nghiên cứu giúp nắm rõ hơn về phép quy nạp trong tư tưởng triết học

của Francis Bacon.

Nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho quá trình tìm ra phương

pháp quy nạp đúng đắn cũng như là tài liệu cho các sinh viên, nhà nghiên cứu

tham khảo, đóng góp ý kiến.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

gồm 2 chương lớn nằm trong nội dung chi tiết như sau:

Chuơng 1. Bối cảnh nảy sinh phương pháp quy nạp của Francis Bacon.

6

Chương 2. Nội dung cơ bản trong phương pháp quy nạp của Francis Bacon.

NỘI DUNG

Chương 1: Bối cảnh nảy sinh phương pháp quy nạp của Francis Bacon 1.1. Francis Bacon và tác phẩm “Bộ công cụ mới”

Francis Bacon là nhà triết học vĩ đại thời cận đại. Theo Mác, Bacon là ông

tổ của chủ nghĩa duy vật Anh. Theo Mác, Bacon là ông tổ của chủ nghĩa duy vật

Anh và khoa học thực nghiệm. Bắt đầu từ Bacon, lịch sử triết học Tây Âu bước

sang một giai đoạn mới.

Bacon sinh năm 1561 trong một gia định quý tộc Anh. Sau khi tốt nghiệp

trường đại học tổng hợp Kembrigiơ, ông công tác nhiều năm về ngoại giao cho

vương triều Xtiua. Mặc dù sống ở nước Anh thời kỳ trước cách mạng tư sản,

nhưng Bacon vẫn nhiệt liệt ủng hộ những cải cách tư sản nhằm phát triển đất

nước, ủng hộ sự phát triển khoa học và triết học Anh. Những tác phẩm lớn của

ông là “Đại phục hồi các khoa học( 1605), Công cụ mới( 1620)…

Bacon được phong tước hiệp sĩ năm 1603. Ông được biết đến là một nhân

vật quan trọng của Cách mạng khoa học và được xem là cha của chủ nghĩa duy

nghiệm và phương pháp khoa học. Mặc dù sự nghiệp chính trị của ông bị tiêu

tan trong nỗi ô nhục, sức ảnh hưởng của ông vẫn còn mãi theo thời gian cùng

với các tác phẩm của ông. Đáng chú ý nhất với vai trò một người ủng hộ triết

học và một người thực hành phương pháp khoa học trong cuộc cách mạng khoa

học.

Bacon được gọi là cha đẻ của chủ nghĩa kinh nghiệm. Những tác phẩm

của ông đã hình thành và phổ biến hóa phương pháp luật quy nạp đáp ứng cho

yêu cầu khoa học, và thường được gọi là "Phương pháp Bacon", hay đơn giản là

"phương pháp khoa học".

Yêu cầu của ông về một phương pháp nghiên cứu sự vật hiện tượng tự

nhiên một cách có kế hoạch đã đánh dấu một bước chuyển mới trong khuôn khổ

7

mỹ từ và lý thuyết cho khoa học, phần lớn phương pháp mà ông phát minh ra

vẫn còn tồn tại bao hàm trong những quan niệm về phương pháp luận đúng đắn

ngày nay.

Francis Bacon qua đời đột ngột năm 1626, để lại New Atlantis cũng như

dự án Đại phục hồi khoa học còn dang dở. Tuy nhiên, những gì ông đã đóng góp

cho triết học và khoa học đều có ảnh hưởng rất lớn. Sự xuất hiện của Francis

Bacon đóng vai trò như một gạch nối quan trọng, nối liền dòng chảy phát triển

triết học nước Anh, vốn bị bỏ trống trong một thời gian dài, kể từ lúc những triết

gia nổi tiếng như John Wycliffe và William xứ Ockham qua đời. Không những

vậy, triết học Bacon, với tinh thần phê phán và khám phá, còn ảnh hưởng sâu

rộng đến triết học Anh và Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII. Những thành tựu mà ông

tưởng tượng và phác họa trong New Atlantis như các công cụ đông lạnh dự trữ,

đài thiên văn, hồ lọc nước ngọt… đều đã trở thành sự thật. Điều đó cho thấy tầm

nhìn khoa học đúng đắn của Francis Bacon. Do đó, tuyên bố “Tri thức là sức

mạnh” của ông như một lời khăng định về tầm quan trọng của tri thức, khoa học

trong đời sống xã hội cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

“Bộ công cụ mới” là cuốn sách nền tảng của phương pháp khoa học.

Bacon đã nhấn mạnh về việc sử dụng các thí nghiệm nhân tạo để cung cấp các

quan sát bổ sung các hiện tượng. Chính bằng cuốn sách này, Fracis Bacon đã

được coi là “Cha đẻ của Triết học thực nghiệm”. Mặc dù các phương pháp thực

nghiệm của Bacon đến nay không còn quá mới nhưng cuốn sách vẫn còn rất

quan trọng bởi vì ông đã xem xét đến khía cạnh tâm lý của người nghiên cứu

vốn rất dễ bị sa đà vào các lời giải thích siêu hình mà không dựa trên quan sát

thực sự.

Bộ công cụ mới của Francis Bacon hướng đến việc phát minh ra các lập

luận, các mẫu thiết kế và bảng hướng dẫn cho công việc nghiên cứu khoa học.

Ông phê bình hình thức tam đoạn luận là thiếu chặt chẽ và đề cao phương pháp

quy nạp khi xử lý bản tính của các sự vật. Bởi theo Francis Bacon, phương pháp

8

quy nạp là hình thức chứng minh chứng thực cho giác quan, những khái niệm

được rút ra theo phương pháp này đều xuất phát từ những tiên đề đã được xác

thực rõ ràng.

Bacon dành phần thứ nhất của Công cụ mới để làm công việc “dọn sạch

mặt bằng”: vạch trần những nguyên nhân tâm lý gây ra lầm lẫn của con người.

Những thái độ sai lầm – từ đó nảy sinh những lỗi tư duy – bị ông gọi là những

ngẫu tượng (idole). Ngẫu tượng là một hình ảnh bám rễ rất sâu, chiếm lĩnh tinh

thần con người, được tôn thờ nhưng lại không có thực chất nào cả và là những

rào cản cho nhận thức. Ngẫu tượng là thần tượng giả mạo. Với cách đặt vấn đề

như thế, Bacon không chỉ là người mở đầu cho thuyết duy nghiệm mà còn khai

sinh môn tâm lý học hiện đại.

Trong “Cách ngôn” thứ 39 thuộc phần đầu của quyển sách, F. Bacon viết:

“Có bốn loại ngẫu tượng bắt đầu óc ta làm tù binh...: loại thứ nhất là ngẫu

tượng Bộ lạc, loại thứ hai là ngẫu tượng cái Hang, loại thứ ba là ngẫu tượng

cái Chợ và loại thứ tư là ngẫu tượng Sân khấu”.

Ngẫu tượng Bộ lạc thuộc về bản tính chung của loài người. Ngẫu tượng

cái Hang nảy sinh trong đầu óc cá nhân mỗi người. Loại thứ ba (cái Chợ) là

những sai lầm liên quan đến ngôn ngữ, và loại thứ tư (Sân khấu) là do sự nguỵ

biện và khiếm khuyết về học vấn. Ông dùng hình ảnh “sân khấu” với tấm màn

nhung của nó như là một biểu trưng cho bao tấn trò đời. Không phải ngẫu nhiên

khi cuối thế kỷ 19, người ta cứ nghĩ ông mới là tác giả đích thực của những vở

kịch mang tên Shakespeare!

1.2. Nội dung chính trong triết học Bacon

1.2.1. Quan niệm của Bacon về bản chất, nhiệm vụ của triết học và khoa

học.

Theo Bacon, triết học là nền tảng của công cuộc canh tân đất nước. Chịu

ảnh hưởng của quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học – quan

niệm thống trị suốt thời cổ đại, Bacon hiểu triết học theo nghĩa: nó là tổng thể

9

các tri thức lý luận của con người về Thượng đế, về giới tự nhiên và về bản thân

con người. Vì vây, triết học chia làm ba học thuyết: học thuyết về Thượng đế,

học thuyết về giới tự nhiên và học thuyết về con người. Trong đó, học thuyết về

Thượng đế được coi là thần học, nhưng chỉ có bộ phận thần học tự nhiên( tức

học thuyết lý giải Thượng đế dưới góc độ nghiên cứu khoa học, vạch ra những

khía cạnh hợp lý của nó) mới thuộc về triết học. Còn bộ phận thần học Thượng

đế( tức xem xét Thượng dế dưới góc độ tôn giáo) thì thuộc về lĩnh vực tôn giáo,

tín ngưỡng…Học thuyết về tự nhiên trong triết học được Bacon gần như đồng

nhất với các khoa học tự nhiên, còn học thuyết về con người thì được coi là nhân

bản học. Theo Bacon, khác với bộ môn lịch sử và các dạng nhận thức nghệ thuật

chỉ đơn thuần dựa vào khả năng trí nhớ hay biểu tượng của con người, triết học

và khoa học mang tính lý luận và khái quát cao. Tư duy triết học mang tính lý

tính, mang tính trí tuệ cao nhất.

Nhiệm vụ của triết học là “đại phục hồi các khoa học”, nghĩa là phải cải

tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó. Phê phán những ai coi

khoa học như một nghề thủ công có lãi. Bacon cho rằng khoa học đem lại lợi ích

cho toàn thể nhân loại nói chung chứ không riêng cho ai.

Đánh giá cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội, Bacon

khẳng định “tri thức là sức mạnh”.

1.2.2. Quan niệm của Bacon về thế giới

Trước tiên, theo Bacon, phải phủ nhận sự tồn tại của nguyên nhân mục

đích của các sự vật, vì đó là điểm duy tâm của Aristotle. Mọi cái trên thế gian

chỉ tồn tại ba nguyên nhân, là “hình dạng”, “vật chất” và “vận động”.

Trong đó, hình dạng của sự vật nằm trong chính bản thân sự vật, là bản

chất hoàn toàn khách quan của nó. Nhà duy vật Anh hiểu phạm trù “hình dạng”

của sự vật theo mấy khía cạnh sau:

Đây là nguồn gốc bên trong của sự vật, là cái mà nhờ đó sự vật là nó chứ

10

không phải là cái khác.

Là nguyên nhân tất yếu và đầy đủ để sự vật đó xuất hiện.

Đó là phạm trù thể hiện bản chất chung của một nhóm sự vật có cùng

những tính chất giống nhau, là quy luật vận động vật chất trong các sự vật đó.

Quan niệm của Bacon về “hình dạng” thể hiện ý đồ của ông muốn dung

hợp giữa hai hướng trong cách hiểu phạm trù này trong triết học trước đó. Xu

hướng thứ nhất giải thích được cả tính đa dạng lẫn tính thống nhất của thế giới,

nhưng lại rơi vào quan niệm vật hoạt luận trong việc lý giải nguồn gốc của vận

động – điều mà ông không muốn. Còn xu hướng thứ hai giải thích được nguồn

gốc của vận động một cách duy vật, coi đó là sự va chạm các nguyên tử, nhưng

lại không giải thích được sự đa dạng của thế giới.

Từ nhận xét trên, Bacon muốn dung hòa cả hai xu hướng trên, tiếp thu

những điểm hợp lý, đồng thời khắc phục những hạn chế của chúng. Nhưng ông

đã không hoàn toàn thực hiện được điều đó. Vì thế, không tránh khỏi quan niệm

vật hoạt luận. Tuy vậy, nhìn chung ông ngả về xu hướng thứ hai hơn.

Khẳng định vận động là đặc tính của sự vật, Bacon cho rằng nhận thức

bản chất của các sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Theo nhận xét của

C.Mác và Ph.Ăngghen: Bacon đã hiểu rằng: “Trong những đặc tính vốn có của

vật chất, vận động là đặc tính thứ nhất và quan trọng nhất, không phải chỉ với

tính cách là vận động máy móc và toán học mà hơn nữa còn với tính cách là xu

hướng, sức sống, sự khẩn trương…của vật chất”[2, 195].

Không dừng lại ở việc khẳng định tính tất yếu và phổ biến của vận động,

Bacon đã tìm cách phân loại các dạng. Theo ông có 19 dạng vận động:

1) Vận động xung đối; 2) Vận động móc nối, kết hợp; 3)Vận động giải

phóng mà thông qua đó sự vật hướng tới thoát khỏi áp lực; 4)Vận động, trong đó

sự vật hướng tới khối lượng và kích thước mới; 5) Vận động liên tục; 6) Vận

động có lợi; 7) Vận động tự hợp lại với quy mô lớn; 8) Vận động tự hợp lại với

11

quy mô nhỏ; 9) Vận động từ tính; 10) Vận động sản sinh ra; 11) Vận động chạy

trốn; 12) Vận động thức tỉnh; 13) Vận động mô tả, ghi nhận; 14) Vận động

ngoại tuyến; 15) Vận động theo xu hướng; 16) Vận động hùng tráng; 17) Vận

động tự quay; 18) Vận động rung động; 19) Vận động đứng yên.

Ở đây, về cơ bản, Bacon phân loại các dạng vận động theo cảm tính, chưa

theo các cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất, mà hầu như quy toàn bộ các

dạng vận động thành các hình thức vận động cơ học. Tuy nhiên, việc coi đứng

yên là một dạng vận động, cũng như coi vận động là đặc tính cố hữu của vật

chất ở Bacon là một quan niệm duy vật và cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi

đó. Ông là một trong những người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của

thế giới.

1.2.3. Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo

Con người, theo Bacon, là sản phẩm của tạo hóa. Do vậy, khoa học về con

người cũng chính là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu các quan niệm của Aristotle

về con nguời, Bacon chia linh hồn con người thành các dạng “linh hồn thực

vật”, “linh hồn động vật” và lý tính. Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có

cả ở thực vật và động vật. Trong con người chúng ta là một dạng chất lỏng được

pha loãng trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần kinh tựa như các

đường ống tác động lên các giác quan, điều khiển chức năng sống của cơ thể. Bộ

phận cảm tính của linh hồn này có thể bị hủy hoại cùng với cơ thể, khi con

người chết.

Con người phần linh hồn lý tính thì có nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là

một khả năng kỳ diệu mà Chúa ban cho con người, và do vậy mang tính thần

thánh. Và chính vì trong con người có cả hai dạng linh hồn cảm tính và lý tính,

cho nên, một mặt, con người rất gần gũi với động vật, nhưng, mặt khác, lại là

một cái gì đó siêu phàm.

Vì xuất phát từ cả hai nguồn gốc trên( tức cả giới tự nhiên và Thượng đế)

cho nên bên cạnh các hoạt động chính trị, khoa học, nghệ thuật,…con người còn

12

cần đến tôn giáo. Bản tính của con người do vậy, không cho phép anh ta theo

hoàn toàn lập trường vô thần. Con người cần đến tôn giáo để vượt qua những lúc

mềm yếu, bất lực. Tôn giáo đem lại cho người ta niềm tin. Nhưng mặt khác nhà

thờ không được phép dùng các biện pháp chống lại các nhà vô thần, cũng như

không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ thuật của con người.

Nhìn chung, quan niệm của Bacon thể hiện sự thỏa hiệp của giai cấp tư

sản Anh thời đó đối với các vấn đề tôn giáo.

1.3. Khái niệm về quy nạp và những đặc điểm của phương pháp quy nạp

Quy nạp có nghĩa là quy về, dẫn về,…được hiểu là phương pháp tư duy

mà mục dicdsh của nó là phân tích sự vận động của tri thức từ các phán đoán

đơn nhất, riêng lẻ đến các phán đoán chung. Nó phản ánh bước chuyển tư tưởng

từ những mệnh đề ít chung đến những mệnh đề có tính chung cao hơn. Có thể

coi quy nạp là một dạng suy luận trong đó có sự thực hiện bước chuyển tri thức

về những đối tượng riêng biệt của một lớp đến tri thức về toàn bộ lớp đó [9,

153].

- Các dạng suy luận của quy nạp

Trước hết, người ta chia quy nạp ra thành quy nạp liệt kê hoàn toàn và

quy nạp liệt kê không hoàn toàn.

- Quy nạp liệt kê hoàn toàn

Được thực hiện theo công thức sau:

S1 là P

S2 là P

………

Sn là P

Biết rằng S1, S2,…Sn là toàn bộ các đối tượng của lớp S( n là số tự nhiên

13

hữu hạn)

Do đó, kết luận : Tất cả S là P.

Ví dụ :

Tháng 10 ở Hà Nội có mưa, gió lạnh và ẩm

Tháng 11 ở Hà Nội có mưa, gió lạnh và ẩm

Tháng 12 ở Hà Nội có mưa, gió lạnh và ẩm

Tháng 10, 11, 12 là các tháng của mùa đông.

Do đó, mùa đông ở Hà Nội có mưa, gió lạnh và ẩm.

Như vậy, quy nạp liệt kê hoàn toàn là một dạng suy luận quy nạp mà

trong đó kết luận chung được rút ra trên cơ sở đã biết tất cả về các đối tượng của

lớp cần nghiên cứu, không có ngoại lệ. Vị từ của các tiền đề và kết luận là cùng

một cái. Quy nạp liệt kê hoàn toàn giống với các suy luận diễn dịch trong tính

xác thực của kết luận. Trong loại quy nạp này, vị từ được chuyển từ loài sang

giống, vì vậy, nó không đem lại tri thức về các đối tượng khác ngoài những cái

có ở trong tiền đề.

- Quy nạp liệt kê không hoàn toàn mà tại thời điểm rút ra kết luận không

gặp mâu thuẫn

Công thức sau :

S1 là P

S2 là P

……….

Sn là P

S1, S2,…, Sn là một phần lớp S

14

Do đó, tất cả S là P

Chỉ cần một trường hợp trong phần lớp S mâu thuẫn là đủ làm cho kết

luận của quy nạp liệt kê đó đã trở thành sai lầm. Một ví dụ kinh điển : “ Tất cả

các thiên nga đều trắng ” trong suốt một thời gian dài tồn tại như một điều hiển

nhiên đúng, nhưng khi ở Úc phát hiện ra một loại thiên nga có lông đen thì ví dụ

trên đã không còn đúng nữa. Như vậy, kết luận của quy nạp liệt kê không hoàn

toàn luôn mang đặc điểm xác suất.

Bên cạnh đó, người ta còn phân chia các phương pháp quy nạp dựa trên

việc thiết lập mối liên hệ nhân quả. Trong logic học, J.Mill( 1806 – 1873) là

người đã xây dựng các phương pháp này một cách hoàn chỉnh. Ông đã đưa ra

bốn phương pháp quy nạp dựa trên mối liên hệ nhân quả :

- Phương pháp giống nhau duy nhất

Các hoàn cảnh xảy ra Các hiện tượng quan sát Trường hợp trước( nguyên nhân) được( kết quả)

A, B, C a,b,c 1

A, D, E a, d, e 2

Kết luận Khả năng, A là nguyên nhân của a

Phương pháp này áp dụng với quan sát nhiều hơn là thực nghiệm.

- Phương pháp khác biệt duy nhất

Các hoàn cảnh xảy ra Các hiện tượng quan sát Trường hợp trước( nguyên nhân) được( kết quả)

A, B, C a,b,c 1

B, C b, c 2

Kết luận Khả năng, A là nguyên nhân của a

15

- Phương pháp phần dư

Hiện tượng cần nghiên cứu được chia thành các hiện tượng nhỏ cùng loại

a, b, c, d. Người ta đã tìm ra những điều kiện có trước các hiện tượng trên là A,

B, C, D.

Biết : A là nguyên nhân của a

B là nguyên nhân của b

C là nguyên nhân của c

Kết luận : Khả năng còn một hiện tượng D nào đó cùng loại với A, B, B là

nguyên nhân của d.

- Phương pháp cộng biến

Những trường hợp xuất hiện như Hiện tượng cần được Trường hợp là những nguyên nhân nghiên cứu

1 A, B, C, D a

2 A1, B, C, D a1

3 A2, B, C, D a2

4 A3, B, C, D a3

Kết luận Khả năng A là nguyên nhân của a

Thực chất của phương pháp này như sau : nếu cùng với sự thay đổi của

hiện tượng A luôn kéo theo sự thay đổi của một hiện tượng a nào đó mà chúng

ta quan tâm nghiên cứu và tất cả các hiện tượng khác B, C, D còn lại không thay

16

đổi thì khả năng A là nguyên nhân của a [9, 167].

Chương 2: Nội dung cơ bản trong phương pháp quy nạp của Francis Bacon

2.1. Phương pháp quy nạp của Aristotle và sự phê phán tam đoạn luận – diễn dịch của Francis Bacon

2.1.1. Phương pháp quy nạp của Aristotle

Quy nạp được Aristotle nghiên cứu với tư cách là: 1) Hình thức suy luận

xác thực, 2) Hình thức suy luận biện chứng, 3) Phương pháp nhận thức cái

chung.

Quy nạp với tư cách là phương tiện chứng minh tiền đề lớn của tam đoạn

luận dạng hình I, tự nó được xác định thông qua một tam đoạn luận đặc biệt –

được gọi là tam đoạn luận thông qua quy nạp. Loại tam đoạn luận quy nạp này

khác với tam đoạn luận thông thường – được gọi là tam đoạn luận thông qua

thuật ngữ giữa.

Thuật ngữ về bản chất( B) là nguyên nhân hiện thực của một tính chất nào

đó( A) của chủ từ G, được thể hiện trong kết luận. Như vậy, quy nạp là suy luận

về nguyên nhân( B) của một tính quy định này hay khác( A) thông qua sự hiểu

biết các tính chất của chủ từ G[8, 226].

Sơ đồ tam đoạn luận dạng I:

M P Ví dụ: Mọi loài bò sát là động vật máu lạnh

S M Rắn là một loài bò sát

----- --------------------------------------------

S P Vậy, rắn là một loài động vật máu lạnh

Còn sơ đồ suy luận quy nạp có thể được thể hiện như sau:

Giả sử A có nghĩa là sống lâu, B có nghĩa là không có mật, G là các động

17

vật không có mật cụ thể như người, ngựa, la…Sơ đồ lúc này có dạng:

Bất kỳ động vật không có mật nào cũng sống lâu( B a A)

Người, ngựa, la thực chất là những động vật không có mật( G a B)

Vậy, người, ngựa, la sống lâu( G a A)

Nếu thuật ngữ G không bao quát tất cả các động vật không có mật, thuật

ngữ B không chu diên thì các tiền đề đã cho tất yếu rút ra theo dạng hình III( M

P – M S → S P) của tam đoạn luận, kết luận lúc này chỉ là phán đoán bộ phận :

Một số động vật không có mật, sống lâu( BiA). Trong trường hợp này là quy

nạp không hoàn toàn. Kết luận của nó không là xác thực, mà chỉ là xác suất. Còn

nếu thuật ngữ G bao gồm tất cả các động vật không có mật thì lúc này, theo hệ

quả sẽ được gọi là quy nạp hoàn toàn.

Quy nạp như vậy, về thực chất là một loại tam đoạn luận, và Aristotle gọi

nó là “tam đoạn luận thông qua quy nạp”. Đối lập với nó là tam đoạn luận thông

qua thuật ngữ giữa. Một cái như là kết luận thông qua tri thức về các tính chất

của vật, đối lập với một cái như là suy luận về tính chất nào đó của chủ từ thông

qua sự hiểu biết nguyên nhân của tính chất này.

Bên cạnh đó, Aristotle cũng coi tam đoạn luận chứng minh là một dạng

quy nạp khác. Đây là dạng không chứng minh, mà chỉ là lập luận chiện chứng,

dẫn đến điều là : thừa nhận tri thức chung thông qua một tri thức bộ phận hoặc

đơn nhất, nói cách khác, như là một dạng lập lập, đưa các trường hợp đơn nhất

về chứng minh tính chân thực của cái chung [8, 229]. Dạng quy nạp này được

Aristotle xem xét trong “ Topics ”.

Ở chương 12, quyển I của “ Topics”, Aristotle viết : “ Sau việc này cần

nghiên cứu xem, có bao nhiêu lập luận biện chứng. Một dạng quy nạp, còn dạng

khác – tam đoạn luận. Tam đoạn luận là gì đã được nói đến trước đây. Còn quy

nạp – là bước chuyển từ cái đơn nhất đến cái chung, ví dụ, nếu người cầm lái mà

18

biết công việc, - là người tốt nhất, mà đồng thời người đánh xà ích – cũng là

người tốt nhất, thì nói chung người hiểu biết trong mỗi công việc – là người tốt

nhất. Quy nạp có khả năng thuyết phục và cam kết, trong nhận thức, nó gần với

tri giác cảm tính và được nhiều người nghiên cứu, còn tam đoạn luận – thì có

tính bắt buộc hơn và hiện thực hơn trong mối quan hệ với những người chống

đối – hay trong những cuộc tranh luận. Ở một chỗ khác của “Topics ”, Aristotle

định nghĩa quy nạp như là bước chuyển từ cái đã biết nhiều hơn dựa trên cơ sở

của tri giác cảm tính hay là dựa trên ý kiến của đa số mọi người, đến cái chưa

biết ”.

Hiển nhiên là, đối với Aristotle, kết luận quy nạp trong cả hai dạng của nó( quy nạp không hoàn toàn và quy nạp tam đoạn luận – hoàn toàn), là không chỉ sự liên kết có trong các phán đoán bộ phận và phán đoán đơn nhất, mà còn là dạng tri thức mới, đó chính là tri thức về cái chung, về nguyên nhân và về các hệ quả của nó, hoặc là tri thức về tính quy luật [8, 231]. Cũng vì vậy, mà tam đoạn luận :

Bất kỳ người nào cũng là thực thể sống

Dion là người

Vậy, Dion là thực thể sống.

Tam đoạn luận trên không mang lại tính hiệu quả, hay tri thức gì mới.

Trong khi đó, theo Aristotle thì cái chung là nó mà không phải chỉ có giá

trị “bây giờ và “ở đây”, mà nó “luôn luôn” và có ở “khắp nơi” – trong bất kỳ

thời gian nào và ở bất kỳ vị trí nào.

Vấn đề quy nạp như là phương pháp nhận thức cái chung xuất hiện ở

Aristotle trong mối liên hệ với học thuyết của ông về tính nhận thức được cái

chung thông qua cái đơn nhất và sự phủ định dứt khoát tính bẩm sinh của tri

thức. Nếu cái chung không tồn tại ngoài cái đơn nhất và nhận thức được chỉ

thông qua cái đơn nhất, thì phương pháp nhận thức cái chung có thể chỉ là đi từ

19

đơn nhất đến cái chung, chỉ có quy nạp.

Từ đó, có thể thấy : vấn đề quy nạp như là một phương pháp khoa học. Và

các nguyên tắc của phương pháp nghiên cứ bằng quy nạp các mối liên hệ nhân

quả, lần đầu tiên được hình thành bởi người đặt nền móng cho chủ nghĩa duy vật

Anh Francis Bacon dưới dạng các quy tắc xây dựng các bảng “ có mặt” , “vắng

mặt ” và “ trình độ”. Nhưng một trong những khuyết tất cơ bản đầu tiên của

Bacon đó là tính máy móc của các thủ pháp lựa chọn và kiểm tra.

2.1.2. Sự phê phán tam đoạn luận – diễn dịch của Francis Bacon

Bên cạnh học thuyết về ngẫu tượng sẽ được trình bày ở phần sau, thì sự

phê phán tam đoạn luận – diễn dịch là bước quá độ đi đến việc xây dựng phương

pháp quy nạp của Bacon.

Tam đoạn luận của Aristotle, đặc biệt là khi nó được các nhà triết học

kinh viện sử dụng theo hướng kinh viện, tư biện thì chỉ dừng lại ở trình độ phân

tích ngôn từ. Theo Bacon, điều này là vô tác dụng đối với việc nhận thức tự

nhiên [6].

Theo Bacon, tam đoạn luận – diễn dịch cho chúng ta những kết luận về tri

thức không thể vượt ra khỏi khuôn khổ nội dung tri thức chứa trong các tiền đề

và không thể cho ta tri thức mới. Vì theo ông, tri thức mới là tri thức phải chứa

đựng những nội dung phản ánh những hình thức của tự nhiên, chứ không phải

do sức mạnh của tư duy sáng tạo ra.

Suy cho cùng, tam đoạn luận – diễn dịch là kết quả của sự khái quát từ

kinh nghiệm. Bacon cho rằng các nhà kinh viện khi sử dụng tư tưởng của

Aristotle đã dựa vào quan sát một số chứng cứ hoàn toàn không đầy đủ để tạo

nên những khái niệm rộng nhất và biến chúng thành cơ sở của tri thức. Họ dựa

vào một vài bằng chứng, ví dụ vụn vặt để xây dựng nên các tiên đề và khẳng

định một cách vô căn cứ về bản chất sự vật. Do đó, theo ông, bộ máy khái niệm

của chủ nghĩa kinh viện không thể trở thành cơ sở thực tế cho việc nhận thức

20

giới tự nhiên một cách khoa học [6].

Theo ông, tam đoạn luận được cấu thành từ các câu, còn các câu lại được

cấu thành từ các từ, mà từ thì về thực chất là ký hiệu của các khái niệm. Vì thế

nên một khi các khái niệm cấu thành nên nền tảng của tất cả mà bị lẫn lộn và

được trừu tượng hóa một cách thiếu suy nghĩ từ chính các sự vật, thì tất cả

những gì xây dựng trên cơ sở của chúng đều không vững chắc. Vậy nên, tam

đoạn luận – diễn dịch lúc bấy giờ trở nên lung lay. Để khắc phục thiếu sót đó,

theo Bacon, cần phải áp dụng phương pháp khác – phương pháp quy nạp chân

chính.

Phương pháp diễn dịch của Aristotle là kiểu tư biện trung cổ và khẳng

định phương pháp kinh nghiệm như là phương pháp chính để khắc phục sự thiếu

sót của nó. Nhưng chỉ đến Bacon, phương pháp kinh nghiệm mới thực sự trở

thành một phương pháp nhận thức.

Về thực chất, phương pháp quy nạp – kinh nghiệm trong việc nghiên cứu

giới tự nhiên của Bacon đã vượt qua được tính tư liệu. Nó cho phép từng bước

hình thành những khái niệm mới. Nếu như tam đoạn luận – diễn dịch của

Aristotle bỏ qua các chứng cớ và thường rơi vào những sai lầm khác nhau trên

con đường hình thành tri thức mới, thì phương pháp quy nạp – dựa trên cơ sở

kinh nghiệm, đã đặt nhiệm vụ phân tích các chứng cứ lên hàng đầu. Chỉ có

phương pháp đó, theo ông, mới có khả năng phát hiện ra chân lý mới mà không

phải dậm chân tại chỗ. Khi gọi tác phẩm của mình là “Bộ công cụ mới”, ông đã

nhấn mạnh sự khác biệt đó trong phương pháp quy nạp của mình.

Theo Bacon, để khắc phục được các ngẫu tượng vốn có trong bản chất trí

tuệ của con người và những hạn chế của tam đoạn luận – diễn dịch theo kiểu

Aristotle ở các nhà triết học kinh viện thời kỳ trung cổ, cần có “công cụ nhận

21

thức mới” – đó là phương pháp quy nạp dựa trên cơ sở kinh nghiệm.

2.2. Học thuyết về ngẫu tượng

2.2.1. Các loại ngẫu tượng

Bacon là người nhiệt thành ủng hộ sự phát triển của khoa học. Với hoài

bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan, Bacon đồng

thời chỉ ra những hạn chế trong các khả năng nhận thức của con người, những

hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt và nhất thời, mà là những

sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của con người trong nhận thức. Ông

gọi chúng là các ngẫu tượng. Để nhận thức chân lý và khắc phục được các ngẫu

tượng, thì phải vạch ra cơ chế và bản chất của chúng. Do vậy, Bacon coi học

thuyết về các ngẫu tưởng tựa như phần mở đầu trong nhận thức và phương pháp

luận của mình.

Các ngẫu tượng có nguồn gốc hoàn toàn khách quan, bởi vì chúng một

phần có trong bản chất trí tuệ con người, một phần xuất hiện trong quá trình lịch

sử nhận thức của nhân loại, một phần nảy sinh trong sinh lý và nhân cách của

mỗi người. Vì vậy, quá trình con người đấu tranh khắc phục những hạn chế

khách quan đó cũng là quá trình con người đấu tranh vì sự hoàn thiện bản thân

mình.

Việc xây dựng các khái niệm và các tiên đề thông qua phép quy nạp chân

thực đương nhiên là phương tiện đúng đắn để ngăn ngừa và loại bỏ các ngẫu

tượng. Nhưng ngay cả việc chỉ ra các ngẫu tượng cũng rất hữu ích. Học thuyết

về ngẫu tượng đối với việc giải thích giới tự nhiên cũng giống như học thuyết về

sự bác bỏ ngụy biện đối với phép biện chứng phổ biến.

Có bốn loại ngẫu tượng cản trở trí tuệ của con người. Bacon phân ra các

dạng ngẫu tưởng như sau:

- Dạng ngẫu tượng loài

Nó sinh ra do việc loài người thường xuyên nhầm lẫn bản chất trí tuệ của

mình với bản chất khách quan của sự vật. Ai cũng dễ dàng gán cho sự vật những

22

đặc tính riêng của con người.

Sở dĩ có loại ngẫu tượng này, theo Bacon, là do các giác quan cũng như trí

tuệ con người còn chưa thật hoàn thiện. Một trong những biểu hiện của ngẫu

tượng này là ở chỗ người ta thường hay bảo thủ, coi ý kiến và suy nghĩ chủ quan

của mình là thước đo tất thảy mọi vật. Chúng ta chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng

của các ngẫu tượng này bằng cách hoàn thiện các phương tiện nhận thức của con

người như thực nghiệm…

Trí tuệ con người giống như chiếc gương không phẳng;khi nó trộn lẫn

bản chất của mình với bản chất của các sự vật thì sẽ phản chiếu các sự vật đó

dưới dạng méo mó và biến dạng [4, 35].

Lý tính của con người sử dụng mọi thứ để bảo vệ và nhất trí với điều mà

một khi nó đã thừa nhận, hoặc vì đó là đối tượng của niềm tin chung, hoặc là vì

nó ưa thích điều đó. Sức mạnh và số lượng các sự kiện lại chứng tỏ cho điều

ngược lại, dù đó có là gì đi chăng nữa thì lý tính hoặc không để ý đến chúng,

hoặc loại bỏ và bác bỏ chúng nhờ những sự phân định với lời cảnh báo thái quá

và thô thiển để cho tính đáng tin cậy của các kết luận trước đây không bị loại bỏ.

Huyễn hoặc mình bằng điều kiện hư ảo, con người chỉ nhận thấy sự kiện đã diễn

ra mà không để ý tới cái đã lừa mình, cho dù nó thường xảy ra nhiều hơn. Ngoài

ra, thậm chí cả sự thiên vị và hư ảo đó không có, thì lý tính con người vẫn quen

mắc sai lầm là nó ngả theo các luận cứ khẳng định hơn là các luận cứ phủ định,

trong khi đó thì đáng ra nó phải có thái độ như nhau đối với chúng. Thậm chí,

luận cứ phủ định có sức mạnh lớn hơn trong việc xây dựng mọi tiên đề chân

thực.

Cái có tác động mạnh nhất đến lý tính của con người là cái có thể ngay

lập tức và đột ngột làm cho nó phải kinh ngạc. Chính điều này, thường kích

thích và lấp đầy trí tưởng tượng. Nó âm thầm cải biến những thứ khác khi hình

dung chúng như một cái không đáng kể đang chế ngự trí tuệ của nó [4, 43].

Lý tính con người ham muốn biết chừng nào. Nó không thể tự dừng lại,

23

không thể nằm trong sự yên tĩnh mà ngày càng tiến xa hơn. Nhưng tư duy lại

không có khả năng nắm bắt giới hạn và kết cục của thế giới, song dường như

luôn cần phải hình dung một cái gì đó tồn tại xa hơn. Vì khi phân biệt tính vô

hạn trong quá khứ và tính vô hạn trong tương lai, ý kiến thông thường hoàn toàn

là vô căn cứ. Từ đó suy ra rằng, tính vô hạn này lớn hơn tính vô hạn kia và tính

vô hạn bị rút ngắn, có thiên hướng dẫn tới cái hữu hạn. Và khi hướng tới cái ở

xa hơn, nó lại quay lại với cái ở gần nó hơn, mà đó chính là các nguyên nhân

hữu hạn – các nguyên nhân có nguồn gốc của chúng thực ra là bản tính con

người chứ không phải bản chất của vũ trụ. Và một khi xuất phát từ nguồn gốc

ấy, người ta đã xuyên tạc triết học một cách kỳ lạ.

Con người thực ra tin vào tính chân thực của cái mà con người ưa thích.

Con người khước từ cái khó khăn – vì không đủ kiên nhẫn để tiếp tục nghiên

cứu; khước từ điều tỉnh táo – vì điều này không hứa hẹn hy vọng; khước từ điều

cao siêu trong tự nhiên – do mê tín; khước từ ánh sáng của kinh nghiệm – do

kiêu ngạo và coi thường ánh sáng ấy để lý tính không bị chìm đắm vào những

điều hẹn hạ và không vững chắc; khước từ những nghịch lý – do ý kiến được

mọi người chấp nhận [4, 45].

Sự rắc rối và những sai lầm của lý tính con người chủ yếu sinh ra từ tính

cổ hủ, sự không phù hợp và sự lừa dối các giác quan, vì cái thức tỉnh giác quan

sẽ được đề cao hơn cái không kích thích giác quan ngay lập tức, mặc dù nó là tốt

hơn. Do vậy, trực giasoc chấm dứt khi sự nhìn chấm dứt, vì việc quan sát các sự

vật vô hình là không đủ hay hoàn toàn vắng mặt. Do vậy, toàn bộ sự chuyển

động của tinh thần nằm trong các vật cảm giác được nhưng còn bị che đậy hay

không tiếp cận được đối với con người. Cảm tính tự thân nó là yếu đuối và mắc

sai lầm, những công cụ có nhiệm vụ tăng cường và làm cho giác quan trở nên

sắc bén cũng không có giá trị đáng kể. Thực ra thì việc giải thích giới tự nhiên

đạt được nhờ quan sát thông qua các kinh nghiệm được tổ chức một cách hợp lý.

Ở đây, cảm tính chỉ phán xét về kinh nghiệm, còn kinh nghiệm thì phán xét về

24

tự nhiên và bản thân sự vật.

Xét về bản chất của mình, lý tính con người hướng vào cái trừu tượng và

xem cái biến đổi như là cái bất biến. Nên phân chia giới tự nhiên ra thành các bộ

phận thì tốt hơn là trừu tượng hóa nó. Cần phải nghiên cứu nhiều hơn về vật

chất, về trạng thái nội tại của nó, về sự biến đổi của trạng thái đó, về tác động

thuần túy và về quy luật tác động hay chuyển động , vì hình thức thực chất là sự

bịa đặt của trí tuệ con người, trừ khi gọi các quy luật tác động ấy là những hình

thức.

Tất cả những ngẫu tượng trên là ngẫu tượng loài. Chúng bắt nguồn từ thực

thể đơn điệu của tinh thần con người, hoặc từ định kiến của nó, hoặc từ hạn chế

của nó, hoặc từ sự chuyển động không ngừng của nó, hoặc tự sự ám thị của dục

vọng, hoặc từ sự không có năng lực cảm tính, hoặc từ phương thức tri giác.

Ở đây, ta thấy việc Bacon đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách

quan là hợp lý. Ông nhận xét đúng rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý

chí trong hoạt động của mình. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn vai

trò của cái chủ quan trong nhận thức. Việc đòi hỏi nhận thức phải “khách quan

thuần túy” của ông là một điều không tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích cực

trong việc phê phác các quan niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó, vì sự

tiến bộ của khoa học.

- Dạng ngẫu tượng hang động

Ngẫu tượng hang động thực chất là những sai lầm của từng con người

riêng biệt.

Ngoài những ngẫu tượng đối với cả loài người, thì mỗi người còn có các

đặc tính chủ quan, tâm lý, tính cách đặc thù của mình làm xuyên tạc bản chất

khách quan của sự vật. Chúng còn xuất hiện do hoàn cảnh giáo dục của mỗi

người cũng khác nhau nữa. Thực chất ngẫu tượng hang động chính là ngẫu

tượng loài, nhưng biểu hiện ở mỗi người cụ thể ở mức độ và hình thức khác

25

nhau. Sở dĩ gọi là “ngẫu tượng hang động” bởi vì mượn câu chuyện của Platon

về hang động. Bacon ví trí tuệ của mỗi người tựa như hang động méo mó của

Platon, mà trong đó thể hiện cái bóng của các sự kiện diễn ra bên ngoài.

Con người yêu thích hoặc các khoa học và các học thuyết mà họ tự coi

mình là người sáng tạo và là tác giả, hoặc các khoa học và học thuyết mà họ đầu

tư vào đó nhiều sức lao động nhất và họ đã quen thuộc hơn cả. Nếu những người

như vậy cống hiến mình cho triết học và cho các học thuyết phổ quát, thì họ sẽ

xuyên tạc và làm hỏng chúng do tác động của các chủ ý trước đó của họ.

Sự khác nhau lớn nhất và dường như căn bản nhất giữa các trí tuệ đối với

triết học và khoa học là như sau. Một số trí tuệ là mạnh mẽ và hữu dụng hơn đối

với việc phát hiện ra sự khác biệt trong các sự vật, còn số khác – đối với việc

phát hiện ra sự giống nhau trong chúng. Những trí tuệ cứng rắn và sắc sảo có thể

tập trung suy ngẫm của mình, dừng lại ở mỗi sắc thái của các sự khác biệt. Còn

những trí tuệ cao cả và linh hoạt thì nhận ra và so sánh những sự giống nhau tinh

tế, có mặt ở khắp nơi giữa các sự vật. Nhưng cả hai loại trí tuệ ấy đều dễ dàng đi

quá xa trong việc chạy theo hoặc những bộ phận của các vật, hoặc những cái

bóng của chúng [6, 50].

Một số trí tuệ có thiên hướng tôn sùng thời cổ, số khác thì bị cám dỗ bởi

tình yêu cái mới. Nhưng một số ít trí tuệ có thể tuân thủ một mức độ nào đó để

không loại bỏ những cái đã được người cổ xác định một cách xác đáng và không

coi thường những cái mới được tiến cử một cách có lý. Không nên tìm kiếm

chân lý ở sự thành đạt có tính bất biến của một thời đại nào đó, mà phải thông

qua ánh sáng của kinh nghiệm mang tính vĩnh hằng về giới tự nhiên.

Do vậy, chúng ta cần phải dứt khoát khước từ những khát vọng ấy để đảm

bảo rằng chúng không khống chế trí tuệ.

Việc quan sát trực tiếp giới tự nhiên và các vật thể trong tính đơn giản của

chúng sẽ nghiền nát và làm suy yếu lý tính; còn việc quan sát giới tự nhiên và

các vật thể trong tính phức tạp và hình dáng của chúng sẽ làm cho lý tính choáng

26

váng và sửng sốt. Điều này thể hiện rõ nhất ở trường phái Leucippus và

Democritus, nếu đặt trường phái này bên cạnh học thuyết của các nhà triết học

khác. Vì trường phái này bị cuốn hút vào các bộ phận của sự vật tới mức coi

thường cấu tạo chung; các trường phái khác thì say mê quan sát trực tiếp cấu tạo

của các sự vật tới mức không thâm nhập vào tính đơn giản của giới tự nhiên. Do

vậy, những quan sát trực tiếp này phải nối tiếp và thay thế lẫn nhau để cho lý

tính trở nên vừa sáng suốt và vừa nhạy cảm, cũng là để né tránh được các mối

nguy hiểm và các ngẫu tượng sinh ra từ đó [4, 52].

Tính thận trọng trong trực giác phải như thế nào để không cho phép có và

để loại bỏ các ngẫu tượng hang động chủ yếu sinh ra hoặc từ thống trị của kinh

nghiệm quá khứ, hoặc từ sự so sánh và phân chia quá nhiều, hoặc từ thiên hướng

về cái nhất thời, hoặc từ sự rộng rãi và không đáng kể của các khách thể. Nói

chung, cứ mặc cho mỗi người đang trực giác về bản chất của các sự vật hoài

nghi cái xâm chiếm và khống chế lý tính của người ấy một cách đặc biệt mạnh

mẽ. Cần phải rất thận trọng trong trường hợp ưa thích như vậy để lý tính vẫn

điềm tĩnh và trong sáng. [4, 53].

Để hạn chế ngẫu tượng này, mỗi người cần phải hoàn thiện nhân cách của

mình, thận trọng trong quá trình nhận thức, dựa vào kinh nghiệm tập thể…

- Dạng ngẫu tượng nơi công cộng

Nó xuất hiện do mọi người thường hay sùng bái, chạy theo các quan điểm

của ai đó có uy tín hoặc ủng hộ những quan điểm phổ biến giáo điều, các tập

quán truyền thống. Trong đó, bên cạnh nhiều yếu tố tích cực, cũng chứa đựng

không ít những điều lạc hậu.

Các ngẫu tượng này còn xuất hiện do ngôn ngữ khoa học của chúng ta

nhiều chỗ chưa thật chuẩn xác.

Đây là ngẫu tượng nặng nề nhất, chúng thâm nhập vào lý tính cùng với

27

ngôn từ và tên gọi. Con người tin rằng lý tính của họ điều khiển ngôn từ. Nhưng

cũng có trường hợp ngôn từ chĩa sức mạnh của mình chống lại lý tính. Điều này

làm cho triết học và các khoa học trở thành ngụy biện và vô dụng.

Phần lớn ngôn từ có nguồn gốc là ý kiến thông thường và mổ xẻ các vật

trong giới hạn hiển nhiên nhất đối với lý tính của đám đông. Khi lý tính sắc bén

hơn và sự quan sát chăm chú hơn muốn xem xét lại giới hạn này để nó phù hợp

hơn với giới tự nhiên, thì ngôn từ trở thành vật cản. Từ đó, hóa ra là những cuộc

tranh luận ầm ĩ và hào hùng giữa các nhà khoa học thường biến thành những

cuộc tranh luận về ngôn từ.

Những ngẫu tượng mà ngôn từ gán cho lý tính có hai loại. Một số - tên

gọi của các vật không tồn tại; số khác – tên gọi của các vật tồn tại, nhưng là tên

gọi không rõ ràng, được xác định không tốt, được trừu tượng khỏi các vật một

cách thiếu thận trọng và không khách quan. Loại thứ nhất bắt nguồn từ các lý

luận trống rỗng và sai lầm. Loại bỏ ngẫu tượng này là dễ hơn, vì để loại bỏ

chúng thì thường xuyên bác bỏ và làm cho lý luận trở nên lỗi thời là đủ. Nhưng

loại ngẫu tượng khác là phức tạp và bám rễ sâu. Đây là loại sinh ra từ những sự

trừu tượng tồi và thiếu kinh nghiệm.

Ví dụ với từ “ẩm ướt”.

Nó biểu thị những cái dễ dàng lan tỏa xung quanh một vật thể khác;

những cái tự thân chúng không có tính ổn định; những cái chuyển động về mọi

hướng; những cái dễ dàng phân chia và phân tán; những cái dễ dàng hợp nhất và

tập hợp; những cái dễ dàng chảy và chuyển động; những cái dễ dàng liên kết với

những vật khác và làm cho chúng ẩm ướt; những cái dễ dàng biến thành chất

lỏng hay tan ra nếu trước đó chúng đã là cứng.

Từ trên là sự biểu thị không rõ ràng những hành động khác nhau, không

cho phép một sự hợp nhất hay quy giản nào. Ví dụ có thể thấy rằng ngọn là là

ẩm ướt, không khí là không ẩm ướt. Và như vậy, chúng ta thấy hoàn toàn rõ

28

ràng rằng, khái niệm này chỉ được trừu tượng hóa một cách không cân nhắc kĩ

càng từ nước và từ các chất lỏng thông thường mà không có một sự kiểm tra

thích đáng nào.

Mặc dù vậy, trong các danh từ vẫn có những mức độ không thích dụng và

sai lầm khác nhau. Hàng loạt tên gọi của các thực thể, đặc biệt là loại thấp và

loại có nguồn gốc tốt, là ít sai lầm hơn( ví dụ, các khái niệm “mật”, “đất sét” là

tốt, còn khái niệm “đất” là tồi); loại xấu hơn là những hành động như sản xuất,

làm hư hỏng, làm thay đổi; loại xấu nhất là những chất lượng( loại trừ những

trực giác cảm tính trực tiếp) như nặng, nhẹ, mỏng, cong…Thêm vào đó, trong

mỗi loại, một số khái niệm tất yếu tốt hơn một ít số khác, tùy thuộc vào việc

giác quan con người lĩnh hội, vô số sự vật như thế nào [4, 56].

Quan niệm trên đây của Bacon có nhiều điểm hợp lý và tiến bộ. Trong

khoa học, cần phải có sự nghiên cứu và xem xét mọi cái một cách khách quan,

chứ không nên chạy theo uy tín cá nhân của ai đó hoặc số đông…Bên cạnh đó,

việc sử dụng các thuật ngữ, khái niệm chưa chính xác là điều cản trở sự phát

triển khoa học, mà chúng ta cần khắc phục.

- Dạng ngẫu tượng nhà hát

Nó đề cập đến ảnh hưởng có hại của nhiều học thuyết, quan niệm thống trị

làm cản trở quá trình nhận thức chân lý. Phê phán tệ sùng bái cá nhân của nhiều

nhà khoa học thời đó, Bacon khẳng định “chân lý là con gái của thời gian chứ

không phải của uy tín”. Để tìm ta chân lý, chúng ta không nên rơi vào chủ nghĩa

hoài nghi luận, nhưng cũng không nên giáo điều trong nhận thức.

Ngẫu tượng nhà hát không phải là tính bẩm sinh và không thâm nhập vào

lý tính một cách bí ẩn mà được công khai truyền đạt và lĩnh hội từ các lý luận

bịa đặt và từ các quy tắc chứng minh sai lầm.

Các ngẫu tượng rạp hát hoặc lý luận là rất nhiều chúng có thể còn nhiều

hơn nữa, và một lúc nào đó chúng có thể sẽ còn nhiều hơn nữa. Nếu trong suốt

29

nhiều thế kỷ, trí tuệ con người không bận tâm đến tôn giáo và thần học, và nếu

các nhà chức trách dân sự, đặc biệt là quốc vương, không phản đối những đổi

mới, thậm chí là đổi mới trừu tượng, và khi quam tâm tới những đổi mới ấy, con

người không tự gây cho mình mối nguy hiểm và không làm thiệt hại phúc lợi

của mình, không những không được nhận phần thưởng mà còn bị khinh rẻ và

căm ghét, thì đương nhiên đã xuất hiện nhiều trường phái triết học và lý luận

như một khi nào đó chúng ta đã phát triển rất phong phú ở người Hy Lạp. Người

ta có thể bịa đặt ra nhiều giả thuyết về hiện tượng khí ete trên trời, thì người ta

lại càng có thể lập và xây dựng những giáo điều đa dạng về các hiện tượng triết

học. Những bịa đặt của rạp hát này cũng như ở trong rạp hát của các nhà thơ, nơi

mà các câu chuyện được nghĩ ra cho sân khấu, là hài hòa và đẹp hơn, thực ra có

khả năng đáp ứng nguyện vọng của mỗi người hơn là các câu chuyên có thật

được lấy ra từ lịch sử [4, 59].

Sau khi hăng say và cẩn thận tiến hành một ít thực nghiệm, cũng có nhiều

nhà triết học kiểu khác đã dũng cảm bịa đặt và rút ra triết học của mình từ chúng

một cách kỳ quặc, đã xuyên tạc và lý giải mọi thứ khác có liên quan tới triết học

đó.

Cũng có loại các nhà triết học thứ ba, do ảnh hưởng của niềm tin và sự

sùng bái, đã lẫn lộn thần học và truyền thuyết với triết học. Sự hư ảo của một

trong số những nhà triết học đó đã đạt tới mức họ tách khoa học ra từ Thần và

Thần linh. Như vậy, sai lầm của triết học giả dối có ba nguồn gốc: ngụy biện,

chủ nghĩa kinh nghiệm và mê tín [4, 60].

Aristotle là minh họa nổi bật nhất cho nguồn gốc thứ nhất – ngụy biện.

Ông đã làm hỏng triết học tự nhiên bằng phép biện chứng của mình, do đã

xây dựng thế giới từ những phạm trù và đã gán loại ý hướng thứ hai – sự phản tư

cho tâm thần con người, thực thể cao quý nhất.

Ông khẳng định rằng mỗi vật đều có sự chuyển động duy nhất của riêng

nó, nếu vật thể tham gia vào chuyển động khác, thì nguồn gốc của chuyển động

30

này nằm trong vật thể khác.

Ông đã gán nhiều thứ tự nhiên theo ý mình.

Ông xác định hành động nén chặt và làm loãng mà thông qua đó vật thể

nhận được kích thước lớn hơn và nhỏ hơn hay quảng tính, bằng cách phân biệt

một cách vô hồn giữa hiện thực và tiềm năng.

Aristotle luôn quan tâm nhiều hơn tới việc có câu trả lời cho mọi thứ và

diễn tả một điều gì đó bằng lời hơn là quan tâm tới chân lý nội tại của các sự vật.

Điều đó có thể thấy rõ qua những lĩnh vực mà ông nghiên cứu.

Trong vật lý học, Aristotle không có một cái gì khác ngoài âm hưởng của

những danh từ biện chứng.

Trong siêu hình học, ông nhắc lại điều đó dưới tên gọi kêu hơn, dường

như ông muốn phân tích các sự vật chứ không phải các danh từ.

Để cho ai đó không bị luống cuống khi thường thấy ông ta viện dẫn vào

kinh nghiệm trong các tác phẩm “Về động vật”, “Các vấn đề” và các tiểu phẩm

khác của ông.

Vì giải pháp của ông đã được thông qua từ trước, và ông không dựa vào

kinh nghiệm như cần thiết để xác lập ý kiến và tiên đề của mình. Nhưng ngược

lại, sau khi tùy tiện xác lập các luận điểm của mình, ông lôi kéo kinh nghiệm đã

bị xuyên tạc, giống như tù nhân, về với ý kiến của mình. Như vậy, xét về

phương diện này, cần buộc tội ông nhiều hơn các môn đệ mới của ông( kiểu như

các nhà triết học kinh viện), những người hoàn toàn khước từ kinh nghiệm [4,

62].

Trường phái triết học kinh nghiệm chủ nghĩa còn đưa ra phán đoán quái

đản và vô lý hơn so với trường phái ngụy biện và trường phái duy lý vì các phán

đoán này không dựa vào ánh sáng của những khái niệm thông thường mà dựa

vào sự thiển cận và rối rắm của một ít kinh nghiệm. Chính thứ triết học như vậy

lại có cảm tưởng là có thể và dường như là hiển nhiên đối với những người hàng

31

ngày nghiên cứu những kinh nghiệm kiểu đó và nhờ chúng mà xuyên tạc trí

tưởng tượng của mình. Nó dường như là không thể và trống rỗng đối với những

người khác.

Phát sinh do có sự pha trộn của mê tín hay của thần học, việc xuyên tạc

triết học còn tiến xa hơn nữa và đem lại tai họa lớn hơn nữa cho toàn bộ các thứ

triết học và cho những bộ phận của chúng. Vả lại lý tính con người chịu ảnh

hưởng của sự bịa đặt không ít hơn so với ảnh hưởng của các khái niệm thông

thường. Triết học mê tín và triết học ngụy biện làm cho lý tính rối bời lên, còn

triết học khác, triết học có đầy rẫy những sự bịa đặt và giống như thi ca, còn làm

cho nó hài lòng hơn nữa. Vì tính háo danh của lý tính trong con người không hề

ít hơn so với tính háo danh của ý chí, đặc biệt là ở những tài năng sâu sắc và cao

cả.

Chúng ta nhận thấy ví dụ điển hình như vậy ở người Hy Lạp, đặc biệt là ở

Pythagoras; nhưng triết học của ông bị lẫn lộn với mê tín thô thiển và thái quá.

Điều này được trình bày tinh vi và nguy hiểm hơn ở Platon và trường phái của

ông. Nó cũng hiện diện cả trong một số bộ phận khác của triết học khác - ở nơi

mà người ta đưa ra những hình thức trừu tượng, những nguyên nhân tối hậu,

những nguyên nhân đầu tiên, ở nơi mà người ta rất hay giả định những nguyên

nhân ở giữa…Có thể cần phải đề phòng hơn nữa điều này. Việc tán dương

những sai lầm là một công việc rất tai hại, việc sùng bái điều hư vô là tương

đương với bệnh dịch hạch của lý tính. Tuy nhiên, sau khi đắm mình vào cái hư

vô này, một số nhà triết học mới đã rất nhẹ dạ đi theo con đường cố gắng luận

chứng triết học tự nhiên ở chương đầu của cuốn sách về Tồn tại, trong cuốn sách

của Job và các sách kinh khác. Họ tìm kiếm cái chết trong cái sống. Cần phải

kiềm chế và trấn áp tính hư vô này hơn nữa, vì không những triết học hão huyền

mà cả tà giáo được rút ra từ sự lẫn lộn điên rồ giữa thần thánh và con người. Do

vậy, sẽ là nguy hiểm nếu lý trí tỉnh táo lại chỉ dành cho niềm tin những gì thuộc

về nó [4, 65].

Nhìn chung, trong việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ngẫu

tượng, Bacon còn mang nặng tính trực quan. Chủ yếu ông chỉ nhận thấy khía 32

cạnh nhận thức luận của vấn đề, vì vậy chưa đưa ra được các biện pháp khắc

phục ngẫu tượng một cách hợp lý. Trên thực tế, các quan niệm sai lệch về sự vật

mà con người mắc phải còn xuất phát từ những hạn chế lịch sử của thời đại, từ

những cơ sở kinh tế - xã hội cũng như cơ chế quan hệ xã hội. Song, công lao của

Bacon trong học thuyết về ngẫu tượng là ở chỗ nó đặt vấn đề về cơ sở xã hội của

quá trình nhận thức. Mục đích xuyên suốt học thuyết ngẫu tượng của ông là

khẳng định nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan, xem xét mọi cái trên

tinh thần phê phán và cách mạng chứ không giáo điều. Những tư tưởng đó có ý

nghĩa to lớn không chỉ trong bối cảnh lịch sử thời đó, mà cả hiện nay.

2.2.2. Giá trị của học thuyết ngẫu tượng của Bacon

Với “Bộ công cụ mới” hay những chỉ dẫn cho việc giải thích tự nhiên,

Bacon đưa ra học thuyết về việc sử dụng lý tính con người một cách tốt hơn, và

hoàn hảo hơn trong việc tiếp cận các sự vật và những sự giúp đỡ đích thực cho

sự hiểu biết đó để qua đó, trong những chừng mực cho phép, trí tuệ có thể được

nâng lên và đưa lên vị trí cao và có thể vượt qua những khó khăn, trở ngại của tự

nhiên. Sự lý giải tự nhiên của ông là một loại lôgíc học và theo ông, so với lôgíc

thông thường thì rất khác nhau. “Lôgíc thông thường tự cho là đã tạo ra và

chuẩn bị những sự trợ giúp, những lính canh cho sự hiểu biết, điểm này giống

với lôgíc của tôi. Nhưng lôgíc học của tôi khác với nó đặc biệt ở ba điểm – đó là

mục tiêu nhắm đến, trình tự chứng minh và xuất phát điểm nghiên cứu”.

Mục tiêu của Bacon là phát minh ra các khoa học chứ không phải phát minh ra

các lập luận; không phải phát minh ra các sự vật phù hợp với các nguyên tắc, mà

phát minh ra chính các nguyên tắc; không phải là các lập luận chắc chắn, mà là

phát minh ra các mẫu thiết kế và các bảng hướng dẫn cho công việc.

Khi bàn đến sự chứng minh, Bacon phê phán hình thức tam đoạn luận là

thiếu chặt chẽ. “Mặc dù không ai nghi ngờ rằng những điều phù hợp trong một

hạn từ trung gian thì cũng phù hợp với nhau (đây là một mệnh đề về tính chắc

chắn toán học). Tuy nhiên, nó lại bỏ cửa ngỏ cho sự lừa gạt, tức là: tam đoạn

33

luận gồm các mệnh đề – các mệnh đề của các từ; và các từ đều là những dấu

hiệu, ký hiệu của các khái niệm. Giờ đây, nếu chính các khái niệm của tâm trí

(tức linh hồn của các từ và cơ sở của toàn bộ cấu trúc) được trừu tượng hoá một

cách không đúng và quá hấp tấp từ các sự kiện vốn mơ hồ, không đủ xác định,

sai lầm – tóm lại, trên nhiều phương diện, thì toà nhà sẽ sụp đổ”.

Do đó, khi xử lý bản tính của các sự vật, Bacon quyết định sử dụng

phương pháp qui nạp trong các thứ đề cũng như trong chính đề, vì ông cho rằng,

phương pháp qui nạp là hình thức chứng minh chứng thực cho giác quan, đến

gần với tự nhiên hơn và dường như có thể giải quyết được vấn đề, nếu không

thực sự xử lý nó.

Bacon đã chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của con người.

Những hạn chế này, theo ông, không chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt và nhất

thời, mà cả những sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của con người

trong nhận thức. Ông gọi chúng là các “ngẫu tượng”. Để nhận thức chân lý và

khắc phục được các “ngẫu tượng” này thì cần phải vạch ra cơ chế và bản chất

của chúng. Do vậy, Bacon coi học thuyết về các “ngẫu tượng” như phần mở đầu

trong nhận thức và phương pháp luận của mình.

2.3. Phương pháp ba bảng của Francis Bacon

Nhiệm vụ và mục đích của sức mạnh con người là ở chỗ tạo ra và đem lại

một bản chất mới hay các bản chất mới cho một vật thể cụ thể. Nhiệm vụ và

mục đích của khoa học của con người là ở chỗ phát hiện ra hình thức của bản

chất ấy, hay sự khác biệt chân thực, hay bản chất mang tính sáng tạo ra, hay

nguồn gốc của sự phát sinh.

Yêu cầu và quy định của chúng ta về tiên đề chân thực và hoàn hảo của tri

thức là ở chỗ phát hiện ra một chất lượng khác có thể chuyển biến thành chất

lượng có sẵn, nhưng là sự giới hạn chất lượng được biết tới rõ hơn, giống như

của một loại chân thực( true genus). Nhưng cả hai yêu cầu về cái hữu hiệu và cái

trực giác thực chất là một. Cái gì hữu ích nhất trong hành động thì cũng là chân

34

thực nhất trong tri thức [4, 187].Có thể hiểu về tiên đề qua cách diễn đạt trên

trong “Bộ công cụ mới”: tiên đề nó sẽ chân thực và chính xác ở cả tính thực tiễn

và lý thuyết. Nó là nơi xuất phát cái mới, hay nói chính xác hơn nó là tiền đề để

một cái khác đúng đắn.

Có hai loại quy định hay tiên đề chuyển biến của các vật thể.

Loại thứ nhất, xem vật thể như là nhóm, hay sự hợp nhất những chất

lượng đơn giản. Ví dụ, với “vàng” – vàng hợp nhất các thức sau đây: nó vàng,

nặng đến một trọng lượng xác định, dễ rèn và giãn nở đến một mức độ xác định,

không dễ bay hơi và không đánh mất số lượng khi ở trong lửa; được tác biệt và

hòa tan thông qua các phương thức nào đó. Những thuộc tính tự nhiên – chất

lượng đơn giản hợp nhất tạo thành “vàng”. Khi mà người ta tìm hiểu và biết

được các hình thức, phương thức tạo dựng màu vàng, trọng lực, tính dễ rèn, tính

vững chắc, tính dễ bay hơi, tính hòa tan và những thứ tương tự thì người ta sẽ

nghĩ đến việc áp các hình thức, đặc điểm và phương thức đó để hợp nhất trong

một vật thể nào đó, từ đó sẽ chuyển hóa thành vàng.

Loại tiên đề thứ hai( phụ thuộc vào việc phát hiện ra quá trình ẩn giấu)

không hướng vào các chất lượng đơn giản, mà hướng vào các vật thể cụ thể, như

chúng bộc lộ ra trong tự nhiên với tiến trình thông thường của nó [4, 189].Ví dụ

người ta nghiên cứu cây cỏ sinh ra theo đường nào – từ những sự cô đặc đầu tiên

của nhựa cây trong đất hay từ hạt cho đến cây đã hình thành cùng với chuyển

động liên tục và với những nỗ lực đa dạng, tiếp diễn của tự nhiên. Hay là nghiên

cứu trình tự phát triển của động vật từ khi thụ thai cho tới lúc sinh ra. Sự nghiên

cứu này không phải chỉ là nghiên cứu sâu về một vật cụ thể, mà nó còn có quan

hệ với những chuyển động và tạo vật khác trong tự nhiên. Ví dụ khi nghiên cứu

chuyển động phát triển của lưỡi, thì con người cũng phải nghiên cứu mối quan

hệ của lưỡi với môi và các cơ quan còn lại – cho tới lúc phát ra các âm tiết.

Những nghiên cứu này đều có quan hệ trong với những chất lượng hợp

nhất, hay tập hợp lại trong một cấu tạo, và ở đây dường như người ta xem xét

35

các thói quen riêng lẻ và đặc biệt của tự nhiên, chứ không phải các quy luật cơ

bản, chung và cấu thành các hình thức. Thêm vào đó, nói chung cần phải thừa

nhận rằng, phương thức này hóa ra là dễ dàng hơn, gần gũi hơn, đem lại hy vọng

lớn hơn so với phương thức thứ nhất.

Quá trình ẩn giấu nói trên của tiên đề thứ hai hoàn toàn không dễ dàng

nhận ra. Không thể hiểu nó dưới dạng biểu tượng, mức độ hay một thang bậc

nào đó, mà con người nhận thấy được ở vật thể chỉ là một quá trình liên tục. Cần

phải tìm kiếm điều ấy ở trong mọi biến đổi và chuyển động.

Ví dụ, trong sự ra đời và chuyển hóa của các vật, cần phải tìm kiếm cái gì

bị đánh mất và bay đi mất, cái gì còn lại, cái gì được bổ sung, cái gì tiếp diễn,

cái gì chấm dứt, cái gì kích thích, cái gì cản trở, cái gì thống trị, cái gì phục tùng

và nhiều thứ khác [4, 192]. Cho tới nay, con người vẫn chỉ luẩn quẩn ở ngưỡng

cửa của tự nhiên, mà chưa có những sự chuẩn bị đúng đắn cho việc tiếp cận

những bí ẩn của nó. Không ai có thể đem chất lượng mới gán cho một vật thể đã

có sẵn, hay biến vật thể ấy thành một vật thể mới khi không hiểu rõ hết sự vận

động, chuyển biến của vật thể. Nếu vẫn cố tình, thì các phương thức mà người

đó dựa vào đều là không chính xác, uổng công hay ít nhất là gây khó khăn và sai

lệch, không phù hợp với chất lượng của vật thể.

Cấu trúc các vật, sự biến đổi và chuyển đổi là một chỉnh thể phức tạp, vô

cùng tinh tế. Vậy nên, cần phân chia và phân ly các vật thông qua sự suy ngẫm

và phép quy giản chân thực nhờ các kinh nghiệm, cũng như thông qua sự so

sánh với các vật thể khác và quy về các chất lượng đơn giản và các hình thức

chung của chúng, các thứ hợp nhất trong cái phức tạp.

Những chỉ dẫn về việc giải thích giới tự nhiên bao gồm: thứ nhất, tách

biệt hay rút ra các tiên đề từ kinh nghiệm; thứ hai, tách biệt hay rút ra các kinh

nghiệm mới từ tiên đề. Bộ phận thứ nhất được phân chia ra thành ba phần, đó là:

trợ giúp cho cảm tính, trợ giúp cho trí nhớ và trợ giúp cho trí tuệ, hay cho lý trí

36

[4, 199].

Vả lại, trước hết chúng ta phải chuẩn bị lịch sử tự nhiên và lịch sử kinh

nghiệm là đa dạng và tản mạn tới mức làm cho lý tính rối loạn và luống cuống,

nếu lịch sử ấy không được xác lập và sắp xếp theo một trật tự cần thiết. Do vậy,

cần phải lập các bảng và so sánh các ví dụ theo một phương thức và trật tự nào

đó để lý tính có thể hành động theo chúng [4, 199].

Tuy nhiên, thậm chí cả trong trường hợp mà điều ấy được thực hiện, thì

dẫu sao lý tính tùy tiện, tự chuyển động, không được điều khiển và không được

đào tạo, vẫn không có khả năng và là không đầy đủ để hình thành thành các tiên

đề. Như vậy, thứ ba, cần phải áp dụng phép quy nạp chân thực và hoàn hảo,

phép quy nạp chính là chiếc chìa khóa để giải thích. Khi đó cần phải bắt đầu từ

cuối và sau đó mới công khai quan tâm tới mọi cái khác [4, 200].

Sau đây là nghiên cứu những ví dụ cụ thể - hợp nhất trong chất lượng,

một kết cấu phức tạp.

[Bảng 1] [4, 201].

Những ví dụ hợp nhất trong chất lượng nóng( nhiệt) – hay có thể nói

là những trường hợp hợp nhất thành chất lượng nhiệt

1. Tia nắng mặt trời, đặc biệt là vào mùa hè và vào ban trưa.

2. Tia nắng mặt trời được phản chiếu và tập hợp lại, ví dụ, ở giữa núi hay

trên tường, và đặc biệt là ở chiếc gương hội tụ.

3. Các sao băng bốc cháy.

4. Tia chớp có lửa.

5. Lửa bốc lên từ lòng núi…

6. Bất kỳ ngọn lửa nào.

7. Các vật thể được đốt nóng.

8. Các nguồn nhiệt tự nhiên.

9. Chất lỏng đang sôi hay được đun nóng.

10. Hơi nước và khói nóng, cũng như bản thân không khí tiếp nhận sức nóng

37

rất lớn và mãnh liệt, khi người ta đóng lò đốt lại.

11. Một số trường hợp thời tiết chói chang do bản thân trạng thái không khí

quy định không phụ thuộc vào thời gian trong năm.

12. Không khí bị đóng kín và nằm dưới lòng đất ở một số hang động, đặc biệt

là vào mùa đông.

13. Tất cả các loại lông dày, ví dụ, len, bộ da động vật, bộ lông chim, chứa

không ít nhiệt.

14. Tất cả các vật, cứng cũng như mềm, cô đặc cũng như bị chia nhỏ( như bản

thân không khí) được đưa đến gần lửa.

15. Tia lửa sinh ra từ đá lửa và thép do va đập mạnh.

16. Mọi vật thể bị cọ xát mạnh, ví dụ như đá, gỗ, dạ; đôi khi là gọng xe và

trục bánh xe chạm vào nhau; còn người da đỏ phương Tây lấy lửa nhờ ma

sát.

17. Cỏ xanh và ẩm được nén chặt lại, ví dụ như cánh hoa hồng được cho vào

giỏ, cỏ bị ướt chất đống lại thường bị bén lửa.

18. Vôi sống được tưới nước vào.

19. Sắt ngay sau khi được hoàn tan bằng axit trong bình thủy tinh, mà hoàn

toàn không để gần lửa. Thiếc và các kim loại cũng như vậy, nhưng không

mạnh đến thế.

20. Động vật, đặc biệt và thường xuyên là ở các cơ quan nội tạng; hơn nữa,

nhiệt của côn trùng khó cảm thận vì cơ thể chúng nhỏ bé.

21. Phân ngựa, và nói chung là phân mới ỉa của động vật.

22. Dầu sunphát và dầu lưu huỳnh đặc hoàn thành tác động của nhiệt khi đốt

cháy mô.

23. Dầu maiôran…hoàn thành tác động của nhiệt khi đốt cháy xương răng.

24. Cồn rượu mạnh và được làm sạch tốt hoàn thành tác động của nhiệt, do

vậy nếu bỏ lòng trắng trứng vào nó thì lòng trắng trứng sẽ đặc lại và trở

nên trắng hơn, giống như trong trứng tráng.

25. Cỏ có hương vị thơm và phát nhiệt, ví dụ như turgun, cây sen cạn

già,…mặc dù sờ không thấy nóng nhưng nếu chỉ khẽ nhai chúng thì lưỡi

38

và mũi cảm thấy nóng và rát.

26. Giấm đặc hay bất kỳ axit nào ở các bộ phận cơ thể không có lớp da bề

ngoài, ví dụ ở mắt, lưỡi hay một bộ phận cơ thể bị thương nào đó, hay ở

nơi da bị rách, sẽ gây đau đớn gần giống như lửa gây ra.

27. Sự lạnh giá và buốt thấu xương cũng mang lại cảm giác nóng lên.

28. Và những thứ khác.

Đây còn có thể thường được gọi bảng này là bảng bản chất và hiện diện.

Bảng trên tập hợp những trường hợp hiện diện của một thuộc tính( chất

lượng) A mà nguyên nhân trong “hình thức” đang được tìm kiếm. Ông giả định

rất mạnh rằng, trong các thang bậc của bảng thứ nhất, quan sát cảm tính tất yếu

cho phép làm sáng tỏ mọi thuộc tính cơ bản, luôn hay đôi khi đi liền với “chất

lượng” được nghiên cứu [4, 227].

Thứ hai, cần phải giới thiệu với lý tính những ví dụ không có chất lượng

ấy, vì hình thức cũng cần phải vắng mặt ở nơi mà chất lượng vắng mặt, giống

như phải hiện diện ở nơi mà chất lượng hiện diện. Nhưng việc liệt kê điều ấy

trong mọi trường hợp sẽ là vô hạn [4, 204].

Do vậy, cái phủ định cần phải phục tùng cái khẳng định, và sự vắng mặt

của chất lượng chỉ cần được xem xét trong các đối tượng giống nhau nhất, trong

đó chất lượng ấy hiện diện và quan sát thấy. Chúng ta gọi bảng này là bảng đi

chệch, hay bảng vắng mặt ở cái có quan hệ gần gũi.

[Bảng 2] [4, 204].

Những ví dụ về nóng (nhiệt) ở gần, không có chất lượng

Ví dụ phủ định thứ nhất với khẳng định thứ nhất: tia ánh sáng của mặt

trăng, của các vì sao, của sao chổi hóa ra không nóng đối với xúc giác.

Ví dụ phủ định thứ hai với khẳng định thứ hai: tia ánh sáng mặt trời

không tạo ra độ nóng ở khu vực không khí trung lưu. Người ta thường giải thích

sự phủ định này là do khu vực trung lưu này không tiến đủ gần đến sức nóng của

mặt trời – nơi mà tia sáng bắt nguồn từ đó, và cũng không đủ tiền gần đến trái 39

đất – nơi phản chiếu tia sáng mặt trời. Có thể nhận thấy điều đó thông qua các

đỉnh núi – nơi thường xuyên có tuyết.

Ví dụ phủ định thứ ba với khẳng định thứ hai: sự phản chiếu tia ánh sáng

mặt trời ở các vùng nằm gần vòng cực hóa ra là rất yếu ớt và không đủ nhiệt tới

mức người Hà Lan trú đông ở Tân Tây Lan và chờ đợi giải phóng con tàu của

mình khỏi những tảng băng khổng lồ bao quanh nó.

Nhưng cũng cần lưu ý rằng, tác động của các tia ánh sáng mặt trời có thể

là khác nhau và thậm chí do chất lượng nhiệt quy định, thêm vào đó là chúng

không phù hợp với cảm giác của chúng ta, do vậy đối với chúng ta thì tác động

của chúng không đạt tới mức sinh nhiệt, nhưng đối với một số vật thể khác thì

chúng lại làm sinh nhiệt.

Ví dụ phủ định thứ tư với khẳng định thứ hai: làm thực nghiệm sau đây –

lấy tấm kính thấu kính lõm đặt giữa lòng bàn tay, hứng tia sáng mặt trời. Theo

dõi xem tấm kính làm cho nhiệt độ từ tia sáng mặt trời giảm đi hay tăng lên.

Ở đây dùng tấm kính lõm mà không dùng tấm kính lồi vì đây là sự phủ

định của thấu kính hội tụ ở khẳng định thứ hai.

Ví dụ phủ định thứ năm với khẳng định thứ hai: thực nghiệm ở phủ định

ngay trên có thể mức nhiệt biến chuyển sẽ rất tinh tế và yếu ớt để cảm xúc có thể

lĩnh hội được và phát hiện ra nó. Nên cần phải sử dụng những chiếc gương đo

cho thấy trạng thái không khí nóng hay lạnh.

Ví dụ phủ định thứ sáu đối với khẳng định thứ hai: cần phải áp dụng với

tấm gương thấu kính lõm một nhiệt không phải là các chùm tia hay ánh sáng, mà

có thể là một miếng sắt hay hòn đá được đốt nóng. Lưu ý xem nhiệt ở đây có

tăng lên giống như từ các tia ánh sáng mặt trời hay không.

Ví dụ phủ định thứ bảy đối với khẳng định thứ hai: cần phải áp dụng tấm

40

kính châm lửa( thấu kính hội tụ) như vậy đối với ngọn lửa thông thường.

Ví dụ phủ định thứ tám đối với khẳng định thứ ba: người ta không phát

hiện ra rằng các sao chổi – theo hàm ý là một dạng sao băng, không sinh ra tác

động hiển nhiên và liên lục đến sự gia tăng nhiệt, mặc dù cũng có nhận xét rằng

chúng thường đi liền với nạn hạn hán.

Ví dụ phủ định thứ chín đối với khẳng định thứ tư: có những tia sáng lóe

đem lại ánh sáng nhưng không nóng bỏng, và chúng bao giờ cũng diễn ra mà

không có tiếng nổ.

Ví dụ phủ định thứ mười đối với khẳng định thứ năm: sự phun xuất ngọn

lửa diễn ra ở các vùng lạnh không kém so với các vùng nóng – như ở Greenland

và ở Iceland. Có nhiều cây ở vùng lạnh đôi khi dễ bốc cháy và có nhiều nhựa

hơn so với ở các vùng nóng. Đó là cây thông, cây tùng…Tuy nhiên, sự phun

xuất như vậy thường diễn ra ở trạng thái nào và ở loại đất nào thì chưa có sự

nghiên cứu đầy đủ để chúng ta có thể liên kết ví dụ phủ định với ví dụ khẳng

định.

Ví dụ phủ định thứ mười một đối với khẳng định thứ sáu: bất ký ngọn lửa

nào ít hay nhiều đều nóng, và ở đây nói chung không có ví dụ phủ định. Nhưng

người ta vẫn chỉ ra được rằng cái gọi là ma trơi chứa ít nhiệt. Có thể nó giống

ngọn lửa cồn yên lặng và mềm mại; bao trùm tóc và đầu trẻ nhỏ, hoàn toàn

không đốt cháy tóc. Hay bọt biển tung mạnh lên cũng phát sáng vào lúc đêm có

bão.

Ví dụ phủ định thứ mười hai đối với khẳng định thứ bảy: tất cả những gì

được nung sáng tới mức trở thành lửa đỏ, đều luôn nóng, mặc dù không có ngọn

lửa. Song lại có một số ví dụ gần với sự phủ định như sau: cây gỗ mục phát sáng

vào ban đêm, nhưng sờ vào không thấy nóng; vây cá thối rữa cũng phát sáng

vào ban đêm nhưng sờ vào không thấy nóng. Người ta cũng sờ vào con giun hay

41

con ruồi phát sáng nhưng không thấy nóng.

Ví dụ phủ định thứ mười ba đối với khẳng định thứ tám: người ta chưa

nghiên cứu đầy đủ xem các nguồn nhiệt thường sinh ra ở đâu và ở loại đất nào.

Do vậy ví dụ phủ định không phù hợp ở đây.

Ví dụ phủ định thứ mười bốn đối với khẳng định thứ chín: sự phủ định phù

hợp với các chất lỏng đang sôi – tức là ở mọi dạng ngoại trừ trạng thái đang sôi.

Độ nóng của chất lỏng chỉ phát sinh một thời gian như là thuộc tính có được. Do

vậy, các chất lỏng đang sôi sau khi vị đưa vào một cái bình và tách khỏi nguồn

nhiệt của mình thì nguồn nhiệt tự nhiên cũng sẽ lạnh đi.

Ví dụ phủ định thứ mười lăm đối với khẳng định thứ mười: với sự bốc hơi

của các chất lỏng dạng mỡ, mặc dù bốc cháy, song vẫn không nóng, trừ trường

hợp chúng mới được tách ra từ vật thể nóng – ví dụ như chất lỏng dạng mỡ tách

ra khỏi chảo nóng.

Ví dụ phủ định thứ mười sáu đối với khẳng định thứ mười: ví dụ phủ định

về bản chất của bản thân không khí cũng phù hợp với không khí nóng. Vì chúng

ta không thể bắt gặp không khí nóng, ngoài trường hợp nó bị đóng kín, hay bị

nén lại, hay được mặt trời, lửa hoặc một vật thể nóng nào đó đốt nóng [4, 215].

Ví dụ phủ định thứ mười bảy đối với khẳng định thứ mười một: sự phủ

định ở đây là thời tiết lạnh hơn so với mùa tương ứng trong năm – thời tiết như

vậy xuất hiện khi có gió đông và gió bắc thổi, ngược lại với thời tiết xuất hiện

khi gió nam và gió tây thổi. Tương tự như vậy với việc trời mưa kéo theo thời

tiết ấm áp, còn tuyết rơi lại kéo theo thời tiết lạnh giá.

Ví dụ phủ định thứ mười tám đối với khẳng định thứ mười hai: ví dụ phủ

định ở đây là về không khí ở trong hang vào mùa hè, cần nghiên cứu kĩ hơn

không khí bị khép kín.

Ví dụ phủ định thứ mười chín đối với khẳng định thứ mười ba: bất kỳ

không khí nào bị tách khỏi không khí bên ngoài nhiều vô kể thì đều có một

42

lượng nhiệt nào đó. Do vậy cũng cần phải làm thí nghiệm ở sợi được làm từ cây

lanh, chứ không phải từ dạ, lông hay da động vật. Cần lưu ý rằng, mọi chất bột(

rõ ràng có chứa không khí) đã ít lạnh hơn so với vật thể toàn vẹn của chúng. Hệt

như vậy, Bacon cho rằng mọi thứ bọt( có chứa không khí) đều ít lạnh hơn so với

bản thân chất lỏng.

Ví dụ phủ định thứ hai mươi đối với khẳng định thứ mười bốn: ví dụ phủ

định là không phù hợp, vì không phát hiện ra được cái gì cảm nhận thấy, một cái

gì ở dạng khí mà được đưa lại gần lửa, lại không tiếp nhận nhiệt. Song, lại có sự

khác biệt ở việc tiếp nhận nhiệt nhanh hay chậm ở không khí, mỡ, nước…Điều

này có liên quan đến bảng các mức độ.

Ví dụ phủ định thứ hai mươi mốt đối với khẳng định thứ mười lăm: sự phủ

định ở đây là các tia chớp không xuất phát từ đá lửa, hay từ thép. Do có trọng

lượng của vật thể cháy, bản thân những tia chớp ấy hướng xuống phía dưới

nhiều hơn là hướng lên trên và sau khi tắt đi, sẽ biến thành bồ hóng – sinh ra

nhiệt.

Ví dụ phủ định thứ hai mươi hai đối với khẳng định thứ mười sáu: Bacon

cho rằng không thể kết hợp ví dụ phủ định với khẳng định này. Vì chúng ta

không có một vật thể sờ thấy nào mà rõ ràng không bị đốt nóng lên do ma sát.

Ví dụ phủ định thứ hai mươi ba đối với khẳng định thứ mười bảy: nhiệt ở

cỏ, cây xanh và ẩm yếu tới mức chúng ta không cảm nhận được ở những cây cối

riêng biệt. Nhưng một số trường hợp ẩn giấu nào đó, sau khi những cây ấy được

chụm lại và bao bọc để khí của chúng không bốc ra ngoài không khí, ngược lại,

nó sẽ tự làm cho mình nóng lên, một nhiệt sẽ xuất hiện, đôi khi có sự xuất hiện

của ngọn lửa ở vật thể có những điều kiện thích hợp.

Ví dụ phủ định thứ hai mươi tư đối với khẳng định thứ mười tám: Bacon

cho rằng cần phải nghiên cứu tỉ mỉ hơn ví dụ này. Sở dĩ vậy là do vôi sống được

tưới nước lên sẽ nóng lên do hợp nhất nhiệt trước đó bị phân tán – như việc cỏ

bị nén lại, hay do kích thích khí nóng bằng nước. Do vậy, sẽ xuất hiện một sự va

43

chạm hay phản ứng nào đó.

Ví dụ phủ định thứ hai mươi lăm đối với khẳng định thứ mười chín: sự

phủ định ở đây diễn ra ở các kim loại khác mềm hơn và loãng hơn. Chì, lá vàng,

thủy ngân không đem lại một lượng đáng kể nào trong dung dịch. Bạc với đồng

lại kích thích một số lượng nhiệt nhỏ. Điều này thể hiện rõ hơn ở thiếc và nhất ở

sắt và thép – khi nóng chảy không những kích thích một lượng nhiệt lớn mà còn

kích thích sự sôi mạnh.

Ví dụ phủ định thứ hai mươi sáu đối với khẳng định thứ hai mươi: không

một ví dụ phủ định nào phù hợp với nhiệt của động vật trừ côn trùng, do kích

thước cơ thể nhỏ bé của chúng. Bên cạnh đó, không cảm nhận thấy một nhiệt

nào ở thực vật – cả ở nhựa chảy lẫn ở lõi cây mới chặt. Chúng ta phát hiện ra

nhiệt rất khác nhau ở động vật tùy theo vị trí của nó( vì một nhiệt - ở gần tim,

nhiệt khác - ở não và nhiệt khác nữa - ở trên bề mặt cơ thể), cũng như ở trạng

thái của động vật, ví dụ khi rất căng thẳng và rất cao [4, 221].

Ví dụ phủ định thứ hai mươi bảy đối với khẳng định thứ hai mươi mốt:

Không có ví dụ phủ định phù hợp với khẳng định này. Vì ngay cả đến phân cũ

của động vật rõ ràng cũng chứa nhiệt tiềm tàng. Điều này bộc lộ ra khi bón phân

cho đất.

Ví dụ phủ định thứ hai mươi bảy đối với khẳng định thứ hai mươi mốt: Sự

phủ định ở đây là không phải chỉ mỗi phân động vật với có nhiệt lượng, mà các

chất lỏng có độ căng lớn và mạnh( có thể gọi chúng là nước hay mỡ) sinh ra tác

động có nhiệt, cũng như đốt chúng sau một khoảng thời gian. Song, lúc đầu sờ

vào chúng không thấy nóng. Chúng tác động phù hợp với khả năng và độ thẩm

thấu của vật thể mà chúng hợp nhất. Ví dụ như rượu Vua làm tan vàng, không

tan bạc, thủy ngân; axit làm tan bạc chứ không phải vàng, không tan vàng, thủy

ngân…

Ví dụ phủ định thứ hai mươi chín đối với khẳng định thứ hai mươi tư: ví

dụ thứ hai mươi tư cho thấy hiệu lực của nó là giống như với nhiệt trong trường

44

hợp làm cô đặc. Sự phủ định ở đây là không chỉ cồn rượu có tác dụng nhiệt với

lòng trắng trứng, mà còn phải tiến hành thí nghiệm về tác động của cồn rượu đối

với cây gỗ, mỡ bò, sáp, nhựa…

Ví dụ phủ định thứ ba mươi đối với khẳng định thứ hai mươi lăm: ví dụ

khẳng định cho thấy cây có hương vị và cỏ cay đem lại nhiệt hơn nhiều – cho dạ

dày. Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu xem chúng gây ra tác động nóng ở các

chất nào khác nữa. Thủy thủ kể rằng, nếu ngay lập tức mở kho gỗ có hương vị

đã đóng cửa từ lâu, thì những người tháo dỡ và bốc vác chúng sẽ có nguy cơ bị

sốt hay bị viêm nhiễm. Cũng có thể làm thí nghiệm xem bột làm từ những cây

có hương vị ấy có làm khô mỡ và thịt treo ở trên chúng giống như khói lửa hay

không [4, 223].

Ví dụ phủ định thứ ba mươi mốt đối với ví dụ khẳng định thứ hai mươi

sáu: độ sâu và khả năng thâm nhập cũng có ở cả các chất lỏng lạnh như giấm

hay mỡ sunphát, và ở các chất lỏng như dầu cây kinh giới…Do vậy, chúng làm

cho động vật đau như nhau, chia tách và phân hủy các bộ phận của vật vô cơ. Ví

dụ này không có ví dụ phủ định. Hơn nữa, không thấy một sự đau đớn nào ở

động vật mà không cảm nhận thấy nóng [4, 224].

Ví dụ phủ định thứ ba mươi hai đối với ví dụ khẳng định thứ hai mươi

bảy: có nhiều tác động giống nhau của nhiệt và độ lạnh, mặc dù hoàn toàn khác

nhau về nguyên nhân. Ví dụ, chúng ta nhận thấy rằng, tuyết cũng làm rát bỏng

tay trẻ nhỏ một lúc; độ lạnh giữ cho thịt khỏi bị thối rữa không kém gì lửa; nhiệt

làm cho vật thể thu nhỏ kích thước giống như độ lạnh. Nhưng sẽ thuận tiện hơn

nếu quy những điều ấy về việc nghiên cứu độ lạnh [4, 224].

Bảng I bao giờ cũng là không đầy đủ, vì danh mục thang bậc tập hợp

trong nó không thể là đầy đủ trong phần lớn những nghiên cứu. Bảng II tập hợp

những trường hợp vắng mặt “chất lượng” đang nghiên cứu. Ngoài sự vắng mặt

A, xét về thành phần thuộc tính thì những trường hợp trong bảng II khác với

những trường hợp trong bảng I ở điểm nào nữa. Để nhận thấy rõ hơn điều đó,

45

người ta giả định so sánh từng cặp thang bậc các bảng I và II: ví dụ, nếu sự hiện

diện thang bậc ABC trong bảng I có thể dẫn tới kết luận rằng thuộc tính C quan

trọng là “hình thức” của thuộc tính A, thì sự hiện diện thang bậc PCQ tương ứng

trong bảng II cho phép loại bỏ kết luận ấy như một kết luận sai lầm, vì sự hiện

diện của C không làm xuất hiện A [4, 228].

Như vậy, suy luận của Bacon vận động theo lược đồ phép liên kết đối

chọi mà các thành phần nối tiếp nhau bị loại trừ một thành phần. Ví dụ có:

bvcvd, có các chữ cái viết thường biểu diễn các mệnh đề “hình thức phải tìm là

B”, “hình thức phải tìm là C”,…Theo cách loại trừ đã được trình bày như trên

thì chúng ta có được: (1) bvcvd, nhưng C, do vậy là bvd; (2) bvd, nhưng d, do

vậy bv. Đây là lược đồ diễn dịch.

Bacon đã ý thức được rằng sự tương tác giữa các bảng I và II là không đủ

để giải quyết thỏa đáng vấn đề cái gì là “hình thức” cần tìm, vì có thể B luôn đi

liền với A chỉ một cách ngẫu nhiên. Do vậy, ông đưa ra bảng mức độ.

Thứ ba, cần phải giới thiệu với lý tính những ví dụ mà trong đó chất lượng

đang được nghiên cứu hiện diện ở mức độ lớn hơn và nhỏ hơn đôi chút. Và từ

đó, Bacon đã đưa ra bảng mức độ, hay còn gọi là bảng so sánh.

Trong đó, ông lựa chọn các thang bậc theo mức độ tích cực của thuộc tính

A và quan sát B như “hình thức” của A sẽ biến đổi như thế nào trong quan hệ

với A. B không thể là “hình thức” của A khi việc so sánh với các thang bậc của

bảng cho thấy:

• Sự giảm bớt B đi liền với sự gia tăng A hay B là không thay

đổi.

• Sự gia tăng B đi liền với sự giảm bớt A hay B là không thay

đổi.

• Sự thay đổi B theo một hướng nào đó, có thể là đối lập với

46

nó, hay là B không thay đổi.

Bên cạnh đó, nếu việc so sánh trên không làm sáng tỏ những thuộc tính

quan trọng mới thì cần tiếp tục lựa chọn thang bậc cho những bảng đó nhờ mở

rộng số lượng trường hợp tham gia vào bảng cho tới khi thành phần trường hợp

bộc lộ ra những thuộc tính mới( E, F, G).

Có thể kết luận: Nếu B biến đổi về chất và lượng theo hướng giống như

A, thì chúng ta có thể cho rằng “B là hình thức của chất lượng A”.

Bảng mức độ là lược đồ cơ bản về phép quy nạp loại trừ của Bacon. Nó

đưa ra sáu “chỉ dẫn” về phương pháp quy nạp để tìm tòi nguyên nhân, và cùng

với đó là phương pháp tạo ra những thuộc tính đang nghiên cứu. Khi đó, đòi hỏi

để tất cả chúng cùng nhau có hiệu lực, có tính đáng tin cậy. Nghĩa là các kết

luận rút ra ở đây không cho phép các ngoại lệ có đến, kết luận không bị một ai

bác bỏ và được thay thế một cách rộng rãi của mọi phương diện.

Có thể mô tả vắn tắt cấu trúc phép quy nạp của Bacon: cơ sở của nó là

các tiên đề triết học – thừa nhận sự thống nhất vật chất của giới tự nhiên,những

tác động đồng loại và những quan hệ nhân quả phổ biến của nó. Bacon không

đưa ra câu trả lời rõ ràng cho vấn đề liệu cùng một chất lượng có thể do hai hình

thức khác nhau tạo ra hay không. Nhưng ông cho rằng, cùng một hình thức tạo

ra một số “chất lượng” khác nhau( không tùy ý khác nhau). Phép quy nạp của

Bacon chủ yếu gồm ba “bảng trình bày ví dụ với lý tính”.

Bảng III thể hiện phương pháp quy nạp của Bacon ở chỗ luôn định hướng

vào sự tương tác mật thiết giữa cả ba “bảng”. Điều này được nhấn mạnh qua

việc Bacon sử dụng “những ví dụ riêng lẻ” định hướng chính vào mối liên hệ ấy

như một thủ thuật bổ trợ của phép quy nạp.

[Bảng 3] [4, 230].

Bảng mức độ, hay bảng so sánh đối với độ nóng( nhiệt)

Bảng mức độ nà sẽ sắp xếp theo mức độ tăng dần: từ cái không có một

47

mức độ nóng nào, sao đương nhiên vẫn phải có một độ nóng tiềm tàng nào đó,

hoặc là có tố chất chuẩn bị cho độ nóng. Tiếp đó, chúng ta sẽ chuyển sang cái

thật sự nóng hay sờ thấy nóng.

1. Trong số những vật thể cứng và sớ thầy như: đá, kim loại, lưu huỳnh,

khoáng vật, xác động vật,…không phát hiện ra một vật thể nào đã nóng

ngay từ đầu theo bản chất của nó. Mấy ví dụ như nước nóng ở nguồn là

được đun nóng một cách ngẫu nhiên do lửa dưới lòng đất hay do lửa

giống như lửa phun ra từ những ngọn núi khác, hay do sự va chạm giữa

các vật thể giống như nhiệt hình thành khi đun cháy sắt và thiếc. Tuy

nhiên, chúng lại có khác nhau về mức độ lạnh. Điều này lại có liên quan

tới bảng mức độ lạnh.

2. Đối với độ nóng tiềm tàng và sự sẵn sàng bốc cháy thì có nhiều vật thể vô

cơ có tố chất ấy, như lưu huỳnh, dầu khí, mỡ.

3. Các vật thể được làm nóng từ trước, như phân ngựa, hay vôi chưa tôi sẽ

giữ lại tàn dư ẩn giấu của nhiệt trước đó. Có thể kích thích nhiệt trong vôi

chưa tôi nhờ tưới nước.

4. Trong số các cây thì không có cây nào hay bộ phận cây nào( hay nhựa cây

hay lõi cây) là nóng đối với cảm giác con người. Tuy nhiên, dù thì thì cỏ

xanh( như đã nói ở trên) bị nén lại cũng trở nên nóng. Và cả đối với cảm

giác bên trong, như đối với vòm miệng hay dạ dày hay đối với các bộ

phận bên ngoài cơ thể, khi có sự tác động lâu hơn ( ví dụ như dán thuốc

hay xoa dầu) thì một số cây trở nên nóng, còn một số khác trở nên lạnh.

5. Mọi loại phân dường như đều chứa nhiệt tiềm tàng. Hệt như vậy, thì xác

động vật cũng chứa nhiệt tiềm tàng. Do vậy, trong đất nghĩa trang, nơi mà

người ta tiến hành việc chôn cất hàng ngày, cũng tập hợp một lượng nhiệt

ẩn giấu nào đó. Chính nó tiêu hủy xác thì xác mới đưa xuống nhanh

chóng hơn đất lạnh.

6. Những thứ mà người ta đem bón ruộng, ví dụ như phân các loại, cát biển,

48

muối và những thứ tương tự, đều có thể nóng lên.

7. Mọi sự thối rữa đều ẩn chứa mầm mống của một nhiệt lượng yếu ớt nào

đó, mặc dù không phải ở mức độ có thể cảm nhận thấy. Vì những thứ

phân hủy thành các động vật nhỏ bé khi thối rữa, như thịt, bơ, hay cây

mục phát sáng vào ban đêm, sờ không thấy nóng. Đôi khi nhiệt trong các

vật thối rữa bốc ra mùi khó ngửi và mạnh.

8. Như vậy, mức nhiệt thứ nhất giữa các vật thể là nóng đối với cảm giác

con người, là nhiệt của động vật, nhiệt có nhiều mức độ. Trên thực tế,

mức độ thấp( như ở côn trùng) chắc gì đã cảm thấy được. Mức độ cao của

loại nhiệt này chắc gì đã đạt tới mức nhiệt của tia áng sáng mặt trời có ở

các khu vực và các mùa oi bức, mặc dù nhiệt này không dữ dội tới mức

tay không thể chịu đựng nổi. Người ta vẫn kể về Constantius – hoàng đế

La Mã Đệ nhị và một số người khác có cơ thể rất khô, dường như sau khi

bị sốt cao, họ bị nóng lên tới mức người khác sờ vào họ sẽ bị bỏng.

9. Ở động vật, sức nóng tăng lên do chuyển động, căng thẳng, do rượu và ăn

uống, do hoạt động tình dục, do sốt cao và do đau đớn.

10. Trong thời gian bị sốt co giật, động vật lúc đầu bị lạnh và rùng mình,

nhưng nhanh chóng thấy nóng lên ở mức độ lớn hơn nữa. Điều này diễn

ra lúc bắt đầu bị sốt viêm và sốt dịch hạch.

11. Cần phải tiếp tục nghiên cứu để so sánh thân nhiệt của các loài động vật

khác nhau. Vì, theo ý kiến thông thường, trong nội tạng của cá ít nóng

hơn của chim, đặc biệt là bồ câu, diều hâu, chim sẻ.

12. Cần phải tiếp tục nghiên cứu thân nhiệt ở cũng một động vật nhưng tại

các bộ phận khác nhau. Vì mỡ, máu, tinh dịch, trứng là nóng vừa phải và

ít nóng rát so với bề mặt cơ thể động vật khi nó chuyển động hay hoạt

động. Cho tới nay, vẫn chưa nghiên cứu mức nhiệt nào ở não, dạ dày, tim

và các bộ phận khác.

13. Bề mặt cơ thể mọi động vật đều lạnh vào mùa đông và vào lúc thời tiết

lạnh, nhưng người ta cho rằng nội tạng của chúng trở nên nóng hơn.

14. Độ nóng của các thiên thể, thậm chí ở các vùng oi bức nhất trong năm và

49

trong ngày, cũng không đạt tới mức độ làm bốc cháy hay đốt cháy cây gỗ

khô nhất, hay cỏ khô, bùi nhùi, nếu không tăng cường nó nhờ chiếu tấm

kính lồi – kính bắt lửa. Song, nó có thể gây ra hơi từ vật ẩm.

15. Theo các nhà thiên văn học thì một số ngôi sao được coi là nóng hơn, một

số khác thì ít nóng hơn. Hành tinh nóng nhất sau mặt trời được coi là sao

Hỏa, sau đó là sao Mộc, sau nữa là sao Kim. Còn các hành tinh lạnh nhất

là Mặt Trăng, sau đó lạnh hơn là sao Thổ. Nóng nhất trong các sao đứng

im là sao Thiên Lang, sau đó là sao Tâm Sư Tử, sau đó là sao Cẩu…

16. Mức độ nóng của các ngôi sao tùy vào vị trí của nó. Mặt Trời càng đốt

nóng hơn khi tiến gần tới vị trí thẳng đứng hay giữa trưa. Sao Mộc đốt

nóng nhiều hơn khi nó nằm dưới Đông chí tuyến của sao Cự giải, sao Sư

Tử nằm dưới Đông chí tuyến của chòm sau Ma Kết hoặc là chòm sao Bảo

Bình.

17. Độ đốt nóng của Mặt Trời khác nhau ở điểm cận nhật – vị trí gần với Trái

Đất nhất hành tinh so với ở điểm viễn địa – vị trí xa Trái Đất nhất với Mặt

Trời. Mặt Trời ở khu nằm ở điểm cận nhật và gần với ban trưa – thế thẳng

đứng, thì tất yếu sẽ nóng hơn so với ở khu vực mà nó nằm ở điểm cận

nhật mà ở độ nghiêng lớn hơn. Do vậy, cần phải so sánh độ cao ở các

hành tinh ở các khu vực khác nhau, xem xét thế thẳng đứng hay nằm

nghiêng.

18. Người ta cho rằng Mặt Trời và các hành tinh khác đốt nóng nhiều hơn khi

nằm gần các thiên thể lớn đứng im. Ví dụ khi Mặt Trời nằm ở Đông chí

tuyến của sao Sư tử, sao Đuôi Thất nữ, sao Thiên Lang và sao Cẩu so với

khi nó nằm dưới Đông chí tuyến của sao Cự Giải – mặc dù ở đó nằm gần

vị trí thẳng đứng hơn. Cũng cần phải giả định rằng, một vùng bầu trời

đem lại nhiều nhiệt hơn( dù không cảm nhận thấy được) nếu chúng được

các thiên thể, đặc biệt là các thiên thể lớn bao phủ.

19. Nói chung thì độ nóng của các thiên thể tăng lên do ba điều kiện: vị trí

thẳng đứng, nằm như thế nào so với điểm cận nhật và sự kết hợp với

50

những vì sao.

20. Có sự chênh lệch lớn giữa nhiệt của động vật, cũng như của tia sáng của

các thiên thể và lửa. Vì ngọn lửa cồn rượu, đặc biệt cả khi không tập

trung, vẫn có khả năng đốt cháy cỏ khô, khăn mặt hoặc giấy, trong khi

thân nhiệt của động vật hay độ nóng của Mặt Trời không có kính bắt lửa –

thấu kính lồi thì không làm được điều đó.

21. Có nhiều mức độ mạnh và yêu của độ nóng ở lửa và các vật thể nóng

chảy. Ngọn lửa cồn rượu là êm ái nhất trong mọi loại lửa, có lẽ chỉ kém

ngọn lửa chập chờn hay ánh sáng phát ra từ sự bốc hơi của động vật. Theo

Bacon, sau đó là ngọn lửa của các cây gỗ nhẹ và xốp, như cỏ khô, cây lan,

lửa của lá khô; lửa của tóc và lông chim không khác nhiều nhiều lửa ấy.

Tiếp theo có thể là lửa của cây, đặc biệt là cây chứa một ít nhựa.

22. Bacon cũng coi ngọn lửa rất mạnh và dữ dội là ngọn lửa sinh ra từ một số

kim loại không tinh khiết. Nhưng điều này cần tiếp tục được nghiên cứu.

23. Đương nhiên, ngọn lửa của những tia chớp mạnh vượt lên trên mọi loại

lửa ấy tới mức đôi khi làm nóng chảy đai sắt thành các giọt, ngọn lửa

khác không thể làm được điều đó.

24. Trong các vật thể bị đun nóng cũng có mức nhiệt khác nhau. Bacon cho

rằng yếu nhất là ngọn lửa ở bùi nhùi mà chúng ta sử dụng khi đánh lửa,

lửa ở gỗ xốp hay bấc đèn khô được dùng cho hỏa khí. Nối tiếp đó là than

đá nung nóng, than gỗ và than đá…Theo Bacon, nhiệt lớn nhất trong mọi

vật thể nung nóng là có ở các kinh loại nung nóng như sắt, đồng…Tuy

nhiên, điều này cũng cần được tiếp tục nghiên cứu.

25. Có các vật thể nung nóng những ngọn lửa nóng hơn nhiều một số loại

ngọn lửa. Như, sắt nung nóng thì nóng hơn nhiều và đốt nóng hơn nhiều

so với ngọn lửa của cồn rượu.

26. Một số vật thể có nhiệt lớn hơn nhiều loại ngọn lửa và vật thể nung nóng,

cũng có ở những vật thể không bị nóng chảy, mà chỉ bị đốt nóng bằng lửa.

Ví dụ như nước sôi và không khí trong các lò đảo chiều.

27. Chuyển động làm tăng nhiệt. Điều này thể hiện rõ nhất ở bễ lò rèn. Các

51

kim loại rắn nhất không bị nung nóng chảy và không biến thành chất lỏng

do ngọn lửa đứng im hay yên lặng – khi ngọn lửa chưa được thổi bùng

lên.

28. Tiến hành thí nghiệm với kính bắt lửa – thấu kính lồi. Ví dụ, nếu kính

được đặt ở khoảng cách một gang tay cách vật thể được đốt, nó sẽ không

đốt nóng và không làm cháy vật thể ấy ở mức độ đặt kính ở khoảng nửa

gang và sau đó xê dịch nó dần dần và chậm chạp ra khoảng cách một gang

tay. Mặc dù góc chiếu và sự hội tụ của các tia ánh sáng vẫn là như vật,

nhưng bản thân chuyển động làm tăng hiệu ứng của nhiệt.

29. Người ta cho rằng, các đám cháy diễn ra khi có gió mạnh thực ra lan

ngược với chiều gió chứ không phải theo chiều gió; đương nhiên, vì ngọn

lửa lan tỏa với chuyển động nhanh hơn khi gió thua nó, chậm hơn khi nó

chuyển động nhờ có gió.

30. Ngọn lửa không bốc lên và không xuất hiện nếu không có không gian

trong đó nó có thể chuyển động và vận hành, loại trừ lửa thuốc súng và

những thứ tương tự với nó, khi mà việc nén chặt và khép kín ngọn lửa làm

tăng sự hung dữ của nó.

31. Cái đe bị nóng lên dưới nhiều nhát búa. Cần phải kiểm nghiệm xem nếu

cái đe được làm bẳng tấm đệm mỏng thì những nhát búa mạnh và kéo dài

có thể làm cho nó đỏ lên và trở thành tấm sắt nung đỏ hay không.

32. Ngọn lửa sẽ tắt ngay lập tức nếu có sự nén mạnh cản trở chuyển động của

ngọn lửa. Ví dụ, tác động của ngọn lửa ngay lập tức ngừng lại nếu dùng

máy nén bóp chặt bùi nhùi hay bấc đèn, than đá nung nóng.

33. Việc tiến lại gần vật thể nóng sẽ làm tăng nhiệt tùy thuộc vào mức độ tiến

lại gần, như việc xảy ra với ánh sáng: càng đặt vật thể gần ánh sáng thì nó

càng trở nên rõ hơn.

34. Việc hợp nhất các loại nhiệt khác nhau sẽ làm tăng độ nóng nếu không

trộn lẫn các vật thể. Trên thực tế, ngọn lửa lớn và ngọn lửa nhỏ ở cùng

một chỗ sẽ cùng nhau làm tăng nhiệt đáng kể. Nhưng nước ấm đưa vào

52

nước sôi thì sẽ làm lạnh nước sôi.

35. Sự hiện diện của vật thể nóng sẽ làm tăng nhiệt. Vì nhiệt phát ra và nhiệt

đi qua không đổi sẽ kết hợp với nhiệt tồn tại trước đó, do vậy nhiệt sẽ tăng

lên. Vả lại, ngọn lửa làm nóng căn phòng trong nửa giờ không bằng trong

một giờ. Ánh sáng không có thuộc tính này.

36. Sự kích thích bằng không khí lạnh bao quanh sẽ làm tăng nhiệt, như điều

này thể hiện rõ khi bếp lò cháy vào lúc có tuyết lạnh buốt.

37. Nhiệt dễ dàng thâm nhập vào mọi vật thể và xuất hiện trong chúng, khi

vật thể hoàn toàn không thay đổi hình dạng. Thậm chí nhiệt của bàn tay

cũng làm nóng chút ít chiếc mũ làm từ chì hay kim loại khác nếu giữ nó

một lúc.

38. Trong tất cả các vật thể mà chúng ta biết thì không khí dễ dàng tiếp nhận

và tỏa nhiệt hơn cả.

39. Sau không khí, cái nhạy cảm đối với nhiệt là các vật thể ngay lập tức biến

đổi và co lại do lạnh. Ví dụ như tuyết và băng, vì chúng bắt đầu tan ra và

chảy xuống do bất kỳ nhiệt yếu ớt nào. Sau chúng có lẽ là thủy ngân. Nối

tiếp là các vật thể dạng mỡ, mỡ thực vật, mỡ động vật. Sau đó là gỗ, sau

nữa là nước và cuối cùng là đá và kim loại mà không dễ dàng nóng lên,

đặc biệt ở bên trong. Sau khi tiếp nhận nhiệt, chúng sẽ giữ lại rất lâu: bị

quăng vào thùng nước lạnh, gạch, đá hay cục sắt nung nóng sẽ giữ nhiệt

lâu tới mức không nên chạm vào chúng ngay lập tức.

40. Kích thước vật thể càng nhỏ thì nó càng nhanh bị nóng lên do được đưa

lại gần vật thể đốt nóng. Điều đó cho thấy rằng toàn bộ nhiệt của chúng đề

hướng vào vật thể cảm giác thấy.

41. Đối với cảm tính và cảm giác con người thì độ nóng là một sự vật đa dạng

và tương đối. Ví dụ, nước ấm có cảm tưởng là nóng nếu đưa bàn tay lạnh

vào nó, có cảm tưởng là lạnh nếu bàn tay đã được làm cho nóng lên.

Bảng nêu trên, Bacon có nêu rõ là: “Đôi khi đã đưa ra những ý kiến tầm

53

thường – song lại luôn được kết hợp với những nhận xét về tính xác thực đáng

hoài nghi của quyền uy và cũng cần thường xuyên sử dụng những lời nói như

cần phải làm thí nghiệm, hay cần phải tiếp tục nghiên cứu” [4, 245].

Bacon coi nhiệm vụ và mục đích của ba bảng này là giới thiệu các ví dụ

với lý tính. Sau khi đã giới thiệu thì bản thân phép quy nạp cần phải có tác dụng:

phát hiện ra chất lượng luôn có mặt hay vắng mặt, tăng lên hoặc giảm bớt cùng

với chất lượng hiện có, là trường hợp riêng của chất lượng chung hơn. Nếu lý

tính ngay từ đầu đã cố làm điều đó theo nghĩa khẳng định, thì sẽ xuất hiện khái

niệm và các tiên đề hư ảo, đáng nghi ngờ và không rõ ràng. Các kết luận này tốt

hay xấu còn thùy thuộc vào năng lực và sức mạnh của lý tính đang hành động.

Nói chung, thì chỉ có Chúa – người ban phát và sáng tạo ra các hình thức, hay

các thiên thần và thiên tài tối cao, mới có thể lập tức nhận thức được hình thức

trong các phán đoán khẳng định khi mới trực giác chúng. Điều này là quá sức

với con người. Vậy nên Bacon mới đưa ra phương pháp: đạt tới khẳng định sau

mọi kiểu loại trừ.

Các con đường “khẳng định” và “phủ định” mà Bacon nói tới ở đây, là hai

phương pháp giải quyết khác nhau “tổng hợp” và “phân tích”. Phương pháp thứ

nhất là luận chứng một giả thuyết đã thừa nhận nào đó bằng những sự kiện.

Phương thức thứ hai kiểm tra tuần tự các phương án giải quyết giả định có thể

có và loại trừ tất cả, trừ một phương án. Phép quy nạp thông qua sự liệt kê thuần

túy là một dạng của phương pháp “khẳng định”. Trong khi phép quy nạp lại trừ

của Bacon là một biến thể của phương pháp “phủ định”, hay “phân tích” [4,

246].

Công việc đầu tiên của phép quy nạp đúng đắn – đối với việc phát hiện ra

các hình thức, là loại bỏ hay loại trừ các chất lượng bắt gặp ở một ví dụ tăng lên

mà lại ở nơi chất lượng cho trước giảm bớt, một ví dụ giảm bớt mà lại ở nơi

chất lượng cho trước tăng lên. Khi đó, sau khi loại trừ một cách thỏa đáng thì sẽ

còn lại hình thức khẳng định, cứng rắn, chân thực và rõ ràng. Con đường dẫn

54

đến điều này gập ghềnh và đầy chông gai.

Bây giờ, đã tới lúc đưa ra ví dụ loại trừ các chất lượng bộc lộ ra thông qua

các bảng giới thiệu, hay nói cách khác là không thuộc về hình thức của nhiệt.

Một vài ví dụ nằm trong trường hợp ngoại lệ.

Ví dụ loại trừ, hay loại bỏ, các chất lượng khỏi hình thức của nhiệt

1. Thông qua tia sáng mặt trời: hãy loại bỏ chất lượng đơn giản nhất. Hay

nói cách khác, đừng coi hình thức của độ nóng chỉ là một cái gì đó có ở

trái đất, vì mặt trời cũng tỏa nhiệt.

2. Thông qua ngọn lửa thông thường và đặc biệt là thông qua ngọn lửa dưới

lòng đất( mà thường rất xa vời và phần lớn được tách biệt khỏi tia sáng

của thiên thể): hãy loại bỏ chất lượng của các thiên thể.

3. Thông qua việc đốt nóng mọi loại vật thể( khoáng vật, cây cối, các bộ

phận bên ngoài của động vật, nước, mỡ, không khí và những thứ khác) chỉ

nhờ đưa tới gần lửa hay một vật thể nóng khác: hãy loại bỏ mọi đặc điểm

hay độ tinh tế của cấu tạo các vật.

4. Thông qua sắt và kim loại nung nóng mà làm nóng các vật thể khác và

hoàn toàn không giảm bớt trọng lượng hay khối lượng: hãy loại bỏ sự hợp

nhất hay pha trộn chất với chất của một vật thể nóng khác.

5. Thông qua nước sôi và không khí, cũng như thông qua kim loại và các vật

thể rắn khác được đốt nóng nhưng chưa tới mức bốc cháy hay nung đỏ:

hãy loại bỏ ánh sáng và ánh sáng phản chiếu.

6. Thông qua tia sáng mặt trăng và các vì sao khác( loại trừ mặt trời); hãy

loại bỏ ánh sáng và ánh sáng phản chiếu.

7. Thông qua việc so sánh giữa sắt nung nóng có lượng nhiệt lớn hơn, ánh

sáng ít hơn với ngọn lửa cồn rượu – ánh sáng nhiều hơn, lượng nhiệt ít

hơn: cũng loại bỏ ánh sáng và ánh sáng phản chiếu.

8. Thông qua vàng và các kim loại khác đun nóng, nói chung là đậm đặc

hơn: hãy loại bỏ độ loãng khí.

9. Thông qua không khí thường là lạnh và vẫn có độ loãng: cũng loại bỏ độ

55

loãng khí.

10. Thông qua sắt nung nóng không tăng thể tính, mà vẫn giữ nguyên kích

thước nhìn thấy được: hãy loại bỏ chuyển động trong không gian hay xu

hướng mở rộng nói chung.

11. Thông qua việc nở ra của không khí trong những chiếc gương đo và các

thiết bị tương tự, nơi mà không khí rõ ràng có chuyển động, dịch chuyển

và nở ra, nhưng không tăng đáng kể nhiệt: hãy loại bỏ sự dịch chuyển và

xu hướng nở ra nói chung,

12. Thông qua việc đốt nóng dễ dàng mọi vật thể mà hoàn toàn không phá

hủy hay làm biến đổi đáng kể: hãy loại bỏ chất lượng phá hủy hay sự lan

tỏa cưỡng ép của một chất lượng nào đó.

13. Thông qua tính ăn nhịp và cùng loại của những tác động sinh ra từ sức

nóng và độ lạnh: hãy loại bỏ chuyển động mang tính mở rộng, cũng như

chuyển động mang tính nén lại nói chung.

14. Thông qua sự xuất hiện nhiệt do các vật cọ xát với nhau: hãy loại bỏ chất

lượng khởi thủy. Bacon gọi chất lượng khởi thủy là chất lượng hiện diện

một cách tích cực trong chất lượng có sẵn và không phải do chất lượng

tồn tại trước đấy sinh ra. Bằng cách đó, người ta loại bỏ quan niệm về độ

nóng như một thực thể đặc biệt khuếch tán thông qua chất lượng các vật

thể.

Tất cả và mỗi chất lượng nêu trên đều không thuộc về hình thức của nhiệt.

Chân lý thực ra vẫn sinh ra từ sai lầm hơn là từ sự úp mở, nên Bacon cho

rằng, sau khi giới thiệu ba bảng đầu tiên, sẽ hữu ích nếu cho phép lý tính chuẩn

bị và cố gắng giải thích chất lượng trong cái khẳng định. Bacon gọi thử nghiệm

này của lý tính là khoản ưu đãi cho lý tính, hay sự khởi xướng giải thích, hoặc là

sự thu thập thành quả đầu tiên.

Sự thu thập thành quả đầu tiên đối với hình thức của nhiệt [4, 256].

Có một số ví dụ mà các chất lượng khác cản trở ít nhất chất lượng của

56

hình thức và phục tùng nó. Hình thức lúc này dễ thấy và rõ ràng hơn so với

trong một số ví dụ khác. Bacon gọi những ví dụ loại ấy là tia sáng, hay là ví dụ

chỉ dẫn.

Tất cả các ví dụ đều cho thấy, chất lượng mà nhiệt là một trường hợp

riêng biệt, đều chuyển động. Điều này bộc lộ rõ qua: ngọn lửa luôn luôn chuyển

động; các chất lỏng đang sôi cũng luôn chuyển động; kích thích hoặc làm gia

tăng nhiệt thông qua chuyển động( ví dụ 29 bảng 3); việc dập tắt lửa và nhiệt do

mọi sự đè nén mạnh loại bỏ và ngừng chuyển động( ví dụ 30 và 32 bảng 3); bất

kỳ vật thể nào cũng bị phá hủy hay ít nhất cũng bị biến đổi đáng kể do bất kỳ

ngọn lửa nào hay do nhiệt mạnh và dữ dội. Tất cả cho thấy, nhiệt tạo ra sự hỗn

loạn, chuyển động mạnh mẽ ở các bộ phận bên trong của vật thể đang có xu

hướng phân hủy dần dần. Sự chuyển động ở đây là bản thân nhiệt, hay nói cách

khác bản chất của nhiệt là chuyển động.

Độ nóng( nhiệt) đối với cảm giác là một sự vật tương đối và có quan hệ

với con người chứ không phải với Vũ trụ; và nó được quan niệm đúng đắn chỉ là

tác động của nhiệt độ vào hơi thở động vật. Hơn nữa, nhiệt tự nhận là một vật

biến đổi, nếu cùng một vật thể( phù hợp với tố chất của cảm giác) đem lại trực

giác về nóng và về lạnh( ví dụ 41 bảng 3) [4, 258].

Không nên lẫn lộn hình thức của nhiệt lượng với việc truyền nhiệt – tức

thuộc tính được truyền đi của nó mà nhờ đó vật thể nóng lên khi đưa lại gần vật

thể nóng. Với lại, thông qua chuyển động, qua ma sát thì nhiệt được truyền đi

mà không có một vật thể có nhiệt nào từ trước đó. Do vậy, cái đốt nóng bị loại

ra khỏi hình thức của nhiệt lượng.

Khái niệm về lửa là tầm thường và không có giá trị gì cả. Nó cấu thành từ

sự lẫn lộn giữa nhiệt và ánh sáng ở một vật thể nào đó. Ví dụ như ở ngọn lửa

thông thường và ở các vật thể bị nung đỏ lên [4, 259].

Như vậy, sau khi loại bỏ mọi sự không rõ ràng, cuối cùng có thể đi đến

những sự khác biệt thực sự, làm cho chuyển động trở nên xác định và dẫn nó tới

57

hình thức của nhiệt.

Sự khác biệt thứ nhất là ở chỗ: chuyển động lan tỏa, khi đó vật thể có xu

hướng nở ra và nhận được thể tích hay kích thước lớn hơn so với trước đây.

Sự khác biệt thứ hai là ở chỗ: nhiệt là sự chuyển động nở ra và cùng đồng

thời hướng lên trên. Biểu hiện rõ ở nếu đưa cái kim vào lửa, nếu giữ chúng

thẳng đứng ở bên trên thì tay sẽ ngay lập tức thấy bỏng, nếu giữ chúng ở bên

cạnh hay ở phía dưới, thì rất lâu mới thấy tay bỏng.

Sự khác biệt thứ ba là ở chỗ: nhiệt không phải là chuyển động nở ra đồng

đều của toàn bộ khối lượng, mà là nở ra ở các bộ phận nhỏ bé của vật thể , đồng

thời là chuyển động khó khăn, bị kìm hãm và được phản chiếu.. Sự khác biệt

này thấy rõ hơn ở cả ngọn lửa và các chất lỏng đang sôi, thường xuyên chập

chờn và làm cho các bộ phận nhỏ bé đi lên rồi lại đi xuống.

Sự khác biệt thứ tư là ở chỗ: chuyển động nóng chảy và thâm nhập cần

phải diễn ra tương đối nhanh, chứ không hoàn toàn phải chậm chạp. Tác động từ

thời gian lại tinh tế hơn – chuyển động rất chậm và diễn ra thông qua những hạt

rất nhỏ bé.

Như vậy, dựa trên sự thu thập thành quả đầu tiên này, hình thức, hay định

nghĩa chân thực về nhiệt nếu trình bày vắn tắt: khi không có những sự khác biệt

trên thì đấy là vật thể đơn giản( những yếu tố trên trái đất) hay vật thể chịu ảnh

hưởng của các thiên thể; là vật thể phát sáng hay vật thể tối mầu; là vật thể mỏng

hay vật thể dày, nó tự do nở ra trong không gian hay bị giới hạn ở kích thước

ban đầu của mình; có xu hướng tan ra hay giữ nguyên trạng thái; vật thể đó là

động vật, thực vật hay khoáng vật; nước, hay dầu, hoặc không khí, hay một chất

nào khác có khả năng lĩnh hội chuyển động nêu trên.

Sau khi đưa ra bảng giới thiệu thứ nhất, ví dụ loại bỏ và loại trừ, sự thu

thập thành quả đầu tiên thông qua chúng, cần phải chuyển sang những sự trợ

giúp còn lại cho lý tính để giải thích giới tự nhiên – hoàn thành phép quy nạp

58

chân thực và hoàn hảo.

Để làm như vậy, trước hết Bacon sẽ nói về những ví dụ chủ yếu; thứ hai,

về sự trợ giúp của phép quy nạp; thứ ba, về sự điều chỉnh phép quy nạp; thứ tư,

về những sự cải biến nghiên cứu cho phù hợp với chất lượng của đối tượng; thứ

năm, về những ưu việt của chất lượng đối với nghiên cứu; thứ sau, về giới hạn

nghiên cứu, hay nói cách khác là khảo cứu mọi chất lượng của Vũ trụ; thứ bảy,

về phép diễn dịch đến thực tiễn, hay về cái có quan hệ với con người; thứ tám,

về sự chuẩn bị nghiên cứu và cuối cùng, về thang bậc đi lên và đi xuống của các

tiên đề [4, 268].

Trước hết, Bacon chỉ ra những ví dụ riêng biệt trong những ví dụ chủ

yếu. Những ví dụ riêng biệt đó là những ví dụ bộc lộ chất lượng đang nghiên

cứu trong các đối tượng không có điểm nào chung với các đối tượng khác, ngoài

bản thân chất lượng ấy. Ngược lại với đó, là bộc lộ sự vắng mặt chất lượng đang

nghiên cứu trong các đối tượng hoàn toàn giống với các đối tượng khác.

Ví dụ, nếu nghiên cứu chất lượng màu sắc thì những ví dụ riêng biệt là

lăng kính, sương, trên tường, kim loại, gỗ…Trên thực tế, những thứ trên không

có một điểm nào chung với nhau, ngoại trừ bản thân màu sắc. Dễ dàng kết luận

rằng, màu sắc không phải là cái gì khác hơn là sự biến đổi hình ảnh của ánh sáng

được rọi tới và được tiếp nhận( quan điểm của B. Telesio). Sự khác biệt là ở góc

rơi của màu sắc khác nhau, và do các tổ chức và kết cấu khác nhau của vật thể.

Bacon đặt những ví dụ chuyển tiếp vào vị trí thứ hai trong ví dụ chủ

yếu. Đó là những ví dụ trong đó chất lượng đang được nghiên cứu chuyển sang

sự ra đời nếu trước đó nó chưa có, ngược lại, chuyển sang sự tiêu vong nếu

trước đó nó đã có. Sự chuyển tiếp như vậy đưa bản thân hình thức vào giới hạn

của vật thể - tức khẳng định rằng chính đó là hình thức cần tìm. Sự chuyển tiếp

càng đơn giản thì ví dụ càng có giá trị hơn. Khi giới thiệu hình thức cùng với cơ

sở tạo ra hay loại trừ nó, trong một số trường hợp, chúng chỉ rõ thực tiễn, từ đó

thì sự chuyển tiếp sang cái lân cận cũng trở nên dễ dàng. Tuy nhiên, ở đây cũng

có hạn chế là những ví dụ này có thể đưa hình thức đến quá gần so với bản

59

nguyên tạo ra – trói buộc lý tính với sai lầm.

Bacon lấy màu trắng để trình bày nguyên mẫu của ví dụ chuyển tiếp.

Chuyển tiếp của sự ra đời của nó là chiếc kính nguyên vẹn – màu trong suốt và

chiếc kính tán nhỏ thành bột – màu trắng. Hệt như vậy là nước tinh khiết – trong

suốt và nước sủi bọt – màu trắng. Rõ ràng, sự đập nhỏ kính và sự quấy nước lên

đã đem lại hình thức màu trắng. Chúng ta không phát hiện ra một cái gì khác

được thêm vào nữa để chuyển tiếp thành hình thức màu trắng ngoài việc tán nhỏ

các bộ phận kính và nước, và đưa không khí vào. Kết luận rằng: sau khi loại bỏ

không khí và những thứ tương tự, nói chung các vật thể trong suốt đem lại tính

trong suốt; các vật thể không đồng nhất có cấu tạo phức tạp nhưng có trật tự

đem lại những màu sắc còn lại, loại trừ màu đên; các vật thể không đồng nhất có

cấu tạo phức tạp nhưng không có trật tự, rối rắm thì đem lại màu đen.

Còn về ví dụ chuyển tiếp sang việc loại bỏ chất lượng màu trắng, là bọt

xẹp đi hay tuyết tan ra. Vì nước đánh mất màu trắng và có được màu trong suốt

sau khi nó trở nên dày đặc và không được pha trộn với không khí. Việc đưa ra ví

dụ chuyển tiếp trên – hướng về sự tăng lên hay giảm bớt cũng giúp phát hiện ra

hình thức.

Bacon đặt ví dụ chỉ dẫn vào vị trí thứ ba trong những ví dụ chủ yếu.

Đây là những tia sáng hay những ví dụ giải phóng và chiếm ưu thế. Đây là

những ví dụ chỉ ra chất lượng đang được nghiên cứu là cái độc lập trong sự đi

lên – hay ở mức độ sức mạnh lớn nhất của nó. Ví dụ ở đây là chuyển động lan

tỏa thể hiện bộ phận chiếm ưu thế của hình thức nhiệt lượng. Vì mặc dù ngọn

lửa bộc lộ rõ sự lan tỏa, song do sự tắt ngấm chớp nhoáng, lại không chỉ ra sự

tăng lên trong lan tỏa. Nước sôi không cho thấy rõ sự lan tỏa của nước do nó dễ

dàng chuyển thành hơi và không khí. Sắt nung nóng và những thứ tương tự

không những không chỉ ra sự gia tăng lan tỏa mà ngược lại, kiềm chế và loại bỏ

sự lan tỏa – do chèn ép và phản xạ của các vật thể dày đặc và thô thiển. Chỉ có

riêng nhiệt là biểu thị rõ sự lan tỏa dễ nhận thấy, luôn gia tăng, kéo dài và liên

60

tục của không khí.

Bacon đặt những ví dụ ẩn giấu hay còn gọi là ví dụ tranh tối tranh

sáng( không rõ ràng) lên vị trí thứ tư trong những ví dụ chủ yếu. Chúng

dường như đối lập với những ví dụ chỉ dẫn, vì chúng biểu thị chất lượng đang

được nghiên cứu ở sức mạnh nhỏ nhất của nó. Ví dụ chỉ dẫn dễ dàng dẫn tới các

sự khác biệt, còn ví dụ ẩn giấu dễ dàng dẫn tới những sự giống nhau – tức là các

chất lượng chung. Ví dụ như là sự hút nhat, hay sự hội tụ các các vật thể dược

nghiên cứu. Nam châm và ví dụ chỉ dẫn tuyệt vời nhất đối với hình thức của nó.

Chất lượng đối lập với nó là chất lượng không hút nhau, dù là những cái tương

tự nhay như là sắt không hút sắt, chì không hút chì, nước không hút

nước…Người ta có thể nạp từ tính cho sắt, nhưng từ tính được nạp này không

mạnh hơn từ tính tự nhiên. Nhưng nếu sắt được đưa gần tới mức chạm vào sắt

không được nạp từ tính, thì từ tính được trang bị sẽ giữ được một khối lượng sắt

lớn hơn nhiều so với từ tính đơn giản, tự nhiên, do ở đây có sự tương đồng giữa

chất sắt đối với sắt. Hệt như vậy trong các vật thể toàn vẹn, khi bọt đưa lại bọt

khác sẽ dễ vỡ hơn là khi không có bọt khác ấy: điều này diễn ra là do xu hướng

hội tụ của nước với nước và không khí với không khí. Loại ví dụ ẩn giấu này

biểu hiện nhiều nhất ở các bộ phận nhỏ bé và tinh tế của vật thể.

Bacon đặt những ví dụ kiến tạo hay còn gọi là những ví dụ liên kết, vào

vị trí thứ năm trong những ví dụ chủ yếu. Đây là những ví dụ cấu thành một

loại chất lượng đang được nghiên cứu, dường như là hình thức nhỏ nhất của nó.

Ví dụ về sự nghiên cứu trí nhớ hay kích thích trí nhớ và trợ giúp nó. Những ví

dụ kiến tạo ở đây thực chất là trật tự hay sự phân bố mà rõ ràng trợ giúp cho trí

nhớ, giống như các “vị trí” theo nghĩa đen, như cửa ra vào, góc nhà, cửa sổ và

những thứ tương tự; hoặc là những cá nhân quen biết hay gần gũi…Loại “vị trí”

ấy trợ giúp đáng kể trí nhớ và đưa nó vượt lên trên các lực lượng tự nhiên. Hệt

như vậy, thơ dễ nhớ và học thuộc hơn là văn xuôi. Từ những ví dụ khác nữa, có

thể rút ra những điều trợ giúp trí nhớ: cái gì gây ra ấn tượng nhờ xúc động

mạnh( nỗi sợ hãi, xấu hổ, vui vẻ); những gì đã được tiếp xúc, thực hiện thì sẽ có

61

khái niệm sơ bộ chính xác tránh tìm kiếm lung tung, dường như là vô hạn;

những cái lần đầu tiên diễn ra; những gì được chờ đợi sẽ được giữ lại tốt hơn là

những cái thoáng qua. Vậy nên, đọc bài văn hai mươi lần chưa chắc đã nhớ kĩ

nó hơn là đọc nó mười lần.

Bacon đặt những ví dụ giống nhau hay phù hợp vào vị trí thứ sáu

trong những ví dụ chủ yếu. Đây là những ví dụ chỉ ra những nét tương đồng và

hợp nhất giữa các vật thể. Chúng dường như thể hiện các thang bậc đầu tiên và

thấp nhất dẫn tới sự thống nhất của giới tự nhiên. Chúng không lập tức tạo ra

một tiên đề nào ở ngay khi bắt đầy mà chỉ ra và vạch ra một sự thống nhất nào

đó của các vật thể. Đôi khi, chúng dường như dẫn dắt tới các tiên đề to lớn và

quan trọng, cụ thể là các tiên đề có quan hệ nhiều hơn so với cấu tạo của thế

giới, mang tầm vóc hơn so với các chất và các hình thức đơn giản. Nhựa cây và

đa số đá quý là những ví dụ về sự giống nhau. Chúng không khác gì hơn là nhựa

đã tách ra và rỉ ra, chỉ khác ở chỗ, một cái là nhựa cây, còn trường hợp kia là

nhựa đá. Từ nhựa đá sinh ra sự trong suốt và lấp lánh – do có sự chắt lọc tinh tế

và cẩn thận. Còn ví dụ tương đồng nữa là “con người là một cái cây lộn ngược”

– vì các dây thần kinh và các khả năng ở động vật là đầu, còn các bộ phận sinh

dục ở dưới, còn ở thực vật thì rễ( dường như là đầu) luôn nằm ở dưới, còn hạt lại

nằm trên. Những sự tương đồng này nêu lên những tương đồng trong vật lý, tức

là những tương đồng vật chất, thực sự và có trong tự nhiên, chứ không phải

những tương đồng ngẫu nhiên, mê tín. Cũng cần phải nhận thấy sự giống nhau

giữa các ví dụ trong những tiên đề của khoa học. Tiên đề toán học “Hai đại

lượng đều bằng đại lượng thứ ba thì bằng nhau” – giống với cấu tạo của Tam

đoạn luận trong logic học, Tam đoạn luận kết hợp cái giống nhau trong trung từ.

Bacon đặt những ví dụ độc đáo, hay còn gọi là những ví dụ không

đúng hay không hợp cách vào vị trí thứ bảy trong những ví dụ chủ yếu. Đây

là những ví dụ chỉ ra các vật thể trong tính cụ thể của chúng, tỏ ra bất bình

thường, dường như bị tách rời khi xét về chất lượng của mình và hoàn toàn

không phù hợp với những sự vật khác cùng loại. Nguyên mẫu của ví dụ độc đáo

62

là Mặt Trời và Mặt Trăng trong các thiên thể, là đá nam châm – trong những loại

đá, là thủy ngân – trong những loại kim loại, là tài đánh hơi của chó – trong các

loại khứu giác…

Bacon đặt những ví dụ đi chệch vào vị trí thứ tám trong những ví dụ

chủ yếu. Tức là những sự đi chệch của chất, những sự què quặt, kỳ lạ khi mà

chất đi chệch và tách ra khỏi tiến trình thông thường của mình. Những sự đi

chệch của chất khác với những ví dụ độc đáo ở chỗ những ví dụ độc đáo thực

chất là là phép mầu trong các loài, còn những sự đi chệch là phép mầu trong các

cá thể [5, 297]. Sự đi chệch chỉ dẫn con đường đi đến thực tiễn và sự áp dụng tốt

hơn. Vì tạo ra các loài mới rất khó, còn việc đa dạng hóa các loài đã biết, tạo ra

nhiều sự hiếm hoi thì ít khó khăn hơn.

Bacon đặt những ví dụ giáp ranh, hay còn gọi là những ví dụ liên đới

vào vị trí thứ chính trong những ví dụ chủ yếu. Đây là những ví dụ chỉ ra các

loại vật thể mà dường như cấu thành từ hai loại hay là những cái gần gũi với cả

hai loại ấy. Những ví dụ này là: rêu – cái nằm giữa vật thối rữa và cây; cá chuồn

– cái nằm giữa chim và cá; dơi – cái nằm giữa chim và động vật bốn chân, vượn

– một con thú nhưng lại rất giống con người; các con lai của động vật…

Bacon đặt những ví dụ sức mạnh, hay quyền trượng( lấy tên gọi từ

biểu tượng của chính quyền), hay còn gọi là năng lực hay đôi tay của con

người vào vị trí thứ mười trong những ví dụ chủ yếu. Đây là những tạo phẩm

hoàn hảo và quan trọng nhất, dường như là thang bậc tối hậu trong mỗi loại

nghệ thuật. Cần phải nhận thấy cái độc đáo trong nghệ thuật không ít hơn cái

độc đáo trong tự nhiên. Chẳng hạn, ví dụ độc đáo của nghệ thuật là giấy, một vật

hoàn toàn quen thuộc. Giấy là một vật thể dai có thể cắt và xé để nó có thể so bì

với da động vật hay lá cây và những tạo phẩm tương tự của tự nhiên. Vì nó

không dễ vỡ như kính, không dễ đứt như sợi chỉ, cấu thành từ xơ chứ không

phải từ những sợi khác nhau – hoàn toàn giống như những vật liệu tự nhiên. Do

vậy, chắc gì có thể tìm thấy một cái tương tự trong các vật liệu nhân tạo, và giấy

thì là một ví dụ hoàn toàn độc đáo. Trong những cái nhân tạo thì đương nhiên

cần phải ưu tiên hoặc cái bắt nguồn ở mức độ lớn nhất từ sự bắt chước tự nhiên, 63

hoặc ngược lại, cái điều khiển và cải tạo tự nhiên. Cũng không nên hoàn toàn

loại bỏ mê tín và ma thuật. Vì, cho dù chúng bị chôn vùi sâu dưới vô số giả dối,

truyện cổ tích, song vẫn cần phải xem xét một tác động tự nhiên nào đó có ẩn

giấu dưới bề sâu của một trong số chúng, như việc chuyển ấn tượng từ tinh thần

đến tinh thần, cũng như từ thể xác đến thể xác, điều hành công việc từ xa...

Năm loại ví dụ cuối( ví dụ giống nhau, ví dụ độc đáo, ví dụ đi chệch, ví dụ

giáp ranh và ví dụ sức mạnh) không nên bỏ qua cho tới khi tìm ra một chất

lượng xác định của chúng. Ngay từ đầu, cần phải bắt tay vào việc thu thập

chúng, sắp xếp chúng để không bị rối rắm. giúp cho tính lĩnh hội, chỉnh lý bản

thân lý tính không bị quá tải, xuyên tạc, bóp méo bởi những ấn tượng quen

thuộc hàng ngày. Bên cạnh đó, lại ví dụ này cũng mở ra và chuẩn bị con đường

ứng dụng thực tiễn.

Bacon thường đặt những ví dụ liên đới và thù nghịch, hay còn gọi là

những ví dụ kiến nghị thường xuyên, vào vị trí thứ mười một trong những

ví dụ chủ yếu. Ví dụ như người ta nghiên cứu bản chất của nhiệt. Ngọn lửa là ví

dụ liên đới.Trên thực tế, nhiệt là chuyển động, có thể đến và đi trong nước, trong

không khí, trong đá, trong kim loại và trong nhiều thứ khác; còn ngọn lửa luôn

nóng, do vậy nhiệt lượng luôn đi liền với ngọn lửa cụ thể. Không có một ví dụ

nào đối nghịch với nhiệt, vì những vật thể mà chúng ta biết thì không có một vật

thể nào không có khả năng tiếp nhận nhiệt. Đối với những ví dụ như vậy về dự

kiến không thay đổi thì có hai chỉ dẫn hữu ích. Chỉ dẫn thứ nhất là cần phải đánh

giá rõ có cái khẳng định hay là cái khẳng định vắng mặt thường xuyên, như với

ví dụ nhiệt và lửa bên trên. Hay là chúng ta cũng luôn không có cái khẳng định

nếu nghiên cứu chất vĩnh cửu và không mục nát. Chỉ dẫn thứ hai là cần phải hợp

nhất những cái cụ thể gần gũi nhất với cái không hiện tồn, nhằm chỉ ra giới hạn

về chất lượng giữa cái tồn tại và cái không tôn tại. Ví dụ, đối với nhiệt thì các

loại lửa yếu nhất và ít đốt nóng nhất, còn với cái không mục nát thì vàng là phù

64

hợp nhất.

Bacon đặt những ví dụ cực đoan, hay còn gọi là những ví dụ giới hạn

vào vị trí thứ mười hai trong những ví dụ chủ yếu. Vì chúng không che đậy

sự phân định chân thực của chất lượng và độ của các sự vật, cũng như chỉ ra giới

ạn nào thì chất lượng thực hiện và tạo ra một điều gì đó, sau đó – chất lượng

chuyển thành cái khác [4, 311]. Ví dụ là vàng – về trọng lượng, là sắt – về độ

rắn, là chó – về độ thính,…

Bacon đặt những ví dụ liên minh, hay liên hợp, vào vị trí thứ mười ba

trong những ví dụ chủ yếu. Đây là những ví dụ pha trộn và hợp nhất các chất

được coi là khác loại, được nêu ra với chất như vậy và được biểu thị thông qua

những sự phân chia đã được thừa nhận. Những ví dụ liên minh rất hữu ích cho

việc đề cao và nâng cao lý tính từ loài lên giống, để loại bỏ mặt nạ và ảo ảnh của

các sự vật. Ví dụ ở đây là người ta nghiên cứu bản chất của nhiệt. Một điều hoàn

toàn đáng tin tưởng là sự phân chia xác đáng ba loại nhiệt: nhiệt của các thiên

thể, nhiệt của động vật, và nhiệt của lửa. Ba loại này là khác nhau và không

hoàn toàn thuần nhất xét về bản chất và chất lượng đặc thù. Trong ba loại này,

nhiệt của lửa thì phá hủy và hủy diệt. Nhưng sự phục hồi cũng nhiều khi được

dựa vào lửa: cái chảo đốt nóng mà các bác sĩ úp lên đầu người trúng phong vô

vọng, hiển nhiên đã phát tán tinh thần động vật bị chất dịch và vách ở não chặn

lại, dường như bị chèn ép, và một lần nữa, nhờ nhiệt lượng mà kích thích nó

chuyển động. Điều này không khác hơn ngọn lửa tác động đến nước hay không

khí và qua đó làm hồi sinh. Cũng hệt như vậy thì gà con đôi khi nở ra từ trứng

nhờ nhiệt của lửa mà hoàn toàn giống với nhiệt của động vật. Cũng vì vậy,

không ai có thể nghi ngờ rằng, trong nhiều vật thể, nhiệt của lửa có thể biến

dạng thành cái giống với nhiệt của các thiên thể và của động vật.

Bacon đặt những ví dụ chữ thập vào vị trí thứ mười bốn trong những

ví dụ chủ yếu – lấy tên gọi từ các chữ thập đặt ở ngã tư đường để phân định các

con đường. Thường được gọi là những ví dụ quyết định và phán xét, trong một

số trường hợp thì đây là những ví dụ tiên tri và bảo lãnh. Ý nghĩa của chúng là

65

khi mà lý tính đang dao động và không tin tưởng mà lại gán nguyên nhân của

bản chất đang được nghiên cứu cho hai hay nhiều bản chất nào đó thì ví dụ chữ

thập sẽ chỉ ra sự hiện diện của một trong những bản chất đó là thường xuyên và

không tách rời được, còn sự hiện diện của những bản chất khác – không thường

xuyên và tách rời được [4, 321]. Bản chất thứ nhất này được thừa nhận là

nguyên nhân, còn bản chất khác bị bác bỏ, loại bỏ. Chẳng hạn giả sử người ta

nghiên cứu bản chất của thủy triều lên và thủy triều xuống, trong đó mỗi thứ lặp

lại hai lần trong ngày và kéo dài 6 tiếng từ lúc bắt đầu cho tới lúc kết thúc cùng

với một mật độ sai lệch trùng hợp với chuyển động của mặt trăng.

Cần phải giả định thứ nhất rằng, chuyển động này diễn ra hoặc do nước

đến và đi, giống như nước chuyển động trong cái chậu, khi nó bao bọc một

thành chậu bên này và bỏ lại thành chậu bên kia; hay do nước nổi lên từ đáy và

hạ xuống, giống như nó sôi lên và một lần nữa lại hạ xuống. Nhưng sau khi

nghiên cứu hai bờ biển đối lập là Florida với Tây Ban Nha, Châu Phi, lại thấy

rằng thủy triều đồng thời lên và cũng đồng thời xuống.

Người ta đi tới ví dụ chữ thập đối với đối tượng này: trong thời gian thủy

triều xuống ở mặt biển, bề mặt của biển sẽ lồi và tròn hơn vì nước dâng lên ở

giữa và ra khỏi các bờ; còn trong thời gian thủy triều lên, bề mặt ấy sẽ bằng và

phẳng hơn vì nước trở về vị trí trước đây của nó, thì khi ấy, nhờ ví dụ quyết định

này, thật sự có thể thừa nhận sự nhô lên nhờ lực từ trường, còn trong trường hợp

ngược lại thì nó cần bị bác bỏ hoàn toàn. Dễ dàng kiểm tra điều này ở biển

thông qua máy đo độ sâu, mà chính là xác định biển sẽ cao hơn hay sâu hơn ở

giữa trong thời gian thủy triều xuống so với thời gian thủy triều lên. Tuy nhiên,

cần nhận thấy rằng, nếu thực tế là như vậy, thì điều đó có nghĩa – trái ngược với

điều người ta nghĩ, rằng nước dâng lên trong thời gian thủy triều xuống, hạ

xuống trong thời gian thủy triều lên và qua đó che phủ và làm tràn ngập bờ.

Bacon đặt những ví dụ khác nhau – những ví dụ chỉ ra sự phân cách

giữa các chất lượng thường bắt gặp cùng nhay, vào vị trí thứ mười lăm

trong những ví dụ chủ yếu. Khác với ví dụ liên đới – chỉ ra sự phân ly tính

tách rời của một bản chất nào đó ra khỏi một vật cụ thể mà nó thường gắn bó, 66

còn ví dụ khác nhau chỉ ra sự phân cách của một bản chất nào đó với bản chất

khác. Có thể sử dụng chúng để vạch ra các hình thức giả dối và để làm tiêu tan

các kết luận hời hợt về những sự vật quen thuộc đối với lý tính. Chẳng hạn, giả

sử người ta nghiên cứu bốn bản chất mà Telesio gọi là các bản chất “cộng

sinh”và dường như tồn tại dưới cùng một mái nhà: nóng, sáng, mỏng và chuyển

động, hay có xu hướng chuyển động”. Telesio cho rằng nóng và lạnh là hai bản

nguyên của vũ trụ và sự khác nhau giữa chúng phù hợp với sự khác nhau giữa

Mặt Trời và Trái Đất: “Mặt Trời là hoàn toàn nóng chiếu sáng, mỏng, chuyển

động; và ngược lại, Trái Đất là lạnh, cong, bất động, đen tối” [4, 321].

Năm loại ví dụ tiếp theo được Bacon biểu thị bằng tên gọi chung là ví

dụ chiếc đèn dầu, hay ví dụ thông báo lần đầu. Đây là những ví dụ trợ giúp

cho cảm tính. Vì sự lý giải bản chất nào cũng đều bắt đầu từ cảm tính, dẫn đên

những cảm nhận của lý tính như các khái niệm, các tiên đề chân thực, thì một

điều tất yếu là: các biểu tượng của cảm tính càng phong phú và chính xác hơn.

Trong năm ví dụ chiếc đèn dầu, thì những ví dụ đầu tiên tăng cường, lấp

đầy và điều chỉnh tác động trực tiếp của cảm tính; những ví dụ thứ hai đưa cái

phi cảm tính về cái cảm tính; những ví dụ thứ ba chỉ ra sự tiếp diễn của quá trình

hay tính tuần tự của các sự vật và các chuyển động mà phần lớn không nhận

thấy được, trước khi chúng đã kết thúc hay chuyển biến; những ví dụ thứ tư thay

thế cảm tính bằng một cái gì đó khi nó hoàn toàn bất lực; những ví dụ thứ năm

kích thích sự chú ý của cảm tính và năng lực quan sát của nó, cũng như hạn chế

độ tinh tế của các sự vật.

Bacon đặt những ví dụ cửa ra vào, hay những ví dụ cổng, vào vị trí

thứ mười sáu trong những ví dụ chủ yếu. Tên gọi này dùng để chỉ những ví

dụ trợ giúp tác động trực tiếp của cảm tính. Đương nhiên là thị giác chiếm vị trí

thứ nhất giữa các giác quan. Sự trợ giúp này có thể là ba loại: hoặc để cho thị

giác lĩnh hội những gì nó không tiếp xúc được; hoặc để cho nó lĩnh hội ở một

khoảng cách lớn; hoặc để cho nó lĩnh hội rõ ràng và chính xác hơn [4, 349].

Bacon muốn nói tới ba thiết bị quang học: kính hiển vi, kính viễn vọng và thiết 67

bị xác định vị trí thiên thể. Loại thứ nhất làm tăng đáng kể kích thước hữu hình

của các vật thể, chỉ ra các chi tiết không hiện ra và không nhìn thấy được cùng

các cấu tạo và các chuyển động bị che đậy. Loại thứ hai thì nghiên cứu xác định

được mối liên hệ gần gũi giữa các thiên thể hơn. Loại thứ ba gồm các cây sào để

đo đất, thiết bị xác định vị trí thiên thể và những công cụ tương tự tuy không

mởrộng thị giác nhưng lại điều chỉnh và định hướng nó.

Bacon đặt những ví dụ kích thích vào vị trí thứ mười bảy trong những

ví dụ chủ yếu. Họ gọi chúng là những ví dụ kêu gọi: đưa cái không cảm giác

được đến với cái cảm giác được. Ví dụ này được phân định làm bốn loại. Trong

loại thứ nhất, sự dẫn tới cái cảm tính có thể nằm ở một vật ở xa mà có thể thức

tỉnh và kích thích cảm giác, ví dụ như khi mô tả các vật nhờ lửa, chuông và

những thứ tương tự. Trong loại thứ hai, các vật ẩn giấu trong bề sâu và bị các

vật khác che khuất, sẽ dẫn tới việc muốn có cảm tính từ nó thì cần thông qua

cảm giác cái nằm trên bề mặt hay bắt nguồn từ bên trong, ví dụ như việc nhận

biết trạng thái của cơ thể con người thông qua nhịp đập, mồ hôi…Loại thứ ba và

thứ tư: vật thể không có khả năng tạo ra ấn tượng đối với cảm tính, kích thước

của vật thể không đủ để tác động tới cảm tính, kích thước của vật thể không đủ

để tác động. Trong hai loại này, việc dẫn về cảm giác bao gồm rất nhiều thứ và

cần phải tìm kiếm ở khắp nơi để nghiên cứu. Ví dụ, không thể phân biệt, sờ mó

không khí, tinh thần hay các vật thể khác tinh tế như vậy. Do đó, tất nhiên cần

có sự truyền dẫn về cảm giác khi nghiên cứu những vật thể ấy. Với loại thứ năm

– thời gian không đủ để kích thích cảm tính, nếu chậm quá thì chuyển động đó

lại dễ dàng dẫn tới cảm giác nhờ sự hợp nhất những chuyển động ấy; còn những

chuyển động không nhận thấy được do chúng quá nhanh thì việc nghiên cứu đến

nay vẫn chưa được đầy đủ. Trong loại thứ sáu, nơi mà kích thước vật thể quá lớn

cản trở cảm giác, dẫn tới chỗ có được cảm giác hoặc nhờ đưa vật thể ra xa cảm

giác, hoặc nhờ làm suy yếu vật thể bằng cách đặt nó trong một môi trường làm

suy yếu sức mạnh của vật thể nhưng không phá hủy nó, hoặc nhờ lĩnh hội sự

68

phản chiếu của vật thể, nếu tác động là quá mạnh, ví dụ như sự phản chiếu của

mặt trời trong bể nước [4, 367]. Loại tính che giấu thứ bảy, nơi mà cảm giác

chịu chi phối của vật thể tới mức không có chỗ cho giả định mới, dường như

không bắt gặp ở đâu ngoài các mùi, và không có quan hệ nhiều với nghiên cứu

của Bacon. Cần lưu ý rằng, đôi khi sự dẫn truyền diễn ra không phải do cảm

giác của con người, mà cho cảm giác của một số động vật khác trong một số

trường hợp có tính nhạy cảm vượt trội tính nhạy cảm của con người. Ví như như

khứu giác của chó, thị giác của mèo, cú đêm…

Bacon đặt những ví dụ đường đi, hay còn gọi là những ví dụ diễu

hành, hay những ví dụ phân chia vào vị trí thư mười tám trong những ví dụ

chủ yếu. Đây là những ví dụ chỉ ra những chuyển động của tự nhiên trong tính

tuần tự và liên tục của chúng. Chẳng hạn, nếu ai đó nghiên cứu sự tăng trưởng

của cây cối thì người ấy phải quan sát từ khi gieo hạt, xem hạt bắt đầu phình ra

và phát triển khi nào và như thế nào, nó phá vỡ cái vỏ và mọc mầm như thế nào

khi hướng lên trên một chút, nếu đất không quá cứng; nó tiếp tục mọc mầm như

thế nào.

Bacon đặt những ví dụ bổ sung, hay ví dụ thay thế, mà họ còn gọi là

những ví dụ cư trú, vào vị trí thứ mười chín trong những ví dụ chủ yếu.

Đây là những ví dụ bổ sung cho sự thông báo khi cảm giác hoàn toàn bất lực. Sự

thay thế nhờ so sánh đương nhiên là hữu ích, song ít đáng tin cậy hơn và do vậy

cần được áp dụng một cách thận trọng. Nó có mặt khi cái cảm giác chưa được

cảm giác dẫn tới cảm giác – không phải nhờ tác động của cảm giác được của

bản thân vật thể không cảm giác được, mà thông qua việc trực giác một vật thể

cảm giác được tương tự nào đó. Ví dụ, nếu người ta nghiên cứu sự pha trộn các

tinh chất của các vật thể không cảm giác được, thì người ta sẽ phát hiện ra một

sự giống nhau đáng kể giữa các vật thể và bản nguyên nuôi dưỡng của chúng.

Chẳng hạn, bản nguyên nuôi dưỡng của ngọn lửa là dầu và mỡ; bản nguyên nuôi

dưỡng không khí là nước và cái có nhiều nước, vì ngọn lửa tăng lên ở trên hơi

69

của mỡ, còn không khí thì tăng lên ở trên hơi nước. Do vậy, cần phải lưu ý rằng

sự pha trộn nước và mỡ thì cảm giác thấy được, trong khi sự pha trộn không khí

và lửa chạy trốn khỏi cảm giác.

Ở vị trí thứ hai mươi là những ví dụ chia cắt, mà còn được gọi theo

cách khác là những ví kích thích. Chúng được gọi là những ví dụ kích thích vì

chúng kích thích lý tính, còn gọi chúng là những ví dụ chia cắt – vì chúng chia

cắt giới tự nhiên. Đây là những ví dụ nhắc nhở lý tính về sự tinh tế kỳ lạ và hoàn

hảo của tự nhiên để kích thích nó quan tâm, quan sát và nghiên cứu một cách

thỏa đáng. Chẳng hạn, một giọt mực nhỏ có thể viết được rất nhiều chữ cái và

dòng chữ; cây nghệ tây nhỏ bé nhất nhuộm màu được cả một thùng phuy

nước…[4, 375].

Bên trên, Bacon đã nói về những ví dụ trợ giúp cảm giác và đặc biệt hữu

ích cho việc thông báo. Nhưng toàn bộ công việc diễn ra trong hành động: nếu

cảm giác là sự bắt đầu công việc thì ở đây là sự kết thúc nó. Do vậy, nối tiếp ở

đây là những ví dụ chủ yếu có lợi cho phần thực tiễn. Trong phần hành động

thực tiễn này, thì kết quả sai lệch phụ thuộc vào việc xác định sự tác động của

vật thể với không gian chiếm giữ của nó, đối với khoảng thời gian, đối với khối

lượng hoặc đối với khả năng chiếm ưu thế của vật thể. Những ví dụ nêu lên mối

quan hệ như vậy được gọi là những ví dụ toán học, hay còn gọi là những ví dụ

đo. Và những ví dụ hướng tác động tới cái có lợi nhất cho con người thì được

gọi là ví dụ nhân từ, hoặc ví dụ thuận lợi.

Bacon đặt những ví dụ chiếc gậy điều chỉnh hay ví dụ phạm vi( ví dụ

giới hạn, ví dụ hạn chế) vào vị trí thứ hai mươi mốt trong những ví dụ chủ

yếu. Vì lực và chuyển động của các sự vật tác động và diễn ra không phải trong

một không gian bất định và ngẫu nhiên, mà diễn ra trong một không gian xác

định và hữu hạn [4, 379]. Đa số các lực chỉ tác động và sinh ra kết quả khi có sự

tiếp xúc rõ ràng, như điều này diễn ra trong trường hợp va chạm giữa các vật

thể. Cũng như thuốc có công dụng ở ngoài da. Nhưng có các lực khác lại tác

động ở một khoảng cách tương đối. Ví dụ như, nếu có một lực từ tính nào đó

xuất phát từ bản thân trái đất – đương nhiên là từ lớp sâu hơn của nó, và tác 70

động đến chiếc kim sắt về cực tính của nó, thì tác động diễn ra ở một khoảng

cách lớn. Song tất cả những cái đó dù có tác động trên một khoảng cách lớn hay

nhỏ thì chúng vẫn tác động trong một giới hạn xác định của tự nhiên, do vậy ở

đây có một non ultra [4, 382]. Chính giới hạn phụ thuộc vào khối lượng hay số

lượng các vật thể, sức mạnh của các lực, sự thúc đẩy hay cản trở của môi trường

– cần được tính đến. Thậm chí, còn cần phải đo cái gọi là chuyển động cưỡng

ép, như chuyển động của đạn lạc, bánh xe và các đối tượng tương tự vì chúng rõ

ràng cũng có giới hạn xác định của mình.

Bacon đặt những ví dụ chạy qua, hay còn gọi là ví dụ về nước vào vị

trí thứ hai mươi hai, sau khi lấy tên gọi này từ tên gọi các đồng hồ đã có ở

người cổ, trong đó nước được thay thế cho cát. Những ví dụ này đo chất lượng

theo các khoảng thời gian. Mỗi tác động của tự nhiên, chuyển động đều chiếm

một khoảng thời gian lớn hay nhỏ, dù cho chuyển động nhanh hay chậm. Chẳng

hạn, chúng ta nhận thấy rằng các thiên thể quay lại vị trí trước đó trong một thời

gian đo được; thủy triều lên và thủy triều xuống cũng diễn ra như vậy. Điều

quan trọng hơn nhiều ở những ví dụ này không chỉ đơn giản là phép đo, mà còn

là phép đo so sánh. Chẳng hạn chúng ta nhận thấy rằng, lửa của một vũ khí hỏa

tiễn nào đó được nhận thấy nhanh hơn so với âm thanh của tiếng nổ, mặc dù

viên đạn phải đi vào không khí trước khi có thể tạo ra lửa ở đằng sau nó. Điều

này là do chuyển động của ánh sáng diễn ra nhanh hơn so với việc phóng nó ra.

Bacon đặt những ví dụ số lượng , hay còn gọi là liều lượng chất lượng

vào vị trí thứ hai mươi ba trong những ví dụ chủ yếu. Đây là những ví dụ đo

các khả năng phù hợp với số lượng vật thể và chỉ ra kích thước của vật thể có tác

động như thế nào đến mức độ các khả năng. Trước hết, có các khả năng không

tồn tài ở đâu khác ngoài tồn tại trong số lượng vũ trụ, tức là với một số lượng

phù hợp với hình thù và cấu tạo của Vũ trụ. Chẳng hạn, trái đất đứng im, còn

các bộ phận của nó thì rơi xuống. Trong biển thì có nước thủy triều lên và thủy

triều xuống, còn trong các sông thì không, có lẽ chỉ là nhờ nước biển tràn vào

71

mà thi thoảng có [4, 395]. Song, ở đây không nên dừng lại ở tính bất định như

vậy, mà cần phải nghiên cứu mối tương quan giữa số lượng vật thể và mức độ

khả năng. Cần phải giả định mối tương quan giữa số lượng vật thể và khả năng

là tỉ lệ với nhau và thực hiện kiểm nghiệm các giả định đó. Ví dụ: nếu quả cầu

bằng chì nặng bằng 1 ounce rơi xuống trong một khoảng thời gian nào đó, thì

quả cầu nặng 2 ounce sẽ rơi xuống nhanh gấp hai lần.

Bacon đặt những ví dụ đấu tranh, hay còn gọi là những ví dụ chiếm

ưu thế vào vị trí thứ hai mươi tư trong những ví dụ chủ yếu. Đây là những ví

dụ chỉ ra sự chiếm ưu thế và sự phục tùng lẫn nhau của các khả năng; chỉ ra khả

năng nào mạnh hơn và chiến thắng, khả năng nào yếu hơn và chiến bại. Vì

chuyển động và định hướng của các vật là phức tạp, phân tác và rồi rắm không

kém gì bản thân các vật.

Chuyển động thứ nhất là chuyển động đối kháng, diễn đạt thông qua tiên

đề: “Hai vật thể không thể ở cùng một vị trí”, hoặc gọi nó là sự chuyển động

“không cho phép có sự thâm nhập lẫn nhau giữa các chiều cạnh. Điều này đều

có ở mỗi vật thể.

Chuyển động thứ hai là chuyển động liên kết. Nhờ chuyển động này mà

các vật không cho phép có sự phân hủy ở một bộ phận nào đó khi tiếp xúc với

các vật thể khác, vẫn giữ lại sự ràng buộc và vẫn tiếp xúc với nhau. Ví dụ, nước

bị giữ lại và không chảy ra khỏi bình bị khoan thủng cho tới khi miệng bình

chưa mở ra cho không khí.

Chuyển động thứ ba là chuyển động giải phóng – nhờ nó mà các vật thể

mong muốn giải phóng khỏi áp lực và sự căng thẳng vượt quá sự căng thẳng tự

nhiên, dừng lại ở thể tích hợp đối với chúng. Ví dụ là chuyển động của nước khi

bơi, của nước khi chèo thuyền, của không khí bị nén trong khẩu súng giả của trẻ

con…Các chuyển động này có xu hướng lùi lại, chạy trốn và nỗ lực hết sức

quay về với trạng thái cũ.

Chuyển động thứ tư là chuyển động của vật chất – đối lập với chuyển

72

động được chúng tôi gọi là chuyển động giải phóng. Trong chuyển động này,các

vật thể hướng tới một kích thước mới, hay một thể tích mới, và cố gắng tiến gần

tới nó một cách dễ dàng và nhanh chóng nhất.

Chuyển động thứ năm là chuyển động liên tục. Bacon hiểu điều đó không

phải là tính liên tục đơn giản và phát sinh của một vật thể này với vật thể khác,

mà là tính liên tục của một vật thể trong bản thân nó. Chẳng hạn, nếu trong các

vật thể rắn – như thép hay thủy tinh, việc chống lại sự làm suy yếu tính liên tục

là mạnh và kiên định nhất.

Chuyển động thứ sáu là chuyển động có ích lợi, hay chuyển động của

thiếu thốn. Thông qua nó thì các vật thể sẽ chạy trốn khỏi những vật thể đối

nghịch với nó và hợp nhất với những vật thể gần gũi hơn. Ví dụ: vàng hay kim

loại khác dưới hình thức lá kim loại sẽ không ưa gì không khí bao quanh, do

vậy, nếu nó gặp một vật thể chạm vào được – như ngon tay, tờ giấy…và đặc, thì

nó sẽ ngay lập tức áp sát, không dễ dàng tách ra.

Chuyển động thứ bảy là chuyển động của tập hợp lớn. Nhờ chuyển động

này mà các vật thể sẽ dịch chuyển tới một số lượng lớn vật thể có chất lượng

giống với chúng: vật nặng di chuyển tới trái đất, vật nhẹ di chuyển tới bầu trời

[4, 407].

Chuyển động thứ tám là chuyển động của tập hợp nhỏ, nhờ đó các bộ

phận đồng tính trong một vật thể nào đó sẽ tách rời khỏi các vật thể khác loại và

kết hợp với nhau. Ví dụ: váng mỡ nổi lên trong sữa, còn cặn chìm xuống trong

rượu sau một thời gian.

Chuyển động thứ chín là chuyển động từ tính – đây là chuyển động chỉ

nâng các vật thể lên và buộc chúng phải bay lên. Ví dụ:bầu trời đầy sao hút các

hành tinh.

Chuyển động thứ mười là chuyển động chạy trốn – nó đối lập với chuyển

động của tập hợp nhỏ. Nhờ chuyển động này, do ác cảm, các vật thể chạy trốn

73

khỏi các vật thể đối nghịch, hay làm cho chúng chạy trốn và tách ra khỏi chúng,

hay khước từ pha trộn với chúng [4, 415]. Ví dụ: sự bài tiết ở động vật; sự khó

chịu với cảm giác – mùi hôi thối bị khứu giác chối bỏ…

Chuyển động thứ mười một là chuyển động bắt chước, hay tự nhân lên,

hay sinh sản đơn giản. Chẳng hạn, đất sét ở giữa đá sẽ khô và biến thành vật

chất dạng đá; chất cặn ở răng biến thành chất cứng không kém bản thân răng…

Chuyển động thứ mười hai là chuyển động kích thích. Chuyển động này

là chuyển động mang tính khuếch tán, phổ biến, chuyển tiếp, nhân lên – đôi khi

gọi là chuyển động bắt chước.

Chuyển động thứ mười ba là chuyển động in dấu ấn, cũng nằm trong loại

chuyển động bắt chước, nhưng nó là tinh tế nhất trong số những chuyển động

phổ biến. Đây là chuyển động chớp nhoáng. Chuyển động này biểu hiện ở ba

vật: tia ánh sáng, sự hướng tới của âm thanh và tác động của nam châm đối với

vật truyền dẫn nó. Vì nếu tách rời ánh sáng, thì ngay lập tức các màu sắc, hình

ảnh còn lại của nó sẽ biến mất ngay lập tức; nếu tách rời cú đập đầu tiên và

chấm dứt sự dao động nối tiếp từ đó của vật thể, thì âm thanh sẽ biến mất ngay

sau đó.

Chuyển động thứ mười bốn là chuyển động ngoại tuyến, hay chuyển động

định vị. Nhờ chuyển động này mà các vật thể hướng tới một vị trí hay một sự

phân bố xác định đối với các vật thể khác – nhưng sự nghiên cứu về chuyển

động này chưa hoàn toàn đầy đủ. Ví dụ: bầu trời xuay từ đông sang tây chứ

không phải từ tây sang đông.

Chuyển động thứ mười lăm là chuyển động hộ tống, hay chuyển động

theo dòng chảy. Ở đây, yếu tố môi trường tác động vào chuyển động của vật thể.

Chuyển động thứ mười sáu là chuyển động hùng tráng, hay còn gọi là

chuyển động cai trị. Nhờ chuyển động này thì các bộ phận chiếm ưu thế sẽ có

thể ra lệnh triệt tiêu, cắt giảm, bố trí các bộ phận còn lại và buộc chúng phải hợp

74

nhất, phân ly, hiện diện, chuyển động, phân bố.

Chuyển động thứ mười bảy là chuyển động xoay tròn tự do. Nhờ nó, mà

các vật thể được phân bố và chuyển động chỉ để phục tùng bản chất của mình,

chứ không phải phụ thuộc vào các vật thể khác.

Chuyển động thứ mười tám là chuyển động rung động. Đây dường như là

chuyển động bị giam cầm vĩnh viễn vì không hoàn toàn thuận lợi đối với bản

chất của mình. Chuyển động này bắt gặp ở tim và nhịp đập của động vật – khi bị

rối loại, chúng cố tự giải phóng mình và một lần nữa lại chịu thất bại.

Chuyển động thứ mười chín là chuyển động về đứng im( nghỉ) hay

chuyển động chạy trốn chuyển động. Ví dụ: mọi vật thể cô đặc nhiều sẽ né tránh

chuyển động.

Bacon đặt những ví dụ gợi ý vào vị trí thứ hai mươi lăm trong những

ví dụ chủ yếu. Đây là những ví dụ gợi ý và chỉ ra cái thuận lợi đối với con

người.

Bacon đặt những ví dụ áp dụng rộng rãi vào vị trí thứ hai mươi sáu

trong những ví dụ chủ yếu. Đó là những ví dụ có quan hệ với những sự vật đa

dạng và thường bắt gặp, do vậy, tiết kiệm nhiều lao động và thử nghiệm mới.

Bacon đặt những ví dụ ma thuật vào vị trí thứ hai mươi bảy và cuối cùng

trong những ví dụ chủ yếu. Gọi là như vậy vì đó là những ví dụ trong đó vật chất

hay nguyên nhân tác động là yếu hay ít so với số lượng công việc hay tác động

do nó sinh ra. Tác động ma thuật này diễn ra theo ba cách: hoặc thông qua sự tự

sinh sooi, như ở lửa và thuốc độc, chuyển động truyền qua và tăng lên từ bánh

xe này đến bánh xe kia; hoặc thông qua sự kích thích chuyển động ở một vật thể

khác, như nam châm kích thích vô số cái kim; hoặc thông qua sự phòng ngừa

chuyển động, như thuốc súng.

Tiểu kết:

Trong tác phẩm “Bộ công cụ mới” này, là sự trình bày logic học, chứ

75

không phải triết học. Đây là logic học khuyên bảo lý tính để nó không cố nắm

bắt những sự trừu tượng về sự vật nhờ những mánh khóe tinh vi, mà thật sự mổ

xẻ giới tự nhiên, phát hiện ra những thuộc tính và tác động của các vật thể, các

76

quy luật xác định của chúng trong vật chất.

Kết luận

Chính trong tác phẩm “Bộ công cụ mới”, F.Bacon đã cho thấy yêu cầu

bức thiết của xã hội, xã hội tư bản bắt đầu được hình thành, nó đòi hỏi phải có

một khoa học mới và một thế giới quan khoa học mới đáp ứng được nhu cầu

nhận thức của thực tiễn. F.bacon đã ý thức rất rõ nhu cầu đó và ông cũng là

người quyết tâm xây dựng khoa học mới, triết học mới. Ông đã tiến hành cải tổ

khoa học và triết học, nhưng cải tổ một cách có hệ thống, có phương pháp và

khoa học. F.Baocon đã bắt tay vào công việc vĩ đại của mình bằng cách xây

dựng lại tòa nhà tri thức của nhân loại từ chính nền móng của nó, đó là sự phê

phán tính chất tư biện và giáo điều của triết học kinh viện, từ đó đề xuất phương

pháp nhận thức mới, phương pháp quy nạp.

Ông tự hào hòa giải được chủ nghĩa kinh nghiệm với chủ nghĩa duy lý.

Việc này là vô ích, giống như con ong muốn hòa giải những phẩm chất của con

kiến với con nhện, chủ nghĩa duy lý của ông cũng chỉ biết có một thứ lý trí hoàn

toàn lệ thuộc vào kinh nghiệm mà từ đó nó rút ra những khái niệm, trong khi

những người đặt nền cho vật lý học hiện đại lại lấy nguồn hứng từ một thứ chủ

nghĩa duy lý toán học con cháu của Platôn.

Trong tư thế vừa là nhà kinh nghiệm chủ nghĩa, vừa là dân quốc đảo đồng

hương, nghĩa là có mọi lý do để tỏ thiện cảm với Bacon, David Hume vẫn ghi

nhận đúng đắn điểm yếu của Bacon khi phải đánh giá ông như triết gia, mặc dù

rất khâm phục ông như nhà văn. “Bacon kém xa Galileo, kẻ đồng thời với ông,

và có lẽ cả Kepler nữa. Bacon đã trỏ ra, từ đằng xa, con đường triết lý đúng

đắn; Galileo không những chỉ trỏ ra, mà còn dấn thân vào đấy, và đi được

những bước dài. Bacon không có kiến thức gì về hình học; Galileo đã phục sinh

môn học này và được xem là người đầu tiên biết áp dụng nó song song với kinh

nghiệm vào vật lý học một cách xuất sắc”. Tất nhiên, Bacon từng khuyên ta

77

đếm, cân, đo, nhưng chỉ qua loa, như thể đấy là việc phụ: đây chẳng qua là việc

cân đo, và “việc đo đếm phải được xem đơn giản như phần phụ lục của vật lý

học”. Như thế thì càng không có lý do gì để nói đến, trong tư tưởng của ông,

một cấu trúc toán học của hiện thực [5].

Một khuyết tật khác trong phương pháp của Bacon là ông đã hiểu từ công

cụ, organon, theo nghĩa đen, và cho rằng có thể từ bên ngoài đưa vào tinh thần

của nhà bác học một tập hợp những huấn điều mà sự áp dụng hầu như máy móc

bảo đảm sẽ dẫn tới thành công. Giống như để vẽ một vòng tròn, nếu

có compa tốt thì không cần phải khéo tay, “phương pháp khám phá khoa học mà

tôi đề xuất kiến hiệu đến mức hầu như nó không để chỗ cho sự sắc bén hay

mạnh mẽ của trí thông minh nữa, mà đặt mọi sự thông minh và hiểu biết hầu

như trên cùng một mức độ”.

Sau tất cả phần tiêu cực trên, hãy đặt vào phần đóng góp tích cực của

Bacon là ông đã nhận thức được vài tính chất của một phương pháp quy nạp

lành mạnh. Bacon không chỉ đòi hỏi ta phải bắt đầu bằng việc gạt bỏ mọi tiên

kiến, rồi khuyến khích ta nhân lên những quan sát và thử nghiệm, ghi nhận

chúng chính xác trên giấy, xếp chúng vào các “bảng phân loại”. Và nhất là

Bacon đã thấy rõ:

• Rằng nghiên cứu quy nạp phải được tiến hành chậm rãi, phải

từ từ leo lên từng nấc của bậc thang “định đề” (axiomes, ông gọi tất cả

mọi định luật (lois) như thế, bất chấp mức độ tổng quát của chúng), và

phải thay các “tiên đoán” vội vã bằng những “suy diễn” thận trọng ;

• Rằng phương pháp quy nạp chỉ có tính xác chứng một cách

tiêu cực: một sự kiện trái ngược là đủ để hủy hoại lập luận trong khi sự

tích lũy bao nhiêu trường hợp thuận lợi cũng không đủ để cho phép xác

định nó; đấy là điều bắt buộc phương pháp này phải được xúc tiến bằng

biện pháp loại trừ, và đặt thử nghiệm thánh giá (experimentum crucis) vào

78

vai trò quyết định.

Có thể nói, F.Bacon không chỉ nắm bắt cách thiên tài nhu cầu của khoa

học tự nhiên đương thời với ông về bước chuyển từ phương pháp tổng hợp

phiến diện của triết học cũ sang phương pháp phân tích mà còn tiên đoán được

rằng, khoa học tự nhiên trong tương lai một lần nữa lại quay lại với bức tranh

khái quát, tổng hợp về thế giới, dựa trên cơ sở mới, vững chắc hơn – tri thức về

các bộ phận, các chi tiết được nghiên cứu cách có hệ thống và khoa học hơn.

Hơn ai hết, trong lịch sử triết học và lịch sử khoa học, F.Bacon chính là

đại biểu xuất sắc thể hiện ý chí và tinh thần của thời đại. Cùng với tác phẩm

công cụ mới, thì đêm tối trung cổ bao trùm trí tuệ con người hàng bao thế kỷ ở

Châu Âu đã phải nhường chỗ cho ánh sáng của bình minh khoa học mới, triết

học mới về khoa học, nó có nhiệm vụ tô điểm cuộc sống con người bằng tri thức

về thế giới tự nhiên và qua đó là bằng sự thống trị giới tự nhiên nhờ phát hiện ra

79

và phục tùng các quy luật của bản thân giới tự nhiên.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. G.V.Ph.Ăngghen: Những bài giảng lịch sử triết học, Nxb. Tư tưởng,

Matxcova, 1974.

2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995, t.2, tr.195.

3. Xem: Ph. Bacon: Các tác phẩm, Matxcova, 1977, t.2, tr.179 – 198(

tiếng Nga).

4. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Trọng Chuẩn( dịch) : Francis Bacon: Bộ công

cụ mới, Nxb. Tri thức, 2017.

5. Theo lời dịch của Nguyễn Văn Khoa: Robert Blanché*: Francis Bacon

(1561-1626): Sự báo hiệu phương pháp mới, Paris, A. Colin, 1969, tr.

37-41.

6. Hà Thiên Sơn: Tạp chí Triết học số 1 tháng 02. 1996.

7. Nguyễn Gia Thơ, Lịch sử logic học, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,

2018.

8. PGS.TS Nguyễn Gia Thơ( chủ biên): Logic học Aristotle và ý nghĩa

của nó trong sự phát triển của logic hình thức truyền thống.

9. Nguyễn Gia Thơ: Logic hình thức, Nxb. Thế giới, 2016, tr.153.

10. Nguyễn Gia Thơ: Về một số khía cạnh nhận thức luận của logic quy

nạp trong triết học Cổ đại Hy Lạp, Tạp chí triết học, số 2/1994.

11. Nguyễn Ước: Các chủ đề Triết học, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2009.

12. Nguyễn Thúy Vân, Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình logic học biện

chứng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.

13. GS.TS Nguyễn Hữu Vui( chủ biên):Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị

80

Quốc gia, Thái Nguyên, 2008.